Responsive Menu
Add more content here...

Tập 142 – Tịnh Độ Đại Kinh Khoa Chú 2014

TỊNH ĐỘ ĐẠI KINH KHOA CHÚ 2014

(Giảng lần thứ 4)

PHẨM THỨ TƯ: PHÁP TẠNG NHÂN ĐỊA

(NHÂN ĐỊA CỦA NGÀI PHÁP TẠNG)

Tập 142

Chủ giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không

Thời gian: 05/12/2014

Giảng tại: Hiệp Hội Giáo Dục Phật Đà Hồng Kông

Dịch giả: Sư cô Thích Tâm Thường

Giảo chánh: Thích Thiện Trang.

Kính chào chư vị Pháp sư, quý vị đồng học, mời an tọa. Thỉnh mọi người cùng tôi quy y Tam Bảo:

A-xà-lê tồn niệm, ngã Đệ tử Diệu Âm, thỉ tùng kim nhật, nãi chí mạng tồn, quy y Phật-Đà, lưỡng túc trung tôn, quy y Đạt-Ma, ly dục trung tôn, quy y Tăng-Già, chư chúng trung tôn. (3 lần)

Mời xem Đại Kinh Khoa Chú, trang 387, hàng thứ tư, khoa đề 才德超異 “Tài Đức Siêu Dị” (Tài Đức Siêu Vượt). Đây vẫn là khen ngợi Tỳ-kheo Pháp Tạng, tức là A Mi Đà Phật tu Bồ-tát đạo trong nhân địa. Mời xem kinh văn:

【高才勇哲。與世超異。信解明記。悉皆第一。】

“Cao tài dũng triết, dữ thế siêu dị. Tín giải minh ký, tất giai đệ nhất” (Cao tài dũng triết, siêu vượt hơn đời. Tín giải minh ký, đều là bậc nhất).

Mời xem Chú Giải của Niệm lão, 本段盛讚法藏比丘出家後修行之德 “bổn đoạn thịnh tán Pháp Tạng Tỳ-kheo xuất gia hậu tu hành chi đức” (đoạn này cực kỳ khen ngợi đức tu hành của Tỳ-kheo Pháp Tạng sau khi xuất gia), chúng ta cần phải học tập điều này. Chúng ta xem kinh văn, 『高才勇哲』“cao tài dũng triết” (cao tài dũng triết), 才,能也,智也“tài, năng dã, trí dã” (tài: là tài năng, trí huệ). Năng là năng lực, trí là trí huệ, tài năng trí huệ. Ý nghĩa của chữ 哲“triết” này, là 明知 “minh tri”, minh là hiểu rõ, tri là nhận biết, nhận thức. 《嘉祥疏》曰:稱逸群之能,故曰高才“Gia Tường Sớ viết: xưng dật quần chi năng, cố viết cao tài ” (trong Gia Tường Sớ nói: khen ngợi tài năng dật quần, nên nói là cao tài). Dật quần chính là vượt trội, ở trong đại chúng, tài năng của ngài, năng lực của ngài, trí huệ của ngài, đều không có ai so sánh được với ngài, đó gọi là 『與世超異』“dữ thế siêu dị” (siêu vượt hơn đời). Trong Gia Tường Sớ nói, 能自勝勝他 “năng tự thắng thắng tha” (có thể tự thắng và thắng tha), tự thắng là không ngừng vươn lên. Vì sao gọi là năng thắng? Thắng được tất cả tập khí phiền não không thiện, dũng cảm sửa đổi lỗi lầm, đó là tự thắng. Chỉ có tự thắng, sau đó mới có thể vượt qua đại chúng, đó là thắng tha, ấy được gọi là dũng, cao tài dũng triết. 壞邪見之明,所以言哲“Hoại tà kiến chi minh, sở dĩ ngôn triết” (Sáng suốt phá tan tà kiến, nên gọi là triết). Đoạn tà hành chánh, tất cả tri kiến sai lầm, Ngài có thể sửa đổi, dũng cảm sửa đổi lỗi lầm, nghiêm túc học tập, vậy được gọi là triết.

又《淨影疏》曰:才謂才巧,才德過人,故曰高才 “Hựu Tịnh Ảnh Sớ viết: tài vị tài xảo, tài đức quá nhân, cố viết cao tài”(Thêm nữa trong Tịnh Ảnh Sớ nói: tài là tài xảo, tài đức hơn người, nên nói là cao tài). Xảo là huệ, gọi là xảo huệ, tài năng xảo huệ cũng không phải là điều mà người bình thường có thể so sánh với Ngài, vậy gọi đó là cao tài. 志強名勇“Chí cường danh dũng” (Ý chí kiên cường gọi là dũng), người ấy có chí lớn, quyết chí tự cường. Nhìn ra từ đâu? Từ sự phát tâm của Ngài, từ sự tu hành của Ngài, Ngài vừa xuất gia, liền tu Bồ-tát đạo. Phía trước chúng ta đã đọc, người bình thường xuất gia tiến hành theo tuần tự, trước học Tiểu thừa, sau học Đại thừa, Bồ-tát đạo là pháp Nhất thừa, cuối cùng mới tu Nhất thừa. Ngài đã vượt qua, không có nói Tiểu thừa, không có nói Quyền giáo, mà trực tiếp tu Bồ-tát hạnh, trong này nói Bồ-tát đạo, đó là minh triết. Trong Chú Giải của Niệm lão, 志強名勇。心明稱哲。蓋謂法藏菩薩才能過人,勇猛精進,心明智朗 “chí cường danh dũng. Tâm minh xưng triết. Cái vị Pháp Tạng Bồ-tát tài năng quá nhân, dũng mãnh tinh tấn, tâm minh trí lãng”(Ý chí kiên cường gọi là dũng. Tâm sáng suốt gọi là triết. Ý nói rằng tài năng Bồ-tát Pháp Tạng hơn người, dũng mãnh tinh tấn, tâm sáng trí rạng). Tâm không mê, về tâm, hai chữ “minh trí” này, thông thường là đối với người Đại triệt Đại ngộ Minh tâm Kiến tánh mà nói. Do đây có thể biết, Tỳ-kheo Pháp Tạng, cổ Đại đức đều xưng ngài là người tái lai. Lúc ngài làm quốc vương, đã là ngôi vị của Bồ-tát, Pháp thân Đại sĩ, nên vừa nghe kinh thì ngài sáng tỏ rồi, ngài đến biểu pháp cho chúng ta xả bỏ vương vị. Vương vị, là địa vị cao nhất trong pháp thế gian, Cổ nhân nước ta nói là 貴為天子,富有四海 “quý vi thiên tử, phú hữu tứ hải”(tôn quý làm thiên tử, giàu có khắp bốn biển), phú quý trong nhân gian đến tột bậc. Ai cũng muốn đạt được, ngài đã có được, nghe Phật pháp liền có thể buông bỏ ngôi vua, xuất gia để làm Tỳ-kheo. Biểu pháp này nói với chúng sanh Lục đạo chúng ta, xuất gia tu hành vượt qua tất cả các pháp thế gian. Chúng ta đã đọc được, bình tĩnh lắng tâm để quán tưởng, nếu Phật pháp không phải là thật sự cao minh, thì sao có thể làm cho một vị quốc vương xả bỏ ngôi vua để xuất gia? Đức Thích Ca Mâu Ni Phật là vương tử, nếu không xuất gia thì Ngài là quốc vương, cũng là làm thị hiện này. Thật sự biểu thị ra người tu hành: không tranh với người, không cầu với đời. Chính vì vô tranh vô cầu, nên mới hiển thị ra cao tài dũng triết.

Một câu tiếp theo 與世超異 “dữ thế siêu dị”(siêu vượt hơn đời). Trong Tịnh Ảnh Sớ nói: 此德孤出,名世超異“Thử đức cô xuất, danh thế siêu dị”(đức ấy cô xuất, nên gọi là thế siêu dị). Khen ngợi đức lớn của Tỳ-kheo Pháp Tạng. Cô xuất, cô là một mình, người như vậy thật sự không nhiều. Ở thế gian này, ai không tranh danh, ai không trục lợi? Người thế gian rất là bận rộn, vì sao xã hội ngày nay động loạn? Tranh danh đoạt lợi là điều không tránh khỏi của chúng sanh Lục đạo, nhưng danh lợi phải lấy sao cho đúng đạo, cổ Thánh tiên Hiền dạy cho chúng ta điều này, nếu lấy không đúng đạo thì tuyệt đối không được tiếp nhận. Ngày nay không còn đạo này nữa, tranh danh trục lợi không từ thủ đoạn, nên xã hội đều loạn rồi. Đây là do khoa học kỹ thuật đã phát triển hơn một thế kỷ gần đây, người phương Đông sanh ra nghi ngờ đối với lời dạy của lão Tổ tông, người phương Tây tuyên bố rằng Thượng đế đã chết, không cần tôn giáo nữa. Duy trì từ xưa cho tới ngày nay, nền văn minh của phương Tây dựa vào điều gì? Đều dựa vào tôn giáo, tin có thần, tin có Thiên đường. Cùng với nền văn minh của khoa học, không ít nhà khoa học nghiên cứu vật lý, nghiên cứu tâm lý, đã phủ nhận thần rồi. Thần có hay không? Không thể nói là không có, thần và loài người chúng ta đều là chúng sanh trong vũ trụ, nhưng khác với chiều không gian của chúng ta. Cũng có một bộ phận được nhà khoa học chấp nhận rồi, khoa học làm chứng minh cho chúng ta, thật có chiều không gian khác nhau tồn tại. Nên hiện nay không ít người bán tín bán nghi đối với thần thánh, có nhiều người hoàn toàn không tin.

Người phương Đông sanh ra hoài nghi đối với tổ tiên, đối với Thánh hiền, mù quáng chạy theo khoa học kỹ thuật, đã bỏ đi giáo huấn trí huệ chân thật của tổ tông, đây là nguyên nhân căn bản của sự động loạn trên địa cầu ngày nay. Giống như sự khen ngợi đối với Tỳ-kheo Pháp Tạng, người bình thường nhìn thấy, đây chỉ là sự khen ngợi, không phải là thật, làm sao có người như vậy, làm sao có việc như vậy? Nói đó là mê tín. Chỉ có người thiện căn sâu dày, thâm nhập kinh tạng, cũng cần mấy chục năm công phu mới có thể đoạn nghi sanh tín. Vậy coi là không tệ, vẫn có thể quay đầu. Còn rất nhiều người suốt cả đời, giống như trước đây thầy Lý nói với tôi, người xuất gia đến khi già chết, cũng không tin đối với Thế giới Tây Phương Cực Lạc. Có thật không? Lắng tâm để quan sát, là thật chứ không phải giả. Đó là nguyên nhân gì? Đó là từ nhỏ đã lơ là việc cắm gốc giáo dục, giáo dục luân lý đạo đức. Giáo dục về luân lý, đạo đức, nhân quả, mấy ngàn năm ở Trung Hoa truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác chưa từng mất đi, nhưng mất đi trong thế hệ của chúng ta đây. Gốc rễ này cắm bằng cách nào? Ngày nay chúng ta hiểu rõ rồi, là mong cha mẹ làm ra tấm gương để cho con cái học tập. Vào lúc nào? Phải 1.000 ngày sau khi sanh ra, tức là ba năm, đến khi người con đầy ba tuổi, phải cắm chắc gốc rễ này. Ngạn ngữ xưa có câu nói rằng, 三歲看八十 “tam tuế khán bát thập” (ba tuổi thấy tám mươi), nếu ba tuổi đã cắm gốc được vững chắc, thì 80 tuổi họ cũng sẽ không thay đổi. Câu này là nói về kinh nghiệm, đã nhìn thấy mấy ngàn năm ở Trung Hoa rồi.

Thời kỳ đó trong quá khứ của Trung Hoa [nhưng] rất đáng tiếc, từ sự dao động tín tâm đến hoàn toàn vứt bỏ sự việc này, tiếp nhận văn hóa phương Tây, gây nên sự đau khổ ngày nay, chẳng phải là không có nguyên nhân. Hiện nay chúng ta đã tiếp nhận Phật pháp, Phật pháp dạy điều gì? Phật pháp dạy chúng ta rời khổ được vui, quan sát từ một cấp độ sâu hơn, là giúp chúng ta lìa rốt ráo khổ, được rốt ráo vui, điều này thật có thể làm được, vả lại có hiệu quả rất tốt. Sự kế thừa của Phật pháp, trong lịch sử Trung Hoa đã ghi chép hơn 3.000 năm, người thành tựu trong hơn 3.000 năm đó: là vô số kể, quá nhiều rồi! Ở Trung Hoa, tám tông phái của Đại thừa, hai tông phái của Tiểu thừa, ở Trung Hoa Tiểu thừa được truyền đến vào những năm cuối đời nhà Đường, những vị Tổ sư Đại đức của Trung Hoa không dùng Tiểu thừa nữa, mà dùng Nho, dùng Đạo thay thế Tiểu thừa. Có được không? Được, chúng ta nhìn thấy trong lịch sử, trong 1.000 năm ấy các thời Tống, Nguyên, Minh, Thanh, tại gia, xuất gia thật sự đã xuất hiện không ít vị Cao tăng Đại đức. Người Trung Hoa không phải do kiêu ngạo mà bỏ đi, mà là sự lựa chọn của trí huệ, văn hoá truyền thống Trung Hoa không bằng được Đại thừa, còn Tiểu thừa, thì văn hoá truyền thống của chúng ta còn có những điều cao hơn, sao không dùng Nho Đạo thay cho Tiểu thừa chứ? Cổ nhân thật sự đã làm như vậy, làm ra thành tích khiến người khác bội phục.

Chúng ta phải làm sao để vượt qua cửa ải khó khăn này? Phải làm thế nào để vượt qua đời loạn? Ông Joseph Toynbee người Anh nói rất hay, giải quyết những vấn đề của thế kỷ 21, tức là hiện nay, những vấn đề của thế kỷ này là chỉ của toàn bộ trái đất, chứ không phải một phần, ông nói rằng cần phải dựa vào học thuyết Khổng Mạnh của Trung Hoa và Phật pháp Đại thừa. Tôi chưa đọc hết toàn bộ trước tác của ông, trước tác của ông vô cùng phong phú, những gì tôi xem được là một số bản phiên dịch của các đoạn ngắn, tôi cảm thấy lời của ông nói là thật, không phải tùy tiện mà nói. Những lời ấy của ông có thể giúp chúng ta khôi phục tín tâm đối với lão Tổ tông, kính ngưỡng đối với cổ Thánh tiên Hiền nước ta. Nếu chúng ta tìm về lão Tổ tông, thì có thể giúp chúng ta vượt qua những gian khổ trước mắt, tiền đồ hiện ra một mảng ánh sáng. Vì vậy việc phục hưng văn hoá truyền thống quan trọng hơn tất cả. Chỉ có xã hội an định hài hòa, đời sống nhân dân hạnh phúc, thì văn hóa mới có thể tiếp tục phát dương quang đại, Phật pháp mới có thể hưng thịnh. Nếu xã hội liên tục động loạn, thì văn hóa sẽ bị hủy diệt, Phật pháp cũng không thể tồn tại ở thế gian này. Chúng ta phải tin, đức Thích Ca Mâu Ni Phật nói với chúng ta, Pháp vận của Ngài là 12.000 năm, Chánh pháp 1.000 năm, Tượng pháp 1.000 năm, Mạt pháp 10.000 năm. Chánh pháp, Tượng pháp đã qua rồi, Mạt pháp 10.000 năm, 1.000 năm thứ nhất đã trôi qua, hiện nay chúng ta là bắt đầu một ngàn năm thứ hai, là năm thứ 41. Lịch sử Trung Hoa của chúng ta ghi lại, đức Thích Ca Mâu Ni Phật diệt độ đến năm nay, là 3041 năm. Người nước ta hết sức coi trọng lịch sử, chúng ta phải tin vào Cổ nhân, lịch sử là kinh nghiệm, những điều truyền lại là trí huệ, là lý niệm, là phương pháp, là kinh nghiệm. Trên thế giới này, chỉ có lịch sử của nước ta là hoàn chỉnh, liên tục mấy ngàn năm, vô cùng quý giá.

Câu tiếp theo 與世超異“dữ thế siêu dị” (siêu vượt hơn đời).《淨影疏》曰:此德孤出,名世超異。又《會疏》曰:不常人所及 “Tịnh Ảnh Sớ viết: thử đức cô xuất, danh thế siêu dị. Hựu Hội Sớ viết: bất thường nhân sở cập” (Trong Tịnh Ảnh Sớ ghi: đức ấy riêng siêu vượt, nên gọi là vượt hơn đời. Còn Hội Sớ nói: bất thường nhân sở cập), Cổ nhân dùng “bất thường nhân sở cập”, chính là hiện nay chúng ta nói “phi thường nhân sở cập”, không phải người bình thường có thể làm được, nên nói là “dữ thế siêu dị”, siêu việt rồi. 又《合贊》曰:或約地上發心,則所謂世者,地前世間之義“Hựu Hợp Tán viết: hoặc ước Địa thượng phát tâm, tắc sở vị thế giả, Địa tiền thế gian chi nghĩa” (Lại nữa, trong Hợp Tán nói: có lẽ phát tâm ở bậc Địa thượng, nếu được gọi là thế, là ý nghĩa thế gian của Địa tiền). Địa tiền gọi là thế gian, Đăng địa xưng là Thánh Nhân. Tiếp theo Niệm lão nói với chúng ta, bởi vì ý nghĩa của Hợp Tán, 對於法藏菩薩 “đối ư Pháp Tạng Bồ-tát” (đối với Bồ-tát Pháp Tạng), lúc đó ngài có địa vị thế nào, ngài làm quốc vương, nghe pháp khai ngộ rồi, từ bỏ vương vị xuất gia tu hành, ngài là địa vị gì, thật phát Bồ-đề tâm, 未敢遽斷,故以疑惑之語出之“vị cảm cự đoán, cố dĩ nghi hoặc chi ngữ xuất chi” (chưa dám đoán chắc, nên dùng ngữ điệu nghi ngờ để nói ra), dùng kiểu ngờ vực này để nói, không dám đoán chắc, nên mới nói là hoặc ước. Hai chữ “hoặc ước” này dùng lời hiện nay để nói, tức là nếu như là, là ý nghĩa này, đây cũng là ngữ khí hoài nghi, không dám đoán chắc. Nếu như là Địa thượng phát tâm, thì địa vị của Bồ-tát Pháp Tạng cao rồi, Địa thượng Bồ-tát là Thánh nhân, Thập tín, Thập trụ, Thập hạnh, Thập hồi hướng, Thập địa, Địa tiền không được xưng là Đại thánh, mà gọi là Thánh nhân, Thánh hiền, Đăng địa là Thánh nhân, Pháp thân Bồ-tát, địa vị rất cao, Thanh văn Duyên giác, Quyền giáo Bồ-tát cũng không thể sánh với quý ngài.

與世超異中之世字,當指初地以前之一切,蓋地前統名世間,登地以上才名出世間 “Dữ thế siêu dị trung chi thế tự, đáng chỉ Sơ địa dĩ tiền chi nhất thiết, cái Địa tiền thống danh thế gian, Đăng địa dĩ thượng tài danh xuất thế gian” (Chữ “thế” trong dữ thế siêu dị, là chỉ tất cả bậc Sơ địa trở xuống, đại khái bậc Địa tiền gọi chung là thế gian, bậc Đăng địa trở lên mới gọi là xuất thế gian). Ý nghĩa của thế gian ở đây thì sâu rồi. Bậc Đăng địa trở xuống, đây là nói về Biệt giáo, Biệt giáo mà Đại sư Thiên Thai chia ra, là Thanh văn, Duyên giác trụ ở Pháp giới Thanh văn, Pháp giới Duyên giác trong Tứ thánh Pháp giới thuộc Thập pháp giới. Còn những vị Bồ-tát đó thì sao? Thập trụ, Thập hạnh, Thập hồi hướng, những ngài ấy ở đâu? Trong Pháp giới Bồ-tát của Tứ thánh Pháp giới, ở trong đó, chứ chưa ra khỏi Thập pháp giới. Sơ địa trở lên đã vượt ra ngoài Thập pháp giới, vượt ra ngoài Thập pháp giới mới gọi là xuất thế gian. Thế gian phải lớn hơn Lục đạo luân hồi mà chúng ta tưởng tượng, lớn rất nhiều, chưa có vượt qua Thập pháp giới đều gọi là thế gian. Lục đạo luân hồi là nội phàm, Lục đạo là một ranh giới, trong đó gọi là nội phàm. Bên ngoài Lục đạo, tức là Tứ thánh Pháp giới của Thập Pháp giới gọi là ngoại phàm, phàm phu ngoài Lục đạo, không phải là Thánh nhân. Đăng địa đây chính là Thánh nhân rồi, vượt qua Thập pháp giới, quý ngài trụ Thật Báo Trang Nghiêm độ của chư Phật Như Lai, tu hành ở Thật Báo độ, địa vị này là cao rồi. Nên trong Chú Giải nói, chữ “thế” là chỉ tất cả bậc Sơ địa trở xuống, đại khái bậc Địa tiền gọi chung là thế gian, bậc Đăng địa trở lên mới gọi là xuất thế gian.

竊窺《合贊》之意,亦偏於法藏當時是地上發心,唯未率言之耳“Thiết khuy Hợp Tán chi ý, diệc thiên ư Pháp Tạng đương thời thị Địa thượng phát tâm, duy vị suất ngôn chi nhĩ” (thầm nghĩ ý của sách Hợp Tán, cũng thiên về ngài Pháp Tạng lúc ấy là bậc Địa thượng phát tâm, chỉ chưa chắc chắn nói ra thôi). Khi Bồ-tát Pháp Tạng mới phát tâm, ngài là địa vị thế nào, trình độ thế nào, trên kinh cũng không có nói chắc chắn, nói Tỳ-kheo Pháp Tạng phát tâm địa vị thế nào, lúc phát tâm ở địa vị gì, 注經家頗有異解 “chú kinh gia phả hữu dị giải” (các nhà chú giải kinh có chút kiến giải khác nhau). Những vị Cao tăng Đại đức đời sau đọc tụng, có cách nhìn khác nhau. 淨影云“Tịnh Ảnh vân” (ngài Tịnh Ảnh nói), đây là Đại sư Huệ Viễn đời nhà Tùy, ngài nói, 今尋發無上心,是地前世間行,下我發無上正覺之心,是地上出世間行 “kim tầm phát Vô thượng tâm, thị Địa tiền thế gian hạnh, hạ ngã phát Vô Thượng Chánh Giác chi tâm, thị Địa thượng xuất thế gian hạnh” (liền phát tâm Vô thượng ở đây, là thế gian hạnh của bậc Địa tiền, con phát tâm Vô Thượng Chánh Giác ở phần sau, là xuất thế gian hạnh của bậc Địa thượng). Đại sư Tịnh Ảnh giải thích như vậy, những Đại đức như ngài Nghĩa Tịch, Vọng Tây cũng giống như cách nói của ngài Huệ Viễn. 蓋謂此段之發心,位在地前“Cái vị thử đoạn chi phát tâm, vị tại Địa tiền” (Ý nói sự phát tâm của đoạn này, là địa vị ở bậc Địa tiền). Phẩm thứ năm, phẩm tiếp theo, trong phẩm tiếp theo nói về phát tâm, 第五品中之發心,乃是地上菩薩發心 “đệ ngũ phẩm trung chi phát tâm, nãi thị Địa thượng Bồ-tát phát tâm” (sự phát tâm trong phẩm thứ năm, mới là bậc Địa thượng Bồ-tát phát tâm), có cách nói như vậy. Còn Pháp sư Đàm Loan, Pháp sư Gia Tường, Đại sư Thiện Đạo, cách nói của các ngài và sách Chân Giải khác với phía trước. Chân Giải, Chân Giải gồm có Đại sư Thiện Đạo, cách nói của các ngài khác với phía trước. Trong Chân Giải nói, 破淨影曰:說有前後 “phá Tịnh Ảnh viết: thuyết hữu tiền hậu” (giải thích [cách nói của] ngài Tịnh Ảnh rằng: cách nói có trước sau), trước chính là đoạn này, sau tức là phẩm thứ năm, 發心無有二,唯是一發心也 “phát tâm vô hữu nhị, duy thị nhất phát tâm dã” (phát tâm không có hai, chỉ có một sự phát tâm thôi). Trong đây bao gồm Đại sư Thiện Đạo. Chúng ta biết Đại sư Thiện Đạo là biểu pháp của A Mi Đà Phật ứng hóa ở Trung Hoa, người Nhật Bản vô cùng tin tưởng, họ đều công nhận Đại sư Thiện Đạo là A Mi Đà Phật hóa thân đến. Tịnh Độ tông của Nhật Bản, Tổ sư đời thứ nhất chính là ngài Thiện Đạo. Một số Đại đức của Nhật Bản cũng rất tuyệt vời, vào thời đại Tùy Đường các ngài đến Trung Hoa để du học, thân cận ngài Thiện Đạo, thân cận Đại sư Trí Giả của Thiên Thai tông, có rất nhiều người. Nên Tịnh Độ tông và Thiên Thai tông ở Nhật Bản cực kỳ hưng thịnh, tuyệt đại đa số chùa chiền đều là thuộc về hai nhà này.

Chúng ta xem tiếp lời của Niệm lão, 蓋謂此段是釋尊說法藏菩薩之發心,後段是法藏比丘自述所發心。又後說亦只是重述此發心。是以經中所說雖有先後之次,詳略之別,而法藏所發唯是一心,並無有二也。《甄解》之見甚是 “cái vị thử đoạn thị Thích Tôn thuyết Phát Tạng Bồ-tát chi phát tâm, hậu đoạn thị Pháp Tạng Tỳ-kheo tự thuật sở phát tâm. Hựu hậu thuyết diệc chỉ thị trùng thuật thử phát tâm. Thị dĩ kinh trung sở thuyết tuy hữu tiên hậu chi thứ, tường lược chi biệt, nhi Pháp Tạng sở phát duy thị nhất tâm, tịnh vô hữu nhị dã. Chân Giải chi kiến thậm thị” (Đại khái nói rằng: đoạn này là đức Thích Ca Thế Tôn nói sự phát tâm của Bồ-tát Phát Tạng, đoạn sau là Tỳ-kheo Pháp Tạng tự thuật những gì phát tâm. Và sau đó nói cũng chỉ là thuật lại sự phát tâm này. Vì vậy trong Kinh nói tuy có thứ tự trước sau, sự khác về tường tận hay sơ lược, nhưng những gì ngài Pháp Tạng phát chỉ là một tâm, cũng không có hai. Cách nhìn của Chân Giải rất đúng). Đây là lời khẳng định của Niệm lão, những gì Chân Giải nói là có đạo lý. Chân Giải và Đại sư Thiện Đạo, ngài Gia Tường, Đại sư Đàm Loan, đều là cách nói như thế. Tiếp theo lại trích dẫn, 《甄解》復云:其龍樹大士為初地(指所判法藏比丘發心之位)“Chân Giải phục vân: kỳ Long Thọ Đại sĩ vi Sơ địa (chỉ sở phán Pháp Tạng Tỳ-kheo phát tâm chi vị)” (trong Chân Giải lại nói: còn Đại sĩ Long Thọ là Sơ địa (dụng ý đã phán định địa vị phát tâm của Tỳ-kheo Pháp Tạng)), ngài Long Thọ là Sơ địa Bồ-tát, 或為八地 “hoặc vi Bát địa” (hoặc là Bát địa), cũng có người xưng ngài là Bát địa. 亦是從果向因 “Diệc thị tùng quả hướng nhân” (Cũng là từ quả hướng nhân), không phải từ nhân hướng quả, mà từ quả hướng nhân điều này thật thù thắng, 大與諸師別也“đại dữ chư sư biệt dã” (nói chung khác với các vị sư), không giống với cách nhìn của các vị sư khác. 蓋據《大論》“Cái cứ Đại Luận” (Bởi vì căn cứ vào Đại Luận), Đại Luận là Luận Đại Trí Độ, 龍樹大士判法藏菩薩發心,或位居初地,或居八地。皆是地上發心,故大不同於餘師也。《甄解》之說實有所據 “Long Thọ Đại sĩ phán Phát Tạng Bồ-tát phát tâm, hoặc vị cư Sơ địa, hoặc cư Bát địa. Giai thị Địa thượng phát tâm, cố đại bất đồng ư dư sư dã. Chân Giải chi thuyết thật hữu sở cứ” (Đại sĩ Long Thọ phán định sự phát tâm của Bồ-tát Phát Tạng, hoặc địa vị ở Sơ địa, hoặc ở Bát địa. Đều là bậc Địa thượng phát tâm, nên đại khái không giống với các vị sư khác. Cách nói của Chân Giải thật có căn cứ). Chân Giải là căn cứ vào cách nói của Bồ-tát Long Thọ trong Luận Đại Trí Độ, nên là nói ngài có căn cứ.

《法華壽量品》曰:我 “Pháp Hoa Thọ Lượng Phẩm viết: Ngã” (trong Phẩm Thọ Lượng của Kinh Pháp Hoa nói: Ta), Ta là đức Thích Ca Mâu Ni Phật tự xưng, 實成佛以來,無量無邊百千萬億那由他劫“thật thành Phật dĩ lai, vô lượng vô biên bá thiên vạn ức na-do-tha kiếp” (thật sự thành Phật đến nay, đã vô lượng vô biên trăm ngàn vạn ức na-do-tha kiếp). Đây là trên hội Pháp Hoa, đức Thích Ca Mâu Ni Phật nói ra lời thật. Đức Thích Ca Mâu Ni Phật có phải lần đầu tiên thành Phật trong Thế giới này của chúng ta không? Ngài là đến để biểu diễn, biểu diễn trên sân khấu, tám tướng thành đạo, thành Phật rồi. Tiểu thừa cho là thật, trong tâm của người Đại thừa rất sáng tỏ, đức Thế Tôn đã thành Phật từ lâu rồi, không phải hiện nay mới thành Phật. Trong Kinh Phạm Võng, đức Thế Tôn nói, lần này Ngài đến trong thế gian, đến trên địa cầu này, biểu diễn tám tướng thành đạo thành Phật là lần thứ 8.000. Biểu diễn như thế này, đã biểu diễn 8.000 lần, mà chúng ta hoàn toàn không biết. Điều này nói rằng từ kiếp lâu xa Ngài đã thành Phật rồi, như đã nói ở đây, trên Kinh Pháp Hoa nói, vô lượng vô biên trăm ngàn vạn ức na-do-tha kiếp đã thành Phật rồi. A Mi Đà Phật ở Thế giới Tây Phương Cực Lạc có phải lần đầu tiên thật sự thành Phật ở đó hay không? Chúng ta nhìn sai rồi, A Mi Đà Phật ở Thế giới Cực Lạc cũng là biểu diễn. Bởi vì lần đầu tiên Ngài thành Phật thời gian đến hiện nay là 10 kiếp, sau khi đức Thích Ca Mâu Ni Phật diệt độ, bao gồm Pháp vận 12.000 năm của Ngài, A Mi Đà Phật thành Phật ở Thế giới Cực Lạc đến hiện nay là 10 kiếp, nên từ đây chúng ta có thể lãnh hội được, A Mi Đà Phật chắn chắn cũng là đã thành Phật từ nhiều kiếp lâu xa rồi, trong khắp Pháp giới hư không giới làm thị hiện này, cũng là vô lượng vô biên, không chỉ một lần. Thế giới Cực Lạc vô lượng vô biên, ngàn bá ức hóa thân của A Mi Đà Phật, có thể tìm ra được những dấu tích này trong kinh điển. 經中復云釋尊與彌陀 “Kinh trung phục vân Thích Tôn dữ Mi Đà” (Trong kinh còn nói đức Thích Ca Thế Tôn và đức Mi Đà), tức trên Kinh Pháp Hoa nói, mối quan hệ giữa Thích Ca Mâu Ni Phật và A Mi Đà Phật, đức Thế Tôn và đức Mi Đà, 於無量阿僧祇劫前 “ư vô lượng a-tăng-kỳ kiếp tiền” (trong vô lượng A-tăng-kỳ kiếp trước), vô lượng ở đây là thật sự vô lượng vô biên, 同為大通智勝如來前之王子。故知阿彌陀如來成佛亦極久遠,法藏比丘正是從果向因 “đồng vi Đại Thông Trí Thắng Như Lai tiền chi Vương tử. Cố tri A Mi Đà Như Lai thành Phật diệc cực cửu viễn, Pháp Tạng Tỳ-kheo chánh thị tùng quả hướng nhân” (cùng là Vương tử trước của Đại Thông Trí Thắng Như Lai. Vì vậy biết A Mi Đà Như Lai thành Phật cũng rất lâu xa rồi, Tỳ-kheo Pháp Tạng chính là từ quả hướng nhân). Đây chính là do cổ Phật đến đây để thị hiện, đã thành Phật từ lâu rồi, đức Thích Ca Mâu Ni Phật cũng vậy, vô lượng a-tăng-kỳ kiếp trước đã thành Phật rồi, đều là từ quả hướng nhân.

『信解明記,悉皆第一』“Tín giải minh ký, tất giai đệ nhất” (Tín giải minh ký, đều là bậc nhất). Tín là tin nhận, quyển thứ hai của Đại Thừa Nghĩa Chương nói, 於三寶等淨心不疑名信 “ư Tam Bảo đẳng tịnh tâm bất nghi danh tín” (đối với Tam Bảo vân vân tâm thanh tịnh không nghi gọi là tín). Tam Bảo là Phật Pháp Tăng, chữ “đẳng” đó là những vị Cao tăng Đại đức, Bồ-tát Thanh văn nương vào Phật Pháp Tăng, nương vào Tam Bảo tu thành chứng quả, có thể dùng tâm thanh tịnh để cảm nhận, không có chút hoài nghi nào, vậy mới gọi là tín. Quyển thứ sáu của Kinh Hoa Nghiêm bản Tấn Dịch, đây là bản dịch lần đầu tiên ở Trung Hoa, gọi là Tấn Dịch, 信為道元功德母,……示現開發無上道 “tín vi đạo nguyên công đức mẫu, … thị hiện khai phát Vô Thượng đạo” (tin là nguồn đạo, là mẹ của công đức, … thị hiện khai phát Vô Thượng đạo). Vì sao Phật thị hiện? Bởi thế gian này có người tin tưởng, nên Phật mới thị hiện. Nếu không có người tin, thì Ngài không thị hiện. Nên ngày nay Phật không thị hiện ở thế gian này, tại vì sao? Bởi nếu Phật thị hiện nhất định sẽ khiến cho người ta hủy báng, nói Ngài dùng tà thuyết mê hoặc mọi người, nói Ngài lừa gạt chúng sanh, nói Ngài mê tín. Thật sự có người tin tưởng, thiện căn phước đức sâu dày! Trên Kinh Mi Đà nói, 不可以少善根福德因緣得生彼國 “bất khả dĩ thiểu thiện căn phước đức nhân duyên đắc sanh bỉ quốc” (không thể dùng ít thiện căn phước đức nhân duyên mà được sanh về cõi ấy), đạo lý là ở đây. Quả thật chỉ có người có đại thiện căn đại phước đức, tiếp xúc với Tam Bảo thì tin sâu không nghi.

Chúng tôi khác rất xa với những người ấy. Khi tôi tiếp nhận Phật pháp, là theo thầy Phương học Triết học, xem Phật pháp Đại thừa như Triết học cấp cao, từ đây vào cửa, bán tín bán nghi đối với những điều nói trong kinh, là từ góc độ Triết học để nhìn Phật pháp. Coi là không tệ rồi, nhưng không phải là Chánh tri Chánh kiến. Đến lúc cuối đời thầy đã đồng ý Quy Y, lúc đó thầy 79 tuổi. Năm 1977, tôi đến Hồng Kông để giảng kinh, ở Hồng Kông nghe nói thầy đã chính thức Quy Y rồi, người truyền Quy Y cho thầy là lão Hòa thượng Quảng Khâm. Tôi biết lão Hòa thượng ấy, năm xưa tôi giảng Kinh Địa Tạng ở chùa Pháp Hoa, nhớ là lão Hòa thượng đến nghe hai lần. Thầy Phương tiếp nhận Quy Y, khoảng nửa năm thì vãng sanh rồi, cũng thật không dễ. Khi còn trẻ, tôi đoán ngài cũng không quá ba mươi mấy tuổi, lúc trẻ, bị ốm đau, dưỡng bệnh ở núi Nga Mi, xem kinh Phật, ngài có trí huệ, rất thông minh, ngài có thể xem hiểu được, sanh ra sự hứng thú say mê, cả đời chưa từng rời khỏi bản kinh. Khi tôi theo ngài học tập, ngài phải là hơn 50 tuổi. Nên chữ “tín” này khó biết bao! Tôi có thể sanh ra tín tâm đối với Phật pháp, là được lão Cư sĩ Chu Kính Trụ, Pháp sư Sám Vân, Đại sư Chương Gia, được sự chỉ bảo của các ngài, nhưng niềm tin đối với Tịnh Độ, là trong khoảng thời gian đang giảng Kinh Hoa Nghiêm mới thật sự tin, thật sự tiếp nhận. Tôi học Phật khoảng 30 năm, giảng kinh cũng hơn 20 năm mới tin tưởng, nên trên kinh nói là pháp khó tin, tôi thể hội được rất sâu, là thật không phải giả.

解者,了解,開解,解了 “Giải giả, liễu giải, khai giải, giải liễu”(Giải: là liễu giải, khai giải, giải liễu), có những ý nghĩa này. 《華嚴經》以信解行證為綱要 “Hoa Nghiêm Kinh dĩ Tín Giải Hành Chứng vi cương yếu”(Kinh Hoa Nghiêm lấy Tín Giải Hành Chứng làm cương lĩnh quan trọng). Một bộ Kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm giảng điều gì? Là giảng bốn chữ này. Đại sư Thanh Lương chia toàn bộ Kinh Hoa Nghiêm thành bốn phần, là dùng bốn chữ này: Tín Giải Hành Chứng. 蓋因真實信解,方能生起真實行證 “Cái nhân chân thật tín giải, phương năng sanh khởi chân thật hành chứng”(Bởi nương tín giải chân thật, mới có thể sanh khởi hành chứng chân thật). Tin là quan trọng nhất trong bốn chữ này. Không có thật tin thì không thể thật giải, tại sao? Bởi quý vị có hoài nghi, tuy quý vị giảng kinh, nhưng sẽ giảng lệch kinh, giảng sai kinh rồi, đó chính là quý vị có nghi ngờ. Trong những năm đầu, lúc tôi theo thầy Phương học tập, ngài nói những kinh Đại thừa này dùng Triết học để giải thích, là rất cao minh, nhưng không phải là nghĩa chân thật của Như Lai. Thêm 20 năm, thầy Phương là thật làm, không rời khỏi kinh bản một ngày, cuối cùng đã làm rõ ràng, làm sáng tỏ, thì tín tâm này mới sanh khởi được. Tuy muộn, mất thời gian dài như vậy, nhưng tín tâm vừa sanh khởi, là vô cùng đáng quý. Nếu gặp được Pháp môn Tịnh Độ, lão Hòa thượng Quảng Khâm học Thiền, nhưng cả đời khuyên người niệm Phật, bởi vì tôi giảng kinh ở Hồng Kông, khoảng thời gian đó không ở Đài Loan, tôi không biết lúc lâm chung thầy Phương có niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ hay không, nếu là niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ, thì ngài nhất định có thể được sanh. Đó là gì? Đó là tín tâm của ngài tăng lên đến đẳng cấp này, năng tín năng giải năng hành năng chứng. Ngài yêu thích nhất là Kinh Hoa Nghiêm, lúc đó giới thiệu cho tôi là Hoa Nghiêm Sớ Sao, của Đại sư Thanh Lương, Hợp Luận của Trưởng giả Lý, muốn tôi đọc hai loại Chú Giải này. Sau này tôi có một thời gian tương đối dài giảng Kinh Hoa Nghiêm, tài liệu tham khảo tôi dùng chính là Sớ Sao và Hợp Luận. Vì vậy thật tin thật giải mới có thật hành thật chứng.

Tiếp theo 又明記者,記憶分明也。於所聞法,記憶不忘,了了分明,故云明記 “hựu minh ký giả, ký ức phân minh dã. Ư sở văn pháp, ký ức bất vong, liễu liễu phân minh, cố vân minh ký”(thêm nữa minh ký là nhớ rõ phân minh. Đối với pháp đã nghe: nhớ rõ không quên, rõ ràng phân minh, nên nói là minh ký). Nhớ rất rõ ràng. Trí nhớ của người, sự ghi nhớ, khi còn trẻ thì tốt, khi về già suy giảm, sức ghi nhớ suy giảm đi. Chúng ta thấy có không ít người khi mạng sắp hết bệnh khổ, mất trí nhớ, con của mình cũng không biết nữa, đến chăm sóc họ, họ còn hỏi, bạn là ai? Bạn tên là gì? Cũng hỏi, đây là nói rõ trí nhớ sẽ bị mất. Làm sao giữ được trí nhớ? Tâm thanh tịnh có tác dụng, tâm bình đẳng có tác dụng. Trên đề kinh này của chúng ta đặc biệt nhắc nhở chúng ta, đời người ở thế gian phải dùng tâm thanh tịnh, không nên bị pháp thế gian làm ô nhiễm, cũng đừng bị Phật pháp làm ô nhiễm. Trên Kinh Kim Cang nói rất hay, 法尚應捨,何況非法 “pháp thượng ưng xả, hà huống phi pháp”(pháp còn nên xả, huống hồ phi pháp), phi pháp là pháp thế gian. Pháp thế gian và xuất thế gian đều phải buông xuống, tại sao vậy? Bởi đó không phải là thật, thật chính là Tự Tánh. Buông xuống tất cả, thì Tự Tánh hiện tiền. Tự Tánh của chúng ta không thể hiện ra, chính là vì không buông xuống, không có buông xuống chướng ngại. Kiến tư Phiền não, Trần sa Phiền não, Vô minh Phiền não đều là chướng ngại của Tự Tánh, buông xuống ba thứ này liền Minh tâm Kiến tánh. Minh tâm Kiến tánh vậy thì không gì không biết, như đã nói ở đây, “tín giải minh ký, tất giai đệ nhất”. Tất giai đệ nhất cũng có hai cách giải thích, cách thứ nhất, 至高無上,人莫能超 “chí cao vô thượng, nhân mạc năng siêu” (chí cao vô thượng, không ai vượt qua được), không ai có thể vượt qua được ngài, đây là một cách giải thích; cách giải thích thứ hai, 所信所解所契 “sở tín sở giải sở khế” (sự tín sự giải sự khế nhập), khế chính là nhập, chính là cảnh giới chứng được, 悉契第一義諦。故云悉皆第一“tất khế Đệ nhất Nghĩa đế. Cố vân tất giai đệ nhất” (đều khế hợp Đệ nhất Nghĩa đế. Nên nói là tất giai đệ nhất). Ý nghĩa thứ hai này sâu, vì sao? Bởi tương ưng với Tự Tánh, đây gọi là khế nhập Đệ nhất Nghĩa đế. Đệ nhất Nghĩa đế chính là Chân Như Tự Tánh, Bản tánh, Lục tổ Đại sư Huệ Năng gọi là Tự Tánh, “nào ngờ Tự Tánh, có thể sanh vạn pháp”, đây thật sự là bậc nhất.

Chúng ta xem khoa tiếp theo 行願精進 “Hạnh Nguyện Tinh Tấn” (Hạnh Nguyện Tinh Tấn), phía trước nói tín giải, ở đây nói hạnh nguyện.

【又有殊勝行願。及念慧力。增上其心。堅固不動。修行精進。無能踰者。】“Hựu hữu thù thắng hạnh nguyện, cập niệm huệ lực. Tăng thượng kỳ tâm, kiên cố bất động. Tu hành tinh tấn, vô năng du giả” (Lại có hạnh nguyện thù thắng và Niệm lực Huệ lực. Tăng tiến tâm ấy, kiên cố không động. Tu hành tinh tấn, không ai hơn được).

『無能踰』“Vô năng du” (không ai hơn được), không ai có thể so sánh được với ngài. Chúng ta xem Chú Giải của Niệm lão, lại có đại hạnh đại nguyện thù thắng, còn có Niệm lực Huệ lực, 『增上其心,堅固不動』“tăng thượng kỳ tâm, kiên cố bất động” (tăng tiến tâm ấy, kiên cố không động). Về niệm, niệm niệm liên tục, Niệm lực, Huệ lực trong Ngũ lực hiện tiền, nên là kiên cố không động. 殊勝者,佛教術語 “Thù thắng giả, Phật giáo thuật ngữ” (Thù thắng: là thuật ngữ của Phật giáo). Thù, là đặc biệt; thắng là siêu việt. 事之超凡絕俗,世間希有者曰殊勝 “Sự chi siêu phàm tuyệt tục, thế gian hy hữu giả viết thù thắng” (Việc siêu phàm hơn thường tình, hiếm có ở thế gian gọi là thù thắng), đây là ý nghĩa của hai chữ này. 行願者,乃身行與心願相資 “Hạnh nguyện giả, nãi thân hạnh dữ tâm nguyện tương tư” (Hạnh nguyện chính là thân hạnh và tâm nguyện giúp đỡ lẫn nhau), tư là tăng thêm lẫn nhau. 《菩提心論》曰:求菩提者,發菩提心,修菩提心。發者,信願也,修者,行也“Bồ Đề Tâm Luận viết: cầu Bồ-đề giả, phát Bồ-đề tâm, tu Bồ-đề tâm. Phát giả, tín nguyện dã, tu giả, hành dã” (Trong Luận Bồ Đề Tâm nói: cầu Bồ-đề: là phát tâm Bồ-đề, tu tâm Bồ-đề. Phát: là tín nguyện. Tu: là hành). Hành là thật làm, hiện nay chúng ta nói thực hiện, đem tâm hạnh và nguyện đã phát của chúng ta, thực hiện ngay trong cuộc sống, áp dụng trong công việc, vận dụng trong xử việc đối người tiếp vật, đây là hành. Chúng ta nhìn thấy rất nhiều tín giải, nhưng rất ít nhìn thấy hành chứng, nếu chỉ có tín giải mà không có hành chứng, thì Phật pháp trở thành pháp thế gian rồi. Phật giáo hiện nay, trong xã hội hiện nay, có rất nhiều hình thức khác nhau, chúng ta chẳng thể không biết. Đầy đủ Tín Giải Hành Chứng, đây là điều mà đức Thích Ca Mâu Ni Phật đã truyền. Có tín, không có giải hành, đó là mê tín; có tín có giải, không có hành, trở thành Phật học của thế gian, hiện nay gộp vào trong Triết học, Triết học Kinh Phật. Họ có tín, họ có giải, nghiên cứu, cũng giảng kinh dạy học, thậm chí viết rất nhiều sách, nhưng họ không có tu hành, đời sau vẫn trong Lục đạo luân hồi không thể vượt khỏi. Chúng ta chẳng thể không biết điều này, Phật pháp của học thuật, Phật pháp của Triết học, tương lai rất có thể sẽ phát triển biến hóa thành Phật pháp của khoa học, đều không thể liễu sanh tử, cũng không thể ra khỏi Tam giới, nhất định chúng ta phải biết điều này.

Nên chỉ có pháp của đức Thích Ca Mâu Ni Phật, đầy đủ Tín Giải Hành Chứng, vãng sanh đến Thế giới Cực Lạc chính là chứng quả. Nói đến chữ “chứng”, thì Pháp môn Tịnh tông thù thắng nhất, thù thắng không gì sánh được. Bởi vì 84.000 Pháp môn, vô lượng Pháp môn đều dựa vào tự lực, tự mình đoạn phiền não chứng Bồ-đề. Bồ-đề tức là cấp bậc của Bồ-tát, giống như Hoa Nghiêm nói, Thập tín, Thập trụ, Thập hạnh, Thập hồi hướng, Thập địa, Đẳng giác, Diệu Giác, đó là cấp bậc của Bồ-tát. Vì sao khó? Bởi nhất định phải đoạn phiền não mới có thể chứng được. Phiền não dần dần dứt hết, thì cấp bậc của Bồ-tát tăng dần lên, đây gọi là Pháp môn thông thường. 84.000 Pháp môn đều là như vậy, không có ngoại lệ. Tịnh Độ là ngoại lệ, không nương vào tự lực, mà hoàn toàn dựa vào bản nguyện oai thần, thông lực, thần thông lực của A Mi Đà Phật, không dựa vào chính mình, hoàn toàn dựa vào A Mi Đà Phật, nương tựa chắc chắn. Có hiệu quả không? Có hiệu quả không thể nghĩ bàn. Ví dụ quá nhiều rồi, trong Tịnh Độ Thánh Hiền Lục có ghi, trong Truyện Vãng Sanh có ghi, đều đáng để chúng ta noi theo. Điều khó được nhất chính là trước mặt của chúng ta, rất nhiều người niệm Phật vãng sanh, quý vị xem tướng lành khi họ vãng sanh, tướng lành thù thắng nhất: không gì hơn được tự tại vãng sanh. Ai không cầu? Trong đời này không có bệnh khổ, không có lão khổ, không có tử khổ, thật có thể làm được. Ở trước mắt của chúng ta, không tính quá xa, năm ngoái lão Hòa thượng Hải Hiền vãng sanh. Chúng ta không tận mắt chứng kiến, nhưng chúng ta nhìn thấy trên đĩa phim rồi, có người đã quay video ghi lại quá trình của ngài, chúng ta nhìn thấy rồi. Không ngờ trong thời gian dài như vậy, ở rất gần với lão Hòa thượng Hải Hiền, trong một thị trấn nhỏ, một thôn làng, thường hay tiếp xúc với lão Hòa thượng, những người ấy nhớ lại từng ly từng tí cuộc đời của lão Hòa thượng, hiện nay cũng có người ghi lại. Tư liệu này rất quý báu, vì sao vậy? Bởi Tác chứng chuyển cho chúng ta, đặc biệt là tín tâm không đủ, kiến thức nửa vời, đối với những người ấy sẽ khởi tác dụng rất lớn.

Chúng ta có muốn rời khổ được vui không? Khi lão Hòa thượng còn ở đời học Phật 92 năm, 20 tuổi bắt đầu niệm Phật, 112 tuổi vãng sanh, đã niệm một câu Phật hiệu 92 năm. Quý vị xem hiệu quả của ngài, hiệu quả chính là lìa khổ được vui. Cả đời ngài bất luận vào lúc nào, bất kể ở nơi nào, quý vị nhìn thấy ngài, ngài đều mỉm cười, thể hiện vô cùng hạnh phúc. Suốt đời không tranh với người, không cầu với đời, hai câu này thì ngài đã làm được 100%, thật sự vô tranh vô cầu. Trải qua cuộc sống rất đơn giản, rất tự tại, rất an tâm. Thời còn nhỏ sanh trong gia đình nông dân, cha là nông dân, gia cảnh thanh bần, năm anh chị em, cha mẹ nuôi năm người vất vả biết bao, nên không được đi học, không biết chữ, nhưng đối với kinh nghiệm làm nông thì rất phong phú, từ nhỏ lớn lên trong ruộng vườn. Nên sau khi xuất gia, ngài cũng là lấy việc canh tác làm tu hành. Bởi vì chùa nghèo khó, không có nhang đèn, không có nguồn sống, ngài còn trẻ, biết canh tác, biết rất nhiều về mặt này, hơn nữa lại rất chịu khó, đất ở nông thôn nhiều, nên khai khẩn, cả đời ngài đã khai khẩn 14 mảnh đất hoang, tổng diện tích hơn 100 mẩu. Trồng lương thực, trồng rau, trồng cây ăn trái, cũng trồng cây, cả đời trồng rất nhiều cây, thích trồng cây gây rừng. Ngôi chùa nhỏ chỉ có năm người ở, nhu cầu sinh hoạt không nhiều, lương thực, rau, trái cây dư thừa, ngài không đem đi bán, mà hoàn toàn cứu tế người nghèo khổ. Ở mấy huyện xung quanh đó, nơi nào người không có lương thực để ăn thì biếu lương thực, không có rau thì biếu rau, bố thí, nội tài ngoại tài, ngày ngày tu bố thí. Một câu Phật hiệu niệm đến cùng, câu Phật hiệu này đầy đủ các giới, Giới luật do đức Thích Ca Mâu Ni Phật đã thuyết, tất cả đều ở trong một câu Phật hiệu này, trì giới tinh nghiêm. Tam học Lục độ, Thập đại Nguyện vương, quý vị tỉ mỉ để quan sát, ngài đều làm được từng điều rồi, làm được rất triệt để, làm được rất viên mãn, quả thật là tấm gương tốt nhất cho người niệm Phật tu Tịnh Độ. Bản tánh ôn hòa lương thiện, có tâm yêu thương, có thể giúp tất cả chúng sanh, nên mọi người đều thích thân cận ngài, ở nơi đó, tuy chưa từng đi học, không biết chữ, nhưng mọi người đều gọi là ngài là thiện nhân.

Việc cảm ứng niệm Phật rất nhiều, thường nghe và thấy nhất, là A Mi Đà Phật, Thế giới Cực Lạc, Ngài rất quen thuộc, vì sao vậy? Bởi thấy Phật rồi. Chúng ta tin, trong Chương Đại Thế Chí Viên Thông trên Kinh Lăng Nghiêm nói, “ức Phật niệm Phật”, ức là trong tâm nghĩ Phật, trong miệng niệm Phật, “hiện tiền đương lai, tất định kiến Phật”. Quý vị thật nghĩ Phật, Phật sẽ hiện thân cho quý vị thấy, ngay cả Thế giới Cực Lạc cũng sẽ được quý vị nhìn thấy. Trong truyện ký chúng ta thấy Đại sư Huệ Viễn, là Sơ tổ của Tịnh Độ tông chúng ta, vào thời đại Đông Tấn, trong đời Đại sư Huệ Viễn bốn lần thấy Phật, thấy Thế giới Cực Lạc, ngài tin tưởng. Vào niên đại đó, kinh điển của Tịnh Độ tông chính là một bộ Kinh Vô Lượng Thọ, còn các kinh điển khác: Kinh Mi Đà, Kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật đều chưa được phiên dịch. Nên ngài lập hội ở Lô Sơn, 123 người chí đồng đạo hợp cùng niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ, ai ai cũng thành tựu, không thể nghĩ bàn. Ngài bốn lần thấy Phật, ba lần đầu không nói với mọi người, lần cuối cùng lần thứ tư, A Mi Đà Phật tiếp dẫn ngài vãng sanh, ngài mới nói với mọi người, Phật đến tiếp dẫn tôi vãng sanh, đây là lần thứ tư tôi nhìn thấy A Mi Đà Phật, Thế giới Cực Lạc. Người khác hỏi ngài, Thế giới Cực Lạc như thế nào? Hoàn toàn giống với những gì nói trong kinh điển. Đại sư Huệ Viễn lần đầu tiên thấy A Mi Đà Phật vào lúc nào, ngài không nói, chỉ là khi nhìn thấy lần cuối cùng mới nói với mọi người, tôi nhìn thấy cảnh giới này lần thứ tư.

Chúng ta có lý do tin rằng, thời gian niệm Phật của lão Hòa thượng Hải Hiền dài, là 92 năm, 92 năm một câu Phật hiệu không gián đoạn. Nếu quý vị hỏi ngài đã thấy Phật bao nhiêu lần, không nói rõ, tôi đoán chừng bảo thủ nhất, sẽ không dưới mười lần. Chúng ta cũng có thể cảm nhận được công phu niệm Phật của ngài. Thông thường trên kinh nói với chúng ta, công phu cạn nhất của người niệm Phật, cũng chính là nói đảm bảo quý vị vãng sanh, là Công phu Thành phiến. Thế nào là Công phu Thành phiến? Trong 12 thời, ngày nay chúng ta nói 24 giờ, Phật hiệu trong tâm không có gián đoạn, ngoài trừ A Mi Đà Phật, thì trong tâm không có gì nữa, buông xuống tất cả rồi, chỉ có A Mi Đà Phật, đây gọi là Công phu Thành phiến. Người niệm Phật niệm đến công phu này, sẽ thấy Phật. Bồ-tát Đại Thế Chí nói không sai, “hiện tiền đương lai, tất định kiến Phật”, hiện tiền là hiện tại, đương lai là vãng sanh Thế giới Cực Lạc. Chúng ta coi trọng hiện tại, hiện tiền thấy Phật. Lúc này thấy Phật, Phật sẽ nói với quý vị, thọ mạng của quý vị còn bao lâu, đến khi mạng quý vị sắp hết, Phật đến tiếp dẫn quý vị. Tương đương với việc thọ ký cho quý vị, Thế giới Cực Lạc đã có tên của quý vị rồi, đến lúc đó A Mi Đà Phật nhất định sẽ đến. Lần thứ hai thấy Phật, cũng tức là thọ mạng gần hết rồi, thường là ba tháng, hoặc một tháng, Phật sẽ đến thông báo cho quý vị, nói cho quý vị biết ngày nào giờ nào, đây là lần thứ hai. Lần thứ ba chính là tiếp dẫn quý vị vãng sanh, Phật thật đến vào thời gian đã hẹn với quý vị, dẫn quý vị đến Thế giới Cực Lạc. Nên người niệm Phật hiện tiền thấy Phật ít nhất là ba lần, lần thứ ba Ngài tới tiếp dẫn quý vị vãng sanh. Đến Thế giới Tây Phương Cực Lạc, thì ngày nào quý vị cũng thấy Phật, quý vị không rời khỏi A Mi Đà Phật, đó gọi là đương lai.

Vào Công phu Thành phiến, có rất nhiều người thấy được A Mi Đà Phật, liền yêu cầu với A Mi Đà Phật, dẫn con vãng sanh, không cần thọ mạng nữa. A Mi Đà Phật rất từ bi, nhất định đồng ý với quý vị, dẫn quý vị đi. Chúng ta tin rằng lão Hòa thượng Hải Hiền, ngài niệm Phật 3 năm, nhiều lắm 5 năm, nhất định đạt được cảnh giới này, vì ngài ấy thật thà. Thật thà, nghe lời, thật làm, đây chính là điều kiện để ngài thành tựu. Có ba điều kiện này, chẳng có ai không thành tựu. Thật thà, nghe lời, thật làm, nên ngài niệm Phật 5 năm, nhất định được Công phu Thành phiến. Ngài có cầu vãng sanh không? A Mi Đà Phật nói với ngài, con tu rất tốt, ở thế gian thêm vài năm, làm tấm gương tốt cho Đệ tử nhà Phật, cho người học Tịnh tông. Phật giao sứ mạng cho ngài, nên không dẫn ngài vãng sanh. Trên cơ sở này, ngài tiếp tục dùng thêm 3 hay 5 năm công phu nữa, chắc chắn được Niệm Phật Tam-muội, tức là Sự nhất tâm Bất loạn, niệm trừ hết Kiến tư Phiền não rồi. Nếu muốn vãng sanh, thì sanh Phương Tiện Hữu Dư độ, Công phu Thành phiến là sanh Phàm Thánh Đồng Cư độ, địa vị này cũng cao rồi. Phật vẫn chưa dẫn ngài đi, còn bảo ngài ở thế gian làm biểu pháp. Lại ba đến 5 năm nữa, sẽ nâng cao đến Lý nhất tâm Bất loạn, Lý nhất tâm Bất loạn chính là Đại triệt Đại ngộ Minh tâm Kiến tánh bên Thiền tông, vãng sanh Thế giới Cực Lạc sanh Thật Báo Trang Nghiêm độ. A Mi Đà Phật vẫn chưa dẫn ngài đi. Tôi tin rằng thọ mạng của ngài là khoảng bảy 80 tuổi, làm sao được 112 tuổi chứ! Vậy vì sao Phật vẫn chưa dẫn ngài đi? Ngài nói rằng, nhiều lần hướng đến Lão Phật Gia yêu cầu, nhưng Lão Phật Gia đều không đáp ứng ngài, nói ngài tu rất tốt, lưu lại ở thế gian làm biểu pháp cho mọi người, làm tấm gương tốt, nên ngài có sứ mạng. Phật giao cho ngài một sứ mạng cuối cùng, chính là tỏ rõ quyển sách Nếu Muốn Phật Pháp Hưng, Chỉ Có Tăng Tán Thán Tăng, chắc là nói, con nhìn thấy quyển sách ấy, thì Ta đến tiếp dẫn con. Chúng ta có lý do để tin, nhất định ngài đã làm được điều nói trong Kinh Lăng Nghiêm, 憶佛念佛,現前當來,必定見佛 “ức Phật niệm Phật, hiện tiền đương lai, tất định kiến Phật”(nhớ Phật niệm Phật, hiện tại tương lai, nhất định thấy Phật), đó chính là nói, ngài nghĩ A Mi Đà Phật, thì A Mi Đà Phật ở trước mắt, liền hiện thân cho ngài.

Việc gì ngài cũng biết, khai ngộ rồi, Minh tâm Kiến tánh rồi, không phải là khai ngộ bình thường, điều này rất hiếm có! Phật biết, ở thế gian hiện nay Phật pháp có tai nạn, tục ngữ thường nói, 道高一尺,魔高一丈 “đạo cao nhất xích, ma cao nhất trượng” (đạo cao một thước, thì ma cao một trượng), ngày nay là thật, không phải giả. Người hiện nay thích nghe gạt không thích nghe khuyên, nhận giả không nhận chân, vậy có cách gì? Chúng ta gặp được rồi. Nên ngài biểu diễn pháp này, biểu diễu pháp này là gì? Khẳng định rằng Kinh Vô Lượng Thọ do lão Cư sĩ Hạ Liên Cư hội tập là chân kinh, không phải giả, từng chữ từng câu đều là do đức Thế Tôn nói, lời trong bản dịch gốc, không sửa đổi một chữ nào, là bản hội tập trung thực nhất. Điều thứ hai làm chứng cho chúng ta, Tập Chú của lão Cư sĩ Hoàng Niệm Tổ là chính xác, không có giải thích sai, ngài đã trích dẫn 83 loại kinh luận, 110 loại chú sớ của Tổ sư để chú giải bộ Đại Kinh này, là phương hướng chính xác, không có sai lầm. Biểu pháp thứ ba, là những người chúng ta đây trong mười mấy năm này, nương theo quyển này tu hành không có sai lầm. Dựa vào quyển này tu hành, có không ít người vãng sanh, chúng ta đều đã tận mắt chứng kiến điều này, giúp chúng ta đối với bộ Kinh này, Bản Hội Tập, đối với bộ Chú Giải này, đối với sự tu học chăm chỉ của chúng ta, không có sai lầm. Vì vậy biểu diễn pháp này vào ba ngày sau, lão Hòa thượng đi rồi. Trong ngày ra đi ấy, ngài là ra đi vào ban đêm, ban ngày còn làm việc cả ngày, không có lười biếng, trong vườn rau làm đất, tưới nước nhổ cỏ, làm hết cả ngày, buổi tối ra đi rồi. Làm chứng cho chúng ta, vì ba sự việc này. Còn điều quan trọng hơn, trên căn bản, ngài vì chúng ta mà thị hiện, nói với chúng ta: thật có Thế giới Tây Phương Cực Lạc, thật có A Mi Đà Phật, 48 nguyện độ chúng sanh là thật, không phải là giả dối. Chúng ta có thể thật tin, thật sự phát nguyện, lão thật niệm Phật, cầu sanh Tịnh Độ, thì nhất định được vãng sanh. Không có mảy may nghi ngờ, thành tựu Tín Nguyện Hạnh của chúng ta, giúp chúng ta thật sự vãng sanh Thế giới Cực Lạc, thân cận A Mi Đà Phật, điều này không thể nghĩ bàn!

Nên ở đây nói, 信願行三資糧,此三者如鼎之三足,缺一不可 “Tín Nguyện Hạnh tam tư lương, thử tam giả như đỉnh chi tam túc, khuyết nhất bất khả(ba tư lương: Tín Nguyện Hạnh, ba thứ này như ba chân của cái vạc, không thể thiếu một), điều kiện của vãng sanh. Tư lương là gì? Người xưa đi xa không thuận lợi như hiện nay, đâu đâu cũng có khách sạn, có quán cơm, nhưng thời xưa không có. Đi ra ngoài làm thế nào? Tư, chính là tiền tài, trên người cứ phải mang một ít, còn phải mang lương thực, mang gạo, bất luận đến đâu, tự mình nấu cơm, còn phải mang một ít dưa muối, luôn phải mang theo vài thứ như vậy, quý vị mới đi được. Hiện nay tiện lợi, chỉ cần mang tiền, thì thứ gì cũng có đủ, trước đây không có thuận lợi như thế. Dùng điều này để làm ví dụ, chúng ta từ đây đến Thế giới Cực Lạc, tư lương là gì? Một câu Phật hiệu, Tín Nguyện Hạnh, thật sự tin có Thế giới Cực Lạc, nhất định không phải là giả; Nguyện, là tôi nguyện sanh Thế giới Cực Lạc, bằng lòng thân cận A Mi Đà Phật; Hạnh, là nhất tâm chuyên niệm danh hiệu. Danh hiệu A Mi Đà Phật này, sáu chữ, hay bốn chữ đều được. Bình thường chúng tôi niệm bốn chữ, khi lạy Phật thì tôi niệm sáu chữ, một lạy niệm vừa đúng hai câu, tôi niệm rất chậm: Nam, Mô, A, Mi, Đà, Phật, còn chậm hơn thế này, bởi vì phối hợp động tác, vừa lạy xuống đến khi hai bàn tay ngửa ra, là chữ Phật, A Mi Đà Phật, khi đứng dậy, úp bàn tay ấy lại là niệm Nam, Mô, đứng dậy, tôi là hai câu Phật hiệu một lạy. Niệm bình thường, việc niệm Phật đó nên chậm, vì sao vậy? Bởi quý vị có thể xoay nghe lại để nghe Tự Tánh, chính là Phật hiệu của tôi niệm không ra tiếng, mà niệm thầm, rõ ràng rành mạch, tự nghe tiếng niệm Phật của chính mình, không nên nghe những thứ bên ngoài, như vậy dễ nhiếp tâm.

Mỗi lần tôi lạy một giờ, một tiếng đồng hồ lạy liên tiếp, trong tâm không có tạp niệm, không có vọng tưởng. Tôi là dùng phương pháp này. Bình thường niệm Phật là niệm thầm, ở trong tâm, cũng là chuyên chú nghe trong tâm, A, Mi, Đà, Phật, nghe rất rõ ràng. Nếu không chuyên tâm để nghe, thì sự quấy nhiễu bên ngoài liền đi vào. Chính là chuyên tâm, lão Hòa thượng Hải Hiền nói, 世間無難事,只怕心不專 “thế gian vô nan sự, chỉ phạ tâm bất chuyên”(trên đời không việc khó, chỉ sợ tâm không chuyên). Đặc biệt dùng trong niệm Phật, tâm phải chuyên, tâm chuyên sẽ không nghe thấy bên ngoài, sức chú ý đều tập trung vào trong Phật hiệu. Đại sư Ấn Quang cũng dạy chúng ta đếm số, từ một đến mười, từ một đến mười, không nên 11, 12, chỉ là từ một đến mười. Nếu nhớ không được, chia làm hai nửa, một hai ba bốn năm, sáu bảy tám chín mười, dùng phương pháp này. Vẫn không nhớ được, vậy thì dùng ba ba bốn, một hai ba, bốn năm sáu, bảy tám chín mười, dùng cách này. Đây là pháp Mười Niệm của Đại sư Ấn Quang, rất dễ dùng, có thể niệm hết vọng tưởng, trừ hết tạp niệm, giúp tâm thanh tịnh, tâm bình đẳng dần dần khôi phục. Không nên vội vàng, không phải sợ hãi, an toàn ổn định niệm liên tục là được. Tốt rồi, thời gian hôm nay đã hết, chúng ta học tập đến đây thôi.

(Hết tập 142 )

Nguyện đem công đức này

Hướng về khắp tất cả

Đệ tử cùng chúng sanh

Đều sanh nước Cực Lạc

Sớm viên thành Phật đạo

Rộng độ khắp chúng sanh

Nam Mô A Mi Đà Phật