Câu Xá Luận Và Tinh Hoa Kinh Luận
Bài 54
Giảng giải: Thầy Thích Thiện Trang
Giảng ngày: 20/08/2025
Phát trực tiếp trên Kênh YouTube Thích Thiện Trang
https://www.youtube.com/watch?v=w5rlDWUNl0Y&list=PLAf-wMx-Id7Zsd52Z4chGE-rsktEpjH6A&index=54
mạng xã hội Facebook, Fanpage Thích Thiện Trang:
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật!
Nam Mô A Mi Đà Phật!
Kính chào quý vị đồng tu, hôm nay là thứ Tư. Chúng ta học Câu Xá Luận và Tinh Hoa Kinh Luận, bài 54. Chúng ta đã học [được] 53 bài với đầy đủ kiến thức. Mỗi một lần chúng ta học qua, là mỗi một lần chúng ta bước vào giáo pháp của Đức Thế Tôn. Bởi vì nếu chúng ta tích lũy như vậy, mỗi ngày nghe được một chút thì dần dần mình hiểu ra. Mình hiểu thì mình sẽ buông bớt được một chút của thế gian, mình sẽ tiến nhập đến con đường giải thoát gần hơn.
Cho nên con đường giải thoát là có đi thì có đến. Mỗi lần nghe như vậy là mình hành, sự nghe thôi không đủ mà phải có hành nữa. Đức Phật dạy: “Pháp của Ta, đến để mà thấy, thiết thực trong hiện tại”. Cho nên là phải thực hành rồi mới thấy. Thực hành mà có hiệu quả liền, thì đó là thiết thực trong hiện tại. Nếu như pháp nào mình thực hành lâu năm mà không đi sâu [được], thì pháp đó có khả năng không phải là Chánh pháp. Vì sao? Vì pháp đó không mang đến thiết thực trong hiện tại.
Bây giờ chúng ta vào bài hôm nay. Đầu tiên quý vị thấy chúng ta có sự thay đổi một chút, đó là Thiện Trang thay đổi [bức] phông. Bởi vì, theo đúng trong kinh thì chúng ta không nên đứng trước, quay lưng về phía Phật. Cho nên hôm nay Thiện Trang không để hình nền Phật đằng sau [nữa]. Chúng ta chỉ mượn tượng Phật thật để luôn bên cạnh. Đó là quý vị hiểu nha! Và chúng ta cũng thấy định [khi nhìn] bóng đèn tròn và dùng màu đơn sắc để cho có định hơn là một bức tranh. Một bức tranh thì tu sẽ bị tạp tâm hơn. Quý vị cứ để ý xem, khi mình dùng trang trí đơn sắc thì mình dễ định hơn là phức tạp. Chúng ta tu Thiền chỉ thì chúng ta biết rồi.
Đó là giới thiệu sơ qua. Hôm nay chúng ta vào bài. Đầu tiên vẫn là phần rất căn bản cho người nghe và hiểu những điều căn bản tu hành, rồi chúng ta tiến dần dần lên. Phần thứ nhất hôm nay giới thiệu cho quý vị là:
5 Công Đức Của Thừa Sự Lạy Phật – Vì Sao Có Công Đức Như Thế?
(Theo Kinh Tăng Nhất A Hàm)
Ở đây, muốn giới thiệu cho quý vị một vấn đề là lạy Phật vẫn có công đức. Điều này có trong kinh, chúng ta coi như thế nào?
Tôi nghe như vầy: Một thời, đức Phật trú tại vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ Đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
“Thừa sự, lạy Phật có năm công đức. Những gì là năm?
Ở đây Thiện Trang giải thích một chút về chữ “thừa sự”. Có nhiều người không hiểu chữ thừa sự là gì. Thừa sự có nghĩa là thờ Phật: thừa tức là kế thừa, nương theo; sự là thờ. Tức là mình có sự thờ Phật, và lạy Phật nữa thì mình sẽ có 5 công đức.
Một là xinh đẹp, hai là tiếng hay, ba là lắm tiền nhiều của, bốn là sanh nhà Trưởng giả, năm là chết sanh lên trời, các cõi lành.
Quý vị thấy đã không ạ? Nhiều khi mình tưởng mình tu khó khăn ghê gớm, nhưng thực ra quý vị thừa sự, tức là thờ Phật và lạy Phật, thì cũng đã có 5 công đức rồi. Công đức thứ nhất là xinh đẹp; hai là tiếng hay, tức là giọng, âm thanh của mình sẽ hay. Ba là về tài sản (thì) có lắm tiền nhiều của. Cho nên ai cũng cứ nghĩ là đi bố thí thì mới lắm tiền nhiều của, đa số đồng tu nghĩ vậy. Nhưng thực tế ở đây, mình thờ Phật, lạy Phật cũng lắm tiền nhiều của, đâu cần phải làm nhiều. Cho nên nhiều khi mình học không hết, không đọc trong kinh, mình cứ nghĩ là bố thí thì mới có tiền. Nhưng thực ra làm rất nhiều việc đơn giản như thờ Phật, ai nghèo cũng tu được đúng không? Bốn là sanh nhà Trưởng giả, tức là sinh vào nhà giàu có, nhà ngon lành, Trưởng giả tức là họ sống tốt. Năm là chết được sanh lên trời, các cõi lành.
Như vậy quý vị thấy lạy Phật và thờ Phật cũng đã có công đức như vậy rồi, huống hồ chi là mình có thể tu Thiền, tu niệm Phật v.v… thì công đức của mình còn lớn hơn nữa đúng không ạ? Quý vị nghe đã an ủi chưa? Chứ không suốt ngày lại sợ là tu hay không tu. Người ta nói không tu thì không sợ, mình tu rồi mình lại thấy toàn là đọa lạc. Đó là người ta nói nha, chứ còn đức Phật nói khác. Và vì sao như vậy? Ở đây đức Phật có giải thích luôn.
Vì sao vậy? Vì Như Lai không ai sánh bằng. Như Lai có Tín, có Giới, có Văn, có Tuệ, có Sắc thiện thành tựu, cho nên thành tựu năm công đức. (Tức là Như Lai là đức Phật thì không ai có thể sánh bằng được. Bởi vì Ngài có lòng tin, có giới, có văn (khả năng nghe đa văn, trí tuệ) và có Sắc thiện thành tựu (tức là sắc đẹp). Nhưng ở đây chưa rõ, đó là nói về đức Phật thôi. Còn chúng ta làm sao mà có công đức như vậy, thì ở đây có nói).
Lại nữa, vì nhân duyên gì lạy Phật mà được xinh đẹp? (Quý vị có biết tại sao lạy Phật được xinh đẹp không? Ở đây có nói luôn), Chính do vì thấy hình ảnh Phật mà phát tâm hoan hỷ, vì lý do nầy nên được xinh đẹp. (Đó! Do mình có thờ Phật, khi mình lạy Phật, do mình thấy hình ảnh Phật, mình phát tâm hoan hỉ. Giống như quý vị thấy tượng Phật thì thấy hoan hỷ đúng không? Vì lý do đó nên [được] xinh đẹp. Quý vị thấy mấy người bán tượng Phật nhiều tại sao [được] tướng mạo xinh đẹp).
Lại, vì nhân duyên gì được âm thanh hay? Nhờ thấy hình ảnh Như Lai, đã tự xưng hiệu niệm ba lần ‘Nam mô Như Lai Chí Chơn Đẳng Chánh Giác’. Vì lý do này nên được âm thanh hay.
Chúng ta muốn được âm thanh hay đúng không? Quý vị thấy âm thanh hay là do mình tự xưng hiệu niệm ba lần ‘Nam Mô Như Lai Chí Chơn Đẳng Chánh Giác’. Không phải niệm [danh hiệu] Phật khác, mà niệm ‘Nam Mô Như Lai Chí Chơn Đẳng Chánh Giác’ là niệm chung. Vì mình xưng danh hiệu như vậy, nên mình được âm thanh hay. Nếu quý vị tu pháp đúng thì âm thanh sẽ hay ra đúng không? Còn mình tu một hồi mà âm thanh của mình dở đi, là có vấn đề, đúng không ạ?
Lại, vì nhân duyên gì mà được lắm tiền nhiều của? (Tại sao thờ Phật, lạy Phật thôi mà được lắm tiền nhiều của? Ở đây cũng giải thích luôn). Do thấy Như Lai mà bố thí lớn, rải hoa, đốt đèn và thí những vật khác. Vì nhân duyên này được nhiều của báu.
Ở đây nói là do mình thấy hình ảnh của Phật, mình có bố thí lớn. Bố thí thế nào? Mình hay cắm hoa, ở bên Ấn độ là rải hoa, còn mình là cắm hoa lên. Rồi đốt đèn cho Phật, bây giờ mình dùng đèn điện đó. Rồi thí những vật khác là mình đem những vật này, vật kia lên cúng dường cho Phật. Bây giờ mình cúng hình tượng Phật đó, mà cũng có nhiều của báu.
Ở trong Kinh Đại Bát Niết Bàn của Bắc truyền (Đại thừa đó), chứ không phải Kinh Đại Bát Niết Bàn của Nam truyền, cũng không phải trong Kinh A Hàm. Kinh Đại Bát Niết Bàn nói rằng: Ai mà cúng dường cho Phật, mặc dù sau này Phật nhập Niết-Bàn rồi, nhưng nếu mình cúng dường cho hình tượng Phật thôi đó, thì công đức đó cũng không kém gì cúng dường cho Phật. Đó là trong Kinh Đại Bát Niết Bàn. Quý vị [xem] hình như trong phẩm 27, Kinh Đại Bát Niết Bàn, quý vị coi trong đó.
Lại, vì nhân duyên gì sanh nhà Trưởng giả? Bởi khi thấy thân Như Lai, tâm không đắm nhiễm, gối phải quỳ sát đất, chắp tay chí tâm lạy Phật, do nhân duyên này sanh nhà Trưởng giả. (Điều này, mình hiểu là do mình có tâm không đắm nhiễm, khi mình nhìn thấy thân Như Lai (tức là thấy Phật). Rồi mình quỳ gối sát đất, và chắp tay lạy Phật. Do nhân duyên này sanh nhà Trưởng giả. Tức là do mình có tâm khiêm tốn, khiêm cung nên mình được sanh vào nhà tôn quý).
Lại vì nhân duyên gì thân hoại mạng chung sanh lên trời, cõi lành? (Quan trọng là mình tu một pháp là thờ Phật, lạy Phật thôi, vẫn được sanh lên cõi Trời, cõi lành. Quý vị thấy hay không ạ? Ở đây [chúng ta] nghe tại sao như vậy?)
Theo thường pháp của chư Phật Thế Tôn, những chúng sanh nào đem năm duyên sự lạy Như Lai liền sanh lên trời, cõi lành. (Đó là Thường pháp của Phật. Ở đây không có nói gì, nhưng [do] công đức mình thừa sự, thờ Phật, lạy Phật nên sanh lên trời, cõi lành).
Này Tỳ-kheo, đó gọi là có năm nhân duyên này, lạy Phật có năm công đức. Cho nên, này các Tỳ-kheo, nếu Thiện nam tử, Thiện nữ nhân nào muốn lạy Phật, hãy tìm cầu phương tiện thành tựu năm công đức này.
Các Tỳ-kheo, hãy học những điều này như vậy”.
Các Tỳ-kheo sau khi nghe Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.
(Kinh Số 3 – Phẩm Thiện Tụ Thứ 32 – Kinh Tăng Nhất A Hàm).
Cho nên Thiện Trang nói luôn, tại vì Thiện Trang đã xem nhiều kinh rồi, Thiện Trang chưa thấy có kinh nào nói pháp tu lạy Phật là một pháp tu để chứng đạo. Chưa thấy! Chỉ thấy nói là tu có phước, có công đức thế này thôi. Chứ còn để khai ngộ, giống như câu chuyện của các vị Tổ sư, thì Thiện Trang chưa thấy trong kinh. Cho nên có khả năng đó là pháp được người đời sau đề xướng. Còn trong kinh chỉ có nói là thờ Phật, lạy Phật thì được công đức vậy thôi, chứ đâu có nói là được chứng quả, giải thoát đâu. Chứng quả, giải thoát là phải tu Thiền chỉ, Thiền quán v.v… chứ không có tu cách này nha.
Sẵn đây Thiện Trang nói luôn, chứ không nhiều khi mọi người không nghe rồi nhầm lẫn. Cho nên đó vẫn là tu phước. Cho nên hằng ngày mọi người thờ Phật, lạy Phật là có công đức, có phước rồi. Vừa có phước này, lại vừa được những điều kia. Chúng ta nhớ lại 5 công đức này: Một là được xinh đẹp; hai là tiếng hay; ba là lắm tiền nhiều của (giàu nha, ai nghèo quá thì bảo tu đi là giàu); bốn là sanh nhà Trưởng giả; năm là chết sanh lên cõi Trời, cõi lành.
Đó là thứ nhất giới thiệu cho quý vị như vậy. Thứ hai, Thiện Trang xin nâng cấp lên một chút. Đây là pháp tu, bây giờ là vô tu. Đầu tiên thì lúc nào cũng giới thiệu nhẹ nhàng hết:
Ba Hạng Người Đối Với Phẫn Nộ
(Theo Kinh Tăng Chi Bộ)
Bài Kinh này rất hay, Thiện Trang thấy có người cũng dựa theo đây để nói.
– Ba hạng người này, này các Tỷ-kheo, có mặt, xuất hiện ở đời. Thế nào là ba? Hạng người như chữ viết trên đá, hạng người như chữ viết trên đất, hạng người như chữ viết trên nước.
Ở đây nói phần ba pháp của Kinh Tăng Chi Bộ, nói có ba hạng người: Một là hạng người như chữ viết trên đá, hai là hạng người như chữ viết trên đất, ba là hạng người như chữ viết trên nước. Chúng ta thử coi [xem] chúng ta là hạng người nào trong ba hạng người này. Đức Phật chia ra làm ba hạng lớn. Đây là đối với sự phẫn nộ, tức là sự sân đó. Chúng ta coi thử mình là hạng người nào?
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là hạng người như chữ viết trên đá?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người luôn luôn phẫn nộ và phẫn nộ của người này tiếp tục lâu dài. Này các Tỷ-kheo, ví như chữ viết trên đá không bị gió hay nước tẩy xóa mau chóng, được tồn tại lâu dài. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, ở đây có người luôn luôn phẫn nộ và phẫn nộ của người này tiếp tục lâu dài. Này các Tỷ-kheo, đây được gọi là hạng người như chữ được viết trên đá.
Rất rõ ràng đúng không quý vị? Quý vị thấy kinh Nguyên thủy rất dễ hiểu, dễ làm. Bây giờ mình có phải là hạng người giống như chữ viết trên đá không? Viết chữ trên đá là sao? Viết chữ trên đá, rồi khắc chữ trên đá, [thì] nước, gió không tẩy được, gió qua cũng vậy, nước mưa xuống cũng vậy, không tẩy được.
Cũng vậy, hạng người luôn luôn phẫn nộ, phẫn nộ của người này tiếp tục lâu dài. Tức là sân dài quá, sân lâu quá. Đó là hạng người như chữ viết trên đá. Quý vị nhớ nha! Coi thử mình có phải như vậy không? Người sân từ ngày này sang ngày khác, sân hoài, đó là bị như vậy. Chúng ta xem, nếu không phải hạng trên đó thì xuống hạng dưới, thì đỡ hơn một chút.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là hạng người như chữ viết trên đất?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người luôn luôn phẫn nộ và phẫn nộ của người này không tiếp tục lâu dài. Này các Tỷ-kheo, ví như chữ viết trên đất bị gió hay nước tẩy xóa mau chóng, không có tồn tại lâu dài. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, ở đây có người luôn luôn phẫn nộ và phẫn nộ của người này không có tiếp tục lâu dài. Này các Tỷ-kheo, đây được gọi là hạng người như chữ được viết trên đất.
Hạng người này có giống người ở trên không? Giống! Là họ dễ sân lắm, luôn luôn phẫn nộ, sân miết. [Hạng] ở trên cũng sân, nhưng người kia sân từ ngày này qua ngày nọ, chuyện sân của họ không bỏ xuống được. Tức là ngày hôm nay sân, mai lại sân tiếp, chuyện đó vẫn âm ỉ, gọi là thù dai nhớ lâu. Còn hạng người này, tính thì dễ sân, nhưng họ cũng mau quên. Tức là dễ sân nhưng mau quên. Hạng này là hạng người như chữ viết trên đất. Bởi vì quý vị viết trên đất thì gió thổi bay qua bay lại là mất chữ. Hoặc là mưa, nước chảy xuống là mất chữ. Nhưng viết trên đá thì không mất, gọi là thù lâu nhớ dai, nhớ hoài luôn đó.
Đó là hạng người thứ hai. [Hạng người này] cũng vẫn dễ sân, gọi là chữ viết trên đất. Như vậy cũng có nhiều người như ở đây. Ai mà tới đây là đỡ rồi, đỡ hơn, vẫn sân nhưng dù sao cũng mau hết, mau quên. Còn hạng người thứ ba, chúng ta coi thử nha.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là hạng người như chữ viết trên nước?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người dầu bị nói một cách kịch liệt, dầu có bị nói một cách ác độc, dầu có bị nói một cách thô lỗ, tuy vậy vẫn dễ dàng hòa hợp, thân thiện, và hoan hỷ. Này các Tỷ-kheo, ví như chữ viết trên nước được mau chóng biến mất, không có tồn tại lâu dài. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, có người dầu bị nói một cách kịch liệt, dầu có bị nói một cách ác độc, dầu có bị nói một cách thô lỗ, tuy vậy vẫn dễ dàng hòa hợp, thân thiện, và hoan hỷ. Này các Tỷ-kheo, đây được gọi là hạng người như chữ được viết trên nước.
Chúng ta đọc kĩ đoạn này. Tức là hạng người này bị nói một cách kịch liệt luôn, nói sốc dữ lắm, nói một cách ác độc, chửi mình ghê gớm, bị nói một cách thô lỗ mà vẫn dễ dàng hòa hợp, thân thiện và hoan hỷ. Hạng [người] này rất hiếm, đa số là chịu không nổi. Người ta nói xa thôi, chưa có nói thô lỗ, chưa có nói kịch liệt, chưa có nói ác độc, mới nói bình thường thôi mà đã sân rồi, nên chắc là hai hạng người ở trên, là hạng người như chữ viết trên đá hay chữ viết trên đất thôi. Chứ còn hạng người này là chữ viết trên nước. Quý vị thấy viết chữ trên nước là mất liền. Cho nên là dầu có bị nói kịch liệt, dầu có bị nói ác độc, dầu có bị nói thô lỗ, họ cũng dễ dàng hòa hợp, thân thiện và hoan hỷ.
Đó! [chúng ta] ráng tu như vậy. Tại sao? Ở đây đức Phật không có nói là không sân, tại vì mình là phàm phu thì mình phải có sân thôi, nhưng sân cái là hết liền. Tu là tu Tứ niệm xứ hoặc tu tất cả các Pháp môn nào, nếu mình không làm được vậy thì mình cũng cố gắng. Hôm nay có bài kinh này là ví dụ thì quý vị nhớ giùm, hãy cố gắng làm như hạng người như chữ viết trên nước. Chứ đừng làm như hạng người chữ viết trên đá, là thôi, thua đó. Cố gắng như vậy!
Ba hạng người này, này các Tỷ-kheo, có mặt, xuất hiện ở đời.
(Kinh (3.132) Thư Pháp: Lekha – Kinh Tăng Chi Bộ).
Bộ kinh hay như vậy mà người ta không thèm xem. Quý vị thấy, rất nhiều Kinh A Hàm và Kinh Nikaya cực kỳ hay, rất dễ thực hành, đâu cần gì cao siêu. Những ví dụ đức Phật đưa ra là những ví dụ trong đời sống hằng ngày. Mình thấy được đá, là mình nhớ người như chữ viết trên đá. Mình thấy đất, là mình nhớ người như chữ viết trên đất. Mình thấy nước, lúc nào mà chả thấy nước đúng không? Như rửa tay, hay làm gì đó cũng thấy nước, là nhớ như hạng người như chữ viết trên nước. Mình cố gắng làm theo hạng người đó, là dễ thành công, rất dễ thực hành. Chúng ta cố gắng tới hạng người thứ ba.
Đó là một pháp tu, coi vậy chứ không dễ đâu quý vị. Làm sao đó hãy nhớ là mình hãy làm hạng người như chữ viết trên nước. Phải cố gắng làm như vậy! Có sân là bỏ luôn, sân một cái là bỏ luôn. Đừng để thù oán lâu dài, đừng để lâu.
[Phần] thứ ba, hôm nay Thiện Trang giới thiệu cho quý vị định nghĩa Như Lai theo Kinh Tăng Chi Bộ. Tại sao lại giới thiệu về điều này? Bởi vì chúng ta phải niệm mười danh hiệu của đức Thế Tôn: Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Ở đây sẽ giới thiệu cho quý vị chữ Như Lai theo trong kinh luôn, đức Phật [định nghĩa] trong kinh. Tất nhiên chữ Như Lai này được định nghĩa trong rất nhiều kinh, Kinh Kim Cang có định nghĩa, và kinh này kinh kia. Nhưng định nghĩa đó Thiện Trang giới thiệu rồi. Hôm nay giới thiệu cho quý vị trong Kinh Tăng Chi Bộ.
Định Nghĩa “Như Lai”
(Theo Kinh Tăng Chi Bộ)
Này các Tỷ-kheo, thế giới được Như Lai chánh đẳng giác. Như Lai không hệ lụy đối với đời.
Này các Tỷ-kheo, thế giới tập khởi được Như Lai chánh đẳng giác. Thế giới tập khởi được Như Lai đoạn tận.
Này các Tỷ-kheo, thế giới đoạn diệt được Như Lai chánh đẳng giác. Thế giới đoạn diệt được Như Lai giác ngộ.
Này các Tỷ-kheo, con đường đưa đến thế giới đoạn diệt được Như Lai chánh đẳng giác. Con đường đưa đến thế giới đoạn diệt được Như Lai tu tập.
Đoạn này thì mình đọc vô, Thiện Trang đảm bảo quý vị không hiểu. Vì sao không hiểu? Tại vì mình không có kiến thức, mình đọc vô, mình không hiểu. Câu đầu tiên, chúng ta đọc từ đây: ‘Thế giới được Như Lai chánh đẳng giác. Như Lai không hệ lụy đối với đời’.Tức là đức Phật, Ngài như thế nào? Thế giới tức là tất cả quốc độ, hay nói nhỏ là Trái đất của chúng ta, được Như Lai chánh đẳng giác. Do chúng ta quen chữ chánh đẳng giác là danh từ, nhưng ở đây là động từ. Phải coi tiếng Pali thì rõ hơn, còn tiếng Việt mình không phân biệt được động từ với danh từ. Cho nên Thiện Trang viết chữ ‘chánh đẳng giác’ này là chữ thường. Tức là Thế giới được Như Lai giác ngộ, hiểu biết một cách chính xác và đến mức cao tột rồi, không có gì hơn nữa, gọi là chánh đẳng giác. Quý vị hiểu không?
Ví dụ tại sao lại có Thế giới này? Gồm có những gì? Thế giới Ta Bà này như thế nào v.v…? Nói chung là có tất cả các loại Thế giới. Nó có những loài nào? Rồng hay là chim sí điểu, hay là Càn-thát-bà, hay Khẩn-na-la, hay A-tu-la, hay là Người, với bao nhiêu người v.v… Đức Phật biết một cách chính xác và đến mức độ gọi là không có gì hơn nữa, gọi là Như Lai chánh đẳng giác. Chữ chánh đẳng giác là động từ, là biết một cách rốt ráo, chính xác. Nói nghĩa như vậy là chánh đẳng giác. Chứ đó không phải là danh hiệu của Như Lai, mà là động từ chánh đẳng giác. Tức là Thế giới được đức Phật biết một cách rốt ráo, rất đầy đủ và chính xác.
Và đức Phật không hệ lụy đối với đời, không hệ lụy là không lệ thuộc, không bị dính vô đối với đời, tức là đối với Thế giới đó. Cũng có thể nói như thế. Đó là ý nghĩa thứ nhất.
Ý thứ hai là: ‘Thế giới tập khởi được Như Lai chánh đẳng giác. Thế giới tập khởi được Như Lai đoạn tận’.Điều này, thật ra ngài Minh Châu dịch hơi khó hiểu. Nếu Thiện Trang biết chữ Pali thì Thiện Trang sửa luôn, nhưng [mình] không dám sửa, nhưng đoạn này Thiện Trang cũng có thể dịch ra được. Sự tập khởi tức là nguyên nhân để tạo ra Thế giới; #tập là nguyên nhân, để khởi tạo ra Thế giới, được Như Lai cũng biết một cách chính xác và đến rốt ráo. Nói như vậy cho dễ, dịch như vậy rất dễ hiểu, nhưng không biết tại sao ngài lại để toàn âm Hán Việt, làm cho mình khổ, mình không hiểu. Thật ra chữ Hán là Thiện Trang sửa, tại vì chữ Pali Thiện Trang chưa giỏi nên không dám sửa, chỉ biết vậy thôi.
Tức là nguyên [nhân] tại sao có Thế giới? Thế giới từ đâu tới? Nó như thế nào v.v…? Thì đức Phật biết một cách chính xác và đến cao tột, [đó là] nguyên nhân. Ở trên là Thế giới như thế nào, còn đây là nguyên nhân tại sao có Thế giới. Đức Phật biết tại sao hình thành Thế giới.
Và đức Phật không chỉ như vậy, mà ‘Thế giới tập khởi được Như Lai đoạn tận’. Tức là nguyên nhân của Thế giới sinh khởi, được Như Lai đoạn tận. Tức là đức Phật đã diệt hết rồi, Ngài không vào Thế giới nữa đâu, Ngài nhập Niết-Bàn rồi.
Thứ ba là: ‘Thế giới đoạn diệt được Như Lai chánh đẳng giác. Thế giới đoạn diệt được Như Lai giác ngộ’. Tức là sự đoạn diệt của Thế giới đượcNhư Lai biết một cách chính xác và rốt ráo [đến] tột cùng. Tức là tại sao Thế giới này mai mốt [bị] diệt? Thế giới này bị diệt như thế nào? Thì đức Phật cũng biết một cách rốt ráo và chính xác, nói vậy cho đơn giản.
Và đức Phật cũng giác ngộ điều đó, đoạn sau nói như vậy. Giác là mới biết thôi, còn giác ngộ là cao hơn nha. Tại vì chữ này là âm Pali, không biết tại sao ngài Minh Châu dịch khó hiểu. Cho nên Thiện Trang nói học môn nào cũng vậy, phải cần biết [tiếng] Pali. Học thì phải cần nắm ngoại ngữ môn đó thì mới làm chủ được cuộc chơi, còn không, mình đọc vô là mắc kẹt trong đó. Nhiều khi các ngài để [vậy], các ngài thì hiểu, còn mình thì không hiểu.
Này các Tỷ-kheo, con đường đưa đến thế giới đoạn diệt được Như Lai chánh đẳng giác. Con đường đưa đến thế giới đoạn diệt được Như Lai tu tập.
Bây giờ con đường đưa đến Thế giới đoạn diệt, tức là mình làm sao hết luân hồi. Thế giới đoạn diệt là không còn Thế giới nữa, là mình nhập Niết-Bàn, thì được Như Lai biết một cách chính xác và rốt ráo. #Đẳng là mức cao nhất rồi, đẳng là cao cấp, là đẳng cấp đó quý vị.
‘Con đường đưa đến thế giới đoạn diệt được Như Lai tu tập’ tức là đức Phật đã tu tập thành công rồi, Ngài hết sinh rồi, cho nên đây là lần cuối cùng trong vòng luân hồi thôi. Đó là đoạn này [nói như vậy].
Đấy là giới thiệu chữ Như Lai, nhưng vẫn chưa định nghĩa rõ ràng, đằng sau này mới giới thiệu định nghĩa Như Lai.
Cái gì, này các Tỷ-kheo, trong toàn thế giới với Thiên giới, Ma giới, Phạm thiên giới, cùng với quần chúng Sa-môn, Bà-la-môn, chư Thiên và loài Người, được thấy, được nghe, được cảm giác, được thức tri, được đạt đến, được tầm cầu, được ý tư sát, tất cả đều được Như Lai chánh đẳng giác.
Ở đây ngôn ngữ này dài dằng dặc, ở bên Bắc truyền nói đơn giản hơn. Thiện Trang sẽ diễn giảng lại [câu] này, rồi Thiện Trang nói câu bên Bắc truyền một cách gọn lắm, bên này thì nói dài. Trong toàn Thế giới với Thiên giới (Thiên giới là cõi Trời), Ma giới (cõi Ma), cõi Phạm thiên, rồi các quần chúng Sa-môn, Bà–la-môn, chư Thiên và loài Người, ai mà thấy được (tức là những người này thấy được điều gì?), nghe được điều gì, cảm giác được gì, biết được gì, họ đạt đến được gì, tìm cầu [điều] gì, suy nghĩ quán sát những gì? Thì những điều đó đức Phật biết hết, gọi là chánh đẳng giác, [Ngài] biết sạch.
Cho nên bên Bắc truyền nói một cách đơn giản là: Tất cả những điều gì chúng sanh biết, chúng sanh nghĩ, chúng sanh nghe, chúng sanh thấy, chúng sanh tìm cầu, chúng sanh suy nghĩ, thì đức Phật đều biết hết. Đơn giản vậy thôi! Bên Bắc truyền diễn đạt lại một cách đơn giản. Thật ra ngài Minh Châu có thể diễn đạt như vậy, nhưng ngài dịch sát ý, nên là khựng khựng vậy thôi, chứ thật tế đơn giản là như vậy.
Tức là những gì quý vị suy nghĩ, quý vị biết, quý vị thấy, không phải chỉ quý vị, ở loài Người, mà ở cõi Trời, ở Địa ngục, ở Súc sanh, ở A-tu-la, ở đâu đâu đó, tất cả chúng sanh nào nghĩ gì, nghe gì, ăn gì, biết gì, đạt đến điều gì, tìm cầu điều gì, suy nghĩ điều gì v.v… thì đức Phật biết sạch, không có gì mà [Ngài] không biết. Nói đơn giản là như vậy! Gọi là chánh đẳng giác, là biết, mà biết chính xác đến mức độ rốt ráo như vậy.
Do vậy, được gọi là Như Lai. (Như Lai là như vậy đó. Quý vị hiểu không? Đó là minh chứng cho Như Lai, điều gì Ngài cũng biết sạch, cho nên gọi là Như Lai. Thật ra từ Thế giới, ở trên gọi là Thế giới tự nhiên, còn dưới [gọi là] Thế giới xã hội. Một bên là tự nhiên, còn một bên là xã hội, [còn đây] là Người. Hai điều đó, đức Phật đều biết một cách rốt ráo, Ngài không lệ thuộc vào đó, Ngài rời khỏi nơi đó tất cả, cho nên được gọi là Như Lai. Định nghĩa là như vậy).
Từ đêm, này các Tỷ-kheo, Như Lai được chánh đẳng giác, đến đêm Như Lai nhập Niết-bàn, trong thời gian ấy, điều gì Như Lai nói, nói lên, tuyên bố, tất cả là như vậy, không có khác được. Do vậy, được gọi là Như Lai.
Tức là từ khi đức Phật chứng thành quả vị Phật, đến khi Ngài nhập Niết-Bàn, thì trong thời gian ấy đức Phật nói lên điều gì, tuyên bố điều gì, tất cả đều như vậy, không có khác được. Do vậy mới được gọi là Như Lai.
Cho nên đức Phật nói điều gì là đúng điều đó, không bao giờ khác được. Ngài nói ông Đề Bà Đạt Đa đọa Địa ngục là ổng đọa Địa ngục. Nói vua A Xà Thế đọa Địa ngục là đọa Địa ngục. Tức là tất cả những gì đức Phật nói không có thay đổi, đức Phật đã nói rồi là không thay đổi. Cho nên, [Ngài] không bao giờ thay đổi, [vì] Ngài quan sát rồi Ngài mới nói.
Nên có những điều, sau này quý vị cứ suy xét ra, thì quý vị mới biết tại sao có những bộ kinh, lúc trước đức Phật nói vậy mà lúc sau họ lại nói khác đi, thì tức là kinh đó có vấn đề. Quý vị hiểu không? Khi nào có một kinh nào đó, mà tự nhiên chen vô sửa lại lời của Phật, lúc trước Ta nói thế này, mà sau này Ta nói thế [khác]. Thì coi chừng! Mình phải xem lại và so lại. Tại vì đức Phật chỉ có tuyên bố như vậy, không có khác được. Còn Ngài quan sát trước rồi, nếu có thể thay đổi là Ngài nói ngay từ đầu có thể thay đổi. Ví dụ ông đó sắp đọa Địa ngục, đức Phật nói ‘tới giúp ổng, ổng tu được thì hết đọa Địa ngục’. Như vậy thì được đúng không ạ? Cho nên đức Phật nói rất rõ ràng. Đây cũng là tiêu chuẩn để quý vị xác định trong kinh điển.
Này các Tỷ-kheo, Như Lai nói gì thì làm vậy, làm gì thì nói vậy. Vì rằng nói gì thì làm vậy, làm gì thì nói vậy, nên được gọi là Như Lai.
Quý vị thấy chưa ạ? Quan trọng là nói gì thì làm vậy, làm gì thì nói vậy. Vì điều đó nên gọi là Như Lai. Đây cũng là tiêu chuẩn để mình xác định Chánh pháp. Có nhiều người thời nay họ nói một đường, họ làm một nẻo. Hoặc là chư Tổ bên Bắc truyền hay tôn vinh là Phật này Phật kia, nhưng quý vị thấy đó là vi phạm, đúng không? Đức Phật nói gì thì làm vậy, và làm gì thì nói vậy, không có thay đổi. Để mình biết, chứ không, người ta nói một đường mà làm một nẻo, nên là không có chuyện đó. Quý vị thấy rõ ràng, hay lắm! Cho nên gọi là Như Lai. Mấy định nghĩa Như Lai rất quan trọng.
Này các Tỷ-kheo, trong toàn thể thế giới với Thiên giới, Ma giới, Phạm thiên giới, cùng với quần chúng Sa-môn, Bà-la-môn, chư Thiên và loài Người, Như Lai là bậc chiến thắng, không bị ai chiến bại, toàn tri, toàn kiến đại tự tại, do vậy được gọi là Như Lai.
Quý vị nhớ được Như Lai là trong tất cả Thế giớinhưThiên giới, Ma giới, Phạm thiên, quần chúng Sa-môn, Bà-la-môn và loài Người và chư Thiên, thì Phật là bậc chiến thắng, không bị ai chiến bại, toàn tri là biết hết tất cả, toàn kiến là thấy được tất cả, và được đại tự tại. Do vậy được gọi là Như Lai.
Hôm nay, quý vị nhớ được công đức Như Lai này không? Trong mười danh hiệu, quý vị không cần nhớ mười danh hiệu, [mà chỉ] nhớ được một điều này thôi, Như Lai là như vậy, là quý vị cũng đã niệm Phật được rồi. Niệm Phật là [niệm] như vậy nha! Chứ không phải niệm Phật là trì danh. Không có! Thật ra nói niệm Phật là nhớ tưởng công đức Như Lai. Cho dù kinh Tiểu thừa hay Kinh Đại thừa, hay chúng ta nói kinh Nguyên thủy hay Phát triển. Bữa nay chúng ta hãy tập thói quen, dùng [chữ] kinh Nguyên thủy tức là Kinh A Hàm và Kinh Nikaya. Còn kinh Đại thừa, cho luôn. Bên nào cũng thích chữ ngon, bên kia thích chữ Nguyên thuỷ thì tặng cho chữ ‘Nguyên thuỷ’. Bên này thích Đại thừa thì tặng chữ ‘Đại thừa’. Không nói Tiểu thừa, mất công chê bai. Rồi cũng không nói Phát triển, mất công chê bai. Mình cứ nói kinh Nguyên thủy và kinh Đại thừa đi. Quý vị thấy đặc biệt là đức Phật luôn luôn bất khả chiến bại.
Thiện Trang xin nói thêm về phương pháp niệm Phật. Hồi xưa mình cứ nghe người ta nói thôi, chứ bây giờ thật ra đọc kinh thì Thiện Trang thấy, tất cả các kinh [đều nói] phương pháp niệm Phật đều là niệm tưởng ân đức Như Lai. Tức là nhớ đến đức Phật có tính tốt thế này, có tính tốt thế kia v.v… Quý vị coi đi, Kinh Hoa Nghiêm cũng thế. Kinh Hoa Nghiêm, quý vị vô coi Thiện Tài Đồng tử khi tham vấn với Tỳ-kheo Kiết Tường Vân (Tỳ-kheo Đức Vân) 21 Pháp môn Niệm Phật, đâu phải là niệm danh hiệu Như Lai đâu. [Mà] nhớ về ân đức này, ân đức kia với đặc tính này, đặc tính kia của đức Phật mà.
Rồi ở trong bộ Kinh Niệm Phật Quán Tam Muội Hải Kinh, vua Tịnh Phạn cũng niệm như vậy, đâu có niệm Phật A Di Đà đâu. Người ta vớ qua đó, gọi là ‘thấy sang bắt quàng làm họ’. Thấy chữ niệm Phật là [cho] vô niệm Phật A Di Đà hết. Nhưng thực tế không phải! Chính là những kinh Đại thừa đều dạy niệm như vậy. Và quý vị coi lại Kinh Lăng Nghiêm, Kinh Lăng Nghiêm Đại Thế Chí Bồ Tát Niệm Phật Viên Thông Chương, quý vị coi cũng là niệm [công đức Như Lai], đâu có niệm A Di Đà Phật đâu. Tại vì người ta gán vô, rồi mình đọc thì mình cứ tưởng như vậy. Quý vị coi kỹ lại đi, cũng là nhớ Phật, niệm Phật. Nhớ Phật đây là nhớ công đức Phật đó. Cho nên người ta ép qua đó quý vị, gọi làthấy ‘người sang bắt quàng làm họ’thôi. Chứ còn đọc kinh văn là rõ ràng không phải như vậy.
Cho nên Thiện Trang sau khi coi rồi, Thiện Trang mới nói là hèn chi tu niệm Phật theo kiểu của Phật [dạy] dễ hơn rất nhiều. Tại vì mình nhớ công đức Như Lai thì tâm của mình định hơn chứ, còn mình xưng danh là bắt đầu khó. Đó chỉ là một phương pháp dành cho người Ngũ nghịch Thập ác, khi mà hết niệm [Phật] được rồi, họ mới đọc danh hiệu Phật thôi. Đó là trong Kinh Quán Vô Lượng Thọ, pháp quán thứ 16 đó. Cho nên là phải học kinh thì mới hiểu được, còn không, người ta cứ ‘thấy sang bắt quàng làm họ’, bẻ qua thành pháp của mình hết, thì mình cứ tưởng vậy, bao nhiêu người tưởng vậy đó. Đó là điều đáng thương! [Quý vị] cố gắng học nguyên kinh văn, chứ đừng có nghe xong, rồi ba chớp ba nhoáng, rồi cứ tin đi, tin, tin. Thiện Trang hôm nay nói rõ như vậy.
Có bộ Kinh Niệm Phật Quán Tam Muội Hải đó, quý vị coi vua Tịnh Phạn được đức Phật dạy niệm Phật thế nào. Niệm vẫn là niệm những ân đức của Đức Thế Tôn. Khi nào có thời gian Thiện Trang trích ra cho [quý vị] coi, bộ kinh đó ngắn lắm, không có dài đâu. Bài kệ cuối cùng của đoạn kinh này:
Do thắng tri thế giới
Ðúng như thật như vậy
Ly hệ mọi thế giới
Không chấp thủ thế giới
Thắng tất cả bậc trí
Giải thoát mọi buộc ràng
Cảm thọ tối thắng tịnh
Niết-bàn, không sợ hãi
Vị này đoạn Lậu hoặc
Bậc Giác ngộ, Trí giả
Không dao động nhiễu loạn
Nghi ngờ được chặt đứt
Ðạt diệt tận mọi nghiệp
Giải thoát diệt sanh y
Là Thế Tôn là Phật
Bậc Sư tử vô thượng
Trong thế giới, Thiên giới
Chuyển bánh xe pháp luân
Như vậy hàng Thiên, Nhân
Ðến quy y đức Phật
Gặp nhau đảnh lễ Ngài
Vĩ đại không sanh hữu
Ðiều phục bậc tối thượng
Trong người được điều phục
An tịnh bậc ẩn sĩ
Những người được an tịnh
Giải thoát bậc tối thượng
Những người được giải thoát
Vượt qua bậc tối thắng
Những người được vượt qua
Như vậy họ lễ Ngài
Vĩ đại, không sanh hữu
Thiên giới, thế giới này
Không ai được bằng ngài.
(Kinh (4.23) Thế Giới: Loka (MA 137) – Kinh Tăng Chi Bộ).
Bài kệ này dài quá, thật ra là tóm tắt nội dung trên. Nhưng thôi, chúng ta đọc qua, quý vị tự hiểu nha! Chứ giải thích bài này thì dài lắm. Quý vị thấy rõ ràng, đức Phật dạy rất hay, bữa nay mình hiểu Như Lai là thế nào.
Hôm nay chúng ta thêm một phần nữa, đó là muốn giải thoát thì phải tu tập những gì? Rồi chúng ta sẽ vào phần Vi Diệu Pháp.
Mong Giải Thoát Thì Phải Tu Tập Những Gì? Không Phải Chỉ Mong Muốn Giải Thoát Mà Có Thể Giải Thoát
(Theo Kinh Tăng Chi Bộ)
Tức là bây giờ chúng ta rất muốn giải thoát, thậm chí rất nhiều đồng tu ai cũng mong muốn giải thoát, bởi vì đời khổ, biết đời khổ, đời vô thường. Thật ra học hoài [mình] cũng biết rồi, biết thân này bây giờ già rồi, đau ốm, bệnh, thế giới vô thường. Hồi xưa giàu có, còn bây giờ nghèo khổ, khó khăn, ăn uống không đủ v.v… càng ngày về già không hưởng thụ được bao nhiêu. Mình thấy như vậy rồi thì mình ngán, mình muốn giải thoát. Nhưng giải thoát như thế nào? Không phải muốn mà được, mà phải tu tập. Vậy tu tập những gì? Trong bài kinh này nói tu những gì để được giải thoát, chứ không phải mong muốn mà giải thoát được đâu. Chúng ta vào bài kinh:
– Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo không chí tâm trong sự tu tập khởi lên ước muốn như sau: “Mong rằng tâm ta được giải thoát khỏi các Lậu hoặc, không có chấp thủ!” Tuy vậy, tâm vị ấy cũng không giải thoát khỏi các Lậu hoặc, không có chấp thủ.
Quý vị thấy ở đây nói Tỷ-kheo, chúng ta nói là người tu hành đi, không chí tâm trong sự tu tập mà khởi lên ước muốn như sau: “Mong rằng tâm ta được giải thoát khỏi các Lậu hoặc (tức là giải thoát hết Phiền não), không có chấp thủ nữa!” Nhưng đức Phật nói: Tuy vậy, tâm vị ấy cũng không giải thoát khỏi các Lậu hoặc, không có chấp thủ. Giống như chúng ta bây giờ cũng vậy, cũng mong giải thoát lắm, khởi lên ý muốn mong giải thoát, nhưng không có tu tập, thì cuối cùng mình cũng đâu có giải thoát đâu. Mà tu tập những gì? Ở đây nói tiếp:
Vì cớ sao? Phải nói rằng vì vị ấy không có tu tập. Không có tu tập gì? Không có tu tập Bốn niệm xứ, không có tu tập Bốn chánh cần, không có tu tập Bốn như Ý túc, không có tu tập Năm căn, không có tu tập Năm lực, không có tu tập Bảy Bồ-đề phần, không có tu tập Thánh đạo Tám ngành.
Đức Phật nói rất rõ, Thiện Trang có tô chữ màu đỏ rồi. Tại sao không tu tập? Thật ra không tu tập gì? Đức Phật nói luôn: Không có tu tập Tứ niệm xứ (Bốn niệm xứ), không có tu tập Tứ chánh cần, không có tu tập Tứ như Ý túc, không có tu tập Ngũ căn, Ngũ lực, Thất Bồ-đề phần, Bát thánh Đạo phần. Tức là không có tu tập 37 Phẩm trợ đạo mà đòi giải thoát. Nói đơn giản là vậy!
Và quý vị thấy rất nhiều người thời nay không có tu tập 37 Phẩm trợ đạo mà họ muốn giải thoát, đó là điều ‘vô hữu thị xứ’, nói theo Bắc truyền. ‘Vô hữu thị xứ’ là không có điều đó. Đức Phật nói không có tu tập gì? Không tu 37 Phẩm trợ đạo mà đòi giải thoát. Nói đơn giản là như vậy. Đức Phật nói tiếp:
Ví như, này các Tỷ-kheo, có tám, mười hay mười hai trứng gà, không được con gà mái ấp nằm đúng cách, không được ấp nóng đúng cách, không được ấp dưỡng đúng cách.
Dầu cho con gà mái ấy khởi lên ý muốn: “Mong rằng những con gà con của ta, với chân móng và đỉnh đầu, hay với miệng và mỏ, sau khi làm bể vỏ trứng, được sanh ra một cách an toàn, tuy vậy, các con gà con ấy không thể, với chân, móng, đỉnh đầu hay với miệng và mỏ, sau khi làm bể vỏ trứng, được sanh ra một cách an toàn!
Ở đây chúng ta hiểu như thế này, dài quá, sợ quý vị không nắm được. Đức Phật đưa ra ví dụ, giống như có tám, mười hay mười hai trứng gà. Con gà mái thì mong con của nó được nở ra. Bây giờ chắc nhiều người không nuôi gà nên không biết, con gà con có móng ở chân, rồi có đỉnh đầu, có mỏ, nó mổ cho bể vỏ trứng rồi chui ra. Con gà mái mong như vậy, nhưng nó nằm ấp không đúng cách. Bây giờ nằm không đúng cách là nằm thế nào? Tức là nó nằm trật một bên, không nằm lên trứng thì làm sao được, hoặc là nó nằm chỗ khác. Hay là trứng không được ấp nóng đúng cách, tức là đang ấm ấm một chút thì nó bỏ đi mất, lo đi tìm thức ăn… Nó phải nằm ấm đủ. Rồi ấp dưỡng không đúng cách. Thì cuối cùng trứng gà hư thôi, chứ không thể nào nở ra được. Đức Phật nói ra ví dụ này rất hay.
Vì cớ sao? Này các Tỷ-kheo, tám, mười hay mười hai trứng gà mái ấy không được con gà mái nằm ấp một cách đúng đắn, ấp nóng một cách đúng đắn, ấp dưỡng một cách đúng đắn. (Ở trên là đúng cách, ở dưới này là đúng đắn).
Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo không chú tâm trong sự tu tập, dầu cho có khởi lên ý muốn: “Mong rằng tâm ta được giải thoát khỏi các Lậu hoặc không có chấp thủ”; tuy vậy, tâm vị ấy cũng không giải thoát khỏi các Lậu hoặc, không có chấp thủ.
Vì cớ sao? Phải nói rằng vì vị ấy không có tu tập. Không có tu tập gì? Không có tu tập Bốn niệm xứ… không có tu tập Thánh đạo tám ngành.
Đức Phật nhắc là một lần nữa, mình muốn thì muốn thôi, nhưng không có tu tập 37 Phẩm trợ đạo [thì] không có cách nào giải thoát đâu.
Cho nên nền tảng A Hàm, Nikaya cực kỳ quan trọng, không học điều này thì không biết, cứ tưởng mình học Đại thừa là nhất rồi, là ngon rồi. Cũng đúng! Nhất ngon đó là đối với Bồ-tát đã tốt nghiệp ngành Tiểu học rồi. Ngành Tiểu học đó là Tứ niệm xứ, Tứ chánh Cần, Tứ như Ý túc, Ngũ căn, Ngũ lực, Thất Bồ-đề phần, Bát thánh Đạo phần. Các ngài làm xong rồi, bây giờ các ngài mới bay lên đó. Còn mình chưa làm xong mà vô đó tu thì làm sao tu được, chưa học cấp một mà đòi lên cấp hai thì khó. Cho nên từ đó không có thành công.
Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo sống chú tâm trong sự tu tập, dầu cho không khởi lên ước muốn: “Mong rằng tâm ta được giải thoát khỏi các Lậu hoặc, không có chấp thủ”; tuy vậy, tâm vị ấy được giải thoát khỏi các Lậu hoặc không có chấp thủ.
Vì cớ sao? Phải nói rằng vì vị ấy có tu tập. Có tu tập gì? Có tu tập Bốn niệm xứ, có tu tập Bốn chánh cần, có tu tập Bốn như ý túc, có tu tập Năm căn, có tu tập Năm lực, có tu tập Bảy giác chi, có tu tập Thánh đạo tám ngành.
Quý vị thấy đức Phật nói rất rõ đúng không ạ? Không phải muốn giải thoát hay không giải thoát, ở đây vị Tỳ-kheo đó không khởi lên ý muốn mong ta được giải thoát gì hết, nhưng vị ấy vẫn được giải thoát. Tâm được giải thoát các Lậu hoặc tức là chứng được Tâm giải thoát. Vì sao? Đức Phật nói vì vị Tỳ-kheo ấy, tức là hành giả đó tu tập Bốn niệm xứ, Bốn chánh cần, Bốn như Ý túc, Năm căn, Năm lực, Thất Bồ-đề phần (tức là Bảy giác chi), và Bát thánh đạo. Tức là tu 37 Phẩm trợ đạo thì sẽ chứng thôi.
Cho nên đừng có mong, mong cho lắm vô, suốt ngày cầu vãng sanh, cầu chứng quả, cầu mà không tu đúng thì không có. Giống như con gà ấp trứng không đúng thì làm sao nở ra gà con được. Ở đây cũng vậy, đức Phật nói:
Ví như, này các Tỷ-kheo, có tám, mười hay mười hai trứng gà. Các trứng ấy được con gà mái ấp nằm đúng cách, ấp nóng một cách đúng đắn, ấp dưỡng một cách đúng đắn. Dầu cho con gà mái ấy không khởi lên ý muốn: “Mong rằng những con gà con của ta, với chân móng và đỉnh đầu, hay với miệng và mỏ, sau khi làm bể vỏ trứng, được sanh ra một cách an toàn!”, tuy vậy, các con gà con ấy có thể với chân, móng, đỉnh đầu hay với miệng và mỏ, sau khi làm bể vỏ trứng, được sanh ra một cách an toàn.
Vì cớ sao? Này các Tỷ-kheo, tám, mười hay mười hai trứng gà được con gà mái ấy ấp nằm một cách đúng đắn, ấp nóng một cách đúng đắn, ấp dưỡng một cách đúng đắn.
Quý vị thấy đức Phật đưa ra nói rất rõ ràng, cứ tu đúng đi là sẽ thành tựu. Đừng lo! Cứ mong mình sẽ chứng quả. Mong là tham, mà mình chỉ xem đó là động lực để tu hành thôi, cố gắng tu cho đúng là được. Bài kinh này đức Phật nói nhiều lần lắm, đây là đoạn trích đầy đủ. Đoạn sau cũng nói vậy thôi, Thiện Trang đọc nhanh.
Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo sống chú tâm tu tập, dầu cho vị ấy không khởi lên ý muốn: “Mong rằng tâm ta được giải thoát khỏi các Lậu hoặc không có chấp thủ”; tuy vậy, tâm vị ấy vẫn được giải thoát khỏi các Lậu hoặc, không có chấp thủ.
Vì cớ sao? Phải nói rằng vì vị ấy có tu tập. Tu tập cái gì? (Tu tập những gì?) Có tu tập Bốn niệm xứ… (tức là tu tập 37 Phẩm trợ đạo, cuối cùng là) có tu tập Thánh đạo tám ngành.
Ví như, này các Tỷ-kheo (ở đây đưa ra một ví dụ nữa, quý vị nghe thêm một ví dụ), một người thợ nề hay đệ tử người thợ nề, khi nhìn vào cán búa, thấy dấu các ngón tay và dấu ngón tay cái. Người ấy không thể biết được như sau: “Hôm nay từng ấy cán búa của ta bị hao mòn, hôm qua từng ấy, các ngày khác từng ấy”. Nhưng người ấy biết được cán búa bị hao mòn trên sự hao mòn của cán búa.
Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo chú tâm trong sự tu tập không có biết như sau: “Hôm nay từng ấy Lậu hoặc của ta được đoạn tận, hôm qua từng ấy, các ngày khác từng ấy”. Nhưng vị ấy biết được các Lậu hoặc được đoạn tận trên sự đoạn tận các Lậu hoặc.
Quý vị chắc nghe không hiểu, Thiện Trang xin giải thích lại, đặc biệt [người] ram hơi yếu chút là tải không hết đoạn khoảng 30 giây, một phút vừa rồi. Có một người làm thợ nề, chúng ta có thể nói là người thợ mà lấy búa đập (rèn đó), người thợ đó không biết hôm qua cán búa bị mòn bao nhiêu, ngày nay mòn bao nhiêu, ngày mai mòn bao nhiêu, nhưng họ biết là bị mòn. Không biết bị mòn bao nhiêu, nhưng chắc chắn thấy bị mòn là biết. Cũng vậy, việc tu tập, mình không biết hôm qua mình đoạn bao nhiêu Phiền não rồi, hôm nay đoạn bao nhiêu Phiền não rồi, nhưng chắc chắn mình đang tu tập đúng, thì các Phiền não từ từ rớt xuống, rớt xuống, bớt, bớt… Đức Phật nói đơn giản vậy thôi.
Nói đơn giản, mình lấy nước vào hồ lớn, mình không biết ngày hôm qua lấy bao nhiêu, ngày hôm nay lấy bao nhiêu, nhưng mình biết nước dâng lên lần, hồ bên cạnh cạn dần, cạn dần. Mình biết hồ đó cạn hoài, bao giờ hết nước trong hồ là xong, giống như mình hết Phiền não. Cũng vậy, cứ tu tập đúng đi, Phiền não cứ theo ngày theo ngày bớt, bớt, bớt đủ rồi là đắc đạo giải thoát. Tùy theo quả vị mà cứ từng bước, từng bước mình đắc, nói ví dụ đơn giản như vậy. Đức Phật lấy thêm một ví dụ nữa:
Ví như, này các Tỷ-kheo, một chiếc thuyền đi biển, có đầy đủ cột buồm và dây buồm bị mắc cạn sáu tháng do thiếu nước trong mùa đông, các cột buồm và dây buồm bị gió và mặt trời làm hư hỏng. Rồi bị nước mưa đổ xuống trong mùa mưa, chúng bị hư dần và mục nát một cách dễ dàng.
Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo sống chú tâm trong sự tu tập, các Kiết sử rất dễ bị yếu dần và mục nát.
Ví dụ này càng dễ nhớ hơn nữa, quý vị thấy đức Phật đưa ra ví dụ này quá hay. Tức là có một chiếc thuyền đi biển, nhưng bây giờ bị mắc cạn sáu tháng do thiếu nước của mùa đông, nên các cột buồm và dây buồm bị gió và sức nóng của mặt trời làm cho bị hư hỏng dần rồi. Sự hư hỏng này là theo ngày tháng đúng không? Gió thổi chút, mặt trời nóng một chút, mỗi ngày mục một chút vậy đó. Rồi gió thổi lay qua lay lại, rồi tới mùa mưa nước mưa xuống nữa, là bắt đầu nó cứ hư, hư… Nó hư mình không thấy rõ ràng, nhưng nó hư từ từ.
Cũng vậy đó, sự tu tập, các Kiết sử tức là các Phiền não của mình, mười Kiết sử: Năm Thượng phần Kiết sử, Năm Hạ phần Kiết sử: Thân kiến, Giới cấm thủ, Nghi, Tham và Sân; Sắc ái kiết, Vô sắc Ái kiết, Mạn kiết, Phóng dật kiết và Vô minh kiết. Mười Kiết sử đó cứ theo sự tu tập mà yếu dần, mỏng dần, nhạt dần, cuối cùng mục nát, rồi tan lúc nào là thành công, là chứng quả giải thoát. Cũng vậy đó, đức Phật đưa ra những ví dụ này rất là dễ nhớ.
Cho nên cứ kiên trì tu tập đi, năm tháng rồi đến ngày nào đó [sẽ được], chứ không phải tự nhiên mà được đâu. Tự nhiên đùng một cái [mà đắc] thì chắc là quý vị tu nhiều đời lắm rồi đó. Còn bây giờ mình tu cứ từ từ theo năm tháng, ráng chú tâm trong sự tu tập, tu tập gì? Tu tập 37 Phẩm trợ đạo. Đức Phật nói rõ rồi, chứ không phải tu tập pháp khác.
(Kinh (7.71) Tu Tập: Bhāvanā – Kinh Tăng Chi Bộ).
Quý vị thấy những lời này đức Phật dạy rất đơn giản, rất dễ hiểu đúng không ạ? Chúng ta học dễ hơn rất nhiều.
Hôm nay chúng ta vào phần tiếp theo, đó là phần về Vi Diệu Pháp hay là Thắng Pháp, có khi gọi là A Tỳ Đàm. Hôm bữa cho quý vị bài tập không biết quý vị có thấy không? Thiện Trang để trên bình luận, bây giờ chúng ta sửa bài tập này.
BTVN: Một người Phật tử khi ngủ mơ thấy một cảnh đẹp là mình đã chứng quả vị Thánh, sau khi thức dậy tiếc nuối vì cảnh giấc mơ ấy đã hết.
(1) Vậy tâm lúc đó của vị đó là tâm gì?
(2) Sau đó vị ấy nghĩ lại, đó chỉ là giấc mơ thôi, mình phải cố gắng tu hành thì mới đạt được quả vị ấy. Đó là tâm gì?
(3) Rồi người ấy thấy cảnh một vị xuất gia khất thực trên đường đi ngang qua nhà mình, vị ấy thấy hoan hỉ. Tâm ấy là Tâm gì?
Quý vị nào làm sẵn rồi thì cho đáp án, Thiện Trang làm luôn. Chúng ta học cũng khá nhiều tâm rồi đó, hình như học hết Tâm dục giới, còn mỗi tâm của A-la-hán thôi. Mình ở cảnh Dục là mình biết tâm như thế nào.
Ở đây một người Phật tử khi ngủ mơ thấy một cảnh đẹp là mình đã chứng quả vị Thánh (mơ cũng thấy ngon đó), nhưng sau khi thức dậy thấy tiếc nuối vì cảnh giấc mơ đó đã hết rồi, vì mình đâu có chứng quả đâu. Thật tế mình biết vậy cho nên tiếc nuối. Vậy tâm lúc đó của vị đó là tâm gì?
Để xét tâm gì thì chúng ta phải ôn lại một chút về tâm, ở Dục giới thì chúng ta có 12 Tâm bất thiện, gồm: 8 Tâm tham, 2 Tâm sân và 2 Tâm si. Có 8 Tâm đại thiện. Tương tự, cũng có 8 Tâm quả thiện. Mình học được bấy nhiêu đó chứ mấy, còn mấy tâm kia nữa, như 8 Tâm quả thiện Vô nhân và 7 Tâm quả Bất thiện Vô nhân. Chúng ta học được bao nhiêu đó, còn học thêm Tâm sinh tiếu… Tâm đó thì chắc không dùng ở đây.
Đầu tiên để xác định tâm đó là gì, thì dễ nhất là quý vị xác định thọ trước. Trường hợp thứ nhất là thọ gì? Chúng ta thấy tiếc nuối có thể là tâm tiếc, bữa nay đổi chữ ‘tiếc nuối’ là tâm gì? Tiếc nuối là mình cảm thấy như thế nào? Mình phải xác định chữ ‘tiếc nuối’ là thế nào, chữ đó là quan trọng nhất, vì giấc mơ đó đã hết rồi. Ở đây có một số người đưa ra là Tâm tham, có ai đưa ra tâm nào khác không?
Có người đưa ra Tâm tham thọ xả, ly tà kiến, vô trợ. Có người nói Tâm tham thọ hỉ, ly tà, vô trợ. Có ai đưa ra tâm khác nữa không? Quý vị nghĩ tiếc nuối là tham hay là sân? Là cảm giác khó chịu hay dễ chịu? Sân thì thọ ưu, còn tham thì thọ hỉ hoặc thọ xả, mình phân biệt như vậy. Tất nhiên tiếc nuối là bất thiện rồi, không thể nào là Tâm thiện được, nên bây giờ chỉ có tham, sân, si thôi. Si cũng là thọ xả đúng không? Nhưng ở đây tiếc nuối là khó chịu, khó chịu là Tâm sân. Cho nên bay vô Tâm sân rồi, chẳng có chạy đi đâu được hết. Sân là thọ ưu, tại khó chịu mà!
Rồi bây giờ mình đọc coi là hữu trợ hay vô trợ? Chỗ này cũng không rõ lắm, chỉ nói là ngủ mơ thức dậy là hết cảnh. Nếu người ta suy nghĩ một chút rồi mới thấy tiếc nuối thì là hữu trợ. [Nhưng] ở đây là thấy tiếc nuối liền, nếu không nói vậy mà tiếc nuối liền luôn là vô trợ. [Đáp án ] (1) là Tâm sân thọ ưu, hợp phẫn nộ, vô trợ.
(2) Sau đó vị ấy nghĩ lại, đó chỉ là giấc mơ thôi, mình phải cố gắng tu hành thì mới đạt được quả vị ấy. Đó là tâm gì? [Ví dụ] này dễ hơn rất nhiều đúng không? Suy nghĩ lại, đó là giấc mơ thôi, cũng biết rồi, mình phải cố gắng tu hành mới đạt được quả vị ấy. Tức là tâm này tốt, Tâm đại thiện chắc chắn rồi. Tâm đại thiện cũng xét trên ba điều: Thọ thì có thọ hỷ và thọ xả, rồi xét trên ly trí hay hợp trí, và có trợ hay vô trợ. Xác định như vậy. [Vậy đây] là Tâm đại thiện rồi, bây giờ là thọ gì đây? Ở đây không có nói gì hết, người ta chỉ suy nghĩ lại đây là giấc mơ thôi, đâu thấy hoan hỉ gì đâu, [nên] là thọ xả chắc rồi. Có hợp trí không? Có! Bởi vì họ nghĩ đó chỉ là giấc mơ thôi, thì xác định chính xác cảnh rồi, là đủ để biết hợp trí rồi. Ở đây, họ còn nghĩ là mình phải cố gắng tu hành để đạt được quả vị ấy thì quá tốt rồi. Đó là hợp trí. Bây giờ còn hữu trợ hay vô trợ thôi. [Trường hợp] này là hữu trợ, vì vị ấy suy nghĩ lại, có suy nghĩ một chút. [Đáp án] (2) là Tâm đại thiện, thọ xả, hợp trí, hữu trợ.
(3) Rồi người ấy thấy cảnh một vị xuất gia khất thực trên đường đi ngang qua nhà mình, vị ấy thấy hoan hỉ. Tâm ấy là Tâm gì? Bắt đầu thấy khó hơn đúng không? Hoan hỷ là thọ hỉ rồi đó, thọ hỷ thì tâm gì? Bây giờ là Tâm thiện hay không thiện? Chắc chắn là thiện rồi đúng không? Nhưng thiện nào? Có nhiều thiện lắm. Có 8 Tâm đại thiện, rồi 8 Tâm quả thiện nữa. Ở đây chúng ta coi là Tâm đại thiện hay tâm gì? Có hoan hỷ thôi, không nói gì hết, chấm dứt ở đây. Nếu mình suy diễn thì mình cho là Tâm đại thiện, nhưng đây họ hoan hỉ rồi im re, không có nghĩ gì hết, thì đó là Tâm đại quả thiện, rồi Tâm đại thiện. Vì họ không có suy nghĩ gì hết. Rồi hợp trí hay không hợp trí? [Ở đây] thấy cảnh tốt, thấy cảnh người xuất gia, rõ ràng là hợp trí, không thể nào là ly trí được, bởi vì điều này là đối với pháp, Tam Bảo mà. [Đáp án (3) là] Tâm đại thiện [trước đó là Tâm đại quả], thọ hỉ, hợp trí, vô trợ. Quý vị cho là hữu trợ cũng được, tại vì không rõ cảnh, theo Thiện Trang là như vậy. Quý vị có thể cho kết quả nào thuyết phục hơn thì quý vị nói nha.
Đó là bài tập hôm bữa, lâu lâu chúng ta cứ cho bài tập như vậy thì quý vị nhớ hơn. Bây giờ chúng ta tới phần C2.
C2.Tâm đại tố (mahākiriya citta)
Trong phần Tâm dục giới, chúng ta còn Tâm đại tố nữa. Hôm bữa mình có 8 Tâm đại thiện, 8 Tâm đại quả, bây giờ còn 8 Tâm đại tố nữa. Chúng ta hiểu đó là Tâm thiện hết, bỏ đi chữ [‘thiện’] tại vì nó nằm trong mục Dục giới Tịnh hảo rồi.
C2.1.Định nghĩa: Tâm đại tố hay Đại hành hay Đại duy tác (mahākiriyācitta) là tâm tợ như Tâm đại thiện, nhưng chỉ phát sanh trong cơ tánh của bậc A-la-hán, không còn để nghiệp nhân trợ tạo ra quả, chẳng sai khiến làm việc phước như Tâm đại thiện, nên gọi là Tâm đại tố.
Thật ra Tâm đại tố này giống y hệt Tâm đại thiện. 8 Tâm đại thiện như thế nào thì 8 Tâm đại tố y chang như vậy, nhưng khác nhau ở chỗ: 8 Tâm đại thiện là ở bậc phàm phu (là bậc Hữu học, tức là Tam quả A-na-hàm trở xuống), còn bậc A-la-hán trở lên tức là A-la-hán, Bích-chi-phật và Phật thì các ngài vẫn làm việc thiện, nhưng các ngài làm bằng 8 Tâm đại tố. Tố gọi là tác, tức là làm việc. 8 tâm này làm việc mà không tạo ra quả gì nữa, bởi vì A-la-hán hết quả rồi, A-la-hán hết luân hồi rồi, nên gọi là Tâm đại tố. Tức là tâm này chỉ làm việc thôi. A-la-hán vẫn sống như bình thường, vẫn làm việc, quý vị không thể nói A-la-hán không làm việc được. Phật cũng làm việc, Phật cũng dùng tâm này, Bích-chi-phật cũng dùng tâm này, khi nào chứng quả rồi thì như thế. Cho nên cách học y chang như 8 Tâm đại thiện, quý vị nhớ 8 Tâm đại thiện là được.
C2.2.Phân loại: Tám tâm Đại tố được gọi cùng một cách như 8 Tâm đại thiện (mahākusala).
| TT | Thọ | Trí | Trợ |
| 1 | Hỷ | Hợp trí | Không trợ |
| 2 | Hỷ | Hợp trí | Có trợ |
| 3 | Hỷ | Ly trí | Không trợ |
| 4 | Hỷ | Ly trí | Có trợ |
| 5 | Xả | Hợp trí | Không trợ |
| 6 | Xả | Hợp trí | Có trợ |
| 7 | Xả | Ly trí | Không trợ |
| 8 | Xả | Ly trí | Có trợ |
Có 8 tâm thì chia ra 3 loại: Thọ, trí và trợ. Thọ, có 2 thọ: Thọ hỷ và thọ xả. Trí có: Hợp trí và ly trí. Trợ: Có trợ và vô trợ. Bảng này y hệt bảng hôm trước. Nhưng giờ quý vị thấy, sao A-la-hán còn có hợp trí hay ly trí nữa? A-la-hán cũng có hợp trí hay ly trí đó, mình học rồi, mình mới hiểu. Mặc dù có những cái như vậy, nhưng không phải lúc nào cũng hợp trí đâu. A-la-hán cũng làm việc một cách bình thường, có những lúc không có hợp trí, nhưng các ngài là chánh niệm, tỉnh giác. Sự chánh niệm, tỉnh giác của các ngài là chính xác. Mình không học điều này thì mình cứ tưởng A-la-hán hơn mình, lúc nào cũng làm hợp trí. Không phải! Cho nên có 8 tâm như thế này: 1. Tâm đại tố, thọ hỷ, hợp trí, vô trợ; 2. Tâm đại tố, thọ hỷ, hợp trí, hữu trợ; 3. Tâm đại tố, thọ hỷ, ly trí, vô trợ. [4;5;6;7;8] tương tự như thế.
Bây giờ Thiện Trang cho ví dụ, quý vị làm bài tập cho vui nha.
Ví dụ 1: Một vị A-la-hán hoan hỉ giảng Pháp cho thính chúng nghe mà không cần có suy tính có phù hợp thời điểm hay không? Đó là tâm gì?
[Ví dụ] này rất đơn giản đúng không quý vị? Thật ra là A-la-hán nhiều khi chỉ giảng pháp thôi, không tính coi có phù hợp với thời điểm không. [Ngài] giảng nghiễn, cứ thế mà giảng thôi, hoan hỉ, vui vẻ giảng, không suy tính gì hết. Vậy thì đó là tâm gì? Quý vị thử làm đi nha.
[Ví dụ] này không thể là Tâm đại thiện được, A-la-hán phải là Tâm đại tố. Giống như Tâm đại thiện, nhưng giờ đổi chữ ‘đại thiện’ thành ‘đại tố’, vì bậc A-la-hán không thể nào là Tâm đại thiện được, chắc chắn là Tâm đại tố. Bây giờ quý vị xác định là hợp trí hay ly trí, hữu trợ hay vô trợ thôi.
Cho nên cách học, cách chia của Thiện Trang rất dễ, quý vị cũng dễ nắm được. Đây là Tâm đại tố chắc chắn rồi, vì bậc A-la-hán, không thể nào là Tâm đại thiện được. Tâm đại thiện là tạo nghiệp thiện, mai mốt còn luân hồi nữa. Còn A-la-hán hết luân hồi rồi, nên đó là Tâm đại tố. Ở đây có chữ ‘hoan hỉ’ nên là thọ hỷ rồi, không cần suy xét.
Bây giờ là có trí hay ly trí? Người thì chọn ly trí người thì chọn hợp trí. Ở đây có chữ không suy tính, có người sẽ chụp vào chữ giảng pháp, giảng pháp thì phải có trí chứ sao lại không có trí? Nhưng [đằng sao có chữ] là ‘không cần suy tính’ phù hợp hay không? Thế là bắt đầu phân vân. Nếu không có dòng đằng sau, mà chỉ có giảng pháp thôi, thì chắc chắn là hợp trí rồi. Giảng pháp thì phải hợp trí, chứ làm sao ly trí được. Nhưng ở đây là mới bắt đầu hành động thôi, không cần suy tính có phù hợp hay không, thì đó rõ ràng là không xài trí, tức là ly trí chắc rồi. Tại vì phải quan sát có [nên] giảng hay không chứ. Đó là ly trí. Và cũng không có trợ gì hết, nên là vô trợ.
Quý vị nắm được điều này thì quý vị đưa qua 8 Tâm đại thiện, cũng tương tự vậy thôi. Bữa sau chúng ta cho tổng hợp vài bài tập để quý vị làm, sẽ thấy hấp dẫn hơn.
Ví dụ 2: Một vị A-la-hán nhận cúng dường thức ăn thêm vào bát của một người gia chủ mà tâm ngài bình thường và hơi miễn cưỡng vì để tăng phước cho thí chủ đó. Ấy là tâm gì?
Tức là ngài đang nhận cúng dường, thấy đủ rồi nhưng giờ người ta cho thêm. Ngài thì không tham rồi, A-la-hán mà, ngài cũng nhận bình thường thôi nhưng hơi miễn cưỡng. Thật ra ngài không muốn nhận thêm, nhưng giờ người ta cho rồi nên nghĩ là nhận thêm cho thí chủ đó thêm phước. Đó là tâm gì? Quý vị xác định được đúng là quý vị giỏi rồi. A-la-hán thì chắc chắn là Tâm đại tố rồi. Đáp án là Tâm đại tố. Còn ai mà [trả lời là] Tâm đại thiện là chưa hiểu thôi. Đại tố cũng giống Đại thiện, xét về thọ, xét về trí và xét về trợ.
Ở đây làm nhanh, chúng ta phân tích luôn nha! [Xét về] thọ trước. Tâm ngài ấy bình thường và hơi miễn cưỡng. Bình thường là thọ xả. A-la-hán rồi thì không có sân đâu, [chỉ có] hơi miễn cưỡng. [Quý vị nghĩ] miễn cưỡng đôi khi là sân? Không phải! [Vì] A-la-hán không có sân, [nhưng] không có vui được, [mà] hơi miễn cưỡng, [nên] là thọ xả. Có hợp trí không? Có! Vì mục đích là tăng phước cho thí chủ đó, nên tâm này là Tâm hợp trí rõ ràng. Bởi vì mình nghĩ việc làm đó giúp phước cho chúng sanh, nên là hợp trí.
Bây giờ quý vị biết làm sao để có hợp trí chưa? Tức là hành động nào mà quý vị nghĩ cho chúng sanh, nghĩ cho có phước, nghĩ những điều gì có liên quan đến đó là hợp trí. Bữa nay là phân biệt rõ rồi đó. Từ ví dụ này, mình biết làm sao để hợp trí. Mình [chỉ] cúng dường một cách mơ mơ màng màng thôi, mình thấy người ta cúng, mình cũng đưa cúng thôi, lúc đó thậm chí mình đang nghĩ đến chuyện khác nữa, thì tâm đó không có hợp trí được. Thọ xả mà ly trí luôn.
Cho nên làm việc gì, [hay] nhận cúng dường thôi, vẫn có thể tạo ra tâm hợp trí. Nếu mình là phàm phu, [thì] mình là Tâm đại thiện. Còn ngài là A-la-hán rồi cho nên là Tâm đại tố. Ở đây có trợ hay không có trợ? Chắc quý vị nói là có trợ. Vì rõ ràng hơi miễn cưỡng, người ta cúng, thật ra không muốn nhận đâu, nhưng có suy xét chút rồi cũng nhận, cho nên là hữu trợ (hay có trợ). Như vậy là rõ ràng đúng không ạ? Quý vị [giải được] là giỏi quá rồi.
Đáp án : Đó là Tâm đại tố, thọ xả, hợp trí, hữu trợ.
Ví dụ 3: Một vị A-la-hán đang ngồi may y bình thản thì người thí chủ cúng dường một chai nước, ngài ấy lúc đầu không nhận, nhưng vị thí chủ vẫn thỉnh thêm 2 lần nữa, cuối cùng, ngài ấy bình thản tiếp nhận chai nước ấy. Đó là tâm gì?
[Tình huống này] khó hơn, vì tình huống nhiễu nhiều hơn thôi, chứ cũng không khó đâu.
Một vị A-la-hán đang ngồi may y bình thản, thì người thí chủ cúng dường một chai nước. Ngài ấy lúc đầu không nhận, ví dụ ra hiệu đưa tay, không muốn nhận. Nhưng [vị] thí chủ vẫn thỉnh hai lần nữa: Cho con cúng dường chai nước, cho con cúng dường chai nước, như vậy là ba lần. Trong nhà Phật thỉnh tới ba lần là hết cỡ, không có thỉnh tới lần thứ tư, ba lần thì nhận thôi. Cuối cùng ngài ấy vẫn bình thản tiếp nhận, tại vì ngài đâu có tham gì đâu, [mà] bình thản. A-la-hán thì dễ rồi, đó là Tâm đại tố. A-la-hán thì chắc chắn là [Tâm] đại tố rồi, đừng có [chạy] qua [Tâm] đại thiện. Hai tâm đó giống nhau, nhưng A-la-hán là Tâm đại tố hay là Tâm duy tác. Có tài liệu [nói] Tâm duy tác là chỉ làm việc thôi, không có quả gì hết, không có tạo ra Tâm đầu thai, không có tạo ra nghiệp nữa. Cho nên gọi là Tâm đại tố hay gọi là Tâm duy tác.
Bây giờ xác định thọ. Quá dễ! Ngài ấy bình thản, bình thản là thọ xả, đâu có hoan hỷ đâu. Có trí hay không? Ngài bình thản, chỉ tiếp nhận thôi, không có suy nghĩ gì hết, cho nên không có hợp trí mà ly trí. Và điều này chắc chắn là có trợ, bởi vì đẩy tới đẩy lui thì chắc chắn là có trợ rồi, không có dứt khoát nên là hữu trợ.
Ai mà đưa ra đáp án đúng là hiểu rồi đó. Không hiểu thì từ từ buổi sau cho thêm vài ví dụ nữa, làm vài lần là [hiểu]. Học càng nhiều thì mình cho nhiều tâm, buổi sau kết hợp Tâm thiền, tâm chứng quả Thánh nữa. Mình cho một loạt tâm vô đó là nắm hết. Chúng ta đã xong ví dụ này.
Đáp án: Tâm đại tố, thọ xả, ly trí, hữu trợ.
Đây là [chúng ta học] hết luôn Tâm đại tố, chỉ có vậy thôi, cũng giống [Tâm đại thiện]. Bây giờ chúng ta học được bao nhiêu tâm rồi? Ôn lại chút! Ở đây Thiện Trang có bảng rồi. Chúng ta học Tâm dục giới, có 18 Tâm dục giới Vô nhân, 12 Tâm bất thiện, 24 Tâm dục giới Tịnh hảo, [tổng] là 54 Tâm dục giới đã học xong. Cho nên ở đây Thiện Trang đã chia ra bảng này rồi, mà không để ý, lo để ý ở trên thôi.
| 121 Tâm: được phân chia theo các cách | ||
| Cách 1: Chia theo cõi | ||
| 1.Tâm dục giới (54) | là những tâm chuyên môn biết cảnh dục và hay nương người Dục giới. | Gồm 11 cõi |
| 2.Tâm sắc giới (15) | là những tâm chỉ biết cảnh đề mục còn hình thức và thường nương người sắc giới. | Gồm 16 cõi |
| 3.Tâm vô Sắc giới | là những tâm biết cảnh trong đời mà không còn hình thức, thường nương người Vô sắc giới. | Gồm 4 cõi |
| 4.Tâm siêu thế | là những tâm biết cảnh Niết-bàn. | |
121 tâm được phân chia theo các cách. Bảng này hôm bữa đưa ra rồi, chia theo các cõi thì Tâm dục giới có 54 tâm, chúng ta đã học rồi. Quý vị nhớ có Tâm sinh tiếu là tâm của A-la-hán và 8 Tâm [đại tố], A-la-hán có 9 tâm, mình thì không có rồi. Mình chưa thành A-la-hán được cho nên mình không có. Có 9 tâm rồi, còn 45 tâm nữa thôi. Thật ra là mình [có] 45 tâm, mình học rồi, tâm này là Tâm dục giới.
Bữa nay chúng ta sẽ vào học Tâm sắc giới. Tâm sắc giới là ở cõi Thiền đó quý vị, thì có 15 tâm. Hôm bữa là mình đã học Tâm dục giới là những tâm chuyên môn biết cảnh Dục giới và hay nương người Dục giới. Còn Tâm sắc giới là những tâm chỉ biết cảnh đề mục còn hình thức (là còn hình sắc) và thường nương người Sắc giới. Tại sao [lại] thường nương? Bởi vì có một cảnh Sắc giới mà không có tâm, đó là cảnh gì? Quý vị học bài chín nơi cư trú của Thần thức, có một cõi không có tâm, đó là cõi trời Vô Tưởng. Mặc dù cũng thuộc Sắc giới, tại vì họ có thân nhưng giống như pho tượng thôi. Đó là cõi trời Vô Tưởng, không có tâm nha!
Bữa nay chúng ta học ở đây, rồi sau đó chúng ta học thêm Tâm vô Sắc giới, rồi học Tâm siêu thế. Tâm siêu thế là bắt đầu chứng quả, là những tâm biết cảnh Niết-Bàn. Định nghĩa này rất rõ ràng, Thiện Trang xin nhắc lại:‘Tâm vô Sắc giới là tâm biết cảnh trong đời thường mà không còn hình thức, thường nương người Vô sắc giới’. Thật ra mình tu vẫn có những tâm này chứ không phải không có. Nhập Thiền đó quý vị, có Thiền là có.
Hôm nay chúng ta vào học vào Tâm sắc giới. Tâm này cũng dễ thôi.
2. Tâm sắc giới (Rūpāvacara citta)
Định nghĩa: (Tâm thường dạo ở cõi Sắc). (Định nghĩa này cũng dễ hiểu. Dạo tức là sao? Giống như mình nhập Thiền, khi mình tu Thiền chỉ, thì khi đó mình nhập vào định của Sắc giới, lúc đó mình đi dạo chơi trên đó thì cũng gọi là dạo cõi Sắc giới. Hoặc là mình sống ở trên đó luôn, sau khi quý vị hết đời này, quý vị đắc Thiền thì quý vị lên cõi Sắc giới sống, gọi là dạo cõi Sắc giới. Hoặc là các bậc Thánh quả, các ngài đã chứng quả rồi, nhưng các ngài cũng có thể nhập định các tầng Thiền, cũng gọi là dạo cõi Sắc. Lúc đó dùng tâm đó gọi là Tâm sắc giới, chúng ta sẽ hiểu được như vậy). Gọi là Tâm sắc giới bởi vì tất cả 15 tâm này phần lớn du hành sanh trong cõi “vật sắc” và “phiền não sắc”. (Đây là định nghĩa của Vi Diệu Pháp, hơi khó hiểu. Du hành là đi chơi trong đó, sanh trong cõi “vật sắc” và “phiền não sắc”. Bây giờ thế nào “vật sắc” và “phiền não sắc”?) “Vật sắc” đó là 15 Tâm sắc giới, 35 Tâm sở (tức là khi ở trong 15 Tâm sắc giới này thì thật ra là 35 Tâm sở thôi. 35 Tâm sở này Thiện Trang có ghi là:)
*35 Tâm sở ở đây gồm: 13 Tâm sở Tợ tha + 19 Tâm sở Tịnh hảo + 3 Tâm sở thuộc Chi thiền đặc thù (jhānanga): Hỷ (pīti), Lạc (sukha), Nhất tâm (ekaggatā). Thật ra quý vị coi lại điều đó trong Tâm thiền. Tu để vô Thiền sắc giới, thật ra sử dụng chỉ có 35 Tâm sở thôi, có Hỷ, Lạc, Nhất tâm.
Trong đó Tầm và Tứ [thì] được tính trong 6 Tâm sở Biệt cảnh ở trên; Nhất tâm thì vốn có trong Tâm sở Biến hành (là Tâm sở Nhất hành đó quý vị), nhưng khi tính như Chi thiền thì người ta vẫn nhắc lại cho đủ năm Chi thiền. Trong tống số 35, ta chỉ đếm một lần cho mỗi Tâm sở, nhưng nói đến Chi thiền thì vẫn kể tách ra để giải thích tu tập. Nói chung, sau này chúng ta sẽ có bài là trong tâm nào xài (đi cùng) những Tâm sở nào. Khó hơn! Nhưng bây giờ mình tạm hiểu như vậy.
Đó là “Vật sắc”, là 15 Tâm sắc giới và 35 Tâm sở.
“Phiền não sắc” là Sắc ái (Sắc ái kiết), tức vừa lòng trong Thiền sắc, Thần thông, cõi Sắc.
[Đây] vẫn gọi là Phiền não nha quý vị. Mình tưởng mình tu giải thoát đắc Thần thông, mình tưởng ngon lắm. Mình đắc Thiền sắc giới tức là nhập các tầng Thiền tưởng ngon, nhưng mình thấy sự vừa lòng, là ưa thích. Ở đây tại sao không dùng chữ ưa thích mà chỉ dùng chữ vừa lòng? Tại vì tu tới đây rồi, thì tâm mình không có mạnh mẽ nữa. Ví dụ quý vị nhập Thiền, thật ra thấy vui vui, ưa thích, vừa lòng thôi, chứ đâu có ham giống như cõi Dục đâu. Cõi Dục là lòng dục mạnh mẽ lắm. Còn Thiền nhẹ nhàng, cho nên gọi là vừa lòng. [Sự] vừa lòng đó thì trong Thiền có và trong Thần thông có, đó là rớt vô Phiền não sắc. Cho nên Phiền não sắc nhẹ hơn rất nhiều so với Phiền não ở cõi Dục giới. [Ở Dục giới] thì tham, sân mạnh cực kỳ. Còn Phiền não này [ở cõi Sắc] thì nhẹ.
*Có chú giải rằng:
– Cõi nào là nơi sanh của vật sắc và phiền não sắc (Vật sắc và Phiền não sắc có định nghĩa rồi nha) thì cõi ấy gọi là sắc, đó là 16 cõi Sắc.
– Tâm nào du hành sanh trong cõi mà phiền não sắc và vật sắc thì tâm ấy gọi là Tâm sắc giới.
– Thường du hành, hành động, lưu động trong 15 cõi Sắc giới Hữu tâm, nên gọi là Tâm sắc giới. (Bỏ đi một tầng là trời Vô Tưởng thì còn 15 thôi).
Chắc quý vị cũng nhớ mấy tầng trời này đúng không ạ? Thiện Trang nhắc lại cho quý vị nhớ, cách nhớ dễ lắm. Sơ Thiền có mấy tầng? Nói theo Kinh tạng cho dễ, chứ nói theo Vi Diệu Pháp thì không biết Sơ thiền có mấy tầng. Tại vì nói theo Kinh tạng là 4 tầng Thiền thôi, nhưng chút nữa mà nói 5 tầng Thiền là không biết chỗ nào luôn. 4 tầng Thiền là theo Kinh tạng, còn theo Vi Diệu Pháp là 5 tầng Thiền.
4 tầng Thiền, thì Sơ thiền có 3 tầng trời, nhưng thật tế có một tầng trời thôi: Trời Phạm Chúng, trời Phạm Phụ và trời Đại Phạm. Trời Phạm Chúng giống như chúng bình thường lên làm dân thôi. Phạm phụ là lên làm quan rồi đó, còn vua là trời Đại Phạm. Sơ thiền là chữ Phạm.
Nhị thiền thì lấy chữ ‘Quang’, có 3 chữ Quang. Cũng vậy, là trời Thiểu Quang, thiểu là ánh sáng ít ít. Trời Vô Lượng Quang là rất nhiều ánh sáng. Có [tầng trời ánh sáng] nhiều hơn nữa gọi là Cực Quang. Quý vị nhớ chữ Cực Quang dễ hơn chữ Quang Âm. Quang Âm cũng là trời Cực Quang thôi, Cực Quang hay Quang Âm đều được, nhưng mình nhớ chữ Cực Quang dễ hơn Quang Âm, tại vì có liên quan ở trên. Có khi gọi là trời Biến Quang; Biến Quang là nhiều ánh sáng hơn cả Vô Lượng Quang. Cho nên ba tầng trời Nhị thiền là chữ ‘Quang’.
Ba tầng trời Tam thiền là dùng chữ ‘Tịnh’. Cũng vậy, ghép chữ Thiểu vô, [là] trời Thiểu Tịnh, trời Vô Lượng Tịnh và trời Biến Tịnh là xong. Tức là cứ ghép chữ như vậy là nhớ được rồi. Vô trời Thiểu Tịnh là mới thanh tịnh một cách ít ít thôi, tại vì thiền thì cũng thanh tịnh rồi, nhưng chưa đủ sâu. Trời tịnh được nhiều hơn thì gọi là Vô Lượng Tịnh. Rồi tịnh được nhiều hơn nữa thì gọi là trời Cực Tịnh hay là trời Biến Tịnh. Chúng ta cứ nhớ vậy.
Còn Tứ thiền thì phức tạp hơn, Tứ thiền thì ai mà thuộc Kinh Địa Tạng thì mệt nữa. Thôi, mình bỏ Kinh Địa Tạng qua một bên, mình nói theo bên kinh Nguyên thủy trước đi, đó là trời Quảng Quả. Vô trời Quảng Quả thôi. Trời Quảng Quả là gì? Là đắc Tứ thiền bình thường đó. Còn ai [được] Tứ thiền rồi mà chán quá, không muốn suy nghĩ nữa, nguyện đời sau đừng có suy nghĩ gì hết, thì tái sanh vào trời Vô Tưởng.
Rồi còn có năm tầng trời nữa, gọi là Ngũ Bất Hoàn thiên, là trời Vô Phiền, trời Vô Nhiệt, trời Thiện Kiến, trời Thiện Hiện, và trời Sắc Cứu Cánh. Năm tầng trời đó thì Tam quả A-na-hàm [cộng Tứ thiền] mới vô đó, còn mình là phàm phu, chưa tu tới Tam quả A-na-hàm thì chưa vô được đó.
Cho nên là đó là 7 tầng thôi, nhưng tại sao các bộ kinh chia ra 9 tầng? Là vì đem trời Quảng Quả phân ra làm ba, cũng có khác nhau trong đó. Thật ra ba cũng là một giống như trời Sơ thiền. Tức là lên đó, quý vị có phước báo nhiều thì quý vị lên làm vua, phước báo vừa vừa thì làm quan, còn phước báo yếu nữa thì làm dân. Cho nên là chia tầng trời đó thành ba, gọi là: Trời Phước Sanh, trời Phước Ái và trời Quảng Quả.
Như vậy là quý vị thông cả Nam truyền và Bắc truyền. Như vậy là dễ hiểu rồi ha. Một số kinh đổi tên thành trời Vô Vân, thì cũng không sao, quý vị cứ hiểu là trời Quảng Quả là được rồi. Đó là Thiện Trang đã giới thiệu xong. Quý vị cộng lại là 16 cõi Sắc giới.
Phân loại chung: 15 Tâm thiền Sắc giới chia thành 3 nhóm: 5 Tâm thiện Sắc giới; 5 Tâm quả Sắc giới; 5 Tâm tố Sắc giới.
Cách chia này cũng giống như Tâm đại thiện vậy đó. Đầu tiên là mình có 5 Tâm thiền Sắc giới, nhưng chữ này là Tâm thiện. Tất nhiên là thiền rồi thì mới lên đây, cho nên bỏ chữ thiền đi, gọi là năm Tâm thiện Sắc giới.
Rồi từ 5 Tâm thiện đó sanh ra 5 Tâm quả. Tâm nhân thì sanh ra Tâm quả, là 5 Tâm quả Sắc giới. Và có một bậc là bậc A-la-hán cũng nhập thiền được, nhập thiền bằng tâm gì? Ngài nhập bằng 5 Tâm tố Sắc giới. Hoặc là các ngài lên trên Sắc giới rồi mới chứng A-la-hán. Lúc đó tâm của các ngài là Tâm tố Sắc giới. [Quý vị] cứ nhớ Tâm tố là A-la-hán, là được.
Rồi bây giờ chúng ta vào phần thứ nhất là phần 2A. Tâm thiền thiện Sắc giới.
2A. Tâm thiện Sắc giới (Tâm thiền thiện Sắc giới: Rūpāvacara Kusala citta): Tâm thiền thiện Sắc giới là gọi đầy đủ. Nếu quý vị không nhớ thì quý vị thêm chữ ‘thiền’ vô. Nhưng người ta toàn gọi tắc là Tâm thiện Sắc giới. Tất nhiên ở Sắc giới là có thiền rồi, chứ không thể nào không có thiền được.
2A.1.Định nghĩa: Tâm thiện Sắc giới là những Tâm thiền (jhāna citta) thuộc cõi Sắc (rūpāvacara), mang tính thiện (kusalacitta).
+Đây là những tâm chỉ sanh khởi nơi bậc hành giả tu Thiền định (Thiền sắc giới), khi tâm lìa khỏi dục lạc ngũ trần, trừ được 5 Triền cái (Dục, Sân, Hôn thụy, Trạo hối, Hoài nghi), an trú trên các đề mục Thiền sắc (kasina, bất tịnh, niệm hơi thở, v.v…).
Chúng ta biết 5 Triền cái, là Dục cái, Sân cái, Hôn thụy cái, Trạo hối cái, Hoài nghi cái. Dục là tham dục (phải bỏ được 5 điều ngũ trần) đó; rồi phục được sân, tức là tạm dừng đó; rồi Hôn trầm, Thụy miên tức là buồn ngủ và dạng yếu đuối tâm là rơi vào điều này; rồi tâm Trạo hối là trạo cử và hối hận; và tâm Hoài nghi.
Cho nên ai tu mà không đắc Thiền là do không diệt được5 Triền cái này. Quý vị cứ ham, muốn nhập Thiền, quý vị ham muốn cái này, ham muốn cái kia, là rớt vào Dục cái rồi. Mà lúc bị Dục cái là tâm không có sáng suốt, không được. Không thể nào chứng quả Thánh mà có tâm đó được.
Rồi sân, nếu mình còn có chuyện không hài lòng với điều này, không hài lòng với điều kia, thì đó là sân. Sân với mình là nãy giờ mình ngồi lâu quá mà sao không vô Thiền. Cũng không được!
Rồi Hôn trầm là buồn ngủ. Thụy miên là tâm yếu đuối quá, cứ lờ đờ, lờ đờ. Chưa có ngủ mà nó cứ lờ đờ, lờ đờ. Vậy thì không được.
Rồi Trạo hối: Trạo là trạo cử. Trạo cử là cứ nghĩ lung tung hết, đang nghĩ chuyện này, nghĩ chuyện kia. Còn hối là hối hận: “Biết vậy hồi xưa tôi tu Thiền sớm, tu Thiền có hiệu quả lắm mà bây giờ mới biết”. Quý vị coi thử coi, tu một cái là khỏe lắm, nhập được Thiền mà nhập được Thiền sâu một chút là khỏe người, tỉnh táo, ít buồn ngủ, khỏe được mấy ngày. Nó lâng lâng, dễ chịu đã luôn, mà hồi xưa mình không biết, bây giờ nghĩ đến thấy hối hận, biết vậy hồi xưa tôi nghe lời thầy, tôi tu sớm. Hối hận như vậy thì không được. Hoặc là nhớ đến chuyện nào đó mình chưa làm được, rồi hối hận. Như vậy thì không được, là rớt vào điều này.
Thứ năm là Hoài nghi cái. Hoài nghi tức là nghi ngờ. Nghi ngờ cũng không được. Nghi ngờ chắc mình đầu thai bằng tâm Nhị nhân rồi, chắc không đắc Thiền. Hay là nghi ngờ chắc mình tu sai rồi nên không đắc Thiền. Hoặc là [nghi] không biết pháp này tu có đắc Thiền hay không, hay là thầy Thiện Trang nói vậy thôi, ổng ca ngợi vậy thôi, không biết có đắc không. Thời nay đâu có ai tu Thiền nữa. Nghi ngờ như vậy thì đố mà đắc được.
Rồi còn một nghi ngờ nữa, ai tu Tịnh Độ niệm Phật [thì nghi]: Pháp này làm sao bằng niệm Phật được. Quất vô câu trong Kinh Đại Tập nói: “Một câu niệm Phật là vi diệu thâm diệu Thiền”. Cuối cùng bây giờ mình tra trong Kinh Đại Tập đâu có đâu. Nhưng đang nghi như vậy. Hoặc là câu niệm Phật là đệ nhất gì đó. Rồi! Không vô Thiền được. Chỉ cần có nghi gì đó, phân vân, thì không thể vào Thiền. Tại vì phân vân là không khởi được chi thiền, trong 5 Chi thiền thì không khởi được Tứ. Quý vị không khởi được Tầm, Tứ là rớt ra, làm sao mà thiền được. Cho nên hiểu rồi mới tu. Ai tu chưa được thì coi lại 5 Triền cái nha.
Như vậy đây là những tâm chỉ sanh khởi nơi bậc hành giả tu Thiền định (Thiền Sắc giới). Khi tâm lìa khỏi dục lạc ngũ trần, trừ được 5 Triền cái, an trú trên các đề mục Thiền sắc (kasina (kasina tức là mình tu 10 Biến xứ đó quý vị: Đất, nước, lửa, gió, xanh, vàng đỏ, trắng), bất tịnh, niệm hơi thở…). Những đề mục này thì chúng ta có học hết rồi.
+Nói “cõi Sắc” bởi vì: khi nhập thiền, tâm vẫn còn nương vào sắc pháp vi tế (tại sao gọi là Sắc? Bởi vì nương vào sắc pháp vi tế) (thân ngồi, hơi thở, ánh sáng kasina, …) và đối tượng thiền là sắc tướng.
Tức là để tu điều này thì mình phải nương vào: có thân ngồi, phải có hơi thở, rồi ánh sáng, rồi có nước, lửa, gió, xanh, vàng, đỏ, trắng, toàn là sắc không à. Cho nên khi nhập Thiền, tâm vẫn phải nương vào những [đề mục] đó. Không thể nào nương vào vừa thân thể, vừa tướng sắc. Cho nên gọi là sắc tướng, tại vì cõi Sắc là vậy.
Quý vị thấy giải thích rõ ràng không? Trong Vi Diệu Pháp giải thích điều gì cũng rõ ràng hết. Cho nên Thiện Trang thích học rõ ràng như vậy. Mình là dân khoa học, quý vị biết Thiện Trang là dân Toán mà, Toán thì cái gì cũng phải chặt chẽ, cũng phải logic, chứ không nói mơ hồ. Mấy người nói mơ hồ thì tôi không tin.
Nhưng đúng! Quý vị thấy môn Toán hay lắm, một bài toán đưa ra, mình tưởng là giải như vậy, mình nghĩ có một cách giải thôi, nhưng học trò giải đủ cách. Có năm nào đó, Thiện Trang nhớ đi chấm kỳ thi Tốt nghiệp THPT, người ta cho bài toán dễ ơi là dễ: Viết phương trình đường tròn, đi qua hai điểm, gọi là có đường kính rồi. Dễ ợt như vậy mà học sinh không chịu viết theo cách dễ nhất cho nhanh, mà lại viết theo kiểu khác. Rồi có đứa thì tìm tâm đường tròn nội tiếp, ngoại tiếp, tùm lum, nó chứng minh đủ các kiểu. Tám cách giải. Tức là môn Toán rất hay, dù anh đi kiểu nào, vòng vòng một hồi [mà] logic thì vẫn đạt kết quả thôi. Rất là hay!
Phật pháp cũng vậy! Còn những người do họ không có duyên, họ không biết, nên họ nói nhiều điều mâu thuẫn trước sau, và từ đó sai. Chứ quý vị thấy Phật pháp không bao giờ sai, bởi vì [Phật pháp] logic cực kỳ. Môn Duy Thức (Vi Diệu Pháp) này cực kỳ logic. Thiện Trang là dân học Toán, cho nên Thiện Trang thấy rất thuyết phục. Còn người ta giảng, nhiều khi người giảng không có nền tảng logic, nên giảng nhiều khi tung tung, lang tang, không sắp xếp theo được thứ tự. Và như vậy tu rất khó. Còn đây là Vi Diệu Pháp thì rất rõ ràng.
2A.2. Đặc tính
+ Đối tượng (ārammaṇa): các Đề mục thiền thuộc nhóm “sắc kasina” (mình tu 10 Biến xứ gọi là kasina), hoặc “bất tịnh tưởng”, v.v…
+ Cảnh giới tái sanh: khi chết với tâm này, có thể tái sanh vào 16 tầng Trời Sắc giới. (Nãy Thiện Trang kể rồi đó. Khi chết thì tái sanh vào cõi này, tại sao thì từ từ chúng ta biết).
+Bản chất: là tâm thiện vì:
· Vô tham, vô sân, vô si.
· Kèm theo tín, niệm, tàm, quý…
· Được thúc đẩy bởi chánh tinh tấn và chánh niệm.
Cho nên tâm này là tâm thiện. Quý vị nhớ, tu Thiền là thiện tâm rồi, không chạy đâu hết, không thể bất thiện được. Cho nên quý vị tu vô Thiền là không có tham, không có sân, không có si, cũng sẽ có niềm tin (có Tâm sở Tín đó), rồi có niệm, tàm, quý, và được thúc đẩy bởi chánh tinh tấn và chánh niệm.
Ở đây nói thêm phần phân biệt:
2A.3. Phân biệt:
+Không nên lẫn với Tâm quả Sắc giới (rūpāvacara vipākacitta) (tức là ở đây mình đang học Tâm thiền thiện Sắc giới thôi, còn có Tâm quả nữa) – tức quả báo của Tâm thiện Sắc giới, sanh ra trong cõi Trời Sắc.
+ Cũng không nên lẫn với Tâm tố Sắc giới (rūpāvacara kiriyacitta) — tức các tâm sắc giới chỉ xuất hiện nơi bậc A-la-hán, khi hành thiền nhưng không còn tạo nghiệp.
Ở đây cũng tương tự như trên, có ba loại tâm: Tâm thiện Sắc giới, Tâm quả Sắc giới và Tâm tố Sắc giới.
Bây giờ chúng ta vào phân loại. [Tâm này] có 5 loại tâm thôi, cũng không có khó gì. Năm loại tâm như sau:
| 2A.4.Phân loại: Có 5 Tâm thiện Sắc giới (Tâm thiền thiện Sắc giới) như sau | |
| Thứ tự | Chi thiền đi cùng |
| 1 | Tầm, Tứ, Hỷ, Lạc, Nhất Tâm. |
| 2 | Tứ, Hỷ, Lạc, Nhất Tâm. |
| 3 | Hỷ, Lạc, Nhất Tâm. |
| 4 | Lạc, Nhất Tâm. |
| 5 | Xả, Nhất Tâm. |
Ở đây không có phân chia theo kiểu thọ, rồi ly trí hay hữu trí, trợ hay vô trợ, mà phân chia theo Chi thiền.
Ở Sơ thiền thì có 5 Chi thiền: Tầm, Tứ, Hỷ, Lạc, Nhất tâm (hay có chỗ ghi Định, dùng chữ Nhất tâm dễ phân biệt hơn chữ Định). Còn tới Nhị thiền thì bỏ bớt Tầm đi rồi, còn Tứ, Hỷ, Lạc, Nhất tâm. Tam thiền thì bỏ luôn cả Tầm và Tứ. Đây là Tam thiền của Vi Diệu Pháp nha. Tam thiền này tương đương với Nhị thiền của Kinh tạng, là có Hỷ, Lạc, Nhất tâm. Còn Tứ thiền của Vi Diệu Pháp là Lạc, Nhất tâm. Ngũ thiền của Vi Diệu Pháp tương đương với Tứ thiền của Kinh tạng, là Xả, Nhất tâm.
Ở đây chúng ta cũng nên nói rõ hơn về mấy Chi thiền này một chút, chứ không là quý vị quên hết rồi. Học trước thì quên sau, học sau thì quên trước, học ở giữa thì quên đằng trước đằng sau. Hồi xưa Thiện Trang đi dạy, Thiện Trang hay nói học sinh vậy đó. Tức là học sinh học trước thì quên sau, học sau thì quên trước, học ở giữa thì quên hai đầu, cho nên là quên hết. Chính vì vậy cho nên mình không nhớ.
Ở đây nói về các Chi thiền, thì chúng ta có bao nhiêu Chi thiền? Quý vị nghĩ có bao nhiêu Chi thiền? Nhìn trên bảng thì chúng ta thấy có tất cả là 5 Chi thiền đúng không ạ? Nhưng thực tế nếu chia kỹ hơn thì có 6 Chi thiền. Thôi chúng ta nói 5 đi.
Chi thiền đầu tiên là Tầm. Tầm là gì? Tầm là ví dụ giống như con ong hướng tới bông hoa. Hay là chúng ta đó, bây giờ quý vị thấy Thiện Trang nói hình Phật đây, thì quý vị hướng tới hình Phật. Mới hướng tới thôi, quý vị chưa thấy rõ ràng, nhưng phải hướng tới. Đó là Tầm.
Tầm tức là trạng thái tìm tòi, áp sát ban đầu, mang các pháp đồng sanh đến cảnh. Sự tìm tòi đó gọi là Tầm, tức là mình hướng tới đối tượng. Để giải thích cho quý vị rõ, ví dụ như chúng ta tu Thiền đề mục Biến xứ lửa. Đầu tiên, Tầm là gì? Là quý vị phải hướng tới lửa. Quý vị đốt ngọn nến hay là đốt đống lửa, hoặc là mở màn hình lên, thì quý vị hướng tới đống lửa, chứ đâu hướng tới chỗ khác được. Đó gọi là Tầm.
Thứ hai là Chi thiền Tứ. Tứ là trạng thái liên tục duy trì sự thẩm sát, chăm nom, kìm giữ cảnh. Đó gọi là Tứ. Ví dụ như chúng ta hay tu Biến xứ lửa, thì quý vị phải Tầm rồi, Tầm là hướng tới lửa. Rồi Tứ là quý vị phải quan sát liên tục [ngọn] lửa đó, quan sát liên tục, liên tục… đó là Tứ. Liên tục theo dõi lửa đó thay đổi như thế nào, nó bập bùng như thế nào? Đó là [đề mục] lửa. Còn nếu tu đề mục gió thì cũng theo dõi gió, cảm nhận gió. Hoặc là thấy màu xanh thì phải quan sát màu xanh. Chúng ta dùng bóng đèn để tu thì cũng phải quan sát bóng đèn liên tục, liên tục. Đó là Tứ.
Cho nên nhiều người không có Tứ, vừa đang suy nghĩ điều gì đó [là] bay mất tiêu. Quên mất cảnh rồi, không có Tứ nữa thì làm sao có Chi thiền, làm sao mà đắc Thiền được. Trạo cử [là] đang nhìn bóng đèn hoặc đang nhìn lửa, mà nhớ đến hồi xưa đó thế này thế kia… Hoặc là hồi chiều ông chồng nói gì đó, hoặc mai phải đi làm gì đó. Thì có Tầm, Tứ nữa đâu, mất cảnh rồi. Tầm, Tứ [cũng] bay luôn đúng không?
Chi thiền Tứ là như vậy. Bữa nay ai tu rồi, nói điều này thì hiểu đúng không? Chứ hồi trước [chưa] tu, nói mơ mơ màng màng, nghe không hiểu.
Ba là Chi thiền Hỷ. Hỷ là trạng thái hớn hở, vui mừng, no nê thân tâm, vui thích trên cảnh vào đề mục. Tức là thân tâm cũng vui luôn, no nê trên thân tâm và vui thích trên đề mục đó.
Vậy quý vị tu phải có trạng thái đó. Nhiều người vô tu Thiền mà không học kỹ, không biết những điều này, vô ngắm với một tâm chán ơi là chán, đâu có Hỷ đâu mà có Thiền. Quý vị phải vui lên chứ! Quý vị đang tu Biến xứ lửa, thấy lửa vui, mình tu, mình sắp vô [đề mục] lửa nên thấy lửa vui vui. Chứ mình nhìn [lửa] mà buồn thiu, là rớt Chi thiền rồi. Quý vị hiểu không? Rồi nhìn nước mà khó chịu quá, tôi không thích nước mà cứ nhìn nước. Thế thì làm sao tu được? Không có hỷ nên rớt Chi thiền liền. Cho nên không được!
Hỷ có 5 trạng thái: 1. Tiểu hỷ (Thiểu hỷ) là mừng như rỡn óc; 2. Đảng hỷ (Quan thiểm hỷ) là mừng như chớp nhoáng; 3. Lân hỷ là mừng như sóng dội vào bờ, tức là hỷ mạnh rồi; 4. Khinh thân hỷ tức là cách mừng như thân nhẹ có thể bay bổng; 5. Xẩm thấu hỷ là cách mừng như ăn uống vật rất là bổ dưỡng đượm nhuần cả thân thể. Đó là nói thêm thôi, còn mình chỉ cần biết hỷ là được rồi, vui thì ai chả biết đúng không?
Bây giờ xét trên thọ. Ở đây thật ra có hai [thọ], đó là thọ lạc và thọ xả. Chúng ta nói luôn, trên đây có thọ lạc nhưng có thọ xả nữa, nên thành ra có hai Chi thiền. Nhưng có một thứ thọ lạc, một thứ thọ xả.
Mới đầu là thọ lạc, lạc là trạng thái vui thích, cảm giác dễ chịu, hưởng cảnh an vui. Sự vui này thì ai cũng biết mà, người dễ chịu, cảm nhận dễ chịu trên thân tâm. Tất nhiên dễ chịu thân thì tâm cũng dễ chịu. Cho nên lúc nào cũng kèm theo vui cả thân tâm, chứ ít khi mà không có. Có hỷ thì có lạc luôn. Còn tới khi có lạc không [thôi] mà không có hỷ nữa, là chỉ còn vui trên thân thôi, chứ không vui trên tâm.
Rồi xả là các trạng thái cảm giác trung bình, hứng chịu không khổ không lạc, dung nạp hưởng thọ lấy cảnh. Quý vị thấy trạng thái Xả (ở Ngũ thiền) là quý vị thấy không có vui nữa, hết vui luôn rồi. Chứ còn vui là quý vị chỉ tu đến Tam thiền của Kinh tạng (là Tứ thiền của Vi Diệu Pháp) thôi. Bây giờ hết vui, [còn] Xả với Nhất tâm thôi, thì đó mới tới tầng Thiền này (Ngũ thiền). Đó là chúng ta đang phân tích nha.
Cho nên từ đó mình coi ‘mình có điều nào’, thì mình biết mình đang ở tầng nào. Tức là tu xong rồi mình quan sát lại, lúc đó mình đang có những gì. Ví dụ như ở đây, bây giờ có nhiều người không biết mình thuộc vô tầng Thiền gì. Quý vị thấy, ví dụ như chúng ta đang tu đề mục Biến xứ nước. Nếu mở nước trên màn hình, thì mới đầu quý vị phải nhìn vào nước, gọi là Tầm. Và quý vị nhìn một cách chi tiết, thấy nước quá trời luôn, một hồi nó quan sát trong đó, thì bắt đầu Tợ tướng, Trì tướng xuất hiện. Trì tướng là thấy nước, nhưng không phải nước trên màn hình nữa, hoặc cái thau nước mình để đằng trước tròn tròn, không phải là thau nước bình thường mà mình thấy nước quá trời luôn, nước ở đâu nhiều lắm. Lúc đó mình vẫn tiếp tục nhìn, thì lúc đó [có] Tầm, Tứ. Lúc đó tự nhiên vui vui chút là có Hỷ, Lạc. Rồi cũng có Nhất tâm ở trong đó. Lúc đó quý vị đủ Chi thiền, [là] quý vị đắc Sơ thiền rồi đó.
Khi mình muốn lên Nhị thiền (đây là Nhị thiền của Vi Diệu Pháp) là bớt được Tầm, tức là mình không tìm kiếm nữa, mà lúc đó mình cứ quan sát thôi. Quan sát nước đó một cách vui vẻ, tập trung. Hai trạng thái này cũng là Sơ thiền thôi. Hai cấp này vẫn ở Sơ thiền, là Sơ thiền của Kinh tạng. Lúc đó quý vị thấy Tợ tướng rồi thì quý vị đâu cần quan sát nữa, quý vị chỉ cần nhìn thôi chứ đâu cần hướng tới nước nữa đâu. Không có!
Tiếp theo là ngay cả nhìn cũng không còn nữa. Tức là lúc này quý vị thả tâm, thả tâm mới thấy không có gì nữa. Chỉ hưởng niềm an vui, an lạc và tâm định thôi, cảnh cũng không còn nữa, cảnh của nước hầu như không còn nữa. Đó là trạng thái Tam thiền. Nhưng đó là Tam thiền của Vi Diệu Pháp.
Thật ra ranh giới giữa Tam thiền và Nhị thiền rất mong manh. Tại vì nó chỉ bỏ được Hỷ thôi (Hỷ tức là mình vui trong tâm), còn ở đây không có vui nữa, [mà] chỉ cảm thấy dễ chịu trên thân thôi. Cho nên rất khó phân biệt hai tầng Thiền này, trừ khi mình nhập định nhiều thì mình biết thôi, chứ còn khả năng là không phân biệt được. Nước có khi vẫn có, chứ không phải tối đen. Nhiều khi nước cũng có đó, nhưng mình không có quan sát nữa, vì không còn Tứ nữa.
Cuối cùng là tâm thả hết, không có gì nữa, không thấy, không để ý, không cảm nhận gì hết, ngừng hơi thở là tới Ngũ thiền của Vi Diệu Pháp (là Tứ thiền của Kinh tạng).
*Lưu ý hành giả ở cõi dục để tu chứng thiền (đắc Tâm thiền Sắc giới) thì dùng Tâm Đại thiện Dục giới để tu (nhớ là chúng ta phải dùng 8 Tâm đại thiện để tu), rồi chuyển lên các Chi thiền thì nhập thiền (Tâm thiện Sắc giới sinh). Tức là mình phải đủ các Chi thiền này là được, càng ít là càng lên Thiền cao. Rồi nhập Thiền thì lúc này Tâm thiện Sắc giới sinh.
Bây giờ cho ví dụ để chúng ta thấy lộ trình tâm luôn.
Ví dụ 1: Một người tu đề mục Biến xứ nước đắc lần lượt các tầng thiền tới Tứ thiền (Ngũ thiền trong Vi Diệu Pháp) thì lộ trình tâm như sau:
Bây giờ chúng ta thử [coi], giả sử quý vị tu đắc thì lộ trình tâm như thế nào? Chúng ta làm tóm tắt tương tự thôi, chứ cái này cũng phức tạp lắm.
| Thứ tự | Sát-na tâm (Pāli) | Vai trò | Đối tượng & Ghi chú | Tầng thiền đạt |
| 1 | Atīta-bhavaṅga | Hữu phần quá khứ | Dòng hữu phần trước đó | — |
| 2 | Bhavaṅga-calana | Dao động Hữu phần | — | — |
| 3 | Bhavaṅgupaccheda | Dứt Hữu phần | — | — |
| 4 | Mano-dvārāvajjana | Hướng tâm qua cửa ý | Hướng đến paṭibhāga-nimitta (tướng nước) | — |
| 5 | Parikamma (chuẩn bị) | Javana 1 | Chỉ xuất hiện lần đắc đầu tiên | — |
| 6 | Upacāra (cận định) | Javana 2 | Chuẩn bị nhập thiền | — |
| 7 | Anuloma (thuận thứ) | Javana 3 | Điều hòa, thuận dòng | — |
| 8 | Gotrabhū (chuyển tánh) | Javana 4 | Từ tâm Dục giới sang Sắc giới | — |
| 9 | Appanā (Jhāna 1) | Javana 5 | An chỉ, đủ: tầm, tứ, hỷ, lạc, nhất tâm | Sơ thiền |
| 10+ | Appanā lặp lại | Liên tục | Dòng an chỉ nhiều sát-na | Sơ thiền ổn định |
| … | (Xuất định, thấy lỗi tầm) | — | Chuẩn bị nhập tầng cao hơn | — |
| 11 | Mano-dvārāvajjana | Hướng tâm | Vẫn trên paṭibhāga-nimitta | — |
| 12 | Upacāra | Javana 1 | Không còn parikamma nữa | — |
| 13 | Anuloma | Javana 2 | — | — |
| 14 | Gotrabhū | Javana 3 | — | — |
| 15 | Appanā (Jhāna 2) | Javana 4 | An chỉ: tứ, hỷ, lạc, nhất tâm (bỏ tầm) | Nhị thiền |
| 16+ | Appanā lặp lại | Liên tục | Nhiều sát-na an chỉ | Nhị thiền ổn định |
| … | (Xuất định, thấy lỗi tứ) | — | Chuẩn bị nhập tầng cao hơn | — |
| 17–20 | Mano-dvārāvajjana → Gotrabhū | Lặp như trên | — | — |
| 21 | Appanā (Jhāna 3) | Javana 4 | An chỉ: hỷ, lạc, nhất tâm (bỏ tầm, tứ) | Tam thiền |
| 22+ | Appanā lặp lại | Liên tục | Nhiều sát-na an chỉ | Tam thiền ổn định |
| … | (Xuất định, thấy lỗi hỷ) | — | Chuẩn bị nhập tầng cao hơn | — |
| 23–26 | Mano-dvārāvajjana → Gotrabhū | Lặp như trên | — | — |
| 27 | Appanā (Jhāna 4) | Javana 4 | An chỉ: lạc, nhất tâm (bỏ hỷ) | Tứ thiền (Abhidhamma) |
| 28+ | Appanā lặp lại | Liên tục | Nhiều sát-na an chỉ | Tứ thiền ổn định |
| … | (Xuất định, thấy lỗi lạc) | — | Chuẩn bị nhập tầng cao hơn | — |
| 29–32 | Mano-dvārāvajjana → Gotrabhū | Lặp như trên | — | — |
| 33 | Appanā (Jhāna 5) | Javana 4 | An chỉ: xả, nhất tâm (bỏ lạc, thay bằng xả) | Ngũ thiền (Tứ thiền theo Kinh) |
| 34+ | Appanā lặp lại | Liên tục | Dòng an chỉ cuối cùng | Tứ thiền (Kinh) ổn định |
[Cột thứ nhất] là Thứ tự; [cột thứ hai] là Sát-na tâm, [cột thứ ba] là Vai trò, [cột thứ tư] là Đối tượng và ghi chú, [cột thứ năm] là Tầng thiền đạt được.
Đầu tiên, lúc nào không làm việc thì vừa thả tâm, là Tâm hữu phần xuất hiện (tức là Tâm hộ kiếp), dòng Hữu phần trước đó. Bắt đầu mình tu [đề mục] nước, mình bưng thau nước hoặc mở máy [tính], mở tivi, mở ipad lên coi nước, thì lúc đó Tâm hộ kiếp dao động, gọi là Hữu phần dao động. Mình bắt đầu dứt Hữu phần, là dứt Tâm hộ kiếp đi để chuyển đến tâm qua cửa ý (tức là nhìn cảnh). Thật ra ở đây mình tóm tắt rồi đó, thiếu cảnh mắt nhìn tới nước v.v… [những sát-na] đó dài lắm, bỏ bớt khúc đó nha.
Bây giờ giả sử mình đã làm đoạn công tác đó rồi, từ đây mình bắt đầu ngồi nhìn một chút là quên, quên một cái là Tâm hữu phần chạy. Bây giờ nhìn một hồi, rồi chuẩn bị vô Thiền. Không phải nhìn một cái là vô Thiền liền đâu, đằng trước thật ra khi nhìn nước là Tâm đại thiện hoan hỷ lên rồi xuống, lên rồi xuống bao nhiêu lần đó… vì mình tu Thiền chưa nhuần nhuyễn mà. Rồi sau đó trả về Tâm hộ kiếp. Sau Tâm hộ kiếp này bắt đầu chuẩn bị vô Thiền, là hướng tâm qua cửa ý. Cửa ý tức là Tâm khai Ý môn. Khi đó mình hướng đến đối tượng là tướng của nước, trong đầu mình có nước, chứ không phải là mắt nữa.
Rồi các Tâm đốc hành bắt đầu chạy, bình thường là 7 tâm, nhưng ở đây có 5 tâm thôi. Đầu tiên chuẩn bị nhập Thiền, điều hòa thuận dòng, nó phải chuyển từ Tâm thiện Dục giới sang [Tâm] sắc giới. Cuối cùng là nó an chỉ đủ: Tầm, Tứ, Hỷ, Lạc, Nhất tâm, tức là đủ 5 Chi thiền, thì lúc đó là quý vị đã vô Sơ thiền rồi. Khi đủ 5 Chi thiền này là đã vô Sơ thiền.
Tiếp tục là nó liên tục lặp lại như vậy nhiều lần, thì lúc đó mình đã an chỉ trong nhiều sát-narồi, lúc đó là Thiền của mình ổn định. Tức là lúc này nếu nói thực tế ra, tạm tả thôi nha, đừng lấy cứu cánh rồi bữa sau so sánh, rồi cuối cùng không đúng đâu. Vì trong các điều không thể nghĩ bàn, có cảnh giới Thiền cũng không thể nghĩ bàn đâu. Cho nên đừng lấy ví dụ làm cứu cánh, rồi bữa sau so [sánh] là rớt Thiền hết. Cho nên thực tế là không nên giảng Thiền, nhưng bây giờ mình phải giảng, tạm nói phương tiện thôi, chứ nói cứu cánh là không đúng.
Giả sử như tu đề mục nước, lúc đó quý vị nhập Thiền rồi, tức là mình thấy đủ Tầm, Tứ, Hỷ, Lạc, Nhất tâm (Định) rồi. Lúc đó mình thấy nước, nước… tức là Tợ tướng, Trì tướng xuất hiện rồi. Trì tướng là thấy nước không là nước, cảm giác đã lắm, mình thấy giống như mình đang ở giữa biển, giữa hồ, chứ không phải mình thấy mình ở trong phòng nữa. Mình thấy giống như nước không là nước, thì đó là Sơ thiền. Thật ra trạng thái đó rất lâu mới thấy được như vậy, chứ không, mình vô tích tắc là bị rớt ra. Người đầu thai bằng tâm Nhị nhân, họ vào không bao lâu là họ bay ra. Còn người đầu thai [bằng] tâm Tam nhân thì ở trong đó ổn định được. Vì vậy sẽ trải qua nhiều sát-na lặp lại như vậy.
Muốn lên Nhị thiền thì lúc đó người ta sẽ xuất định, thấy lỗi Tầm. Tức là chuẩn bị để nhập tầng Thiền sâu hơn, lúc đó thật ra dừng lại, quý vị suy nghĩ chưa được, tức là mình phải buông cảnh này, khi đó lên [tầng Thiền tiếp] thì sẽ buông. Lúc đó vừa suy nghĩ là rớt Thiền rồi, ra ngoài, hết Thiền, quý vị cứ tác tâm thôi buông luôn. Thực ra sự buông luôn đó là xuất định rồi và lúc đó mới lên tầng Thiền tiếp. Là như vậy đó! Đó cũng là hướng tâm, là buông tâm, [nhưng] tướng nước đó mình vẫn thấy.
Khi đó tiếp tục chạy 4 Tâm đốc hành, thì an chỉ Tứ, Hỷ, Lạc, Nhất tâm. Tức là Tầm đi, không còn quan sát nữa, thì lên Nhị thiền của Vi Diệu Pháp. Nó lặp lại như vậy một lát, lúc đó mình chưa thấy thì mình buông thêm chút nữa, hoặc là lúc đó mình thấy nhanh lắm, mình cảm thấy là mình buông luôn. Thật ra lúc đó là xuất định rồi đó, thấy lỗi của Tứ nên bỏ Tứ, không cần quan sát nữa, thì vô tầng Thiền [cao] hơn là Nhị thiền đó. Tiếp đó là lên Tam thiền. Cho nên hôm bữa Thiện Trang nói Tam thiền là Tam thiền ở đây nè. Đôi khi mình lẫn lộn tầng Thiền [của] Vi Diệu Pháp với [của Kinh tạng].
Tới đây, lặp lại như trên thì lúc đó mình được vào trạng thái là Hỷ, Lạc, Nhất tâm, bỏ Tầm, Tứ.Hết Tầm, Tứ rồi thì là Tam thiền của [Vi Diệu Pháp] và Nhị thiền của [của Kinh tạng]. Rồi lại liên tục như vậy đến khi mình thấy điều này cũng chưa được, mình bỏ thêm [Chi thiền] nữa, không có vui gì hết, chỉ muốn nhẹ nhàng thôi. Thì tâm xả luôn, nhẹ nhàng, bỏ luôn Hỷ thì còn Lạc [của] thân thôi, thì lên tới tầng Thiền tiếp theo là Tứ thiền. Bỏ luôn Lạc là cảm giác dễ chịu của thân và bỏ Hỷ luôn, không có vui mừng, thì Tứ thiền ổn định. Rồi lại như vậy, cuối cùng bỏ Lạc [thì] chỉ còn Xả thôi. Bỏ Lạc thì chuyển qua Xả, thì là Ngũ thiền [theo Vi Diệu Pháp] và Tứ thiền theo Kinh tạng là xong. Cuối cùng cứ lặp lại [như vậy], [và] an trụ trong đó [thì] có thể nhập tới mấy tầng Thiền này. Tứ thiền quý vị nhập mấy chục ngày cũng được, nhập luôn, nhập lâu lắm, nhập mấy ngày, nhập mấy chục ngày đều được. Quý vị hiểu điều đó.
Ở đây Thiện Trang nêu lại nội dung hồi nãy thôi, nhắc lại lần nữa Tầm, Tứ, Hỷ, Lạc, Định, Xả, hôm nay chỉ nhắc lại thêm tác dụng.
Tầm là ngăn chặn Hôn trầm, Thụy miên. Tức là mình đang tìm kiếm điều gì thì không hôn trầm được, [và] tâm mình không buồn thể ngủ được, không thể nào đơ đơ được. Ví dụ như quý vị thấy mất tiền rồi, quý vị đang tìm kiếm thì quý vị tỉnh lắm. Cho nên Tầm là vậy, hướng tới cái gì là nó tỉnh lắm. Giống như đứa nhỏ đang buồn ngủ nhưng được đồ ăn rất thích, nó hướng tới đó là tỉnh táo liền.
Tứ là trạng thái liên tục duy trì sự thẩm sát, chăm nom, kềm giữ cảnh. Ngăn chặn được sự hoài nghi, bởi vì nó xác định cảnh rõ rồi, nên hết nghi ngờ. Quý vị tu Thiền cũng vậy, không có nghi ngờ thì mới có Tứ.
Hỷ là trạng thái mừng hớn hở, no nê thân tâm, vui thích trên cảnh, đề mục. [Hỷ] này ngăn chặn sân. Cho nên nhiều người tu niệm Phật, trì danh mà cảm thấy chán, buồn ngủ là do không có Tầm. Và thực tế là mình cũng chán đề mục đó, không có hấp dẫn, không thu hút được, cho nên đề mục không phù hợp là do như vậy. Còn khi mình có tâm hớn hở, hướng tới, thì tự nhiên hết buồn ngủ.
Thọ lạc là trạng thái vui thích, cảm giác dễ chịu cơ thể, vui tâm, hưởng cảnh an vui. Thọ lạc thì xua đuổi trạo hối. Khi nào quý vị có Lạc, là cảm giác dễ chịu của cơ thể thì tự nhiên hết Trạo cử. Cho nên nhiều người không biết, bị trạo cử nhiều là tại vì cơ thể mệt, ngủ không đủ, nên cuối cùng mệt. Khi mệt là trạo cử suốt, vì cơ thể không có Lạc được.
Định là Nhất hành, nhất thống hay định là đình trụ vào cảnh. Tức là nó dừng lại và trụ vào cảnh, [định] này ngăn chặn dục ái vì mình tập trung vào đó rồi thì mình không có mong muốn gì nữa hết.
Thọ xả là trạng thái cảm giác trung bình, hứng chịu phi khổ phi lạc, dụng nạp hưởng lấy cảnh. Nó cũng ngăn được cả tham ái, nhưng tham ái này là tham ái đối với Hỷ và Lạc. Tức là mình có Hỷ, có Lạc là vẫn có tham, thì [thọ xả] này ngăn sâu hơn nữa, là ngăn tham đối với Hỷ, Lạc luôn. Điều này thì thọ Xả mới được. Cho nên Tứ thiền của Kinh tạng (Ngũ thiền [của Vi Diệu Pháp]) mới có điều này, là không ham muốn những sự vui đó nữa.
Như vậy Thiện Trang đã chia sẻ tới đây, bây giờ chúng ta đi luôn vào tâm này để hết luôn, cũng ngắn thôi.
2B. Tâm quả Sắc giới: (cũng tương như thế thôi).
2B.1.Định nghĩa: Tâm quả Sắc giới là những tâm quả thuộc 5 bậc thiền sắc giới, chỉ khởi trong cõi Sắc với vai trò làm tục sinh, hộ kiếp và tiến trình tâm; chúng không bao giờ khởi trong cõi Dục, và chỉ xuất hiện khi nghiệp Thiền định đã chín muồi cho tái sanh vào cõi Sắc giới.
Tâm này thực tế bây giờ mình không đạt được đúng không quý vị? Chưa đạt được! Bao giờ quý vị đắc Thiền xong, quý vị tu Thiền rồi [mà] chết, [thì] quý vị có nghiệp (hôm bữa chúng ta đã làm bài [ví dụ] rồi, Thiện Trang [cũng] đã đăng lên Facebook), [nghiệp đó] ưu tiên khi tái sanh. Ưu tiên một: Nghiệp tái sanh đầu tiên là nghiệp Vô Gián, Ngũ nghịch, gọi là Cực trọng nghiệp mà ác nghiệp thì sẽ tái sanh đầu tiên. Nếu không có tâm đó thì ưu tiên thứ hai là Tâm thiền. Giả sử quý vị đắc Thiền, thì nghiệp Thiền đó hiện ra dẫn mình lên cõi trời Sắc giới, thì lúc đó mới có tâm này, gọi là Tâm quả Sắc giới mới sanh. Như vậy nó làm Tâm tục sanh tức là Tâm đầu thai, và lên đó chỉ sau tích tắc đầu thai xong, thì trở thành Tâm hộ kiếp, làm các hoạt động trong quá trình tiến trình tâm. Tâm này chỉ như vậy thôi. Còn bây giờ mình không có tâm này, mình nhập Thiền [thì] chỉ có Tâm thiện Sắc giới thôi chứ không có Tâm quả Sắc giới.
– Nếu công phu Thiền định Sắc giới đã thành nghiệp dẫn sanh (janaka-kamma), khi mạng chung ở cõi Dục, hành giả sẽ:
+ Có cận tử tâm nhớ lại công phu Thiền. Quý vị biết tại sao nó mạnh là vậy đó. Nếu quý vị không tạo nghiệp nào nặng thì tự nhiên lúc Cận tử nghiệp khởi lên là nhớ lại công phu Thiền. Cho nên lý do đó mới kéo mình lên cõi Sắc chứ.
+ Rồi Tâm thiện Sắc giới ấy cho quả, dẫn đến tái sinh vào cõi Sắc giới. Đó là nguyên nhân, mình lên cõi trời Phạm thiên, trời Quang Âm gì đó … là do [Tâm thiện Sắc giới] này.
– Ngay khoảnh khắc đầu tiên của kiếp sống mới: Tâm tục sinh (paṭisandhi citta) chính là Tâm quả Sắc giới.
– Sau tục sinh, các Tâm hộ kiếp (bhavaṅga citta) trong dòng tâm ở cõi Sắc đều là Tâm quả Sắc giới.
Như vậy quý vị hiểu Tâm quả Sắc giới nằm ở đâu rồi đúng không? Đó là khi tái sanh và sau khi tái sanh xong rồi [thì có tâm đó].
– Trong các tiến trình tâm hằng ngày ở cõi Sắc, Tâm quả Sắc giới cũng có thể hiện khởi khi gặp duyên thích hợp.
Quý vị nên nhớ lên cõi Sắc rồi, đừng nghĩ mình có Thiền, vì đó là Tâm quả thôi, cho quả rồi thì thôi. Quý vị lên cõi Sắc rồi mà không tu Thiền nữa, thì cũng không có, sau khi chết là mất Thiền. Cho nên lên đó thì phải tu Thiền tiếp thì mới giữ được Tâm thiền. Còn không thì hết đời đó là rớt xuống, nên lên đó lo tu tiếp, mình lo tu để đắc quả luôn. Có nhiều chư Thiên cũng đắc quả, chứ đừng có nói lên đó không đắc quả. Trừ một số trời như [trời] Vô tưởng thì chịu rồi, không có tâm thì làm sau đắc quả được. Hoặc trời Phi Tưởng Phi Phi Tưởng, những tầng trời đó là thua, tại vì họ không có đủ cảnh để chứng quả, trừ khi họ chứng quả trước rồi. Vậy là chúng ta định nghĩa xong 2B.1.
2B.2. Phân loại Tâm quả Sắc giới: Cũng tương tựnhư Tâm thiện Sắc giới, cũng có 5 loại theo 5 Chi thiền.
*Nếu hành giả chưa đạt đạo quả siêu thế thì công phu Thiền sắc giới có thể đưa đến tái sinh ở cõi Sắc giới tương ứng: Chứng thiền bậc nào thì tái sinh vào tầng trời sắc giới bậc ấy. Ví dụ chứng Sơ thiền thì tái sanh vào tầng trời Sắc giới của Sơ thiền.
Bây giờ chúng ta coi thử nha, ở đây tại vì có 5 thiền chứ không phải 4 thiền cho nên khác, khó hơn, mình không biết vô đâu. Thì ở đây có Bảng quả Tái sinh của Chứng thiền theo Vi Diệu Pháp (nếu chưa chứng Niết-Bàn):
Bảng quả Tái sinh của Chứng thiền theo Vi Diệu Pháp (nếu chưa chứng Niết-Bàn)
| Tầng thiền | Cõi trời tái sinh |
| Sơ thiền | Phạm Chúng, Phạm Phụ, Đại Phạm |
| Nhị thiền + Tam thiền | Thiểu Quang, Vô Lượng Quang, Biến Quang (Quang Âm, Cực Quang) |
| Tứ thiền | Thiểu Tịnh, Vô Lượng Tịnh, Biến Tịnh |
| Ngũ thiền | Quảng Quả (chưa chứng đến Tam quả), Ngũ Tịnh Cư (chứng đến Tam quả) |
Sơ thiền là có Tầm, Tứ, Hỷ, Lạc, Nhất tâm. Nếu chứng thì tái sinh vào cõi trời Phạm Chúng, Phạm Phụ, Đại Phạm, ba cõi đó. Tùy định lực mình cao hơn chút thì rớt vào ba cõi này, cũng là ba cõi Sơ thiền.
Nhị thiền là mình bỏ được một Chi thiền, là bỏ được Tầm rồi. Nhị thiền này là Nhị thiền của Vi Diệu Pháp và Tam thiền của Vi Diệu Pháp, là bỏ Tứ và Hỷ. Bỏ Tứ là Nhị thiền, bỏ thêm Hỷ, còn Lạc, Nhất tâm, thì sẽ rơi vào ba tầng trời: Thiểu Quang, Vô Lượng Quang, Biến Quang (Quang Âm, Cực Quang). Nhị thiền và Tam thiền của Vi Diệu pháp thì vào ba tầng trời này. Thực tế là quý vị thấy có lời, mình bỏ Tầm, Tứ, thực ra chỉ cần bỏ một cái, bỏ Tầm thôi là có thể tái sanh vào cõi trời Nhị thiền rồi, nên là đã ngon rồi đó.
Tứ thiền (của Vi Diệu Pháp) là bỏ luôn Hỷ, còn Lạc và Nhất tâm, thì vô trời Thiểu Tịnh, Vô Lượng Tịnh, Biến Tịnh.
Ngũ thiền thì chỉ còn Xả, Nhất tâm thì vào trời Quảng Quả, nếu chưa chứng đến Tam quả. Còn nếu chứng đến Tam quả thì vào trời Ngũ Tịnh Cư.
2C. Tâm tố Sắc giới (Tâm tố thiền Sắc giới, Tâm duy tác Sắc giới)
2C.1.Định nghĩa: Tâm tố sắc giới: Chư Thánh A-la-hán, do tu tiến pháp Chỉ (samatha bhāvanā) có thể phát triển lần lượt năm Tâm thiền tố Sắc giới (rūpāvacara-kiriya). Điều cần chú ý là đối với chư Thánh A-la-hán (Arahaṃ), tâm tố (kiriya citta) sinh khởi thay vì tâm thiện.
Tức là đổi thôi, tức là các ngài tu đắc Thiền, các A-la-hán lúc trước chưa đắc Thiền thì bây giờ tu đắc Thiền. Hoặc các ngài đắc Thiền rồi thì khi đó các ngài nhập Thiền. Thật ra khi đó các ngài không dùng Tâm thiện Sắc giới mà các ngài dùng Tâm tố Sắc giới, cho nên không cho quả tái sanh ở cõi Thiền nữa, mà các ngài nhập Niết-Bàn. Chứ các ngài dùng Tâm kia thì các ngài cũng như mình thôi, lại tái sanh vào cõi Sắc giới nữa.
2C.2.Phân loại: Tương tự như vậy, phân loại Tâm thiền Sắc giới và Tâm quả Sắc giới như thế nào, thì Tâm tố Sắc giới cũng chia ra 5 tầng như vậy.
*Tâm thiện Sắc giới (rūpāvacara kusala citta) và Tâm tố Sắc giới (rūpāvacara kiriya citta) du hành trong cõi Dục cũng như trong cõi Sắc (tế); Trong khi Tâm quả Sắc giới (rūpāvacara-vipāka citta) chỉ du hành trong cõi Sắc (tế).
Tâm tố và Tâm thiện, do hai tâm này là mình đang tu, thì du hành ở cõi Dục giới và trong cõi Sắc (vi tế), tức là lúc mình nhập Thiền. Và ở trên cõi Sắc thì cũng có thể tu tiếp được. Còn Tâm quả Sắc giới thì chỉ ở trên cõi Sắc giới thôi, chứ không có nữa.
Thiện Trang đã chia sẻ hết về [Tâm] thiền, quý vị hiểu rồi đúng không ạ? Càng học thì càng rõ ràng. Hôm nay chia sẻ tới đây, hy vọng quý vị hiểu được. Thiện Trang suy nghĩ cho bài tập hay một chút, bữa sau quý vị tìm trên bình luận nha. Để Thiện Trang đưa bình luận lên trên YouTube và Facebook, quý vị coi trên đó có bình luận, kiếm bài tập làm thử và mình ôn lại.
Như vậy hôm nay mình học 15 Tâm thiền của Sắc giới. Rất dễ, chia theo các Chi thiền thôi. Trong đó có Tâm thiền là dành cho phàm phu, Tâm tố dành cho A-la-hán và Tâm quả là lên trên đó có quả rồi. Dễ nhớ đúng không? Như vậy chúng ta học thêm 15 tâm nữa. Hôm bữa là học 54 tâm, bữa nay học thêm 15 tâm nữa là 69 tâm rồi. Tâm hộ kiếp, Tâm đầu thai thì mình cũng biết sơ sơ rồi, là 71 [tâm] rồi. Như vậy chúng ta còn Tâm thiền Vô sắc nữa, là 4 tầng trời Vô sắc: Không Vô Biên Xứ, Thức Vô Biên Xứ, Vô Sở Hữu Xứ và Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ. Cũng tương tự như vậy mỗi [tầng] có 3 [tâm] (3 x 4 là 12), vậy là 12 tâm nữa, cộng lại là 83 [tâm]. Rồi thêm 40 Tâm siêu thế, tức là Tâm đắc quả từ Sơ quả đến Tứ quả, nhân lên 5 tầng Thiền là đủ 40 [tâm]. Cộng lại là đủ 123 tâm, nếu bỏ hai tâm là Tâm hộ kiếp, tâm đầu thai và mấy tâm kia ra thì chỉ có 121 tâm là xong rồi. Nói thì nhiều vậy chứ học có chút à! Khó là khó ở mấy tâm đằng trước, mình phải học để mình hiểu, còn mấy tâm sau này là mình tu để mình chứng.
Bài Tập Về Nhà 2: Một người không hiểu đạo, muốn chứng tỏ mình đúng nên đến chất vấn một vị A-la-hán (trong hình tướng vị Tỳ-kheo) vì không tin đạo Phật. (1)Tâm người đó khi ấy là tâm gì? Vị A-la-hán an nhiên đón nhận câu hỏi của người ấy rằng: ‘Ông hãy chứng minh có Phật đi’! (2) Tâm vị A-la-hán khi đó là tâm gì? Sau câu hỏi ấy, vị A-la-hán im lặng không đáp. (3) Đó là tâm gì? Sau khi người kia hỏi ba lần với thái độ khó chịu (4) Tâm của vị ấy khi đó là tâm gì? Vị A-la-hán đáp nhẹ nhàng rằng: ‘Chân lý chỉ người trí mới hiểu, nếu ông muốn nghe thì hãy trả lời xem mặt trời và bóng tối có gặp nhau không?’ (5) Tâm của vị A-la-hán khi nói đó là tâm gì? Vị kia suy nghĩ rồi đáp: mặt trời và bóng tối không bao giờ gặp nhau. (6) Tâm vị ấy khi đó là tâm gì? Vị A-la-hán nói tiếp: ‘Cũng vậy chân lý Phật pháp như mặt trời, còn tâm người đang vô minh thì không thể hiểu được’. Vị ấy vì muốn nghe nên suy nghĩ rồi nói: ‘Vậy tôi lắng nghe, ông hãy trình bày cho tôi’. (7) Đó là tâm gì?
Hôm nay thời gian quá rồi hẹn quý vị hôm khác. Mời quý vị chúng ta cùng hồi hướng.
Nguyện đem công đức này
Hướng về khắp tất cả
Đệ tử cùng chúng sanh
Đều trọn thành Phật đạo.
A Mi Đà Phật!
#luancauxa #thaythichthientrang