PHẬT THUYẾT ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ,
TRANG NGHIÊM,
THANH TỊNH, BÌNH ĐẲNG, GIÁC KINH.
Tập 11
Chủ giảng: Cô Lưu Tố Vân
Giảng ngày 19/3/2018
Chuyển ngữ: Ban biên dịch Hoa Tạng
Huyền Môn
Chủ giảo chánh: Thích Thiện Trang
Chư
vị đồng tu tôn kính, xin chào mọi người! A Di Đà Phật.
Sáng
hôm nay chúng tôi thức dậy đi kinh hành, có một cảm giác vô cùng kỳ diệu, muốn chia sẻ
với mọi người, cảm giác kỳ diệu gì vậy? Bởi vì sáng hôm nay trong lòng cảm thấy
vô cùng hoan hỉ, bản thân tôi cảm thấy không biết là chuyện gì? Về sau cảm giác
này chính là, giống như ngày hôm nay tôi sẽ đến thế giới Tây Phương Cực Lạc tham
gia đại Pháp hội: thuyết Kinh Vô Lượng Thọ của Thích Ca Mâu Ni Phật vậy, tôi
còn là một trong số 12 ngàn thánh chúng dự hội. Cho nên cảm giác này, thật vô
cùng tuyệt vời, vô cùng kỳ diệu. Tâm sanh hoan hỉ, nguyên nhân là như thế. Bây
giờ tôi muốn chia sẻ với mọi người, không biết mọi người có thêm ý nghĩ nào
không, có thể cũng cảm thấy hết sức kỳ diệu, có thêm ý nghĩ nào không? Quý vị
nghĩ thêm rằng: hôm nay chúng ta sẽ theo cô giáo Lưu: đến Thế giới Tây Phương
Cực Lạc, tham gia đại Pháp hội của Thích Ca Mâu Ni Phật, tuyên giảng Kinh Vô
Lượng Thọ, tôi cũng là một trong số 12 ngàn thánh chúng dự hội. Tôi nghĩ tâm
tình của quý vị nhất định cũng sẽ rất tốt đẹp, mọi người nghĩ thử đi. Sau đó
tôi nghĩ, vì sao hôm nay tâm tình lại tốt đẹp như vậy? Có lẽ liên quan đến nội
dung hôm nay tôi giảng. Hôm nay tôi sẽ giảng cho chư vị đồng tu là: phẩm thứ 3
“Đại Giáo Duyên Khởi”. Tôi nghĩ tới nghĩ lui, có lẽ có liên quan đến nội dung
của phẩm này. Sau đây chúng tôi sẽ bắt đầu giảng phẩm kinh văn này.
Phẩm kinh văn này chủ yếu nói với
chúng ta điều gì? Nói rõ sự hy hữu của Kinh Vô Lượng Thọ. Đây là một nội dung. Nội
dung thứ hai là nói Thế Tôn phóng quang hiện tướng lành. Nội dung thứ ba là
ngài A Nan hoan hỉ thưa hỏi. Bởi vì ngài A Nan hoan hỉ thưa hỏi, nên mới phát
khởi nhân duyên Thích Ca Mâu Ni Phật: tuyên thuyết bộ đại Kinh này cho chúng
sanh. Nội dung của phẩm kinh này là như thế. Tiếp theo chúng tôi nói về đề mục
của phẩm kinh này: “Đại Giáo Duyên Khởi đệ tam”. Thế nào là “đại giáo”? “Đại
giáo” là chỉ cho bộ pháp bảo hiếm có: rộng lớn viên mãn phương tiện thẳng tắt
rốt ráo này, cũng chính là chỉ bộ Kinh Vô Lượng Thọ đây. “Duyên khởi” có nghĩa
là gì? Chính là nguyên nhân và nhân duyên phát khởi. Nói cách khác, Thế Tôn vì
nhân duyên gì mà: tuyên giảng bộ đại Kinh này? Nghĩa là như vậy.
Trong phẩm Kinh này, chúng ta nhìn
thấy Thích Ca Mâu Ni Phật phóng quang hiện tướng lành. Việc phóng quang hiện
tướng lành này, Tôn giả A Nan nhìn thấy tướng lành của Thế Tôn, đã sanh khởi:
sanh tâm hy hữu. Vì sao ngài A Nan có thể sanh tâm hy hữu? Bởi vì Thế Tôn hiện
tướng tốt lành như ngày hôm nay, thì Tôn giả A Nan trước đây chưa từng thấy, cho
nên ngài đã bước ra khải thỉnh, thưa hỏi Thế Tôn nguyên nhân gì, hôm nay Ngài
hiện tướng lành và phóng quang như thế? Thế Tôn trả lời lời hỏi của ngài A Nan.
Do nhân duyên đó, mà vì chúng ta tuyên thuyết bộ pháp bảo: rộng lớn viên mãn
phương tiện thẳng tắt cứu cánh, hiếm có đệ nhất khó gặp này. Chính là nhân
duyên đó. Nhân duyên gì vậy? Do ngài A Nan khải thỉnh. Cho nên nói đến đây, mọi
người chúng ta, phải chăng cần phải cảm ơn sâu sắc đối với Tôn giả A Nan. Nếu
không có Tôn giả A Nan khải thỉnh, thì ngày nay chúng ta không thể gặp được: bộ
Kinh Vô Lượng Thọ này.
Lão Pháp sư Tịnh Không dạy cho chúng
ta, ngài nói như thế này, nếu dùng tiêu chuẩn “phương tiện rốt ráo” này, để xem
tất cả kinh mà đức Thích Ca Mâu Ni Phật: đã thuyết trong 49 năm, thì chỉ có bộ
Kinh Vô Lượng Thọ: phù hợp với tiêu chuẩn này. Tiêu chuẩn nào vậy? Chính là bốn
chữ “phương tiện rốt ráo”. Dùng tiêu chuẩn của bốn chữ này để đo lường, thì chỉ
có bộ Kinh Vô Lượng Thọ: phù hợp với tiêu chuẩn này. Ngoài bộ này ra những kinh
điển khác: rốt ráo nhưng không phương tiện, phương tiện nhưng không rốt ráo.
Mọi người có thể hỏi thế nào là phương
tiện? Phương tiện là dễ hiểu dễ tu, đó là phương tiện. Thế nào gọi là rốt ráo? Rốt
ráo là có thể thành Phật, không thể thành Phật thì không phải rốt ráo. Như kinh
điển Nhất-thừa rốt ráo, mọi người chúng ta đều quen thuộc, một bộ là Kinh Hoa
Nghiêm, một bộ là Kinh Pháp Hoa. Hai bộ kinh này đều giảng về con đường để
thành Phật. Có thể nói hai bộ kinh ấy là kinh điển rốt ráo. Trong hai điều kiện
phương tiện và rốt ráo, phù hợp với một điều kiện chính là rốt ráo. Kinh điển
phương tiện nhưng không rốt ráo, kinh điển rốt ráo lại không phương tiện. Lão
Pháp sư nêu ví dụ cho chúng ta: về Kinh Hoa Nghiêm và Pháp Hoa, nói rằng hai bộ
Kinh ấy, tuy là kinh giảng về con đường để thành Phật, là kinh điển Nhất-thừa, thuộc
về kinh điển rốt ráo, nhưng không phương tiện. Không phương tiện ở chỗ nào? Chính
là đạo lý mà hai bộ Kinh ấy giảng không dễ hiểu, phương pháp được giảng chúng
ta không làm được. Đó chính là không phương tiện. Cho nên kinh điển vừa phương
tiện vừa rốt ráo, tra khắp trong Đại tạng kinh, chỉ có bộ Kinh Vô Lượng Thọ
này. Vì thế chúng ta nói thật là hiếm có khó gặp. Chính là thuộc về kinh điển
vừa phương tiện vừa rốt ráo. Trong Tam tạng 12 bộ, chỉ có bộ Kinh Vô Lượng Thọ phù
hợp với tiêu chuẩn này. Chúng ta hôm nay thọ trì bộ Kinh điển này, phải chăng
chúng ta là người: đại phước báo, đại trí huệ.
Tiếp theo chúng ta xem đoạn kinh văn
thứ nhất:
爾 時 世尊 威光赫奕,如融金聚,又如明鏡,影暢表裏,現大光明數千百變。“Nhĩ thời Thế
Tôn, uy quang hách diệc, như dung kim tụ. Hựu như minh kính, ảnh sướng biểu lý.
Hiện đại quang minh, số thiên bá biến” (Bấy giờ đức
Thế Tôn uy thần quang minh sáng rỡ mạnh mẽ, như ánh sáng của vàng nung chảy,
cũng như gương sáng, trong ngoài đều tỏ. Hiện ánh sáng lớn, trăm ngàn sắc tướng
xinh đẹp).
Mời xem mở đầu
phần kinh văn, hai từ “Nhĩ thời”. “Nhĩ thời” là chỉ cho thời gian. Thời gian
nào vậy? Chính là thời gian mà đại chúng tụ hội tại Núi Linh Thứu. Chính là lúc
Thích Ca Mâu Ni Phật giảng bộ Kinh này. “Thế Tôn” ở đây rất rõ ràng, là chỉ cho
Thích Ca Mâu Ni Phật. “Thế Tôn” là cách xưng hô tôn trọng đối với Thích Ca Mâu
Ni Phật.
Lại xem “uy
quang”, “uy quang” nghĩa là gì? Nghĩa là quang minh uy thần. Bởi vì quang minh
trí huệ của Phật có thể phá tất cả phiền-não tối tăm, cho nên gọi quang minh
của đức Phật là “uy quang”.
Tiếp theo là
“hách diệc”. “Hách” là sáng rỡ, “diệc” là mạnh mẽ, quang minh của Phật sáng rỡ
mạnh mẽ, đầy đủ sức uy thần hùng mãnh.
Cụm từ tiếp
theo “như dung kim tụ”. “Dung kim” ở đây nghĩa là gì? Là vàng được nung chảy, vàng
được nung chảy, màu sắc có thể còn đẹp hơn vàng chưa được nung, “Dung kim” chính là vàng được nung chảy.
“Tụ” nghĩa là
quang sắc cô đọng.
Tiếp theo “minh
kính”, là tấm gương sáng.
“Ảnh sướng” là
quang ảnh trong suốt. “Biểu lý” chính là bên ngoài và bên trong. Ở đây dùng
gương sáng, để tỉ dụ cho thân và tâm của Phật trong ngoài đều sáng rõ.
Những từ ngữ có liên quan ở trên, xin
giải thích đơn giản cho quý vị đến đây. Chúng ta tiếp tục xem phần sau. Đoạn
Kinh văn này nói về Thế Tôn phóng quang hiện tướng lành, ánh sáng, dung nhan,
tinh thần của Phật vượt hơn bình thường. Đây có thể nói, hôm nay là ngày hạnh
phúc nhất trong đời: của Thích Ca Mâu Ni Phật. Mọi người nghe hai câu sau rồi
có cảm nhận gì? Trước đây chưa từng có, sau này cũng không có. Việc Thích Ca
Mâu Ni Phật: hiện tướng lành và phóng quang như vậy. Trước đây không có, sau
này cũng chẳng có. Đây là lần duy nhất. Mọi người có thể tưởng tượng được
không, khi giảng bộ Kinh Vô Lượng Thọ này, quang minh, dung nhan tinh thần của
Phật không giống như trước đây, là nguyên nhân gì?
Vì sao hôm nay Phật hoan hỉ nhất? Bởi
vì Ngài sắp vì đại chúng: tuyên giảng bộ Kinh Vô Lượng Thọ. Vì sao tuyên giảng
bộ Kinh này lại hoan hỉ như thế? Bởi vì bộ Kinh này chân thật thỏa mãn được bổn
hoài của Phật. Câu này: chính là nguyên nhân vì sao đây là ngày hạnh phúc nhất
của Phật, bộ Kinh này chân thật thỏa mãn được bổn hoài của Phật. Nếu nói đơn
giản hơn một chút, thì Thích Ca Mâu Ni Phật: đến thế giới Ta Bà này để làm gì? Nhiệm
vụ và sứ mạng của Ngài là gì? Hiện nay đọc bộ Kinh này chúng ta đã hiểu được, Thích
Ca Mâu Ni Phật đến thế giới Ta Bà này, là để tuyên giảng bộ Kinh Vô Lượng Thọ, đem
Pháp môn niệm Phật: nói với tất cả chúng sanh, khiến chúng sanh hiểu rõ, sau đó
thành Phật. Đây chính là sứ mạng của: Thích Ca Mâu Ni Phật đến thế giới Ta Bà
này. Quý vị nghĩ xem sứ mạng của Ngài, là tuyên giảng bộ Kinh Vô Lượng Thọ. Hôm
nay cơ duyên đã chín muồi, Phật có thể tuyên giảng bộ Kinh này. Quý vị nghĩ lẽ
nào Phật lại không vui chứ? Đây là nguyên nhân niềm vui của Ngài. Đại pháp rốt
ráo viên mãn này, được chất chứa trong lòng từ lâu lắm rồi. Trước đây bởi vì cơ
duyên chưa chín muồi, Phật chưa thể tuyên giảng. Hôm nay cuối cùng có thể tuyên
giảng trong niềm hân hoan, nên đây là ngày vui nhất trong đời của Phật.
Từ đây chúng ta có thể biết, không chỉ
có Thích Ca Mâu Ni Phật: dùng Pháp môn niệm Phật giáo hóa chúng sanh, mà tất cả
chư Phật độ chúng sanh, đều dùng Pháp môn niệm Phật: để độ hóa chúng sanh. Chính
là Pháp môn niệm Phật cầu sanh Tịnh-độ, là Pháp môn mà Thích Ca Mâu Ni Phật và
tất cả chư Phật: dùng để giáo hóa chúng sanh. Đây có thể nói như vậy. Đây chính
là chánh thuyết duy nhất của Phật xuất hiện ở thế gian. Thế nào là chánh thuyết
duy nhất? Đó là Kinh Vô Lượng Thọ và câu Phật hiệu A Di Đà Phật. Câu nói này
đặc biệt quan trọng, chính là chánh thuyết duy nhất của Phật xuất hiện tại thế
gian. Từ “chánh thuyết”, phía trước được bổ nghĩa bởi từ “duy nhất”. Ngoài
chánh thuyết này ra, còn có chánh thuyết nào khác nữa không? Không có. Cho nên
dùng từ “duy nhất” để hình dung.
Bởi vì cơ duyên chưa chín muồi, nên
Phật không thể trực tiếp nói ra Pháp môn này. Vậy phải làm sao? Phật bèn nói
những Pháp môn khác, nên mới giảng kinh thuyết pháp 49 năm. Tất cả pháp được
nói trong 49 năm đó, nên nói như thế nào? Đều là việc nói xa nói gần, không
phải chánh thuyết. Nói xa nói gần có tác dụng gì? Khởi tác dụng dẫn dắt. Chính
là ví dụ về cây cầu chính và cây cầu dẫn, mà tôi đã nhiều lần nêu với mọi
người. Việc nói xa nói gần này chính là những cây cầu dẫn. Dùng những cây cầu
dẫn này: dẫn dắt chúng sanh sau cùng đến với cây cầu chính. Cây cầu chính đó là
Kinh Vô Lượng Thọ. Ví dụ rất nhiều vị Đại đức thời triều Đường, những Đại đức ấy
đều cho rằng, Kinh Hoa Nghiêm và Kinh Pháp Hoa: là dẫn lối về Kinh Vô Lượng
Thọ. Quý vị nghĩ xem Kinh Hoa Nghiêm và Kinh Pháp Hoa, là hai bộ Kinh lớn, mà
mọi người đều vô cùng quen thuộc, hết sức công nhận hai bộ đại kinh đó: là kinh
điển Nhất-thừa. Hai bộ kinh ấy đều dẫn dắt về Kinh Vô Lượng Thọ, thì những bộ kinh
khác còn gì để nói nữa?
Cho nên chúng ta nói một cách khác, Pháp
môn này, là môn học chính để đức Phật giáo hóa chúng sanh. Môn học chính là môn
học bắt buộc. Môn học chính và môn học bắt buộc khi đức Phật giáo hóa chúng
sanh, chỉ có một môn này, không có môn khác. Điều này vô cùng quan trọng. Nội
dung của buổi học này vô cùng quan trọng. Hy vọng quý đồng tu, có thể nghiêm
túc lắng nghe, nghiêm túc tư duy.
Tất cả những kinh luận còn lại là gì? Là
môn học tự chọn. Mọi người nghĩ xem môn học chính – môn học bắt buộc và môn học
tự chọn: có khác biệt rất lớn. Đối với môn học tự chọn có thái độ như thế nào? Nếu
môn học chính của quý vị, môn học bắt buộc của quý vị, quý vị nắm vững được
rồi, đối với môn học tự chọn quý vị có tu hay không cũng chẳng quan trọng.
Chúng ta hôm nay có thể học môn này, thầy
của chúng ta là Thích Ca Mâu Ni Phật, vô cùng hạnh phúc, hết sức vui mừng. Thế
nên ánh sáng phong cách tinh thần của Ngài, có khác biệt lớn so với ngày
thường. Lần này chúng ta nghe hiểu rồi, vì sao hôm nay Phật phóng ra ánh sáng
như thế, hiện tướng lành như thế. Bởi vì Ngài nhìn thấy các học trò của Ngài, và
chúng sanh bắt đầu được nghe môn học này, nên Phật hạnh phúc.
Tiếp theo chúng ta xem câu: “Như dung
kim tụ, hựu như minh kính”. Hai câu này là hình dung: hoàng kim rất đẹp, người
người đều thích. Vàng ở nhiệt độ cao sẽ bị nung chảy thành chất lỏng. Ánh sáng
của nó so với thể rắn còn đẹp hơn. Bình thường chúng ta thấy thân kim sắc của
Phật, hôm nay thấy tướng mạo của Phật, giống như ánh sáng của vàng được nung
chảy. Quý vị nói có đẹp không? Vàng đẹp như thế, sau khi nung chảy lại càng đẹp
hơn.
“Hựu như minh kính”, hình dung thân
tâm của Phật thanh tịnh không gì sánh bằng, chẳng nhiễm mảy trần.
Tiếp theo xem “ảnh sướng biểu lý” có
nghĩa là gì? Bốn chữ này nói với chúng ta: thân tâm khiết tịnh, trong ngoài
trong suốt. Có đồng tu nói rằng có người tu hành rất tốt, nói họ dường như có
thân hình trong suốt vậy, chính là “ảnh sướng biểu lý”, trong ngoài nhất như. Đây
chính là ý nghĩa của “ảnh sướng biểu lý”. Tôi nói lại lần nữa “ảnh sướng biểu
lý”, là thân tâm khiết tịnh, trong ngoài trong suốt, giống như một cơ thể trong
suốt, trong ngoài nhất như.
Hai câu kinh văn tiếp theo: “Hiện đại
quang minh, số thiên bá biến”. Hai câu kinh văn này là chỉ Phật phóng quang, màu
sắc ánh sáng thiên biến vạn hóa không gì đẹp hơn.
Phần từ ngữ giải thích đến đây là xong
rồi. Đoạn kinh văn này nói với chúng ta điều gì vậy? Chính là nói khi đại chúng
tụ hội tại núi Linh Thứu, Thích Ca Mâu Ni Phật thần thái rạng rỡ, toàn thân
phóng đại quang minh. Xin ghi nhớ, không phải toàn thân phóng quang minh, mà
toàn thân phóng đại quang minh, giống như ánh sáng của vàng được nung chảy. Lại
giống như gương sáng thấu suốt trong ngoài. Ở đây dùng gương sáng, tỉ dụ cho
thân tâm của Phật. “Hiện đại quang minh, số thiên bá biến”, quang sắc biến hóa
vô cùng đẹp, không gì sánh bằng. Những câu kinh văn ở trước, nội dung chính là
nói về điều này.
Chúng ta lại xem đoạn Kinh văn kế
tiếp:
尊者阿難即自思惟,今日世尊色身諸根悅豫清淨,光顏巍巍,寶剎莊嚴,從昔以來所未曾見。喜得瞻仰,生希有心。即從座起,偏袒右肩,長跪合掌“Tôn giả A Nan, tức tự tư duy: Kim nhật Thế Tôn sắc thân chư căn, duyệt
dự thanh tịnh, quang nhan nguy nguy. Bảo sát trang
nghiêm, tùng tích dĩ lai, sở vị tằng kiến. Hỷ đắc chiêm ngưỡng, sanh hy hữu
tâm. Tức tùng tòa khởi, thiên đản hữu kiên, trường quỵ hiệp chưởng” (Tôn giả A
Nan liền tự suy nghĩ, ngày nay sắc thân các căn của đức Thế Tôn vui vẻ nghiêm
tịnh, rạng rỡ nguy nguy, cõi nước trang nghiêm, từ trước đến nay ta chưa từng
thấy, hoan hỷ kính ngưỡng, sanh tâm hy hữu, liền từ chỗ ngồi đứng dậy trịch áo
vai hữu, quỳ gối chắp tay).
Trước tiên vẫn
là giải thích những danh từ liên quan.
“Sắc thân”, đây
là chỉ cho thân thể. “Chư căn” là chỉ mắt tai mũi lưỡi thân ý, chỉ sáu căn này.
“Duyệt dự thanh
tịnh”: là hỷ duyệt, vui mừng mà không phân-biệt chấp-trước.
“Quang nhan”,
“nhan” là dung nhan. Dung nhan của Phật có quang minh, nên gọi là quang nhan.
“Nguy nguy” là
cao lớn tôn quý thù thắng.
“Bảo sát trang
nghiêm”, trong ánh sáng của Phật xuất hiện mười phương cõi nước chư Phật, đầy
đủ các báu trang nghiêm, nên gọi là cõi nước trang nghiêm.
“Tùng tích”
nghĩa là từ trước đến nay.
“Chiêm ngưỡng”
là nhìn một cách kính ngưỡng.
“Sanh hy hữu
tâm”: là sanh khởi ý nghĩ hiếm có khó gặp. “Thiên đản hữu kiên”, “đản” là phơi
bày, là phơi bày vai phải. Đây là một loại lễ tiết của Ấn Độ xưa, biểu thị sự
hành lễ cung kính nhất.
“Trường quỵ” là
hai gối quỳ xuống đất, biểu thị cung kính.
“Hiệp chưởng”
còn gọi là “hiệp thập”, mười ngón tay trái phải hợp lại làm một, đại biểu nhất
tâm.
“A Nan” là Thị
giả của Thích Ca Mâu Ni Phật, ngài không xa rời Phật. Mỗi lần Phật giảng kinh,
ngài A Nan đều tham gia, trước giờ chưa sót một buổi. Mỗi lần giảng kinh, nghi dung của Phật, ngài
A Nan đều đích thân nhìn thấy. Duy chỉ có tướng lành Phật hiện hôm nay khác với
ngày thường, ngài trước nay chưa từng nhìn thấy. Nên Tôn giả A Nan liền tự tư
duy. Nhìn thấy tướng tốt của Phật hôm nay, ngài A Nan bèn nghĩ, hôm nay sắc
thân và chư căn: của Thích Ca Mâu Ni Phật hoan hỷ thanh tịnh, Phật hiện tướng
đặc biệt hoan hỉ, vô cùng vui mừng. “Duyệt dự” là niềm hoan hỉ không phải do
kích thích ở bên ngoài, mà hoàn toàn từ nội tâm phát ra.
Thế Tôn vì sao lại hoan hỷ? Bởi vì
Ngài thấy cơ duyên thành Phật: của nhiều chúng sanh như vậy đã đến rồi, căn
tánh chúng sanh đã chín muồi, có thể tiếp nhận Pháp môn niệm Phật, nên niềm
hoan hỷ của Phật từ trong tâm phát ra. Nhân duyên tụ hội hy hữu khó gặp, nên
tinh thần của Phật tăng lên gấp trăm lần, hết sức hoan hỷ vui mừng. Bởi vì lần
nhân duyên tụ hội này, cơ duyên thành Phật của chúng sanh đã chín muồi rồi, có
thể tiếp nhận được Pháp môn này, nên Phật mới vui mừng và hoan hỷ như thế.
Hai câu Kinh văn kế tiếp: “Quang nhan
nguy nguy, bảo sát trang nghiêm”. Là nói rõ Phật “hiện quang minh lớn, trăm
ngàn biến hóa”, ánh sáng Phật hiện ra mười phương cõi nước chư Phật trang
nghiêm. Việc này trước đây chưa từng có. Chính là trong ánh sáng của Phật: có
thể hiển bày sự trang nghiêm của các cõi Phật trong mười phương. Cảnh giới như
thế, ngài A Nan trước giờ chưa nhìn thấy, đây là lần đầu tiên.
Nhân duyên tụ hội là một trong những
nguyên nhân khiến Phật hoan hỉ. Ngoài điều này ra, còn một nguyên nhân khác là
gì vậy? Bởi vì hôm nay Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật: trong lúc nhớ Phật niệm
Phật. Nhớ vị Phật nào niệm vị Phật nào vậy? Đương nhiên là A Di Đà Phật. Ngài
nhớ nghĩ A Di Đà Phật. Chúng ta thường xem thấy trong kinh: “Thập phương nhất
thiết Phật, A Di Đà đệ nhất”. Thế Tôn nhớ nghĩ A Di Đà Phật, Ngài nhất định
được Phật lực của A Di Đà Phật gia trì, khiến cho tướng mạo của Ngài hôm nay vô
cùng tốt đẹp. Chẳng những A Di Đà Phật gia trì Ngài, mà mười phương ba đời tất
cả chư Phật đều gia trì. Vì sao vậy? Vì mười phương ba đời tất cả chư Phật: đều
hoằng dương bộ Kinh điển này, hộ trì bộ Kinh điển này, đều xưng tán A Di Đà
Phật. Nên khi Thế Tôn nhớ nghĩ đến A Di Đà Phật, tất cả chư Phật trong mười
phương: cùng Thích Ca Mâu Ni Phật dung hợp thành một thể.
Vì nhân duyên này, nên Thích Ca Mâu Ni
Phật của ngày hôm nay: đã biến thành tất cả chư Phật. Tướng mạo trang nghiêm
ấy, đương nhiên không phải thường ngày có thể thấy được. Mọi người nghĩ xem, được
Phật lực của A Di Đà Phật gia trì, được Phật lực của mười phương ba đời tất cả
chư Phật gia trì, thì tướng mạo của Thích Ca Mâu Ni Phật ngày hôm nay: sao không
đẹp được chứ?
Tướng tùy tâm chuyển. Tâm từ bi thì
tướng sẽ từ bi, tâm hiểm ác thì tướng mạo sẽ hung hãn. Tướng mạo của Phật là
tướng đẹp nhất. Vì sao người có căn tánh nhạy bén, vừa nhìn thấy tướng mạo của
Thích Ca Mâu Ni Phật, họ liền khai ngộ? Đương nhiên phải là người căn tánh rất
nhạy bén, người thông thường không làm được. Chúng ta niệm Phật trong tâm có
Phật, thì tướng mạo có thể: bất tri bất giác biến thành tướng của Phật được
không? Chúng ta muốn tướng mạo tốt thì làm thế nào? Hãy niệm Phật nhiều, không
phải nhờ đi sửa sắc đẹp, để thay đổi tướng mạo của chúng ta. Thông qua niệm
Phật là phương pháp tốt nhất thay đổi tướng mạo của chúng ta. Phẫu thuật thẫm
mỹ, trang điểm đều chẳng phải thật, đó là giả, ngoài ra còn có tác dụng phụ
không tốt. Niệm Phật nghĩ Phật, tương lai thân và tâm đều biến thành hình dáng
của Phật. Trước tiên khí chất của quý vị, sẽ có sự biến hóa rất lớn. Khi Thích
Ca Mâu Ni Phật: nghĩ đến A Di Đà Phật, tướng mạo liền biến thành hình dáng của
A Di Đà Phật, hiển bày sự thù thắng trang nghiêm không gì sánh bằng. Đây là
nguyên nhân thứ hai khiến Phật hoan hỉ. Bởi vì sao? Bởi vì ngài nhớ Phật niệm
Phật, Phật lực gia trì, sau khi ngài nhận được sự gia trì của A Di Đà Phật, tướng
mạo của Ngài: liền biến thành hình dáng của A Di Đà Phật. Đây là nguyên nhân
thứ hai khiến Phật hoan hỉ.
Quang minh tướng lành mà Phật hiện ra,
hiển bày đại trí đại đức của Ngài, thù thắng siêu việt đạt đến tột cùng. Quang
minh tướng lành này của Ngài, đã hiển lộ ra tất cả đại đức đại trí của Ngài. Trong
ánh quang minh hiện ra cõi nước mười phương, đây là điều hiếm có. Vừa rồi ở
trước tôi đã nói một câu: “Trong quang minh của Phật có thể hiện ra: cõi nước trang nghiêm của mười phương
cõi nước chư Phật đây là điều vô cùng hiếm có, trước nay chưa từng nhìn thấy”. Tôn
giả A Nan: theo Thích Ca Mâu Ni Phật nhiều năm như vậy, mà ngài cũng chưa từng
thấy. Cho nên ngài hoan hỷ được chiêm ngưỡng. Đây là nói duyên phận. Ngài A Nan
hôm nay đã nhìn thấy, nên hoan hỉ chẳng gì bằng, ngài A Nan nhìn thấy rồi, và
tất cả đại chúng tham dự đại hội người người đều nhìn thấy, mọi người đều hoan
hỉ. Bởi vì không chỉ một mình ngài A Nan nhìn thấy, ngài A Nan sanh tâm hoan
hỷ, mà đại chúng cũng sanh tâm hoan hỷ.
Mời xem ba câu kinh văn kế tiếp: “Tức
tùng tòa khởi, thiên đản hữu kiên, trường quỵ hiệp chưởng”. Những câu kinh văn
này nói về lễ tiết của thỉnh pháp. Tôn giả A Nan thay mặt đại chúng, bước ra
hướng Phật thỉnh pháp, thỉnh giáo. Có nghi vấn thì hỏi ai? Đương nhiên là hỏi
thầy rồi. Cho nên ngài A Nan đứng lên, thỉnh thầy khai thị. Khi quý vị hướng về
thầy để thỉnh pháp, nhất định phải từ chỗ ngồi của mình đứng dậy, đó là lễ
tiết. Nhà Phật cũng như thế. “Trịch áo vai hữu”, đây là hành lễ cung kính nhất.
Bởi vì thời đó y phục của người Ấn Độ: không giống chúng ta. Y phục của họ, là
một miếng vải quấn lên thân, thông thường hai vai đều được quấn kín. Khi hành
lễ tôn kính nhất, bắt buộc phải lộ ra vai bên phải. Lúc quỳ dưới đất thì gối
phải chạm đất. Có lẽ mọi người muốn hỏi: Vì sao vậy? “Trịch áo vai hữu” nghĩa
là gì? Gối phải chạm đất nghĩa là gì? Là thế này, khi quý vị thỉnh giáo với
thầy, đôi khi thầy cũng có việc giao cho quý vị, do đó quý vị sẽ đứng lên dễ
dàng. Bởi vì tay phải của quý vị đưa ra bên ngoài, tiện lợi cho việc phục vụ, lúc
nào cũng chuẩn bị phụng sự thầy, chính là giải thích như thế. Gối phải chạm đất
nghĩa là gì? Vai phải lộ ra nghĩa là gì? Ở đây tôi đã nói rõ với mọi người rồi.
Tiếp theo xem: “Trường quỵ hiệp
chưởng”, “trường quỵ” chính là gối phải chạm đất, hiệp chưởng là biểu thị cung
kính. Mười ngón tay đại biểu cho điều gì? Việc này mọi người chúng ta có lẽ
cũng chưa rõ. Mười ngón tay đại biểu cho tán loạn. Hiệp chưởng, hợp lại làm một
biểu thị cho thu tâm. Chúng ta thông thường nghĩ tưởng lung tung, hiện tại một
lòng một dạ nghe Phật thuyết pháp, chính là chuyên tâm. Vì vậy hiệp chưởng đại
biểu cho nhất tâm nhất ý, chính là đem tâm tán loạn thu hồi lại.
Chúng
tôi nói đoạn kinh văn phía trên, nói với chúng ta rằng: Tôn giả A Nan nghĩ trong
tâm, hôm nay sắc thân và các căn của Thế Tôn, biểu hiện sự hoan hỷ vui mừng, thanh
tịnh trang nghiêm, đồng thời còn phóng ra ánh quang minh vời vợi. Trong ánh
sáng đó hiện ra sự trang nghiêm không gì bằng: của cõi nước chư Phật. Mà trước
nay chưa từng nhìn thấy. Cho nên trong tâm ngài A Nan vô cùng hoan hỉ. Hôm nay
được cung kính chiêm ngưỡng, nên sanh khởi ý nghĩ hiếm có khó gặp. Tôn giả A
Nan nhìn thấy tướng lành thù thắng của Phật như thế, thì liền từ chỗ ngồi đứng
dậy, trịch vai áo phải, quỳ gối chắp tay, hướng Phật kính lễ. Đoạn kinh văn này
biểu đạt: ý nghĩa mà vừa rồi tôi đã nói.
Mời xem đoạn Kinh văn kế tiếp:
而白佛言:世尊今日入大寂定,住奇特法,住諸佛所住導師之行,最勝之道。去來現在佛佛相念,為念過去未來諸佛耶?為念現在他方諸佛耶?何故威神顯耀,光瑞殊 妙乃爾,願為宣說。“Nhi bạch Phật ngôn: Thế Tôn kim nhật nhập đại tịch định, trụ kỳ đặc
pháp, trụ chư Phật sở trụ Đạo sư chi hạnh, tối thắng chi đạo. Khứ lai hiện
tại Phật Phật tương niệm. Vi niệm quá khứ vị lai chư Phật da? Vi niệm hiện tại
tha phương chư Phật da? Hà cố uy thần hiển diệu, quang thụy thù diệu nãi nhĩ?
Nguyện vị tuyên thuyết.” (Mà bạch với Đức Phật rằng: “Bạch
Đức Thế Tôn! Hôm nay Thế Tôn nhập đại tịch định, trụ trong pháp đặc biệt, trụ
trong hạnh tối thắng của chư Phật trụ. Quá hiện vị lai Phật Phật niệm nhau. Thế
Tôn là niệm chư Phật quá khứ chư Phật vị lai, hay niệm chư Phật hiện tại phương
khác? Vì sao lại có uy thần hiển diệu, tướng lành đặc biệt vi diệu như vậy?
Nguyện Đức Thế Tôn vì chúng con mà tuyên thuyết”).
Đoạn này chính là ngài A Nan thỉnh
pháp với Phật. Chữ “Bạch” biểu thị điều gì? Chữ “bạch” ở đây chính là: Vãn bối
nói chuyện với trưởng bối thì gọi là “bạch”. Trước đây chúng ta có lẽ cũng
không hiểu rõ. Không phải là “nhi bạch Phật ngôn” đó sao? Bởi vì ngài A Nan
hướng Phật thỉnh pháp, nên dùng từ “bạch”.
“Đại tịch định”
là chỉ thiền-định của Phật, đây là chỉ niệm Phật tam-muội.
“Kỳ đặc pháp”
là phương pháp kỳ diệu đặc biệt. Ở đây chỉ cho Pháp môn niệm Phật. Điều đặc
biệt chính là không cần đoạn phiền-não, chỉ cần phục được phiền-não, đới nghiệp
vãng sanh, là có thể một đời thành Phật. Pháp đặc biệt này đặc biệt ở chỗ nào? Những
câu ở phần sau này, mọi người nghe có hiểu không? Pháp môn niệm Phật là pháp
đặc biệt, phía trước nói là pháp vi diệu, biểu đạt đồng một ý nghĩa. Kỳ diệu ở
chỗ nào vậy? Điều đặc biệt chính là không cần đoạn phiền-não. Có thể nói câu
này: là phần trọng điểm của đoạn kinh văn này. Những kinh điển khác không có điều
đặc biệt này, đều phải đoạn phiền-não. Duy chỉ có Pháp môn niệm Phật không cần
đoạn phiền-não, chỉ cần phục được phiền-não, đới nghiệp vãng sanh là có thể một
đời thành Phật. Những câu nói này đều hết sức quan trọng, đới nghiệp vãng sanh,
đây là Pháp môn duy nhất.
Tiếp theo “chư
Phật sở trụ” là chỉ: niệm Phật tam-muội là chỗ mà mười phương chư Phật cùng
trụ, chính là tất cả Phật Bồ-tát đều trụ: ở trong niệm Phật tam-muội.
“Đạo sư chi
hạnh”, Đạo sư chỉ dạy cho chúng sanh: con đường liễu sanh thoát tử. Con đường
này là con đường chính duy nhất, dẫn dắt chúng sanh thoát ly lục đạo luân hồi,
vào Phật đạo. A Di Đà Phật là đại Đạo sư, có thể dẫn dắt chúng sanh bình đẳng
thành Phật. Xin chú ý bốn chữ sau “bình đẳng thành Phật”. Trong phần nội dung
phía trước tôi đã giảng. Đó là lần đầu tiên xuất hiện cụm từ: “bình đẳng thành
Phật” này, đây chính là điểm then chốt, là trọng điểm đột phá nhất: của Kinh Vô
Lượng Thọ. Cả bộ Kinh đều không rời khỏi bốn chữ “bình đẳng thành Phật”. Mấy
ngày trước, lúc tôi đang viết bản thảo bài giảng, đột nhiên có cảm nhận rằng: bộ
Kinh này, Pháp môn này: có thể khiến chúng sanh bình đẳng thành Phật. Trọng
điểm là ở hai chữ “bình đẳng” này.
“Tối thắng chi
đạo”, tối thắng chi đạo chính là: con đường niệm Phật vãng sanh bất thoái thành
Phật.
“Khứ lai hiện
tại Phật Phật tương niệm”, nghĩa là gì vậy? Là ba đời quá khứ hiện tại tương
lai. “Phật Phật tương niệm” là Phật và chư Phật nhớ nghĩ đến nhau. Nói rõ cho
chúng ta điều gì? Phật niệm Phật. Chúng ta hiện nay niệm Phật, nhưng vì không
biết vì sao phải niệm Phật, nên không thể kiên trì, niệm niệm bị gián đoạn. Ở
đây chúng ta có thể thấy, Phật đều niệm Phật, nhớ nghĩ không quên. Chúng ta là
phàm phu sao lại không niệm Phật? Nếu quý vị muốn đời này thành Phật, nhất định
phải niệm Phật.
Tiếp theo, “uy
thần” chính là uy đức thần thông.
“Hiển diệu”
nghĩa là minh hiển quang diệu.
“Quang thụy thù
diệu nãi nhĩ”, “quang thụy” chỉ cho quang minh và tướng lành mà Phật hiện ra. “Thù
diệu” là thù thắng vi diệu. “Nãi nhĩ” nghĩa là vi diệu đến mức như thế, biểu
thị cảm thán.
“Nhi bạch Phật
ngôn”, chúng ta xem câu kinh văn thứ nhất “nhi bạch Phật ngôn”. “Bạch” lúc nãy
tôi đã nói rồi, là cách nói cung kính của người dưới đối với người trên, người
trên nói với người dưới thì gọi là “cáo”. Dưới nói với trên là “bạch”, trên nói
với dưới là “cáo”. Ví dụ Phật nói với ngài A Nan thì đều là “Phật cáo A Nan”. Cho
nên đây cũng là một loại lễ tiết. Đúng không? Trước đây chúng ta không biết: lễ
tiết này. Ngài A Nan đại diện cho mọi người bước ra thỉnh giáo với Phật. Vì sao
hôm nay tướng mạo và quang minh của Phật: thù thắng như vậy? Lời thỉnh giáo của
ngài A Nan mang hàm nghĩa rất sâu. Trước tiên chúng ta xem ngài xưng hô. Việc
xưng hô này so với trước đây không như nhau. Ngài gọi thầy là “Thế Tôn”, bởi vì
cách xưng hô “Thế Tôn” này, là cách xưng hô tôn kính bậc nhất. Phật là thầy của
trời người, là bậc được tôn trọng trong thế xuất thế gian, trời người đều tôn
trọng nên xưng là “Thế Tôn”. Đây là cách xưng hô tôn kính bậc nhất.
“Kim nhật nhập
đại tịch định”. Câu kinh văn này là nói: Phật và các đại Bồ-tát luôn ở trong
định. Đại định thì không có xuất, không có nhập. Trong Kinh Lăng Nghiêm gọi là
Thủ Lăng Nghiêm Đại Định, chẳng phải gọi như thế sao? “Na Già thường tại định, vô hữu bất định
thời”. Có lẽ có đồng tu hỏi: Thích Ca Mâu Ni Phật và chư đại Bồ-tát ấy, quý
Ngài phải chăng luôn luôn ở trong định? Đúng như vậy. Đi đứng nằm ngồi đều ở
trong định. Phật và chư đại Bồ-tát bình thường đều là như thế. Quý Ngài đều trụ
trong: định của niệm Phật tam-muội.
Hôm nay vì sao Phật hiện ra tướng đại
định: thù thắng hơn so với thường ngày? Đây là chỗ nghi hoặc khó hiểu của ngài
A Nan, cũng là chỗ nghi hoặc khó hiểu của đại chúng dự hội. Mọi người muốn biết
đây là định gì? Rốt cuộc đó là định gì? Là niệm Phật tam-muội. Chúng ta bình
thường hay nói đến niệm Phật tam-muội, nhưng không biết niệm Phật tam-muội có
uy lực lớn như vậy. Niệm Phật tam-muội là vua trong tam-muội, không phải là đại
định thông thường. Hiện nay Phật đang chánh niệm A Di Đà Phật. Việc này ngài A
Nan có biết hay không? Lúc nãy trong đoạn trước chúng tôi đã nói, Thích Ca Mâu
Ni Phật niệm A Di Đà Phật, việc này ngài A Nan có biết hay không? Ngài biết
chứ! Một số đồng tu chúng ta có lẽ có thắc mắc, hoặc là nghi ngờ, có phải ngài
A Nan nêu ra vấn đề này, là do ngài không biết Thích Ca Mâu Ni Phật: đang niệm
A Di Đà Phật. Không phải vậy! Ngài A Nan có biết. Còn có một điều, mà ở đây tôi
cần phải nói với mọi người, Tôn giả A Nan nhất định không phải là một vị chứng
Sơ quả La-hán. Lúc ấy ngài thị hiện là một vị chứng Sơ quả La-hán, nhưng ở đây
tôi nói với mọi người: ngài tuyệt đối không phải là một vị chứng Sơ quả La-hán.
Ngài là ai? Ngài là Phật Bồ-tát tái lai. Vì sao lại đến? Bởi giúp Phật hoằng
pháp lợi sanh, mọi người xem thân phận của ngài, ngài là em họ nhỏ nhất của
Phật, phải vậy không? Sứ mạng của ngài đến thế gian này: chính là giúp Phật
hoằng pháp lợi sanh. Cho nên thân phận của ngài, chúng ta không nên cho rằng: ngài
là chứng Sơ quả La-hán.
Câu tiếp theo là: “trụ kỳ đặc pháp”. Hôm
nay Thích Ca Mâu Ni Phật: trụ trong Pháp môn vô cùng đặc biệt, sắp sửa tuyên
thuyết phương pháp bình đẳng thành Phật, chính là bộ Kinh Vô Lượng Thọ này. Bộ
Kinh Vô Lượng Thọ dạy tất cả chúng sanh: bình đẳng thành Phật. Chúng ta cho đến
nay, có lẽ vẫn chưa lý giải được sâu cụm từ: “bình đẳng thành Phật” này. Tiếp
tục xem phần sau chúng tôi giảng bộ Kinh này, thì ấn tượng của quý vị sẽ ngày
càng sâu sắc, quý vị mới có thể cảm nhận được sự thù thắng của bộ Kinh này.
Trên đề Kinh nói “Thanh Tịnh Bình Đẳng
Giác”. Đây là pháp đặc biệt. Mọi người xem tựa đề Kinh Vô Lượng Thọ, năm chữ
ấy: là toàn bộ nội dung của bộ Kinh. Toàn bộ điểm quan trọng, chính là năm chữ
“Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác”. Pháp kỳ đặc này, “kỳ” là kỳ lạ hiếm có, rất ít khi
thấy, chưa từng thấy, không có. “Đặc” là đặc biệt, không phải thông thường. Tất
cả pháp mà Phật đã thuyết trong 49 năm, chưa từng nói đến bình đẳng thành Phật.
Ngoài bộ Kinh Vô Lượng Thọ này, nói về bình đẳng thành Phật; Thì tất cả pháp mà
Phật thuyết trong 49 năm, không có nhắc đến bình đẳng thành Phật. Vì vậy Pháp
môn này rất khó tin, khó tin là ở chỗ này. Đẳng giác Bồ-tát, Duyên-giác,
Thanh-văn, chúng sanh trong địa ngục, đều có thể bình đẳng thành Phật. Cho nên
khó tin là khó tin ở chỗ này. Chúng sanh có lẽ nghĩ rằng, bao gồm cả Đẳng giác
Bồ-tát: đều nghĩ không thấu, có thể có việc như vậy sao? Quý vị thấy Đẳng giác
Bồ-tát và chúng sanh trong địa ngục, chẳng phải là khác biệt cực kỳ lớn sao? Đẳng
giác Bồ-tát và chúng sanh địa ngục: có thể bình đẳng thành Phật chẳng phải là việc
kỳ lạ sao? Cho nên đây là pháp khó tin. Chúng ta hiện nay có thể tin pháp này, quý
vị thật sự tuyệt vời. Đẳng giác Bồ-tát cũng không bằng quý vị, rất nhiều Đẳng
giác Bồ-tát đều không tin pháp này, mà quý vị tin, thì quý vị là người có đại
phước báo, đại trí huệ.
Bởi vì căn tánh của chúng sanh khác
biệt rất lớn, cho nên không tin Pháp môn này là thật. Thế nhưng xác thật, có
một Pháp môn vi diệu như vậy, có thể khiến chúng sanh bình đẳng thành Phật. Phương
pháp này bởi vì Phật trước đây chưa từng nói đến, hôm nay vì mọi người tuyên
giảng, đây chính là tâm của Phật an trụ ở pháp đặc biệt này. Câu kinh văn vừa
rồi chẳng phải đã nói, “trụ kỳ đặc pháp” đó sao? Vì sao hôm nay Phật trụ vào
pháp đặc biệt như thế? Bởi vì Ngài muốn tuyên giảng bộ đại Kinh này.
Trong Kinh Kim Cang, Tôn giả Tu Bồ Đề:
đã từng nêu ra hai vấn đề. Vấn đề thứ nhất là nên trụ vào đâu? Chính là hỏi:
tâm của chúng ta nên an trụ ở chỗ nào? Đây là vấn đề thứ nhất Tôn giả Tu Bồ Đề
nêu ra. Vấn đề thứ hai nêu ra là: làm sao hàng phục tâm này? Nói tâm của chúng
ta, cả ngày nghĩ tưởng lung tung, phiền não rất nhiều, phải làm sao để hàng
phục? Thích Ca Mâu Ni Phật giảng: bộ Kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật, gọi tắt
là Kinh Kim Cang. Bộ Kinh đó tôi từng đọc qua vài lần, nhưng tôi thật sự không tìm
được: câu trả lời cho hai vấn đề này. Hai vấn đề nào? Là tôi vừa mới nói đó, tâm
nên trụ vào đâu và làm sao hàng phục tâm này. Là hai vấn đề đó, tôi đã đọc Kinh
Kim Cang mấy lần, nhưng vẫn chưa tìm được đáp án.
Hôm nay đọc Kinh Vô Lượng Thọ, giảng
bộ Kinh Vô Lượng Thọ, đáp án này cũng quá đơn giản, trong chốc lát liền hiểu
rõ. Nếu nói hai vấn đề này, được nêu ra trong Pháp hội Kinh Vô Lượng Thọ, thì
câu trả lời thật sự quá rõ ràng. Đáp án là gì vậy? Làm sao hàng phục vọng niệm?
Vấn đề đầu tiên chúng ta đã nói: tâm nên trụ nơi đâu? Câu trả lời là an trụ vào
A Di Đà Phật. Vấn đề thứ hai, làm sao hàng phục tâm này? Niệm A Di Đà Phật. Rất
đơn giản! An trụ vào A Di Đà Phật, niệm A Di Đà Phật. Hai vấn đề này đều được
giải quyết rồi. Ở đây tôi đã tìm được: đáp án cho hai vấn đề này.
Hôm nay Thế Tôn trụ vào nơi chư Phật
trụ. Tất cả chư Phật, không có vị Phật nào không niệm A Di Đà Phật, không có vị
Phật nào không nhớ nghĩ: y chánh trang nghiêm của thế giới Tây Phương Cực Lạc, cho
nên chỗ trụ của chư Phật: chính là y chánh trang nghiêm của thế giới Tây Phương
Cực Lạc. Chư Phật trụ ở đâu? Là trụ ở đó. Ngày nay Thích Ca Mâu Ni Phật cũng
không ngoại lệ, cũng giống như chư Phật. Niệm Phật là chỗ trụ của mười phương
ba đời tất cả chư Phật, quý Ngài đều trụ trong niệm A Di Đà Phật.
Xin nói tiếp về “Đạo sư chi hạnh”, chính
là dẫn dắt tất cả chúng sanh đồng thành Phật đạo. Bởi vì là pháp bình đẳng, chúng
sanh chín pháp giới có thể bình đẳng thành Phật. Đấy mới là bậc đại Đạo sư chân
chánh, vị Đạo sư chẳng thể nghĩ bàn. Ngoài A Di Đà Phật ra, đi đâu để tìm được
vị đại Đạo sư như thế? Tìm được vị đại Đạo sư bất khả tư nghì như vậy?
Tiếp theo xem “tối thắng chi đạo”, đạo
như thế nào là đạo tối thắng? Chính là làm những gì A Di Đà Phật đã làm, niệm những
gì A Di Đà Phật niệm, điều A Di Đà Phật niệm chính là 48 nguyện. Tôi xin nói
lại lần nữa, “làm những gì A Di Đà Phật đã làm, niệm những gì A Di Đà Phật
niệm, điều A Di Đà Phật niệm chính là 48 nguyện”. 48 nguyện, nguyện nguyện đều
bình đẳng phổ độ tất cả chúng sanh. Cho nên nói đây là đạo thù thắng đệ nhất. Vì
thế gọi là “tối thắng chi đạo”.
Ngài A Nan nói: “Khứ lai hiện tại Phật
Phật tương niệm”, chính là nói mười phương ba đời tất cả chư Phật: đều niệm lẫn
nhau. Tất cả chư Phật đều niệm A Di Đà Phật. A Di Đà Phật cũng niệm chư Phật, Phật
Phật niệm lẫn nhau. Ngài A Nan nghĩ hôm nay Phật hiện tướng lành như thế, nhất
định là đang niệm Phật. Không niệm Phật thì tướng của Phật sẽ không đẹp như vậy.
Thế nhưng không biết Thế Tôn hôm nay: là niệm Phật quá khứ, hay là niệm Phật
hiện tại, hay là niệm Phật tương lai. Đương nhiên là niệm Phật ở thế giới
phương khác. Sắc tướng hôm nay Phật hiện ra, người thế gian không cách nào
tưởng tượng được. Phật phóng quang, tướng lành của Ngài thù diệu như thế, hình
dáng như vậy mọi người trước đây chưa từng thấy. Hai ngày trước tôi xem một bộ
phim hoạt hình, là Kinh Vô Lượng Thọ. Nếu trong tay quý vị đồng tu có bộ phim
hoạt hình này, thì tôi kiến nghị mọi người hãy xem. Đoạn Phật phóng quang, Phật
hiện tướng lành, là chỗ mà người ta có thể tưởng tượng được, là do người làm. Còn
thật sự Phật phóng quang, Phật hiện tướng lành, thì sẽ vượt hơn vậy ngàn trăm
ức lần. Quý vị không cách nào tưởng tượng được. Vì sao Phật vui mừng như thế? Chúng
sanh vui mừng như thế? Kể cả tôi hôm nay giảng đoạn kinh văn này, trong tâm
cũng vui mừng như vậy. Việc này không phải là không có đạo lý. Vì sao vậy? Sắc
tướng Phật hiện ra hôm nay, là điều mà người thế gian căn bản không thể nào
tưởng tượng được.
Hình dáng này mọi người trước đây chưa
từng nhìn thấy. Nên Phật nói “nguyện vị tuyên thuyết”. Đây không những là
nguyện vọng của ngài A Nan, mà là nguyện vọng chung của đại chúng dự hội. Hy
vọng Phật nói: vì sao hôm nay Ngài hiện tướng vi diệu như thế. Bởi vì chưa từng
nhìn thấy, nên mọi người hiếu kỳ, hiếu kỳ muốn Phật nói ra, vì sao hôm nay lại
phóng quang minh như thế, hiện tướng như thế? Đây là ý nghĩa mà đoạn kinh văn
trên biểu đạt. Đó là gì vậy? Chính là ngài A Nan báo cáo với Phật rằng: Thế Tôn
hôm nay nhập đại tịch định của niệm Phật tam-muội, trụ vào pháp đặc biệt: niệm
Phật một đời thành Phật. Đây cũng chính là niệm Phật tam-muội mà tất cả chư
Phật đều trụ, chính là con đường lớn thù thắng bậc nhất: mà A Di Đà Phật dạy
cho chúng sanh bình đẳng thành Phật. Trong tâm ngài A Nan nghĩ: quá khứ hiện
tại vị lai Phật, chư Phật cùng nhớ nghĩ đến nhau. Nhưng không biết chỗ niệm của
Thế Tôn hôm nay: là quá khứ hiện tại hay vị lai chư Phật, hay là nhớ nghĩ chư
Phật hiện tại ở phương khác? Vì sao hôm nay Thế Tôn uy thần hiển diệu, quang minh
tướng lành thù thắng vi diệu, đến mức tốt đẹp như thế, mong Phật vì con và đại
chúng mà tuyên thuyết. Chẳng phải đó là hướng Phật thỉnh pháp hay sao? Bởi vì
không biết, trong tâm có nghi ngờ, tìm không ra đáp án, nên thỉnh Phật tuyên
thuyết. Hôm nay thời gian đã hết. Đoạn kinh văn tiếp theo xin để buổi sau giảng
tiếp. Cảm ơn mọi người! A Di Đà Phật.
(Hết tập 11)
Nguyện dĩ thử công đức
Trang nghiêm Phật Tịnh-độ
Thượng báo tứ trọng ân
Hạ tế tam đồ khổ
Nhược hữu kiến văn giả
Tức phát Bồ-đề tâm
Tận thử nhất báo thân
Đồng sanh Cực Lạc quốc.
Nam
Mô A Mi Đà Phật