TỊNH
ĐỘ ĐẠI KINH KHOA CHÚ 2014 (Giảng lần thứ 4)
PHẨM 24: TAM BỐI VÃNG
SANH:
Ba Bậc Vãng Sanh
Tập 305
Hòa thượng
Tịnh Không chủ
giảng.
Giảng tại: Hiệp Hội
Giáo Dục Phật Đà Hồng Kông.
Thời
gian: Ngày 24 tháng 1 năm 2016.
Dịch giả:
Thích Thiện Trang.
Kính chào chư vị Pháp
sư, chư vị đồng học, mời an tọa. Thỉnh mọi
người cùng
tôi quy y Tam Bảo:
A-xà-lê tồn niệm,
ngã đệ tử Diệu Âm, thỉ tùng kim nhật, nãi chí mạng tồn, quy y Phật Đà, lưỡng
túc trung tôn, quy y Đạt-Ma, ly dục trung tôn, quy y Tăng-Già, chư chúng trung
tôn (3 lần)
Mời xem Đại Kinh Khoa Chú, trang 730, chúng ta bắt đầu xem
từ hàng thứ nhất, câu thứ hai trở đi:
剋實而論,則煩惱不異菩提,始惡何妨終善。惡人既已成善,豈不賢聖同科。三輩九品,正相配合。又何疑焉。上之會通,甚契法要 “Khắc thật nhi luận, tắc phiền não bất
dị Bồ-đề, thủy ác hà phương chung thiện. Ác nhân ký dĩ thành thiện, khởi bất hiền
thánh đồng khoa. Tam bối cửu phẩm, chánh tương phối hợp, hựu hà nghi yên. Thượng
chi hội thông, thậm khế pháp yếu”(Thật sự mà luận, thì phiền não
nào khác Bồ-đề, sự ác ban đầu nào trở ngại sự thiện lúc sau, người ác đã thành người thiện, thì nào khác
bậc Hiền Thánh. Ba bậc chín phẩm, thật phù hợp với nhau, há còn ngờ chi! Sự dung thông này rất khế hợp pháp yếu). Trong kinh văn thường hay có
những việc như thế này, đều có căn cứ. Có người nói: ba bậc chín phẩm là cấp bậc,
địa vị của vãng sanh. Có người dùng nhân hạnh làm tiêu chuẩn; nhưng cũng có người
cho rằng: chín phẩm là công phu niệm Phật sâu hay cạn. Như thượng thượng phẩm
vãng sanh, thì công phu niệm Phật, mà chúng ta thường nói là lý nhất tâm bất loạn,
nói cho thông: chính là Sơ-trụ Bồ-tát trên Kinh Hoa Nghiêm, đã phá một phẩm
vô-minh, chứng một phần Pháp-thân, đó chính là cấp bậc lý nhất tâm bất loạn của
Tịnh-tông; còn sự nhất tâm bất loạn là đã đoạn hết kiến-tư phiền não, tương
đương với cảnh giới của A-la-hán; công phu thành phiến chính là Tương-tự-tức-Phật
theo cách nói của Đại sư Thiên Thai. Nên nói như vậy đều có căn cứ. Bốn độ ba bậc
chín phẩm, trong bốn độ thì cao nhất là Thường-tịch-quang độ, Đẳng-giác Bồ-tát
vãng sanh mới chứng đắc được độ này; Dưới Đẳng-giác, bậc Thập-địa Bồ-tát trở xuống
đều chưa có phần, Thập-địa Bồ-tát sống tại Thật-báo-trang-nghiêm độ. Trong Thật-báo-trang-nghiêm
độ thì bậc Sơ-trụ trở lên mới bắt đầu tính, chúng ta nói theo Kinh Hoa Nghiêm
là Sơ-trụ, Thập-trụ, Thập-hạnh, Thập-hồi-hướng, Thập-địa, và Đẳng-giác, tất cả gồm
41 địa vị, đều gọi là A-duy-việt-trí. Chúng ta cần biết một chút về điều này.
A-duy-việt-trí có sâu cạn không giống nhau, 41 cấp bậc đó đều gọi là A-duy-việt-trí.
Tức là viên chứng tam bất thoái gồm: vị bất thoái, hạnh bất thoái và niệm bất
thoái. Thế Giới Cực Lạc có những phẩm vị đó, trong kinh nói rất rõ ràng, nhưng
sự đãi ngộ đều bình đẳng, tất cả đãi ngộ đều như đối với A-duy-việt-trí.
A-duy-việt-trí ở trong Thật-báo-độ có 41 cấp bậc, dùng cấp bậc nào để làm tiêu
chuẩn, là dùng bậc cao nhất, cao nhất chính là Đẳng-giác. Cho nên, ở đây cũng
là pháp khó tin, làm sao mà có thể đạt được địa vị, vị thứ cao đến như vậy. Đến
bậc cao nhất, cao nhất của A-duy-việt-trí, là Văn Thù Bồ Tát, Phổ Hiền Bồ Tát,
Quán Thế Âm Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ Tát, quý ngài đều ở địa vị Hậu-bổ-Phật. Phẩm
vị cao nhất của Thật-báo-trang-nghiêm độ là Hậu-bổ-Phật, là Đẳng-giác Bồ-tát. Tiếp
tục đi lên thì ra khỏi Thật-báo độ, hòa vào Thường-tịch-quang. Chúng ta cũng cần
phải làm sáng tỏ những sự lý này.
Ba bậc chín phẩm mà trong đây đã nói, thì những câu nói của Đại sư Liên
Trì là rất hay, thật sự mà luận, tức là nói thật, nói thật thì thế nào? Phiền
não chính là Bồ-đề, chỉ là một không phải hai, mê rồi thì gọi là phiền não, ngộ
rồi thì gọi là Bồ-đề, toàn là nói của Tự-tánh. Chúng ta dùng lời nói phương tiện
để mọi người dễ hiểu, thì đó là chân tâm. Trong giáo lý Đại-thừa khuyên phát Bồ-đề
tâm, vãng sanh Thế Giới Cực Lạc không thể không có Bồ-đề tâm, người không có Bồ-đề
tâm thì quyết định không được vãng sanh, nên Bồ-đề tâm là quan trọng nhất!
Nhưng làm sao phát Bồ-đề tâm, Bồ-đề tâm là gì? Phải làm cho rõ ràng. ‘Bồ-đề’ là
tiếng Phạn, là cổ ngữ của Ấn Độ, là dịch âm mà ra, dịch thành Trung văn gọi là
giác, tức là giác ngộ, không mê. Chữ ‘Bồ-đề’ này, thì tiêu chuẩn để nói là đại
triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh, đó mới thật là Bồ-đề. Chúng ta phát tâm,
nhưng không chứng được; nếu chứng được thì vãng sanh Thật-báo độ, sớm đã thoát
khỏi lục đạo luân hồi rồi. Hiện nay chưa chứng được, thì chúng ta cần phải phát
tâm như thế nào? Là dùng tâm chân thành trong đời sống, xử việc, đối người tiếp
vật, đó là Bồ-đề tâm. Nhà Phật gọi là Bồ-đề tâm, còn trong cổ lão của Trung Hoa
có danh từ khác, như sách Đại Học nói là ‘minh minh đức’, minh đức tức là phát
Bồ-đề tâm. Hiện nay Bồ-đề tâm không minh, như vừa nói lại thêm vào một chữ
‘minh’, chữ ‘minh’ này là động từ, thành ‘minh minh đức’, ‘minh minh đức’ chính
là phát Bồ-đề tâm. Ý nghĩa hoàn toàn giống nhau, một là của nhà Nho, một là của
Phật pháp Đại-thừa, quý vị cần làm sáng tỏ hai điều này, thì quý vị mới hiểu được
Nho với Phật là một thể. Người Ấn Độ xưng là Phật, còn người Trung Hoa xưng là
Thánh nhân, nếu Khổng Tử sanh tại Ấn Độ, thì người ta xưng Ngài là Phật; nếu
Thích Ca Mâu Ni Phật sanh ở Trung Hoa thì Ngài được xưng là Thánh nhân, là một
không phải hai.
Bồ-đề
tâm là chân tâm, tâm chân thành đến tột cùng chính là tâm Vô-thượng Bồ-đề. Cho
nên, mê rồi thì gọi là phiền não, phiền não là vọng tâm, còn Bồ-đề là chân tâm.
Chân tâm gặp được duyên thì hiện tướng, hiện tướng gì? Là toàn bộ vũ trụ. Toàn
bộ vũ trụ này từ đâu mà đến? Nhà Nho và nhà Phật đều không nói là do thần tạo
ra, không có nói như vậy, vậy vũ trụ từ đâu mà đến? Là do Tự-tánh biến hiện ra.
Quý vị thấy Đại sư Huệ Năng khi đã khai ngộ, Ngài là người thời triều Đường, Ngài
không phải là người Ấn Độ, Ngài không có đọc sách, không có biết chữ, sau khi
khai ngộ, minh tâm kiến tánh. Tự-tánh là thế nào, nói ra xem? Ngài đã nói ra,
nói ra 20 chữ, được Hòa thượng Ngũ tổ Hoằng Nhẫn công nhận, Ngài đã tốt nghiệp
rồi, đã thành Phật rồi, liền trao y bát cho Ngài. Hai mươi chữ đó rất quan trọng,
20 chữ đó là chỉ cho chân tâm. Chân tâm thì đầu tiên là thanh tịnh, ‘vốn tự
thanh tịnh’. Có ô nhiễm hay không? Không có ô nhiễm, ô nhiễm là vọng tâm, vọng
tâm mới bị ô nhiễm. Chân tâm thì vĩnh viễn sẽ không bị ô nhiễm, nó vốn thanh tịnh.
Hay nói cách khác, tại sao Đại sư Huệ Năng có thể khai ngộ? Vì tâm Ngài thanh tịnh,
Ngài không có vọng tưởng, Ngài không có tạp niệm, nhờ đó mà khai ngộ. Tại sao
người thời sau như chúng ta không khai ngộ? Thật sự có khai ngộ, Thiền-tông ở
Trung Hoa, trong sách Ngũ Đăng Hội Nguyên đã ghi lại hơn 1700 người, đều là
minh tâm kiến tánh. Nên nhất định phải dùng tâm thanh tịnh, dùng tâm thanh tịnh
chính là dùng chân tâm. Chỉ cần tâm này thanh tịnh, thì điều khác không cần nói
đến nữa, đó là A-la-hán rồi, là Tiểu-thừa, đây là sự thật, không phải là giả.
Lại
tiếp tục đi lên, Đại sư Huệ Năng nói ‘không sanh không diệt’. Toàn bộ vũ trụ
này, kể cả khởi tâm động niệm của chúng ta đều có sanh diệt, có sanh có diệt, nhưng
chân tâm thì không sanh không diệt, tức là tâm thanh tịnh không có sanh diệt. Tâm
ô nhiễm thì có sanh diệt, không phải tâm sanh diệt, mà ô nhiễm có sanh diệt, cần
làm sáng tỏ điều này, phân biệt có sanh diệt, vọng tưởng có sanh diệt; vọng tưởng
phân biệt chấp trước, những thứ đó có sanh diệt, còn tâm này không sanh diệt, phải
làm rõ ràng vấn đề này. Chúng ta phải trong vọng tâm này để thấy được chân tâm,
vậy thì đúng rồi, việc này rất có lợi ích. Dùng chân tâm không dùng vọng tâm,
thì đó là Phật Bồ-tát, là chân chánh tu hành. Đều ở ngay trước mắt chúng ta, đôi
mắt mở ra, những gì là chân, những gì là vọng, rõ rõ ràng ràng minh minh bạch bạch.
Sanh diệt với không sanh diệt là đồng thời. Giống như chúng ta xem TV, màn hình
của TV không có sanh diệt, bật TV lên là một vùng ánh sáng, nó không có sanh diệt;
thứ gì sanh diệt? Là hình ảnh ở trong đó, hình ảnh là có sanh có diệt, còn màn
hình đó thì không sanh không diệt. Sanh diệt và không sanh diệt hòa lẫn cùng
nhau, không ngăn trở lẫn nhau, không sanh diệt không ngăn ngại sanh diệt, sanh
diệt không ngăn ngại không sanh diệt, chúng không trở ngại. Phàm phu chúng ta
chỉ nhận biết sanh diệt, cho nên nhìn thấy điều gì? Chỉ thấy hình ảnh, không biết
màn hình đó, đem màn hình quên đi rồi. Đem những thứ ấy bày ra trước mặt, chỉ
tên của chúng thì dễ dàng hiểu được. Dùng những thứ đó để làm tỷ dụ rất hay, rất
là giống, từ đó mà lãnh hội, dùng chân tâm không dùng vọng tâm. Trong chân tâm
không có khởi tâm, không có động niệm, không có phân biệt, không có chấp trước,
đó là chân tâm. Nên nó là thật thanh tịnh, không có ô nhiễm; ô nhiễm là vọng
tâm, phân biệt là vọng tâm, chấp trước là vọng tâm, khởi tâm động niệm là vọng
tâm. Hiểu được làm sao tu, vốn là Phật, cần ghi nhớ rằng, mỗi một người đều vốn
là Phật, nên cần phải trở về.
Phật
giúp đỡ chúng ta, Ngài xuất hiện ở thế gian, Ngài đã phát đại Bồ-đề tâm, đại bi
tâm, giúp đỡ chúng ta quay về Tự-tánh, đó chính là Giáo dục của Đức Phật, trừ
điều đó ra, thứ khác đều không có, chỉ là trở về Tự-tánh. Phật có cho chúng ta
điều gì không? Không có, những gì Ngài thuyết, những gì Ngài dạy, toàn là trong
Tự-tánh chính mình vốn đầy đủ. Câu thứ ba của Đại sư Huệ Năng là ‘vốn tự đầy đủ’,
đầy đủ điều gì? Là vô lượng trí huệ, vô lượng tài nghệ, vô lượng đức năng, vô
lượng tướng hảo. Toàn bộ vũ trụ này là do Tự-tánh biến hiện ra, tất cả đầy đủ,
không ở bên ngoài, ‘ngoài tâm không có pháp, pháp không ở ngoài tâm’, quý vị phải
hiểu đạo lý này. Tôi cầu tiền tài, thì cầu ở người nào? Cầu từ trong tâm, không
phải cầu ở bên ngoài, ở bên ngoài không có. Bên ngoài mà có, thì đó chính là
trong mạng quý vị có, tức là chính quý vị tu mà được, không phải của Tự-tánh, bởi
tài bảo của Tự-tánh là do trong Tự-tánh sanh ra. Làm sao để tu tài bảo của Tự-tánh?
Buông xuống vọng tưởng phân biệt chấp trước thì được, vì Tự-tánh đều đầy đủ tất
cả.
Nhưng
quý vị không biết sử dụng tài bảo của Tự-tánh, thì Thích Ca Mâu Ni Phật làm ra
tấm gương tốt nhất cho chúng ta. Quý vị thấy lúc Thích Ca Mâu Ni Phật ở đời, đời
sống của Ngài rất đơn giản, chỉ ba y một bát, đó là tất cả tài sản của Ngài; giữa
ngày ăn một bữa, tối ở dưới gốc cây, đó là đời sống thường ngày của Ngài. Người
ta nói là nghèo đến tận cùng, đi xin ăn. Giống như kẻ ăn mày, nhưng không giống
như kẻ ăn mày thông thường, kẻ ăn mày thông thường rất khổ, và buồn rầu; Còn
Thích Ca Mâu Ni Phật thì ngày ngày vui vẻ, pháp hỷ sung mãn, thường sanh tâm
hoan hỷ, là không giống nhau. Chúng ta quay lại để nhìn Khổng Lão Phu Tử ở
Trung Hoa, thật sự Khổng Lão Phu Tử cũng đạt được cảnh giới ấy, nhưng vẫn không
có cách nào so sánh ngài được với Thích Ca Mâu Ni Phật, Thích Ca Mâu Ni Phật
ngay cả ngôi vua cũng không cần, xả bỏ luôn. Còn Khổng Tử thì vẫn đi tìm cầu một
chức quan, đi chu du liệt quốc, nhưng không ai dám dùng ngài, nên ngài không có
địa vị rất cao trong xã hội, không có; đời sống gia đình ngài rất bình thường, không
phải là gia đình giàu có, cũng là miễn cưỡng có thể sống qua ngày, đó là một
gia đình tiểu khang. Nhưng Phu Tử hạnh phúc, sau khi chu du liệt quốc trở về dạy
học, chỉ dạy học 5 năm, thì ngài ra đi rồi. Đại biểu thật sự hạnh phúc nhất là
ai? Là Nhan Hồi, Nhan Hồi là người nghèo hèn nhất trong hàng đệ tử của Khổng Tử,
nhưng người hạnh phúc nhất, vui vẻ nhất trong 3000 đệ tử của Khổng Tử, lại là
Nhan Hồi. Vì sao ngài vui? Điều này người thường không đạt được, người thường
không có cảnh giới đó, mà là Thánh nhân. Nhà Phật nói là Đức Phật, cao hơn một bậc
so với Bồ-tát. Trong sách Luận Ngữ có một câu nói: ‘bất diệc duyệt hồ’, duyệt
là hạnh phúc. ‘học nhi thời tập chi’, tức là đem những gì ngài học tập mà thực
hành trong đời sống, thì hạnh phúc không gì bằng được.
Hạnh
phúc không phải ở giàu có, không phải ở địa vị, không phải ở quyền thế, không
liên quan chút nào với những thứ ấy. Trong Phật pháp xem những thứ ấy gọi là tạo
nghiệp, quý vị lo cho mọi người, đó là thiện nghiệp; nếu quý vị chỉ lo cho
chính mình, thì là ác nghiệp. Thiện nghiệp thì sanh ba đường thiện, ác nghiệp cảm
ba đường ác, đều không ra khỏi lục đạo luân hồi, quý vị vui điều gì? Quý vị vui
từ đâu ra? Như những người minh tâm kiến tánh đã siêu vượt rồi, quý ngài rõ
ràng sáng tỏ đối với tam giới lục đạo, quý ngài buông xuống được, chịu buông xuống,
nên siêu vượt rồi, được đại tự tại, dù bất kể là thân phận, địa vị, hoàn cảnh
gì, quý ngài vẫn hạnh phúc, ngay cả khi Khổng Tử hết lương thực, Thích Ca Mâu
Ni Phật chịu quả báo ba tháng ăn lúa ngựa, vẫn làm thị hiện cho chúng ta, thật
tuyệt diệu! Phải hiểu được điều này. Nên vì sao phải học Nho, ngày nay vì sao
chúng ta phải học văn hóa truyền thống? Bởi ‘học mà luôn thực hành, thì không
phải là vui lắm sao’, Khổng Tử đã nói được rất rõ ràng, là vì điều đó. Tại sao
chúng ta học Phật? Thích Ca Mâu Ni Phật nói là ‘được pháp hỷ sung mãn, thường
sanh tâm hoan hỷ’. Ngài tiên sinh Phương Đông Mỹ khi giới thiệu Phật pháp cho
tôi, tôi nghe được câu nói này thì liền tiếp nhận: ‘học Phật là sự hưởng thụ tối
cao của đời người’. Là thật hay không? Là thật, tôi học Phật đến nay năm là 65
năm, tôi có thể chứng minh, học Phật là sự hưởng thụ tối cao của đời người, hạnh
phúc không gì bằng, không có lo lắng, không có phiền não, dù thuận cảnh hay nghịch
cảnh, thiện duyên hay ác duyên, đều luôn bình đẳng. Tại sao là bình đẳng? Bởi tất
cả đều như không, giả chứ không phải thật, nên quý vị liền hạnh phúc. Nếu quý vị
cho đó là thật, thì khổ không nói nên lời; nếu quý vị biết đó là như không, thì
quý vị hạnh phúc không gì bằng. Thấy người khác đang sanh phiền não, thì chúng
ta không làm chuyện khờ dại đó, nên phiền não với Bồ-đề đã chia ra làm hai.
Chúng
ta học Phật, đặc biệt là học Tịnh-độ tông, hy vọng tương lai vãng sanh đến Thế
Giới Cực Lạc, trước khi học Phật có tạo ác, ai cũng không tránh được việc đó, bởi
sanh trong thời đại này. Nhưng sau khi sáng tỏ rồi thì dứt ác tu thiện, đây là
sự ác ban đầu nào trở ngại sự thiện lúc sau. Sám hối nghiệp chướng, đoạn ác tu
thiện, hạnh phúc không gì bằng. Người ác đã thành người thiện, thì nào khác bậc Hiền Thánh. Thật sự sám hối, thật sự sửa
đổi, thì người ác liền thành người thiện. Hiện nay chúng ta biết, trong nước có
không ít giảng đường đạo đức, một kỳ của giảng đường đạo đức chỉ có bảy ngày, dạy
học theo hình thức đóng, rất nhiều người ác sau khi qua bảy ngày học tập ấy, đã
trở thành người tốt, thay đổi thật rồi. Không phải là giả, vị tham quan đến học
sau bảy ngày bèn trở thành liêm khiết. Đất nước có tiền đồ tốt, từ đâu mà biết?
Là từ giảng đường đạo đức mà thấy được. Hiện nay chính phủ đã chính thức cho
phép giảng đường đạo đức hoạt động rồi, vả lại nghe nói cơ quan chính phủ cùng
thực hiện, ngay cả chính phủ trung ương cũng nhận định là: có lợi ích đối với
xã hội, giúp xã hội cải tạo nhân tâm, dứt ác tu thiện, thật sinh ra hiệu quả. Giảng
đường đạo đức như vậy mỗi quận huyện đều có, mỗi xã phường đều có, thôn làng
cũng có. Trung Quốc thực hiện hơn 2 hay 3 năm, thì đến lượt các nước lớn trên thế
giới thực hiện văn hóa truyền thống của mình, mỗi quốc gia mỗi khu vực có thể
làm tấm gương tốt cho toàn thế giới, thì các nước khác sẽ đến học. Vậy thì nền
văn hóa truyền thống phương Đông được hồi sinh rồi, đây là việc tốt.
Tiếp theo sẽ thông qua lời của Đại sư
Liên Trì, 甚契法要“thậm
khế pháp yếu”(rất khế hợp pháp yếu), với pháp Đại-thừa
của Đức Thế Tôn truyền, chữ ‘yếu’ tức là bộ phận quan trọng. 蓋天台等主張兩經相配者 “Cái
Thiên Thai đẳng chủ trương lưỡng kinh tương phối giả”(bởi
chủ trương hai kinh giống nhau của những ngài như Thiên Thai v.v…), hai
kinh tức là Kinh Vô Lượng Thọ và Quán Kinh, cách nói trong hai bộ kinh này đối
với ba bậc chín phẩm, 乃著眼於往生後之階位“nãi
trước nhãn ư vãng sang hậu chi giai vị”( là
chú trọng vào ngôi vị sau khi vãng sanh), mà không đề cập đến tu nhân ở thế gian hiện nay, đây là chưa có đề cập
đến một chút về ‘hành trì’, 靈芝諸師 “Linh Chi chư sư”(Các sư
Linh Chi), quý ngài có cách nhìn khác, 乃專就因地行持,乃就曾否早發菩提心與平日之善惡而言。則《觀經》之下三品,不能齊於本經之下輩矣“nãi
chuyên tựu nhân địa hành trì, nãi tựu tằng phủ tảo phát Bồ-đề tâm dữ bình nhật
chi thiện ác nhi ngôn. Tắc Quán Kinh chi hạ tam phẩm, bất năng tề ư bổn kinh
chi hạ bối hỹ.”(là bởi
chuyên chú vào
hành trì ở nhân địa,
cũng như việc
đã từng phát Bồ-đề
tâm
hay chưa và thiện ác
trong hằng ngày mà nói. Căn cứ vậy thì ba phẩm hạ trong Quán Kinh không thể đồng
với bậc hạ trong kinh này).
Sau cùng Đại sư Liên Trì nói: 始惡不妨終善“thủy ác bất phương chung thiện”(sự
ác ban đầu nào trở ngại sự thiện lúc sau), câu này nói được hay! Chỉ cần sửa
lỗi, người ác sửa lỗi thì chính là người thiện, quá khứ là người ác thì không
truy cứu nữa, họ giờ thành người thiện, họ đã thật quay đầu. Ngạn ngữ nước ta
có câu: ‘Lãng tử hồi đầu kim bất hoán’(lãng tử quay đầu, thì quý hơn vàng), đã
quay đầu thì chính là người đại thiện. Trong đồng học chúng ta có vị Tạ Tổng, đấy
chính là sự ác ban đầu nào trở ngại sự thiện lúc sau. Ông biểu diễn cho chúng
ta thấy, thời trẻ tham gia xã hội đen, mà hiện này là đại Bồ-tát, đại thiện
nhân, không những chính mình quay đầu, mà ông đã giúp hàng vạn người quay đầu.
Đây là tấm gương hiện nay mà chúng ta thấy được. Cho nên, 惡人臨終如能懺悔發心,至心念佛,則惡人已成善人。故亦蒙佛攝受,隨願往生
“Ác nhân lâm chung như năng sám hối phát tâm, chí tâm niệm Phật, tắc ác nhân dĩ
thành thiện nhân. Cố diệc mông Phật nhiếp thọ, tùy nguyện vãng sanh”(Người
ác lúc lâm chung mà có thể sám hối phát tâm, chí tâm niệm Phật, thì người ác đã
thành người thiện. Nên cũng được Phật nhiếp thọ, tùy nguyện vãng sanh).
Ở
thời xưa cũng có tấm gương như vậy, Pháp sư Oánh Kha, sống vào thời triều Tống,
là người xuất gia, phá giới, làm việc bất thiện. Nhưng ngài có chỗ nào tốt? Đó
là ngài tin nhân quả báo ứng. Ngài thường hay phản tỉnh chính mình đã làm gì, khẳng
định nếu không thể vãng sanh, tất sẽ đọa địa ngục. Nghĩ đến nỗi khổ địa ngục, nên
cầu A Di Đà Phật tiếp dẫn, đóng cửa phòng niệm A Di Đà Phật, niệm suốt ba ngày
ba đêm, không ngủ không nghỉ, chí thành khẩn thiết, đem A Di Đà Phật niệm đến
cùng, A Di Đà Phật thật sự đã hiện thân cho ngài thấy. Phật nói với ngài: thọ mạng
của con vẫn còn mười năm, con hãy tu học cho tốt, sau mười năm lúc mạng con hết,
ta sẽ đến tiếp dẫn con vãng sanh. Pháp sư Oánh Kha có thể nói là phước chí tâm
linh, ngài nói với A Di Đà Phật: thói xấu của con quá nặng, con không khống chế
được chính mình, nếu Phật bảo con sống thêm mười năm, thì không biết lại tạo
bao nhiêu tội nghiệp! Con không cần thọ mạng mười năm đó nữa, giờ con muốn đi
theo Ngài. A Di Đà Phật đã đồng ý, nói với ngài: như thế này! ba ngày sau, ta sẽ
đến tiếp dẫn con vãng sanh. Ngài Oánh Kha thật sự vui mừng, mở cửa phòng ra nói
với mọi người, ba ngày sau A Di Đà Phật tiếp dẫn ngài vãng sanh. Không có ai
tin cả, thầy là người ác như vậy, làm sao mà được chứ? Được, thời gian ba ngày
không lâu, mọi người đợi chờ xem, xem thầy nói thật hay giả. Đến ngày thứ ba
thì thực sự vãng sanh, ngài yêu cầu đại chúng niệm Phật đưa tiễn ngài, niệm Phật
hơn một khắc, ngài nói với mọi người Phật đến rồi, tôi đã nhìn thấy được, tôi
theo Phật đi đây, cảm ơn mọi người, từ biệt mọi người, thật sự đi rồi. Sự việc
này được ghi trong sách Tịnh Độ Thánh Hiền Lục, trong Vãng Sanh Truyện cũng có,
là thật chứ chẳng phải giả. Mặc dù ở thế gian chưa có thấy ai làm được như
ngài, nhưng nếu thật sự chịu sám hối, thật sự chịu phát tâm, phát tâm chính là
cầu sanh Tịnh-độ, vãng sanh Thế Giới Cực Lạc, để học tập với A Di Đà Phật, thật
sự bái A Di Đà Phật làm thầy. Khi đến Thế Giới Tây Phương Cực Lạc, thì như
trong kinh này nói, người đó là A-duy-Việt-trí Bồ-tát. Nên Đại sư Liên Trì nói rất
hay, 豈不賢聖同科,同登極樂 “khởi bất hiền thánh đồng khoa, đồng
đăng Cực Lạc dã”(nào khác bậc Hiền Thánh, cùng lên Cực Lạc vậy).
由上可見,此經三輩“Do thượng khả kiến, thử
kinh tam bối”(Do những điều trên có thể thấy rằng: ba bậc
trong kinh này), tức nói ba bậc: thượng, trung, hạ trong Kinh Vô Lượng Thọ,
và 彼經“bỉ kinh”(kinh
kia), tức Kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật, chín phẩm nói trong kinh đó, 實相配合,不容或疑也“Thật tương phối hợp, bất
dung hoặc nghi dã”(thật tương ưng với nhau, chẳng còn nghi ngờ
gì nữa!). Ba bậc, trong mỗi bậc lại có ba phẩm: thượng-trung-hạ, chính là
chín phẩm. Nên hai kinh này có thể hợp lại với nhau, cũng cần nên hợp lại. 又《報恩論》曰:此經上輩當出家“Hựu
Báo Ân Luận viết: thử kinh thượng bối đương xuất gia”(Báo
Ân Luận cũng nói: bậc thượng trong kinh này phù hợp với người xuất gia),
trong dấu ngoặc là lời của Lão Cư sĩ Hoàng Niệm Tổ, 「(當者,配合之義)出家。中下二輩當(同上)在家。乃從其多數,粗舉大凡。故云凡有三輩。《觀經》就此大凡,略開為九。而又極其優降,以括無量行因之不齊。此論極好」 “đương
giả, phối hợp chi nghĩa xuất gia. Trung hạ nhị bối đương đồng thượng tại gia.
Nãi tùng kỳ đa số, thô cử đại phàm. Cố vân phàm hữu tam bối. Quán Kinh tựu thử
đại phàm, lược khai vi cửu. Nhi hựu cực kỳ ưu giáng, dĩ quát vô lượng hạnh nhân
chi bất tề. Thử luận cực hảo” (đây là phù hợp với người xuất gia.
Hai
bậc trung, hạ phù hợp với người tại gia. Do quá nhiều phẩm loại nên chỉ lược
nêu tổng quát: Nói chung có ba bậc. Quán Kinh sơ lược chia ba bậc ấy thành chín
phẩm. Vả lại quá nhiều phẩm loại, bởi vì bao gồm vô lượng nhân hạnh không giống
nhau. Lời bàn này cực hay),
cách nói này nói được rất hay!
《觀經》中,上上品往生者,彈指往生,見佛聞法,即悟無生法忍。須臾“Quán
Kinh trung, thượng thượng phẩm vãng sanh giả, đàn chỉ vãng sanh, kiến Phật văn
pháp, tức ngộ vô sanh pháp nhẫn. Tu du”(Trong Quán kinh, bậc Thượng Thượng
Phẩm vãng sanh chỉ trong khoảng búng ngón tay, gặp Phật nghe pháp, liền ngộ Vô
Sanh Pháp Nhẫn. Khoảnh khắc), thời gian đó rất ngắn, 歷事諸佛。次第受記。還至本國,得無量百千陀羅尼門。是乃三輩中極優者也“lịch
sự chư Phật, thứ đệ thọ ký, hoàn chí bổn quốc, đắc vô lượng bá thiên đà-la-ni
môn. Thị nãi tam bối trung cực ưu giả dã”(đến phụng sự chư Phật, lần lượt được thọ ký, trở về nước mình, đắc vô
lượng trăm ngàn môn đà-ra-ni. Ðấy chính là hạng ưu thắng nhất trong ba phẩm),
đây là bậc ưu tú nhất, là bậc vãng sanh thượng thượng phẩm. Phẩm vị của vãng
sanh là do công phu niệm Phật sâu hay cạn; còn điều kiện của vãng sanh là tín
nguyện, đầy đủ thật tin thật nguyện, thì nắm được điều kiện vãng sanh rồi. Vãng
sanh đến Thế Giới Cực Lạc, có bốn độ ba bậc chín phẩm, vậy thì xem công phu niệm
Phật của quý vị là sâu hay cạn, công phu tốt nhất thì vãng sanh thượng thượng
phẩm, vãng sanh thượng thượng phẩm thì sanh đến cõi Thật-báo, trong cõi Thật-báo
có 41 cấp bậc, cần phải ở vào 11 cấp bậc cao nhất, chính là Thập-địa, không phải
Thập-trụ, Thập-hạnh, Thập-hồi-hướng, không phải, mà là Thập-địa, từ Sơ-địa đến Thập-nhất-địa,
Thập-nhất-địa là Đẳng-giác, 11 vị trí này là thượng thượng phẩm, đó là hạng ưu
thắng nhất. Quý ngài có năng lực, đến Thế Giới Cực Lạc gặp A Di Đà Phật, đạt được
sự gia trì bởi uy thần bổn nguyện của A Di Đà Phật, nên trí huệ, thần thông, đạo
lực, cũng gần bằng với A Di Đà Phật. Quý ngài làm việc gì? Pháp-thân của quý ngài
ở Thế Giới Cực Lạc không động. A Di Đà Phật hóa vô lượng vô biên thân, đến mười
phương thế giới để tiếp dẫn những chúng sanh tín nguyện niệm Phật vãng sanh đến
Thế Giới Cực Lạc, đó là bổn nguyện của A Di Đà Phật. Nếu A Di Đà Phật không tiếp
dẫn, thì quý vị không biết Thế Giới Cực Lạc ở đâu, nên nhất định phải đợi Ngài
đến. Những người có công phu niệm Phật sâu, đến Thế Giới Cực Lạc lại được Phật
lực gia trì, thì thần thông ngang bằng với A Di Đà Phật, cũng đủ khả năng hóa
vô lượng vô biên thân. Quý ngài hóa thân để làm gì? Hóa thân đi đến mười phương
thế giới để bái Phật, cùng một lúc cũng không sót một vị Phật nào, quý ngài đều
có ở trong tất cả cõi nước của chư Phật, quý ngài đến bái Phật, đến cúng dường
Phật, để tu phước, ở những nơi Phật đó nghe kinh thính pháp tu huệ, là phước huệ
song tu. Chính là ở đây nói, trong khoảng khắc, tức là thời gian rất ngắn, phụng
sự chư Phật, ở khắp biến pháp giới hư không giới, bao gồm quá khứ, hiện tại,
tương lai, đã đột phá không còn thời gian, không gian nữa, gặp được chư Phật ở
quá khứ, cũng thấy được chư Phật tương lai, trong khoảng khắc như một sát-na,
thì quý ngài làm được rồi. Lần lượt được thọ ký, chư Phật Như Lai thọ ký cho
quý ngài, trở về bổn quốc, bổn quốc chính là Thế Giới Cực Lạc. Quý ngài trở về,
về đến Thế Giới Cực Lạc, quý vị thấy đó, quý ngài đắc vô lượng trăm ngàn môn
đà-ra-ni. Thích Ca Mâu Ni Phật vì chúng ta mà đã giảng 84 ngàn pháp môn, nhưng
không thể so sánh bằng được với ở cõi ấy, vì ở đó là vô lượng trăm ngàn môn
đà-ra-ni, vượt hơn trăm ngàn lần pháp mà Thích Ca Mâu Ni Phật đã giảng khi ở thế
gian.
Vì
vậy, chúng ta ở nơi đây có cần học rộng không? Không cần, học rộng thì rất khổ
sở, vả lại khiến tâm cũng loạn cả lên, ngăn cản công phu niệm Phật nhất tâm bất
loạn. Quý vị hiểu được đạo lý này, liễu giải được chân tướng sự thật này, thì sẽ
y giáo phụng hành câu nói trên Kinh Kim Cang, đó là câu gì? ‘Pháp còn phải xả,
huống hồ phi pháp’. Pháp ở đây là gì? Là tất cả những gì Thích Ca Mâu Ni Phật
đã thuyết trong 49 năm, không cần nữa, chỉ hành một câu A Di Đà Phật thôi. Lão
Hòa thượng Hải Hiền đã làm tấm gương cho chúng ta, quý vị thấy: ngài không biết
chữ, không có đi học, cả đời không có đọc qua một bộ kinh nào, cũng chưa từng một
lần nghe diễn giảng, ngài sống đến 112 tuổi; năm 20 tuổi xuất gia, sư phụ chỉ dạy
ngài một câu A Di Đà Phật, bảo ngài một mạch mà niệm, ngài bèn lão lão thật thật
mà niệm đến 92 năm, làm ra tấm gương tốt nhất cho chúng ta. Vì sao quý vị phải
nghe giảng kinh? Bởi quý vị vẫn còn nghi ngờ; không thể nói là quý vị không
tin, nhưng trong niềm tin của quý vị có hoài nghi, nên cần phải nghe giảng
kinh, vì nghe kinh giúp quý vị đoạn nghi sanh tín. Nếu đã thật sự sanh khởi niềm
tin, không còn chút nghi ngờ nào nữa, thì có thể không cần đọc kinh, không cần
nghe giảng kinh, chỉ một câu Phật hiệu niệm đến cùng, cũng như Lão Hòa thượng Hải
Hiền, như Pháp sư Oánh Kha, nhất định được vãng sanh. Nhưng trong đó cũng có một
điều kiện, chính là phải buông xuống, không chỉ buông xuống thế gian pháp, mà cả
Phật pháp cũng phải buông xuống, tất cả pháp Đại-thừa, Tiểu-thừa, Tông-môn, Giáo-hạ,
Hiển-giáo, Mật-giáo đều buông xuống hết, tôi chỉ dùng một câu A Di Đà Phật, trong
tâm chỉ dựa vào A Di Đà Phật, thì nhất định quý vị sẽ vãng sanh. Vậy thì đúng rồi,
đó chính là Tịnh-tông, đây chính là khó tin mà dễ hành. Không có ai mà không
làm được, vì sao không làm được, bởi vì quý vị không chịu tin, quý vị nghĩ rằng:
thế giới này còn có pháp môn nào tiện lợi hơn ư? Vì thế chỉ cần quý vị tin tưởng,
thì quý vị liền được lợi ích. Nên chúng ta xem được đoạn này, thì rất cảm động.
Ở
đây đã nói về thượng thượng phẩm, lại nói cho quý vị về hạ hạ phẩm, là hạ hạ phẩm
trong chín phẩm. Hạ hạ phẩm là hạng người nào? 五逆十惡,地獄相現,臨終懺悔,十念往生者,乃下輩中最下者也“Ngũ
nghịch thập ác, địa ngục tướng hiện, lâm chung sám hối, thập niệm vãng sanh giả,
nãi hạ bối trung tối hạ giả dã”(Hàng ngũ
nghịch thập ác, khi lâm chung tướng địa ngục hiện ra, mà sám hối, niệm mười niệm
được vãng sanh, là hạng thấp nhất trong bậc hạ). Không thể không tin tưởng
đối với lời của Phật; không tin đối với lời của Bồ-tát; không tin lời của
Thánh-hiền; lời của lão tổ tông, không tin thì chính là tổn thất to lớn nhất trong
đời của quý vị, quý vị thật sai lầm rồi. Khi trẻ tôi học Phật, vẫn cho rằng Phật
giáo là cao nhất trong tất cả tôn giáo, học đến nay là 65 năm thì thấy bình đẳng
rồi, biết được cảnh giới Khổng Tử là Phật, cảnh giới Mạnh Tử là Bồ-tát, cũng
như cảnh giới của Ngài Văn Thù, Phổ Hiền vậy. Không chỉ những Cổ Thánh Tiên Hiền
ấy ở Trung Hoa, mà ngay cả Tam Hoàng Ngũ Đế, ở thời xa xưa, cả 5000 năm trước,
đều là Phật Bồ-tát hóa thân. Những gì quý ngài để lại tuy rất đơn giản, nhưng cảnh
giới đều bình đẳng với Phật; hay nói cách khác, đều là đại triệt đại ngộ, không
thầy tự thông. Lại quay đầu nhìn các tôn giáo khác, quý vị thấy Chúa Jesus; thấy
Moses; Muhammad, những vị ấy, nếu
không phải là hóa thân của Phật, thì cũng là hóa thân của Đẳng-giác Bồ-tát. Cũng
chứng minh trong Phẩm Phổ Môn nói Quán Thế Âm Bồ Tát có 32 ứng thân, cần dùng
thân gì để độ thì hiện ra thân ấy. Cho nên, tỉ mỉ mà học kinh điển của các
ngài, đọc kinh điển của quý ngài, thì quý vị thấy được giống nhau đến 70-80%. Chỗ
không giống nhau thì đại khái có 20%, đó là tại sao? Vì hoàn cảnh đời sống không
giống nhau, văn hóa bối cảnh không giống nhau, sống ở nơi khác nhau. Thời xưa
không có phương tiện giao thông, nên mọi người đến già chết cũng không đi qua lại
nơi khác, như vậy rất nhiều, họ sống cả đời, không đi ra khỏi bán kính một trăm
dặm, vậy thì không giống nhau rồi, ngôn ngữ cũng không giống nhau. Nhưng với những
điều Phật nói cho quý vị như: Tam-quy, Ngũ-giới, Thập-thiện, thì hoàn toàn
tương đồng, khuyên quý vị dứt ác tu thiện giống nhau, khuyên quý vị hiếu thuận
cha mẹ giống nhau, khuyên quý vị yêu thương che chở chúng sanh giống nhau, khuyên
quý vị: không sát sanh, không trộm cướp, không tà dâm giống nhau, tất cả đều
có. Trong kinh điển mỗi tôn giáo đều có Ngũ-giới Thập-thiện của Phật, hiếu dưỡng
phụ mẫu, phụng sự sư trưởng cũng đều có. Chúng ta nên tìm sự tương đồng, còn sự
khác nhau thì để qua một bên, để cho người sau giải quyết, bởi chúng ta không
có thời gian để giải quyết việc đó, hãy để dành cho người sau. Sưu tập tất cả
những chỗ tương đồng lại, chúng ta in thành một quyển Tôn Giáo Thánh Kinh. Rất
nhiều tôn giáo đều sử dụng quyển sách ấy, trong quyển sách đó, có tất cả 360
tôn giáo đều ở trong đó, đại đoàn kết tôn giáo, có kinh điển làm căn cứ. Sẽ rất
nhiều tôn giáo đều vui mừng, tình nguyện tham gia, tình nguyện làm công việc
này, tôi nói làm ra để tôi in sách, lưu thông rộng rãi. Tương lai tôn giáo sẽ học
gì? Học sách đó; giảng điều gì? Giảng sách đó; truyền điều gì? Truyền sách đó,
đó là tiêu chuẩn của sách Tôn Giáo Thánh Kinh.
Mặc
dù Ngũ-nghịch Thập-ác, tạo tội lỗi đó là địa ngục Vô Gián, tướng địa ngục đã hiện
ra, có thật, là thật chứ không phải giả. Người đó chưa chết, vẫn ở đời, nhưng có
thể linh hồn đã vào trong địa ngục để chịu tội. Chúng ta thấy họ như thế nào?
Tinh thần họ không tốt, bệnh rất nặng, gắng gượng hơi thở vẫn chưa dứt, mà
không biết linh hồn của họ đã ở địa ngục chịu tội. Thời gian như vậy đại khái
khoảng hai, hay ba năm, thì họ mới đi, là đi xuống địa ngục. Nếu lúc lâm chung
sám hối, họ niệm 10 niệm thì được vãng sanh. Cả đời chưa gặp được pháp môn này,
lúc mạng hết vẫn còn thở, mắt vẫn thấy được, tai vẫn nghe được, nghe được câu
Phật hiệu này, nghe được người khác khuyên họ, phương Tây có Thế Giới Cực Lạc, Thế
Giới Cực Lạc có A Di Đà Phật, nghe rồi họ thật tin tưởng, họ không hoài nghi,
cùng với mọi người niệm một tiếng Phật, niệm mười tiếng Phật liền được vãng
sanh, không phải đọa địa ngục nữa.
Trong
kinh Phật nói với chúng ta, tội nghiệp của địa ngục là Ngũ-nghịch Thập-ác. Ngũ-nghịch
ở đây gồm: thứ nhất là giết cha, thứ hai là giết mẹ, thứ ba là giết A-la-hán. A-la-hán
là thầy, phải biết điều này, trước là cha mẹ, sau là thầy, nên tội giết thầy
thì ngang với tội giết A-la-hán. Ân đức của thầy lớn, thân mạng chúng ta có được
bởi do cha mẹ, huệ mạng có được bởi do thầy, nên đối với cha mẹ phải hiếu, đối
với thầy phải kính. Hiếu kính là gốc rễ của văn hóa truyền thống nước ta, không
hiếu không kính thì xong rồi, không còn cách nào nữa, khẳng định đó là người
ác, vả lại không quay đầu được, không sám hối được. Mười niệm được vãng sanh,
dù Ngũ-nghịch Thập-ác, Ngũ-nghịch còn có hai điều. Là ‘làm thân Phật ra máu’,
phước báo của Phật lớn, muốn hại Phật cũng không được, nhưng khiến cho Phật bị
thương, chảy một chút máu, thì được, đã có trường hợp như vậy. Bởi thần hộ pháp
của Phật nhiều. Việc này là đại bất kính, vì Phật là Thánh nhân. Điều cuối cùng
là ‘phá hòa hợp Tăng’, trong năm điều này thì phá hòa hợp Tăng là nghiêm trọng
nhất, vì phá hoại Tăng đoàn, khiến đoạn mất Pháp-thân huệ-mạng người khác, nên
đạo lý này phải hiểu. Hiện nay Ngũ-nghịch Thập-ác thật có! Thập-ác chính là
trái ngược với Thập-thiện, gồm: sát sanh, trộm cướp, tà dâm, là ba loại ác của
thân; Vọng ngữ, lưỡng thiệt, ỷ ngữ, ác khẩu, là bốn loại ác của miệng; ý thì:
tham, sân, si. Hợp tất cả lại là thập-ác.
Ngũ-nghịch Thập-ác, là tội nghiệp nặng nhất của
địa ngục Vô Gián. Người hiện nay phạm nhiều, người không phạm rất ít. Đại khái
phạm nhiều nhất là tà dâm và phá thai. Điều này thật quá đáng sợ! Phá thai là
giết người, mà giết con cái của chính mình. Trong kinh Đại-thừa, Phật nói: cha
mẹ có bốn loại duyên phận với con cái, nếu không có duyên thì sẽ không vào nhà
quý vị. Bốn duyên đó là: đền ơn, báo oán, đòi nợ, trả nợ. Nếu chúng đến vì đền
ơn, mà quý vị đem chúng giết đi, thì ơn biến thành thù; Nếu chúng đến để báo
thù, mà quý vị đem chúng giết đi, thì thù này càng ngày càng sâu, lần sau gặp lại
càng nguy hiểm hơn; Nếu chúng đến để đòi nợ, quý vị không những vẫn nợ chúng,
mà thiếu chúng thêm mạng nữa; Nếu chúng đến trả nợ, vốn là việc tốt, đến để trả
nợ, mà quý vị đem chúng giết đi, đó thật gọi là 怨深似海恨難平“oán thâm tựa
hải hận nan bình”(oán sâu như biển hận
khó vơi), quả báo sẽ là đời đời kiếp kiếp không ngừng không dứt, quý vị nói
đáng sợ đến chừng nào, nên không thể không biết điều này!
Sau
cùng nói rằng, 《觀經》明其最優,兼指最下,故謂極其優降“Quán
Kinh minh kỳ tối ưu, kiêm chỉ tối hạ, cố vị cực kỳ ưu giáng”( Quán kinh nêu lên bậc cao nhất,
cũng như bậc thấp nhất, nên nói là: hạng cao nhất và thấp nhất), bậc cao nhất là thượng phẩm thượng
sanh, bậc thấp nhất, là hạ phẩm hạ sanh. 而實旨正同也“nhi thật chỉ chánh đồng dã”(mà thật
ra ý chỉ tương đồng vậy),
xác thật mà nói, tông chỉ hoàn toàn tương đồng, hai kinh không khác.
Tiếp
theo lại nói cặn kẽ cho chúng ta. Phẩm kinh này rất quan trọng, hoàn toàn nói
rõ cho chúng ta phương pháp để vãng sanh. Tiêu đề, 次分述三輩。首明上輩“Thứ phân thuật tam bối. Thủ
minh thượng bối”(lần lượt nói rõ ba bậc. Đầu tiên nói bậc thượng).
chúng tôi soạn khoa phán này, 別明三輩 “biệt minh tam bối”(chia
rõ ba bậc), tiếp theo chia thành ba đoạn, là ba đoạn: trên, giữa và dưới,
trong bậc thượng lại chia thành ba đoạn nhỏ, 上輩因行“thượng bối nhân hạnh”(nhân
hạnh của thượng bối), trong đó cũng chia làm ba đoạn nhỏ, đoạn thứ nhất là:
捨家棄欲“xả
gia khí dục”(xả nhà lìa dục), chúng ta xem kinh văn:
【其上輩者。捨家棄欲。而作沙門。】“Kỳ thượng bối giả, xả gia khí
dục, nhi tác Sa-môn”(Bậc thượng bối là người xả nhà lìa dục, mà
làm Sa-môn).
Tiếp
theo là chú giải của Niệm Lão, chúng ta xem ngài nói như thế nào. 經中上輩往生是否凡夫有分,乃淨宗一大問題“Kinh
trung thượng bối vãng sanh thị phủ phàm phu hữu phần, nãi Tịnh-tông nhất đại vấn
đề”(Phàm phu có được dự phần vào bậc thượng vãng sanh trong Kinh nói hay
không, là một vấn đề lớn trong Tịnh-tông). Đây là vào thời cổ, người ta đưa
ra rất nhiều cách nhìn, mỗi người có cách nhìn khác nhau. 古德有謂是乃菩薩之行“Cổ
đức hữu vị thị nãi Bồ-tát chi hạnh”( Cổ đức có vị bảo đây là hạnh
Bồ-tát). Tiếp theo cử ra ví dụ, 如謂上上品須四地至七地之菩薩“Như
vị thượng thượng phẩm tu Tứ-địa chí Thất-địa chi Bồ-tát”(như
cho rằng bậc thượng thượng phẩm phải là Bồ-tát từ Tứ-địa đến Thất-Ðịa), tức
là Bồ-tát từ Tứ-địa đến Thất-địa mới được thượng phẩm thượng sanh, 上中品須初地至四地之菩薩,餘可例推。中品中生及以下,才是凡夫所能達“thượng
trung phẩm tu Sơ-địa chí Tứ-địa chi Bồ-tát, dư khả lệ suy. Trung phẩm trung
sanh cập dĩ hạ, tài thị phàm phu sở năng đạt”(Thượng trung
phẩm phải là từ Bồ-tát Sơ-địa đến Tứ-địa; còn lại theo đó mà suy, thì từ trung phẩm
trung sanh trở xuống, phàm phu mới đạt được). Đây là cách nhìn của cổ nhân.
Niệm Lão nói cho chúng ta, 若如是者“Nhược như thị giả”(nếu
mà như vậy), nếu mà thật đúng như cách nói của các ngài, 則彌陀大願之無上,西方蓮國之獨妙,持名法門之易行,往生妙法之殊勝,皆成戲論“tắc
Di Đà đại nguyện chi vô thượng, tây phương liên quốc chi độc diệu, trì danh
pháp môn chi dị hành, vãng sanh diệu pháp chi thù thắng, giai thành hý luận”(thì
đại nguyện vô thượng của Đức Di Ðà, cõi Tây Phương độc diệu, pháp môn trì danh
dễ hành, diệu pháp vãng sanh thù thắng đều thành hý luận), hý luận tức là lời
nói đùa, không phải là thật. Tiếp theo là bình luận của Niệm Lão, 直使不可思議之淨宗妙法,亦復成為可思議之法矣“trực
sử bất khả tư nghị chi Tịnh-tông diệu pháp, diệu phục thành vi khả tư nghị chi
pháp hỹ”(khiến cho diệu pháp Tịnh-tông chẳng thể nghĩ bàn, lại thành ra pháp có
thể nghĩ bàn ư!), đây là đem sự không thể nghĩ bàn của Tịnh-tông giáng xuống
thấp rồi. 故此實為淨宗之關鍵,前於本解(貳)概要中,雖略論一二,未盡其旨,試更詳之“Cố
thử thật vi Tịnh-tông chi quan kiện, tiền ư bổn giải(nhị) khái yếu trung, tuy
lược luận nhất nhị, vị tận kỳ chỉ, thí cánh tường chi”( nên
đây là mấu chốt của Tịnh-tông. Trong phần khái yếu của bản Chú Giải này, tuy lược
bàn đôi điều, nhưng chưa thật rõ ràng đối với ý chỉ này). Ở chỗ này, Lão Cư sĩ Hoàng Niệm Tổ
muốn thảo luận tường tận vấn đề này cho chúng ta, tại sao vậy? Bởi đây là vấn đề
lớn, không phải vấn đề nhỏ, liên quan đến Tịnh-tông có phải thật là thù thắng,
thật vi diệu hay không, thật có thể siêu vượt tất cả, khiến chúng ta thành tựu
ngay trong một đời hay không.
Chúng
ta xem lời nói tiếp theo của Niệm Lão, 古說之非“cổ thuyết chi phi”(cổ thuyết đó sai lầm), tức người xưa
cũng đem vấn đề này nói sai rồi, cổ nhân cũng có sai lầm, huống hồ người thời
nay? Nên nếu người thời nay giảng sai vấn
đề này, thì chúng ta cũng không nên trách họ chút nào. Cổ nhân thật sự có tu
hành, có đức hạnh, có học vấn, mà còn sai lầm, huống hồ người hiện nay! Nên
không cần chấp trước những người ấy, chúng ta vẫn là luôn lắng nghe lời của Niệm
Lão, bởi ngài không phải là người thường, ngài đến để biểu pháp cho chúng ta, nên
cần tiếp nhận lời của ngài. Tôi đã gặp ngài nhiều lần, khi ngài còn ở đời, mỗi
năm tôi đến Bắc Kinh ít nhất ba lần, đến để làm gì? Để thăm ngài. Ngài lớn hơn
tôi mười mấy tuổi, vô cùng khó được, thông tông thông giáo, hiển mật viên dung,
đều đã hạ thủ công phu, đều đã thật học qua, học rất cẩn thận, ngài là truyền
nhân của Lão Cư sĩ Hạ Liên Cư. 古說之非,幸得“Cổ thuyết chi phi, hạnh đắc”(cổ
thuyết đó sai lầm, may mắn), rất may mắn là vào thời triều Đường, 善導大師,廣引經論,力破舊說“Thiện
Đạo Đại sư, quảng dẫn kinh luận, lực phá cựu thuyết”(Đại
sư Thiện Ðạo, đã dẫn nhiều kinh luận để phá tan đi cựu thuyết ấy). Quý vị
thấy, ngài không nói là lời của ngài, mà lời của ai? Là của Đại sư Thiện Đạo thời
triều Đường, khiến mọi người không nói được gì nữa, vì Đại sư Thiện Đạo là tổ
thứ hai của Tịnh-tông. 大師於所著《四帖疏》“Đại
sư ư sở trước Tứ Thiếp Sớ”(Trong tác phẩm Tứ Thiếp Sớ của Đại sư), Tứ
Thiếp Sớ là chú giải của Đại sư Thiện Đạo cho Kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật, gọi
là Tứ Thiếp Sớ, đây là lời của Đại sư Thiện Đạo ở trong quyển sách đó. Ngài
nói: 又看此《觀經》定善,及三輩上下文意,總是佛去世後,五濁凡夫,但以遇緣有異,致令九品差別。何者。上品三人,是遇大凡夫。中品三人,是遇小凡夫。下品三人,是遇惡凡夫“Hựu
khán thử Quán Kinh định thiện, cập tam bối thượng hạ văn ý, tổng thị Phật khứ
thế hậu, ngũ trược phàm phu, đãn dĩ ngộ duyên hữu dị, trí linh cửu phẩm sai biệt.
Hà giả. Thượng phẩm tam nhân, thị ngộ đại phàm phu. Trung phẩm tam nhân, thị ngộ
tiểu phàm phu. Hạ phẩm tam nhân, thị ngộ ác phàm phu”(Lại
xem về định thiện trong Quán kinh và ý nghĩa kinh văn ba bậc thượng, trung, hạ,
thì toàn là sau khi Phật nhập diệt, phàm phu ngũ trược, do gặp duyên sai khác dẫn
đến có chín phẩm sai biệt. Vì sao? Người trong ba phẩm thượng hợp với đại phàm
phu. Người trong ba phẩm trung hợp với tiểu phàm phu. Người trong ba phẩm hạ hợp
với ác phàm phu). Lời này nói được hay, tại sao vậy? Vì chúng ta có phần. Còn
nếu mà như phần trước nói, thì chúng ta không có phần, phải Bồ-tát Đăng-địa mới
có phần, còn chúng ta không có phần; theo cách nói của ngài Thiện Đạo, thì
chúng ta đều có phần, vì chúng ta là phàm phu. Làm sao phân biệt giữa đại phàm
phu và tiểu phàm phu? Là do phát tâm lớn hay phát tâm nhỏ, phát tâm lớn chính
là phát Đại Bồ-đề tâm. Vì sao đến Thế Giới Cực Lạc? Vì cầu pháp, cầu pháp để
làm gì? Vì rộng độ chúng sanh, đó là đại phàm phu; chỉ vì chính mình liễu sanh
tử xuất tam giới, đó là tiểu phàm phu, đại hay tiểu là do từ đó mà chia ra.
Chúng ta có thể học được đại tâm đại nguyện của A Di Đà Phật, dựa vào 48 nguyện
của Ngài, chúng ta cũng thật sự phát tâm nguyện như vậy, thì cũng giống như A
Di Đà Phật, không có khác. Đoạn này nói được hay!
Người
trong ba phẩm hạ hợp với ác phàm phu, 以惡業故,臨終藉善“dĩ ác nghiệp cố, lâm chung
tạ thiện”(vì do ác nghiệp, nhưng dựa vào sự thiện
lúc lâm chung), đây
là tuy đã tạo một thân tội nghiệp, nhưng khi hơi thở họ chưa dứt, vẫn sám hối
được, vẫn phát nguyện được, sau không tạo nữa, thì phẩm vị của họ liền nâng
lên. Quý vị thấy dựa vào sự thiện lúc lâm chung, gặp được thiện tri thức, 乘佛願力,乃得往生。到彼華開,方始發心。何得言是始學大乘人也“thừa
Phật nguyện lực, nãi đắc vãng sanh. Đáo bỉ hoa khai, phương thủy phát tâm. Hà đắc
ngôn thị thủy học đại thừa nhân dã”(nương nguyện lực của Phật, bèn
được vãng sanh; đến khi hoa kia nở thì mới phát tâm, chứ đâu nói là người mới học
Ðại-thừa). Trong đây Niệm Lão mở thêm dấu ngoặc, (古師謂下輩是大乘始學凡夫)若作此見,自失誤他,為害茲甚“(Cổ
sư vị hạ bối thị Đại-thừa thủy học phàm phu), nhược tác thử kiến, tự thất ngộ
tha, vi hại từ thậm”((cổ đức bảo bậc hạ là hạng phàm phu mới học
Ðại-thừa). Nếu hiểu như thế thì chính mình lầm, khiến người khác lầm, điều này
thật tai hại!). Đây là lời của Đại sư Thiện Đạo, nên không được hiểu sai đoạn
này, nhất định phải liễu giải chân thật nghĩa, vì sau khi hiểu sai sẽ dẫn sai rất
nhiều người, khiến đời này không được vãng sanh, hoặc là phẩm vị vãng sanh bị hạ
xuống thấp, đây là nêu ra cảnh cáo đối với chúng ta.
疏中“Sớ
trung”(trong Sớ), là trong Tứ Thiếp Sớ, 復引《觀經》十則,以證其說“phục dẫn Quán Kinh thập tắc,
dĩ chứng kỳ thuyết”(còn dẫn mười đoạn của Quán Kinh, để chứng
minh luận thuyết ấy), ở đây không có trích lục ra hết , 大師直示“Đại
sư trực thị”(Đại sư chỉ thẳng), ngài trực tiếp chỉ
bày chúng ta, 極樂九品蓮台,均是濁世凡夫往生之位。唯因世間遇緣有大乘小乘之差異,故往生後有上輩中輩之不同。淨宗乃最極圓頓之教,大根大器之凡夫,若能信受,圓解圓修,則與常人日劫相倍“Cực
Lạc cửu phẩm liên đài, quân thị trược thế phàm phu vãng sanh chi vị. Duy nhân
thế gian ngộ duyên hữu đại thừa tiểu thừa chi sai dị, cố vãng sanh hậu hữu thượng
bối trung bối chi bất đồng. Tịnh-tông nãi tối cực viên đốn chi giáo, đại căn đại
khí chi phàm phu, nhược năng tín thọ, viên giải viên tu, tắc dữ thường nhân nhật
kiếp tương bội”(Chín phẩm đài sen cõi Cực Lạc, đều là
nơi để phàm phu đời trược vãng sanh, chỉ do ở thế gian gặp duyên Ðại-thừa hay
Tiểu-thừa có sai khác, nên sau khi vãng sanh có bậc thượng hay bậc trung không
giống nhau. Tịnh-tông là giáo pháp tối cực viên đốn. Nếu phàm phu thuộc căn khí
lớn mà tin nhận được, viên giải viên tu, thì sẽ vượt xa người thường tu cả nhiều
kiếp). Viên nhân, tức người căn
tánh viên giáo tu một ngày, bằng với người thông thường tu một kiếp. 故能一生功圓,逕登上品“Cố
năng nhất sanh công viên, kính đăng thượng phẩm”(nên
ngay đời này công đức viên mãn, lên thẳng thượng phẩm), là một đời công đức
viên mãn, vãng sanh thượng thượng phẩm. Người phàm, không phải là đăng địa Bồ-tát,
vậy mới hiển bày sự thù thắng của Tịnh-tông, Tịnh-tông là vi diệu, A Di Đà Phật
đạt được sự tán thán của tất cả chư Phật mười phương ba đời, thì mới nói được
thông; nếu mà nói theo cách thông thường lúc trước, thì không hiển bày ra được
sự thù diệu, thù thắng, vi diệu của Tịnh-tông.
Ở
đây, chúng ta phải chú ý đến việc gặp duyên. Hiện nay, chúng ta trên hình thức
mà nói là sanh tại Trung Quốc, gặp được duyên đều là Đại-thừa; Nếu sanh tại Nam
Dương, thì chúng ta gặp duyên Tiểu-thừa. Đặc biệt ở Trung Quốc, Phật pháp Đại-thừa
chia thành tám tông phái, tám tông phái đều là Đại-thừa, bất kể là tu theo tông
phái nào, thì niệm Phật cầu sanh Tịnh-độ, đều thuộc về căn khí Đại-thừa. Căn
khí Đại-thừa khác với căn khí Tiểu-thừa ở chỗ: Đại-thừa phát Bồ-đề tâm, còn Tiểu-thừa
không phát. Thế nào là phát Bồ-đề tâm? Trong Quán Kinh nói thể của Bồ-đề tâm,
là tâm chí thành, chân thành đến tột cùng. Tâm chí thành chính là ‘minh đức’ mà
trong sách Đại Học nói, phía sau có câu văn giải thích: ‘thành tức là minh vậy,
minh tức là thành vậy’. Từ thành đến
minh, đó là tánh đức, chính là vô sư tự thông, bởi vì họ chân thành đến tột
cùng, nên họ khai trí huệ rồi; Từ minh đến thành, đó là học giáo, sau khi chúng
ta đã học Phật pháp, dần dần đem tâm quay về đến chân thành, khiến vọng tâm
quay về đến chân thành, gọi là học giáo. Nên câu nói phía trước là vô sư tự
thông, còn câu nói sau là sau khi học rồi mới thông. Minh chính là trí tuệ hiện
ra, còn thành là chân tâm. Hiện nay chúng ta hiểu được điều này rồi, thì từ
thành, chính là tam học: giới-định-huệ, vì nhân giới đắc định, nhân định khai
huệ, đó chính là từ minh đến thành, chân thành tâm hiện ra.
Chúng
ta gặp được duyên thù thắng, siêu thù thắng, nhưng hiện nay gặp duyên này mà
không thiết thực. Như lời của tiên sinh Phương Đông Mỹ, 200 năm trước người xuất
gia trong tự viện am đường, đều thực sự có đạo đức, có học vấn, đều có thể thân
cận, hướng họ học tập. Hiện nay thì không được, 200 năm nay, nhiều người họ
không học kinh giáo nữa, cũng không có phương pháp tu hành nghiêm túc. Tu hành
thì chỉ còn lại một môn, là Tịnh-tông tín nguyện trì danh, pháp môn này còn được.
Thiền thì không được nữa, tại sao vậy? Họ không đạt được tâm thanh tịnh, tâm họ
sanh phiền não, không sanh trí huệ. Mật-tông cũng không được, Mật-tông cũng
không được là lời của ngài Hoàng Niệm Tổ nói với tôi. Lần đầu chúng tôi gặp mặt,
ngài đã nói với tôi: Thiền-tông truyền đến ngày nay, thì không có người khai ngộ
nữa, đắc định thì vẫn còn. Ngài cử ra ví dụ, như Lão Hòa thượng Hư Vân là đắc
thiền định, nhưng chưa khai trí huệ, mà khoảng cách giữa khai trí huệ với định công
của ngài không còn xa. Về Mật-tông, ngài cũng là thượng sư của Mật-tông, ngài
nói tròn 60 năm từ khi thành lập Cộng hòa Trung Hoa, đó là năm mà chúng tôi gặp
nhau đàm đạo, chỉ có sáu người học Mật-tông thành tựu, rất khó, về sau càng khó
hơn nữa, chỉ có pháp môn niệm Phật. Nên lúc lâm chung ngài niệm Phật, ngài niệm
nửa năm, sau khi hoàn thành bộ Chú Giải này, giảo chánh xong rồi, bổ sung những
điều cần bổ sung, sau khi viên mãn, ngài bèn nhất tâm niệm Phật, ngài nói với
tôi, mỗi ngày niệm 140 ngàn tiếng Phật hiệu, là truy đỉnh niệm Phật, câu này tiếp
nối câu kia, niệm nửa năm thì ngài ra đi. Ngài vì chúng ta mà biểu pháp, thông
tông thông giáo, thông hiển thông mật, cuối cùng chọn niệm Phật vãng sanh Tịnh-độ,
để cho chúng ta thấy.
Những
lời tiếp theo đây đều vô cùng quan trọng. Mời xem tiếp đoạn văn dưới đây, 現就本經,兼採餘論,以明三輩往生,實為凡夫,兼及聖人“Hiện
tựu bổn kinh, kiêm thái dư luận, dĩ minh tam bối vãng sanh thật vị phàm phu,
kiêm cập Thánh nhân”(
Nay
với kinh này, dùng các luận khác, để làm sáng tỏ ba bậc vãng sanh, thật vì phàm
phu, kiêm cả Thánh nhân).
Hoàng Niệm Lão chú giải phẩm kinh này, ngài đem phần quan trọng nêu ra trước
cho chúng ta. Kinh này tức là Kinh Vô Lượng Thọ, dùng các luận khác, trong đây
ngài đều nêu rõ nguồn từ đâu, nói rõ ba bậc vãng sanh toàn thật vì phàm phu,
cũng bao gồm được Thánh nhân; Thánh nhân cao hơn phàm phu, đương nhiên không có
vấn đề gì. 經中《必成正覺品》偈曰:令彼諸群生,長夜無憂惱,出生眾善根,成就菩提果。我若成正覺,立名無量壽。眾生聞此號,俱來我剎中。如佛金色身,妙相悉圓滿“Kinh
trung Tất Thành Chánh Giác phẩm kệ viết: linh bỉ chư quần sanh, trường dạ vô ưu não, xuất sanh
chúng thiện căn, thành tựu Bồ-đề quả. Ngã nhược thành Chánh-giác, lập danh Vô
Lượng Thọ. Chúng sanh văn thử hiệu, câu lai ngã sát trung. Như Phật kim sắc
thân, diệu tướng tất viên mãn”(Phần kệ của phẩm
Tất Thành Chánh Giác trong kinh này nói: Khiến các quần sanh ấy, đêm
dài không ưu não, sanh ra các thiện căn, thành tựu quả Bồ-đề. Nếu con thành Chánh-giác, lập tên Vô Lượng Thọ. Chúng sanh
nghe hiệu này, đều sanh về nước con, thân sắc vàng như Phật, diệu tướng đều
viên mãn). Trong đây gồm mười câu, bốn
câu trước nói rõ: 大願之由“Đại nguyện chi do”(nguyên
nhân của Đại nguyện), vì sao Phật phát 48 nguyện? 乃欲令一切長夜冥昧之眾生,離諸憂悲苦惱,出生善根,成就菩提“Nãi
dục linh nhất thiết trường dạ minh muội chi chúng sanh, ly chư ưu bi khổ não,
xuất sanh thiện căn, thành tựu Bồ-đề”(Là muốn
cho hết thảy chúng sanh trong đêm dài tăm tối, lìa các ưu bi khổ não, sanh ra căn lành, thành tựu Bồ-đề). Đây là
A Di Đà Phật khi ở nhân địa phát 48 nguyện, vì sao Ngài phát nguyện? Vì một điều,
là vì chư quần sanh, chính là vì chúng sanh của lục đạo trong thế giới mười
phương chư Phật. Đêm dài không ưu não, đêm dài chính là chỉ cho lục đạo luân hồi,
sự khổ não trong sáu nẻo luân hồi, muốn giúp họ lìa khổ được vui; sanh ra các
thiện căn, thành tựu quả Bồ-đề, đó là được vui. Nói đơn giản là bốn chữ ấy, giúp
đỡ tất cả chúng sanh khổ nạn lìa khổ được vui, A Di Đà Phật là vì điều đó thôi.
Nên tại đây Niệm Lão đã giải thích cho chúng ta, ‘Là muốn cho hết thảy chúng sanh trong đêm dài tăm tối’, tăm tối ở
đây chính là chỉ cho lục đạo luân hồi, 離諸憂悲苦惱,出生善根,成就菩提。故知所欲普濟者,實為長夜憂惱,待生善根之具縛凡夫也“ly
chư ưu bi khổ não, xuất sanh thiện căn, thành tựu Bồ-đề. Cố tri sở dục phổ tế
giả, thật vị trường dạ ưu não, đãi sanh thiện căn chi cụ phược phàm phu dã”(lìa
các ưu bi khổ não, sanh ra căn lành, thành tựu Bồ-đề. Nên
biết: mong cứu khắp tất cả, thật vì đêm dài khổ
não, mong những phàm phu đầy rẫy triền phược sanh ra thiện căn). Thế Giới Cực Lạc là vì ai? Là vì
những người ấy, không phải vì Bồ-tát, không được hiểu lầm điều này. Lìa các ưu
bi khổ não, sanh ra căn lành, thành tựu Bồ-đề. Đây nói rõ A Di Đà Phật bởi vì
điều này, vì lìa khổ não, mong những phàm phu đầy rẫy triền phược sanh ra thiện
căn. Chữ ‘phược’ ở đây chính là phiền não, còn chữ ‘cụ’ là đầy đủ, gồm vô-minh
phiền não, trần-sa phiền não, kiến-tư phiền não, tất cả đều đầy đủ, ở thế gian
chúng ta có thể thấy được điều này, vì chúng sanh trong lục đạo luân hồi, hy vọng
những chúng sanh ấy lìa khổ được vui.
Bốn
câu tiếp theo, 明普濟之法“minh
phổ tế chi pháp”(nói rõ phương pháp để cứu khắp), Ngài
dùng phương pháp gì. Thì bốn câu sau nói ra phương pháp, ‘Nếu con thành Chánh-giác, lập tên Vô Lượng Thọ. Chúng sanh nghe hiệu này,
đều sanh về nước con’, bốn câu đó nói rõ phương pháp để cứu khắp, 眾生聞名,來生我剎。此諸眾生“chúng
sanh văn danh, lai sanh ngã sát. Thử chư chúng sanh”(Chúng
sanh nghe danh, sanh về nước con. Những chúng sanh ấy), chính là những
chúng sanh trong đêm dài ưu não. 是故善導師曰:三輩九品,總是為佛去世後“Thị cố Thiện Đạo sư viết: tam bối cửu phẩm,
tổng thị vị Phật khứ thế hậu”( Vì vậy, Đại sư Thiện Ðạo nói: ba bậc
chín phẩm, toàn là vì phàm phu ngũ trược sau khi Phật nhập diệt), chính là từ khi Thích Ca Mâu Ni Phật
diệt độ trở về sau, 五濁凡夫“ngũ
trược phàm phu”(phàm phu ngũ trược),
tức là phàm phu trong đời ác năm trược.
Hai
câu cuối cùng, 如佛金色身,妙相悉圓滿。可見憂惱凡夫,一登彼土,悉皆身真金色,妙相如佛,圓滿具足“Như
Phật kim sắc thân, diệu tướng tất viên mãn. Khả kiến ưu não phàm phu, nhất đăng
bỉ độ, tất giai thân chân kim sắc, diệu tướng như Phật, viên mãn cụ túc”(Thân
sắc vàng như Phật, diệu tướng đều viên mãn. Cho thấy phàm phu ưu não, một khi
sanh qua cõi ấy, thì đều được chân thân kim sắc, diệu
tướng viên mãn đầy đủ giống như Phật). Từng câu của những lời này đều là lời
chân thật. Nếu quý vị tin tưởng được, quý vị thật làm được, thì quý vị là người
có trí huệ nhất, có phước báo nhất của thế gian hiện nay. Nếu không có đại trí
huệ, đại phước báo, thì làm sao họ có thể ngay trong một đời này thành Phật chứ?
Vậy là không thể được. Sanh đến Thế Giới Cực Lạc là đồng nghĩa với thành Phật, đạt
được trí huệ, đạo lực, thần thông giống như Phật, hoàn toàn tương đồng với A Di
Đà Phật. Đây không phải là do chính mình tu được, mà do uy thần bổn nguyện của
A Di Đà Phật gia trì, lại đợi từ từ qua một thời kỳ, thì chính quý vị tu hành
thành công, cũng đạt được vị trí như vậy. Khi chưa thành tựu thì Phật gia trì
cho quý vị, thẳng đến khi chính quý vị hoàn toàn đạt được như vậy, công phu của
quý vị thành tựu, quý vị đạt được rồi. Bên dưới nói được hay, hai câu sau cùng
này, ‘Thân sắc vàng như Phật, diệu tướng
đều viên mãn. Cho thấy phàm phu ưu não, một khi sanh qua cõi ấy’. Đây chính
là nói nếu quý vị vãng sanh, thì đều được chân thân kim sắc, diệu tướng như Phật,
trí huệ cũng như Phật, thần thông cũng như Phật, không có gì khác Phật, là viên
mãn đầy đủ.
Tiếp
theo nói càng rõ ràng hơn, 亦以大悲心,利益諸群品“Diệc dĩ đại bi tâm, lợi ích chư
quần phẩm”( Cũng dùng tâm đại bi, lợi
ích các quần phẩm), đây
là rất nhanh chóng, hóa vô lượng vô biên thân, vô lượng vô biên Phật pháp chỉ một
ngày là học xong rồi. Vô lượng vô biên chư Phật đang giảng pháp, các ngài hóa
vô lượng vô biên thân, đều xuất hiện ở trước mỗi vị Phật, phước huệ song tu,
cúng Phật là tu phước, nghe pháp là tu huệ, nên vô cùng nhanh chóng. Đó là sau
khi đắc pháp, cũng dùng tâm đại bi, lợi ích các quần phẩm, đi giáo hóa chúng
sanh giống như Phật, 離欲深正念,淨慧修梵行“Ly dục thâm chánh niệm, tịnh huệ
tu phạm hạnh”(
Ly
dục chánh niệm sâu, tịnh huệ tu phạm hạnh), hai câu này vô cùng quan trọng. Dục ở đây là ngũ
dục lục trần ở thế gian, tài-sắc-danh-thực-thùy, đó là ngũ dục; còn lục trần
là: sắc-thanh-hương-vị-xúc-pháp, đó đều là dục vọng, phải xa lìa chúng, thì quý
vị mới được chánh niệm sâu, chánh niệm là thiền định, là niệm Phật tam-muội.
Quý vị buông xuống được càng nhiều, thì công phu niệm Phật tam-muội của quý vị
càng sâu. Sau đó dùng trí huệ thanh tịnh của quý vị để tu phạm hạnh, ý nghĩa của
phạm hạnh là thanh tịnh, quý vị ở tại thế gian này, khởi tâm động niệm, lời nói
việc làm đều tương ưng với thanh tịnh bình đẳng giác thì chính là phạm hạnh, phạm
hạnh nói ở đây chính là năm chữ trên tựa đề kinh này là ‘thanh tịnh bình đẳng
giác’.
是表諸往生者“Thị
biểu chư vãng sanh giả”(
Là
biểu thị những người vãng sanh). Chỉ cần là người vãng sanh đến Thế Giới Cực Lạc, không nên cầu phẩm vị
vãng sanh, tại sao vậy? Vì đó là vọng tưởng, đó là tạp niệm. Hãy lão thật niệm
Phật, học theo Đại sư Liên Trì, Đại sư Ngẫu Ích. Có người thỉnh giáo quý ngài:
tương lai thầy vãng sanh đến Thế Giới Cực Lạc, vậy phẩm vị nào thì thầy mới hài
lòng? Tổ sư trả lời rằng: tôi chỉ cần vãng sanh hạ hạ phẩm là hài lòng rồi. Nếu
chúng ta có tâm như vậy, định ở hạ hạ phẩm, vậy thì tạp niệm sẽ không còn nữa,
không đi tranh với người, quý vị tranh phẩm vị, còn tôi thì không. Không tranh
thì trái lại có thể được cao, tranh thì trái lại không lên được phẩm cao, tại
sao vậy, vì quý vị có tạp niệm, quý vị vẫn còn có phân biệt, còn có chấp trước.
Phải buông xuống tất cả, không có phân biệt, không có chấp trước, tôi đến Thế
Giới Cực Lạc, bắt đầu học từ năm thứ nhất của cấp tiểu học. Tại sao vậy? Vô lượng
thọ mà, quý vị còn lo lắng gì chứ? Nhất định sẽ thành tựu. Ngay cả nền tảng gốc
cũng được A Di Đà Phật đích thân giúp quý vị cắm chắc, vậy quá tốt rồi! Lại càng
thực tế hơn vì đi vào lớp, được học từ căn bản. Lời của Đại sư Liên Trì và Ngẫu
Ích, là trong lời có lời, cần lãnh hội cho tốt. Đó là sự thật, Kinh Kim Cang
nói rằng: “pháp thượng ưng xả, hà huống
phi pháp”(pháp còn phải xả, huống hồ
phi pháp), đã làm được rồi, pháp cũng xả rồi, chỉ một câu, nắm chắc một câu
A Di Đà Phật mà niệm đến cùng, tôi nhất định thành tựu. Không cạnh tranh với
người, lão lão thật thật bắt đầu tu từ hạ phẩm, tu từ năm thứ nhất, từ từ từng
bước từng bước nâng cao lên, làm đệ tử tốt của đức Di Đà. Đó là tâm thực tế,
nguyện thực tế, thì không có chuyện không vãng sanh.
Đây
biểu thị người vãng sanh, 華開見佛,身心頓淨“Hoa khai kiến Phật, thân tâm đốn tịnh”(Hoa
nở thấy Phật, thân tâm liền thanh tịnh), tâm thanh tịnh ngay rồi. Chúng ta
không có cách nào tưởng tượng được sự thanh tịnh này, tại sao vậy? Vì đến Thế
Giới Cực Lạc thì thân thể không phải là xác thịt, thân xác thịt này là vật chất,
mà vật chất là pháp sanh diệt, còn nơi đó là thân Pháp-tánh. Thân của chúng ta
hiện nay là tướng phần của A-lại-da, mà cảnh giới tướng của A-lại-da là pháp
sanh diệt. Thế Giới Cực Lạc không có pháp sanh diệt, là thân Pháp-tánh, cư trú ở
Pháp-tánh độ. Cho nên, thân không có sanh diệt, và hoàn cảnh cư trú cũng không
có sanh diệt. Nếu mà chúng ta không ưa thích hoàn cảnh cư trú, tức là sao? Tôi
muốn thay đổi hoàn cảnh. Thì tùy theo mong muốn, suy nghĩ của quý vị như thế
nào, thì hoàn cảnh liền biến đổi. Tất cả đều tùy theo mong muốn, nghĩ thế nào
thì hiện ra thế ấy. Thật sự câu nói này ở nơi chúng ta đây, chỉ là lời khen ngợi,
chứ không làm được. Gọi là ‘tâm tưởng sự thành’, ở Thế Giới Cực Lạc thì câu nói
này là lời thật, là chân ngữ, thật sự tâm tưởng sự thành, không phải là giả.
智慧猛利“Trí
huệ mãnh lợi”(trí huệ nhạy bén), trí huệ giống như ai?
Như A Di Đà Phật, 大悲無量“Đại
bi vô lượng”(Đại bi vô lượng), đại bi nói theo ngày
nay là tâm yêu thương, yêu tất cả chúng sanh, yêu tất cả chúng sanh, tất cả vạn
vật ở khắp biến pháp giới hư không giới, tại sao vậy? Bởi đều do Tự-tánh hiện
ra. Nên yêu chúng sanh thật ra là yêu chính mình, yêu chính mình viên mãn chính
là yêu tất cả chúng sanh. Nếu yêu chính mình mà không yêu chúng sanh, vậy thì
thật ra không phải là yêu chính mình, tại sao vậy? Vì một thân thể. Tôi yêu tế
bào, lẽ nào lại không yêu làn da sao? Đơn vị nhỏ nhất của cơ thể là tế bào, nếu
phân tích tế bào thành nhỏ hơn, chia thành hạt cơ bản, chia thành hạt Quark,
chia thành hạt Neutrino, đó đều là pháp sanh diệt. Cho nên, yêu từ thứ nhỏ nhất,
là thân này, sau đó lại mở rộng, là toàn bộ địa cầu; mở rộng nữa, là toàn bộ hệ
ngân hà; mở rộng tiếp, là Đại-thiên thế giới nói trong kinh Phật, là vô lượng
vô biên cõi nước chư Phật, do một Tự-tánh biến hiện ra. Nên một niệm có thể
thay đổi hư không pháp giới, chỉ một niệm thôi. Nếu như đầy đủ thần thông, thì
ngay trong một niệm có thể phân vô lượng vô biên thân, liền có thể làm vô lượng
vô biên sự việc. Việc của tự lợi, là phước huệ song tu; có phước có huệ để làm
gì? Là giúp đỡ chúng sanh khổ nạn.
自覺覺他“tự giác, giác tha”(tự
giác, giác tha), không có một chút keo kiệt. Keo kiệt là đại phiền não, sẽ
chướng ngại sự quý vị vãng sanh. Thứ này cũng nắm giữ cho mình, thứ kia cũng giữ
cho mình, không chịu đem giúp đỡ cho người, khi người khác có nhu cầu, mà không
thể bố thí cho họ. Không biết mình với họ là một chứ không phải hai. Đối với
người mà quý vị ưa thích, thì quý vị có thể bố thí được; đối với người mà quý vị
chán ghét, chính là đối với oan gia trái chủ của quý vị, đều nên yêu thương đối
xử bình đẳng, họ gặp túng thiếu, còn quý vị được dư dả, thì nên chia cho họ,
oán hận thì thế nào? Oán hận là phiền não, họ oán hận đối với tôi, vì họ chưa
có hiểu, chưa nhận biết về tôi, đó là chuyện rất bình thường. Đợi khi họ sáng tỏ
rồi, thì thái độ việc làm của họ sẽ tốt thôi, tự nhiên sẽ được thay đổi. Pháp
thế gian hay xuất thế gian, phân biệt ở giác hay mê, ngoại trừ điều đó thì
không khác nhau, giác thì gọi là Phật Bồ-tát, mê thì gọi là phàm phu.
成就菩提“thành
tựu Bồ-đề”(thành tựu Bồ-đề), thành tựu Bồ-đề là thành tựu Phật quả vô thượng. 是皆阿彌陀佛,威神力故,本願力故,滿足願故,明了、堅固、究竟願故“thị
giai A Di Đà Phật, uy thần lực cố, bổn nguyện lực cố, mãn túc nguyện cố, minh
liễu, kiên cố, cứu cánh nguyện cố”(Ðây đều là do sức uy thần, sức bổn
nguyện, nguyện đầy đủ, sáng suốt, kiên cố, cứu cánh của A Di Ðà Phật), đó
là A Di Đà Phật. Nên đến Thế Giới Cực Lạc, được gia trì bởi uy thần của Phật, được
gia trì bởi công đức của Phật, công đức tu hành vô lượng kiếp của Ngài, khiến chúng
ta đều được thừa hưởng thật sự. Thừa hưởng thật sự đây giống như Phật vậy, Ngài
có uy thần lực, có bổn nguyện lực, nguyện đầy đủ, sáng suốt, kiên cố, cứu cánh
nguyện, khiến mỗi người vãng sanh đến Thế Giới Cực Lạc đều giống như Ngài, tất
cả đều có, A Di Đà Phật có gì, thì quý vị cũng có đó, người khác cũng có, tất cả
đều bình đẳng. Thế Giới Cực Lạc thật sự là tiếp đãi bình đẳng, thân ái hòa thuận
lẫn nhau, không có một chút sai khác, nên thế giới ấy mới viên mãn.
Trí huệ thanh tịnh, thân tâm như Phật. Quý vị thấy chúng ta nơi đây, là
phàm phu của sáu đường luân hồi, mà khi vãng sanh đến thế giới ấy, thật sự chỉ
trong một sát-na, trong một sát-na thôi mà liền thay đổi lớn như vậy. 能令長夜憂惱之凡夫,智慧清淨,身心如佛 “Năng linh trường dạ ưu não
chi phàm phu, trí huệ thanh tịnh, thân tâm như Phật”(có
thể khiến cho phàm phu trong đêm dài ưu não, đắc trí huệ thanh tịnh, thân tâm
như Phật), sanh đến Thế Giới Cực Lạc liền đạt được. 由是可見此土大心凡夫,蒙佛加被,上輩往生,得無生忍,又何足異“Do
thị khả kiến thử độ đại tâm phàm phu, mông Phật gia bị, thượng bối vãng sanh, đắc
vô sanh nhẫn, hựu hà túc dị”(Do đó có thể thấy: phàm phu đại tâm
ở cõi này, được Phật gia bị, bèn vãng sanh thượng phẩm, đắc Vô-sanh-nhẫn, thì
có gì lạ đâu?), ‘hà túc dị’ tức là không có gì lạ. Xác xác thật thật, vãng
sanh đến Thế Giới Cực Lạc cần phát đại tâm, tâm lượng phải lớn, khởi tâm động
niệm phải nghĩ cho người khác; Tiếp tục mở rộng, nghĩ cho xã hội, nghĩ cho đất
nước, nghĩ cho địa cầu này, tối thiểu cũng nghĩ cho địa cầu. Từ địa cầu mở rộng,
đến vô lượng vô biên hành tinh, trong đó có tất cả chúng sanh, không thể nói
không có chúng sanh, tại sao? Vì y-báo và chánh-báo không thể phân chia ra được,
y-báo chánh-báo là một thể, nơi sinh sống của hành tinh là y-báo, thì trong đó
nhất định có chánh-báo, chúng ta không thấy được, vì không cùng một tầng không
gian, giống như trên một màn hình TV, mà kênh truyền hình không giống nhau, có
mấy chục kênh, mấy trăm kênh đều ở trên màn hình, quý vị bật đến, thì kênh đó
hiện ra, không bật đến, kênh đó vẫn có, không phải là không tồn tại, không phải
là không có, đạo lý này chúng ta phải hiểu.
法藏比丘以偈頌願“Pháp
Tạng Tỳ-kheo dĩ kệ tụng nguyện”(Tỳ-kheo Pháp Tạng dùng kệ tụng
nguyện), Ngài dùng kệ tụng, 首句“thủ câu”(câu đầu), câu thứ nhất là: 即是我建超世志。此正超世之處“Tức
thị ngã kiến siêu thế chí. Thử chánh siêu thế chi xứ”(Chính
là con lập chí siêu thế, những điều vừa nói trên chính là chỗ siêu thế), tức
là vượt hơn nguyện của tất cả đại chúng thế gian, là tâm lượng lớn. Nên nói rằng:
安得守十方之常規,以論極樂之品位耶“An
đắc thủ thập phương chi thường quy, dĩ luận cực lạc chi phẩm vị da”(sao
lại đem lệ thường của mười phương, để luận bàn phẩm vị ở cõi Cực Lạc?), tức
là không thể dùng lệ thường của mười phương. Phật thuyết pháp, là ứng cơ thuyết
pháp, căn cơ khác nhau, thì thuyết pháp khác nhau, là sống động, không cứng nhắc.
Nên sau khi tu ở trong kinh giáo một thời gian thì mới phát hiện ra, kinh Phật
không có ý nghĩa, khi đối trước đại chúng thì sanh ra vô lượng ý nghĩa, căn cơ
thế nào thì quý vị thuyết pháp thế ấy, là sống động, không phải là chết cứng. Nếu
có ý nghĩa, có ý nghĩa là chết cứng. Nhưng không được nói sai, không được nói
là có mâu thuẫn, pháp không có ý nghĩa, vì đối với các loại căn cơ không đồng, nhằm
mang lợi ích cho hàng người ấy, lợi ích gì? Là giúp họ phá mê khai ngộ, giúp họ
lìa khổ được vui. Mục đích như vậy, chỉ có một mục đích. Nhưng cách nói, cách học
thì không giống nhau, mà hoạt bát. Nên không thể dùng lệ thường của mười phương.
Chúng ta là một trong mười phương, lệ thường của nơi chúng ta đây là do Thích
Ca Mâu Ni Phật định, định vì những người nào? Vì người sơ học, người lợi căn, nếu
gặp người căn tánh khác thì Phật liền hạ thấp xuống, không dùng pháp đó nữa. Đấy
là pháp cực diệu! Thế Giới Cực Lạc vượt hơn mười phương, mười phương thế giới
không bằng được, mọi người đã biết điều này. Nên không thể dùng pháp mà Phật đã
thuyết ở nơi đây, lại sanh ra nghi ngờ đối với những gì nói trong kinh, đó là
sai lầm. Dù có nghi ngờ cũng để qua một bên, tốt nhất là đem hoài nghi trừ sạch,
tôi bèn tin tưởng. Không phải đến Thế Giới Tây Phương Cực Lạc thì đã rõ ràng tất
cả rồi ư? Nói chung điều gì chướng ngại vãng sanh, thì chúng ta đều phải buông
xả, vậy thì đúng rồi.
Như hôm nay chúng tôi, giảng Phật pháp ở thế gian này, người phương Tây nói là thế
kỷ 21, những hỗn loạn của thế kỷ này cũng chưa từng nhìn thấy trong lịch sử, thật
chưa từng thấy. Thế kỷ này cần phải đoàn kết tôn giáo. Cách nhìn của chúng ta đối
với tôn giáo như thế nào? Là các tôn giáo đều là Phật Bồ-tát thị hiện. Vì thời
xưa không có phương tiện giao thông, không có thông tin. Vào thời đại đó, chư
Phật Bồ-tát ứng cơ thuyết pháp, đối với các dân tộc khác nhau, thì hiện các
thân khác nhau, thuyết các giáo khác nhau. Ngày nay giao thông thuận tiện, thông
tin phát triển, nên tất cả tôn giáo hợp thành một nhà. Tại sao vậy? Vì là một
thần, chúng thần là một thể, tôn giáo là một nhà, đối xử bình đẳng, thân ái hòa
thuận lẫn nhau. Để hóa giải hỗn loạn của thế gian này, phải từ mỗi người rồi đến
các quốc gia, dân tộc, tôn giáo, hóa giải tất cả mâu thuẫn, hóa giải xung đột, mang
lại thế gian này vĩnh hằng thịnh thế, hòa thuận, hạnh phúc, an vui, vậy thật là
người lìa khổ được vui, là giáo dục tôn giáo viên mãn. Không được thành kiến chấp
trước, cách nói của tôi và của bạn không giống nhau. Hoàn cảnh thời đó thế nào,
là không giống hoàn cảnh hiện nay, còn hoàn cảnh hiện nay giống nhau rồi. Chúng
ta phải học vận dụng linh hoạt, thật sự đạt được lợi ích của giáo dục tôn giáo.
Giáo dục tôn giáo, theo giải thích văn tự của Trung Hoa, thì tôn giáo là giáo dục
chủ yếu của nhân loại, là giáo học quan trọng, là giáo hóa tôn sùng. Nhiều năm
qua, chúng tôi tiếp xúc với các tôn giáo trên thế giới, đem danh xưng này giới
thiệu cho mọi người nghe, tất cả đều hài lòng, tôn giáo của tôi là như vậy, đều
hòa giải tất cả. Nên tôn giáo có thể đoàn kết, không khó. Thời gian hôm nay hết
rồi, chúng ta học tập đến đây thôi.
( Hết tập 305)
Nguyện đem công đức này
Hướng về khắp tất cả
Đệ tử cùng chúng sanh
Đều sanh nước Cực Lạc
Chóng viên thành Phật quả
Rộng độ khắp chúng sanh.
Nam Mô A Di Đà Phật.