Responsive Menu
Add more content here...

Tập 143 – Tịnh Độ Đại Kinh Khoa Chú 2014

TỊNH ĐỘ ĐẠI KINH KHOA CHÚ 2014
(Giảng lần thứ 4)
PHẨM THỨ TƯ: PHÁP TẠNG NHÂN ĐỊA
(NHÂN ĐỊA CỦA NGÀI PHÁP TẠNG)
Tập 143
Chủ giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không
Thời gian:  07/12/2014
Giảng tại: Hiệp Hội Giáo Dục Phật Đà Hồng Kông
Dịch giả: Sư cô Thích Tâm Thường
Giảo chánh: Thích Thiện Trang.
 
Kính chào chư vị Pháp sư, quý vị đồng học, mời an tọa. Thỉnh mọi người cùng tôi quy y Tam Bảo:
A-xà-lê tồn niệm, ngã Đệ tử Diệu Âm, thỉ tùng kim nhật, nãi chí mạng tồn, quy y Phật-Đà, lưỡng túc trung tôn, quy y Đạt-Ma, ly dục trung tôn, quy y Tăng-Già, chư chúng trung tôn. (3 lần)
Mời xem Đại Kinh Khoa Chú, trang 390, hàng thứ nhất, bắt đầu xem từ câu thứ hai:
《菩提心論》曰:求菩提者,發菩提心,修菩提心 “Bồ Đề Tâm Luận viết: cầu Bồ-đề giả, phát Bồ-đề tâm, tu Bồ-đề tâm” (Trong Luận Bồ Đề Tâm nói: cầu Bồ-đề: là phát tâm Bồ-đề, tu tâm Bồ-đề). Bồ-đề là được dịch âm từ tiếng Phạn Ấn Độ, dịch sang ý nghĩa của nước ta là giác ngộ, Bồ-đề dịch là giác. Chúng ta xem tiếp bên dưới, 發者,信願也,修者,行也 “phát giả, tín nguyện dã, tu giả, hành dã” (phát: là tín nguyện. Tu: là hành), hành chính là thật làm. Trong Luận Bồ Đề Tâm nói rất hay, muốn phát tâm Bồ-đề, tức là có tâm cầu Bồ-đề, cầu giác ngộ, cầu giác ngộ bắt đầu từ phát tâm, sau khi đã phát tâm phải thật làm. Dùng điều đó trong Pháp môn Tịnh Độ, phát, chính là thật sự tin tưởng, thật sự nguyện sanh Thế giới Cực Lạc. Hai câu này vô cùng quan trọng. Nên tín nguyện là nền tảng của vạn hạnh, bất luận tu Pháp môn nào, nếu không có tín tâm thì không thể thành tựu, không có nguyện tâm cũng không thể thành tựu. Đặc biệt là Pháp môn Tịnh tông, đầu tiên nhất định phải tin thật có Thế giới Cực Lạc.
Dựa vào điều gì? Là dựa vào hiện tại của chúng ta, quý vị có cho rằng cảnh giới hiện tại của chúng ta đây có thật hay không? Mọi người đều coi là có thật, không phải là giả, bày ra ở trước mặt của chúng ta, chúng ta nhìn thấy, nghe được, sờ được, thì làm sao giả được chứ? Ở trên kinh Đại thừa, đức Phật nói với chúng ta, mọi thứ từ đâu tới? Vũ trụ từ đâu đến? Dải Ngân Hà từ đâu đến? Hệ mặt trời từ đâu đến? Địa cầu này của chúng ta từ đâu đến? Cả vũ trụ từ đâu ra? Phật nói với chúng ta, “tất cả pháp từ tâm tưởng sanh”. Tâm của ai tưởng? Tâm của chính mình tưởng, cũng có tâm tưởng của người khác. Tâm của chính mình tưởng, Phật gọi là Biệt nghiệp, sai biệt, mỗi người đều khác nhau; còn có một phần mà mọi người giống nhau, gọi là Cộng nghiệp. Cộng nghiệp và Biệt nghiệp đều là do tâm tưởng, trong Cộng nghiệp có Biệt nghiệp, trong Biệt nghiệp có Cộng nghiệp, toàn thể vũ trụ từ tâm tưởng sanh.
Phật pháp nói thuyết vô thần, chẳng phải là không thừa nhận thế gian này có trời đất quỷ thần, không có ý nghĩa này, mà thừa nhận. Công nhận điều gì? Họ cũng là chúng sanh, họ là bình đẳng với chúng ta. Họ đến từ đâu? Cũng là do tâm tưởng của chúng ta biến hiện ra. Họ không phải là chủ tể của vũ trụ, họ không phải chủ tạo vật, chủ tạo vật là ý niệm của chúng ta, từ sáng đến tối khởi tâm động niệm. Chỉ cần vừa dứt ý niệm này, thì vũ trụ này không còn nữa. Nhưng không dứt được, nếu dứt được thì thành Phật rồi. Ý niệm này quá vi tế, sanh diệt ở ngay trước mắt của chúng ta, nhưng chúng ta không cách nào cảm nhận được, không cảm giác gì cả. Chúng ta chưa đạt đến cảnh giới ấy, nhưng cần có khái niệm này, nếu không có khái niệm này, thì chúng ta tu hành không ổn định, không có chỗ dựa. Đây là dựa vào chân lý, chân lý là gì? Chân tướng sự thật.
Ngày nay nhà Cơ học Lượng tử, đây là khoa học tiên tiến nhất thời cận đại, đã khẳng định vũ trụ này là được sanh ra dưới sự dao động sóng, bí ẩn của vũ trụ. Trên kinh Phật cũng là cách nói như vậy, hoàn toàn giống với điều mà khoa học hiện nay nhìn thấy, chỉ là tên gọi khác nhau. Họ nói dao động sóng, trong Phật pháp gọi là Nghiệp tướng của A-lại-da, nghiệp chính là động, động thì tạo nghiệp, tạo nghiệp gì? Đó là nghiệp tạo ra cả vũ trụ. Một ý niệm chính là một hình ảnh, thời gian tồn tại của hình ảnh này bao lâu? Quá ngắn, chúng ta nói một sát-na, sát-na rất dài. Đức Thích Ca Mâu Ni Phật hỏi Bồ-tát Di Lặc, nói 心有所念 “tâm hữu sở niệm” (ý niệm có bởi tâm), phàm phu chúng ta khởi một ý niệm, chính mình có cảm giác, tôi đã khởi ý một niệm thiện, tôi muốn giúp chúng sanh khổ nạn, tôi đã khởi một niệm thiện, tôi muốn vãng sanh Thế giới Cực Lạc. Rất rõ ràng ý niệm này, trong đó có bao nhiêu ý niệm vi tế? Cho nên Phật giảng: 心有所念,幾念幾相識耶?“Tâm hữu sở niệm, kỷ niệm kỷ tướng thức da” (Ý niệm có bởi tâm, có bao nhiêu niệm bao nhiêu tướng thức?) Lời này cần phải tách ra cách nói như thế vầy, bao nhiêu niệm, bao nhiêu tướng, bao nhiêu thức, đó là câu hỏi, có bao nhiêu ý niệm? Ý niệm có bởi tâm. Bồ-tát Di Lặc trả lời, 一彈指“nhất đàn chỉ” (một búng tay), búng tay, trong một búng tay này 有三十二億百千念“hữu tam thập nhị ức bá thiên niệm” (có 32 ức trăm ngàn niệm). Trăm ngàn là đơn vị, một trăm ngàn là mười vạn, 32 ức nhân 100 ngàn, thành 320 ngàn tỷ. Một búng tay này có 320 ngàn tỷ ý niệm, làm sao chúng ta biết được? Mắt và ý thức của chúng ta không có tác dụng nữa.
Điện ảnh kiểu cũ, hiện nay dường như không còn nữa, nhưng chúng tôi vẫn có thể nhớ rõ, những bộ phim lúc trước là do dùng hình ảnh động mà tạo thành, tức là cuộn phim. Đây là cuộn phim, đây là cuộn phim trong điện ảnh, từng tấm một, phát ra trên màn hình. Tốc độ nhanh thế nào? Một giây chiếu 24 tấm. Đây là điện ảnh kiểu cũ, là trong một giây có 24 lần sanh diệt, hiện tượng dao động sóng, 24 lần. Ống kính mở ra, thì một tấm này được chiếu lên, lập tức tắt đi, mở ra tiếp, đặt tấm thứ hai vào, một giây có 24 tấm. Chúng ta nhìn thấy rất rõ điều này bên trong, một giây thấy được rất rõ ràng, trong tấm hình này có người, có nhà cửa, có cây cối hoa cỏ, có núi sông đất đai, thấy rõ ràng rồi. Nếu là một tấm, còn 23 tấm chúng ta bôi đen cả, chỉ để lại một tấm, chiếu ra từ máy chiếu, chúng ta nhìn thấy gì? Chúng ta thấy được là ánh sáng chớp lên thì qua đi rồi, hỏi quý vị có thứ gì trong ánh sáng ấy? Không nhìn thấy rõ, không có gì cả, không có cảm giác. 24 lần sanh diệt thì chúng ta không có cách nào, không nắm bắt được, chỉ thấy ánh sáng. Với tốc độ hiện nay, một búng tay có 320 ngàn tỷ lần sanh diệt. Một giây có thể búng bao nhiêu lần? Người trẻ có thể lực, người sức khỏe tốt, có thể búng bảy lần. 320 lại nhân cho bảy, là 2 triệu 100 ngàn tỷ, trong một giây. Một giây có 2 triệu 100 ngàn tỷ dao động sóng, trong dao động sóng sinh ra hiện tượng của cả vũ trụ, ngay trước mặt của chúng ta, một hiện tượng nối tiếp một hiện tượng, liên tiếp nối nhau, ngày đêm đều không gián đoạn, gián đoạn thì thành Phật rồi. Đây là gì? Đây là Vọng tâm, Vọng tâm là động, Chân Tâm là tĩnh.
Lục tổ Đại sư Huệ Năng nói rất hay, khi ngài khai ngộ đã nói năm câu, chúng ta phải nhớ kỹ, năm câu đó chính là toàn bộ Kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm. Khi đức Thích Ca Mâu Ni Phật 30 tuổi, nhập định dưới cây Bồ-đề, khai ngộ rồi, trong định đã thuyết một bộ: Kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm; Còn khi Đại sư Huệ Năng khai ngộ, đã nói năm câu, năm câu này chính là toàn bộ Kinh Hoa Nghiêm. Hoa Nghiêm nói gì vậy? Là nói năm câu này, nên triển khai năm câu này: chính là Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm, cô đọng lại là năm câu này. Câu thứ nhất nói “hà kỳ Tự Tánh, bổn tự thanh tịnh”. Tâm của chúng ta, đó là Chân Tâm, Tự Tánh chính là Chân Tâm, Chân Tâm vốn là thanh tịnh, thanh tịnh là không có gì trong đó, không có mảy may ô nhiễm. Sự ô nhiễm ngày nay của chúng ta là vô lượng vô biên, tự tư tự lợi là ô nhiễm, danh văn lợi dưỡng là ô nhiễm, Thất tình Ngũ dục là ô nhiễm, mắt thấy sắc bị sắc làm ô nhiễm, tai nghe tiếng bị tiếng làm ô nhiễm, mũi ngửi hương, lưỡi nếm vị thảy đều bị ô nhiễm, từ sáng đến tối ô nhiễm không gián đoạn, là Vọng tâm! Vọng tâm biến Nhất chân Pháp giới thành Lục đạo luân hồi, thành Thập pháp giới, đây chính là tất cả pháp từ tâm tưởng sanh. Hoàn toàn không có ô nhiễm, hoàn toàn không động, đó là Nhất chân Pháp giới, cũng gọi là Thật Báo Trang Nghiêm độ. Thật Báo độ không thể nói là thật, cũng không thể nói là giả. Quý vị nói Thật Báo độ là thật, Bản thể của Tự Tánh là một niệm không sanh, Bản thể của Tự Tánh rời tất cả hiện tượng, không có hiện tượng, không có hiện tượng vật chất, cũng không có hiện tượng tinh thần, cũng không có hiện tượng tự nhiên, không có gì cả. Đại sư Huệ Năng nói rất hay, 本來無一物 “bản lai vô nhất vật” (xưa nay không có một vật), đây chính là Tự Tánh thanh tịnh.
Thứ hai “bổn bất sanh diệt”. Tất cả pháp có sanh có diệt, còn Tự Tánh không có sanh diệt, là tồn tại vĩnh viễn. Câu thứ ba nói “bổn tự cụ túc”, câu này rất tuyệt vời, nếu không phải vốn tự đầy đủ, thì không thể hiện tướng, cả vũ trụ là do Tự Tánh biến hiện. Lục tổ nói câu thứ tư “bổn vô động dao”, đây chính là Tự Tánh vốn định. Chân Tâm là không động, có thể động, có thể khởi tâm động niệm, có thể động, là Vọng tâm, là thức A-lại-da. Câu cuối cùng nói “năng sanh vạn pháp”. Nhà Phật không có chủ tạo vật, chủ tạo vật của nhà Phật là Tự Tánh, Tự Tánh có thể sanh vạn pháp. Tự Tánh của ai? Tự Tánh của chính quý vị. Trong kinh giáo Đại thừa nói rất hay, 十方三世佛,共同一法身,一心一智慧,力無畏亦然 “thập phương tam thế Phật, cộng đồng nhất Pháp thân, nhất tâm nhất trí huệ, lực vô úy diệc nhiên” (Mười phương ba đời Phật, cùng chung một Pháp thân, một tâm một trí huệ, Lực vô úy cũng vậy). Cả vũ trụ là một thể, đó là Phật pháp Đại thừa. Vũ trụ từ đâu tới? Do Tự Tánh của ta biến hiện, Tự Tánh có thể sanh có thể hiện, A-lại-da có thể biến, biến vạn pháp được sanh bởi Tự Tánh thành Thập pháp giới, thành Lục đạo luân hồi, đó là A-lại-da, do Vọng tâm biến, hiện nay chúng ta nói khởi tâm động niệm là Vọng tâm, thế giới được biến hiện bởi Vọng tâm. Ngày nay trái đất này động loạn, vì sao loạn? Là do ý niệm của chúng ta quá loạn mà thôi. Xã hội của Cổ nhân an định, không có động loạn, là nguyên nhân gì? Tâm các người xưa thanh tịnh hơn chúng ta.
Vì vậy tất cả pháp từ tâm tưởng sanh, đây là do Phật nói, nhất định phải nhớ kỹ, là tâm của chính ta tưởng sanh. Tâm Cộng nghiệp của mọi người tưởng sanh, do cùng chung tâm tưởng, tưởng cũng không khác biệt lắm, rất gần nhau, đó gọi là Cộng nghiệp; chính mình gọi là Biệt nghiệp, là riêng. Biệt nghiệp không tách rời Cộng nghiệp, Cộng nghiệp không tách rời Biệt nghiệp, đó là một thể. Hơn nữa nói với chúng ta, Chân Tâm và Vọng tâm cũng là một thể. Sự khác biệt giữa Chân Tâm và Vọng tâm ở đâu? Chân Tâm là giác thì không mê, Vọng tâm là mê thì không giác. Ngày nay chúng ta là phàm phu trong Lục đạo, Phật chỉ dạy chúng ta phải phát tâm Bồ-đề, phải giác, phải cầu giác. Phật giáo Đại thừa chính là dạy quý vị cầu giác ngộ, có giác ngộ được không? Nhất định được, tại sao? Bởi quý vị vốn giác ngộ. Đó là câu thứ ba của Đại sư Huệ Năng nói, “bổn tự cụ túc”, đầy đủ vô lượng giác, đầy đủ vô lượng trí huệ, vô lượng đức năng, vô lượng tướng hảo, không nên hướng ra ngoài cầu, bên ngoài không có, Phật pháp hoàn toàn dùng công phu bên trong. Cách cầu thế nào? Buông xuống tất cả ngoại duyên, thật sự rõ ràng rồi. Hiện nay là giả tướng bên ngoài che đậy những thứ thật của chúng ta, thứ thật không khởi tác dụng, mà thứ giả khởi tác dụng. Thứ giả là gì? Phiền não, quý vị xem, Vô minh Phiền não, Trần sa Phiền não, Kiến tư Phiền não, tất cả đều là Tập khí Phiền não đang khởi tác dụng, đó chính là Lục đạo phàm phu.
Phật dạy chúng ta quay đầu, đặc biệt là Tịnh tông, tại sao vậy? Bởi Tịnh tông đảm bảo quý vị thành tựu nhanh chóng, không có gì nhanh hơn thế này. Tu hành của Tịnh tông cần thời gian bao lâu? Đây là người trên trái đất này của chúng ta, với căn tánh của chúng ta, thông thường nói đại khái là ba năm. Ba năm có thể vãng sanh, chứ không phải thọ mạng ba năm là hết rồi, không phải vậy, tôi đầy đủ điều kiện vãng sanh, đó gọi là Công phu Thành phiến. Thành phiến có nghĩa là gì? Trong tâm vừa khởi ý niệm chính là A Mi Đà Phật, sẽ không khởi ý niệm thứ hai. Ngoài trừ A Mi Đà Phật ra, thì buông xuống tất cả ý niệm, tức là chúng ta nói không nên để trong tâm. Làm việc thiện, làm việc tốt, làm việc xấu đều không nên đặt trong tâm, khiến tâm khôi phục sạch sẽ, trong tâm chỉ có một câu A Mi Đà Phật, ba năm, thì A Mi Đà Phật gặp mặt quý vị. A Mi Đà Phật từ đâu đến? Do Tự Tánh biến hiện, là Tự Tánh Mi Đà, còn Thế giới Cực Lạc là duy tâm Tịnh Độ, quý vị xem, không rời khỏi Tự Tánh, tâm đó chính là Tự Tánh. Thế giới Cực Lạc là do Tự Tánh biến, A Mi Đà Phật cũng là do Tự Tánh biến, là do Tự Tánh của chính mình biến thành, điều này an tâm biết mấy, đáng tin biết bao. Dựa vào người khác thì không đáng tin cậy, mà [do] chính mình, không phải do người khác biến hiện cho tôi. Nếu A Mi Đà Phật nói rằng ngoài Tự Tánh của tôi có A Mi Đà Phật, tôi phải dựa vào Ngài, thì không đáng tin, vì sao? Bởi ngoài Tự Tánh thì không đáng tin. Ngài là do Tự Tánh của tôi biến ra, điều này thì đáng tin cậy, phải hiểu đạo lý này. Như vậy tín tâm của chúng ta mới thật sự kiên định, tuyệt đối sẽ không dao động, tuyệt đối sẽ không mất đi, phải hiểu rõ đạo lý này.
Là do Tự Tánh của chúng ta biến ra, là thật không phải giả, chúng ta công nhận Thế giới này là thật, thì Thế giới Cực Lạc là thật; chúng ta nói thế giới này là giả, thì Thế giới Cực Lạc cũng là giả. Nhưng Thế giới Cực Lạc so với chúng ta, rất khác với nơi đây của chúng ta, bởi vì nơi này của chúng ta có hiện tượng của sanh diệt: người có sanh lão bệnh tử, thực vật có sanh trụ dị diệt, khoáng vật có thành trụ hoại không, đều là vô thường. Bốn độ của Thế giới Cực Lạc đều là chân thường, bất kể là Đồng Cư độ, Phương Tiện độ, Thật Báo độ, hay Tịch Quang độ đều là chân thường, vĩnh viễn sẽ không biến đổi. Nên người của Thế giới Cực Lạc có vô lượng thọ, không chỉ vô lượng thọ, mà họ không có thay đổi, vô lượng thọ mãi là tuổi trẻ, họ không có tuổi già, họ không có sanh lão bệnh tử giống như Thế giới này của chúng ta, Thế giới đó không có. Người ở Thế giới đó là hóa sanh, vừa vãng sanh Thế giới Cực Lạc, hóa sanh trong hoa sen, một khi hoa sen mở ra, người xuất hiện ra, người vãng sanh hiện ra. Người ấy lớn lên như thế nào? Giống như A Mi Đà Phật, A Mi Đà Phật cao bao nhiêu, thì họ cao bấy nhiêu, A Mi Đà Phật có sự trang nghiêm như thế nào, thì họ đầy đủ trang nghiêm như thế, không khác chút nào với A Mi Đà Phật. Đó là nguyên nhân gì? Đó là nguyện lực của A Mi Đà Phật.
Phật đã từng tham quan, khảo sát tất cả cõi nước chư Phật trong khắp Pháp giới hư không giới, chúng sanh trong cõi nước chư Phật, tướng mạo khác nhau, thọ mạng dài ngắn khác nhau, trí huệ năng lực cũng khác nhau. Vì vậy tạo nên sự khác biệt giữa người với người, trong tâm cảm thấy không bình đẳng, sanh phiền não. Người tướng mạo tốt thì ngạo mạn, người tướng mạo xấu cảm thấy tự ti, đây đều là sanh phiền não, tự ti là phiền não, ngạo mạn cũng là phiền não. Do đó, Ngài muốn tất cả chúng sanh sinh đến Thế giới Cực Lạc vĩnh viễn không sanh phiền não, vậy làm thế nào? Tướng mạo đều như nhau, giống như Phật, Phật là tiêu chuẩn. Ngài làm được rồi. Đại nguyện lực của Ngài làm chỗ dựa cho chúng ta, chắc chắn đáng tin cậy, vì sao vậy? Bởi Ngài là do Tự Tánh của chúng ta biến hiện, quý vị cần sáng tỏ đạo lý này.
Năng lực của Tự Tánh, hiện nay trong 20 năm gần đây, có bao nhiêu người trẻ tuổi nghiên cứu khoa học, khoa học tiên tiến nhất, về niệm lực, niệm lực của Cơ học Lượng tử, sức mạnh của niệm lực không thể nghĩ bàn, là mới phát hiện gần đây. Hiện nay rất nhiều người đang nghiên cứu, tôi tin rằng 10 năm, nhiều nhất là 20 năm, sẽ được nhà khoa học trên toàn thế giới công nhận, chấp nhận, đây là thật, chứ không phải giả, đối với cuộc sống của người trên địa cầu chúng ta sẽ sanh ra thay đổi rất lớn. Tại sao vậy? Bởi khoa học đưa ra định luật mới nhất, 以心控物 “dĩ tâm khống vật”, chính là dùng tâm để khống chế hiện tượng vật chất, sức mạnh này cực lớn. Đầu tiên, thân thể của chúng ta khỏe mạnh, có cần dùng thuốc hay thứ gì đó để bảo vệ sức khỏe không? Không cần, mà dùng niệm lực. Niệm lực khỏe mạnh nhất, niệm lực thuần chánh nhất, là người không có tà tư, không có vọng tưởng, cả đời người ấy sẽ không bị bệnh, khỏe mạnh trường thọ, người ta có thể từ bỏ y dược. Vì vậy niệm lực, nếu định luật dùng tâm khống vật này được công nhận, thì người thất nghiệp đầu tiên trên trái đất này là Bác sĩ, không có Bác sĩ, thuốc men, người ta không cần nữa, hoàn toàn dùng niệm lực để trị bệnh. Trên thân thể của quý vị có bệnh, tế bào mang mầm bệnh, đó là nguyên nhân gì? Do niệm lực không đúng đắn mà sanh ra. Bây giờ tôi buông xuống ý niệm không đúng đắn, hoàn toàn dùng chánh niệm, thì tự nhiên khôi phục bình thường rất nhanh.
Việc này, thì người Thổ dân châu Mỹ cổ đại biết, ở Hawaii nước Mỹ, phương pháp chữa bệnh cổ xưa ấy hiện nay vẫn còn tồn tại. Người kế thừa cận đại là người Mỹ, ông không phải là người Thổ dân châu Mỹ, mà người Mỹ, đến Hawaii để học, đã học được rồi, Tiến sĩ Hew Len, đã từng đến chỗ tôi đây. Ông chữa bệnh cho người trên toàn thế giới, bệnh nan y giống như ung thư, bệnh viện thông báo tuổi thọ của họ chỉ còn một-hai tháng, bệnh nhân như vậy tìm đến ông ấy, ông chữa trị cho họ, một tháng đã khỏi bệnh rồi, đến bệnh viện kiểm tra lại, không còn nữa, không tìm thấy một tế bào mang mầm bệnh nào. Tôi hỏi ông ấy, cách điều trị ấy của ông là căn cứ vào nguyên lý nào? Ông ấy nói với tôi, tâm thanh tịnh, đúng rồi. Người điều trị nhất định tâm địa của mình thanh tịnh, không nhiễm một trần, nếu tâm địa của bản thân không thanh tịnh, thì quý vị không có khả năng này. Do đó phải tu tâm thanh tịnh, tâm thanh tịnh là Thiền định. Trên đề kinh của Kinh Vô Lượng Thọ của chúng ta là “thanh tịnh bình đẳng giác”, ông ấy chỉ cần tu thanh tịnh, thì có thể chữa bệnh cho người, không phải là định thật cao, nhưng định này vượt qua Lục đạo luân hồi.
Dùng cách nào để trị? Ông ấy chỉ cần bốn loại tư liệu: thứ nhất, họ tên của bệnh nhân; thứ hai, ngày tháng năm sinh của bệnh nhân; thứ ba, chỗ ở hiện tại, bệnh nhân có thể không cần gặp mặt, ông ấy ở Hồng Kông, bệnh nhân ở nước Mỹ, ông có thể điều trị cho họ, cách mấy ngàn dặm cũng không vấn đề gì, đều có hiệu quả; thứ tư, là bệnh án, bệnh án của bệnh nhân khám tại bệnh viện, ông chỉ cần bốn điều này. Điều trị là mỗi ngày 30 phút, liên tục trong một tháng, các tế bào ung thư của họ đều không còn nữa. Đã chữa khỏi mấy ngàn người, ngày ngày chữa bệnh cho mọi người, rất có hiệu quả. Khẩu quyết chỉ có bốn câu, giống như niệm chú, bốn câu. Câu thứ nhất là “xin lỗi”, nói với ai? Nói với các tế bào mang mầm bệnh. Tôi xin lỗi bạn, vì đã để bạn nhiễm bệnh, xin bạn tha thứ, xin lỗi, “xin tha thứ”. Đối phương đồng ý rồi, “cảm ơn bạn, tôi yêu bạn”, là bốn câu này. Đọc bốn câu này trong nửa giờ, phải quán tưởng bệnh nhân và chính mình hòa thành một thể, trường hợp của bệnh nhân bị là ở trên người mình, dùng niệm lực để chữa trị cho chính mình, chữa khỏi tất cả tế bào mang mầm bệnh của chính mình. Một ngày 30 phút, liên tục trong một tháng, là 30 lần. Khi chính mình khỏi bệnh rồi, gọi điện cho bên kia, bên kia kiểm tra, không có nữa, bệnh không còn nữa. Nói với chúng ta một thông tin, núi sông đất đai đều có kiến văn giác tri, điều này hoàn toàn tương đồng với trong Đại thừa mà chúng ta đã học.
Ông ở chỗ này của tôi, nói với mọi người chúng ta, quý vị đừng cho rằng quý vị khởi tâm động niệm thì không có ai biết. Ông ấy nói với quý vị, cái bàn biết, cái ghế biết, bức tường biết, trần nhà biết, sàn nhà biết, mọi thứ đều biết. Trong tất cả hiện tượng vật chất, dù vật chất nhỏ thế nào đều có tinh thần ở trong đó, Phật pháp nói về Ngũ uẩn: sắc thọ tưởng hành thức. Ông ấy nói vật chất dù nhỏ đến đâu, đều đầy đủ sắc thọ tưởng hành thức, nhà Phật nói là Ngũ uẩn. Như vậy chúng ta mới thật sự nhận thức khái niệm về Ngũ uẩn, đã có khái niệm này. Hiện tượng vật chất nhỏ nhất, cũng đã được phát hiện bởi nhà khoa học Vật lý cận đại, họ gọi là Trung vi tử, hoặc gọi là Neutrino. Danh từ của Phật pháp gọi là Cực vi sắc, vi là rất nhỏ, vi tế, sắc tướng cực kỳ vi tế; cũng gọi là Lân hư trần, hạt này giống như hạt bụi. Nói Lân hư trần là nhỏ nhất, không thể tách ra nữa, nếu tách tiếp thì không còn nữa, chỉ là hư không mà thôi, nó làm hàng xóm với hư không, gọi là Lân hư trần, thứ này được tìm ra rồi. Trong Phật pháp Đại thừa, trình độ nào mới phát hiện ra Lân hư trần? Trên kinh Đại thừa nói Bát địa trở lên, quý ngài có thể nhìn thấy, Thất địa trở xuống, biết là có tồn tại, nhưng không thấy được. Nên Phật pháp là dùng nội công, hoàn toàn dùng Thiền định, trong Thiền định rất sâu, có thể nhìn thấy những hiện tượng vi tế này, thấy được chân tướng.
Nên tinh thần và vật chất vĩnh viễn không tách rời nhau, có tinh thần chắc chắn có vật chất, có vật chất chắc chắn có tinh thần, không cách nào tách rời được. Đây cũng là nhà khoa học tìm ra, tức là trong 400 năm qua khoa học đã đi vào một sự nhầm lẫn rất lớn, đã mang tới rất nhiều điều sai lầm, đó chính là chia tinh thần và vật chất thành hai sự việc: vật lý, tâm lý; không biết vật lý và tâm lý là một, là một thể, không thể chia, nhất định không tách rời được. Tâm lý và vật lý từ đâu mà có? Là từ sự dao động sóng sanh ra, hiện nay khoa học gọi sự dao động sóng này là năng lượng, trong Phật pháp gọi là Nghiệp tướng của A-lại-da, Nghiệp tướng chính là hiện tượng dao động sóng. Hiện tượng dao động sóng sanh ra tinh thần, tức là thọ tưởng hành thức, thọ tưởng hành thức sanh ra hiện tượng vật chất. Đây là báo cáo do nhà Cơ học Lượng tử cận đại đưa ra, đây là bí ẩn của vũ trụ, cũng là đỉnh cao nhất của Triết học và Khoa học.
Trên kinh Phật nói, họ là dùng Ý thức Thứ sáu, tức là dùng suy nghĩ, dùng sự tưởng tượng để tìm ra, có thể thấy được Tam tế tướng của A-lại-da, có thể thấy được biên rìa của vũ trụ, nhưng họ không thấy được Tự Tánh, không thấy được Tự Tánh, cũng không đạt được lợi ích của Phật pháp. Phật pháp dùng nội công, không dùng Toán học, không dùng thiết bị, mà hoàn toàn dựa vào định lực, lúc nhập định, thì không có thời gian, không gian nữa, có thể duyên với quá khứ, có thể duyên với vị lai. Nên người có định công biết quá khứ, biết vị lai, có thể hiển thị bản năng của chính mình, đó là sáu loại thần thông: Thiên nhãn, Thiên nhĩ, Tha tâm (trong tâm của người khác khởi tâm động niệm, thì họ biết), Túc mạng (Túc mạng là đời quá khứ của chính mình). A-la-hán biết 500 đời trong quá khứ, 500 đời trong vị lai, đó là Tiểu thừa; Đại thừa biết quá khứ, vị lai là vô lượng kiếp, chứ không phải là 500 đời. Định công càng sâu, sâu đến tột cùng thì đạt đến Tự Tánh vốn định, chính là lời của Đại sư Huệ Năng nói “hà kỳ Tự Tánh, bổn vô động dao”, đến cảnh giới ấy là thành Phật rồi, viên mãn rồi, trở về Tự Tánh.
Hồi quy Tự Tánh, Tự Tánh là như thế nào? Một mảng quang minh, gọi là Thường Tịch Quang. Trong đó không có hiện tượng vật chất, không có hiện tượng tinh thần, là một mảng ánh sáng. Ở đâu? Chẳng nơi nào không có, chẳng lúc nào không có, Thường Tịch Quang là bản thể của tất cả vạn pháp, không có Thường Tịch Quang thì không có tất cả pháp, có tất cả pháp là có Thường Tịch Quang. Cổ nhân dùng ví dụ, dùng vàng làm ví dụ, nói 以金作器,器器皆金 “dĩ kim tác khí, khí khí giai kim” (lấy vàng làm đồ dùng, thì tất cả đồ dùng đều là vàng), bất kỳ dụng cụ nào, đều là vàng, thể là vàng. Hết thảy vạn pháp trong toàn vũ trụ, [có] thể là Tự Tánh, Tự Tánh mới là Bản thể chân thật, Tự Tánh mới là bản nhân chân thật. Lão Tổ tông nước ta rất tuyệt vời, vào thời xa xưa lão Tổ tông của chúng ta đã nói, nói đến vấn đề này, nhưng không chi tiết như Phật nói. Thí như nói, cổ nhân Trung Hoa nói 人性本善 “nhân tánh bổn thiện” (tánh người vốn thiện), câu này tương ưng với điềunói trong Phật pháp 一切眾生本來是佛 “nhất thiết chúng sanh bổn lai thị Phật” (tất cả chúng sanh vốn là Phật), vốn là Phật mới gọi là thiện, Tự Tánh vốn thiện, trong Tam Tự Kinh viết là 人之初,性本善 “nhân chi sơ, tánh bổn thiện”.
Dạy học của Phật giáo, mục đích cuối cùng chính là giúp chúng ta hồi quy Tự Tánh, phương pháp xảo diệu nhất trong hồi quy Tự Tánh chính là Tịnh Độ tông, nhưng Tịnh Độ tông là pháp khó tin, rất dễ tu thành, nhưng rất không dễ tin. Người tu hành thành tựu từ Tịnh Độ tông, cũng không phải là người bình thường, trên kinh Đại thừa Phật đã nói rất nhiều lần, những người tin Tịnh Độ, nguyện sanh Tịnh Độ, lão thật niệm Phật, đều là trong đời quá khứ, vô lượng kiếp đến nay đã từng cúng dường vô lượng chư Phật Như Lai. Ngày nay gặp được Pháp môn này, là bởi oai thần của vô lượng chư Phật gia trì quý vị, quý vị mới có thể thật tin, thật nguyện, đó không phải là người phàm, người phàm làm sao có khả năng chứ? Gặp được Pháp môn này là một bước lên trời, trong một đời quý vị có thể chứng được đại viên mãn. Điều này Quyền giáo Bồ-tát cũng không dám tin, Thanh văn, Duyên giác lại càng không cần đề cập nữa. Nên chính chúng ta phải vui mừng cho bản thân, chúng ta gặp rồi, trong đời quá khứ chúng ta đã từng cúng dường vô lượng vô biên chư Phật Như Lai, ngày nay được sự gia trì của chư Phật Như Lai, sanh khởi tín tâm đối với Pháp môn này. Người bình thường không sanh được tín tâm, hoặc giữa đường mà thoái chuyển, học các Pháp môn khác, chúng ta phải tha thứ cho họ, tại sao vậy? Bởi họ không có thiện căn này, không có nhiều Phật như vậy gia trì cho họ. Vậy phải dùng phương pháp khác để giúp họ, tức là 84.000 Pháp môn, vô lượng Pháp môn. Nên chính mình gặp được, làm rõ ràng, làm sáng tỏ rồi, mừng cho chính mình, quyết trọn một lòng. Đặc biệt chúng ta thật sự là đáng quý khó được, trong đời này gặp được bộ kinh điển do lão Cư sĩ Hạ Liên Cư hội tập cho chúng ta, là chân kinh; lão Cư sĩ Hoàng Niệm Tổ, dùng 193 loại sách hay để Chú Giải bộ kinh điển này, thật không dễ!
Đầu năm nay, chúng ta thật tin thật nguyện, lão thật niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ, có được lão Hòa thượng Hải Hiền hiện thân thuyết pháp cho chúng ta. Ngài vãng sanh năm ngoái, 112 tuổi, không biết chữ, chưa từng đi học, là con em ở nông thôn. Từ nhỏ đã làm việc trong ruộng vườn, đối với việc nông nghiệp, đó là sở trường của ngài, sự hiểu biết về mặt này rất phong phú. Sau khi xuất gia, chỉ một câu A Mi Đà Phật, cả đời chưa từng đọc một bộ kinh, chưa bao giờ nghe một lần diễn giảng. Mỗi ngày sáng tối lạy Phật, kinh hành, niệm Phật, ban ngày làm việc trong ruộng vườn, canh tác. Ngài khai khẩn, cả đời đã khai hoang hơn 100 mẩu đất, trồng lương thực, trồng rau, trồng cây ăn trái, trồng cây, cả đời đã trồng hơn vạn cây xanh. Ngài không bán những thu hoạch ấy để lấy tiền, mà ngài dùng để bố thí, những người bần cùng khốn khổ ngài đều cứu tế. Xung quanh ngôi chùa nhỏ của ngài, ngài có thể đi bộ, hai-ba ngày có thể đi bộ được, đưa lương thực cho mọi người khắp nơi, làm suốt đời không biết mệt.
Sự xuất hiện của ngài chứng minh cho chúng ta: Bản Hội Tập của ngài Hạ Liên Cư là chân kinh; Chú Giải của ngài Hoàng Niệm Tổ là chính xác, không có sai lầm; chúng ta dựa vào bản Kinh này tu hành cũng là đường chánh, nhất định được sanh Tịnh Độ. Ngài chỉ một câu A Mi Đà Phật, không thể nghĩ bàn. Cuối cùng cầm lấy quyển sách Nếu Muốn Phật Pháp Hưng, Chỉ Có Tăng Tán Thán Tăng, chắc là A Mi Đà Phật bảo ngài làm biểu pháp cho chúng ta, nói với ngài, gặp được quyển sách này, thì Phật tiếp dẫn ngài vãng sanh. Ngài cầm quyển sách này để chụp hình, chụp hình xong, ba ngày sau thì ngài ra đi, làm chứng minh cho chúng ta. Phật Bồ-tát từ bi, Phật là thị chuyển cho chúng ta, mà chúng ta không biết, chư vị Tổ sư Đại đức khuyến chuyển cho chúng ta, lão Hòa thượng Hải Hiền làm chứng minh cho chúng ta, là tác chứng chuyển, chúng ta gặp được tất cả rồi, may mắn không gì bằng. Chính mình từ đâu tới? Tương lai đi về đâu, vô cùng rõ ràng, vô cùng sáng tỏ. Chúng ta đến từ đường thiện, thì chúng ta cũng trở về đường thiện, hồi quy chí thiện, đường chí thiện là ở đâu? Là Thế giới Cực Lạc. Chúng ta thân cận A Mi Đà Phật, chúng ta tham dự Liên Trì Hải Hội của Thế giới Cực Lạc, hội viên của Liên Trì Hải Hội. Hiện nay người chưa đến, nhưng đã đăng ký ở nơi đó, đã có tên rồi, làm sao lại không vui chứ?
Học trò của Hoàng Niệm lão nói với tôi, trong những năm cuối đời của ngài, đã nói chuyện với họ về Pháp sư Tịnh Không, khen ngợi đối với Pháp sư Tịnh Không, nói rằng nếu thầy ấy không vãng sanh Thế giới Cực Lạc, thì phước báo của đời sau thật quá tuyệt vời! Sau khi tôi nghe xong, tôi quyết định không cần phước báo của đời sau, tôi mong cầu vãng sanh Thế giới Cực Lạc. Nếu cầu phước báo của đời sau, đó là bị mắc lừa lớn, vậy thì sai rồi. Chẳng những tôi không cần phước báo của nhân gian, mà cõi trời mời tôi đi làm Thiên vương thì tôi cũng không làm, cũng không thể bị cám dỗ, đó không phải là việc tốt, tại sao vậy? Bởi không ra khỏi Lục đạo luân hồi. Chúng tôi học Phật hơn 60 năm, thật sự hiểu rồi, người trong Lục đạo luân hồi, chắc chắn là thời gian trong ba đường ác dài, thời gian trong ba đường thiện ngắn; nói cách khác, khổ nhiều vui ít, không thể ở nơi này. Đức Phật từ bi, cứu chúng ta ra khỏi rốt ráo khổ, rốt ráo khổ chính là luân hồi, thoát khỏi Lục đạo luân hồi, được rốt ráo vui, rốt ráo vui đó là Thế giới Cực Lạc, phải nhớ kỹ điều này. Thế gian này thứ gì cũng không cần, sống ở thế gian này, giống như lão Hòa thượng, chúng ta làm tấm gương cho người thấy, làm một tấm gương của Đệ tử nhà Phật, tấm gương tốt cho người xem. Trì giới niệm Phật, làm một tấm gương tốt của người niệm Phật cho đồng tu niệm Phật thấy, nhất định sanh Tịnh Độ. Hơn nữa phải tự tại vãng sanh giống như lão Hòa thượng Hải Hiền vậy, ngài làm được, thì chúng ta cũng làm được.
Ba người ở chùa Lai Phật, lão Hòa thượng Hải Khánh, lúc vãng sanh nói đi là đi rồi, không có bệnh khổ, không sanh bệnh, không có tử khổ. Mẹ của lão Hòa thượng Hải Hiền, 86 tuổi vãng sanh, tự tại, bà đại biểu Cư sĩ tại gia tu hành, quý vị xem ra đi thoải mái biết bao. Vào ngày ra đi đó, tự bà đích thân xuống bếp gói sủi cảo, người thân trong nhà đều ở trước mặt, ngài Hải Hiền là con trai của bà, còn có con gái, còn có cháu gái. Sau khi cơm nước xong xuôi, bà ngồi xếp bằng trên ghế, nói với mọi người tôi đi đây, là thật đi rồi, quý vị nói xem tự tại biết mấy. Bà không có lão bệnh tử khổ, đó chính là hiện tại được vui. Quý vị xem, già rồi, già mà không suy yếu, 112 tuổi, thể lực giống như người trẻ, đầu óc tư duy nhanh nhạy, không hồ đồ chút nào, cuộc sống không cần người khác chăm sóc, mọi việc do chính mình làm. Không có lão khổ, không có bệnh khổ, không có tử khổ, không có cầu bất đắc khổ, không có oán tắng hội khổ, không có ái biệt ly khổ. Người thế gian đều không thoát khỏi được tám nỗi khổ này, còn ngài không có tất cả, đó gọi là thật tự tại, thật vui vẻ. Chưa đến Thế giới Cực Lạc mà đã trải qua cuộc sống của người trong Thế giới Cực Lạc, ở đây đã hưởng thụ được.
Cả đời không tranh với người, không cầu với đời, cho dù phỉ báng ngài, bắt nạt ngài, thậm chí đánh ngài, ngài đều có thể chịu được. Hãm hại ngài, chẳng những không có chút oán hận, mà còn là cảm ơn. Tại sao phải cảm ơn? Bởi tiêu nghiệp chướng! Thật sự cảm ơn, người ta tạo tội nghiệp thì tiêu nghiệp chướng thay cho tôi, tôi có thể không biết ơn họ sao? Tôi có thể oán hận họ sao? Họ có lợi đối với tôi. Đời này tôi không tạo tội nghiệp gì, mà đời quá khứ, ở trong đời quá khứ, vô lượng kiếp đến nay, làm gì có đạo lý không tạo nghiệp? Nhẫn nhục mới thật sự có thể tiêu trừ nghiệp cũ. Không sợ chết, mà vui vẻ chết, đây là thật, tại sao vậy? Bởi chết rồi là đến Thế giới Cực Lạc, tốt biết mấy! Suốt đời không dùng ý niệm ác đối với người và việc, không có ác niệm, không có lời nói ác, không có việc làm ác, đó chính là lời của Niệm lão nói, nếu không vãng sanh, thì là phước báo lớn của trời người. Nhưng trong đời này chúng ta đã chịu đau khổ quá nhiều rồi, biết phước báo của trời người không rốt ráo, quý vị thỉnh tôi làm Thiên vương tôi cũng không làm, tôi một lòng một dạ cầu sanh Thế giới Cực Lạc, thành tựu đạo nghiệp viên mãn. Thân cận A Mi Đà Phật, thân cận tất cả chư Phật Như Lai trong mười phương ba đời, đến Thế giới Cực Lạc là có khả năng này, thật sự làm được.
Giống như A Mi Đà Phật, A Mi Đà Phật phân vô lượng vô biên thân, phân thân làm gì? Đi khắp toàn vũ trụ để tiếp dẫn người niệm Phật vãng sanh, là phân thân đi. Cư trú trong Thế giới Cực Lạc, mỗi người đều có khả năng giống như A Mi Đà Phật, cũng có thể phân vô lượng vô biên thân, đến trong tất cả cõi nước chư Phật, để làm gì? Để cúng Phật, cúng Phật là tu phước, để nghe kinh nghe pháp là tu huệ, phước huệ song tu. Nên ở Thế giới Cực Lạc, thời gian rất ngắn đã chứng được rốt ráo viên mãn. Sau khi rốt ráo viên mãn, nguyện vọng của tôi, là mãi không rời khỏi Thế giới Cực Lạc. Không rời khỏi Thế giới Cực Lạc, nhưng đi độ chúng sanh trong khắp Pháp giới hư không giới, là dùng phân thân, dùng Ứng thân, dùng Báo thân. Ở Thật Báo độ của chư Phật thì dùng Báo thân, trong Phàm Thánh Đồng Cư độ thì dùng Hóa thân, dùng Ứng thân, được đại tự tại, hiển thị đại thần thông.
Vì thế, sau khi phát tâm phải thật làm, tứ hoằng thệ nguyện cũng là phát Bồ-đề tâm, tâm của chúng ta phát là “chúng sanh vô biên thệ nguyện độ”. Càng là người tạo nghiệp nặng, chúng ta càng thấy họ đọa lạc vào trong hoàn cảnh khổ nhất, phải sanh tâm thương xót, phải giúp họ, phải nhắc nhở họ, khuyên họ giác ngộ, khuyên họ quay đầu. Chính mình phải đoạn phiền não, phải chăm chỉ niệm Phật, làm tấm gương tốt cho người đời sau thấy, cho người hiện đại xem, đó chính là nhất môn thâm nhập, trường thời huân tu. Không nên làm nhiều, không nên làm tạp, nếu tạp nếu nhiều thì loạn rồi, niệm lực của quý vị không thể tập trung, niệm lực phải tập trung mới sanh ra tác dụng rất lớn. Chúng ta không thể nghĩ quá nhiều, chúng ta chỉ nghĩ một việc, giống như lão Hòa thượng Hải Hiền, chỉ nghĩ A Mi Đà Phật, nên năng lực của ngài lớn, ngài nghĩ A Mi Đà Phật, A Mi Đà Phật liền hiện thân. Trong đời ngài nhìn thấy A Mi Đà Phật không biết bao nhiêu lần, tôi đoán chừng, đoán chừng bảo thủ nhất, ngài sẽ không dưới mười lần. Ngài nhận được chỉ thị của A Mi Đà Phật, thường trụ ở thế gian này, biểu pháp cho mọi người, biểu pháp chính là làm tấm gương tốt cho mọi người xem. Chúng ta nhìn thấy rồi, xem hiểu rõ rồi, nhất định phải học tập theo ngài, đời này quyết định không được bỏ lỡ.
Trong pháp thế gian, có duyên gặp được việc lợi ích cho chúng sanh, thì chúng ta làm. Nếu không có duyên gặp được, thì không nên đi tìm, đi tìm, là sai rồi. Phật tổ đều dạy chúng ta tùy duyên chứ không phan duyên, tùy duyên chính là cơ hội ở trước mặt, chẳng thể không làm, còn chúng ta đi tìm là sai rồi. Con đường phía trước đều là được Phật Bồ-tát sắp xếp tốt thay cho chúng ta, là thuận cảnh, hay nghịch cảnh, là thiện duyên, hay ác duyên, đối với sự tu hành của chính chúng ta là tuyệt đối có sự giúp đỡ, phải cảm ơn tất cả. Bạn tốt phải cảm ơn, bạn xấu cũng phải cảm ơn, cảm ơn họ tiêu nghiệp chướng thay cho ta, cảm ơn họ đến khảo nghiệm xem ta có nhẫn chịu được không? Nhẫn nhục Ba-la-mật đến từ đâu? Là đến từ những vị tri thức ấy, nếu không có những vị tri thức ấy, thì chúng ta đến đâu để tu Nhẫn nhục Ba-la-mật? Nên khi đức Thích Ca Phật làm Nhẫn nhục tiên nhân, gặp vua Ca Lợi cắt đứt thân thể của tiên nhân, cũng không có oán hận, chịu đựng oan uổng, chịu đủ sự áp bức và lăng nhục, cuối cùng chết một cách tàn nhẫn như vậy, tiên nhân nói với vua Ca Lợi, tương lai khi tôi thành Phật sẽ độ ngài đầu tiên. Phật không có vọng ngữ, Nhẫn nhục tiên nhân đó chính là tiền thân của đức Thích Ca Mâu Ni Phật, vua Ca Lợi chính là tiền thân của Tôn giả Kiều Trần Như. Khi đức Thích Ca thành Phật, thuyết pháp trong vườn Lộc Dã, người đầu tiên chứng quả A-la-hán, khai ngộ, chính là thân sau của vua Ca Lợi: tức là Tôn giả Kiều Trần Như, đã thực hiện rồi. Phật làm tấm gương cho chúng ta xem, chúng ta thành Phật, trước tiên độ những người nào? Trước tiên độ những người sát hại ta, người làm tổn thương ta, họ là nhóm đầu tiên được độ. Tại sao vậy? Bởi nghiệp họ đã tạo nặng, quả báo đều ở ba đường ác, người khổ nhất thì độ đầu tiên. Dần dần sẽ đến trong trời người, cuộc sống của họ không khó khăn lắm, người khổ nhất là ưu tiên nhất, đây là từ bi thật sự.
Nên 信願行三資糧 “Tín Nguyện Hạnh tam tư lương” (ba tư lương: Tín Nguyện Hạnh), chúng ta dựa vào điều này, tin có Thế giới Cực Lạc, tin có A Mi Đà Phật. Sơ tổ Đại sư Viễn Công cả đời thấy Thế giới Cực Lạc, thấy A Mi Đà Phật bốn lần, tôi tin tưởng. Đời này, tôi học Phật hơn 60 năm, thấy A Mi Đà Phật chỉ có một lần, vào năm 79 tuổi. Năm đó nói thật ra cũng là thọ mạng hết rồi, tôi có thể ở lại thế gian này cũng là A Mi Đà Phật bảo tôi làm biểu pháp. Thầy của tôi dạy tôi, khuyên tôi xuất gia, học đức Thích Ca Mâu Ni Phật. Cả đời đức Thích Ca Mâu Ni Phật giảng kinh dạy học, 79 tuổi viên tịch, ở trong rừng cây, không phải là trong nhà, mà trong rừng cây. Suốt đời không xây đạo tràng, có đạo tràng là có sự bận tâm, không có đạo tràng thì được đại tự tại. Đời này, tôi không xây đạo tràng, mười phương cúng dường, tôi học Pháp sư Ấn Quang, dùng để in kinh, làm công việc từ thiện. Điều quan trọng nhất trong công việc từ thiện chính là in kinh, thế gian khác có tai nạn, thì cứu trợ, đều là trích ra một phần từ trong khoản in kinh để cứu trợ, còn coi việc lưu thông pháp bảo là điều chủ yếu nhất, điều này tốt. Xây chùa, chôn hết những số tiền đó xuống đất, thật đáng tiếc, nếu không có người thừa kế tốt, vậy thì tạo tội nghiệp. Pháp mà Phật biểu diễu cho chúng ta quá hay rồi! Đại sư Ấn Quang dạy chúng ta, xây dựng đạo tràng, đạo tràng nhỏ, chúng trụ [ở đó] không nên vượt quá 20 người, tốt. Tương lai tất cả đều có thành tựu, thành tựu chính là vãng sanh Tịnh Độ. 20 người, 20 người đều sanh Tịnh Độ, là đại viên mãn, điều này quá tuyệt vời!
Đời này, tôi được lợi ích nhờ không quản người, không quản việc, không quản tiền, là tam bất quản, rất nhiều đồng học đều biết điều này. Đại sư Ấn Quang không thu nhận Đệ tử xuất gia, đời này tôi cũng không có Đệ tử xuất gia, những người nói rằng tôi là Sư phụ của họ, họ là Đệ tử xuất gia của tôi, đó đều là lừa gạt người. Trước đây ở Thư viện Hoa Tạng, có một nhóm người hàng chữ Ngộ, đó là Đồ đệ của bà Quán trưởng Hàn, không phải là của tôi, người bên trong đều biết, còn người bên ngoài không biết, tôi không liên quan. Nên các đồng học nhất định phải biết, hễ là nói Đồ đệ của tôi, có liên quan tới tôi, tất cả đều là giả, đừng tin theo. Mọi người muốn đến chụp hình với tôi, thì không thể từ chối điều này, không thể cầm một tấm ảnh rồi nói đây là Đệ tử của Pháp sư Tịnh Không. Nếu họ học thật sự, thì tôi giảng kinh đều ở trên Internet, đều trên truyền hình vệ tinh. Vì vậy tôi không có tín đồ, đó là thính chúng, thính chúng trên Internet, thính chúng trên TV, đây là thật, họ biết tôi, nhưng tôi không biết họ. Họ đến tìm tôi, nhờ tôi viết cho họ vài chữ, muốn tôi chụp ảnh với họ, tôi đồng ý tất cả, họ tên là gì, sống ở đâu, thì tôi cũng không biết. Tôi chưa hề nhớ tên, không nhớ số điện thoại của người ta, điện thoại của tôi cũng bỏ đi rồi, tôi không có điện thoại, phải biết điều này. Nếu quý vị hỏi trong tâm tôi có gì? Trong tâm tôi chỉ có A Mi Đà Phật, mọi lúc mọi nơi đều muốn vãng sanh Thế giới Cực Lạc, A Mi Đà Phật cũng sẽ đến đón tôi, quý vị nói vậy tốt biết bao. Nhiễm vào thế gian này thì phiền phức rồi, làm sao quý vị có thể thoát ra khỏi Lục đạo luân hồi?
Chúng tôi ở trên quốc tế, pháp duyên rất thù thắng, đó đều là người ta đến tìm tôi, chứ không phải tôi tìm người. Tôi tìm người thì khó, cầu người khó, việc trong thiên hạ cầu người khó, thì hà tất tôi phải cầu họ chứ? Thay vì cầu họ, không bằng cầu A Mi Đà Phật, không bằng cầu Bồ-tát Quán Âm. Không cần cầu người, đều là duyên chín muồi mà thôi. Những năm đầu hoằng pháp khắp nơi trên toàn thế giới, lưu lạc, một nơi không được vượt quá 10 ngày, nên là đều đại hoan hỷ. Nếu tôi ở nơi nào đó xây dựng một đạo tràng, thì phiền phức liền tới rồi, vì sao vậy? Bởi Đạo tràng khác không giảng kinh, còn đạo tràng này của tôi ngày ngày giảng kinh, tín đồ đều chạy đến chỗ của tôi đây, thì họ không chịu nổi. Tôi không thể làm điều này, tôi phải suy xét lo lắng đến họ. Một năm đến [ở] 10 ngày thì không sao, làm khách, rất khiêm nhường, tiếp đãi tôi chân thành, 10 ngày là rời khỏi rồi, một năm nữa lại tới, là khách quý. Di dân đến nước Úc, bởi lúc đó Bộ trưởng Di Dân, cũng là rất chân thành mời tôi đến nước Úc, thủ tục di dân cũng gần như với việc nói rằng ông ấy làm thay tôi. Đến bên đó rất ưu đãi, thật sự là mong tôi đến nước Úc để giúp họ hóa giải xung đột, thúc đẩy sự an định hài hòa của xã hội. Công việc chính là: đoàn kết tôn giáo, đoàn kết người bản địa, người bản địa có oán hận rất sâu đối với họ, tôi tiếp xúc với họ thì mới hiểu rõ, tôi làm hai nhiệm vụ này.
Cũng làm được một chút thành tích, đặc biệt là thành phố mà tôi cư trú, thị trấn nhỏ Toowoomba, đã đoàn kết tôn giáo rồi. Nguyện vọng của chúng tôi, chúng tôi không dám miễn cưỡng, tôi sống ở đó 13 năm, nhận được sự tán thành của người bản địa, hiện nay tự động đến thỉnh cầu tôi. Chúng ta cùng nỗ lực, từ chính phủ đến nhân dân, đến các ngành nghề, trường học, tôn giáo, tất cả chúng ta cùng đoàn kết lại, làm thành phổ nhỏ này trở thành thành phố kiểu mẫu về sự hài hòa đa nguyên văn hóa đầu tiên trên thế giới, cùng chung sống, một thành phố như vậy. Nói với người trên thế giới này, tín ngưỡng khác nhau, dân tộc khác nhau, văn hóa khác nhau có thể sinh sống cùng nhau, giống như anh chị em vậy.
Năm xưa tôi đã làm ba năm ở Thang Trì, đóng cửa rồi. Trong xã hội hiện nay đây, nếu không làm ra tấm gương, thì người ta không thấy và không tin. Sự việc lần đó ở Thang Trì là được Liên Hợp Quốc thúc bách, nếu không có duyên đó của Liên Hợp Quốc, thì chúng ta sẽ không nghĩ tới làm việc này. Vì vậy đều là do Phật Bồ-tát dẫn đường cho. Hiện nay thành phố nhỏ Toowoomba ấy giống như Thang Trì, như vậy mọi người đều hi vọng biến thành phố ấy thành một thành phố gương mẫu hài hòa, tôi nghe thấy rất hoan hỷ, tôi nói tôi toàn tâm toàn lực ủng hộ quý vị. Bắt đầu làm từ đâu? Bắt đầu làm từ tháng này, tháng này chúng ta mở giảng đường đạo đức, mong rằng cư dân thành phố nhỏ ấy của chúng ta đều nói đạo đức, đều có thể thực hiện đạo đức. Đạo đức bao gồm: luân lý, đạo đức, nhân quả, còn có giáo dục tôn giáo. Ở đó có mười mấy tôn giáo, tất cả cùng nhau. Tôi thỉnh họ sao chép ra những kinh văn liên quan đến đạo đức, luân lý, nhân quả từ trong kinh điển của họ, viết thành một quyển sách nhỏ gọi là 360, tức là 360 đoạn. Rất đơn giản, chúng ta hãy cùng nhau học tập. Chẳng những chúng ta học tập kinh điển của tôn giáo mình, mà còn học tập tôn giáo khác, giữa các tôn giáo sẽ không còn mâu thuẫn, sẽ không còn xung đột nữa. Dùng giáo dục tôn giáo, bởi vì tôn giáo chính là giáo dục.
Hai chữ “tôn giáo” của người Trung Hoa, danh từ này rất hay, mười mấy năm qua, tôi đã nói hai chữ này trên toàn thế giới, mà không có một tôn giáo nào phản đối, tôn giáo nào cũng vui mừng, cho rằng tôn giáo của chúng tôi phù hợp định nghĩa này. Ở Trung Hoa chữ “tôn” này có ba ý nghĩa: thứ nhất là chủ yếu, thứ hai là quan trọng, thứ ba là tôn sùng; chữ “giáo“ cũng có ba ý nghĩa: giáo dục, giáo học, giáo hóa. Khi kết hợp hai chữ “tôn giáo” lại, thì có nghĩa là nền giáo dục chủ yếu của nhân loại, giáo học quan trọng của nhân loại, giáo hóa tôn sùng của nhân loại, ý nghĩa này hay. Trong quá khứ của Trung Hoa, đặc biệt là ba triều đại Nguyên, Minh, Thanh, gần 1000 năm, các vị hoàng đế của ba triều đại ấy đều dùng tới Nho Phật Đạo, lịch sử có thể làm chứng điều này. Các vị hoàng đế dùng Nho để cai trị đất nước, dùng Phật dạy cho dân, giáo hóa nhân dân dùng Phật giáo, dùng Đạo để cúng tế trời đất quỷ thần, thờ cúng Tổ tông. Vì vậy quốc thái dân an, xã hội an định, nhân dân hạnh phúc, quốc gia cường thịnh, thái bình thịnh thế, thiên hạ đại trị.
Những điều này: phải nghiêm túc để nghiên cứu, để học tập, nhưng hiện nay nghiên cứu, học tập có mức độ khó khăn nhất định, đó chính là gì? Sách hay của Thánh hiền, cần dùng tâm chân thành, dùng tâm thanh tịnh, dùng tâm cung kính mới có thể học được. Đại sư Ấn Quang thường nói, “một phần thành kính được một phần lợi ích, mười phần thành kính được mười phần lợi ích”. Nếu không có tâm chân thành cung kính, dù đức Thích Ca Mâu Ni Phật đến dạy quý vị, Khổng tử tới dạy quý vị, thì quý vị cũng không đạt được lợi ích, quý vị nghe không hiểu. Người hiện nay phổ biến là tâm nông nổi, tâm nông nổi thì không cách nào tiếp xúc được, cũng không học được. Làm thế nào dạy người định tâm xuống, buông xuống vọng tưởng, tạp niệm, là học cung kính. Từ xưa đến nay quản lý việc nước của Trung Hoa, nói đến cốt lõi chỉ hai chữ: một là hiếu, hai là kính. Dùng lời của Nho gia để nói, chính là nhân nghĩa, nhân là yêu thương người, thực hiện trong hiếu, thực hiện trong kính đó là nghĩa, nghĩa chính là khởi tâm động niệm, lời nói việc làm: hợp tình, hợp lý, hợp pháp. Nếu không kính, thì tất cả xong rồi, giữa người với người chẳng thể không kính. Một là hòa, một là kính, là nguồn gốc của an ổn thân tâm, hạnh phúc vui vẻ của chúng ta,.
Khi tôi đến một nơi, điều quan trọng nhất chính là mong cùng hàng xóm, cư dân của khu vực nhỏ này, bất kể gặp nhau lúc nào nhất định cũng chào hỏi. Họ không chào tôi, thì tôi chào họ, rất chân thành chào hỏi họ. Chào hỏi vài lần, mười mấy lần, thì tự nhiên họ trả lời, họ thành thói quen rồi. Tứ Nhiếp Pháp mà Phật dạy chúng ta, thứ nhất là bố thí, điều đầu tiên trong bố thí chính là mỉm cười với mọi người, là Phật pháp Đại thừa đề xướng. Quý vị xem khi quý vị đi vào cửa chùa, đạo tràng của Phật giáo, điện Thiên vương, mắt nhìn thấy đầu tiên là ai? Bồ-tát Di Lặc, Hòa thượng Bố Đại, mỉm cười tiếp đón người. Đó chính là nói điều gì? Nếu quý vị không mỉm cười thì quý vị chớ vào, vào thì phải thật hoan hỷ giống như tôi vậy.
Còn hai bên đó là Tứ Đại Kim Cang, thần Hộ Pháp, nhắc nhở chính mình, phải bảo vệ pháp của chính mình. Đông Phương Trì Quốc Thiên Vương, Trì Quốc là gì? Giữ gìn quốc gia của quý vị, giữ nước, giữ gia đình. Gia đình là đơn vị nhỏ nhất của đất nước, gia hòa vạn sự hưng, quản lý gia đình giống như quản lý đất nước, dùng điều gì? Dùng trung, dùng hòa. Trên tay Thiên Vương cầm chính là đàn Tỳ Bà, Tỳ Bà đại biểu trung hòa. Cần chỉnh dây đàn vừa phải, không được quá căng, căng thì sẽ bị đứt; không được quá lỏng, lỏng quá không gảy ra tiếng. Cần phải điều chỉnh ở mức độ nhất định, thì âm sắc của đàn mới có thể hay, tượng trưng cho sự trung hòa. Nhà Nho giảng về đạo của Trung Dung, nhà Phật giảng về Trung Đạo Đệ Nhất Nghĩa. Phương Nam đại biểu là ngài Tăng Trưởng, thanh kiếm cầm trên tay của Tăng Trưởng Thiên Vương, kiếm đại biểu trí huệ. Thứ gì mới có thể gọi là tăng trưởng? Có trí huệ mới có thể tăng trưởng, tri thức không được, tri thức có vấn đề. Ngày nay phương Tây là nói về tri thức, không nói trí huệ. Trí huệ từ trong Chân Tâm sanh ra, còn tri thức là sanh ra từ A-lại-da, trong Vọng tâm sanh ra. Vọng tâm có tính hạn chế, có di chứng về sau, trí huệ sanh ra trong Chân Tâm, không có tính hạn chế, không có di chứng về sau, thật sự có thể giải quyết vấn đề.
Nên duyên phận này ở nước Úc của chúng tôi rất thù thắng, lúc tôi đến nước Úc, đã phát sinh mối liên hệ với Chính phủ liên bang của họ, là mấy vị Bộ trưởng. Phát sinh mối liên hệ với trường học, bởi vì công việc của chúng tôi là tiến hành trong trường học. Sau sự kiện 11 tháng 9, nhà trường đề cử tôi làm đại diện của trường, làm đại diện của Úc Châu, tham gia Hội nghị Hòa Bình của Liên Hợp Quốc. Đó là duyên, chính chúng tôi nghĩ cũng không nghĩ tới, duyên thành tựu rồi, là nhà trường đề cử. Phật pháp của chúng ta nói đại từ đại bi cứu khổ cứu nạn, chúng tôi có cơ hội này ở Hội nghị Hòa Bình của Liên Hợp Quốc, nói cho mọi người nghe những điều được nói trong văn hóa truyền thống của Trung Hoa, dùng luân lý, dùng đạo đức, dùng tôn giáo để hóa giải xung đột, thúc đẩy an định hài hòa. Là đi vào Liên Hợp Quốc như thế, duyên đã kết với Liên Hợp Quốc rất tốt, mãi đến bây giờ. Hiện nay tuổi đã lớn, thể lực yếu rồi, mong rằng có người tiếp quản, tận dụng thật tốt nền tảng này, để tuyên dương văn hoá truyền thống Trung Hoa ra toàn thế giới. Đặc biệt là Quần Thư Trị Yếu, hi vọng người lãnh đạo của mỗi quốc gia trên toàn thế giới, người có sức ảnh hưởng đều đọc được bộ sách này.
Trung Hoa đã thành lập Học viện Khổng Tử ở nhiều quốc gia, thành phố trên khắp thế giới, đây là việc tốt, muốn cho Học viện Khổng Tử sinh ra tác dụng, đó chính là muốn tuyên dương văn hoá truyền thống Trung Hoa. Văn hoá truyền thống bắt đầu từ đâu? Từ văn tự của Trung Hoa. Người nước ngoài hiếu kỳ, lại rất vui mừng, nói với họ về nguồn gốc của văn tự Trung Hoa, vì sao phải cách viết này, vì sao phải cách đọc này, và có ý nghĩa là gì, thú vị vô cùng. Biết chữ Trung Hoa, và nói về lịch sử 5.000 năm của Trung Hoa, để họ đều hiểu rõ, thì họ sẽ rất yêu Trung Hoa, tiến thêm bước nữa nhất định hợp tác với Trung Hoa, sẽ giúp thế giới này đi về hướng Đại đồng. Người Trung Hoa dùng văn hóa để lãnh đạo toàn thế giới, tốt! Thái bình thịnh thế không phải là của một khu vực này, mà của toàn cầu, thái bình thịnh thế của toàn cầu, người Trung Hoa có thể làm được. Tiến sĩ Joseph Toynbee người Anh tin sâu không nghi đối với sự việc này, tôi cũng giống như ngài, một chút nghi ngờ cũng không, nhất định có thể làm được.
Hai thứ này, ở Trung Hoa không có nữa, chính người Trung Hoa không biết. Trong truyện lịch sử của Trung Hoa, mỗi chương, mỗi tiết đều là lời dạy quý báu nhất, dạy chúng ta làm người như thế nào. Trung Hoa cũng không phản đối việc làm giàu, có con đường lớn phát tài. Trong kinh Phật cũng dạy người, làm thế nào có thể phát tài, làm sao đạt được thông minh trí huệ, làm sao đạt được khỏe mạnh trường thọ, đây là điều không phân biệt dân tộc, không phân biệt tín ngưỡng tôn giáo, mà tất cả mọi người trên toàn thế giới đều theo đuổi. Tôi ở nước ngoài, hỏi họ có muốn không? Muốn, bất kể tín ngưỡng tôn giáo nào, đều muốn giàu có, muốn thông minh trí huệ, muốn khỏe mạnh trường thọ. Phương pháp chính xác trong Phật giáo giúp quý vị, điều quý vị nhận được đều là thiện tài, trí huệ chân thật, khỏe mạnh trường thọ thật sự.
Tín Nguyện Hạnh, đây là điều kiện mà Tịnh Độ tông nhất định phải có đủ, thật ra tất cả tông phái, 84.000 Pháp môn, Pháp môn nào cũng phải Tín Nguyện Hạnh, mới có thể đạt được thành tựu. Trong Tịnh Độ là đặc biệt coi trọng, bởi vì Tịnh Độ là một đời thành tựu, 84.000 Pháp môn là do tu nhiều đời nhiều kiếp mà thành tựu, còn Pháp môn này là một đời, nên đặc biệt chú trọng ba thứ này. 此三者如鼎之三足,缺一不可 “Thử tam giả như đỉnh chi tam túc, khuyết nhất bất khả” (Ba điều này như ba chân của cái vạc, không thể thiếu một), ba thứ đều quan trọng, thiếu một cũng không được. 彌陀號大願王,淨土法門全依彌陀一乘願海 “Mi Đà hiệu Đại Nguyện Vương, Tịnh Độ Pháp môn toàn y Mi Đà Nhất thừa nguyện hải” (Đức Mi Đà hiệu là Đại Nguyện Vương, Pháp môn Tịnh Độ hoàn toàn nương vào biển nguyện Nhất thừa của đức Mi Đà), biển nguyện Nhất thừa này chính là 48 nguyện được nói trong Kinh này. Tịnh Độ tông hoàn toàn nương vào A Mi Đà Phật, nên đối với A Mi Đà Phật nhất định phải có sự nhận thức, phải có sự hiểu biết sâu sắc. Hiểu biết cạn là không có tác dụng, bởi vì quý vị có hoài nghi; nếu không có chút hoài nghi nào, thì rất có hiệu quả. 以信願持名為宗“Dĩ tín nguyện trì danh vi tông” (Lấy tín nguyện trì danh làm tông), tông ở đây tức là điều quan trọng, phương pháp tu hành quan trọng nhất, nguyên tắc chỉ đạo của tu hành.
可見願字實為自覺覺他之關鍵 “Khả kiến nguyện tự thật vi tự giác giác tha chi quan kiện” (Có thể thấy chữ “nguyện” thật sự là then chốt của tự giác giác tha). Chúng ta thật muốn đến Thế giới Cực Lạc, mới có thể buông xuống Thế giới này, ở Thế giới này tất cả tùy duyên, nhất định không phan duyên. Cuộc sống đơn giản, mỗi ngày có thể ăn no, có thể mặc ấm, có được một căn nhà nhỏ che mưa che nắng, là đủ rồi, vui vẻ vô cùng. Sau đó niệm niệm không rời danh hiệu, công đức của danh hiệu không thể nghĩ bàn. Bốn chữ “A Mi Đà Phật” này có thể phiên dịch, vì sao không dịch? Bởi tôn trọng nên không dịch. Dịch hoàn toàn sang thành ý nghĩa của nước ta, chính là vô lượng trí huệ, vô lượng giác ngộ, A dịch là vô, Mi Đà dịch là lượng, chính là vô lượng, Phật dịch là trí, dịch là giác, có thể phiên dịch. Vô lượng trí huệ, vô lượng giác ngộ đều vốn có trong Tự Tánh, không ở bên ngoài, bên ngoài cầu không được, quý vị phải tin điều này. Chúng ta dùng phương pháp gì có thể đạt được vô lượng trí huệ, vô lượng giác ngộ? Tín nguyện trì danh có thể đạt được. Ngài Hải Hiền làm ra tấm gương tốt nhất cho chúng ta, ngài dùng một câu Phật hiệu này đạt đến cảnh giới cao nhất, đó chính là Đại triệt Đại ngộ, Minh tâm Kiến tánh. Cùng một cấp bậc với Lục tổ Huệ Năng bên Thiền tông, cũng là cùng một cảnh giới với đức Thích Ca Mâu Ni Phật khi 30 tuổi đêm nhìn sao sáng, Đại triệt Đại ngộ dưới cây Bồ-đề.
Thế chúng ta đã niệm không ít năm, vì sao không đạt được? Lão Hòa thượng nói ra bí mật này, lão Hòa thượng nói, 天下無難事,只怕心不專 “thiên hạ vô nan sự, chỉ phạ tâm bất chuyên” (thiên hạ không việc khó, chỉ sợ tâm không chuyên). Khuyết điểm của chúng ta chính là tâm không chuyên, nên mấy chục năm không có hiệu quả. Ngài chuyên, tâm của ngài chuyên. Tâm của ngài chuyên, vậy chúng ta có thể nghĩ tới, từ lúc bắt đầu niệm Phật, ngài niệm đến Công phu Thành phiến, tức là trong tâm chỉ có A Mi Đà Phật, ngoài A Mi Đà Phật ra thì không có bất kỳ ý niệm nào, không có tạp niệm, không có vọng tưởng, khi nào ngài thành tựu? Ba năm. 20 tuổi ngài bắt đầu, cũng không quá 23-24 tuổi, thì ngài thành công rồi. Có công phu này là có thể vãng sanh, cầu vãng sanh, thì A Mi Đà Phật sẽ đến. Tôi còn thọ mạng nhưng không cần nữa, A Mi Đà Phật có thể dẫn quý vị đi, ví dụ này rất nhiều. Nhưng A Mi Đà Phật cho rằng người ấy rất hiếm có, ngài Hải Hiền, tư chất của ngài: phù hợp với điều kiện của người tu hành, đó chính là người thật thà, nghe lời, thật làm. Có điều kiện này, chẳng ai mà không thành tựu. Thật làm, ngài dùng tâm chuyên, nên A Mi Đà Phật để ngài trụ ở thế gian này thêm vài năm, làm tấm gương tốt cho người khác xem. Ngài trụ ở thế gian này, từ trên nền tảng này lại nâng cao lên, nhiều nhất là 5 năm được Sự nhất tâm Bất loạn, thêm 5 năm nữa được Lý nhất tâm Bất loạn, Lý nhất tâm Bất loạn tức là Đại triệt Đại ngộ, Minh tâm Kiến tánh của Thiền tông, là đến cảnh giới ấy. Nên điều gì ngài cũng biết, ngài không có chướng ngại. Vào lúc nào? Tôi đoán phải là khoảng 40 tuổi, ngài đã vào cảnh giới ấy. Thọ mạng của cuộc sống sau này chưa hẳn là của ngài, mà do Phật Bồ-tát cho ngài, giúp ngài kéo dài tuổi thọ. Kéo dài cho đến hiện nay, khi chúng ta gặp phải khó khăn, ngài đến làm chứng minh cho chúng ta, giúp chúng ta vấn đề này, giúp đỡ xong, thì A Mi Đà Phật đón ngài đi thôi.
Đó chính là quyển sách này, quyển sách này là giúp chúng ta giải quyết khó khăn, quyển sách này, Pháp sư Hoằng Lâm đã bỏ ra thời gian mười mấy năm để biên tập. Có rất nhiều người đã hiểu lầm về tôi, quyển sách này đều đã giải tỏa tất cả sự hiểu lầm. Lão Hòa thượng cầm quyển sách này, đã chụp hình, làm chứng minh, ngài đi rồi. Thật không dễ! Chúng ta cảm ơn A Mi Đà Phật thật sự chiếu cố đối với chúng ta, chúng ta không có mong cầu, nếu chúng ta cầu thì phan duyên, là không cầu. Pháp sư Hoằng Lâm tự động tự phát, tôi không có ấn tượng về thầy ấy. Tôi nghe nói vào năm xưa thầy ấy đã gặp tôi một lần, ở Hiệp Hội Phật Giáo Trung Hoa, tôi đến thăm Triệu Phác lão, thầy ấy ở đó chăm sóc chúng tôi, thầy ấy còn trẻ. Chúng ta thật sự rất cảm ơn thầy ấy, thật không dễ, đã biên soạn bộ sách này. Trong sách này rất nhiều việc mà tôi cũng đã quên rồi, nhưng khi tôi mở ra vừa xem bên trong, thì tôi nhớ lại quá khứ, rất nhiều người đều đã qua đời, đều không còn nữa. Trước đây tôi biết những người ấy, khi họ còn sống, tôi thường hay trở về Đại Lục để thăm họ, hiện nay rất nhiều người đều không còn nữa. Người quen ở Đại Lục ít, cũng không có ai phát biểu thay tôi, chỉ nhìn thấy một quyển sách như thế. Tôi cũng rất biết ơn Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật và A Mi Đà Phật.
Phải coi trọng chữ “nguyện” này, thật sự là then chốt của tự giác giác tha. 大願能生大力“Đại nguyện năng sanh đại lực” (Đại nguyện có thể sanh ra đại lực), năng lực đó từ đâu tới? Từ nguyện mà đến.  故與念慧力,同作增上因緣 “Cố dữ Niệm Huệ lực, đồng tác Tăng thượng Nhân duyên” (Vì vậy với Niệm Huệ lực, cùng làm Tăng thượng Nhân duyên), Niệm Huệ lực ở đây là Ngũ căn, Ngũ lực, trong Ngũ căn Ngũ lực đều có Niệm, đều có Huệ, làm Tăng thượng duyên cho chúng ta. 《淨影疏》曰:起行之願,名為願力“Tịnh Ảnh Sớ viết: khởi hạnh chi nguyện, danh vi nguyện lực” (Trong Tịnh Ảnh Sớ nói: nguyện để khởi hạnh, gọi là nguyện lực), có nguyện họ mới chịu thật làm, nếu không có nguyện thì họ buông lơi rồi. Trong Hội Sớ nói, 願力者,四宏誓願能淨佛國土,成就眾生故 “nguyện lực giả, tứ hoằng thệ nguyện năng tịnh Phật quốc độ, thành tựu chúng sanh cố” (nguyện lực: là tứ hoằng thệ nguyện có thể làm thanh tịnh cõi nước Phật, thành tựu chúng sanh). Tứ hoằng thệ nguyện, thứ nhất “chúng sanh vô biên thệ nguyện độ”. Thật sự phát nguyện, không đành lòng nhìn thấy chúng sanh chịu khổ luân hồi trong Lục đạo. Chính chúng ta ở đây trực tiếp cảm nhận, biết khổ của luân hồi, mong nghĩ ra phương pháp giúp chúng sanh thoát khỏi Lục đạo luân hồi. Chúng sanh thoát ra được Lục đạo luân hồi, chỉ có niệm Phật cầu vãng sanh, chỉ có cách này. Các cách khác, trên lý mà nói thì không có vấn đề, nhưng trên thực tế thì cực kỳ khó khăn, tại sao vậy? Bởi phải đoạn phiền não. Có thể đoạn được Phiền não không? Nếu không đoạn được phiền não thì quý vị không thể thăng cấp.
Đừng nói đến việc đoạn các phiền não khác, mà đoạn phiền não đầu tiên là Thân kiến, quý vị có đoạn được không? Trong năm loại Kiến hoặc, đầu tiên là Thân kiến, thân thể. Nói với chúng ta thân thể là gì? Thân thể không phải tôi, quý vị có công nhận không? Vì sao không phải tôi? Bởi tôi là không sanh không diệt, thân thể này có sanh có diệt, nên thân thể không phải tôi. Thân thể là gì? Là thứ tôi có, giống như quần áo, quần áo không phải tôi, là sở hữu của tôi. Quần áo dùng bẩn rồi, dùng lâu rồi, dùng hỏng rồi, cởi ra để thay một bộ khác. Thân thể cũng là như vậy, dùng hơn mấy chục năm, không dùng tốt nữa, thì đổi thân thể. Thế nên người có đời sau, có đời quá khứ, có đời vị lai, còn tôi thì đời đời bất diệt.
Biết được thân không phải là tôi, có thể buông xuống thân này, đều có thể buông xuống vật ngoài thân, buông xuống mới có thể nâng cao chính mình. Vì vậy buông xuống Thân kiến, buông xuống Biên kiến, biên là hai bên, dùng lời hiện nay của chúng ta để nói, là đối lập. Đời này, tôi không đối lập với bất kỳ ai, không đối lập với tất cả việc, không đối lập với tất cả vạn vật, tại vì sao? Bởi cả vũ trụ và chính tôi là một thể. Lão tử nói, 天地與我同根,萬物與我一體 “thiên địa dữ ngã đồng căn, vạn vật dữ ngã nhất thể” (trời đất cùng nguồn gốc với ta, vạn vật là một thể với ta), quý vị có tiếp nhận được không? Nếu quý vị tiếp nhận được, thì tâm lượng lớn rồi, thật sự là tâm bao thái hư, lượng châu sa giới. Chúng ta phục vụ cho người khác, cứu khổ cứu nạn, nên phải làm, không cầu báo đáp. Cầu báo đáp là có mình có người, đối lập rồi, là một thể, thì báo đáp thế nào? Công việc càng siêng năng càng vui vẻ, niềm vui chính là báo đáp. Học Đại thừa, học Tịnh Độ đều phải xây dựng trên nền tảng này, sau đó nguyện độ chúng sanh, đây là nguyện chân thật. Muốn độ chúng sanh, trước độ chính mình, chưa độ mình, thì làm sao độ được người khác? Độ chính mình, trước tiên phải tu đức hạnh, đức hạnh chính là “phiền não vô tận thệ nguyện đoạn”, đoạn hết phiền não, thì đức hạnh viên mãn rồi.
Đức là vốn có trong Tự Tánh, không phải từ bên ngoài. Nói cụ thể, Nho gia nói là Ngũ luân: cha con có tình thân, vua tôi có nghĩa, vợ chồng có phân biệt, già trẻ có thứ tự, bạn bè có niềm tin. Đây là tự nhiên, đây là vốn có trong Tự Tánh, không phải đến từ bên ngoài. Đạo đức cơ bản, là năm chữ: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín. Nhân ái là Tự Tánh, vốn có trong Tự Tánh. Nghĩa là thuận theo lý, nhất định không trái nghịch đạo lý, đi theo đạo lý. Trí là lý trí, mặt trái của lý trí là tình cảm, tuyệt đối không làm việc theo tình cảm, làm việc theo tình cảm thì có vấn đề, có sai lầm, phải theo lý trí. Điều này là giữ bên trong, biểu hiện ra bên ngoài là lễ phép, lễ phép đó chính là hiếu, đối với bậc trên là hiếu, đối với ngang hàng là kính. Xã hội tường hòa, tình cảm của người nồng hậu. Quý vị muốn nhìn thấy trong xã hội này, qua lại giữa người với người, không chào hỏi nhau sao? Hay là muốn nhìn thấy mọi người gặp trên đường, đều chào hỏi, đều mặt đầy tươi cười? Đây là lễ. Tinh thần chủ yếu của lễ là trung, là hòa, trung là không lệch không tà, hòa là hài hòa. Tín, nhất định phải coi trọng chữ tín, tức là không vọng ngữ, không lưỡng thiệt, không ác khẩu, không ỷ ngữ, trong Phật pháp đã nói bốn loại. Xã hội này tươi đẹp biết bao.
Nên phải từ bản thân mình làm được điều đó trước, rồi mới học Pháp môn, người không có đức hạnh thì đừng học, học cũng không làm được, quý vị đi học cũng sẽ học không đúng, học lệch mà thôi, nhất định phải thành tựu đức hạnh. Nên Trung Hoa dạy học, từ xưa đến nay nói thai giáo, trước khi đứa trẻ ba tuổi, đó là cắm gốc giáo dục. Thời cổ đại Trung Hoa có câu ngạn ngữ nói: 三歲看八十 “Tam tuế khán bát thập”(Ba tuổi thấy tám mươi), ba tuổi cắm gốc thật tốt, 80 tuổi cũng sẽ không thay đổi, gốc cắm vững chắc rồi. Sau đó mới học Pháp môn, học gì vậy? Học trí huệ, học tri thức, trí huệ là thể, tri thức là dụng; dùng tri thức, phía sau có trí huệ, thì tri thức này có thể dùng được rất chính xác. Giống như khoa học kỹ thuật, tuyệt đối sẽ không tạo bom nguyên tử, quý vị có tri thức này mà phát minh bom nguyên tử, là đi sai rồi, đi lệch rồi, đi tà rồi, thứ này là gì? Thứ này hại người. Hiện nay tuy có lợi ích nhỏ, có thể kết thúc thế chiến lần thứ hai, đây là việc tốt, nhưng di chứng để lại thật đáng sợ. Nhân loại có vũ khí này, không biết lúc nào người nổi giận, ném thứ này khắp nơi, thì trái đất bị hủy diệt rồi, quý vị nói xem đáng sợ biết bao. Nếu là người có giáo dục truyền thống của Trung Hoa, họ có biết không? Biết; Họ có làm không? Họ không làm. Ở Trung Hoa vào đời nhà Hán có người đã học bay, lượn trên không, bay trên không. Xe gỗ do Gia Cát Lượng phát minh ra, vận chuyển cơ giới hóa, tuy khoảng cách trong một ngày không xa lắm, khoảng ba-bốn mươi dặm đường, nhưng thế nào? Đó là cơ giới hóa, không cần nhân công. Sau khi Gia Cát Lượng chết thì toàn bộ bị tiêu hủy. Tại sao không truyền cho người đời sau? Bởi thứ này truyền cho người đời sau, nếu không có đạo đức, không có trí huệ để quản lý họ, thì họ sẽ làm việc xấu, quý vị phải chịu trách nhiệm nhân quả này. Nên người Trung Hoa biết giáo dục nhân quả, không dám làm những việc xấu này.
法藏菩薩所具殊勝之願力,無能及者,是故號為大願王“Pháp Tạng Bồ-tát sở cụ thù thắng chi nguyện lực, vô năng cập giả, thị cố hiệu vi Đại Nguyện Vương” (Bồ-tát Pháp Tạng đã có đủ nguyện lực thù thắng, không ai bằng được, cho nên hiệu là Đại Nguyện Vương). Thời gian hôm nay hết rồi, chúng ta học tập đến đây thôi.
(Hết tập 143)
Nguyện đem công đức này
Hướng về khắp tất cả
Đệ tử cùng chúng sanh
Đều sanh nước Cực Lạc
Sớm viên thành Phật đạo
Rộng độ khắp chúng sanh
Nam Mô A Mi Đà Phật