Responsive Menu
Add more content here...

Tập 246 – Tịnh Độ Đại Kinh Khoa Chú 2014

TỊNH ĐỘ ĐẠI KINH KHOA CHÚ 2014-2017

(Giảng lần thứ 4)

PHẨM 9: VIÊN MÃN THÀNH TỰU:

Thành Tựu Viên Mãn (Buổi 8)

Tập 246

Hòa thượng Thích Tịnh Không chủ giảng.

Giảng tại: Hiệp Hội Giáo Dục Phật Đà Hồng Kông.

Thời gian: Ngày 11 tháng 09 năm 2015.

Dịch giả: Như Lộ.

 Giảo chánh: Thích Thiện Trang.

Kính chào chư vị Pháp sư, chư vị đồng học, kính mời ngồi. Mời mọi người cùng tôi quy y Tam Bảo:

“A-xà-lê tồn niệm, ngã Đệ tử Diệu Âm, thỉ tùng kim nhật, nãi chí mạng tồn, quy y Phật-Đà, lưỡng túc trung tôn, quy y Đạt-Ma, ly dục trung tôn, quy y Tăng-Già, chư chúng trung tôn” (3 lần).

Mời xem Đại Kinh Khoa Chú, trang thứ 592, nửa đoạn sau của hàng thứ bảy, nửa đoạn sau của hàng thứ bảy, từ 又極樂同居淨土 “hựu Cực Lạc Đồng Cư Tịnh Độ” (thêm nữa Đồng Cư Tịnh Độ của Cực Lạc), bắt đầu xem từ chỗ: 圓明無礙,亦通於常寂等上三土 “Viên minh vô ngại, diệc thông ư Thường Tịch đẳng thượng tam độ” (Viên minh vô ngại, cũng thông với ba cõi trên như Thường Tịch Quang v.v…) Quan trọng nhất trong câu này, chính là nói với chúng ta, tuy Thế giới Cực Lạc có bốn cõi ba bậc chín phẩm, nhưng đó là có thể dung thông, tuy có sự phân biệt, nhưng lại dung thông, điều này không thể nghĩ bàn. Niệm lão cử ra từ Mi Đà Sớ Sao, do Đại sư Liên Trì nói: 隨其機異,所見亦異。有於同居見寂光土;有於同居見實報土;有於同居見方便土;有於同居但見本土 “Tuỳ kỳ cơ dị, sở kiến diệc dị. Hữu ư Đồng Cư kiến Tịch Quang độ; Hữu ư Đồng Cư kiến Thật Báo độ; Hữu ư Đồng Cư kiến Phương Tiện độ; Hữu ư Đồng Cư đãn kiến bổn độ” (Theo căn cơ của mỗi người khác nhau, mà nơi thấy được cũng khác nhau. Có [người] ở Đồng Cư thấy cõi Tịch Quang; Có [người] ở Đồng Cư thấy cõi Thật Báo; Có [người] ở Đồng Cư thấy cõi Phương Tiện; Có [người] ở Đồng Cư chỉ thấy cõi của mình). Câu này hiển thị lời phía trước của Niệm lão, ‘cõi Đồng Cư viên minh vô ngại’, thông với ba cõi trên như Thường Tịch Quang v.v…, tiếp theo nêu ra cho chúng ta: Sớ Sao của Đại sư Liên Trì, trong đó chứng minh rằng: cách nói này không phải là do một mình ngài nói, mà là Đại sư Liên Trì sớm đã có nói. ‘Tùy căn cơ khác nhau của mỗi người, mà điều thấy được khác nhau’, tất nhiên là người vãng sanh, công phu đối với kinh giáo không như nhau, tri kiến được ngộ nhập cũng không hoàn toàn tương đồng. Cho nên điều này cũng nói rõ cho chúng ta, nghe kinh giải nhập là việc tất yếu. Năm xưa đức Phật Thích Ca Mâu Ni còn tại thế, tại sao giảng kinh thuyết pháp 49 năm? Điều này rất có đạo lý. Học tập kinh giáo, học tập rất nhiều, học tập rất tốt, không chỉ có nắm chắc sự vãng sanh, mà phẩm vị vãng sanh cũng khác nhau, cho dù là ở cõi Đồng Cư, thì họ cũng dung thông được với ba cõi phía trên, họ đều có thể nhìn thấy. Nhìn thấy sẽ có lợi ích gì? Lợi ích quá nhiều rồi, nhiều đồng tham đạo hữu, dẫn dắt lẫn nhau, tiến bộ nhanh chóng. Đây cũng là lý do vì sao cần có: các bậc Thượng thiện nhân cùng tụ hội một nơi, là bởi đạo lý này. Đó là sự vô cùng thù thắng của Thế giới Cực Lạc, trong cõi Đồng Cư, vãng sanh Đồng Cư độ, có thể thấy được ngài Quán Âm, Thế Chí, có thể thấy được ngài Văn Thù, Phổ Hiền, các ngài ở nơi đâu? Các ngài ở phẩm trên nhất của cõi Thật Báo, là Đẳng giác Bồ-tát, nếu đã đoạn hết: phẩm sau cùng của Tập khí Vô minh rồi, thì các ngài sẽ hòa vào Thường Tịch Quang, là Diệu giác Như Lai. Chúng ta nên chú ý đến điều này.

如《像法決疑經》云:今日坐中無央數眾 “Như Tượng Pháp Quyết Nghi Kinh vân: Kim nhật toạ trung vô ương số chúng” (Như trong Kinh Tượng Pháp Quyết Nghi nói: Vô ương số chúng sanh trong tòa hôm nay). Đây là đức Phật, do đức Phật Thích Ca Mâu Ni nói. Trong pháp hội có nhiều người tham dự, những người ấy, có một số người chỉ thấy được: 山林、地土(就是土地)、砂礫 “sơn lâm, địa thổ (tựu thị độ địa), sa lịch” (núi rừng, địa thổ (tức là đất đai), đá sỏi) ở nơi này, đây là loại mà người thông thường thấy được; Hoặc có người thấy được đó là七寶 “thất bảo” (bảy báu), đó là bậc nào thấy được? Bồ-tát thấy được. Tuy ở chung một vùng đất, cùng một nơi, nhưng mỗi người sẽ thấy khác nhau. 或見是諸佛行處,或見即是不思議諸佛境界。皆隨機異見也 “Hoặc kiến thị chư Phật hành xứ, hoặc kiến tức thị bất tư nghì chư Phật cảnh giới. Giai tuỳ cơ dị kiến dã” (Hoặc thấy là nơi tu hành của chư Phật, hoặc thấy chính là cảnh giới của chư Phật không thể nghĩ bàn. Đều tùy căn cơ mà thấy khác nhau). Vì thế, chúng ta thấy vũ trụ này, vũ trụ này là huyễn hóa, giống như làm ảo thuật. Chúng ta đứng ở góc độ khác nhau, sẽ nhìn thấy khác nhau. Tuy ở cùng một nơi, nhưng điều mà phàm phu thấy được: khác với A-la-hán, điều A-la-hán thấy được, khác với Bồ-tát, điều Bồ-tát thấy được: lại khác với Pháp thân Đại sĩ, điều mà Pháp thân Đại sĩ thấy được: cũng khác với điều mà chư Phật Như Lai nhìn thấy, quý vị nói đâu là thật, đâu là giả chứ? Đức Phật nói với chúng ta, một chân tất cả chân, một vọng tất cả vọng. Trên thực tế, chân [và] vọng là sự Phân biệt Chấp trước: của phàm phu chúng ta biến hiện ra, thật tế thì sao? Thật tế thì hoàn toàn không có đối lập, đó mới là tướng chân thật.

Vì thế chúng ta cần nên biết dụng công, sáng tỏ những đạo lý này, thì có thể luyện tập, luyện ở ngay trong sáu căn tiếp xúc với cảnh giới sáu trần, mắt thấy sắc, luyện không phân biệt, không chấp trước. Tịnh tông đặc biệt vi diệu, Tịnh tông chỉ là một câu A Mi Đà Phật, mắt thấy sắc, thảy đều là A Mi Đà Phật; tai nghe tiếng, thảy đều là A Mi Đà Phật, không có Phân biệt, không có Chấp trước, tất cả đều niệm A Mi Đà Phật, tốt! Nếu không niệm A Mi Đà Phật thì phân biệt chấp trước rồi, liền khởi lên Biên kiến, đều đối lập tất cả pháp rồi, đây là phàm phu trong Lục đạo. Thật sự tu hành dụng công, xác thật là: ngay ở sáu căn tiếp xúc với sáu trần, vào lúc này, tại chỗ này, cao minh nhất là không khởi tâm, không động niệm, Phật tri Phật kiến, vạn pháp như một; Bồ-tát có Khởi tâm Động niệm, không có Phân biệt Chấp trước; A-la-hán có Phân biệt, không có Chấp trước; Khởi tâm Động niệm, Phân biệt Chấp trước đều có, là phàm phu Lục đạo. Thật tế mà nói, chúng ta không thể có quá nhiều dục vọng ở thế gian này, dục vọng đó vĩnh viễn trói buộc chúng ta, không thể rời khỏi Lục đạo luân hồi, chúng ta phải buông xuống triệt để. Chỉ một mục tiêu, chỉ một phương hướng, một phương hướng, là Thế giới Tây Phương Cực Lạc; Một mục tiêu, là thân cận A Mi Đà Phật, ngoài điều này ra, không có tạp niệm nào cả, đây gọi là Vô trụ. Có A Mi Đà Phật là Sanh tâm, Vô trụ Sanh tâm, Sanh tâm Vô trụ. Trong tâm còn có A Mi Đà Phật, không sao, tốt, nếu trong tâm thật sự: không có điều gì cả, thì quá khó, điều gì cũng không có thì lạc vào Không rồi, Không cũng là có trụ, Không và Có là tương đối. Cho nên, Vô trụ Sanh tâm, Sanh tâm Vô trụ, [đó là] cảnh giới của Pháp thân Bồ-tát, không phải người thông thường có thể làm đến được. Tịnh tông chúng ta chỉ có A Mi Đà Phật, ngoài A Mi Đà Phật ra, điều gì cũng không có, đây là gần nhất với Vô trụ Sanh tâm, không cách xa lắm. Phương pháp niệm Phật của Tịnh Tông quá là vi diệu, chúng ta phải trân quý, phải biết vận dụng, sau khi học rồi phải biết ứng dụng.

Vì vậy, ‘giai tùy cơ dị kiến’, tùy căn cơ của chúng sanh khác nhau, mà thấy được cảnh giới cũng khác nhau. Nên trong Mi Đà Yếu Giải nói, mấy câu tiếp theo đây của Đại sư Ngẫu Ích rất quan trọng, 今云極樂世界正指同居淨土。亦即橫具上三淨土也 “kim vân Cực Lạc Thế giới, chánh chỉ Đồng Cư Tịnh Độ. Diệc tức hoành cụ thượng tam Tịnh Độ dã” (nay nói Thế giới Cực Lạc, chính là chỉ Đồng Cư Tịnh Độ. Cũng là bao phủ cả ba Tịnh Độ trên). Không hề khác với trong Sớ Sao mà Đại sư Liên Trì nói. Nói Thế giới Cực Lạc, thật sự là chỉ Đồng Cư Tịnh Độ. Vì sao vậy? Bởi tuyệt đại đa số người vãng sanh đều ở nơi đó, người niệm đến Nhất tâm Bất loạn không nhiều. Trong Đồng Cư Tịnh Độ có ba bậc chín phẩm, Trung thượng phẩm. Chúng ta tin rằng: họ có thể thấy được ba cõi ở trên, phía trên, là cõi Phương Tiện, cõi Thật Báo, cõi Thường Tịch Quang, thật sự là sanh một là sanh tất cả.

又云 “Hựu vân” (Còn nói), vẫn là lời nói trong Yếu Giải: 今約信願行三 “Kim ước tín nguyện hạnh tam” (Nay rút gọn Ba điều tín nguyện hạnh), hiện tại là tín nguyện hạnh: về ba sự việc này mà nói, thì đó là ba Tư lương của Tịnh Độ, cũng chính là ba điều kiện để vãng sanh Thế giới Tây Phương Cực Lạc. Đầu tiên là phải tin, thật sự tin tưởng có Thế giới Cực Lạc, có A Mi Đà Phật, không có mảy may hoài nghi, điều kiện thứ nhất này, đó chính là điều kiện để vãng sanh; Thứ hai là nguyện, thật sự mong muốn đi. Có tín có nguyện, chắc chắn sẽ được sanh, thật sự muốn đi, thật sự mong muốn đi, đi ngay bây giờ, không muốn chờ đợi nữa. Sau đó ‘hạnh’ là niệm Phật, tín nguyện trì danh, trì danh là hạnh, công phu hành sâu hay cạn, là phẩm vị vãng sanh đến Thế giới Cực Lạc cao hay thấp, là quý vị sanh ở cõi nào. Công phu niệm Phật của chúng ta chưa thành phiến, thì sanh cõi Đồng Cư; Công phu thành phiến rồi, thì sanh cõi Phương Tiện, chưa kiến Tánh đều ở cõi Phương Tiện; Niệm câu Phật hiệu này: đến Đại triệt Đại ngộ, Minh tâm Kiến tánh, thì sanh cõi Thật Báo. Đây là ý nghĩa bên trong của chữ ‘hạnh’ này. Ba điều kiện này, tin thật, nguyện thiết, hành chuyên, một câu danh hiệu, một bộ Kinh, chúng ta chỉ nương theo Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh: do Hạ Liên công hội tập. Bộ Kinh này: là thiện bản của Kinh Vô Lượng, không bỏ sót điều nào trong năm loại bản dịch gốc, ở trong bản này đều viên mãn đầy đủ, chúng ta là có phước báo, ở thời đại này đã gặp được. Phiên bản này của ngài chỉ mới xuất bản vào thời cận đại, sau khi kháng chiến thắng lợi mới lưu thông, cho nên thế hệ trước, từ thời của tôi trở về trước, thế hệ trước chưa từng thấy qua, chúng ta có phước đã thấy được rồi. Phước còn rất lớn, chẳng những thấy được Kinh, mà còn thấy được Chú Giải, thấy được Chú Giải của lão Cư sĩ Hoàng Niệm Tổ, Chú Giải là càng về sau nữa, niên đại 1980 mới được hoàn thành, bản hiệu đính hình như là những năm 1990, hiếm có khó gặp. Chúng ta toàn tâm toàn lực để lưu thông, in ấn số lượng lớn, kết duyên khắp nơi, tặng Đại Kinh Giải. Chúng ta có thể tuân thủ: lời dạy của Đại sư Liên Trì, Ngẫu Ích, lại nhận được sự khuyên nhủ chân thành của Hạ Liên công, lão Cư sĩ Hoàng Niệm Tổ, suốt đời không thay đổi, chắc chắn sanh Tịnh Độ, nhất định vãng sanh.

Chúng ta tiếp tục xem: 彌陀名號不可思議,故能令凡夫所感同居極樂,最極清淨也 “Mi Đà danh hiệu bất khả tư nghì, cố năng linh phàm phu sở cảm Đồng Cư Cực Lạc, tối cực thanh tịnh dã” (Danh hiệu của đức Mi Đà không thể nghĩ bàn, cho nên có thể khiến Đồng Cư Cực Lạc mà phàm phu cảm được, vô cùng thanh tịnh). Phải ghi nhớ câu nói này, Đồng Cư của Thế giới Cực Lạc: vô cùng thanh tịnh, [là] Tịnh độ. Đồng Cư Uế độ của Thế giới chúng ta đây, không thanh tịnh, đặc biệt là những gì chúng ta gặp phải hiện thời, xã hội hiện thời hết sức hỗn loạn, trái đất hiện thời tai nạn khác thường. Mỗi ngày quý vị xem thời sự, nghe phát thanh, biết nhiều hơn tôi, mấy chục năm rồi, tôi đã không tiếp xúc, không xem báo chí, không nghe phát thanh, không xem tivi, đã 50 năm rồi. Tuy không xem, nhưng thường xuyên nghe mọi người nói, nhận được tin tức từ trong câu chuyện của người khác, sự hỗn loạn, tai nạn: mỗi năm một nghiêm trọng hơn, điều này thật đáng sợ! Nghĩ đến Thế giới Cực Lạc, Đồng Cư của Thế giới Cực Lạc chính là Tịnh độ, cực kỳ thanh tịnh, đó là lý tưởng của đời người, Sở nguyện của đức Mi Đà, nguyện ấy đã thành tựu viên mãn, vãng sanh chính là viên mãn. Từ trên lý mà nói, chính là ‘tất cả pháp từ tâm tưởng sanh’, người sanh đến Thế giới Cực Lạc, tâm của họ nghĩ gì? A Mi Đà Phật, A Mi Đà Phật là thanh tịnh nhất, A Mi Đà Phật là rốt ráo viên mãn. Cho nên, trong mười phương cõi Phật không có, chỉ có ở Đồng Cư Cực Lạc, ở mười phương Thế giới không tìm được, đây mới là Tông chỉ của Cực Lạc Tịnh độ. 以彌陀一乘願海,六字洪名,萬德莊嚴,一句清淨,以此最極清淨、不可思議一句彌陀名號之真因 “Dĩ Mi Đà Nhất thừa nguyện hải, lục tự hồng danh, vạn đức trang nghiêm, nhất cú thanh tịnh, dĩ thử tối cực thanh tịnh, bất khả tư nghì nhất cú Mi Đà danh hiệu chi chân nhân” (Bởi biển nguyện Nhất thừa của đức Mi Đà, sáu chữ hồng danh, vạn đức trang nghiêm, một câu thanh tịnh, bởi đây là tối cực thanh tịnh, nên nhân chân thật của một câu danh hiệu đức Mi Đà là không thể nghĩ bàn). Điều này đã nói rõ với chúng ta, thanh tịnh nhất: là một câu Nam Mô A Mi Đà Phật, phải thường niệm câu Phật hiệu này, chúng ta thường niệm thì có lợi ích, người niệm Phật nhiều hơn, xã hội của chúng ta sẽ giảm bớt nghiệp chướng, trái đất mà chúng ta cư trú: sẽ tăng thêm một phần thanh tịnh. Nhiều người niệm Phật, cho dù không thể hóa giải tai nạn, nhưng tôi tin cũng có thể giảm nhẹ tai nạn, Điều này là nhất định có thể làm được. Danh hiệu, biển nguyện, biển nguyện ấy chính là 48 nguyện, hồng danh chính là ‘Nam Mô A Mi Đà Phật’, vạn đức trang nghiêm, vô cùng thanh tịnh, không thể nghĩ bàn. Chúng ta còn muốn tìm gì chứ? Không cần đi tìm nữa, lão lão thật thật niệm một câu Phật hiệu đến cùng, học lão Hòa thượng Hải Hiền, 92 năm không chuyển hướng, không hề đánh mất.

Chữ ‘chân nhân’ này là: 自然感得不可思議、最極清淨之極樂同居國土 “Tự nhiên cảm đắc bất khả tư nghì, tối cực thanh tịnh chi Cực Lạc Đồng Cư Quốc độ” (Tự nhiên cảm được cõi nước Đồng Cư Cực Lạc không thể nghĩ bàn, vô cùng thanh tịnh). Chúng ta vãng sanh đến Thế giới Cực Lạc, nơi cư trú ấy, 極樂世界之同居淨土 “Cực Lạc Thế giới chi Đồng Cư Tịnh Độ” (Đồng Cư Tịnh Độ của Thế giới Cực Lạc), cõi Phàm Thánh Đồng Cư, nơi mà chúng ta vãng sanh đến. Chỗ mà chúng ta ở hiện nay: là Phàm Thánh Đồng Cư độ của đức Phật Thích Ca Mâu Ni, trong cõi Đồng Cư của mười phương cõi nước chư Phật: phần lớn là Uế độ, chỉ có Đồng Cư của Thế giới Cực Lạc là Tịnh độ, phải thật rõ ràng, thật sáng tỏ về nhận thức này. Ngày nay chúng ta là từ Đồng Cư Uế độ, buông xuống Đồng Cư Uế độ, vãng sanh Đồng Cư Tịnh độ. Tiêu chuẩn của chữ ‘tịnh’ này, là lấy A Mi Đà Phật làm tiêu chuẩn, cực kỳ thanh tịnh. Vì vậy, Đồng Cư Tịnh độ của Thế giới Cực Lạc, 超越十方,故常曰極樂之妙,首在同居也 “siêu việt thập phương, cố thường viết Cực Lạc chi diệu, thủ tại Đồng Cư dã” (siêu vượt mười phương, nên thường gọi là sự vi diệu của Cực Lạc, đứng đầu là ở cõi Đồng Cư). Bởi vì cõi Đồng Cư: là nơi chúng ta vãng sanh đến, chúng ta đến Thế giới Cực Lạc là ở cõi Đồng Cư. Chỗ này tiết lộ tin tức cho chúng ta, Đồng Cư của Cực Lạc là thanh tịnh không gì sánh bằng.

Chúng ta lại xem đoạn thứ hai sau đây: 現正報 “Hiện Chánh Báo”. Đoạn đầu tiên nói về Y báo, hoàn cảnh cư trú, hoàn cảnh học tập, bây giờ xem về Chánh báo.

【法藏成佛。號阿彌陀。成佛以來。於今十劫。】 “Pháp Tạng thành Phật, hiệu A Mi Đà, thành Phật dĩ lai, ư kim thập kiếp.” (Ngài Pháp Tạng thành Phật, hiệu là A Mi Đà, thành Phật đến nay, mới hơn mười kiếp).

 Ở đoạn này: Niệm lão đã hạ thêm công phu rất nhiều, giải thích rất tường tận, chúng ta xem Chú Giải: 『法藏成佛,號阿彌陀』“Pháp Tạng thành Phật, hiệu A Mi Đà” (Ngài Pháp Tạng thành Phật, hiệu là A Mi Đà). 上明國土,是依報 “Thượng minh Quốc độ, thị Y báo” (Trên làm rõ về cõi nước, là Y báo), vừa rồi chúng ta đọc qua là Y báo, 土為身之所依,故名依報 “Độ vi thân chi sở y, cố danh Y báo” (‘Độ’ là nơi mà thân nương tựa, nên gọi là Y báo). Vì sao gọi là Y báo? Vì đó là nơi chúng ta dựa vào, nếu chúng ta không có cõi nước để nương tựa, thì không thể sinh tồn, để sinh tồn thì nhất định phải có hoàn cảnh sinh sống, Y báo là hoàn cảnh sinh sống của chúng ta. 佛是能依 “Phật thị năng y” (Phật là Năng y), cho nên gọi là Chánh báo. 佛有三身 “Phật hữu tam thân” (Phật có ba thân), đầu tiên là: 法性身,簡稱法身,居常寂光土 “Pháp tánh thân, giản xưng Pháp thân, cư Thường Tịch Quang độ” (Thân Pháp tánh, gọi tắt là Pháp thân, cư trụ ở cõi Thường Tịch Quang), trên thật tế chính là Thường Tịch Quang. Một vùng ánh sáng trong Thường Tịch Quang, khắp Pháp giới Hư không giới, chẳng nơi nào không có, chẳng lúc nào không có, thời gian và không gian đều hòa vào Thường Tịch Quang, trong Thường Tịch Quang: không có ý niệm về thời gian không gian, Thân [và] cõi nước như một. Trong đó, trong Thường Tịch Quang: không có hiện tượng vật chất, không có hiện tượng tinh thần, hiện tượng tinh thần chính là ý niệm, chúng ta có ý niệm, ý niệm có sanh diệt, cũng không có gì gọi là hiện tượng tự nhiên, hoàn toàn không có, cho nên trong Đại thừa: cũng xưng đó là Đại Quang Minh Tạng, Đại Quang Minh Tạng chính là cõi Thường Tịch Quang. Đại sư Huệ Năng nghe Kinh Kim Cang, Ngũ tổ giảng cho ngài đến: 應無所住而生其心 “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” (Nên không trụ vào đâu mà sanh tâm ấy), thì ngài khai ngộ rồi, khi khai ngộ đã nói năm câu, chính là cõi Thường Tịch Quang, chính là Thường Tịch Quang. Cõi ấy như thế nào? Ngài nói ra năm câu để miêu tả: điều mà ngài thấy được, là thanh tịnh, nhất định không có ô nhiễm. Thanh tịnh thì nhất định là trật tự, trang nghiêm, không có tạp loạn, đó là đặc tính đầu tiên. Đặc tính thứ hai, không có sanh diệt. Hết thảy vạn pháp trong thế gian này của chúng ta đều có sanh diệt, vật chất có sanh diệt, ý niệm có sanh diệt, hiện tượng tự nhiên cũng có sanh diệt. Thứ ba là vốn tự đầy đủ, điều này quá quan trọng rồi. Nếu như biết điều này, thì chúng ta sẽ không cầu pháp ngoài tâm nữa. Phàm phu Lục đạo, bao gồm Quyền giáo Tiểu thừa, vẫn không tránh khỏi việc cầu pháp ngoài tâm, ngoài tâm không có pháp. Vốn là từ Tự Tánh, trong Tự Tánh vốn tự đầy đủ vô lượng trí huệ. Vì thế trí huệ có cầu được từ bên ngoài không? Không cầu được. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni làm ra tấm gương cho chúng ta, 19 tuổi xuất gia cầu học, đến khắp nơi để tham học, tất cả tôn giáo, tất cả Học phái của Ấn Độ: thảy đều đã học qua, điều mà học được là gì? Là tri thức, không phải là trí huệ, tri thức có tính hạn chế, không thể giải quyết vấn đề. Cho nên năm 30 tuổi, Ngài đã buông xuống, không cầu [học] nữa. 19 tuổi xuất gia, buông xuống Phiền não chướng, 30 tuổi buông xuống Sở tri chướng, để làm gì? Để tu Giới Định Huệ. Giới chính là phương pháp, nương Giới được Định, nương Định khai Huệ, Giới chính là buông xuống, buông xuống vạn duyên, tâm liền thanh tịnh rồi, tâm liền bình đẳng rồi, thanh tịnh là Định, bình đẳng là đại Định. Định thì khai trí huệ, Định khởi tác dụng sẽ khai trí huệ. Cho nên chúng ta phải ghi nhớ, đó là mười phương ba đời: giáo huấn của tất cả chư Phật, chẳng có một vị Phật nào mà không thuyết pháp như vậy, các Ngài đều là thành tựu như thế, nói với chúng ta, nếu chúng ta muốn thành tựu, thì không thể cầu ở bên ngoài, mà phải cầu ở bên trong. Cầu ở bên trong chính là hai câu nói: trong Kinh Kim Cang, ‘Vô trụ Sanh tâm’. ‘Vô trụ’ là tâm không thể có trụ, có trụ liền sai rồi, vì sao sai rồi? Bởi tâm lớn bao nhiêu quý vị biết không? ‘Tâm bao thái hư, lượng chu sa giới’, vậy thì tâm làm sao trụ được? Hễ tâm vừa trụ thì phiền não rồi, trụ ở đâu? Trụ ở trong tiền tài, tiền tài, [chỉ là] một điểm nhỏ trong vạn pháp, đấy là tâm quý vị đem cô đặc lại, chui rúc vào trong đó, sai rồi. Tâm chứa vạn pháp, [chứ] không thể bị vạn pháp chứa được, là đạo lý như vậy. Tâm không thể trụ, quý vị mới có thể bao dung tất cả pháp, hễ có trụ liền sanh bệnh rồi, là trạng thái của bệnh, không phải là trạng thái bình thường.

Cho nên Sanh tâm Vô trụ, Vô trụ Sanh tâm, Vô trụ Sanh tâm là cảm ứng, chúng sanh có cảm, Bồ-tát có ứng, ứng chính là Sanh tâm, tuy Sanh tâm, nhưng Vô trụ, vậy thì đúng rồi. Sanh tâm Vô trụ là giáo hóa chúng sanh, hòa quang đồng trần. Quý vị thấy ngài khởi tâm động niệm, đó là gì? Là trí huệ lưu lộ, tuy trí huệ lưu lộ ra, có thể làm việc, nhưng ngài không trụ, không trụ chính là: Tam luân Thể không mà trong kinh Đại thừa nói. Thí dụ như bố thí, không chấp ta hành bố thí, không có ý niệm này, [là] Vô trụ, ta bố thí tài vật cho người khác, nhưng không trụ, cũng không trụ đối phương là người như thế nào. Đó gọi là Vô trụ, Sanh tâm Vô trụ, không trụ mình, không trụ người, không trụ vào vật được cho ở trung gian, tâm vô cùng sạch sẽ, không nhiễm mảy trần, đó gọi là Vô trụ. Bồ-tát, Pháp thân Bồ-tát mới làm được, Quyền giáo Bồ-tát vẫn không được, các ngài còn có trụ, Pháp thân Bồ-tát chính là Đại triệt Đại ngộ, Minh tâm Kiến tánh, ngài có thể làm được. Vô trụ Sanh tâm, Sanh tâm Vô trụ, luyện công phu như vậy. Mỗi ngày chúng ta cần học kinh giáo, cần nghiên cứu kinh giáo không? Có thể. Nghiên cứu có phải là có trụ không? Là có trụ, sau khi nghiên cứu xong rồi thì đừng để ở trong tâm. Đôi khi ngẫu nhiên họ lại nghĩ tới, đó vẫn là tâm có chỗ trụ, tâm không trụ thì làm sao có thể bốc ra? Có thể thấy lời mà cổ nhân nói rất hay, khi Sanh tâm thì không cách nào Vô trụ, khi Vô trụ thì không cách nào Sanh tâm, hai điều thì chỉ chú ý được một, hai mặt cùng lúc thì không được rồi. Pháp thân Bồ-tát đã làm được, chúng ta phải học, mọi lúc mọi nơi nhắc nhở chính mình. Vì vậy, phương pháp của Tịnh tông tuyệt diệu, thảy đều quy về A Mi Đà Phật, phương pháp này vô cùng vi diệu, hoàn toàn quy về A Mi Đà Phật, chính mình quy về A Mi Đà Phật, vạn pháp cũng quy về A Mi Đà Phật, tất cả đều quy về A Mi Đà Phật thì đúng rồi, ngoài A Mi Đà Phật ra, không lập một pháp. Vậy có thể kiến Tánh không? Không thể kiến Tánh, nhưng họ có thể vãng sanh, vãng sanh đến Thế giới Cực Lạc sẽ thấy Tánh, rẽ một vòng như vậy. Phương pháp này độ vô lượng vô biên chúng sanh, tuyệt diệu lắm.

二報身,居實報莊嚴土 “Nhị Báo thân, cư Thật Báo Trang Nghiêm độ” (Hai là Báo thân, ở cõi Thật Báo Trang Nghiêm), cũng gọi là Nhất chân Pháp giới. Chữ ‘chân’ này có nghĩa là gì? Đối với chúng ta mà nói, Mười pháp giới này của chúng ta: là giả, là có sanh có diệt, sanh diệt trong từng sát-na. Nơi mà Pháp thân Bồ-tát cư trú, cõi đó, không sanh không diệt. Tại sao vậy? Bởi đó là cõi Pháp tánh. Chúng ta cư trú ở cõi này, Thể là cõi Pháp tánh, chính là cõi Thật Báo Trang Nghiêm, Tướng thì sao? Tướng là Cảnh giới tướng của A-lại-da, Cảnh giới tướng trong Tam tế tướng của A-lại-da, nói về Tứ phần, thì là Tướng phần của A-lại-da, là A-lại-da: biến cõi Thật Báo Trang Nghiêm thành Mười pháp giới. Cho nên, những gì do Tâm hiện, là Nhất chân Pháp giới, là cõi Thật Báo, ‘chỉ do Thức biến’, đã biến cõi Thật Báo thành Mười pháp giới. Chúng ta dùng tâm thế nào, thì A-lại-da hiện cõi thế ấy, bây giờ chúng ta được sanh làm người, Pháp giới người trong Mười pháp giới, thấy được chính là cõi nước trong Pháp giới người, núi sông đất đai. Vô lượng vô biên hành tinh ở trong vũ trụ, phân bố khắp hư không, những gì chúng ta có thể thấy được, có thể nghe được, có thể tiếp xúc được, thảy đều là Tướng phần của A-lại-da, là sự việc như vậy. ‘Từ tâm tưởng sanh’, một chút cũng không sai, hiện tại chúng ta nghĩ chính là cõi người, [nên] hiện ra Y báo là cõi người, cõi nước nhân gian, nếu cảnh giới của chúng ta nâng cao, chúng ta nghĩ đến cõi trời, thì đời sau chúng ta sẽ đến cõi trời, sẽ không còn ở cõi người nữa, cõi trời tốt hơn cõi người.

Trước đây tôi có nghe nói, Khổng phu tử, Mạnh phu tử: hai ngài ấy ở nơi đâu? Ở trời Đao Lợi. Sau khi các ngài qua đời thì sanh lên trời Đao Lợi, có đạo lý. Các ngài có kiến Tánh không? Có Đại triệt Đại ngộ không? Có, chúng ta đọc sách của các ngài, nếu không phải Đại triệt Đại ngộ thì không nói ra được. Nhưng so với kinh Đại thừa thì điều mà các ngài nói, cũng không nói được rõ ràng như kinh Đại thừa, khá là mơ hồ. Dùng kinh Đại thừa để giải thích, thì đã nâng cao cảnh giới mà các ngài nói. Nhưng chính các ngài, khi chính các ngài rời khỏi thế giới này của chúng ta, thì Phật pháp vẫn chưa được truyền đến Trung Hoa, các ngài là người của thời Xuân Thu, Mạnh tử là người của thời Chiến Quốc, Phật pháp là được truyền vào thời nhà Hán; [Thời các ngài Phật pháp] vẫn chưa được truyền đến. Nói cách khác, chúng ta có thể nói: cảnh giới mà các ngài Khổng Mạnh đạt đến: [là] bên rìa của Khai ngộ, thông thường chúng ta nói Tiểu ngộ, Đại ngộ, Triệt ngộ, các ngài là Đại ngộ, hơn nữa sự Đại ngộ ấy đã cận kề mép bờ Triệt ngộ, còn thiếu một chút như vậy, sanh trời Đao Lợi. Một ngày trên trời Đao Lợi: là 100 năm ở nhân gian chúng ta, Phu tử sanh lên trời Đao Lợi đã bao lâu thời gian? Còn chưa đến một tháng, trên trời Đao Lợi chưa được một tháng, thì nhân gian chúng ta đã hơn 2.000 năm, 100 năm ở nhân gian, [là] một ngày ở Đao Lợi thiên, từ chỗ này, thì quý vị hiểu được phước báo của trời Đao Lợi. Người trời Đao Lợi thấy chúng ta, người chúng ta đáng thương, sáng sanh chiều chết, sáng sớm thấy họ sanh ra, khi đến đêm thì họ đã ra đi, đã chết một lần. Vì vậy, những thường thức này, nếu chúng ta biết nhiều hơn một chút, thì đối với thế gian này, chúng ta sẽ không còn lưu luyến, quá giả rồi! Người xưa ví đó như là mộng ảo bọt bóng, không sai, thật sự là một giấc mộng, nhất định phải nhìn thấu, nhìn thấu, thì quý vị không còn chướng ngại, quý vị đem tất cả chướng ngại đều buông xuống, thì đời này quý vị có thể thành tựu.

Báo thân ở cõi Thật Báo, thị hiện Thập nguyện của ngài Phổ Hiền. Thập nguyện của ngài Phổ Hiền là đại nguyện bình đẳng, lễ kính bình đẳng, tất cả chúng sanh xưa nay là Phật, ngài đại biểu cho Pháp thân Bồ-tát, phá một phẩm Vô minh, chứng một phần Pháp thân, cuộc sống đối người tiếp vật hằng ngày của ngài, chính là Mười nguyện Phổ Hiền, hoàn toàn đều đã thực hiện, lễ kính chư Phật, xưng tán Như Lai, rộng tu cúng dường, rộng tu không có giới hạn. Tu những sự cúng dường nào? Cúng dường tài, cúng dường pháp, cúng dường vô úy, là ba loại lớn này. Quan trọng nhất trong ba loại lớn này là pháp, pháp có thể giúp chúng sanh khai ngộ, có thể giúp chúng sanh quay đầu, có thể giúp chúng sanh thành tựu trong một đời. Đại pháp thù thắng không gì sánh bằng trong các pháp, chính là Pháp môn Tịnh tông. Cho nên, pháp này: là mười phương ba đời tất cả chư Phật, chỉ cần thị hiện ở trước chúng sanh, thì chẳng có vị nào mà không giảng Pháp môn này. Nói cách khác, tất cả Pháp môn khác là phụ trợ, còn đây là chủ yếu. Tại sao lại giảng Pháp môn khác? Bởi họ không thể tiếp nhận Pháp này, mới giảng những môn khác, nếu có thể tiếp nhận Pháp này, thì giảng Pháp này rồi, không giảng môn thứ hai. Thầy Truyền Giới, đối với đệ tử của ngài là lão Hòa thượng Hải Hiền, chỉ truyền một câu Nam Mô A Mi Đà Phật, dặn dò ngài hãy một mạch mà niệm, vị đệ tử này cũng thật là xuất sắc, 92 năm chỉ niệm một câu Phật hiệu này. Niệm đến công phu thế nào? Niệm đến Đại triệt Đại ngộ, niệm đến Minh tâm Kiến tánh. Vì sao không nói điều gì khác? Bởi ngài là căn khí như thế, nên ứng cơ thuyết pháp. Mỗi vị thầy dạy học, học trò rất nhiều, căn khí đều khác nhau, mỗi người học không như nhau, ai ai cũng có thành tựu, sau khi thành tựu thì sự khai ngộ đều giống nhau, trước khi chưa thành tựu thì khác nhau. Chúng ta cũng nên hiểu rõ, cũng nên sáng tỏ những điều này.

Thứ ba, 應化身 “Ứng hóa thân”. Ứng hóa thân là đối với ai? Đối với Mười pháp giới, trên là đối với Pháp giới Tứ thánh, dưới là đối với chúng sanh trong sáu đường. Trong Mười pháp giới, đó là nơi mà: chư Phật Như Lai, Pháp thân Đại sĩ, các Ngài thường xuyên du hóa đến, ở nơi đó, thời gian Ứng thân dài, thời gian Hóa thân ngắn. Ứng thân, thân ấy là giống như người ở thế gian này, như đức Phật Thích Ca Mâu Ni, đến thế giới này của chúng ta, cũng đến đầu thai, cũng có cha mẹ, cũng từ sinh ra đến dần lớn lên, trải qua quá trình sanh lão bệnh tử như vậy, đó gọi là Ứng thân. Hóa thân, đó là giống như làm ảo thuật, đến chỉ điểm quý vị, đến giúp quý vị, giúp xong rồi liền không thấy nữa, khi gặp thì hình như là ngẫu nhiên gặp được, sau khi đi rồi thì cũng không thấy nữa, là Hóa thân. Ứng hóa thân luôn thường có, rất nhiều, các ngài không bộc lộ thân phận, quý vị không biết được.

Giống như lão Hòa thượng Hư Vân, năm 47 tuổi, năm đó phát nguyện triều bái Ngũ Đài sơn, ba bước một lạy, từ Phổ Đà lạy đến Ngũ Đài, thời gian hơn ba năm mới lễ đến. Giữa đường hai lần bị ngã bệnh, bệnh rất nặng, gặp được một người ăn mày đã cứu ngài, hai lần đều là cùng một người ăn mày, mỗi lần đều là hơn mười ngày, hai lần cộng lại: đại khái tầm khoảng một tháng. Người ăn mày ấy tên là Văn Kiết, Văn trong văn chương, Kiết trong kiết tường, [đó là] tên của vị ấy. Vị ấy nói vị ấy ở Ngũ Đài sơn, nói với ngài, thầy đến núi Ngũ Đài, thầy hỏi người ở núi Ngũ Đài đều biết tôi. Ngài đến núi Ngũ Đài để hỏi, nhưng không ai biết cả. Vào trong chùa để lễ Phật, sau khi lễ xong bèn hỏi mọi người, có ai biết người tên Văn Kiết ấy không? Có một vị lão Hòa thượng nói với ngài, đó là Bồ-tát Văn Thù, ngài mới hoảng nhiên Đại ngộ. Bồ-tát Văn Thù hóa thân cứu ngài, ở với ngài nửa tháng, thì rời đi rồi. Loại Ứng hóa thân này của Phật Bồ-tát, rất phổ biến ở trên thế giới này, chỉ là phàm phu mắt thịt của chúng ta không biết được. Đó là Ứng hóa thân. Ứng thân ở tại thế gian là một đời. Có người nói, Đại sư Thiện Đạo: là do A Mi Đà Phật tái lai, đó là Ứng thân, đó là thật, là do Ngài tái lai; Ngài Vĩnh Minh Diên Thọ, [cũng là] do A Mi Đà Phật tái lai; Đại sư Thiên Thai Trí Giả: là do đức Phật Thích Ca Mâu Ni tái lai, ứng hóa ở Trung Hoa, không phải là dùng thân Phật, mà là dùng thân phận Tổ sư Đại đức, để xuất hiện ở thế gian.

Cho nên, 常現方便有餘及同居等土 “thường hiện Phương Tiện Hữu Dư cập Đồng Cư đẳng độ” (thường hiện những cõi Phương Tiện Hữu Dư và Đồng Cư), cõi Phương Tiện Hữu Dư, Pháp thân Bồ-tát, chư Phật Như Lai thường thường hiện thân, cõi Phàm Thánh Đồng Cư cũng có hiện thân. Chúng sanh có duyên, chúng sanh có thể cung kính đối với Tam Bảo, có thể nghiêm túc học tập, các Ngài sẽ đến thôi; Nếu không tin tưởng Phật pháp, đối với Phật pháp, không có tâm cung kính, thì các Ngài sẽ không đến. Do đó có thể biết, chúng ta cung kính đối với Tam Bảo, đó chính là cảm, Phật Bồ-tát liền có ứng, chân thành, cung kính đến tột cùng, quý vị sẽ thấy được. Pháp sư Oánh Kha thời nhà Tống, ba ngày ba đêm không ngủ không nghỉ, chỉ một câu Phật hiệu, chí thành khẩn thiết, đã niệm A Mi Đà Phật đến rồi, ba ngày. A Mi Đà Phật nói với ngài, thọ mạng của con vẫn còn 10 năm, sau 10 năm, khi thọ mạng đến rồi, Ta tới đón con vãng sanh. Ngài Oánh Kha bỗng nhiên cũng trở nên thông minh, thỉnh cầu với Phật, con không cần 10 năm thọ mạng nữa, con đi với Ngài bây giờ. Đức Phật cũng rất từ bi, bèn đồng ý với ngài, ước định với ngài, ba ngày sau Ta đến đón con. Thật sự, ba ngày sau thì ngài vãng sanh rồi.

Khắp Pháp giới Hư không giới: mười phương cõi nước, hết thảy đều thông, không có chút chướng ngại nào cả. Chướng ngại là ở chính chúng ta, chúng ta sanh phiền não, Khởi tâm Động niệm, Phân biệt Chấp trước là chướng ngại, chướng ngại là được tạo ra như thế. Nếu đối với tất cả các pháp mà chúng ta: không khởi tâm, không động niệm, không phân biệt, không chấp trước, thì thông rồi. Mỗi người đều có sáu loại Thần thông, là Tự Tánh vốn đủ, vốn có, ‘vốn tự đầy đủ’, không phải do cầu từ bên ngoài. Dùng phương pháp bên ngoài để tu cũng được, nhưng khi đạt được cũng không phải là viên mãn; Minh tâm Kiến tánh, đạt được là viên mãn. Phải hiểu những Lý này, thì mới không nghi ngờ Sự, liền thật sự tin tưởng rồi. Căn nguyên chính là một Tánh, Tự Tánh, Phật tánh, Tổ tiên xưa của nước ta nói ‘Bản tánh’, đó là Bản thể của tất cả pháp trong toàn vũ trụ, tất cả pháp từ đó hiện ra, năng sanh vạn pháp. Quý vị chỉ cần tìm được Tánh ấy, Thể ấy của năng sanh vạn pháp, thì hết thảy pháp sẽ không còn chướng ngại nữa. Tánh tồn tại, không hề mất đi, chỉ là có chướng ngại, chướng ngại gì? Đức Phật nói hai loại chướng ngại lớn, loại thứ nhất là Phiền não chướng, loại thứ hai là Sở tri chướng, buông xuống hết thảy hai loại chướng ngại này, thì trí huệ, đức năng, đức năng chính là Thần thông, liền hiện tiền thôi.

Chúng ta lại xem tiếp: 又佛之三身,實非一非三,而三而一,如伊三點,不縱不橫,不並不別,不可思議 “Hựu Phật chi tam thân, thật phi nhất phi tam, nhi tam nhi nhất, như y tam điểm, bất tung bất hoành, bất tịnh bất biệt, bất khả tư nghì” (Thêm nữa ba thân của Phật, thật sự chẳng phải là một chẳng phải là ba, mà ba mà một, như ba chấm của chữ Y, không ngang không dọc, không hợp không chia, không thể nghĩ bàn). Chỗ này nói với chúng ta, là chân lý, là Thật tướng, chân tướng sự thật. Thật tế mà nói thì ba thân của Phật, chẳng phải một chẳng phải ba, mà ba mà một, một tức là ba, ba tức là một, ‘một’ là nói từ trên danh vị của chính Phật Bồ-tát, còn ‘ba’ là khởi tác dụng của các Ngài, dùng khi giúp chúng sanh giải quyết vấn đề, vì vậy ‘một’ là Chân, ‘ba’ là Hóa thân, Ứng hóa thân của các Ngài. Ứng hóa thân không phải vì chính các Ngài, mà Ứng hóa thân là vì chúng sanh, chúng sanh có cảm, các Ngài tự nhiên có ứng, cảm ứng đạo giao không thể nghĩ bàn, là sự việc như vậy. Chúng ta cầu Phật Bồ-tát, thì Phật Bồ-tát hiện tiền, phần nhiều là hóa thân: để giúp chúng ta giải quyết vấn đề, vấn đề của chúng ta được giải quyết rồi, thì không thấy các Ngài nữa, liền rời đi rồi, về sau cũng không thấy các Ngài nữa. Như lão Hòa thượng Hư Vân, hai lần thấy được Bồ-tát Văn Thù, hiện thân đều là người ăn mày, vả lại đồng là một tướng mạo, khi quý vị biết được ngài, thường sẽ không thấy nữa. Đó là tâm hiếu của lão Hòa thượng Hư Vân cảm được, công phu tu Thiền của chính ngài, có công phu như thế mới có cảm ứng như vậy, không phải người thông thường có thể cảm ứng được. Quý vị xem trong Báo Ân Đàm, lão Cư sĩ Hoàng Niệm Tổ kể về: một vị Pháp sư ở Phúc Kiến triều bái Ngũ Đài sơn, vào trong Động Kim Cang thấy được Bồ-tát Văn Thù, chỉ thấy một lần, về sau thì không thấy nữa, ở chỗ nào của nơi đó cũng không tìm được, thời gian không lâu. Lão Hòa thượng Hư Vân, Bồ-tát Văn Thù hiện thân người ăn mày, hai lần chăm sóc ngài, thời gian khoảng gần một tháng. Cơ cảm của mỗi người khác nhau, đây đều là thật, đây không phải là giả. Vì vậy, hiện thân, như 32 Ứng thân của Bồ-tát Quán Thế Âm, nên dùng thân nào độ được liền hiện thân đó, người ấy tin Cơ Đốc giáo, thì Bồ-tát Quán Âm hiện thân Cơ Đốc giáo, thân phận Mục sư, Thiên Chúa giáo thì hiện thân phận Cha xứ, thân phận Nữ tu, thảy đều có thể hiện. Tâm của Bồ-tát khác với chúng ta, tâm của chúng ta có hạn hẹp, có Chấp trước, có Phân biệt, Bồ-tát không có. A Mi Đà Phật: thấy tất cả chúng sanh đều là A Mi Đà Phật, điều này không phải giả, thấy mỗi tôn giáo đều là A Mi Đà Phật, Ngài không có Phân biệt Chấp trước.

又化身有二:一者示生化身,即示現八相成道之身 “Hựu Hoá thân hữu nhị: Nhất giả thị Sanh hoá thân, tức thị hiện Bát tướng Thành đạo chi thân” (Thêm nữa có hai loại Hóa thân: Một là thị hiện Sanh hóa thân, chính là thị hiện thân Tám tướng Thành đạo). Giống như đức Phật Thích Ca Mâu Ni, thông thường chúng ta gọi Ngài là Ứng thân, Ứng hóa, đây là loại thứ nhất. Loại thứ hai là: 應現化身,應眾生機,而現勝應或劣應之身 “Ứng hiện Hoá thân, ứng chúng sanh cơ, nhi hiện Thắng ứng hoặc Liệt ứng chi thân” (Ứng hiện Hóa thân, tùy căn cơ chúng sanh, mà hiện thân Thắng ứng hoặc Liệt ứng), giống như đức Phật Thích Ca Mâu Ni, đó là Thắng ứng, thù thắng, 32 tướng 80 vẻ đẹp, mọi người đều có thể thấy được; Liệt ứng thân chính là nói thân tướng nói chung của người thông thường chúng ta đây. Ngài nói: 又可分為:佛界化身 “Hựu khả phân vi: Phật giới hoá thân” (Lại có thể phân thành: Hóa thân trong cõi Phật), loại thứ hai là 隨類化身 “tuỳ loại hoá thân” (tùy loại mà hóa thân). Hóa thân trong cõi Phật現佛界之身 “hiện Phật giới chi thân” (hiện thân ở cõi Phật), chư Phật Như Lai: cùng cư trú ở ngay trong Đại hội ấy. Tùy loại hóa thân, tùy theo chín Pháp giới, họ ở loại nào, có duyên với Phật, có duyên với Bồ-tát nào, bấy giờ họ gặp khó khăn, khẩn cấp cần người cứu giúp họ, Phật Bồ-tát sẽ hiện thân, hiện thân đồng loại. Giống như lão Hòa thượng Hư Vân, bị bệnh ở trên đường triều bái sơn, không thể cử động nổi, lúc đó Bồ-tát Văn Thù hiện thân phận người ăn mày, ở nơi hoang vắng không người đi lại, người ăn mày thì không ai hoài nghi, hiện loại thân này, ‘tùy loại hiện thân’.

Trong Mi Đà Yếu Giải nói: 今云阿彌陀佛,正指同居土中,示生化身 “Kim vân A Mi Đà Phật, chánh chỉ Đồng Cư độ trung, thị Sanh hoá thân” (Ở đây nói A Mi Đà Phật, chính là chỉ trong cõi Đồng Cư, thị hiện Sanh hóa thân). Tuy thị hiện Hóa thân, nhưng thân ấy cũng chính là Báo thân, cũng chính là Pháp thân, là thật, dựa vào một người Đại triệt Đại ngộ, Minh tâm Kiến tánh để xem, thì ‘một tức là ba, ba tức là một’, thể của ba thân là Pháp thân, Pháp thân chính là Thường Tịch Quang, tất cả pháp đều là từ trong Thường Tịch Quang lưu xuất ra, cho nên đó là Bản thể. Tiếp theo nói: 謂今經中 “Vị kim Kinh trung” (Và trong Kinh này), hiện tại trong Kinh nói rằng: 正在說法之佛,是指同居土中,示生化身佛 “Chánh tại thuyết pháp chi Phật, thị chỉ Đồng Cư độ trung, thị Sanh hoá thân Phật” (Chính là Phật đang thuyết pháp, là chỉ trong cõi Đồng Cư, thị hiện Sanh hóa thân Phật). Đây là đức Phật Thích Ca Mâu Ni, 3000 năm trước ở trên trái đất của chúng ta, xuất hiện ở Ấn Độ, thị hiện 32 tướng 80 vẻ đẹp, vì chúng ta biểu diễn Tám tướng Thành đạo, giảng kinh dạy học 49 năm. 同時即是報身佛與法身佛。此語精妙 “Đồng thời tức thị Báo thân Phật dữ Pháp thân Phật. Thử ngữ tinh diệu” (Đồng thời chính là Báo thân Phật và Pháp thân Phật. Lời này rất hay). Trong Yếu Giải Đại sư Ngẫu Ích: đã nói rằng: 示生化身仍復即報即法也 “Thị Sanh hóa thân, nhưng phục tức Báo tức Pháp dã” (Thị hiện Sanh hóa thân, nhưng lại chính là Báo [thân], chính là Pháp [thân] vậy), câu này, ở đây Hoàng Niệm lão giải thích cho chúng ta, chính là trong Kinh của chúng ta đã nói, tức là đức Phật ấy đang thuyết pháp, chỉ thị hiện Sanh hóa thân Phật trong cõi Đồng Cư, đồng thời cũng chính là Báo thân, cũng chính là Pháp thân, lời này: nói rất hay. Chúng ta thấy được chỗ này: thì nhìn nhận thế nào? Hoàn toàn đồng ý, hoàn toàn khẳng định, không còn nghi ngờ, vì sao vậy? Bởi vì tất cả chúng sanh xưa nay là Phật. Nói tóm lại, chính là chúng sanh đều mê chứ không giác, nếu giác ngộ rồi, thì mười Pháp giới tức là một Pháp giới, một Pháp giới chính là Pháp giới Phật.

Trong Viên Trung Sao nói: 隨土感見三身有異。隨機感見四土不同 “Tuỳ độ cảm kiến, tam thân hữu dị. Tuỳ cơ cảm kiến, tứ độ bất đồng” (Tùy cõi mà cảm thấy, ba thân khác nhau. Tùy căn cơ mà cảm thấy, bốn cõi bất đồng). Đây là Đại sư U Khê chú giải cho Kinh Mi Đà, bộ Chú Giải của ngài được gọi là Viên Trung Sao, trong đó nói: ‘Tùy độ cảm kiến’, ba thân khác nhau, không như nhau. ‘Tùy cơ cảm kiến’, bốn cõi bất đồng. 是故若於同居但見同居本土者則說法之佛只是示生化身佛 “Thị cố nhược ư Đồng Cư, đãn kiến Đồng Cư bổn độ giả, tắc thuyết pháp chi Phật, chỉ thị thị Sanh hoá thân Phật” (Cho nên nếu người ở Đồng Cư, thì chỉ thấy cõi của mình ở Đồng Cư, chính là đức Phật thuyết pháp, chỉ là thị hiện Sanh hóa thân Phật). Phật, Bồ-tát có thể hiện vô lượng vô biên thân. Có thể xuất hiện đồng thời cùng nơi, cũng có thể xuất hiện đồng thời khác nơi, cũng có thể xuất hiện khác thời cùng nơi, cho đến xuất hiện khác nơi khác thời. Không phải Phật Bồ-tát có ý [như vậy], Phật Bồ-tát không có Khởi tâm Động niệm, có Khởi tâm Động niệm thì làm không được, không khởi tâm, không động niệm thì mới có thể làm được, diệu là diệu ở chỗ này. Không khởi tâm, không động niệm, thì sao có thể hiện nhiều tướng như thế? Cảm ứng không tương đồng, cảm nhiều ứng một, cảm nhiều ứng nhiều, cảm một ứng một, cảm một ứng nhiều, căn cơ của chúng sanh khác nhau. Thật sự là ‘tất cả pháp từ tâm tưởng sanh’, câu này, nói quá hay rồi! Mỗi người chúng ta ở cùng một nơi, tâm nghĩ A Mi Đà Phật, thì A Mi Đà Phật hiện ra, tâm người kia nghĩ đức Phật Thích Ca Mâu Ni, thì đức Phật Thích Ca Mâu Ni hiện ra, nghĩ điều gì, thì hiện ra điều đó. Nghĩ là cảm, Phật là ứng. Ý niệm của chúng ta quá nhiều rồi, Vọng niệm tràn lan, cho nên ý nghĩ của chúng ta: không chuyên chú, không tập trung, mà là tán loạn, có cảm hay không? Có cảm, nhưng cảm với năng lực yếu. Nếu tập trung ý niệm, ở trong một thời gian ngắn, mấy phút, mấy chục phút chuyên chú, thì năng lực đó mạnh lên rồi. Sức mạnh của sự phân tâm yếu đi, sức mạnh của chuyên tâm cực rất mạnh, thì cảm ứng sẽ khác nhau.

Tiếp theo đây nói: “Cho nên nếu người ở Đồng Cư, thì chỉ thấy cõi của mình ở Đồng Cư, chính là đức Phật thuyết pháp, chỉ là thị hiện Sanh hóa thân Phật”. Giống như chúng ta thấy đức Phật Thích Ca Mâu Ni, 3000 năm trước xuất hiện ở Ấn Độ, giảng kinh thuyết pháp 49 năm, đức Phật thuyết pháp như thế là ‘thị hiện Sanh hóa thân’. 若見實報土則見報身佛 “Nhược kiến Thật Báo độ, tắc kiến Báo thân Phật” (Nếu thấy cõi Thật Báo, thì thấy Báo thân Phật). Quý vị thấy được là cõi Phàm Thánh Đồng Cư, cho nên đức Phật mà quý vị thấy được là Hóa thân Phật. Nếu quý vị thấy được cõi Thật Báo, thì quý vị Minh tâm Kiến tánh rồi, phá một phẩm Vô minh, chứng một phần Pháp thân, quý vị vãng sanh đến Thế giới Cực sẽ sanh cõi Thật Báo, A Mi Đà Phật mà quý vị thấy được là Báo thân, Báo thân Phật, Báo thân Phật khác với Hóa thân Phật, nhưng nên biết rằng, ở Thế giới Cực Lạc là như nhau, ở nơi khác thì không như vậy. Báo thân Phật ở Thế giới Cực Lạc: không phải là 32 tướng 80 vẻ đẹp, trong Quán Kinh: đức Phật Thích Ca Mâu Ni giới thiệu cho chúng ta, Báo thân của A Mi Đà Phật, thân có 84 ngàn tướng, mỗi một tướng có 84 ngàn vẻ đẹp, mỗi một vẻ đẹp phóng ra 84 ngàn tia sáng, mỗi một tia sáng đều thấy được có Phật Bồ-tát đang giảng kinh dạy học độ chúng sanh. Tướng ấy quá lớn rồi! Vả lại tướng của Pháp thân Bồ-tát, với tướng của Pháp thân Phật là giống nhau. Vậy thân tướng này của chúng ta, với Báo thân Phật thì không thấy được thân tướng ấy, Ngài quá lớn rồi, không thấy được, giống như con kiến, con kiến nhất định không thấy được người chúng ta, rất cao rất to lớn như thế, chúng chỉ có thể thấy được một chút nhỏ đó, chúng không thấy được lớn như vậy. Đây là chúng ta giới thiệu cõi nước, hoàn cảnh cư trú của Thế giới Cực Lạc, giới thiệu hoàn cảnh nhân sự của Thế giới Cực Lạc.

若見常寂光 “Nhược kiến Thường Tịch Quang” (Nếu thấy Thường Tịch Quang), thì thấy được法身 “Pháp thân”. Thường Tịch Quang chính là Pháp thân, Pháp thân chính là Thường Tịch Quang, cõi ấy không có hiện tượng. 佛之三身譬如摩尼寶珠。珠體、珠光、珠影,三者不相捨離 “Phật chi tam thân, thí như ma-ni bảo châu. Châu thể, châu quang, châu ảnh, tam giả bất tương xả ly” (Ba thân của Phật, thí như bảo châu ma-ni. Thể của hạt châu, ánh sáng của hạt châu, bóng của hạt châu, ba loại không tách rời nhau). Thể của hạt châu là Thường Tịch Quang, ánh sáng của hạt châu là Báo thân, bóng của hạt châu là Ứng hóa thân, một tức là ba, ba tức là một, thật sự có thể làm được. Pháp thân, Báo thân, Ứng hóa thân, ba thân này 亦復如是 “diệc phục như thị” (cũng lại như vậy). Thí như ở Thế giới Cực Lạc, Hóa thân của A Mi Đà Phật là vô lượng vô biên, đầy khắp mười phương Hư không Pháp giới. Ngài đến để làm gì? Ngài đến để tiếp dẫn người niệm Phật công phu chín muồi trong mười phương Pháp giới, tiếp dẫn họ vãng sanh. Nếu đức Phật không hóa thân để tiếp dẫn, thì chúng sanh không biết Thế giới Cực Lạc ở nơi đâu, nhất định phải được Phật đến tiếp dẫn. Phải ghi nhớ điều này, tương lai chúng ta vãng sanh, nhất định phải thấy được A Mi Đà Phật: thì mới có thể đi với Ngài, nhìn thấy Phật Bồ-tát khác, thì không được, tại vì sao? Bởi đó là giả, nếu đi theo họ, thì bị lừa rồi, không biết sẽ dẫn đến nơi nào nữa. Vì vậy, nhất định phải thấy Bổn tôn A Mi Đà Phật. Yêu ma quỷ quái có thể biến hiện Phật Bồ-tát, nhưng không dám biến thành Bổn tôn, nhất định phải biết điều này.

同居橫具上三土 “Đồng Cư hoành cụ thượng tam độ” (Cõi Đồng Cư đầy đủ cả ba cõi ở trên), cũng là ý nghĩa này. Ba cõi phía trên đó, 表上三土,亦即在同居 “biểu thượng tam độ, diệc tức tại Đồng Cư” (biểu thị ba cõi ở trên, cũng chính là ở cõi Đồng Cư), câu này nói rất hay. 故往生極樂同居,功德殊勝,不可思議 “Cố vãng sanh Cực Lạc Đồng Cư, công đức thù thắng, bất khả tư nghì” (Nên vãng sanh Đồng Cư Cực Lạc, công đức thù thắng, không thể nghĩ bàn), đây là tổng kết. Chớ cho rằng cõi Đồng Cư quá thấp rồi, cõi Đồng Cư ấy với Đồng Cư của chúng ta đây: nhất định không như nhau. Ở trong cõi Đồng Cư này, chúng ta không thấy được cõi Phương Tiện, trong Mười pháp giới, chúng ta không thấy được Pháp giới Thanh văn, Pháp giới Duyên giác, Pháp giới Bồ-tát, nhưng ở Thế giới Cực Lạc thì có thể nhìn thấy, giống như là trong suốt, nếu quý vị muốn đến gần, thì không có chút khó khăn nào cả, cũng không có một chút chướng ngại, mỗi vị Bồ-tát đều sẵn lòng dạy cho quý vị, đều mong muốn giúp quý vị nâng cao, đều mong muốn giúp quý vị thành Phật, đó là sự thù thắng không gì sánh bằng của Thế giới Cực Lạc. Ở thế gian này của chúng ta chỉ là ao ước, không làm được, cho dù có thể làm được, thì thời gian cũng rất ngắn, duyên phận không sâu. Không như Thế giới Cực Lạc, Thế giới Cực Lạc, chỉ cần vãng sanh đến nơi ấy, thì đều có duyên phận rất sâu với Phật, với đại chúng, duyên phận ấy chính là tín nguyện trì danh: đối với đức Mi Đà mà tích lũy. Vì vậy, biểu thị ba cõi ở trên, cũng tức là ở cõi Đồng Cư. ‘Nên vãng sanh Đồng Cư Cực Lạc, công đức thù thắng, không thể nghĩ bàn’, Lý đương nhiên là như thế. Thật vi diệu, thật bất khả tư nghì!

Chúng ta xem đoạn tiếp theo: 又阿彌陀佛即是毘盧遮那如來 “Hựu A Mi Đà Phật tức thị Tỳ Lô Giá Na Như Lai(Thêm nữa, A Mi Đà Phật chính là đức Tỳ Lô Giá Na Như Lai), Tỳ Lô Giá Na là Pháp thân Phật. Tỳ Lô Giá Na là tiếng Phạn, dịch sang ý nghĩa nước ta, là khắp tất cả nơi, khắp tất cả nơi chính là Thường Tịch Quang, cho nên Pháp thân Như Lai. 如《彌陀疏鈔》曰:智覺云:總持教中,說三十七佛,皆毘盧遮那一佛所現 “Như Mi Đà Sớ Sao viết: Trí Giác vân: Tổng trì giáo trung, thuyết tam thập thất Phật, giai Tỳ Lô Giá Na nhất Phật sở hiện” (Như trong Mi Đà Sớ Sao nói: Ngài Trí Giác nói: Trong giáo pháp Tổng trì, nói 37 vị Phật, đều được thị hiện bởi một vị Phật Tỳ Lô Giá Na). Một vị Phật có thể hiện tất cả Phật, tại sao vậy? Bởi mười phương ba đời Phật, cùng đồng một Pháp thân. Đức Tỳ Lô Giá Na, [là] Pháp thân. Đại sư Huệ Năng nói với chúng ta: ‘Năng sanh vạn pháp’, Pháp thân chính là Tự Tánh, Tự Tánh có thể sanh vạn pháp, thì đương nhiên có thể hiện tất cả Phật rồi, tất cả Phật đều do đức Tỳ Lô Giá Na hiện ra, không giả một chút nào. 謂遮那內心,證自受用,成於五智 “Vị Giá Na nội tâm, chứng Tự thọ dụng, thành ư Ngũ trí” (Là nội tâm của đức Giá Na, chứng được Tự thọ dụng, thành tựu được Ngũ trí), năm loại trí huệ. Phải dụng tâm để lãnh hội điều này, nội tâm của Thường Tịch Quang ở nơi đâu? Thường Tịch Quang còn có nội tâm ư? Đại sư Huệ Năng nói rất hay: ‘Tự Tánh vốn tự đầy đủ’. Dùng ‘vốn tự đầy đủ’ để lãnh hội, thì có thể lãnh hội được: trong Thường Tịch Quang có đức năng này. Đức năng này chứng được Tự thọ dụng, Tự thọ dụng là gì? Là năm loại trí huệ. 自當中央法界清淨智 “Tự đương Trung ương Pháp giới thanh tịnh trí” (Từ ngay nơi trí thanh tịnh của Pháp giới Trung ương), đây là trí thanh tịnh của Pháp giới Trung ương, đây là cội nguồn của tất cả trí huệ, vô lượng vô biên trí huệ, đều là từ trong trí thanh tịnh của Pháp giới này mà sanh ra. Nói ‘trung ương’, nơi nào cũng là trung ương, nhất định không thể chia thành đông tây nam bắc, đông tây nam bắc đó là khởi tác dụng, trong đông tây nam bắc còn có đông tây nam bắc.

次從四智,流出四方四如來。其妙觀察智,流出西方極樂世界無量壽如來。則一佛而雙二土也。因彌陀即毘盧,故云:一佛。土者,淨佛國土。二土者,華藏與極樂。雙者兼也,義為兼領 “Thứ tùng tứ trí, lưu xuất tứ phương tứ Như Lai. Kỳ Diệu quán Sát trí, lưu xuất Tây Phương Cực Lạc Thế giới Vô Lượng Thọ Như Lai. Tắc nhất Phật nhi song nhị độ dã. Nhân Mi Đà tức Tỳ Lô, cố vân: Nhất Phật. Độ giả, tịnh Phật Quốc độ. Nhị độ giả, Hoa Tạng dữ Cực Lạc. Song giả kiêm dã, nghĩa vi kiêm lãnh” (Lần lượt từ tứ trí, lưu xuất bốn đức Như Lai trong bốn phương. Diệu quán Sát trí ấy, lưu xuất đức Vô Lượng Thọ Như Lai ở Thế giới Tây Phương Cực Lạc. Chính là một vị Phật mà kiêm nhiệm hai cõi. Bởi đức Mi Đà chính là đức Tỳ Lô, nên nói: Một vị Phật. ‘Cõi’ là cõi nước Phật thanh tịnh. ‘Hai cõi’ là Hoa Tạng và Cực Lạc. ‘Song’ là kiêm, nghĩa là kiêm nhiệm). Ý nghĩa chính là nói: vị Phật ấy, Ngài giáo hóa hai cõi nước, hai cõi Tịnh Độ: đều là giáo khu của Ngài, có một cách nói như thế. Có thể nói thông được không? Chẳng có gì mà không thông. Vì sao chẳng có gì mà không thông? Bởi trong Kinh Hoa Nghiêm nói rất hay, 十方三世佛,共同一法身 “thập phương tam thế Phật, cộng đồng nhất Pháp thân” (mười phương ba đời Phật, cùng chung một Pháp thân), Pháp thân này chính là đức Tỳ Lô Giá Na, mười phương ba đời Phật, cùng đồng một Pháp thân, đức Mi Đà chính là đức Tỳ Lô Giá Na, đức Thích Ca cũng là đức Tỳ Lô Giá Na, đức Dược Sư Như Lai của Thế giới Đông Phương Lưu Ly cũng là đức Tỳ Lô Giá Na, đều nói thông cả.

Khó khăn lớn nhất của chúng ta, [là] Phân biệt Chấp trước, nhất định phải biết, Phân biệt Chấp trước là Kiến tư Phiền não, Trần sa Phiền não, Chấp trước là Kiến tư Phiền não, Phân biệt là Trần sa Phiền não, hai loại phiền não này đều là chướng ngại của sự kiến Tánh, nếu quý vị không buông xuống, thì quý vị không thể Minh tâm Kiến tánh. Cho nên, A-la-hán chỉ buông xuống Chấp trước, [chứ] chưa buông xuống Phân biệt, ngài chứng A-la-hán, ngài sẽ không bằng Bích-chi-phật, Bích-chi-phật cao hơn ngài; Bích-chi-phật đã đoạn Phân biệt rồi, không còn Phân biệt nữa, không còn Phân biệt thì mới bình đẳng. Trên tựa đề Kinh của chúng ta, luôn nêu bày sự “Thanh tịnh Bình đẳng Giác”, Tam thừa, Thanh tịnh là Tiểu thừa; Bình đẳng là Đại thừa, Quyền giáo Đại thừa, chưa thấy Tánh; Giác là Đại triệt Đại ngộ, Minh tâm Kiến tánh. Học Phật tu hành, tu điều gì? Chính là tu điều này, ‘Thanh tịnh Bình đẳng Giác’. Bất luận tu Pháp môn nào, 84 ngàn Pháp môn, bao gồm Niệm Phật, nếu chưa đạt được tâm thanh tịnh, chưa có công phu, thì sẽ vãng sanh cõi Phàm Thánh Đồng Cư; Nếu đạt được tâm thanh tịnh, sẽ sanh cõi Phương Tiện Hữu Dư; Nếu Tâm bình đẳng, thì sanh ba phẩm bậc Thượng ở cõi Phương Tiện Hữu Dư, [gồm] Thượng phẩm Thượng sanh, Thượng phẩm Trung sanh, Thượng phẩm Hạ sanh, đạt được bình đẳng; Giác mới sanh cõi Thật Báo, Giác là Đại triệt Đại ngộ, Minh tâm Kiến tánh. Cho nên chỗ này nói: ‘Một vị Phật kiêm nhiệm hai cõi Tịnh Độ’, đây đều là cách nói phương tiện, thật ra mà nói, Tịnh Độ của A Mi Đà Phật: là khắp tất cả cõi nước Phật, mười phương hết thảy cõi nước Phật, đều là Tịnh Độ của A Mi Đà Phật, Tịnh Độ của A Mi Đà Phật: rộng lớn không có bờ mé, một chính là tất cả, tất cả chính là một, không thể nghĩ bàn. Thời gian hôm nay hết rồi, chúng ta học tập đến đây thôi.

(Hết tập 246)

Nguyện đem công đức này
Hướng về khắp tất cả
Đệ tử cùng chúng sanh
Đều sanh nước Cực Lạc
Sớm viên thành Phật quả
Rộng độ khắp chúng sanh.

Nam Mô A Mi Đà Phật.