Responsive Menu
Add more content here...

Tập 230 – Tịnh Độ Đại Kinh Khoa Chú 2014

TỊNH ĐỘ ĐẠI KINH KHOA CHÚ 2014-2017

(Giảng lần thứ 4)

PHẨM 8: TÍCH CÔNG LŨY ĐỨC:

Tích Lũy Công Đức

Tập 230

Chủ giảng: Hòa thượng Thích Tịnh Không.

Giảng tại: Chùa Cực Lạc, Đài Nam, Đài Loan.

Thời gian: Ngày 08 tháng 08 năm 2015.

Dịch giả: Như Lộ.

Giảo chánh: Thích Thiện Trang.

Kính chào chư vị Pháp sư, chư vị đồng học, kính mời ngồi. Mời mọi người cùng tôi đồng quy y Tam Bảo:

“A-xà-lê tồn niệm, ngã Đệ tử Diệu Âm, thỉ tùng kim nhật, nãi chí mạng tồn, quy y Phật-Đà, lưỡng túc trung tôn, quy y Đạt-Ma, ly dục trung tôn, quy y Tăng-Già, chư chúng trung tôn” (3 lần).

Mời xem Đại Kinh Khoa Chú: trang 563, trang 563, xem từ hàng thứ ba từ trái sang, giữa hàng thứ ba từ trái sang, dấu ngoặc thứ ba: 云何名菩薩法忍 “Vân hà danh Bồ-tát Pháp nhẫn” (Thế nào là Pháp nhẫn của Bồ-tát?), xem từ chỗ này. Phía trước chúng ta đã học, Nội nhẫn, Ngoại nhẫn trong mười loại Nhẫn. Thứ ba là Pháp nhẫn của Bồ-tát, 佛於諸經說微妙義,諸法寂靜,諸法寂滅如涅槃相,不驚不怖。作是念言:我若不解是經,不知是法,終不得菩提。是故菩薩勤求咨問讀誦,是名法忍 “Phật ư chư kinh thuyết vi diệu nghĩa, chư pháp tịch tĩnh, chư pháp tịch diệt như Niết-Bàn tướng, bất kinh bất bố. Tác thị niệm ngôn: Ngã nhược bất giải thị kinh, bất tri thị pháp, chung bất đắc Bồ-đề. Thị cố Bồ-tát cần cầu tư vấn độc tụng, thị danh Pháp nhẫn” (Đức Phật nương vào các kinh mà thuyết nghĩa vi diệu, các pháp tịch tĩnh, các pháp tịch diệt như tướng Niết-Bàn, [nghe rồi] không kinh không sợ. Mà nghĩ thế này: Nếu ta không hiểu kinh ấy, không biết pháp ấy, thì trọn không được Bồ-đề. Cho nên Bồ-tát siêng năng tìm cầu học hỏi đọc tụng, đó là Pháp nhẫn). Ý nghĩa này nói rất sáng tỏ, đó tức là Phật pháp thật sự có mặt cao sâu, không dễ hiểu. Có cần phải học không? Phải học. Vì sao vậy? Bởi không học thì không thể thành Vô thượng Bồ-đề, cho nên nhất định phải học. Học thì phải nhẫn được, phải có tâm bền bỉ, không phải thời gian ngắn thì có thể thành tựu. Kinh mà đức Phật thuyết rất nhiều, song cũng không có truyền toàn bộ đến nước ta. Giao thông thời xưa rất bất tiện, hầu như toàn bộ kinh Phật đều được viết ở trên lá cây Bối-đa-la, cho nên gọi là Bối Diệp. Lá cây Bối-đa-la, viện Bảo tàng Cố Cung của chúng ta còn có cất giữ, mọi người đến viện Bảo tàng Cố Cung mà xem, có thể xem thử. Họ cắt lá của cây này rất ngay ngắn, cành nhỏ dài, thông thường viết được bốn hàng, khoét hai lỗ ở hai bên, dùng dây thừng để xâu lại, đó là Kinh điển tiếng Phạn ngày xưa. Hiện nay việc in ấn đóng bìa đã tiến bộ hơn trước kia quá nhiều, mang theo cũng thuận tiện. Những kinh sách ấy, Pháp sư Ấn Độ đến Trung Hoa, Pháp sư Trung Hoa đến Ấn Độ thỉnh kinh, tuyển chọn kỹ càng, tìm kinh quan trọng nhất, đặc biệt cấp bách với nhu cầu của chúng ta thì ưu tiên chọn ra, không phải quan trọng lắm thì sẽ không mang về, để làm nhẹ bớt hành lý. Những kinh sách ấy trước đây đều là do ngựa và lạc đà chở tới Trung Hoa, từ Ấn Độ đi bộ đến Trung Hoa, gần như phải đi thời gian một-hai năm, thật không dễ. Trong đó có không ít Kinh điển Đại thừa, giảng về pháp của Bồ-tát, [là] kinh Đại thừa.

Căn tánh của chúng sanh khác nhau, vì thế đức Phật tùy thuận căn tánh của chúng sanh, mà thuyết 84 ngàn Pháp môn, thuyết vô lượng Pháp môn, 84 ngàn là giảng đối với nhân gian chúng ta, vô lượng Pháp môn là giảng đối với khắp Pháp giới Hư không giới, thật có, không phải giả. Đức Thế Tôn thị hiện thành đạo là lúc 30 tuổi, 19 tuổi, xuất gia, từ bỏ quyền thừa kế ngôi vị Quốc vương, phụ thân Ngài là Quốc vương, Ngài là Trưởng tử, nếu Ngài không xuất gia, thì tương lai sẽ kế thừa ngôi vua. 19 tuổi, Ngài không cần nữa, đó là vị Vương tử trẻ tuổi, đã sâu sắc lãnh hội được nhân gian quá khổ, khi Ngài ra ngoài du hành, thấy được Sanh Lão Bệnh Tử, Cầu bất đắc, Oán tắng hội, Ái biệt ly, thấy được những khổ nạn của nhân gian này, nên nghĩ đến làm sao có thể rời khổ được vui. Vì thế mục đích giáo học của Phật giáo là gì? Khi có người hỏi chúng ta, chúng ta nhất định phải có thể trả lời, mục đích của đức Phật thị hiện giáo hóa chúng sanh, chính là để giúp tất cả chúng sanh, từ Thiên đường đến Địa ngục, chúng sanh trong Lục đạo Luân hồi, bao gồm cả Mười pháp giới, giúp những chúng sanh ấy lìa khổ được vui. Lìa khổ thì phải lìa cứu cánh khổ, lìa cho thật sạch sẽ, được vui thì phải đạt được vui cho thật viên mãn, cả đời đức Phật làm sự việc này cho chúng ta. Khổ do đâu mà có? Là do mê hoặc điên đảo, đã mê mất Tự Tánh, do đây mà có. Vui do đâu mà có? Vui là từ khai ngộ mà có, sáng tỏ đối với chân tướng của tất cả các pháp trong vũ trụ nhân sinh, thì đạt được vui rồi. Vậy Ngài đã dùng phương pháp gì? Dùng dạy học. Bởi vì khổ vui là quả báo, trên quả thì không có cách động tới, phải từ trên nhân. Nhân là gì? Nhân là mê hay ngộ. Vì vậy Ngài mong giúp cho chúng sanh phá mê khai ngộ, phá mê rồi, thì rời khỏi khổ; Khai ngộ rồi, thì đạt được vui. Phương pháp là dạy học.

Cho nên Ngài trụ thế 80 năm, người nước chúng ta nói tuổi mụ là 80 tuổi, người nước ngoài tính tuổi đủ trọn năm là 79 tuổi. 79 tuổi Ngài qua đời. 30 tuổi sau khi khai ngộ thì liền dạy học, 30 tuổi bắt đầu, giảng kinh dạy học đến 79 tuổi thì viên tịch, ròng rã 49 năm. Vì thế chúng ta phải làm rõ ràng, phải làm sáng tỏ thân phận của đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Tất cả kinh mà Ngài giảng thì không có ai dạy Ngài, vậy Ngài làm sao có thể giảng? Chúng ta lấy trường hợp như trong Lục Tổ Đàn Kinh, Lục tổ Huệ Năng là người nước ta, người của thời Đường, không biết chữ, chưa từng đi học, khi còn trẻ làm nghề đốn củi, tiều phu. Nghề nghiệp này hiện nay không còn nữa, thời kháng chiến vẫn còn, cũng tức là trong Đại chiến Thế giới thứ hai, ở nước ta có nghề nghiệp này. Còn có một nghề nữa, là gánh nước, bán nước. Nước dùng trong thành thị phải nhờ người gánh, không có nước máy, không có đèn điện, không có gas, nấu cơm phải chụm củi. Vì vậy, nông dân ở dưới quê chuyên có người đốn củi, gánh vào trong thành để bán, gọi là tiều phu; Có người gánh nước, vào trong thành thị để bán, nhà nào cũng cần, là nhu yếu phẩm của dân sinh. Loại khuân vác này rất cực khổ, mà tiền kiếm được rất ít, một gánh củi chỉ được vài đồng. Thời đó tiền đồng rất có giá trị, đại khái một gánh củi, hay một gánh nước, thì họ cầm được vài cắc, một-hai cắc, thì họ đã có thể trải qua cuộc sống của một ngày. Vì vậy thời điểm đó người làm thuê trong thành, mỗi tháng kiếm được hai đồng thì đã có thể nuôi gia đình, phí sinh hoạt cho gia đình bốn người thì hai đồng đã đủ. Tiền khi đó dùng là đồng bạc, chứ không phải tiền giấy, vẫn chưa có tiền giấy, tiền là dùng tiền đồng, tiền đồng, đồng bạc, một-hai cắc, hình như cũng là bằng bạc, đều là bạc, không như bây giờ, bây giờ dùng tiền giấy. Có loại ngành nghề này.

Đại sư Huệ Năng chưa từng đi học, ngài bán củi. Sau khi bán củi xong, hôm đó ngài bán cho một quán trọ. Quán trọ tức là khách sạn hiện nay, quán trọ thời đó, đại khái cũng bất quá chỉ có năm-sáu phòng, có mười mấy phòng thì quán trọ ấy rất lớn, quán trọ nhỏ đều là ba đến năm phòng, ở được vài người khách, nhiều lắm chắc khoảng mười người, 10-20 người thì ở kín rồi, quán trọ nhỏ. Những việc này đều là điều chúng tôi nhớ rất rõ, chúng tôi đã trải qua thời kỳ ấy. Cho nên với những ghi chép trong sách xưa thì chúng tôi có thể lý giải, có thể lãnh hội được. Khi Đại sư Huệ Năng rời khỏi quán trọ, lúc bước ra đã ngang qua cửa sổ, cửa sổ của gian phòng, trong đó có âm thanh của người đọc sách. Cửa sổ thời ấy chưa có kính, dùng giấy để dán, cho nên có thể nghe thấy âm thanh, người thì nhìn không rõ, nhưng có thể nghe thấy âm thanh. Người đó ở bên trong đọc Kinh Kim Cang, ngài nghe được mấy câu, thì đã nghe hiểu, liền đứng ở đó nghe một lúc, càng nghe càng hoan hỉ. Một mực đợi đến ông ấy đọc xong, sau đó ngài bèn gõ cửa bước vào, đó là một người khách ở quán trọ, liền hỏi ông ấy, ‘ông vừa đọc là gì vậy ạ? Tôi nghe rất có đạo lý’. Người khách ấy cảm thấy rất ngạc nhiên, Kinh Kim Cang là một bộ Kinh điển rất có độ sâu, ngài có thể nghe hiểu được, thì ngài không phải là người thường. Cho nên liền hỏi tới, anh làm gì? Trong nhà ngài chỉ có hai mẹ con, phụ thân đã qua đời, hai mẹ con nương nhau mà sống, làm nghề đốn củi. Cho nên khi đến nơi đó bán củi, nghe được bộ Kinh Kim Cang ấy, nghe rồi hoan hỉ. Vị Cư sĩ ấy thấy được nhân tài như vậy, cảm thấy rất hiếm có, năm ấy ngài 24 tuổi, rất trẻ, liền khuyên ngài đến Hoàng Mai để tham học, để gặp Ngũ tổ. Cuộc sống của ngài ấy không có cách nào, vị Cư sĩ ấy bèn tặng cho ngài 10 lạng bạc, 10 lạng bạc, cũng đã đủ chi phí sinh hoạt cả năm của ngài; Còn có những bằng hữu (Phật hữu) niệm Phật, liên hệ vài người, thay ngài chăm sóc mẹ của ngài, như vậy thì ngài yên tâm rồi.

Ngài đến Hoàng Mai để tham học, đã sống ở Hoàng Mai tám tháng, Ngũ tổ bèn truyền y bát cho ngài. Vì thế ngài nhận được y bát, cũng tức là Tổ sư đời thứ sáu của Thiền tông, lúc 24 tuổi. Đây là giảng tới phải nhẫn nhục, có thể ra ngoài hoằng pháp lợi sanh không? Không được, tại sao vậy? Bởi mọi người xem thường quý vị, người khác không phục. Người tu hành với Ngũ tổ rất nhiều, có mấy trăm người, trong ấy xem ngài Thần Tú là đại Sư huynh, mọi người đều cho rằng: kế thừa Ngũ tổ nhất định là ngài Thần Tú, chứ không thể là ai khác. Vì thế Ngũ tổ tuyên bố phải truyền pháp, bảo cá nhân mỗi người làm một bài kệ gửi cho ngài xem, ba ngày nhưng không có ai gửi. Vì sao? Bởi mọi người đều cho rằng là ngài Thần Tú, chúng ta đều thua kém ngài Thần Tú, làm kệ là làm uổng công thôi. Trong tâm của chính ngài Thần Tú cũng có cân nhắc, mọi người không dám trình nộp bài kệ đều là vì ngài, vậy nếu ngài không làm thì nói không được. Cho nên ngài cũng thật sự đã dùng hết tâm tư để làm bài kệ: 身是菩提樹,心如明鏡台,時時勤拂拭,勿使惹塵埃 “Thân thị Bồ-đề thọ, tâm như minh kính đài, thời thời cần phất thức, vật sử nhạ trần ai” (Thân như cây Bồ-đề, tâm như đài gương sáng, luôn luôn siêng lau chùi, chớ để dính bụi dơ). Làm bài kệ này, cũng chưa dám gửi cho Ngũ tổ, ngài đem dán ở trên tường, trong tâm dự tính, nếu Ngũ tổ nói tốt, khen ngợi, thì ngài sẽ ra thừa nhận, là do con làm; Nếu như nói lời không tốt, thì xong rồi, ta sẽ không dám nhận [của mình], là tâm thái như vậy. Vì thế có người nói với Ngũ tổ, có người đã viết một bài kệ dán ở trên tường, Ngũ tổ đến xem, sau khi xem rồi thì rất tán thán, không tệ, rất hay, dặn dò hai chúng xuất gia và tại gia ở trong chùa, đều nên y chiếu bài kệ này để tu hành, sẽ có ích lợi. Sau đó Ngũ tổ bèn triệu kiến ngài Thần Tú, ngài Thần Tú thừa nhận, Ngũ tổ nói chưa kiến Tánh, hai ngày nữa lại viết bài kệ cho ta xem.

Tin tức ấy liền lập tức truyền khắp cả chùa, người từ trên xuống dưới đều biết. Đại sư Huệ Năng ở nhà giã gạo nghe được rồi, có người đọc, nghe được rồi, sau khi nghe được, ngài cũng nói (tìm người dẫn ngài), dán ở chỗ nào, dẫn tôi đến đó, tôi cũng muốn đó để cúi đầu lễ ba lạy, lễ bái, cung kính, khen ngợi, cúng dường. Từ chỗ này chúng ta có thể thấy được, Đại sư Huệ Năng là thật thà, nghe lời, thật làm, đã sống ở Hoàng Mai tám tháng, bài kệ ấy được dán ở khách đường trong chùa, mà ngài [cũng] không biết khách đường ở chỗ nào, quý vị liền hiểu được ngài ấy thật thà đến mức độ nào. Ngũ tổ bảo ngài ở nơi giã gạo giã gạo, thì ngài ở nơi giã gạo, đại khái nơi lân cận khác của chỗ giã gạo thì ngài cũng chưa từng đến. Sự thành tựu của ngài, đó là định công, trong tâm không có tạp niệm, không có Phân biệt Chấp trước, không hiếu kỳ, Sư phụ bảo tôi làm việc này, tôi liền ngày ngày làm. Không bảo tôi làm, thì tôi ngoan ngoãn làm tốt việc của chính mình, ở trong đó luyện công, thật sự ở nơi đó tu Thiền định, không có Định thì sao có thể khai ngộ? Vì thế ngài bèn đến đó, sau khi đến nơi ấy và lễ mấy lạy, thì ngài nói với người khác, ngài nói quý vị giúp tôi một chút, tôi cũng có bài kệ, tôi không biết viết chữ, quý vị viết giùm tôi với. Ngài sửa hết bài kệ của ngài Thần Tú: 菩提本無樹,明鏡亦非台,本來無一物,何處惹塵埃 “Bồ-đề bổn vô thọ, minh kính diệc phi đài, bổn lai vô nhất vật, hà xứ nhạ trần ai” (Bồ-đề vốn không cây, gương sáng cũng chẳng đài, xưa nay không một vật, chỗ nào dính bụi dơ). Sau khi bài kệ ấy vừa được dán lên, thì lập tức đã truyền tới chỗ của lão Hòa thượng, lão Hòa thường liền vội vã đến, gỡ bài kệ ấy xuống, lau sạch bài kệ, nói với mọi người chưa kiến Tánh, làm lắng dịu xuống.

Tiếp đó lão Hòa thượng đi tuần liêu, tuần liêu, đó là công việc của lão Hòa thượng Phương trượng, một tháng đều có một-hai lần, tức là đến khắp nơi trong chùa, đều xem qua một lượt, liễu giải tình hình, đấy là tuần liêu. Tuần liêu để làm gì? Không thể đơn độc đến tìm ngài Huệ Năng, nên dùng phương pháp tuần liêu, thảy đều xem một lượt, sẽ đến chỗ giã gạo. Đến chỗ giã gạo liền hỏi ngài: ‘Con giã gạo, gạo đã trắng chưa?‘ Ngài Huệ Năng thưa: Sớm đã trắng rồi ạ, nhưng vẫn chưa có sàng. Thiếu một cái, vẫn chưa có sàng, đã trắng từ lâu, các ngài nói chuyện nhưng người khác nghe không hiểu. Ngũ tổ dùng gậy của ngài gõ xuống vào cối ba cái rồi rời đi. Ngài Huệ Năng biết, còn người khác thì không biết, ý nghĩa là gì? Canh ba đến phòng Phương trượng để gặp ngài. Ngài hiểu, xung quanh rất nhiều người, bí mật này không thể tiết lộ, ngài biết. Tới canh ba, quả nhiên ngài đến phòng Phương trượng, cửa là đóng, nhưng không có khóa, vừa đẩy thì vào được rồi, nhìn thấy Ngũ tổ. Ngũ tổ rất hoan hỉ, con quả nhiên đã đến, đóng cửa lại, dùng áo cà sa để quàng lại, giảng cho ngài đại ý của Kinh Kim Cang, giảng đến: 應無所住,而生其心 “Ưng vô sở trụ, nhi sanh kỳ tâm”, ngài khai ngộ rồi. Thật sự khai ngộ rồi, đã nói năm câu nói: 何期自性,本自清淨;何期自性,本不生滅;何期自性,本自具足 “Hà kỳ Tự Tánh, bổn tự thanh tịnh; Hà kỳ Tự Tánh, bổn bất sanh diệt; Hà kỳ Tự Tánh, bổn tự cụ túc” (Nào ngờ Tự Tánh, vốn tự thanh tịnh; Nào ngờ Tự Tánh, vốn không sanh diệt; Nào ngờ Tự Tánh, vốn tự đầy đủ). Câu thứ ba này, đầy đủ điều gì? Vô lượng trí huệ, vô lượng đức năng, vô lượng tướng tốt, đầy đủ tất cả vũ trụ. Vũ trụ đến từ đâu? Là từ Tự Tánh biến hiện ra. Cho nên phía sau ngài còn nói thêm, câu thứ tư: 本無動搖 “Bổn vô động dao” (Vốn không dao động), tức là Tự Tánh vốn định. Vậy nên nhất định phải tu Định, quý vị mới có thể thấy Tánh, không có định công, tâm quý vị dao động, thì không thấy được Tánh. Câu cuối cùng là: 能生萬法 “Năng sanh vạn pháp” (Có thể sanh vạn pháp), ‘vạn pháp’ là toàn vũ trụ, toàn vũ trụ là do Tự Tánh hiện ra. Ngũ tổ vừa nghe, được rồi, liền trao y bát cho ngài, bảo ngài mau chóng rời đi.

Còn Ngũ tổ thì ở trong phòng ba ngày không ra khỏi cửa, không có ra khỏi phòng, mọi người đều cho là thân thể Hòa thượng không khỏe, cần nghỉ ngơi nhiều. Trên thực tế, Ngũ tổ cho ngài thời gian ba ngày, bảo ngài đi cho thật xa, sợ người ta truy đuổi, để mọi người đuổi theo không kịp. Đều rõ ràng, bởi nguyên nhân là gì? Đố kỵ chướng ngại. Khi đức Phật Thích Ca Mâu Ni còn tại thế, có Đề Bà Đạt Đa, Lục quần Tỳ-kheo, chuyên môn làm ác, phá hoại đạo phong của đức Phật Thích Ca Mâu Ni, khiến người báng pháp, tạo nghiệp. Đại sư Huệ Năng xuất hiện vào thời nhà Đường, thời ấy là thời đại hoàng kim của Phật giáo Trung Hoa, bậc Cao tăng Đại đức rất nhiều, mà còn có đố kỵ chướng ngại, còn có không phục. Ngày nay chúng ta, nếu quý vị tu được tốt, nếu giảng kinh giảng được hay, thì đố kỵ chướng ngại tới rồi, phải tu Nhẫn nhục Ba-la-mật. Không thể nhẫn, vậy thì không có cách nào nữa. May mà 3000 năm trước, đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã làm ra tấm gương Nhẫn nhục cho chúng ta xem. Tổ sư Đại đức thật sự có thành tựu. Duyên chưa chín muồi, thì phải lánh đi, ngài ẩn náu trong đoàn thợ săn 15 năm, không phải là thời gian ngắn. 15 năm lâu như thế, sự chướng ngại đố kỵ dần dần lắng dịu, nhạt rồi, mọi người đã quên hẳn sự việc này, cũng không để trong tâm nữa, lúc đó ngài xuất hiện, đi ra giáo hóa chúng sanh. Làm hưng thịnh lại Thiền tông, đã hưng thịnh 1.000 năm, 43 người Đại triệt Đại ngộ dưới tay ngài, Lục tổ. Tổ sư Đạt-Ma truyền đến, mỗi đời chỉ truyền một người, truyền đến đời thứ sáu, ngài Lục tổ đã truyền 43 người, đều là Đại triệt Đại ngộ, Minh tâm Kiến tánh, thật sự là không tiền tuyệt hậu. Từ sau ngài Lục tổ, 43 người học trò ấy, điều mà các ngài truyền lại, một-hai người thì nhiều, ba-bốn người thì rất ít. Vẫn là ngài Lục tổ truyền được nhiều, [tới] 43 người, một người truyền hai người, gần như chỉ hơn 100 người, Đại đức khai ngộ! Vì vậy Thiền tông vô cùng hưng thịnh.

Câu mà ngài nói sau cùng là: 何期自性,能生萬法 “Hà kỳ Tự Tánh, năng sanh vạn pháp” (Nào ngờ Tự Tánh, có thể sanh vạn pháp). Câu này rất quan trọng, vũ trụ không phải do Thần tạo ra, cũng không phải do Thượng đế tạo ra, mà là do Tự Tánh biến hiện. Tự Tánh có thể sanh có thể hiện, hiện ra là thế giới gì? Trên Kinh Vô Lượng Thọ đã nói, Thế giới Tây Phương Cực Lạc, là do Tự Tánh hiện, không có ngoại lệ. Biến Nhất chân Pháp giới mà Tự Tánh hiện: thành Thập Pháp giới, thành Lục đạo Luân hồi, đây là do A-lại-da làm. Tự Tánh không có, Tự Tánh chỉ là có thể hiện, có thể sanh có thể hiện, không thể biến. A-lại-da, A-lại-da là Vọng tâm, Tự Tánh là Chân Tâm, chư vị nên biết điều này. Tự Tánh được giảng ở đây là Chân Tâm, Chân Tâm không có sanh diệt, Chân Tâm không có ô nhiễm, Chân Tâm không có dao động. Chân Tâm ở đâu? Khắp Hư không, khắp Pháp giới, lại còn khắp tất cả thời: quá khứ, hiện tại, vị lai, ngay ở trước mắt chúng ta, nhưng chúng ta không nhận ra, Chân Tâm. Phàm phu Lục đạo dùng Vọng tâm. Người nào bắt đầu dùng Chân Tâm? Chứng được quả A-la-hán thì bắt đầu dùng Chân Tâm, nhưng không phải thuần chân, mà là mang theo vọng. Chúng ta cũng như vậy, thuần chân mang theo vọng, nhưng như thế nào? Chúng ta chỉ biết Vọng tâm, mà không biết có Chân Tâm, mê rồi. A-la-hán biết có Chân Tâm, có Vọng tâm, trong chân có vọng, trong vọng có chân, nhưng ngài lệch về chân. Cho nên ngài vượt khỏi Lục đạo Luân hồi, vượt khỏi Lục đạo Luân hồi là rời cứu cánh khổ, rời khổ đã rời sạch sẽ. Nâng cao lên nữa, A-la-hán đoạn Tập khí của Kiến tư thì chứng quả Bích-chi-phật, Bích-chi-phật phá Trần sa Phiền não liền là Bồ-tát, Bồ-tát đoạn tận Tập khí của Trần sa Phiền não, thành Phật ở trong Thập Pháp giới.

Vị Phật ấy không phải là Phật thật, mà là Tương tự Tức Phật, rất giống Phật. Vì sao không phải là thật? Bởi vì ngài vẫn là dùng Vọng tâm, vẫn chưa phải dùng Chân Tâm, dùng Chân Tâm mới là Phật thật, dùng Vọng tâm, dù học tốt cách mấy, giống đến đâu, thì người ta cũng xưng quý vị là Phật, nhưng là Tương tự Tức Phật, chứ không phải Phật thật. Ngài phải ở chỗ này, phá một phẩm Vô minh, chứng một phần Pháp thân, tức là Đại triệt Đại ngộ, Minh tâm Kiến tánh, thì ngài [mới] thoát li Mười pháp giới, đó là Phật thật, trong giáo lý Đại thừa xưng là Pháp thân Bồ-tát, ngài thành Phật, ngài trụ ở Nhất chân Pháp giới. Nhưng vẫn chưa viên mãn, vì sao? Vì chưa đoạn sạch Tập khí của Vô thủy Vô minh. không dễ đoạn Tập khí ấy, không có phương pháp để đoạn, nếu quý vị có phương pháp, thì phương pháp ấy là sai lầm, trong Tự Tánh không lập một pháp, thì làm sao lại có pháp hiện ra? Làm sao đoạn? Tùy vậy đi. Trong kinh đức Phật đã nêu thí dụ, giống như bình rượu, Ngài dùng bình rượu để làm tỉ dụ, rượu trong bình ấy, đổ cho sạch hết, xác thật là không còn gì nữa, lau cho sạch sẽ, ngửi lại vẫn còn có mùi, đây là tỉ dụ cho Tập khí. Làm sao đây? Đừng đậy nắp bình, để ở đó, để nửa năm, để một năm, rồi ngửi thử lại, thì không còn nữa. Bồ-tát Minh tâm Kiến tánh ấy (là Phật, thành Phật, kiến Tánh thì thành Phật), dùng Chân Tâm rồi, phải đến khi nào [mới] hoàn toàn đoạn sạch Tập khí? Phải ba a-tăng-kỳ kiếp, rất dài! Ngài phải có thọ mạng dài như vậy, ba đại a-tăng-kỳ kiếp. Điều này là được nói trong Tịnh tông, vô lượng của hữu lượng, tuổi thọ ấy là hữu lượng, ba đại a-tăng-kỳ kiếp. Sau ba đại a-tăng-kỳ kiếp, Tập khí của ngài được đoạn rồi, vậy thì rất tự nhiên biến thành vô lượng của vô lượng. Vì vậy Thế giới Cực Lạc, vô lượng của hữu lượng và vô lượng của vô lượng là liên tiếp nhau, không có sự rời rạc ở giữa, từ hữu lượng đạt được vô lượng, thật sự vô lượng thọ. Quả báo mà chứng được, là Phật quả, hoàn toàn tương đồng với A Mi Đà Phật.

Do đó chúng ta liền biết, người ở Thế giới Cực Lạc nhiều, tất cả chư Phật trong mười phương Thế giới đều giới thiệu Thế giới Cực Lạc cho mọi người, cũng tức là giảng bộ Kinh Vô Lượng Thọ này, giảng Kinh Quán Vô Lượng Thọ, giảng Kinh A Mi Đà, ba Kinh của Tịnh Độ, giới thiệu Thế giới Tây Phương Cực Lạc. Cho nên mỗi ngày người phát nguyện vãng sanh Thế giới Cực Lạc, từ mười phương Thế giới không biết là bao nhiêu! Thế giới Cực Lạc là Pháp Tánh độ, đó là chân thật. Tinh cầu của chúng ta sống đây là giả, là Cảnh giới tướng của A-lại-da, Tướng phần của A-lại-da, không phải là thật, là pháp sanh diệt. Thế giới Tây Phương Cực Lạc là cõi Pháp Tánh, là chân thật, là bất sanh bất diệt, là vĩnh hằng bất biến, hoàn toàn là được hiện bởi Chân Tâm. Người ở nơi ấy không có người dùng Vọng tâm, Vọng tâm sớm đã không còn, vào lúc nào thì không còn? Là lúc ngồi trong hoa sen vãng sanh Thế giới Cực Lạc, đến Thế giới Cực Lạc hoa nở thấy Phật thì không còn nữa, sự gia trì bởi uy thần của A Mi Đà Phật, giúp quý vị chuyển Thức thành Trí. Công đức của đức Mi Đà vô lượng vô biên, thật sự phải nên cảm kích! Chính chúng ta muốn chuyển Thức thành Trí: thì không phải là việc đơn giản, đời này chắc chắn làm không được, dù sao cũng phải nhiều đời nhiều kiếp mới có thể chuyển lại được.

Chúng ta gặp được Pháp môn này quá thù thắng! Nếu không có Pháp môn Tịnh tông, thì bất kể tu học Pháp môn nào, để một đời thành tựu, thoát khỏi Lục đạo Luân hồi, là không dễ, đa phần đều là đời sau ở hai cõi trời người, vẫn ở Lục đạo, ra không nổi. Gặp được Pháp môn này, quý vị có thể tin, quý vị thật sự chịu phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ, chỉ cần hai điều kiện này, tin thật, không có chút hoài nghi nào, thật sự tin tưởng Thế giới Cực Lạc có A Mi Đà Phật; Tôi đã hạ quyết định tâm, nhất định phải đến Thế giới Cực lạc, thân cận A Mi Đà Phật, thì quý vị nhất định vãng sanh. Vì vậy Pháp môn này rất dễ vãng sanh, nhưng rất khó tin, gọi là pháp khó tin. Chúng ta phải nắm chắc cơ hội này, nhất định phải tin tưởng, tin tưởng Phật Bồ-tát chắc chắn không có Vọng ngữ, chắc chắc không lừa gạt chúng ta, thật sự tin, thật sự phát nguyện, vãng sanh Thế giới Cực Lạc càng sớm càng tốt. Phát tâm độ chúng sanh, cũng phải nên nắm chắc Thế giới Cực Lạc, hiện nay chúng ta nói đăng kí tên, sau đó tâm liền buông xuống thôi. Tin thật nguyện thiết, [thì] đã đăng ký tên ở Thế giới Cực Lạc, quý vị chăm chỉ niệm Phật. Có thể vãng sanh hay không là do tín nguyện, địa vị vãng sanh Thế giới Cực Lạc cao tới đâu, đó là sự cạn sâu của công phu niệm Phật, chứ không phải nhiều hay ít, không liên quan niệm Phật bao nhiêu.

Niệm Phật phải có công phu, công phu là gì? Là buông xuống thế giới này, không có lưu luyến, không có lo lắng, vậy mới được. Nếu còn có lo lắng, còn có lưu luyến, thì phiền toái này lớn rồi, đó là sợi dây trói buộc chúng ta ở đây, quý vị ra không khỏi. Về công phu, Tịnh tông nói có ba bậc. Hạ phẩm, là Công phu Thành phiến, công phu này rất dễ đạt được, người thông thường 3 năm, 5 năm thì đạt được, đó là Công phu Thành phiến. Không nên cho rằng Công phu Thành phiến là rất thấp, đến Thế giới Cực Lạc thì quý vị sẽ biết thôi, chưa có công phu, thì học lên từ lớp 1 Tiểu học, phải học đến tốt nghiệp lớp 10; Lại học Trung học, Trung học cũng là lớp 1 đến lớp 10. Công phu Thành phiến là năm nhất, năm hai của Trung học, chứ không phải Tiểu học, người chưa có công phu là lớp 1, lớp 2 của Tiểu học, tức là Hạ phẩm Hạ sanh, chín phẩm Vãng sanh của Phàm Thánh Đồng Cư độ, Công phu Thành phiến là Vãng sanh vào 9 phẩm của Phương Tiện Hữu Dư độ. Cho nên buông xuống vạn duyên ở thế gian này, nhất tâm chuyên niệm A Mi Đà Phật, niệm trên 3 năm 5 năm, đến Thế giới Cực Lạc là xen lớp, xen vào lớp Trung học, điều này chính xác. Nâng lên tiếp là Sự nhất tâm Bất loạn, đắc Sự nhất tâm Bất loạn bằng với chứng được quả A-la-hán, vãng sanh Thế giới Cực Lạc, là Vãng sanh vào bậc Thượng bối của cõi Phương Tiện, tức là ba phẩm của bậc Thượng. Lại nâng lên đến Lý nhất tâm, tức là Đại triệt Đại ngộ, Minh tâm Kiến tánh, vãng sanh Thế giới Tây Phương Cực Lạc thì sanh Thật Báo Trang Nghiêm độ, đó là cấp bậc cao nhất. Về Lý và Sự đều phải làm rõ ràng, đều phải làm sáng tỏ, quyết trọn một lòng.

Vì vậy buông xuống thì phải dựa vào điều gì? Phải dựa vào nhẫn, quý vị nhẫn được thì quý vị mới buông xuống được, nhẫn không nổi tức là buông không xuống, có liên hệ rất lớn với việc buông xuống, buông xuống thân tâm thế giới. Công phu Thành phiến ở trong tâm, thế nào là Thành phiến? Là trong tâm chỉ có A Mi Đà Phật, ngoài A Mi Đà Phật ra, thì không có Vọng tưởng, không có tạp niệm, đó là Thành phiến. Công phu như thế, đại khái người thông thường với 3 tới 5 năm thì có thể đạt được, đạt được công phu này, thì quý vị sẽ thấy được A Mi Đà Phật, đức Phật đến báo tin vui cho quý vị, sẽ tới nói với quý vị, quý vị còn có tuổi thọ bao lâu, đợi đến khi thọ mạng quý vị hết, thì Phật tới tiếp dẫn quý vị vãng sanh, đã hẹn trước rồi. Nếu từ Sự nhất tâm trở lên, Sự nhất tâm thì đã đoạn Kiến tư Phiền não, không còn Tham Sân Si Mạn Nghi nữa. Thân kiến, Biên kiến, Thân kiến là chấp trước thân là ta, buông xuống rồi, biết thân không phải là ta. Thân là gì? Thân là sở hữu của ta, như y phục, y phục không phải là ta, là thứ mà ta có được. Thân thể không phải là ta, mà là thứ ta sở hữu, sẽ rất dễ buông xuống, đến Thế giới Cực Lạc là thân thật, không còn thân giả nữa. Buông xuống Biên kiến rồi, Biên kiến ​​là đối lập, trong cuộc sống hằng ngày, nhất định không có đối lập với tất cả người việc vật. Không có đối lập là sự việc thế nào? Biết tất cả chúng sanh với chính mình là một Thể. Đại sư Huệ Năng nói: 何期自性,能生萬法 “Hà kỳ Tự Tánh, năng sanh vạn pháp” (Nào ngờ Tự Tánh, có thể sanh vạn pháp), Tự Tánh là Chân ngã, là Chân Tâm, tất cả vũ trụ là do Tự Tánh biến ra, vì vậy tất cả vũ trụ có liên hệ gì với ta? Một Thể, một Thể thì không thể đối lập, đối lập thì sai lầm rồi. Cho nên đối lập là Biên kiến, là Nhị biên, không có Nhị biên, chung sống hòa thuận với hết thảy chúng sanh. Tôi biết rồi, họ chưa biết, họ đối lập với tôi, tôi không đối lập với họ, vậy phải Nhẫn nhục.

Họ bắt nạt ta, họ sỉ nhục ta, họ hãm hại ta, họ hủy báng ta, thảy đều phải hoan hỉ mà tiếp nhận, vì sao vậy? Bởi toàn là giả. Những gì họ nói, họ làm họ tạo thì phải tha thứ cho họ. Tại sao vậy? Bởi họ mê hoặc điên đảo, họ hiện tại là bị Vọng tâm làm quản gia, ta khó được, ta hiện nay đã làm rõ ràng về Chân Tâm, Vọng tâm rồi, tuy Chân Tâm vẫn chưa thể làm quản gia, nhưng cũng đã nương về trụ bên Chân Tâm rồi, Vọng tâm dần dần rời xa, đây là việc tốt! Nếu vẫn còn tranh luận, vẫn còn cạnh tranh với người, thì sai rồi. Cạnh tranh là không nên, đó là tạo nghiệp, tạo ác nghiệp. ‘Ngày nay không cạnh tranh, thì cuộc sống sẽ khó khăn’. Không có lời này, quý vị có thể nhẫn, thì quý vị có thể vượt qua. Nếu quý vị không thể nhẫn, nhìn thấy người khác ở nhà to, quý vị cũng muốn cất căn nhà to, nhưng quý vị không có phước báu này, thì khổ sẽ tới quý vị. Người khác thu nhập rất dồi dào, quý vị thu nhập rất ít ỏi, quý vị bất bình, không thể nhẫn, vậy không được. Thu nhập của họ nhiều, dồi dào hơn nữa, họ vẫn không đủ, vẫn có tâm tham. Chút ít này của tôi thì đủ rồi, thì tôi không muốn cầu gì thêm, mỗi ngày có thể ăn no, mặc ấm, có căn nhà nhỏ che gió che mưa, tốt! Không cần cầu gì nữa. ‘Người đến vô cầu thì phẩm hạnh tự cao, người đến vô cầu thì thành tựu đạo nghiệp’. Nhất định không tranh với người, không tranh với tất cả chúng sanh, tâm bình khí hòa, chỉ bảo trì một vị A Mi Đà Phật, trong tâm chỉ A Mi Đà Phật, ngoài A Mi Đà Phật ra thì điều gì cũng không có, ba năm như vậy, thì Công phu Thành phiến, A Mi Đà Phật đến báo tin mừng cho quý vị. Cho nên, nếu đến Sự nhất tâm, Lý nhất tâm, thì [việc] đến Thế giới Cực Lạc, lúc nào muốn vãng sanh, Phật liền tới tiếp dẫn, quý vị được đại tự tại.

Trong sự khổ nạn của chúng sanh trước mắt, quý vị muốn ra đi, nếu Phật thấy quý vị tu không tệ, quý vị vẫn rất có trí huệ, rất có phước báo, thì Phật sẽ gia trì quý vị, bảo quý vị trụ ở thế gian này thêm vài năm, tuổi thọ hết rồi thì kéo dài cho quý vị. Lão Hòa thượng Hải Hiền là như vậy, ngài sống đến 112 tuổi, ngài không có tuổi tác cao đến vậy, tôi thấy ngài cũng bất quá chỉ là bảy- tám mươi, hơn 70-80 là như vậy thôi, ngài có tuổi thọ dài như thế, là do đức Phật kéo dài cho ngài, đức Phật bảo ngài biểu pháp, bảo ngài làm tấm gương cho chúng ta xem. Chúng ta, nếu quý vị có nguyện này, không sợ khổ, không sợ khó khăn, không sợ chịu tội, thì có thể Phật Bồ-tát sẽ dùng tới quý vị, cũng tìm quý vị, hi vọng quý vị ở thế gian này thêm 10-20 năm, sống thêm 30-40 năm, tại sao vậy? Vì giúp chúng sanh khổ nạn, làm tấm gương tốt cho chúng sanh khổ nạn. Công phu của quý vị có thể nâng cao lên được không? Được, như lão Hòa thượng Hải Hiền, tôi đoán rằng, ngài đắc Công phu Thành phiến, là trước sau năm 25 tuổi. Người niệm Phật ấy, căn khí của ngài rất hiếm có, thật sự thật thà, nghe lời, thật làm. Cho nên Sư phụ truyền cho ngài một câu
Nam Mô A Mi Đà Phật, dặn ngài cứ thế mà niệm, quý vị xem, đã niệm một câu A Mi Đà Phật trong 92 năm, ngoại trừ lúc đi ngủ, không gián đoạn Phật hiệu. Không ra tiếng, niệm thầm, niệm trong tâm, không ảnh hưởng công việc, công việc của ngài là làm nông, trồng trọt, không ảnh hưởng. Cho nên 20 tuổi xuất gia, bắt đầu niệm Phật, 25 tuổi đắc Công phu Thành phiến, 30 tuổi đắc Sự nhất tâm Bất loạn, 40 tuổi đắc Lý nhất tâm Bất loạn, chính là Đại triệt Đại ngộ, Minh tâm Kiến tánh. Đẳng cấp ấy là bình đẳng với sự chứng đắc của Đại sư Huệ Năng, ngài Huệ Năng là đốn ngộ, vài ngày thì đã khai ngộ, còn ngài là tiệm ngộ, bắt đầu từ niệm Phật, đến Đại triệt Đại ngộ, Minh tâm Kiến tánh, là 20 năm. 40 tuổi, 20 năm, ngài có thể chứng được, từ trong CD về ngài, từ trong Vĩnh Tư Tập về ngài, chúng ta có thể thấy ra, làm chứng minh cho chúng ta. Chúng tu muốn hành chứng quả thì đi theo con đường này, đây là tấm gương tốt.

Chúng ta muốn hoằng pháp lợi sanh, thì phải đi theo con đường của đức Phật Thích Ca Mâu Ni, con đường ấy cũng rất khổ. Không thể xây đạo tràng, vì sao vậy? Bởi xây đạo tràng, thì quý vị bị đạo tràng chôn sống rồi. Tại sao vậy? Bởi quý vị phải quản người, phải quản tiền, phải quản việc, mỗi ngày quý vị vọng tưởng tạp niệm rất nhiều, quý vị muốn niệm đến Công phu Thành phiến, thì e rằng cả đời cũng làm không được. Nói cách khác, quý vị sẽ không nắm chắc vãng sanh. Phải biết điều này. Không thể tham luyến thế gian, là giả thôi. Thật sự làm rõ ràng, làm sáng tỏ rồi, tức là quý vị có trí huệ hiện tiền. Trí huệ là đã làm rõ ràng, làm sáng tỏ chân tướng sự thật, sau đó thì sao? Buông xuống, không để điều này trong tâm nữa. Điều này quan trọng hơn bất cứ điều gì. Cúng dường của mười phương đều có nhân quả, nếu dùng sai những cúng dường ấy thì sẽ phải chịu trách nhiệm nhân quả. Cho nên Đại sư Ấn Quang khuyên chúng ta, người thời nay xây dựng đạo tràng thế nào? Đạo tràng nhỏ, mọi người ở cùng nhau cộng tu, không nên vượt quá 20 người. Tốt! Bớt việc, đạo tràng nhỏ, 20 người cùng cộng tu với nhau, có một điện thờ Phật lớn như vậy thì đủ rồi, hai-ba người hộ pháp đã có thể chiếu cố, quý vị cũng không phải bận tâm chút nào. Hai-ba người hộ pháp rất dễ; Họ đến hộ trì quý vị, chăm sóc cuộc sống của quý vị; Nếu nhiều rồi, thì phải lao tâm, thì phải hại thân, vậy thì phải trả giá đắt. Giá phải trả ấy đều là mặt trái, không phải là mặt chánh. Cho nên nhất định không thể làm danh văn lợi dưỡng, không thể xây đạo tràng lớn. Những sự việc này, tôi cũng là lúc mới học Phật, thầy đã dạy cho tôi, Đại sư Chương Gia dạy rất nhiều, dạy tôi tu ba loại Bố thí, lão Cư sĩ Lý Bỉnh Nam cũng dạy rất nhiều, tôi theo thầy 10 năm. Đặc biệt là Đại sư Chương gia dạy tôi học đức Phật Thích Ca Mâu Ni, đức Phật Thích Ca Mâu Ni suốt đời không có đạo tràng, ở dưới cây một đêm, giữa ngày ăn một bữa. Hiện tại chúng tôi có một mái tranh nhỏ, lớn hơn chút xíu thì đủ rồi, đã vừa lòng thỏa ý. Mái tranh nhỏ này của tôi mà tặng người ta thì người ta không cần, họ chê nhỏ, cho nên không bận tâm.

Phật pháp, nối tiếp Huệ mạng của Phật là quan trọng. Văn hóa truyền thống nước ta là nền văn hóa ưu việt nhất trên thế giới, ngần ấy năm trên trái đất này, biết bao quốc gia dân tộc, kể cả tôn giáo, đều không có cách nào sánh được với nước ta. Những bậc cổ Thánh tiên Hiền sáng tạo văn hóa nước ta, trong lịch sử có ghi, Tam hoàng Ngũ đế, Nghiêu Thuấn Vũ Thang, Khổng tử Mạnh tử, Lão tử Trang tử, tôi luôn cảm thấy các ngài không phải là người phàm, mà là do Phật Bồ-tát tái lai, nếu không thì sao có thể truyền lại những điều tốt đẹp như vậy. Ở nước ta đã dùng mấy ngàn năm, ít nhất cũng đã dùng ba-bốn ngàn năm, mà không có xảy ra việc gì. Thời cận đại sau khi Mãn Thanh mất nước, bước vào thời Dân Quốc, thời Dân Quốc đã bỏ hết truyền thống nước ta, xuất hiện xã hội không tường hòa, dân chúng lọc lừa lẫn nhau, không có chữ tín, động loạn, tai nạn của xã hội nhiều như thế. Thời xưa có, nhưng rất ít, trong lịch sử có ghi chép điều này. Chứng minh những thứ truyền thống ấy của nước ta là có hiệu quả! Tiến sĩ Toynbee nói rất hay, sự động loạn của xã hội toàn cầu, ông nói khi người Trung Hoa gặp khó khăn, chỉ cần quay đầu tìm lại Tổ tiên xưa, thì vấn đề sẽ được giải quyết. Ở toàn thế giới, thì Tổ tiên xưa của dân tộc quốc gia nào là đoạn ác tu thiện, tích lũy công đức? Quý vị đi tìm, tìm không được. Tổ tiên xưa hiểu được việc đoạn ác tu thiện, tích lũy công đức, chỉ có mỗi dân tộc này của nước ta, không có dân tộc thứ hai. Tổ tiên xưa để lại những thứ này, đây là của báu thật sự, của báu khác là giả. Những của báu khác đó, không có cách nào giúp chúng ta thân tâm khỏe mạnh, vui vẻ hạnh phúc, làm không được, cùng lắm là mang lại cho quý vị một ít của cải. Đức Phật nói tài sản là của chung của năm nhà, nếu trong mạng quý vị không có tài sản, thì dù nhiều hơn, cũng sẽ rất nhanh chóng tiêu tan, đó là không thể nương tựa. Luân lý, Đạo đức, Nhân quả, giáo dục Thánh hiền [mới] đáng tin. Thứ này sẽ không mất đi. Ngũ luân Ngũ thường, Tứ duy Bát đức, trong Phật pháp là Tam quy, Ngũ giới, Thập thiện, cộng với câu A Mi Đà Phật này, thì vấn đề đều được giải quyết. Quý vị nên sáng tỏ đạo lý này.

Về Kinh, thì Kinh điển Đại thừa rất nhiều, chỉ cần quý vị có tâm nhẫn nại, quý vị chịu học tập. Hiện giờ tìm không được thầy tốt nữa, nhưng có CD, có thể giúp ích rất lớn, tận dụng những công cụ Khoa học này. Công cụ Khoa học cũng không đáng tin lắm, một trận động đất lớn, hay một cơn sóng thần to, vài phút thôi thì thành phố đã không còn. Cho nên giáo dục phải cắm rễ từ nhỏ, lúc nhỏ chưa có học, còn trẻ học bù cũng vẫn được, 20 đến 30 tuổi, nghiêm túc mà học bổ sung, bù đắp vào môn khóa này, cả đời thọ dụng cũng không hết. Đây là [lý do] chúng tôi muốn mở viện Hán Học, muốn vì tiếp nối sự học đã dứt của cổ Thánh tiên Hiền, mở thái bình cho ngàn năm vạn đời, hoằng truyền văn hóa truyền thống, hoằng truyền Phật pháp Đại thừa. Đây là do ông Toynbee dạy chúng ta, ông nói rất sáng tỏ, giải quyết vấn đề xã hội trên thế giới ở thế kỷ 21, ông nói chỉ có học thuyết Khổng Mạnh và Phật pháp Đại thừa. Học thuyết Khổng Mạnh ở Trung Hoa, Phật pháp Đại thừa cũng ở Trung Hoa. Học thuyết Khổng Mạnh là gì? Là Tứ Thư Ngũ Kinh. Phật pháp Đại thừa, là Hoa Nghiêm, Thiên Thai, Pháp Tướng, Tam Luận, Tịnh Độ, những Kinh sách này rất nhiều, năm loại lớn này thì được rồi, đã có thể giúp xã hội an định, giúp địa cầu hóa giải tai nạn. Phải làm thật! Ai đến làm? Bồ-tát đến làm. Bồ-tát là ai? Quý vị phải phát tâm, phát đại nguyện, con muốn làm Bồ-tát, như vậy mới được. Cầu người không bằng cầu chính mình, cầu người, người không chịu, không còn cách nào hơn, là cầu chính mình. Thật sự cầu chính mình, thì Tam Bảo sẽ gia trì quý vị, Tổ tiên sẽ chăm sóc quý vị. Phát tâm phải vững, không sợ khổ, chịu nổi được khảo nghiệm. Thuận cảnh, gặp được hoàn cảnh tốt, có lợi ích đối với chính mình; Người gặp được cũng tốt, đều là người tốt, sẽ giúp cho tôi. Thuận cảnh, thiện duyên không khởi tham luyến, phải giữ bổn phận. Gặp phải ác duyên, hoàn cảnh không tốt, rất ác liệt, muốn làm việc gì đó, nhưng đâu đâu cũng có chướng ngại; Người gặp phải đều không tốt, đều là lừa dối ta, đều là muốn chiếm lợi ích, đều là đến gây chướng ngại, [cũng] không sanh oán hận. Ở trong cảnh giới ấy, tu tâm chính mình đến Thanh tịnh Bình đẳng Giác, thì quý vị có thể thực hiện việc chịu khổ thay cho chúng sanh, thực hiện hoằng truyền văn hóa truyền thống, hoằng truyền Phật pháp Đại thừa, quý vị có thể làm được. Không phát tâm lớn nguyện lớn, không bằng lòng chịu gian khổ, vậy thì làm không được, nhất định làm không được. Thật sự phải chịu được những gian khổ mà người khác không thể chịu, phải nhẫn được những sỉ nhục mà người khác không thể nhẫn, thì công đức mới có thể viên mãn.

Phải noi gương Tổ tiên, thời Tam hoàng Ngũ đế, thời đại Thượng cổ, người dân chưa có nhà để ở, ở trong hang động, sống dựa vào nghề săn bắt. Đến Thần Nông, Thần Nông thử qua trăm thứ cỏ, phát hiện thực vật có thể duy trì sự sống, cho nên ông dạy người trồng trọt, định cư. Dân du mục không có định cư, nhưng khi trồng trọt thì đất đai ở tại chỗ, cho nên bèn định cư. Định cư, vậy là đã có nhà, đều là rất đơn giản, tường đất, mặt trên lợp cỏ tranh. Về đời sống, một nửa dựa vào đi săn, một nửa dựa vào trồng trọt. Tổ tiên của chúng ta có thể chịu được, có thể nhẫn. Theo sự thay đổi của thời gian, dần dần người ta ngày càng thông minh hơn, phát minh rất nhiều máy móc, mang đến rất nhiều tiện lợi, cuộc sống từng bước cải tiến. Cải tiến, như Tổ tiên xưa đã nói, tất cả thọ dụng đều nên có chừng mực, không nên hưởng hết phước. Hưởng phước vẫn phải tu phước, thì phước của quý vị mới hưởng mãi không hết; Nếu quý vị không tu phước, mà phước hưởng hết rồi, thì khổ nạn sẽ tới. Vì thế hưởng phước phải biết gieo phước. Con cháu người nước ta, ai nấy đều tuân thủ lời dạy của Tổ tiên, cho nên ở mỗi triều đại khác nhau của khu vực này đều sẽ có thái bình thịnh thế.

Thời thịnh thế ấy làm sao mà xuất hiện? Do giáo dục mà xuất hiện, đối với giáo huấn của Tổ tiên chúng ta không để gián đoạn, mãi cho đến thời nhà Thanh. Thủ phạm gây nên chắc là Thái hậu Từ Hi, Thái hậu Từ Hi ngạo mạn, không nói đạo lý, không hiếu học. Trong triều đình, trong triều đình nhà Thanh, thường xuyên lễ thỉnh Chuyên gia Học giả đến giảng dạy trong cung, Văn võ Bá quan đều tham gia lớp học, giống như trường Đảng ngày nay. Nhưng bà hủy bỏ chế độ này, không nghe những người này nữa, bà mê tín, bà thích hầu đồng, đại sự của quốc gia đều xin quỷ thần đến chỉ đạo, quỷ thần đã diệt mất đất nước của bà. Nhà Thanh mất nước, Dân Quốc nổi lên, xã hội Trung Hoa ở trong cảnh hỗn loạn, quân phiệt cắt cứ, người Nhật Bản thì xâm lược, động loạn bất an, tạo thành tai nạn ngày nay. Ngày nay chúng tôi rất cảm kích Chủ tịch, ông đã quay đầu, tìm về Tổ tiên xưa, tìm đến bộ Quần Thư Trị Yếu này, ông giống như Đường Thái Tông tay không rời quyển sách, ngày ngày đều đang đọc, đem những điều của môn này: quyết định làm khóa trình bắt buộc trong trường Đảng. Đó là như ông Toynbee nói, quay lại tìm lão Tổ tiên thì việc gì cũng giải quyết được. Nước ngoài không có, hiện nay chúng ta giúp nước ngoài, hi vọng dịch cuốn sách này sang tiếng nước ngoài, ân đức của Tổ tiên xưa chúng ta, họ cũng thơm lây. Đây đều là sự nghiệp mà trước mắt chúng ta cần phải làm cấp bách. Quan trọng nhất chính là phát tâm làm Bồ-tát, làm Bồ-tát thì phải chịu khổ chịu nạn, có thể chịu khổ chịu nạn mới có thể cứu khổ cứu nạn, không thể chịu khổ chịu nạn thì không thể cứu khổ cứu nạn. Người hiện nay thật sự quá khổ, quá đáng thương rồi.

Cho nên khi học hoằng pháp lợi sanh thì phải nhớ, cầu học, Kinh điển rất sâu, phải có tâm kiên nhẫn, đọc tụng trước. Ghi nhớ, Tổ tiên xưa truyền cho chúng ta, là ‘nhất môn thâm nhập, trường thời huân tu’. Chọn một loại kinh thôi, không nên chọn nhiều. Chọn một loại, đọc, trước tiên đọc ba ngàn biến, đọc từng biến một. Nếu phân lượng kinh quá lớn, thì niệm một ngàn biến, không thể ít hơn một ngàn biến. Như Kinh Vô Lượng Thọ, bản mà chúng ta dùng, phải đọc ba ngàn biến, bởi vì phân lượng không nhiều. Đọc thuộc rồi, đại khái đọc được hai năm, đọc một lần thì chỉ cần nửa giờ. Vì thế mỗi ngày, quý vị đọc 10 giờ sẽ được 20 biến, niệm chữ cho chuẩn xác, không niệm sai, không có niệm bỏ sót, vậy thì cắm rễ rồi. Đây là gì? Tu Giới, tu Định, dùng phương pháp này, phương pháp đọc sách để tu Giới Định. Bởi vì quý vị đọc sách, thì quý vị sẽ không nghĩ ngợi lung tung, quý vị sẽ không phạm Giới, điều mà quý vị nghĩ đều là nội dung trong kinh, những thứ ở thế gian này: quý vị đã không còn nghĩ tới nữa, đó là thật sự trì Giới. ‘Thâm nhập một môn’ là tu Định, tôi không xen tạp, tôi chỉ có một môn, tu bao lâu? 10 năm. Sau 10 năm tôi sẽ tu những môn khác, dễ dàng rồi, gốc của quý vị đã cắm xuống. Không có gốc rễ, nền tảng của 10 năm, thì quý vị học môn khác, học nhiều hơn nữa cũng không hiểu môn nào, đều là một chút ngoài da, đều không thể thâm nhập.

Cho nên thâm nhập một bộ Kinh này, thâm nhập đến cùng, sau đó xem những môn khác mà suy ra, đều thông toàn bộ. Hiện tại chúng ta có hai người, hai vị Cư sĩ, Cư sĩ Lưu Tố Vân ở Đông Bắc, cô chuyên tu chuyên học Kinh Vô Lượng Thọ, chính là bản này. 10 năm, 10 năm trước cô cắm gốc rồi, bây giờ người ta thỉnh cô giảng kinh nào, cô cũng biết giảng, thông rồi, không dám nói Triệt ngộ, cũng là trong khoảng Đại ngộ, Tiểu ngộ, thật khai ngộ rồi. Người thứ hai là chú Hồ Tiểu Lâm ở Bắc Kinh, chú có khoảng sáu năm gần nhất: chuyên về Đại Thừa Khởi Tín Luận, cũng là đọc bộ Kinh này trên ngàn lần, thông rồi, chú xem Kinh luận Đại thừa đến rất nhẹ nhàng, thảy đều có thể xem hiểu. Chú còn phải tiếp tục làm bốn năm nữa, để mãn 10 năm. Tôi nói với chú, 10 năm cắm rễ xuống, đủ 10 năm. Những người ấy thật sự là Bồ-tát truyền Pháp.

Vì vậy nếu quý vị không nhẫn được khổ này, thì không có cách nào. Cho nên cầu học thì phải nhẫn, mỗi ngày không thể ít hơn 10 biến. Mới đầu sẽ rất xa lạ, niệm bộ Kinh này, niệm một biến đại khái phải hai giờ, sau nửa năm, một giờ niệm được một biến, quý vị có thể đọc thuộc lòng rồi, một giờ, 10 giờ niệm được 10 biến. Hiện tại vừa mới bắt đầu thì 10 giờ niệm được 5 biến, sau nửa năm, 10 giờ [được] 10 biến, sau hai năm, 10 giờ [được] 20 biến, nếu thật làm, thì Phật Bồ-tát gia trì quý vị, Tổ tiên bảo hộ quý vị. Sau 10 năm, quý vị lại đi dạy học, hoằng pháp lợi sanh, bất luận dạy kinh nào, quý vị cũng không có chướng ngại. Dùng Kinh Vô Lượng Thọ là sự lựa chọn rất tốt, vì sao? Bởi nhất định nắm chắc được việc vãng sanh của chính mình. Không bận lòng với chính mình nữa, có thể chuyên vào việc giúp chúng sanh, phục hưng lại Phật pháp. Phục hưng lại, thì tám tông phái của Phật pháp, hai tông phái Đại thừa, Tiểu thừa, hết thảy đều phải phục hưng lại, quý vị có năng lực làm được. 10 năm công phu ấy là đáng giá, cho nên phải nhẫn nại.

Việc truyền thừa nền Quốc học cũng vậy, văn hóa truyền thống cũng là phải từ việc giáo dục cắm rễ. Cắm rễ nhất định là giống nhau, Đệ Tử Quy, Cảm Ứng Thiên, Thập Thiện Nghiệp, những sách truyền thống, về dưỡng chánh trẻ thơ trước đây của Giáo dục Tư thục: có mười mấy loại, như Thiên Tự Văn, Bách Gia Tánh, những sách này đều có thể học. Bách Gia Tánh giảng rõ ràng, giảng sáng tỏ về điển tích, nguồn gốc của mỗi dòng họ, các bạn nhỏ sẽ rất yêu quý đối với dòng họ, gia đình của chúng, rất nhiều chỗ tốt. Từ trong cổ tịch có thể chọn ra mười mấy loại. Cho nên hiện tại không cần tự mình biên soạn tài liệu, tự chúng ta biên soạn thì soạn thế nào cũng không bằng người xưa, tài liệu mà người xưa biên soạn đã dùng mấy ngàn năm mà không xảy ra việc gì, nhiều thế hệ đều dùng tài liệu ấy, hiện nay chúng ta biên soạn tài liệu thì đã xảy ra chuyện, dùng thứ cũ tốt, không cần tìm thứ mới. Những thứ cũ quá nhiều rồi, vô cùng có giá trị. Phật pháp, cổ nhân soạn ra, vào thời nhà Minh, [có sách] Phật Giáo Tam Tự Kinh, tôi tin rằng có một số người từng nhìn thấy, cuốn ấy dùng làm nhập môn rất tốt, văn chữ không nhiều, nhưng đều đã giới thiệu đến mười tông phái, thật sự là một bộ sơ học nhận thức Phật giáo, hoặc là Phật giáo thường thức. Không cần chúng ta biên soạn tài liệu, chúng ta biên soạn tài liệu thì có tranh luận, mỗi người đều muốn biên soạn, lúc soạn ra thì đều khác nhau. Dùng những sách của người xưa tốt, tuyển ra từ trong sách xưa. Đây tức là phải cầu học, đây là Pháp nhẫn.

Thứ tư: 云何名菩薩隨佛教忍。菩薩瞋惱毒心起時 “Vân hà danh Bồ-tát Tuỳ Phật Giáo nhẫn. Bồ-tát sân não độc tâm khởi thời” (Thế nào là Tuỳ Phật Giáo nhẫn của Bồ-tát. Khi tâm độc sân hận phiền não của Bồ-tát khởi lên), điều này thường có, sân hận, tức giận, chữ ‘độc’ này chính là ba độc Tham Sân Si, thêm vào hai độc, là ngạo mạn, hoài nghi, [thành] năm độc Tham Sân Si Mạn Nghi, khi những ý niệm này khởi lên, 作是思惟 “tác thị tư duy” ([thì] tư duy thế này), chuyển đổi ý niệm lại. 此身從何而生,從何而滅 “Thử thân tùng hà nhi sanh, tùng hà nhi diệt” (Thân này do đâu mà sanh, do đâu mà diệt), nghĩ chính mình, nghĩ tới thân này của ta từ đâu mà đến, làm sao lại đến nhân gian? Đã đến rồi, thì tránh không khỏi chết đi, khi nào diệt? Chết đi, chết là điều chưa biết được. 從我生者,何者是我?從彼生者,何者是彼? “Tùng ngã sanh giả, hà giả thị ngã? Tùng bỉ sanh giả, hà giả thị bỉ?” (Từ người sanh ra ta, người nào là ta? Từ người sanh ra họ, người nào là họ?) Ta được sanh ra, ta đến đầu thai, ta là ai? Nếu nói được cha mẹ sanh ra, thì cha mẹ lại là ai, tại sao cha mẹ có thể sanh ra ta? 法相如是 “Pháp tướng như thị” (Pháp tướng như vậy), hiện tượng của tất cả vạn pháp là kiểu như vậy. 從何因緣生? “Tùng hà nhân duyên sanh?” (Sanh từ nhân duyên nào?) Ba chữ ‘Nhân Duyên Sanh’ là quan trọng, đó là do Phật pháp nói, Phật pháp cho rằng tất cả vũ trụ đều là do duyên sanh, Nhân, Duyên, Quả, Báo, Nhân duyên là có thể sanh, Quả báo là được sanh. Nếu sáng tỏ đạo lý này, duyên thiện, thì quả báo đằng sau khẳng định là thiện; Duyên ác, thì quả báo đằng sau khẳng định là khổ, như vậy liền biết có thể bỏ ác dương thiện. Chúng ta không nên suy nghĩ, không nên để ý, cũng không nên nói, càng không được đi làm những điều xấu trái; Đối với điều thiện, mặt chánh diện, thì chúng ta nghiêm túc học tập, nghiêm túc bồi dưỡng, tiền đồ là một mảng quang minh, hạnh phúc chân thật. Vì vậy đức Phật nói, ‘vạn pháp do duyên sanh, vạn pháp do duyên diệt’.

菩薩作是思惟時,不見所從生;亦不見所緣起;亦不見從我生,亦不見從彼起;亦不見從因緣生。作是思惟,亦不瞋,亦不惱,亦不毒。瞋怒之心即便減少 “Bồ-tát tác thị tư duy thời, bất kiến sở tùng sanh; Diệc bất kiến sở duyên khởi; Diệc bất kiến tùng ngã sanh, diệc bất kiến tùng bỉ khởi; Diệc bất kiến tùng nhân duyên sanh. Tác thị tư duy, diệc bất sân, diệc bất não, diệc bất độc. Sân nộ chi tâm tức tiện giảm thiểu (Lúc Bồ-tát tư duy như thế, không thấy sanh từ đâu; Cũng không thấy duyên khởi chỗ nào; Cũng không thấy sanh từ ta, cũng không thấy khởi từ họ; Cũng không thấy sanh từ nhân duyên. Tư duy như thế, cũng không sân hận, cũng không phiền não, cũng không độc hại. Tâm sân nộ liền sẽ giảm bớt). Đây là dùng quán tưởng, ngay trong cuộc sống hàng ngày, gặp những sự việc này, thì hồi quan phản chiếu, người khác làm tổn thương ta, ta là ai. Làm tổn thương thân ta, thân là giả, sanh diệt trong từng sát-na, trọn không đạt được, họ không thể làm tổn hại được. Dụng tâm mà nghĩ xem, nghĩ sáng tỏ rồi, Phiền não liền bình lặng, liền trở về tự nhiên, tự nhiên là Thanh tịnh Bình đẳng Giác. Mục tiêu cuối cùng nhất của tu học Phật giáo chính là Thanh tịnh Bình đẳng Giác, thanh tịnh là A-la-hán, bình đẳng là Bồ-tát, giác là thành Phật, nâng cao tiến lên từng giai đoạn một, giác liễu chân tướng của vũ trụ nhân sinh. Ai giác liễu? Đại sư Huệ Năng giác liễu, quý vị thấy y bát của Ngũ tổ đã truyền cho ngài. Vậy nên chúng ta thường thường phải tu sám hối mỗi ngày, sám trừ nghiệp chướng, Bồ-tát Phổ Hiền dạy cho chúng ta. Sám hối nhất định là không thể lìa khỏi nhân sự, chúng ta tiếp xúc hoàn cảnh nhân sự, tất cả đều là mặt chánh, thiện mà không tham luyến, nếu tham luyến thì đến không được Thế giới Cực Lạc; [Mặt] bất thiện, ác mà không sanh sân khuể, sanh sân khuể cũng đến không được Thế giới Cực Lạc. Vậy làm sao đến Thế giới Cực Lạc? Tâm phải thanh tịnh bình đẳng, dùng tâm thanh tịnh bình đẳng, dùng tin sâu nguyện thiết, thì có thể vãng sanh. Tin sâu nguyện thiết là điều kiện, thanh tịnh bình đẳng cũng là điều kiện. Phương tây là Tịnh Độ, Tịnh Độ từ đâu mà đến? Tâm tịnh thì Phật độ tịnh, là do tâm thanh tịnh của A Mi Đà Phật biến hiện ra, mỗi người vãng sanh cũng là dùng tâm thanh tịnh, ở trong Tịnh Độ tăng thêm một phần thanh tịnh, là thành tựu như vậy, vãng sanh Thế giới Cực Lạc là đã có cống hiến vào Tịnh Độ, không phải không có cống hiến, Thanh tịnh Bình đẳng Giác là cống hiến. Vậy bình thường chúng ta phải làm được điều gì? Không sân, không phiền não, không độc, điều này rất quan trọng, phải thường sanh tâm hoan hỉ. Như lão Hòa thượng Hải Hiền, ngài làm được điều này rồi, cả đời lão Hòa thượng chưa từng nổi giận, chưa từng đỏ mặt với người khác. Vì vậy lão Hòa thượng thật sự làm được, với người, với việc, với vật, không có sân khuể, không có phiền não, không có ý niệm bất thiện. Chữ ‘độc’ này là Tam độc: Tham Sân Si. Tâm sân nộ liền sẽ giảm bớt, 是名隨佛教忍 “thị danh Tuỳ Phật Giáo nhẫn” (đó là Tùy Phật Giáo nhẫn), chữ ‘giáo’ này là giáo hóa, do đức Phật chỉ dạy chúng ta.

Phật giáo ban cho chúng ta, căn bản bên trong là Tam phước, Lục hòa, Tam học, Lục độ, Thập đại Nguyện vương, đủ rồi, không cần nhiều thêm nữa, hầu như đều bao quát cả. Tam phước là nguyên tắc chỉ đạo cao nhất, thứ nhất là: 孝養父母,奉事師長 “Hiếu dưỡng phụ mẫu, phụng sự Sư trưởng” (Hiếu dưỡng cha mẹ, phụng sự Sư trưởng), phải làm được, đây là hiếu thân tôn sư. Giáo dục bây giờ xuất hiện vấn đề rồi, vấn đề ở đâu? Học sinh không biết hiếu thuận cha mẹ, không biết tôn Sư trọng Đạo, cho nên thầy không thể dạy nữa. Tôi đã đích thân gặp phải, 64 năm trước, lúc tôi 26 tuổi, tôi gặp một nhà Triết học là Tiên sinh Phương Đông Mỹ, là hậu duệ của phái Đồng Thành, tôi muốn học với thầy. Thầy hẹn tôi đến nhà thầy gặp mặt, nói với tôi, thầy nói: ‘Nếu anh muốn đến trường để nghe bài giảng, thì anh sẽ thất vọng lớn’, đó là nguyên nhân gì? Thầy hiện nay không giống thầy, học trò không giống học trò. Lúc đó tôi không hiểu rõ tình trạng này, sau này tôi thường xuyên ra nước ngoài, tôi từng tiếp xúc trường học ở nước ngoài, là tình trạng như vậy. Học trò ở trước mặt thầy: một chút lễ mạo cũng không có, thậm chí có học trò, không thích vị thầy ấy, cả để ý tới cũng không, xem thầy như người xa lạ, gật đầu một cái cũng không có, vậy làm sao được? Ấn tổ nói với chúng ta, học thuật truyền thống của nước ta, phải dùng tâm chân thành, tâm cung kính mới có thể học được, cho nên một phần thành kính (chân thành cung kính) thì được một phần lợi ích, mười phần thành kính thì được mười phần lợi ích. Nói cách khác, học trò hiện nay đối với thầy cô, đối với bài học không có tâm thành kính, thầy cô thì sao? Không dạy nữa. Nhưng lại không thể không lên lớp, giáo viên, họ là chức nghiệp, họ phải sống nhờ vào nghề này, học sinh không muốn học, không có hứng thú học, học sinh cần là thành tích, là bằng cấp, tương lai ra xã hội để tìm công việc, giáo viên chơi đùa với học sinh, khi thi cử thì nói đề thi với các trò, điểm số trò nào cũng tốt, mỗi người đều mãn nguyện, nhưng không học được gì cả.

Cho nên nếu chúng ta muốn học, thì một học trò, thầy cũng dạy. Thầy hẹn với tôi, mỗi ngày cuối tuần: từ 9 giờ 30 đến 11 giờ 30 sáng, hai tiếng đồng hồ, giảng cho tôi một buổi học, hai tiếng đồng hồ, tổng cộng hình như có hai-ba tháng, đã giảng một bộ Triết học Khái luận. Đề mục cuối cùng là Triết học Kinh Phật, tôi vô cùng kinh ngạc, Phật giáo là tôn giáo, là mê tín, làm sao lại có Triết học? Thầy nói với tôi, ‘anh còn trẻ, anh không hiểu, đức Thích Ca Mâu Ni là Triết học gia vĩ đại nhất trên thế giới, Triết học trong kinh Phật (đặc biệt là Đại thừa) là đỉnh cao nhất của Triết học cả thế giới’, thầy còn nói với tôi, ‘học Phật là sự hưởng thụ cao nhất của đời người‘. Tôi học Phật là học ở trong phòng khách của thầy, không giống như người khác. Những lời ấy của thầy, trước nay tôi chưa nghe ai nói bao giờ, là thật, không phải là giả. Cho nên sau khi khóa học ấy kết thúc, thì tôi đã không có đến nữa. Vì sao? Bởi tôi biết được Đại sư Chương Gia, thầy [Phương] thì xem Phật giáo như Triết học để nghiên cứu, còn Đại sư Chương Gia là làm thật, thật sự là một vị Đại đức. Cho nên tôi tiếp tục theo Đại sư Chương gia, Đại sư Chương gia cũng đối với tôi như vậy, cũng là mỗi tuần cho tôi thời gian, một đến hai tiếng đồng hồ, khi thầy có công việc thì một tiếng, Chủ nhật nào mà thầy không có việc, thì thầy cho tôi hai tiếng. Phật pháp của tôi là được học như vậy, rất hiếm có, một người cũng dạy. Gặp được người thật sự muốn học, người thật sự phát tâm, ‘trong hàng Đệ tử Phật, không bỏ một ai’; Nhà nho cũng như vậy, dù chúng ta không đóng xu học phí nào, thầy vẫn nghiêm túc giảng dạy cho quý vị. 64 năm đã trôi qua, nhưng ân đức của thầy mãi mãi không thể nào quên.

Đến hiện tại, thời cận đại, chẳng những Phật pháp Đại thừa là Triết học cao cấp, mà còn là Khoa học cao cấp, đặc biệt là Cơ học Lượng tử, những khám phá hiện nay, trên kinh Phật đều có, so với những báo cáo đó thì nói còn rõ ràng, còn chi tiết hơn. Vì thế tôi có lý do để tin tưởng, sau 30 năm, nhà Khoa học sẽ thừa nhận Đại thừa là đỉnh cao tột bậc của Khoa học, Phật giáo không còn là tôn giáo nữa, mà là Khoa học bậc cao. Bí mật của vũ trụ có ba điều, tức là như Khoa học nói, ba thứ hình thành nên vũ trụ, thứ nhất là vật chất, thứ hai là ý niệm, thứ ba là hiện tượng tự nhiên. Bí mật của đại tự nhiên, hình thành nên toàn vũ trụ. Hiện tượng vật chất được làm rõ ràng rồi, đó là hơn 20 năm gần đây, nhà Khoa học đã khám phá bí mật của vật chất. Tôi thấy báo cáo đó là của ông Planck, nhà khoa học của nước Đức, cả đời ông chuyên nghiên cứu vật chất, vật chất rốt cuộc là gì, bí mật đã phơi bày. Phơi bày ra là gì? Là giả tướng, căn bản là không tồn tại, với điều mà trong kinh Phật đã nói: 凡所有相皆是虛妄、一切有為法,如夢幻泡影 “Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng, nhất thiết Hữu vi pháp, như mộng huyễn bào ảnh” (Những gì có tướng đều là hư vọng, tất cả pháp Hữu vi, như mộng huyễn bọt bóng), hoàn toàn tương đồng như trong Kinh Kim Cang nói. Kinh Kim Cang là do đức Phật thuyết vào 3000 năm trước, hiện tại họ mới phát hiện ra.

Vật chất là gì? Bằng phương pháp phân tích, 80 năm trước nhà Khoa học đã phát hiện nguyên tử, lúc đó cho rằng dạng nhỏ nhất của vật chất là nguyên tử. Theo sự tiến bộ không ngừng của những thiết bị này, thiết bị tinh vi có thể làm vỡ nguyên tử, sau khi làm vỡ nguyên tử, thì thấy có hạt nhân nguyên tử, có electron, có neutron, nguyên tử không phải nhỏ nhất, mà neutron, electron là nhỏ nhất. Rồi tiếp đó, neutron, electron, hạt nhân nguyên tử cũng bị phá vỡ, phát hiện hạt bên trong, là hạt cơ bản, có năm-sáu mươi loại. Những thứ này rất nhỏ nhưng vẫn làm vỡ được, sau khi làm vỡ, tên khoa học là hạt quark. Hạt quark vẫn chưa phải là hạt nhỏ nhất, lại phá vỡ ra, thì hiện ra thứ nhỏ nhất, là neutrino. Neutrino lớn bao nhiêu? Nhà Khoa học nói với chúng ta, 10 tỷ neutrino tập hợp cùng một chỗ, thể tích của chúng bằng với một electron. Cũng tức là nói: đó là 1/10 tỷ của electron, nhỏ như vậy, mắt thường thì nhất định không thấy được, ngay cả nguyên tử thì mắt thường cũng không thấy được. Những máy móc đó của nhà Khoa học rất lợi hại. Lại phá vỡ neutrino, thì không có nữa, phát hiện gì? Rỗng không. Đây là như trong kinh Phật nói, vật chất nhỏ nhất được giảng trong kinh Phật là Cực vi sắc, sau khi Cực vi sắc bị phá vỡ: chính là Hư không, liền không có nữa. Cho nên gọi là Lân hư trần, Phật giáo dùng chữ bụi của bụi đất để ẩn dụ cho vật nhỏ, Lân hư là hàng xóm với Hư không, hàng xóm với Hư không, nếu một khi phá vỡ nó, thì Hư không sẽ xuất hiện. Sau khi phá vỡ neutrino, vật chất không còn nữa, sẽ thấy được gì? Thấy được là hiện tượng sóng dao động của ý niệm. Lúc đó mới hoảng nhiên đại ngộ, hóa ra vật chất là từ trong ý niệm mà sanh ra, là huyễn tướng được sanh ra bởi ý niệm.

Tần số của ý niệm cao bao nhiêu? Nhà Khoa học vẫn chưa nói được rõ ràng, nhưng trên kinh Phật rất rõ ràng. Hiện tại chúng ta là dùng giây làm đơn vị, trong một giây sanh diệt bao nhiêu lần? Niệm trước diệt, niệm sau sanh, ý niệm ấy tồn tại, ý niệm không phải là giả. Niệm trước diệt, niệm sau sanh, tần số nhanh bao nhiêu? Trên kinh Phật nói, là 2 triệu 240 ngàn tỷ, đơn vị là ngàn tỉ, tần số cao như vậy. Cũng tức là nói việc tạo ra vật chất, là dựa vào 2 triệu 240 ngàn tỷ lần: hiện tượng sóng dao động của ý niệm, ảo tướng được sanh ra dưới tần số cao như vậy, không phải là thật. Nếu quý vị hiểu được đạo lý này, thì quý vị sẽ biết một cách triệt để thân không phải là ta, vì sao vậy? Bởi một giây, thì tướng này của chúng ta đã biến đổi bao nhiêu lần? 2 triệu 240 ngàn tỷ lần, lần nào là ta? Nếu lần nào cũng là ta, thì ta đâu mà nhiều vậy, ở đâu ra ta nhiều thế? Điều này giảng không thông. Không có, là giả tướng. Phát hiện này có sự trợ giúp rất lớn đối với việc học Phật của chúng ta, với hai câu nói trong Kinh Kim Cang thì sẽ không còn nghi ngờ nữa: 凡所有相皆是虛妄、一切有為法,如夢幻泡影 “Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng, nhất thiết Hữu vi pháp, như mộng huyễn bào ảnh”, không có nghi hoặc nữa, là thật, không phải là giả. Vì vậy Khoa học, tôi tin có một ngày sẽ kết hợp lại với Phật học.

Thời gian hôm nay hết rồi, chúng ta học tập đến đây thôi. ‘Tùy Phật Giáo nhẫn’, Phật giáo là Kinh điển, Kinh điển nói chúng ta phải nhẫn, quý vị [vẫn] không nhẫn y như trước, thì chúng ta đã phạm lỗi lầm. Hiện nay nhà Khoa học đã nói, ‘phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng’, mọi người tin tưởng, không còn nghi ngờ nữa. Vì vậy chúng ta hi vọng, Khoa học sẽ tiến xa hơn, ý niệm là gì: (ý niệm cũng không phải là thật), tìm được Tam tế tướng của A-lại-da, đây là bí ẩn của vũ trụ, vũ trụ là do đây mà hình thành, tìm ra điều ấy. Chúng ta hồi hướng thôi.

(Hết tập 230)

Nguyện đem công đức này
Hướng về khắp tất cả
Đệ tử cùng chúng sanh
Đều sanh nước Cực Lạc
Sớm viên thành Phật quả
Rộng độ khắp chúng sanh.

Nam Mô A Mi Đà Phật.