Tịnh Độ Đại Kinh Khoa Chú 2012
(Giảng lần thứ 2)
Tập 2
Chủ giảng: Hòa Thượng Tịnh Không
Ngày giảng 22/10/2012
Địa điểm: Hiệp Hội Giáo Dục Phật Đà Hồng Kông
Dịch giả: Sư cô Thích Tâm Thường
Giảo chánh: Thích Thiện Trang
Ban biên dịch Hoa Tạng Huyền Môn.
Kính chào chư vị Pháp sư, quý vị đồng học,
mời an tọa. Mời xem Đại Kinh Khoa Chú, trang 138, lời nói đầu ở trong bản Tập
Chú của Niệm lão.
Cuốn sách này của chúng tôi có hai loại chữ,
một loại là thể chữ đậm, nét bút rất thô, còn loại khác nét bút mảnh hơn một
chút, chữ in thể Tống. Nét bút thô này, là trước đây tôi giảng Kinh Vô Lượng Thọ,
không hoàn toàn dùng Chú Giải của Niệm lão, chỉ là dùng để làm tham khảo. Phần
trước đó chúng tôi đã có tổng kết tóm tắt, cũng giống như Huyền Nghĩa thông thường,
chúng tôi đã dùng bản của Niệm lão, nhưng không lấy toàn bộ, chỉ lấy trích yếu.
Nên hôm nay quý vị thấy được chữ thể Tống, đó là nguyên văn, chữ thể đậm này là
trích yếu của tôi. Trước đây khi giảng, hoàn toàn dùng trích yếu này để giảng đại
ý cả Kinh. Lần này, chúng tôi không giảng tất cả thể chữ đậm này, mà hoàn toàn
giảng giải, chính là nguyên văn của Niệm lão. Chúng ta hoàn toàn học tập nguyên
văn. Vì vậy chúng ta xem Chú Giải. Trang 138, hàng thứ tư.
夫淨土法門 “Phù Tịnh Độ pháp
môn”
(Pháp môn Tịnh Độ), chữ “phù” này là trợ từ ngữ khí. Trước tiên, chúng
ta đem đoạn sau khi đã đọc này, ở trong có vài thuật ngữ chuyên môn, ý nghĩa của
thuật ngữ này rất sâu, bây giờ chúng ta có thể học rồi. Bởi vì Kinh Vô Lượng Thọ
đã học 10 lần, Chú Giải này là lần học thứ ba, từng lần thù thắng, lần sau thù
thắng hơn lần trước, chính chúng tôi cũng là nâng cao từng lần một. Đối với những
việc này, có thể lý giải, có được thọ dụng. Pháp môn Tịnh-độ là 一乘了義 “Nhất-thừa liễu nghĩa”,
Nhất-thừa là gì? Liễu nghĩa là gì? Phía sau lại nói 萬善同歸 “vạn thiện đồng quy”,
điều này cũng là nói rõ sự thù thắng của Kinh này, vô cùng hi hữu khó gặp. 三根普被,凡聖齊收,橫出三界,逕登四土,極圓極頓,不可思議之微妙法門也。化解當前劫難,唯有專弘此經,專念阿彌陀佛 “Tam căn phổ bị, phàm Thánh tề thâu, hoành xuất tam
giới, kính đăng tứ độ, cực viên cực đốn, bất khả tư nghì chi vi diệu pháp môn
dã. Hóa giải đương tiền kiếp nạn, duy hữu chuyên hoằng thử
Kinh, chuyên niệm A Mi Đà Phật” (Trùm khắp ba
căn, thâu nhiếp cả phàm lẫn thánh, vượt tam giới theo chiều ngang, trực tiếp
lên tứ độ, cực viên cực đốn, là pháp môn vi diệu không thể nghĩ bàn. Để hóa giải
kiếp nạn trước mắt, chỉ có chuyên hoằng dương Kinh này, chuyên niệm A Mi Đà Phật), mấy câu này là được trích ra.
Chúng ta xem tiếp nguyên văn của Niệm lão bên này,
pháp môn Tịnh Độ, 乃一乘了義,萬善同歸,三根普被,凡聖齊收,橫超三界,逕登四土,極圓極頓,不可思議之微妙法門也。而其中之《無量壽經》者,乃淨土群經之首要,淨宗大德常稱為淨土第一經者也。至於《佛說大乘無量壽莊嚴清淨平等覺經》者,乃先師夏蓮居老居士,會集《無量壽經》漢、魏、吳、唐、宋五種原譯,廣擷精要,圓攝眾妙,匯成今經,現推為《無量壽經》之善本者也 “nãi Nhất Thừa Liễu
Nghĩa, vạn thiện đồng quy, tam căn phổ bị, phàm thánh tề thâu, hoành siêu tam
giới, kính đăng tứ độ, cực viên cực đốn, bất khả tư nghì chi vi diệu Pháp môn
dã. Nhi kỳ trung chi Vô Lượng Thọ Kinh giả, nãi Tịnh Độ quần kinh chi thủ yếu,
Tịnh Tông Đại đức thường xưng vi Tịnh Độ đệ nhất kinh giả dã. Chí ư Phật Thuyết
Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh giả, nãi tiên
sư Hạ Liên Cư lão Cư sĩ, hội tập Vô Lượng Thọ Kinh Hán, Ngụy, Ngô, Đường, Tống
ngũ chủng nguyên dịch, quảng hiệt tinh yếu, viên nhiếp chúng diệu, hối thành
kim Kinh, hiện thôi vi Vô Lượng Thọ Kinh chi thiện bản giả dã” (là Nhất Thừa Liễu Nghĩa, vạn thiện đồng quy, trùm khắp ba căn, thâu nhiếp cả phàm lẫn
thánh, vượt tam giới theo chiều ngang, trực tiếp lên tứ độ, cực viên cực đốn,
là pháp môn vi diệu không thể nghĩ bàn. Mà trong đó Kinh Vô Lượng Thọ là Kinh
quan trọng đứng đầu trong các kinh của Tịnh Độ. Những Đại đức của Tịnh Tông thường
xưng là kinh bậc nhất của Tịnh Độ. Thậm chí Kinh Phật thuyết Đại Thừa Vô
Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác là do thầy tôi lão Cư sĩ
Hạ Liên Cư, hội tập năm loại bản dịch gốc Kinh Vô Lượng Thọ các đời Hán, Ngụy,
Ngô, Đường, Tống, rộng lấy phần tinh yếu, giữ gìn đầy đủ những phần vi diệu, tụ
hợp thành Kinh này, hiện được tôn lên là thiện bản của Kinh Vô Lượng Thọ).
Tiếp theo
là 二0一0年清明啟講 “nhị linh nhất
linh niên thanh minh khải giảng” (Tiết thanh minh năm 2010 khai giảng), đây là Đại Kinh Giải
Diễn Nghĩa, 二0一一年九月十八日圓滿 “nhị linh nhất nhất niên cửu nguyệt thập bát nhật viên mãn” (đến ngày 18 tháng 9 năm 2011 thì viên mãn),
đã giảng 600 tập. 發心一門深入,專修專弘,決定放下萬緣,一心求生淨土,作彌陀第一弟子,總報大恩 “Phát tâm nhất môn thâm nhập, chuyên tu chuyên hoằng,
quyết định phóng hạ vạn duyên, nhất tâm cầu sanh Tịnh Độ, tác Mi Đà đệ nhất Đệ
tử, tổng báo đại ân” (Phát tâm một môn thâm nhập, chuyên tu chuyên hoằng, quyết
tâm buông xuống vạn duyên, nhất tâm cầu sanh Tịnh Độ, làm Đệ tử bậc nhất của đức
Mi Đà, tất cả đều để báo đại ân). Đến ngày 21 tháng 10 năm 2012, thì giảng viên mãn Đại Kinh Khoa Chú lần
thứ nhất. Buổi chiều ngày 21, chúng tôi tuyên giảng lần thứ ba. Khoa Chú lần thứ
nhất, tổng cộng đã giảng 578 tập, đây là bắt đầu lần thứ hai.
Chúng tôi có
một phần tài liệu tham khảo, lời mở đầu, Nhất-thừa Liễu-nghĩa. Thế nào là Nhất-thừa?
Trong Tam Tạng Pháp Số nói: 出法華經,一乘者,佛乘也 “Xuất Pháp
Hoa Kinh, Nhất-thừa giả, Phật thừa dã” (Xuất xứ từ Kinh Pháp Hoa: Nhất-thừa là Phật-thừa). Chữ “Thừa”
là từ gọi chung cho xe cộ vào thời xưa, tất cả xe đều gọi là thừa, âm xưa đọc là
thặng, nay đọc là thừa. Thừa được nói như một động từ, có nghĩa là bốc xếp và vận
chuyển, ngày nay nói là vận chuyển. Xe cộ hiện nay nhiều hơn rất nhiều, đa dạng
phong phú hơn thời xưa. 佛說一乘之法,為令眾生依此修行,出離生死苦海,運至涅槃彼岸。故喻以七寶大車,而導之以大白牛也 “Phật thuyết Nhất-thừa
chi pháp, vị linh chúng sanh y thử tu hành, xuất ly sanh tử khổ hải, vận chí Niết
Bàn bỉ ngạn. Cố dụ dĩ thất
bảo đại xa, nhi đạo chi dĩ đại bạch ngưu dã” (Phật nói pháp Nhất-thừa, vì để cho chúng sanh nương đó
mà tu hành, ra khỏi biển khổ sanh tử, vận chuyển đến bờ Niết Bàn bên kia. Nên
ví dụ dùng cỗ xe lớn bằng bảy báu do trâu trắng lớn kéo mà dẫn dắt họ vậy). Đây đều là lời nói khi xưa, để thí dụ Phật nói
pháp này. Lời này hoàn toàn là nói thật, chân thật, không có thiện xảo, không
có phương tiện, nói ra một cách lão lão thật thật, đây gọi là Nhất-thừa. Nếu chúng
sanh là người thượng thượng căn, họ có thể nương theo phương pháp này để tu
hành, thì có thể ra khỏi lục đạo luân hồi. Biển khổ sanh tử là lục đạo luân hồi,
Niết Bàn bên kia là Thường-tịch-quang-tịnh-độ, chính là Niết Bàn rốt ráo. Niết
Bàn là tiếng Phạn, có nghĩa là Tịch diệt, thanh tịnh tịch diệt. Tịch là một niệm
không sanh, nếu có một niệm khởi lên thì không tịch rồi. Nên tịch diệt là không
khởi tâm, không động niệm, đó gọi là tịch.
Không khởi
tâm, không động niệm chính là trạng thái viên mãn Tự-tánh. Phải không khởi tâm,
không động niệm thì quý vị mới có thể thấy được, nếu khởi tâm động niệm thì
không nhìn thấy. Khởi tâm động niệm là A-lại-da, mười pháp giới là do A-lại-da
biến hiện ra. Không khởi tâm, không động niệm, thì A-lại-da không còn nữa, chuyển
A-lại-da thành Đại-viên-cảnh trí, đây là chuyển tám thức thành bốn trí, mười
pháp giới và sáu cõi hoàn toàn không có nữa, đó là một giấc mộng. Rốt cuộc
không thể đạt được. Đó là chân tướng sự thật. Nên trong mười pháp giới, thật sự:
không được nhiễm trước một chút nào, không thể khởi tâm động niệm, đó toàn là
giả thôi. Phật nói pháp cho chúng sanh trong mười pháp giới, gọi là Quyền-thuyết,
Phương-tiện-thuyết, Thiện-xảo-thuyết; còn nói pháp cho Pháp-thân Bồ-tát ở cõi
Thật Báo, đó đều là Nhất-thừa, thật nói, không có một chữ nào là giả dối, tất cả
đều là chân thật. Xe lớn bảy báu, xe lớn nhất thời xưa là xe ngựa, xe ngựa của Hoàng
đế ngồi được trang trí bảy báu, sáu con ngựa kéo chiếc xe này. Đại bạch ngưu
chính là ngựa, ngựa trắng. Đó là xe lớn, xe của Hoàng đế ngồi. Chuyên chở nhiều
người đến bờ Niết Bàn bên kia, chính là liễu sanh tử thoát tam giới, không những
ra khỏi tam giới, mà còn ra khỏi mười pháp giới, đó gọi là Đại-thừa.
佛之出世,意欲直說法華 “Phật chi xuất thế, ý dục trực thuyết Pháp Hoa” (Khi Phật ra đời, ý muốn nói thẳng Kinh Pháp
Hoa), Pháp Hoa là Nhất-thừa. Nhưng căn khí của chúng sanh không bình
đẳng, 蓋由眾生 “cái do chúng sanh” (bởi do chúng sanh), cơ là căn cơ, cơ nghi; khí là căn khí, cơ
và khí không bằng nhau, có người lợi căn, có người độn căn, có người là tiểu
khí, độ lượng rất ít, có người tâm lượng rất lớn, là không giống nhau. 於是先說三乘之法而調熟之 “Ư thị tiên thuyết tam thừa chi pháp nhi điều
thục chi” (Vì vậy trước nói
pháp Tam thừa mà điều phục dần dần họ), vậy đối với người căn tánh thấp kém
thì làm sao? Dạy từ từ, nâng cao họ từ từ, nên nói Tam thừa trước. Tam thừa là
Thanh-văn, Duyên-giác và Bồ-tát. Tiểu-thừa là Thanh-văn, Phật nói A Hàm, bồi dưỡng
căn khí của họ, nâng cao cảnh giới của họ. Hiện tại là nói năng lực, cũng được,
nâng cao trí huệ của họ, nâng cao năng lực của họ. Dùng mười hai năm, thì đạt đến
trình độ và tiêu chuẩn này rồi; tiếp theo Phật giảng Phương Đẳng. Phương Đẳng vẫn
là Quyền-thuyết, ở trong Tiểu-thừa, chứ chưa nói đến Đại-thừa. Hầu hết những
người trong đó gọi là Bích-chi-Phật, chính là Duyên-giác. Sau cùng nói Đại-thừa,
22 năm giảng Bát Nhã, nói chân thật, vẫn chưa phải thuần chân. Như vậy A Hàm,
Phương Đẳng, Bát Nhã, đó gọi là Tam thừa, tức Tiểu-thừa, Trung-thừa, và Đại-thừa.
Còn Pháp Hoa thì sao? Pháp Hoa là Nhất Phật-thừa, Nhất-thừa, 8 năm cuối cùng giảng
Pháp Hoa. Những căn khí này cũng được nâng cao rồi, có trí huệ có thể tiếp nhận,
có thiện căn phước đức có thể làm theo. Đó là một đời giáo hóa của đức Như Lai,
làm cho chúng ta xem, chúng ta học tập phải theo như trình tự này, không theo
trình tự này thì không thể thành tựu. Đó là điều chắc chắn.
Người học
Phật thời nay không thể sánh với người xưa, nguyên nhân là gì? Không theo trình
tự. Trên kinh Phật có nói, Thích Ca Mâu Ni Phật nói, Ngài nói Phật tử, chính là
đệ tử của Phật, trước không học Tiểu-thừa, sau học Đại-thừa, chẳng phải đệ tử
Phật. Phật không thừa nhận quý vị. Quý vị tự nhận là đệ tử Phật là việc của quý
vị, Phật không thừa nhận điều đó, Phật thừa nhận khi nào? Sau khi chứng được quả
Tu-đà-hoàn, thì Phật thừa nhận; Sau khi đại triệt đại ngộ, thì Phật thừa nhận. Quý
vị vẫn chưa buông xuống được, vẫn chưa nhìn thấu được, nên Phật không thừa nhận
điều này, đó là lục đạo phàm phu, là phàm phu của 10 pháp giới. Chúng ta cũng
là từng bước một hướng nâng cao. Chắc thật nhất, triệt để nhất, nhất định là bắt
đầu từ ba gốc Nho- Phật- Đạo mà làm, đó là chắc thật nhất, đó là gương tốt của trời
người, về sau Phật giáo muốn hưng thịnh, phải nhờ những người này. Những người
này là Bồ-tát tái lai, còn phải làm thị hiện như vậy, bởi vì sao? vì dạy chúng
sanh. Quý vị là Bồ-tát, chúng sanh không phải Bồ-tát; Quý vị là Phật, chúng sanh
không phải Phật. Năm xưa khi Thích Ca Mâu Ni Phật còn ở đời, trực tiếp nói Pháp
Hoa là tốt rồi, sao phải nói ba thừa như vậy? Ba thừa tổng cộng dùng bao nhiêu
năm? Hơn 40 năm, 20 cộng thêm 22, là 42 năm. Dùng thời gian dài như thế, giúp đỡ
chúng sanh cắm rễ. A Hàm 12 năm, Phương Đẳng 8 năm, là 20 năm, là 42 năm. Tám
năm cuối cùng nói Pháp Hoa, căn khí hoàn toàn chín muồi rồi. Trên hội Pháp Hoa,
Phật thọ ký cho đại chúng.
Tiếp theo
nói, 故經云:於一乘道,分別說三 “cố Kinh
vân: ư Nhất-thừa đạo, phân biệt thuyết tam” (cho nên Kinh dạy: Từ đạo Nhất- thừa, phân biệt nói
thành ba), ba thừa này từ đâu đến? Vẫn là từ đạo Nhất thừa, phương tiện mà
nói, thiện xảo mà nói. 後至法華 “Hậu chí
Pháp Hoa” (Cuối cùng đến
Pháp Hoa), ở trên hội Pháp Hoa, 會三乘之小行,歸廣大之一乘 “hội tam thừa chi tiểu hạnh, quy quảng đại chi
Nhất-thừa” (gom những hạnh
nhỏ hẹp của tam thừa, trở về Nhất thừa rộng lớn). Đó chính là Hội Quyền Hiển
Thật của tông Pháp Hoa nói, Tam thừa là quyền, Nhất thừa là thật, hoặc gọi là Hội
Tam Quy Nhất, thuật ngữ này ở trong tông Pháp Hoa, là ý nghĩa như vậy. 又云:十方佛土中,惟有一乘法 “Hựu vân: Thập phương Phật độ trung, duy hữu
Nhất thừa pháp” (Lại
nói: Trong cõi Phật mười phương, chỉ có pháp Nhất thừa), đây là nói lời thật.
Ba thừa là do Phật phương tiện nói, không phải là mục đích dạy học, mà là quá
trình dạy học, từ cạn đến sâu, từ nhỏ đến lớn. Giống như chúng ta mở trường học:
mở Tiểu học, mở Trung học, mở Đại học, cuối cùng đến Viện nghiên cứu. Mục đích dạy
học là Viện nghiên cứu, là hi vọng mỗi người đều lấy được học vị cao nhất,
thành tựu trí huệ viên mãn, đức năng viên mãn. Nhưng mà trình độ cao trong Phật
pháp, không phải người thế gian có thể tưởng tượng đến được, cao nhất là mong quý
vị minh tâm kiến tánh, là kiến tánh thành Phật. Vì vậy ba cấp độ này: Đại thừa,
Tiểu thừa, Trung thừa, Tiểu thừa là chứng quả A-la-hán, Đại-thừa là Sơ-địa Bồ-tát,
Nhất Phật-thừa là Bát-địa trở lên, đây là cách nói thông thường trong Phật giáo.
Liên quan
đến thuật ngữ Nhất thừa này, trong Phật Học Đại Từ Điển cũng có, chúng ta tham
khảo để xem, càng dễ hiểu hơn. Đây là thuật ngữ của nhà Phật, Nhất thừa, 成佛唯一之教也。乘為車乘 “thành Phật duy nhất chi giáo dã. Thừa vi xa
thừa” (là giáo nghĩa duy
nhất để thành Phật. Thừa là cỗ xe), gọi chung của cỗ xe, 以譬佛之教法。教法能載人運於涅槃岸,故謂之乘。法華經專說此一乘之理 “dĩ thí Phật chi
giáo pháp. Giáo pháp
năng tải nhân vận ư Niết Bàn ngạn, cố vị chi thừa. Pháp Hoa kinh chuyên thuyết
thử Nhất thừa chi lý” (để ví
như giáo pháp của Phật. Giáo pháp có thể chở người đến bờ Niết Bàn, nên gọi là
Thừa. Kinh Pháp Hoa chuyên nói về lý Nhất thừa này). Ví dụ dưới đây: được
nói trong phẩm Phương Tiện của Kinh Pháp Hoa, 十方佛土中,唯有一乘法,無二亦無三,除佛方便說 “thập
phương Phật độ trung, duy hữu Nhất thừa pháp, vô hữu diệc vô tam, trừ Phật
phương tiện thuyết” (trong cõi Phật mười phương, chỉ có pháp Nhất thừa,
không hai cũng không ba, trừ Phật phương tiện nói), chúng ta biết điều này,
ngọn nguồn cách nói của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. 同品曰:諸佛如來,以方便力,於一佛乘,分別說三 “Đồng Phẩm viết: Chư Phật Như Lai, dĩ phương
tiện lực, ư nhất Phật thừa, phân biệt thuyết tam” (Cùng trong Phẩm đó nói: Chư Phật Như Lai,
dùng sức phương tiện, đối với Nhất thừa phân biệt mà nói
thành ba). Giáo nghĩa ở trong
Nhất Phật thừa, không xa lìa giáo nghĩa này, nếu xa lìa Nhất Phật thừa, vậy thì
là ma nói, không phải do Phật nói. Nhất Phật thừa là lý, nói ba thừa, đó là khế
cơ, Phật nói pháp, trên khế lý của chư Phật đã chứng, dưới khế cơ của chúng sanh
có thể độ. Nguyên lý của Nhất Phật thừa là gì? 一切眾生皆有如來智慧德相 “Nhất thiết chúng sanh giai hữu Như Lai trí huệ
đức tướng” (Tất cả
chúng sanh đều có trí huệ đức tướng của Như Lai), đây gọi là Nhất Phật thừa,
đây là lý của Nhất Phật thừa. Nhưng chúng sanh mê ngộ có cạn sâu khác nhau, người
bị mê sâu, quý vị nói Nhất Phật thừa, thì họ không được lợi ích, chỉ có dạy cạn,
từ từ chỉ dẫn họ vào sâu, đó gọi là phương tiện. Mục tiêu cuối cùng là phải
giúp người đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh, mục đích dạy học như vậy mới
là đạt đến viên mãn.
文句四上 “Văn cú tứ thượng” (Trong quyển bốn của Pháp Hoa Văn Cú), là Pháp Hoa Kinh Văn Cú, tức
do Đại sư Trí Giả nói. Đây là Chú Giải Kinh Pháp Hoa của Đại sư Trí Giả, bên trong
có một câu như vầy: 圓頓之教,為一佛乘 “Viên
đốn chi giáo, vi Nhất Phật thừa” (Giáo pháp viên đốn là Nhất Phật thừa). Viên là viên mãn, lý viên mãn, sự cũng viên
mãn; Đốn là đốn siêu, không có cấp bậc. Thật sự, phàm phu thành Phật trong một
niệm, một niệm giác ngộ thì phàm phu liền thành Phật. Vì sao giác ngộ vậy?
Buông xuống là giác ngộ thôi. Chúng ta rất rõ ràng, rất sáng tỏ đạo lý này, còn
họ làm không được, dựa theo tiêu chuẩn của Đại sư Chương Gia, làm không được
chính là chưa hiểu thật sự, hiểu thật sự thì nhất định có thể làm được. Buông
xuống kiến-tư-phiền-não chính là A-la-hán, buông xuống trần-sa-phiền-não chính
là phân biệt, buông xuống chính là Bồ-tát, buông xuống khởi tâm động niệm là
thành Phật rồi. Buông xuống giúp quý vị nhìn thấu, nhìn thấu giúp quý vị buông
xuống. Rốt cuộc là buông xuống trước hay là nhìn thấu trước? Căn tánh của mỗi
người khác nhau, nên làm cả hai. Nhìn thấu là trí huệ, buông xuống là công phu,
thông thường gọi công phu này là Thiền-định.
Viên đốn
chính là buông xuống cùng lúc, ngay trong một niệm buông xuống toàn bộ rồi, thì
gọi là viên đốn. Có được không? Thật sự được. Đức Thế Tôn thị hiện ở dưới cây Bồ-đề
là viên đốn, Đại sư Huệ Năng ở trong phòng Phương Trượng của Ngũ Tổ, nghe Ngũ Tổ
nói pháp là viên đốn, nghe đến 應無所住,而生其心 “ưng vô sở trụ, nhi sanh kỳ tâm” (không nên trụ vào bất cứ chỗ nào mà sanh tâm ấy), ưng vô sở trụ
là buông xuống triệt để, nhi sanh kỳ tâm là hiểu rõ hoàn toàn. Thế nào là sanh
tâm ấy? Chính là nhìn thấu, chính là đại giác, vừa buông xuống, thì Tự-tánh
giác liền hiện tiền, không chướng ngại nữa. Tự-tánh giác không mất đi, chỉ là
chướng ngại mà thôi, nhất định phải tự mình buông xuống chướng ngại này, người
khác không giúp được. Nếu người khác có thể giúp, thì chư Phật Bồ-tát đại từ đại
bi, chúng ta không phải tu hành khổ như vậy. A Mi Đà Phật cũng không làm thay
được, quyết định là việc của chính mình. Phật chỉ là nói chân tướng này với
chúng ta, chính chúng ta phải tin, tự mình chịu buông xuống, là thành Phật rồi.
Hỏi khi nào thì quý vị thành Phật? Nhanh thì một niệm này lập tức thành Phật; chậm
thì phải vô lượng kiếp, chọn con đường nào hoàn toàn ở chính mình. Tôi rất muốn
đi theo pháp viên đốn này, tôi một niệm thành Phật, nhưng làm không được. Vậy
thì chúng ta phải biết, chúng ta lý giải vẫn chưa đủ thấu triệt, chưa thật sự
nhìn thấu, chỉ nghe nói mà thôi. Sau khi thật sự nhìn thấu, thì quý vị sẽ không
sanh ra niệm nào nữa.
Hãy suy
nghĩ câu chuyện của Viên Liễu Phàm. Tiên sinh Liễu Phàm và Thiền sư Vân Cốc ngồi
ở trong thiền đường ba ngày ba đêm, Tiên sinh Liễu Phàm không khởi một vọng niệm
nào. Thiền sư Vân Cốc rất bội phục, công phu này không phải người bình thường
có thể làm được, khen ngợi ngài. Hỏi ngài: Công phu này của ngài tu như thế
nào? Tiên sinh Liễu Phàm nói lời thật: Con không công phu, nhưng con nhìn thấu
rồi. Nhìn thấu điều gì? Vận mạng, làm rõ ràng sự việc này, một đời đều là mạng,
mảy may không do người. Trong mạng đã định rồi, con nghĩ thế nào cũng là không
được, nên không nghĩ nữa. Ngài ấy tu Vô-tưởng-định thôi, chứ không phải thật sự
thiền định, ngài là đoạn sạch vọng niệm rồi. Đoạn sạch vọng niệm nhưng bên
trong còn vô minh, nên ngài không khai được trí huệ, có định không có huệ. Thiền
sư Vân Cốc nói chân tướng sự thật với ngài, thì ngài sáng tỏ rồi, ra sức quyết
tâm, sửa xưa tu nay, đoạn ác tu thiện, thật làm, vận mạng của ngài lập tức thay
đổi. Ý niệm vừa chuyển, thì vận mạng thay đổi rồi. Năm thứ hai tham gia cuộc
thi, Khổng tiên sinh đoán là ngài đứng thứ ba, nhưng ngài thi đậu thứ nhất,
thay đổi ý niệm, còn chưa thật làm, đã có hiệu quả tốt như vậy rồi. Ngài thật sự
tin, cả đời đoạn ác tu thiện. Vọng tưởng của ngài chưa xả hết, vẫn cầu công
danh, vẫn cầu con cái, cầu thăng quan phát tài, hoàn toàn cầu được, trong hàng
đệ tử Phật, có cầu tất ứng. Chữ “cầu” này là gì? Trong mạng của ngài không có, mà
ngài cầu được, điều này thật sự được rồi. Cho nên thật sự chứng minh, tất cả
pháp từ tâm tưởng sanh. Nhất-thừa chắc chắn phải không còn một tạp niệm nào, cũng
không còn một vọng tưởng nào, là tâm quy nhất, giữ tâm một chỗ, không việc nào
không thành, giữ tâm một chỗ, vốn dĩ là thành Phật rồi.
勝鬘經曰:一乘即是第一義乘。勝鬘寶窟上本曰:一乘者,至道無二,故稱為一 “Thắng Man Kinh viết:
Nhất-thừa tức thị Đệ Nhất Nghĩa thừa. Thắng Man Bảo Quật Thượng Bổn viết: Nhất
thừa giả, chí đạo vô nhị, cố xưng vi nhất” (Kinh Thắng Man
dạy: Nhất-thừa chính là Đệ Nhất Nghĩa thừa. Thắng Man Bảo Quật quyển Thượng dạy: Nhất-thừa
là đạo cùng tột không hai, nên gọi là Nhất), Đạo Phật giảng đến chỗ rốt ráo là pháp môn Bất-nhị,
Bất-nhị chính là nhất. 運用自在 “Vận dụng tự tại” đây chính là ý nghĩa của thừa. 依法華論,此大乘修多羅 “Y Pháp
Hoa Luận, thử Đại thừa Tu-đa-la” (Theo Luận Pháp Hoa, Đại thừa Tu-đa-la này). Đại thừa Tu-đa-la
chính là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, 有十七種名 “hữu thập
thất loại danh” (có 17
loại tên), tên này là tên gọi, 第十四名一乘經 “đệ thập tứ danh Nhất-thừa
Kinh” (tên thứ 14 là Nhất-thừa Kinh). 起信論義記上曰:乘者就喻為稱 “Khởi Tín Luận Nghĩa Ký thượng viết: Thừa giả
tựu dụ vi xưng” (Khởi
Tín Luận Nghĩa Ký quyển Thượng dạy: Thừa là thí dụ làm tên gọi), là thí dụ, 運載為功 “vận tải vi công” (vận tải là công năng). Theo phẩm Phương Tiện kinh Pháp Hoa đã
nói, 即開會三乘之別執,悉歸趣於平等大會,等使一切眾生成佛道也 “tức khai hội tam thừa chi biệt chấp, tất quy thú ư bình
đẳng đại hội, đẳng sử nhất thiết chúng sanh thành Phật đạo dã” (chính là phân biệt chấp trước mà triển
khai hội ba thừa, sau đều quy hướng về đại hội bình đẳng, bình đẳng khiến cho
chúng sanh thành Phật đạo). Chữ “khai” là triển khai, triển khai Nhất-thừa
thành ba thừa; hội là quy nạp, đem ba thừa lại trở về thành Nhất-thừa. Đây là thế
nào? Đây là phân biệt, là chấp trước. Không chấp trước chính là Nhất-thừa, chấp
trước, vậy thì có cạn sâu khác biệt, cuối cùng vẫn quy về đại hội bình đẳng. Đẳng
sử, chữ “đẳng” này là bình đẳng, bình đẳng khiến cho tất cả chúng sanh thành Phật
đạo.
Trước khi
chưa thành Phật, thì có trước sau; sau khi thành Phật, trước sau không còn nữa.
Phật trước Phật sau, Phật xưa Phật nay, đó đều là do chúng sanh hư vọng phân biệt.
Trên kinh Phật có thí dụ, thí dụ rất hay. Thí dụ như nước của trong sông Giang
Hà, chảy tới trong biển không có trước sau, chảy trước, chảy sau; sau khi chảy vào
trong biển, tìm không thấy trước sau, nước nào trước, nước nào sau, không có nữa.
Như vậy là nói với quý vị, trước khi chưa thành Phật, thì có Thanh-văn, có
Duyên Giác, có Bồ-tát, phân biệt thật nhiều; sau khi thành Phật, toàn bộ không
còn nữa, gọi là pháp Nhất- thừa, đó là thật. Có trước có sau, có xưa có nay, tất
cả đều là giả, Phật pháp nói hý luận, nói lời vui đùa. Trở về Tự-tánh chính là
trở về biển lớn, một tơ hào dấu tích cũng không còn nữa. Trong Tự-tánh không có
thời gian, không có không gian, không có phân biệt, không có chấp trước, cuối
cùng nói với quý vị, không có khởi tâm động niệm, đó là pháp Nhất thừa, đó là
chúng sanh bình đẳng thành Phật. Phật không có Phật lớn, Phật nhỏ, không có Phật
xưa Phật nay, không có Phật trước Phật sau, không có vậy. Đó đều là do sự phân
biệt chấp trước của tất cả chúng sanh, chứ không phải thật có.
蓋大乘佛教中,所謂權大乘家,立一切有情為法爾 “Cái Đại thừa Phật giáo trung, sở vị quyền đại thừa gia,
lập nhất thiết hữu tình vi pháp nhĩ” (Bởi vì trong Phật giáo Đại thừa, điều mà được gọi là quyền nhà Đại
thừa, lập lên tất cả hữu tình là pháp như vậy), trên thực tế hai chữ Pháp-nhĩ
này cũng không tồn tại, 五性各別之說 “ngũ tánh các biệt chi thuyết” (theo Năm loại căn tánh mỗi mỗi khác biệt
mà nói), năm tánh này trước đây đã giảng ở phần Định-tánh. 故其中定性二乘及無性 “Cố kỳ
trung định tánh nhị thừa cập vô tánh” (Nên Định-tánh Nhị thừa trong đây và Vô-tánh). Phía dưới còn giảng
Bất-định-tánh, Bồ-tát, năm loại căn tánh này. 畢竟無由成佛 “Tất cánh
vô do thành Phật” (Cuối
cùng không có cách nào thành Phật). Các Ngài nói điều gì? Vô-tánh này, là không
có Phật tánh, Nhất-xiển-đề không có Phật-tánh. Trong Pháp Hoa, Niết Bàn nói, họ
cũng có Phật-tánh, làm sao họ lại không có Phật-tánh chứ? Chỉ là phiền não của
họ quá nặng, tội chướng quá sâu, họ phải trải qua thời gian rất dài, từ từ đào
thải, mới có thể quay đầu, là ý nghĩa như vậy, chứ không phải họ không thể quay
đầu. Điều này nói rõ tất cả chúng sanh vốn dĩ là Phật, tất cả chúng sanh tương
lai nhất định thành Phật, là muốn giúp chúng ta khẳng định điều này, không được
hoài nghi, chỉ là thời gian thành Phật trước sau không giống nhau. Toàn là ở
nhân địa, trong quả địa cũng không có những dấu tích này. Nhân địa là ở mười
pháp giới, sanh đến Thật-báo-độ, có thể nói là nhân quả đồng thời, đoạn sạch một
phẩm sanh tướng vô minh tập khí sau cùng ấy, thì họ trở về Thường-tịch-quang.
是故諸佛之法,自不可無三乘之別。定性二乘,必由聲聞緣覺之二乘而般涅槃,菩薩種性,必由大乘而般涅槃 “Thị cố chư Phật
chi pháp, tự bất khả vô tam thừa chi biệt. Định tánh nhị thừa, tất do Thanh-văn, Duyên
Giác chi nhị thừa nhi Bát Niết Bàn, Bồ-tát chủng tánh, tất do Đại thừa nhi Bát
Niết Bàn” (Cho nên, pháp của
chư Phật, tự nhiên chẳng thể không chia thành ba thừa. Người Định-tánh Nhị thừa,
ắt hẳn theo hai thừa Thanh-văn Duyên-giác mà đến Bát Niết Bàn. Người chủng tánh
Bồ-tát ắt hẳn theo Đại thừa mà đến Bát Niết Bàn). Bát Niết Bàn này là giống
như tốt nghiệp việc học ở trường, học xong khóa học Tiểu học, thì tốt nghiệp Tiểu
học; học xong khóa học Trung học, thì tốt nghiệp Trung học; học xong chương
trình Đại học, là tốt nghiệp đại học, Bát Niết Bàn chính là ý nghĩa như vậy. Niết
Bàn rốt ráo, đó chính là tốt nghiệp Viện nghiên cứu, lấy được học vị Tiến sĩ rồi,
không còn có cao hơn nữa, đây là pháp thế gian. Trong Phật Pháp Đại thừa, Niết
Bàn rốt ráo là địa vị bình đẳng, Phật xưa Phật nay, Phật lớn Phật nhỏ, Phật của
Quyền-giáo, Phật của Thật-giáo, Phật của trên hội Pháp Hoa, Phật của trên hội
Hoa Nghiêm, toàn bộ đều bình đẳng, không có trước sau, không có lớn nhỏ, không
có quyền thật, gọi là Nhất Phật thừa.
然法華等經,或說唯有一乘者,是引攝不定性者,不使墮於二乘地,進而使由大乘般涅槃也,即如來密意之說也 “Nhiên Pháp Hoa đẳng kinh, hoặc thuyết duy hữu
Nhất-thừa giả, thị dẫn nhiếp Bất định tánh giả, bất sử đọa ư nhị thừa địa, tiến
nhi sử do Đại thừa Bát Niết Bàn dã, tức Như Lai mật ý chi thuyết dã” (Song những kinh như Pháp Hoa hoặc nói chỉ
có Nhất-thừa, là vì dẫn nhiếp người Bất-định-tánh, khiến cho không rơi vào địa
vị Nhị-thừa, đề cử đến được theo Niết Bàn của Đại thừa, chính là mật ý của Như
Lai đã nói). Phật nói chỉ có Nhất-thừa, đối với người nào mà nói? Đối với
người Bất-định-tánh mà nói. Người Bất-định-tánh, người này rất thông minh, họ thật
sự gần son liền nhiễm son, gần mực liền nhiễm mực, nên Phật giảng cho họ chỉ có
Nhất-thừa, thì họ lập tức tiếp nhận. Sau khi tiếp nhận, họ có thể không đổi, họ
có thể không sửa, một phương hướng để nỗ lực, thì họ rất nhanh thành tựu, nên
đây là mật ý của Phật. Phật quán sát căn tánh của hạng người này, không để họ
đi đường vòng. Tịnh Tông là Nhất-thừa, một đời thành Phật, không đi đường vòng,
đó là pháp Nhất-thừa. Quý vị nói xem có biết bao người đi đường vòng. Trên hội
Hoa Nghiêm, 41 vị Pháp-thân Đại sĩ của Thế Giới Hoa Tạng, các ngài tu vô lượng
kiếp mới thành tựu. Tuy thành tựu rồi, chẳng phải viên mãn rốt ráo, nên trên hội
Hoa Tạng, ngài Văn Thù Phổ Hiền, hai vị Đại sĩ này dẫn dắt họ đến Thế Giới Cực
Lạc để thân cận A Mi Đà Phật. Điều này có ý nghĩa gì? Là viên mãn rốt ráo. Nếu không phải vậy thì họ
đi làm gì chứ? 41 vị Pháp-thân Đại sĩ, Đẳng Giác Bồ-tát gần bằng Phật rồi, Còn
muốn đi không? Cũng muốn. Ngài Văn Thù là Đẳng Giác, ngài Phổ Hiền là Đẳng
Giác, hai vị lão Đẳng Giác dẫn đầu, tân Đẳng Giác không thể không phục.
Nên những
kinh văn này chúng ta không thể đơn giản lướt qua, ý nghĩa quá sâu, đó là chân
thật dạy bảo, người ngu si xem không ra, người tâm nông nổi, người không có trí
huệ xem không ra. Nên kinh phải xem đi xem lại, không phải đọc
lướt quá nhiều. Đọc lướt quá nhiều, thì tâm tư chúng ta tạp loạn, một hồi nghĩ
việc này, một hồi nghĩ việc kia. Tập trung, tập trung suy nghĩ như vậy thì hướng
nghĩ đến chỗ sâu, càng nghĩ càng sâu, càng nghĩ càng rộng, tới chỗ sâu. Đọc lướt
quá nhiều, không thể thâm nhập, cũng không thể rộng; Nói cách khác, việc này có
hạn chế. Đây là đại học vấn, người phương Tây mấy ngàn năm không ai hiểu
được. Sau khi quý vị thật sự làm rõ ràng, làm sáng tỏ, thì quý vị mới biết người
phương Đông thật sự trí huệ, loại phương pháp xảo diệu đó hoàn toàn tương ưng với trí huệ. Nho- Phật- Đạo của truyền thống
Trung Hoa, và Ấn Độ cổ đều biết được một môn thâm nhập, trường thời huân tu, đều
hiểu được phương pháp này, một thông tất cả đều thông, sâu rộng của trí huệ
không có giới hạn. Còn sâu rộng của tri thức là có giới hạn, hơn nữa bên trong
vẫn có sai lầm. Nếu không đoạn sạch phiền não, vẫn còn tham sân si mạn, vẫn còn
tự tư tự lợi, thì không thấy được chân lý, trong đó sẽ có sai lầm, không biết
làm hư bao nhiêu việc, tạo bao nhiêu tội nghiệp. Chúng ta hơi tỉnh táo chút
cũng có thể xem thấy được điều này, xem quá khứ, xem hiện tại, rồi quay đầu lại
xem xét chính mình, chính mình mới thật sự có thể sửa lỗi tự làm mới, mới thật
sự có thể cải tà quy chánh. Chân vọng, tà chánh sáng tỏ rồi, đó là nhìn thấu. Chân
thật sửa lỗi, đó chính là buông xuống, buông xuống sai lầm, thú hướng chân thật.
又以所趣之真如無差別,三乘解脫等相等 “Hựu dĩ sở thú chi chân như vô sai biệt, tam thừa
giải thoát đẳng tương đẳng” (Lại nữa chỗ thú hướng chân như không sai biệt,
nên ba thừa giải thoát là bằng nhau), ba thừa vốn là pháp Nhất-thừa, 故說為一乘 “cố thuyết vi Nhất-thừa” (nên nói là Nhất-thừa),
nhất chính là ba, ba chính là nhất. 實則非無二三之別也。如大乘莊嚴經論第五,攝大乘論釋第十,廣列十義或八義意趣而論之。是為所謂三乘真實一乘方便之教旨,以深密等經為所依之法相家所主張也 “Thực tắc phi vô
nhị tam chi biệt dã. Như Đại Thừa Trang Nghiêm Kinh Luận đệ ngũ, Nhiếp Đại Thừa
Luận Thích đệ thập, quảng liệt thập nghĩa hoặc bát nghĩa ý thú nhi luận chi. Thị vi sở vị tam thừa chân thật Nhất-thừa
phương tiện chi giáo chỉ, dĩ Thâm Mật đẳng kinh vi sở y chi Pháp Tướng gia sở
chủ trương dã” (Thực tế
là không có sự khác biệt giữa hai và ba. Như Luận Đại Thừa Trang Nghiêm Kinh
quyển 5, Nhiếp Đại Thừa Luận Thích quyển 10, rộng liệt kê ý thú 10 nghĩa hoặc 8
nghĩa mà luận bàn. Đó được gọi là tông chỉ giáo pháp phương tiện của tam thừa
chân thật Nhất-thừa, nhà Pháp Tướng đã chủ trương lấy những kinh như Thâm Mật
v.v.. làm y cứ). Điều này có nghĩa là cách nói trong các tông phái
không hoàn toàn giống nhau, bởi vì Kinh luận mà mỗi tông phái y cứ không giống
nhau. Ở Phật giáo nước ta, phần nhiều đều là dùng cách nói của: Thiên Thai, Hoa
Nghiêm làm tiêu chuẩn. Những tông phái khác có thể làm tham khảo, quý ở viên
dung, không quý ở phân biệt. Bất kể cách nói nào, chỉ cần không có tâm phân biệt,
không có tâm chấp trước, thì vạn pháp viên dung rồi.
至於實大乘 “Chí ư thật Đại thừa” (Cho đến Đại thừa chân thật), Đại thừa chân thật,
則不然。蓋其所立之說,一切眾生,本無五性之別,悉有佛性,一性平等,故皆得由佛乘而成佛 “tắc bất nhiên. Cái kỳ sở lập chi thuyết, nhất thiết chúng
sanh, bổn vô ngũ tánh chi biệt, tất hữu Phật tánh, nhất tánh bình đẳng, cố giai
đắc do Phật thừa nhi thành Phật” (thì không phải vậy. Bởi vì những thuyết được lập ra đó, tất cả
chúng sanh, vốn không phân biệt năm căn tánh, mà đều có Phật-tánh, một tánh
bình đẳng, nên đều được nhờ Phật thừa mà thành Phật). Nói Đại thừa, là Đại
thừa chân thật, chính là lời hai nhà Thiên Thai và Hoa Nghiêm đã nói. Có năm
căn tánh hay không? Không thể nói không có, khi mê thật sự có, khi ngộ không có
nữa. Ngũ-tánh này chính là điều đã nói phía trước: Bất-định-tánh, Vô-tánh,
Thanh-văn-tánh, Duyên-giác-tánh, Bồ-tát-tánh, thật sự Ngũ-tánh ở đâu ra?
Ngũ-tánh là do mê ngộ cạn sâu khác nhau mà thành. Tất cả chúng sanh đều có Phật-tánh,
đây là thật. Chúng sanh của định-tánh có Phật-tánh, chúng sanh vô-tánh cũng có
Phật-tánh, Thanh-văn có Phật-tánh, Duyên-giác có Phật-tánh, Bồ-tát có Phật-tánh,
tất cả đều có Phật-tánh. Đã có Phật-tánh, sao có thể không thành Phật chứ?
Thành Phật sớm hay muộn, tất cả bởi ở gặp duyên khác nhau, lời nói này rất hay.
Tất cả chúng sanh gặp được pháp môn Tịnh Tông, chính là gặp được duyên phận một
đời này thành Phật, họ thật sự có thể tin, có thể chân thật phát tâm cầu sanh Tịnh-độ,
thì họ thành Phật rồi. Pháp môn này thật sự không thể nghĩ bàn. Hoa Nghiêm,
Pháp Hoa đến sau cùng đều quay về Tịnh-độ, vì sao vậy? Nếu không quay về Tịnh-độ,
thì thượng thượng căn thành tựu, còn thượng trung hạ đều không thể thành tựu, một
lòng quay về Tịnh-độ, thì thượng trung hạ đều thành tựu hết, không ai mà không
thành tựu, đây là sự vi diệu của Tịnh-độ.
昔曾說三乘各別之法 “Tích tằng thuyết tam thừa các biệt chi pháp” (Tích từng nói pháp ba thừa mỗi mỗi khác
biệt), chữ “tích” là trước kia, 42 năm trước đức Thích Ca: đã nói pháp tam
thừa mỗi mỗi khác biệt. 不過為對於權機假說之方便耳 “Bất quá
vi đối ư quyền cơ giả thuyết chi phương tiện nhĩ” (Chẳng qua là đối với Quyền thừa nên mượn
phương tiện để nói mà thôi), đó là một loại phương pháp bất đắc dĩ,
muốn thay đổi tri thức của họ, căn tánh của họ, từ từ dẫn dắt giúp họ nâng cao.
42 năm nâng cao, thì họ có thể tiếp nhận pháp Nhất-thừa rồi. Đức Thế Tôn dạy bảo
chúng ta điều này: pháp Nhất-thừa là không dễ. Nếu chúng ta suy nghĩ một chút,
42 năm, chúng ta học Phật có tuổi thọ dài như thế không? Vậy không có tuổi thọ
dài như thế, tuổi thọ hết rồi. Thế là tử vong rồi, không thể tu lại nữa. Dù đời
sau được thân người, gặp được Phật Pháp, ít nhất phải mất hơn 20 năm. Hơn 20
năm gián đoạn, đại khái những điều lần trước học đã quên hết. Đời này học lại từ
đầu, tiến bộ nhanh hơn đời trước một chút, nhờ có chi tiết của đời trước. Thời
gian 42 năm vẫn là quá dài. Nếu chúng ta nghĩ đến điều này, thì quý vị mới biết
pháp môn Tịnh-độ thật đáng quý. Gặp được pháp môn này, không cần thời gian dài
như vậy, thật sự tin, thật sự chịu buông xuống, ba đến năm năm là thành tựu
thôi. Nếu người thượng thượng căn gặp được, thì mấy ngày, mấy tháng họ thành tựu
rồi. Không phí thời gian dài như vậy.
Chúng ta
có thể lãnh hội từ chỗ này, năm xưa khi đức Thế Tôn ở
đời nhiều lần tuyên giảng bộ Kinh này, giảng ở trong tất cả Kinh Đại thừa luôn
luôn nói đến thế giới Cực Lạc, trong Kinh văn nói đến thế giới Cực Lạc, nói đến
A Mi Đà Phật: có hơn 200 loại. Từ chỗ này chúng ta có thể lãnh hội được, đức Thế
Tôn đối với Thế Giới Cực Lạc, niệm niệm không quên pháp môn này, thời thời khắc
khắc nhắc nhở mọi người. Pháp môn này thật sự là pháp khó tin, có người nghe hiểu,
không thể nói là không tin, không làm. Bởi vì phương pháp này quá đơn giản, một
câu Phật hiệu đã niệm mấy ngày thì không muốn niệm nữa. Pháp vị niệm Phật này
sâu, pháp vị này rộng, pháp vị này đậm, quý vị có được tâm kiên nhẫn, chân
thành cung kính, dũng mãnh tinh tấn, thì nếm được đạo vị, quý vị sẽ không chịu
bỏ đâu. Không nhiều người nếm được pháp vị, tỉ mỉ để quan sát, thật sự người nếm
được pháp vị, không phải không có, là thật có, quý vị thật sự muốn thấy thì sẽ
thấy được. Chư Phật Bồ-tát vô cùng từ bi, trong hàng đệ tử Phật, có cầu tất ứng,
sẽ giúp quý vị thấy được thật sự niệm Phật là như thế nào.
此為所謂一乘真實三乘方便之教旨,天台華嚴等宗家所主張也 “Thử vi sở vị Nhất-thừa chân thật Tam thừa phương tiện
chi giáo chỉ, Thiên Thai Hoa Nghiêm đẳng tông gia sở chủ trương dã” (Đây được gọi là giáo chỉ tam thừa phương
tiện của Nhất-thừa chân thật, những nhà tông Thiên Thai, Hoa Nghiêm đã chủ
trương như vậy), nên cách nói này là phổ biến nhất, người học Phật thông
thường đều biết. 其中天台所依之法華經,主對於三乘之人,說其教之所以方便 “Kỳ trung Thiên Thai sở y chi Pháp Hoa Kinh, chủ đối ư
Tam thừa chi nhân, thuyết kỳ giáo chi sở dĩ phương tiện” (Trong đó tông Thiên Thai y cứ
vào Kinh Pháp Hoa, chủ trương đối với người của tam thừa mà lấy phương tiện
giáo pháp ấy thuyết cho họ), tam thừa là phương tiện mà nói, 開會之 “khai hội
chi” (mở hội này),
mở một thành ba, gom ba về một, 使歸於一佛乘 “sử quy ư
Nhất Phật thừa” (khiến
cho quay về Nhất Phật thừa). 華嚴經主對於十地之大菩薩,廣說其所入之一乘法,故至智儼賢首 “Hoa Nghiêm Kinh chủ đối ư Thập địa chi đại Bồ-tát, quảng thuyết kỳ sở
nhập chi Nhất-thừa pháp, cố chí Trí Nghiễm Hiền Thủ” (Kinh Hoa Nghiêm chủ trương đối với Đại Bồ-tát
Thập địa, mà rộng nói pháp Nhất-thừa để họ thâm nhập vào, nên đến ngài Trí Nghiễm,
ngài Hiền Thủ), ngài Trí Nghiễm là Tổ sư đời thứ hai của tông Hoa Nghiêm, ngài
Hiền Thủ là đời thứ ba, đời thứ nhất là Hòa thượng Đỗ Thuận, các ngài 分一乘 “phân Nhất-thừa” (chia
Nhất-thừa), lại chia Nhất-thừa thành Đồng-giáo, Biệt-giáo. Gọi là Đồng-giáo
Nhất-thừa, Biệt-giáo Nhất-thừa. 五十要問答 “Ngũ Thập
Yếu Vấn Đáp”, Hoa Nghiêm có sách Ngũ Thập Vấn Đáp, quyển Thượng
ghi: 一乘教有二種:一共教,二不共教 “Nhất-thừa
giáo hữu nhị chủng: Nhất Cộng-giáo, nhị Bất-cộng-giáo” (Nhất-thừa giáo có hai loại: một là Cộng-giáo,
hai là Bất-cộng giáo). 孔目章一,謂一乘之義,分別有二,一正乘,二方便乘,正乘如華嚴經所說,方便乘有十義 “Khổng Mục chương nhất, vị Nhất-thừa chi nghĩa, phân biệt
hữu nhị, nhất Chánh-thừa, nhị Phương-tiện thừa, Chánh-thừa như Hoa Nghiêm Kinh
sở thuyết, Phương-tiện thừa có thập nghĩa” (Chương Mục lớn thứ nhất nói: nghĩa của Nhất-thừa,
phân chia có hai, một là Chánh-thừa, hai là Phương-tiện thừa, Chánh-thừa như
Kinh Hoa Nghiêm đã nói, Phương-tiện thừa có 10 nghĩa).
又五教章上,謂一乘教義之分齊,開為二門。一別教,二同教。並廣釋述之。今擇要言之,則在同於三乘而說一乘為同教,於三乘全不共而別說一乘為別教。彼法華譬喻品所謂宅內所指之門外三車,三乘教也。界外露地所授之大白牛車,是別教一乘教也 “Hựu Ngũ Giáo
Chương Thượng, vị Nhất-thừa giáo nghĩa chi phân tề, khai vi nhị môn. Nhất Biệt-giáo, nhị Đồng-giáo. Tịnh quảng
thích thuật chi. Kim trạch yếu ngôn chi, tắc tại đồng ư Tam
thừa nhi thuyết Nhất-thừa vi Đồng-giáo, ư Tam thừa toàn bất cộng nhi biết thuyết
Nhất-thừa vi Biệt-giáo. Bỉ Pháp Hoa Thí Dụ phẩm sở vị trạch nội sở chỉ chi môn
ngoại tam xa, Tam thừa giáo dã. Giới ngoại lộ địa sở thọ chi đại bạch ngưu xa,
thị Biệt giáo Nhất-thừa giáo dã” (Lại nữa, quyển Thượng
sách Ngũ Giáo Chương, nói Nhất-thừa giáo nghĩa phân chia giống vậy, chia làm
hai môn. Một là Biệt-giáo, hai là Đồng-giáo. Đồng thời rộng giải thích rõ ràng.
Nay chọn lời cốt yếu, là giống nhau ở chỗ ba thừa thì nói Nhất-thừa là Đồng-giáo,
khác nhau ở chỗ ba thừa hoàn toàn không giống nhau mà nói khác Nhất-thừa là Biệt-giáo.
Ba loại xe ở ngoài cửa căn nhà lửa được chỉ trong Phẩm Thí Dụ Kinh Pháp Hoa đã nói:
là giáo pháp tam thừa. Xe trâu trắng lớn được trao ở đất trống bên ngoài: là Biệt-giáo
Nhất-thừa giáo vậy). Nhất-thừa Biệt-giáo, trong phẩm Thí Dụ kinh Pháp Hoa,
đó là câu chuyện thế này: Trong nhà Trưởng giả, nhà của ông rất lớn, lửa bỗng nổi
lên. Các con của ông ta rất nhỏ, ham chơi, gọi chúng đi ra ngoài nhưng không chịu
đi ra. Nói với chúng, ngoài cửa có xe dê, có xe trâu, có xe nai, chơi rất hay,
đồ chơi ở bên ngoài, ở ngoài cửa lớn, nhanh nhanh ra để chơi. Bọn nhỏ đều chạy
ra ngoài. Ba xe này là dụ dỗ chúng, bên ngoài có hay không? Không có. Bên ngoài
chỉ có xe ngựa, xe ngựa gọi là Nhất-thừa, ra bên ngoài để tất cả lên xe ngựa. Đối
với bọn trẻ này, chúng thích dụ dỗ. Đó là thí dụ, ba cõi như nhà lửa, với người
thông thường, quý vị nói họ thành Phật, thì họ sợ hãi, làm sao tôi có thể làm
Phật chứ, không dám. Quý vị nói sanh cõi Trời, thì họ thích, sanh Trời Dục Giới,
sanh Trời Sắc Giới, làm A-la-hán cũng được, họ đều ưa thích điều đó. Không dám
nhận thành Phật, quá cao rồi. Nói điều quý vị tưởng tượng thảy đều ở bên ngoài,
đi là đạt được thôi. Sau khi đi ra, tất cả đều thành Phật. Nêu một thí dụ như
thế. Đất trống bên ngoài, chính là ngoài cửa lớn, ở ngoài của lớn cho chúng đều
là xe trâu trắng lớn, đó là Biệt-giáo Nhất-thừa, Biệt là phía trước có ba xe,
nói ba.
同教者,如是三一不為別說。或謂一同於三,或謂三同於一,互相交參,是欲使成根欲性,進而入於華嚴別教一乘也。由是而概括之,一乘凡有三種 “Đồng-giáo giả,
như thị tam nhất bất vi biệt thuyết. Hoặc vị nhất đồng ư tam, hoặc vị tam đồng
ư nhất, hỗ tương giao tham, thị dục sử thành căn dục tánh, tiến nhi nhập ư Hoa
Nghiêm Biêt-giáo Nhất-thừa dã. Do thị nhi khái quát chi, Nhất-thừa phàm hữu tam chủng” (Đồng-giáo là, ba hay một như vậy không phải
là chia ra để nói. Hoặc nói một đồng với ba, hoặc nói ba đồng với một, giao xen
lẫn nhau, là thỏa nguyện vọng khiến cho người căn tánh sắp chín muồi: tiến đến
vào Hoa Nghiêm Biệt-giáo Nhất-thừa. Do đó mà khái quát như vậy, Nhất-thừa gồm có
ba loại), có ba cách nói. Loại thứ nhất là 一, 為存三之一乘,所謂不破三乘之疑執,亦不會二乘之行果,唯就空理之平等而說為一乘。如攝大乘論之十義意趣是也 “nhất, vị tồn tam
chi Nhất-thừa, sở vị bất phá Tam-thừa chi nghi chấp, diệc bất hội Nhị thừa chi
hành quả, duy tựu không lý chi bình đẳng nhi thuyết vị Nhất-thừa. Như Nhiếp Đại Thừa Luận chi thập nghĩa ý thú
thị dã” (thứ nhất, vẫn giữ
ba thừa: đó là không phá đi nghi chấp của ba thừa, cũng không gộp hành quả của
nhị thừa, chỉ nương theo lý bình đẳng của Tánh Không mà nói thành nhất thừa. Như
mười ý nghĩa tông thú trong Luận Nhiếp Đại Thừa là như vậy). Đó là một
loại, cũng thừa nhận, cũng nói ba thừa. Hiện nay nói năm thừa, năm đầu Dân Quốc,
Đại sư Thái Hư đề xướng năm thừa Phật Pháp, năm thừa đến từ đâu? Thêm Nhân thừa,
Thiên thừa. Nhân Thiên vốn dĩ không được tính, Phật giáo có năm thừa Phật Pháp:
Nhân, Thiên, Thanh-văn, Duyên-giác, và Bồ-tát. Cũng khó được, trước làm người tốt
đã, làm người không tốt, sao thành Phật được? Đó là chủ trương của Đại sư Thái
Hư. Giảng luân lý, giảng đạo đức, giảng nhân quả, Phật Pháp nhân gian. Ngài
Thái Hư chủ trương việc này, không ra khỏi lục đạo, người làm tốt rồi, tương
lai vẫn có thể được thân người, không mất thân người. Tư tưởng của ngài không xa
lìa Nhân Thiên, nói cách khác, là không xa lìa Ngũ giới Thập thiện, Tứ Vô Lượng
Tâm. Điều này chẳng phải là không tốt, đây là gốc của gốc Phật Pháp, nếu ngài thêm
Tịnh-độ vào thì viên mãn, nếu không thêm Tịnh-độ vào, thì không ra khỏi lục đạo
luân hồi. Thêm môn khác vào, thì không dễ thành tựu, việc này thêm Thiền vào cũng
không thể khai ngộ.
Hoàng Niệm
lão nói với tôi, hiện nay tu Thiền, ngay cả Thiền-định cũng không đạt được. Trước
đây tu Thiền có được Thiền-định, dù không khai ngộ, về sau ngay cả Thiền-định cũng
không đạt được. Quả thật, chỉ có niệm Phật vãng sanh thành tựu thôi. Học giáo,
học các pháp môn khác, cuối cùng đều phải quay về Tịnh-độ. Lão Cư sĩ Hạ Liên
Cư, lão Cư sĩ Hoàng Niệm Tổ đã làm tấm gương cho chúng ta. Các ngài khi còn ở đời,
học Giáo, học Thiền, học Mật, học Tịnh-độ, các ngài đều học tất cả, vả lại đều
học rất nghiêm túc, nói chung đều rất có công phu, nhưng đến cuối cùng tất cả đều
là niệm Phật cầu sanh Tịnh-độ. Vậy chúng ta cần suy nghĩ một chút, đạo đức học
vấn thế gian của chúng ta, thua kém các ngài; Giải hành công phu xuất thế gian
cũng thua kém các ngài, ngoài Tịnh-độ ra, các ngài đều cảm thấy không có nắm chắc,
cuối cùng buông bỏ tất cả, chuyên tu Tịnh-độ, làm tấm gương cho chúng ta.
Chúng ta
xem bên này, 二、為遮三之一乘,會二乘之行果,遮三乘之別執 “nhị, vị giá tam chi Nhất-thừa, hội Nhị thừa chi hành quả,
giá Tam thừa chi biệt chấp” (thứ
hai, vì ngăn chặn Nhất thừa trong ba thừa, mà gộp hành quả của Nhị thừa, ngăn chặn
sự chấp trước phân biệt của tam thừa),
chữ “giá” là ngăn chặn, chữ “hội” là gộp lại, hai thừa là Thanh-văn và
Duyên-giác, họ tu hành chứng quả rồi. Hay nói cách khác, giúp họ buông xuống chấp
trước, đó là ngăn chặn Nhất-thừa của ba thừa, không nên chấp trước ba thừa. 如法華之同教一乘 “Như Pháp
Hoa chi Đồng-giáo Nhất-thừa” (Như Đồng-giáo Nhất-thừa của Pháp Hoa), đây chính là chủ trương
của Pháp Hoa. 三、為直顯之一乘,不對於二乘,故無可破,唯為大菩薩,直示法界成佛之儀。如華嚴之別教一乘 “Tam, vị trực hiển chi Nhất-thừa, bất đối ư Nhị thừa, cố
vô khả phá, duy vị đại Bồ-tát, trực thị pháp giới thành Phật chi nghi. Như Hoa
Nghiêm chi Biệt-giáo Nhất-thừa” (Thứ ba, vì hiển bày thẳng Nhất-thừa ấy, không đối nghịch với Nhị thừa,
nên chẳng thể chia ra, chỉ vì đại Bồ-tát, mà chỉ rõ thẳng tiêu chuẩn của pháp
giới thành Phật: Như Biệt-giáo Nhất thừa trong Hoa Nghiêm). Hoa
Nghiêm và Pháp Hoa, Hoa Nghiêm bao dung, Pháp Hoa tuy là: ngăn chặn chấp trước
của ba thừa, nhưng lại gộp hạnh quả của hai thừa. Nên nói ý nghĩa của Nhất-thừa
này là không giống nhau.
又若經五教而論之,則總有五種之一乘 “Hựu nhược
kinh Ngũ-giáo nhi luận chi, tắc tổng hữu ngũ chủng chi Nhất-thừa” (Lại nữa, nếu chia theo Ngũ phần giáo mà
bàn luận, thì Nhất-thừa có tổng cộng năm loại). Biệt-giáo Nhất-thừa
là của Hoa Nghiêm. Đồng-giáo Nhất-thừa là của Pháp Hoa. Tuyệt tưởng Nhất-thừa
là của Lăng Già, đó là Đốn giáo. Năm giáo này là của tông Hiền Thủ. Gồm: Tiểu,
Thỉ, Chung, Đốn, Viên. Kinh Lăng Già nói絕想亡言 “Tuyệt tưởng
vong ngôn”, tuyệt tưởng là đoạn
sạch ý niệm vọng tưởng, không khởi tâm, không động niệm; Vong ngôn là dứt sạch ngôn
ngữ. Vì sao vậy? Nói không ra được. Không những nói không ra, mà quý vị nghĩ cũng
nghĩ không được. Đó chính là ngôn ngữ đạo đoạn, tâm hành xứ diệt. Đó là Nhất-thừa,
là Đốn giáo, Đốn siêu. Thứ tư là 佛性平等一乘 “Phật-tánh
bình đẳng Nhất-thừa”, đó là
Chung giáo của Đại thừa, Đại thừa đến sau cùng. 一性皆成之邊,名為一乘 “Nhất
tánh giai thành chi biên, danh vi Nhất-thừa” (Mỗi căn tánh đều trọn đến tận cùng, gọi là Nhất thừa).
Tất cả chúng sanh đều có Phật-tánh, tất cả chúng sanh vốn dĩ thành Phật, đó là
bình đẳng Nhất-thừa giáo.
Thứ năm
là 密意一乘 “Mật ý Nhất-thừa”, đó là Thỉ-giáo. 如攝論之十義 “Như Nhiếp
Luận chi thập nghĩa” (Như
mười nghĩa trong Nhiếp Đại Thừa Luận) đã nói. Mật ý này phía trước đã đề cập
qua, là Như Lai đối với chúng sanh thuộc Bất-định-tánh, cho họ một sự khích lệ.
Bởi vì Bất-định-tánh, họ tiếp cận thứ nào, thì họ học theo thứ đó, người như vậy
cũng không ít, nên Phật giảng Nhất-thừa cho họ. Tịnh Tông chúng ta chính là mật
ý Nhất-thừa tiêu chuẩn, không cần quý vị phải học rất nhiều, không cần quý vị
phải hiểu rất nhiều, chỉ cần quý vị tin, quý vị không hoài nghi, quý vị thừa nhận:
có thế giới Tây Phương Cực Lạc, có A Mi Đà Phật, vãng sanh là thành Phật, đây
là mật ý, đây là Thỉ-giáo. Không biết chữ cũng không sao, chưa từng nghe giảng
kinh cũng không sao. Nhân vật hạng nhất như ông thợ vá nồi,
nhân vật giống như Sư Tu Vô. Về Sư Tu Vô, lần trước Tổng giám đốc Dương đến từ
Cáp Nhĩ Tân, ông ta biết, chính là chùa Cực Lạc ở Cáp Nhĩ Tân, ngôi chùa đó do
Pháp sư Đàm Hư xây dựng. Việc này xảy ra cũng chưa đến 60 năm trước. Pháp sư Đế
Nhàn biết, Pháp sư Đàm Hư là người Đông Bắc, có duyên sâu với Đông Bắc, Đông Bắc
chưa có Phật giáo, ngài học xong giảng kinh dạy học, thì bảo ngài tới Đông Bắc
để hoằng pháp, là ở quê nhà, ngài đã xây dựng mười mấy ngôi chùa ở Đông Bắc, ngài
là người có công bậc nhất của Phật giáo Đông Bắc.
Chùa Cực
Lạc ở Cáp Nhĩ Tân được tạo xong, thì ngài mở giới đàn, thỉnh lão Pháp sư Đế
Nhàn làm Hòa thượng Đắc giới, đều nhận cả nam chúng nữ chúng phát tâm xuất gia,
đương nhiên ngài xây dựng nhiều đạo tràng như vậy thì cần người, hơn nữa bản
thân ngài cũng có khả năng về giáo. Mở Giới đàn, quá khứ mở Giới đàn là 53
ngày, về sau từ từ rút ngắn rồi, ở Đài Loan chúng ta là 33 ngày, càng lúc càng
đơn giản, đơn giản hóa, hiện nay chúng ta cũng không biết sao nữa. Lúc đó có
Pháp sư Tu Vô, là người rất thật thà, ngài đã xuất gia, nghe nói đang mở Giới đàn,
ngài đến xin làm công quả, là làm công quả. Trụ trì là lão Pháp sư Đàm Hư, thầy
quản chúng là Định Tây, hai vị Pháp sư này đều vãng sanh ở Hồng Kông, sau khi
người Nhật Bản đầu hàng, thì họ đến Hồng Kông, sau này không trở lại nữa. Sư Tu
Vô nói với thầy quản chúng, và thảo luận công việc với hai lão Hòa thượng. Ngài
Đàm Hư hỏi: “Thầy có thể làm gì?” Ngài nói: chăm sóc người bệnh ạ. Trong 53 ngày Giới đàn,
có ai sanh bệnh trúng gió, cảm cúm, cần người chăm sóc, đây là phần công việc rất
quan trọng, thì ngài sẽ làm, liền giao cho ngài.
Nhưng đến
được vài ngày, ngài muốn xin nghỉ, lão Pháp sư Đàm Hư rất có tu dưỡng, không
sao cả, đến cũng hoan hỷ, đi cũng hoan hỷ. Pháp sư Định Tây thì trách mắng
ngài, phê bình ngài: Thầy là người xuất gia, sao không có đạo tâm, phát tâm đến
đây để làm công quả, chưa được mấy ngày đã muốn đi, như vậy không giống người
xuất gia. Cuối cùng sư Tu Vô nói, tôi không phải đi đến nơi khác, mà tôi sắp vãng
sanh. Hai người này vừa nghe nói vãng sanh, biết trước thời gian vãng sanh, liền
hỏi ngài, khoảng bao nhiêu ngày nữa? Không quá mười ngày. Tốt, thật khó được,
đó là việc vui của đạo tràng, có người vãng sanh tại đây, chuẩn bị cho ngài,
ngài yêu cầu chuẩn bị 200 cân củi, để hỏa táng, củi này dùng hỏa táng, liền đáp
ứng. Đến ngày tiếp theo lại tới nói với hai lão Hòa thượng: Ngày mai con sẽ vãng
sanh. Nhanh chóng chuẩn bị cho ngài, đến ngày hôm sau thật sự vãng sanh rồi.
Trước khi
Sư Tu Vô chưa xuất gia, ngài là làm thợ hồ, không biết chữ, không hiểu kinh
giáo, mà biết niệm Phật, ở trong đạo tràng làm công việc nặng nhọc. Công việc mà
mọi người không muốn làm, thì ngài làm hết, vô cùng khó được một người rất thật
thà, vãng sanh rồi. Người tiễn vãng sanh, có mười mấy, 20 người tiễn ngài vãng
sanh, xem thời điểm ngài ra đi đến rồi, nói với ngài: rất nhiều người vãng sanh
đều để lại bài kệ, để lại mấy bài kệ: cho họ làm kỷ niệm, thầy cũng không thể
ngoại lệ. Ngài nói với mọi người: Tôi là Tỳ-kheo khổ não, chưa từng đi học,
không biết chữ, không có học vấn, cũng không thông kinh giáo, tôi cũng không biết
làm thơ, cũng không biết làm kệ. Sau cùng ngài nói, nhưng có mấy câu chân thật
nói với mọi người, hình như nói là: 能說不能行,不是真智慧 “Năng thuyết bất năng hành, bất thị chân trí huệ” (nói được không làm được, không phải trí
huệ thật), nói với mọi người một việc như thế, mọi người nghe xong rất hoan
hỷ. Niệm Phật không đến một phút, thì ngài vãng sanh rồi. Những người này thật
sự đều là Mật ý Nhất-thừa, vãng sanh đến thế giới Cực Lạc, đều làm A-duy-việt-trí
Bồ-tát, một đời viên thành Phật đạo, pháp môn nào khác cũng không bằng được.
Chúng ta đều phải biết, đều phải
sáng tỏ lý và sự này. Ngày nay chúng ta gặp được Pháp Chí Cao Vô Thượng này, một
đời viên mãn, đến đâu để tìm? Nếu không biết việc này, trước mặt mà bỏ qua, quý
vị nói xem thật đáng tiếc biết bao. Pháp môn này là hội quy, không phải ba thừa
năm thừa, mà là hội quy tất cả chư Phật vô lượng pháp môn cùng quy về Tịnh-độ. Hoa
Nghiêm, Pháp Hoa dẫn đầu, tiếp theo sau là mười phương ba đời tất cả chư Phật
Như Lai, còn có pháp nào vượt hơn pháp này không? Không có. Nếu chúng ta không
biết việc này, thì quý vị đối với Tịnh Tông là không thể quyết trọn một lòng,
không thể sanh khởi tín tâm kiên định, phải thật sự buông xuống. Sáng tỏ rồi,
làm rõ ràng rồi, đối với chính mình đó là vạn phần may mắn, đời này của chúng
ta có thể gặp được pháp môn này; nếu không gặp được, thì khẳng định vẫn là tiếp
tục làm lục đạo luân hồi. Người không học Phật thì không biết, người học Phật
nghiêm túc phản tỉnh: nếu không có cách nào ra khỏi lục đạo, dù biết rõ ràng đến
đâu, thì cũng không thể tránh được, chính là không đi được. Bây giờ mới biết, chỉ
pháp này có thể vượt qua, vả lại đơn giản dễ dàng, ai ai cũng có phần, chỉ cần
quý vị có thể tin, có thể nguyện, thì quý vị
có thể vượt qua.
Đoạn cuối cùng, 《法相辭典》,《顯揚論》裡頭第二十卷所說的,有一個問答, 問:何故如來宣說一乘?答:由六因故 “Pháp Tướng Từ Điển, Hiển Dương Luận lý đầu đệ
nhị thập quyển sở thuyết đích, hữu nhất cá vấn đáp, “Vấn: Hà cố Như Lai tuyên
thuyết Nhất-thừa? Đáp: Do lục nhân cố” (trong Pháp Tướng Từ Điển, Hiển Dương Luận quyển 20 đã nói, có một đối
thoại, hỏi: Vì sao Như Lai nói Nhất-thừa? Đáp: Vì 6 nhân duyên), có 6 nhân
duyên. 一、即彼諸法,約無差別相說 “Nhất, tức bỉ
chư pháp, ước vô khác biệt tướng thuyết” (Thứ nhất, chính là các pháp ấy, đại khái tướng không khác biệt mà
nói). Vì sao nói Nhất-thừa? Tất cả pháp không có tướng khác biệt. Làm sao
không có tướng khác biệt? Vạn pháp giai không, vậy thì không có tướng khác biệt,
giai không chính là Nhất-thừa. 二、約無分別行相說故 “Nhị, ước vô
phân biệt hành tướng thuyết cố” (Thứ hai, đại khái vì không phân biệt hành tướng mà nói). Hành tướng
rất nhiều: trời, người, Thanh-văn, Duyên-giác, Bồ-tát. Bồ-tát có tám vạn bốn ngàn
tế hạnh, A-la-hán có 3000 oai nghi. Hiện nay chúng ta đề xướng là ít đến không
thể ít hơn nữa, Sa-di 10 giới và 24 môn oai nghi, đó đều là hành tướng. Hành tướng
nhiều hơn cũng không thể được, việc đó không thể được, chính là Nhất-thừa. Hành
tướng là Huyễn-hữu, là Diệu-hữu. Trên Kinh Bát Nhã nói cho chúng ta biết, 一切法 “nhất thiết
pháp” (tất cả pháp), bất kể
là thể, bất kể là tướng, bất kể là hành, 無所有,畢竟空,不可得 “vô sở hữu,
tất cánh không, bất khả đắc” (không sở hữu, rốt ráo không, không thể được), đó là không phân
biệt. Xa lìa vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, tất cả hành tướng đều không thể
đạt được. Đó là tánh Không tướng Có, tất cả các pháp phía trước là nói tánh
Không, câu này là giảng Diệu-hữu, Diệu-hữu chẳng phải có, Chân-không chẳng phải
không.
三、眾生無我及法無我 “Tam, chúng sanh vô ngã cập pháp vô ngã” (Thứ ba, chúng sanh vô ngã và pháp vô ngã),
là Bách Pháp đã nói. Bách Pháp nói điều gì? Là giải thích một câu nói: 一切法無我 “Nhất thiết
pháp vô ngã” (Tất cả
pháp vô ngã). Tất cả pháp quy nạp thành 100 pháp, tất cả pháp đó: vô ngã,
nhân vô ngã, pháp vô ngã. Bách Pháp là nói những việc như thế, nhân pháp đều vô
ngã. Vạn pháp cũng như vậy, vạn pháp không hai, đây là bình đẳng. Cho nên phải
nói Nhất-thừa, Nhất-thừa là thật. 四、解脫平等故。謂差別求者,有事虛妄分別煩惱對治所緣法性,不相違故 “Tứ, giải thoát
bình đẳng cố. Vị sai biệt
cầu giả, hữu sự hư vọng phân biệt, phiền não đối trị sở duyên pháp tánh, bất
tương vi cố” (Thứ tư,
vì giải thoát bình đẳng. Để cho kẻ tìm kiếm sự khác biệt, có sự phiền não hư vọng
phân biệt đối trị được với duyên pháp tánh, nên không trái nhau). Điều
này là nói giải thoát bình đẳng. Thế nào là giải thoát? Là buông xuống, buông
xuống liền bình đẳng, không buông xuống thì không bình đẳng. Cho nên, không
bình đẳng là giả, bình đẳng là thật, sau khi buông xuống, bình đẳng là vĩnh viễn.
Chấp trước phân biệt, bất bình đẳng đó là giả. Có chấp trước là không bình đẳng,
không chấp trước là bình đẳng rồi. Vì vậy, vĩnh viễn là thật, tạm thời có là giả,
đó không phải thật. Nên pháp tánh của tất cả pháp là một chứ không phải hai. Pháp
tánh là lý thể, Pháp tánh là Chân-như. Đại sư Huệ Năng minh tâm kiến tánh, đã
nói khái lược cho chúng ta Pháp tánh là thanh tịnh, không có ô nhiễm. Không có ô
nhiễm chính là không có chấp trước; Pháp tánh là không sanh không diệt, không
phải là hiện tượng dao động sóng. Đó là thật, là vĩnh hằng. Pháp tướng là hiện
tượng dao động sóng, pháp biến thành tướng rồi, Lục Tổ nói, có thể sanh vạn pháp.
Có thể sanh vạn pháp, A-lại-da khởi lên, nghiệp-tướng của A-lại-da sanh chuyển-tướng,
chuyển-tướng sanh cảnh-giới-tướng, cảnh-giới-tướng sanh vạn pháp. “Vô minh bất
giác sanh tam tế, cảnh giới là duyên trưởng lục thô”. Trưởng lục thô chính là có
thể sanh vạn pháp mà Đại sư Huệ Năng đã nói. Đối tượng có thể sanh, và được sanh
đều không phải thật, chỉ có Pháp tánh là thật thôi, nên phải nói Nhất-thừa.
五、善能變化住 “Ngũ, thiện năng biến hóa trụ” (Thứ năm, khéo có thể biến đổi trụ). Trong đây dù là pháp thiện, pháp ác, pháp vô ký, đều có thể biến đổi, đều
có thể trụ. Chữ “trụ” này là tạm trụ, chứ không trụ mãi. Giống như chúng ta được
thân người, ở thế gian này mấy mươi năm, mấy mươi năm này gọi là trụ, sanh trụ
dị diệt. Người, là sanh lão bệnh tử, trong trụ có lão bệnh. Khi tử, thì trụ này
không còn nữa. Tất cả pháp đều có một thời gian trụ lại. Biến đổi khó lường. Sự
biến đổi này chính là: loại thứ hai trong ba loại châu biến mà trong Hoàn
Nguyên Quán đã nói, loại thứ hai chính là biến đổi khó lường. Thứ nhất là nói
châu biến pháp giới, năng lượng quá lớn, hơi hơi khẽ động liền châu biến pháp
giới, thời gian không gian không còn nữa. Loại thứ hai khéo biến đổi trụ, đây gọi
là xuất sanh vô tận. Chúng ta dùng ống vạn hoa làm ví dụ thì có thể thấy được,
lãnh hội được ý nghĩa này. 六、行究竟故 “Lục, hành cứu
cánh cố” (Thứ sáu, vì hành cứu cánh), cứu cánh là
viên mãn. Hành tức là động, chúng ta thường nối liền với nhau là: hành động. Đến
Nhất-thừa mới gọi là cứu cánh, chưa đến Nhất-thừa thì họ vẫn còn làm, đến Nhất-thừa,
là làm viên mãn rồi. Họ đạt được mục tiêu cuối cùng. Cứu cánh này chính là minh
tâm kiến tánh, chính là địa vị Diệu-giác mà Kinh Hoa Nghiêm đã nói, đó là Nhất-thừa.
Bởi vì 6 nguyên nhân này, nên Phật nhất định phải nói Nhất-thừa, phải nói ra
chân tướng sự thật, mới có thể đạt được rốt ráo viên mãn.
Nhất-thừa Liễu Nghĩa, thế nào là Liễu
Nghĩa? Trong Tam Tạng Pháp Số giải thích: 謂諸大乘經宣說勝義 “Vị chư Đại
thừa Kinh tuyên thuyết thắng nghĩa” (là các Kinh Đại thừa tuyên thuyết thắng nghĩa), thắng có nghĩa
là thắng diệu, thắng là thù thắng, vi diệu. 如煩惱即菩提,生死即涅槃之類,皆究竟顯了,名為了義 “Như phiền
não tức Bồ-đề, sanh tử tức Niết Bàn chi loại, giai cứu cánh hiển liễu, danh vi Liễu
Nghĩa” (Như những điều: phiền não chính
là Bồ-đề, sanh tử chính là Niết Bàn, thì đều rốt ráo sáng tỏ, gọi là Liễu Nghĩa).
Nói lời này rồi, thì người nghe không hiểu. Làm sao phiền não chính là Bồ-đề chứ?
Bồ-đề là gì? Là trí huệ. Khi mê là phiền não. Khi ngộ là Bồ-đề, mê ngộ là một
không phải hai. Hơn nữa, mê ngộ không phải thật, mê ngộ là giả. Nói thật điều
này với quý vị, nói lời thật thì ngược lại không hiểu, nói phiền não và Bồ-đề,
thì hiểu, nói phiền não chính là Bồ-đề, thì không hiểu, nói sanh tử tức là Niết
Bàn cũng không hiểu. Hiểu sanh tử, Niết Bàn là không sanh không diệt. Sanh diệt
chính là không sanh không diệt, điều này thật khó hiểu, chúng tôi học Phật đã học
mấy chục năm, cũng chưa làm rõ ràng điều này, trước sau có một vấn đề. Tức là nói, cầm được Chú Giải của Cổ nhân để
giảng, chúng tôi tin Cổ nhân là nói rõ ràng, là nói sáng tỏ rồi, nhưng chúng tôi
chưa lãnh hội được. Bởi vì sanh tử và Niết Bàn càng khó hiểu hơn phiền não và Bồ-đề
phía trước. Vì sao vậy? Chúng ta chấp trước đối với sanh tử Niết Bàn, chấp trước
còn sâu hơn phiền não và Bồ-đề phía trước. Người ở thế gian này tham sống sợ chết,
nếu hiểu được sanh tử chính là Niết Bàn, thì việc này không quan trọng nữa, không
còn chút sợ hãi nào đối với sanh tử, cũng sẽ không khởi tâm động niệm đối với
sanh tử. Chẳng những không còn phân biệt chấp trước, mà khởi tâm động niệm cũng
không còn nữa, đó chính là Niết Bàn.
Hiện nay
chúng ta học Phật, phải cảm ơn nhà khoa học, nhà khoa học đã vạch trần chân tướng
sự thật này, giúp chúng ta sáng tỏ rồi. Đó chính là điều Bồ-tát Di Lặc đã nói, với
ý niệm: không nên xem thường. Ở trên kinh, Phật thường nói: 一切法從心想生 “Nhất thiết
pháp tùng tâm tưởng sanh” (Tất
cả pháp từ tâm tưởng sanh), tâm tưởng chính là ý niệm, một giây có 1 triệu 600 ngàn tỷ ý niệm. 1/ 1 triệu 600 ngàn tỷ, quý
vị có thể nắm bắt được không? Vậy một ý niệm chính là một lần sanh diệt. Sanh
diệt không thể đạt được, đó chính là Niết Bàn. Một lần sanh diệt này chính là một
lần sanh tử, sanh tử của trong một niệm, sanh diệt của tất cả vạn pháp trong một
vũ trụ. Bởi vì tất cả pháp đều là do một niệm đó sanh ra, nhất định quý vị phải
biết điều này. Giống như chúng ta xem những đoạn phim trình chiếu như thật, màn
ảnh vừa mở ra, hiện nhanh một lúc, trên màn hành tất cả đều xuất hiện, y-báo
chánh-báo thấy được hết rồi. Thời gian là bao lâu? 1 phần
1 triệu 600 ngàn tỷ của giây. Sanh diệt không thể đạt được, một giây đã có 1 triệu 600 ngàn tỷ lần
sanh diệt, còn 10 giây có 16 triệu tỷ lần sanh diệt, là trong mười giây. Thời
gian mười giây rất dài, có 16 triệu ngàn tỷ lần sanh diệt. Không thể nắm giữ, loại tốc độ này ở trước mặt
chúng ta, thì chúng ta không thấy được; Âm thanh này ở trước mặt chúng ta, thì không
nghe được, sáu căn của chúng ta ở trước những hình tướng này cũng không khởi
tác dụng. Quý vị tỉ mỉ để suy nghĩ, quan sát điều này, thì quý vị mới hiểu được
sanh tử chính là Niết Bàn, rốt ráo Liễu Nghĩa.
Thời gian hôm nay đã hết, chúng ta học
tập đến đây thôi.
(Hết
tập 2)
Nguyện
đem công đức này
Hướng
về khắp tất cả
Đệ tử
cùng chúng sanh
Đều sanh
nước Cực Lạc
Sớm
viên thành Phật quả
Rộng
độ khắp chúng sanh
Nam
Mô A Mi Đà Phật