Responsive Menu
Add more content here...

Tập 204 – Tịnh Độ Đại Kinh Khoa Chú 2014

 

TỊNH ĐỘ ĐẠI KINH KHOA CHÚ 2014 (Giảng lần thứ 4)

PHẨM THỨ 6: PHÁT ĐẠI THỆ NGUYỆN

Phát Thệ Nguyện Rộng Lớn

Tập 204

Hòa thượng Tịnh Không chủ giảng.

Giảng tại: Hiệp Hội Giáo Dục Phật Đà Hồng Kông.

Thời gian: Ngày 28 tháng 6 năm 2015.

Ban biên dịch: Hoa Tạng Huyền Môn.

Dịch giả: Diệu Hiệp.

Giảo chánh: Thích Thiện Trang.

 

Kính chào chư vị Pháp sư, chư vị đồng học, mời an tọa. Thỉnh mọi người cùng tôi quy y Tam Bảo: A-xà-lê tồn niệm, ngã đệ tử Diệu Âm, thỉ tùng kim nhật, nãi chí mạng tồn, quy y Phật Đà, lưỡng túc trung tôn; quy y Đạt Ma, ly dục trung tôn, quy y Tăng Già, chư chúng trung tôn. (3 lần)

Mời xem Đại Kinh Khoa Chú, trang 520, đếm ngược đến hàng thứ năm:

一二三忍,忍者,安忍也 “Nhất nhị tam nhẫn, nhẫn giả, an nhẫn dã” (Nhất nhị tam nhẫn, nhẫn là an nhẫn), bắt đầu xem từ chỗ này. Đây là nghe danh được nhẫn, Thế giới Cực Lạc thật sự là thù thắng đến tột cùng, đại chúng vãng sanh đến Thế giới Cực Lạc, bất luận là [ở] phẩm vị nào, [trong] ba bậc chín phẩm, từ Thượng thượng phẩm đến Hạ hạ phẩm, không có ai ngoại lệ, nghe được danh hiệu của A Di Đà Phật, liền được nhất nhị tam nhẫn. Nhẫn chính là định, nhẫn có [nghĩa] đồng ý, bằng lòng, khẳng định, có rất nhiều ý nghĩa ở trong đó. Đối với tất cả pháp mà Phật đã thuyết, không có chút nghi ngờ, như vậy gọi là nhẫn. Thật sự tin, điều này rất khó, đặc biệt là Tịnh Độ, khó tin nhưng dễ tu, tu học rất dễ dàng, nhưng tín tâm quá khó. Là thật, có rất nhiều người, có thể nói là hàng ngàn hàng vạn người đã học cả đời, nhưng vẫn không tin, vẫn có nghi ngờ. Sự nghi ngờ này chướng ngại quý vị vãng sanh.

Hơn 60 năm trước, tôi theo thầy Lý học Phật, lúc đó thầy nói với tôi, thầy nói con xem Liên xã của chúng ta. Liên xã Đài Trung, do thầy sáng lập, khi tôi ở đó, có 200 ngàn liên hữu, đoàn thể Phật giáo, nói đến nhiều tín đồ thì có lẽ Liên xã Đài Trung là đứng đầu, đây là [nhờ] đức giáo của thầy Lý. Tôi rời khỏi Đài Trung, tôi ở Đài Trung theo thầy học 10 năm, khi rời khỏi Đài Trung, liên hữu Đài Trung có 500 ngàn, trong 10 năm tăng đến 500 ngàn. Thầy nói, trong 10 ngàn người niệm Phật, khó có được 3 đến 5 người vãng sanh. Nói cách khác, người thật sự có thể vãng sanh trong các liên hữu ở Liên xã Đài Trung, trong một vạn người là năm phần vạn, ba phần vạn, đây chẳng phải là khó tin sao? Vì sao không thể vãng sanh? Hằng ngày thầy đều giảng kinh, mỗi ngày ta đều học tập, thậm chí rất nhiều người cũng phát tâm ra giảng kinh, sau cùng thì không có phần vãng sanh, có thể thấy được là khó, thật sự khó tin. Đại đa số mọi người đều tin Vọng tưởng, Phân biệt, Chấp trước của chính mình, họ tin điều này, không tin lời Phật nói, không tin lời Thích Ca Mâu Ni Phật đã nói, đối với lời chỉ dạy của thầy cũng có nghi ngờ, không thể tiếp nhận hoàn toàn, tạo thành kết quả cuối cùng không thể vãng sanh, tiếp tục tạo lục đạo luân hồi, tổn thất này quá lớn rồi.

Nhẫn là an nhẫn, 一二三忍 “nhất nhị tam nhẫn”, câu kinh văn này trong bản Ngụy Dịch, chính là bản dịch của ngài Khang Tăng Khải, được lưu truyền rộng nhất. Trong bản Ngụy Dịch nói: 第一,第二,第三法忍 “Đệ nhất, đệ nhị, đệ tam Pháp nhẫn” (Pháp nhẫn thứ nhất, thứ hai, thứ ba). Đây là nguyên văn. Pháp nhẫn, thế nào gọi là Pháp nhẫn? 法為所證之理,心安於法為忍 “Pháp vi sở chứng chi lý, tâm an ư pháp vi nhẫn” (Pháp là lý đã chứng được, tâm an trong pháp là nhẫn), đối với lý này không nghi ngờ nữa, khẳng định thừa nhận hoàn toàn, pháp là lý đã chứng được. Pháp là chỉ điều gì? Tất cả vạn pháp, pháp có sự có lý, sự là sự tướng, pháp thế gian, pháp xuất thế gian, đã bao gồm hết tất cả pháp rồi. Tất cả pháp này rốt cuộc là sự việc như thế nào, điều mà Phật Pháp muốn xét là chân tướng của pháp, chân tướng chính là lý, chân tướng của tất cả pháp là gì? Trong Kinh Kim Cang nói rất rõ: 凡所有相,皆是虛妄 “Phàm sở hữu tướng, giai thị hư vọng” (Những gì có tướng đều là hư vọng), 一切有為法,如夢幻泡影,如露亦如電,應作如是觀 “nhất thiết hữu vi pháp, như mộng huyễn bào ảnh, như lộ diệc như điện, ưng tác như thị quán” (tất cả pháp hữu vi, như mộng ảo bọt bóng, như sương cũng như chớp, nên quán sát như vậy), đây là một bài kệ mà Phật nói trong Kinh Kim Cang. Thế nào gọi là pháp hữu vi? Có sanh có diệt. Quý vị nghĩ thử xem, trong tất cả pháp, có pháp nào không có sanh diệt? Người thông thường chỉ có thể tìm được một thứ, đó là hư không, hư không không có sanh diệt, ngoài hư không ra thì đều có sanh diệt. Điều này có chính xác không? Không chính xác. Vì sao vậy? “Hư không” cũng có sanh diệt, chỉ là thời gian rất dài, thọ mạng của quý vị ngắn, quý vị không nhìn thấy. Có thể thấy được, pháp hữu vi, không có một pháp nào là không có sanh diệt.

Phật thuyết pháp, đem tất cả pháp, đây là Bồ-tát Di Lặc tạo Luận Du Già Sư Địa, đem tất cả pháp quy nạp thành 660 pháp. Bồ-tát Thiên Thân cho rằng 660 pháp cũng là quá nhiều, người mới học rất khó, không dễ gì tiếp nhận, lại quy nạp 660 pháp thành 100 pháp, gọi là Bách Pháp. Luận Bách Pháp Minh Môn là do Bồ-tát Thiên Thân tạo, căn cứ vào Luận Du Già Sư Địa mà tạo ra, quy nạp 660 pháp thành 100 pháp. Trong 100 pháp này, sáu pháp sau cùng là pháp vô vi, trong sáu pháp vô vi ấy có Hư không. Trên thực tế, trong sáu pháp vô vi ấy, chỉ có pháp sau cùng là pháp vô vi thật sự, Chân như Vô vi; năm pháp phía trước là tương tự pháp vô vi, là tương tự, phàm phu không nhìn ra, Bồ-tát nhìn ra được, phàm phu cho là không sanh không diệt, Bồ-tát biết đó vẫn là sanh diệt. Ví dụ như Thật Báo độ, trong Thật Báo độ thật sự không có hiện tượng sanh diệt, người vô lượng thọ, hoa cỏ cây cối vô lượng thọ, không nhìn thấy sanh diệt, nhưng Bồ-tát từ Bát địa trở lên biết: vẫn có sanh diệt. Đến khi nào thì không sanh diệt? Ba đại a-tăng-kỳ kiếp. Vì sao vậy? Thật Báo độ là do Tập khí vô thỉ Vô minh tạo thành, Tập khí vô thỉ Vô minh cần có thời gian bao lâu mới có thể đoạn hết? Ba a-tăng-kỳ kiếp. Nói cách khác, ba a-tăng-kỳ kiếp hết rồi, một phẩm sau cùng, Tập khí của Sanh tướng Vô minh cũng đoạn rồi, Thật Báo độ không thấy nữa. Thứ gì xuất hiện? Thường Tịch Quang xuất hiện rồi, lúc này ngài dung nhập Thường Tịch Quang, Thật Báo độ không còn nữa. Có thể hiện Thật Báo độ hay không? Có thể, Đại sư Huệ Năng nói không sai chút nào, 何期自性,能生萬法 “hà kỳ Tự Tánh, năng sanh vạn pháp” (nào ngờ Tự Tánh có thể sanh ra vạn pháp), trong vạn pháp này bao gồm Thật Báo Trang Nghiêm độ, cũng là do Tự Tánh biến ra. Có duyên thì có thể hiện tướng, không có duyên thì không có tướng, thật sự là vô vi.

Lý đã chứng được, lý của tất cả vạn việc vạn vật là một, danh từ Phật học rất nhiều, chúng ta thường dùng là thật tướng, thật tướng chính là tướng chân thật, tướng chân thật của tất cả pháp. Tướng chân thật bất khả đắc, 一切法無所有、畢竟空、不可得 “nhất thiết pháp vô sở hữu, tất cánh không, bất khả đắc” (tất cả pháp vô sở hữu, rốt ráo không, bất khả đắc). Đây là chân tướng, không khó hiểu. Cho nên, Tiểu thừa buông xuống Kiến tư phiền não rồi, vì sao vậy? Bất khả đắc, biết được tất cả hiện tượng là giả, không có thứ gì là thật, bao gồm thân thể của chính mình, đây là Thân kiến. Phá hết năm loại Kiến hoặc rồi, thứ nhất là Thân kiến, biết được thân là giả, thân là sát-na sanh diệt, tất cả vạn pháp đều là sát-na sanh diệt. Sáu thức của chúng ta, hoặc là nói tám thức, cảnh giới có thể duyên theo được cũng không phải là chân thật, đều là sanh diệt. Chẳng thể không biết điều này, vì sao vậy? Không biết thì quý vị mãi mãi ở trong mê, quý vị cho là thật có, thật có thì thế nào? Quý vị liền tạo nghiệp. Nếu quý vị biết [đó] là giả, quý vị mới biết buông xuống, buông xuống thì sao? Buông xuống thì không tạo nghiệp nữa. Người không tạo nghiệp của lục đạo luân hồi thì thoát khỏi lục đạo luân hồi, nghiệp của luân hồi là gì? Ô nhiễm, nhiễm trước, trước là dính tướng, nhiễm là bị cảm nhiễm bởi cảnh giới bên ngoài, quý vị để nó vào trong tâm, sai rồi, là giả, không phải là thật.

Vì vậy, năm loại Kiến hoặc, quý vị nhìn nhận sai rồi, hoàn toàn nhìn nhận sai rồi. Thứ nhất, thân thể, thân thể không phải là ta, đó là gì? Là sở hữu của ta. Như quần áo, quần áo là sở hữu của ta, ta không thừa nhận quần áo là ta. Cùng một đạo lý như vậy, thân thể là sở hữu của ta, không phải là ta. Vì sao vậy? Ta không sanh không diệt, thân thể có sanh diệt, ta là không sanh không diệt, thân thể chết rồi không có nghĩa là ta chết rồi, ta không chết, phải hiểu đạo lý này. Dân gian nước ta gọi là linh hồn, Tây Tạng cũng gọi là linh hồn, thân thể người chết rồi, linh hồn vẫn còn. Linh hồn cũng có biến hóa, cho nên linh hồn cũng không phải là thật. Tôi chân thật là gì? Tôi chân thật, linh tánh là chân ngã, linh tánh không sanh không diệt, đó thật là linh. Linh hồn thì không linh, linh hồn mê hoặc điên đảo, nếu nó linh, thì sao nó đi đầu thai trong sáu đường? Nó sẽ không [như vậy]. Đặc biệt là ba đường ác trong sáu đường, nhất định sẽ không đến đó, mê hoặc điên đảo mới đến đó, cho nên hồn phải gọi là mê hồn. Nó không mê, linh thì được rồi, linh thì chính mình có thể làm chủ được, cho nên gọi là linh tánh. Linh tánh là chính mình làm chủ, tánh này, minh Tâm kiến Tánh, đây là tôi chân thật, có bốn đức: thường lạc ngã tịnh. Linh tánh có bốn đức: thường là không sanh không diệt; lạc là vĩnh viễn không còn khổ, lìa cứu cánh khổ, được cứu cánh vui; ngã, ngã là làm chủ tể, chính mình có thể làm chủ được, thân của chúng ta, chính mình không làm chủ được, cũng không làm chủ được ý niệm của chúng ta, ý niệm là Vọng Tâm, không phải Chân Tâm, cho nên chính mình có thể làm chủ; chữ tịnh sau cùng, là thanh tịnh, quý vị xem khi khai ngộ, Đại sư Huệ Năng nói: 何期自性,本自清淨 “Hà kỳ Tự Tánh, bổn tự thanh tịnh” (Nào ngờ Tự Tánh, vốn tự thanh tịnh), không có ô nhiễm, đây là chân ngã.

Học Phật, mục đích học Phật là gì? Vì sao phải học Phật? Học Phật chính là tìm lại chân ngã, buông xuống giả ngã, đây là chân thật học Phật. Từ đây có thể biết, người học Phật rất nhiều, người thật sự học Phật thì không nhiều, vì sao vậy? Vì họ vẫn Chấp trước có ngã, xem giả ngã là chân ngã, như vậy không phải là học Phật. Không phải là học Phật thì gọi là gì? Thầy Lý có một câu nói, gọi là tiêu khiển, không có việc gì làm, dùng Phật Pháp để giải trí, đây là thầy Lý nói. Tiêu khiển Phật Pháp thì dĩ nhiên là có lỗi lầm, nhưng cũng có điểm tốt, vì sao vậy? Trong A-lại-da, lưu lại chủng tử Phật, đây là chủng tử tốt, tương lai chủng tử này sẽ giúp quý vị tu hành, chứng quả. Vì vậy, ở trong nhà Phật, thật sự là quá vĩ đại, quá hiếm có rồi, có thể khiến cho tất cả chúng sanh được lợi ích vô cùng thù thắng. Thậm chí là quý vị hủy báng Phật, hủy báng Phật đương nhiên là có tội, đọa lạc vào ba đường ác, nhưng chữ Phật đó, chữ Phật mà quý vị hủy báng Phật, chữ đó là thật, không phải giả, sau khi quý vị trả báo tội nghiệp xong rồi, chữ Phật đó hiện tiền rồi. Có thể giúp quý vị, làm nhân duyên, quý vị có duyên phận tiếp xúc được Phật Pháp, có duyên phận tin Phật, hiểu nghĩa kinh, y giáo tu hành, tương lai chứng quả. Những việc này, chúng ta đều phải biết, đều phải làm sáng tỏ, đều phải làm rõ ràng.

Vì vậy, ba cách nói trong bản Ngụy Dịch, Pháp nhẫn thứ ba. Pháp nhẫn, pháp là lý đã chứng được, tâm an trong pháp, gọi là nhẫn. Đặc biệt là người niệm Phật chúng ta, tâm của người niệm Phật phải an trong A Di Đà Phật, học lão Hòa thượng Hải Hiền. Vị lão Hòa thượng ấy, hiện nay chúng ta biết được là A Di Đà Phật tái lai, A Di Đà Phật hóa thân đến, biểu pháp cho chúng ta, làm một tấm gương tốt cho chúng ta. Năm 20 tuổi, Sư phụ dạy ngài một câu Phật hiệu này, dặn dò ngài cứ niệm liên tục. Ngài nghe lời, thành thật, thật làm, chỉ một câu Phật hiệu niệm đến cùng, 112 tuổi vãng sanh, ngài niệm câu Phật hiệu này suốt 92 năm. Đây gọi là nhẫn, tâm an trong pháp, ngài thành tựu rồi. Chúng ta thấy được trong đĩa phim, đọc được trong Vĩnh Tư Tập, lão Hòa thượng thật sự vì chúng ta mà biểu pháp đại triệt đại ngộ, minh Tâm kiến Tánh. Đây là địa vị gì? Vô sanh Pháp nhẫn.

Tiếp theo, trong quyển thứ 9 của Đại Thừa Nghĩa Chương nói: 慧心安法,名之為忍 “Huệ tâm an pháp, danh chi vi nhẫn” (Huệ tâm an pháp, gọi đó là nhẫn). Đây là trí huệ, không có trí huệ thì quý vị sẽ nghi ngờ, có trí huệ thì thừa nhận rồi, sẽ không bị ngoại cảnh làm dao động. 此上 “Thử thượng” (Những điều trên), những ví dụ đã nêu ở trên, 法忍,諸家之說不一,有深淺之別 “Pháp nhẫn, chư gia chi thuyết bất nhất, hữu thâm thiển chi biệt” (Pháp nhẫn, cách nói của các nhà không như nhau, có sự khác biệt giữa sâu và cạn). Tiếp theo nêu ví dụ nói với chúng ta, ví như Kinh Nhân Vương nói năm nhẫn, năm loại nhẫn này đều là Bồ-tát. Loại thứ nhất gọi là 伏忍 “Phục nhẫn”, phục chính là chúng ta nói hàng phục phiền não, chúng ta có nghi hoặc, hàng phục nghi hoặc này rồi, tôi tin, nhưng chưa đoạn gốc nghi, chỉ là hàng phục mà thôi. Trong Kinh Nhân Vương nói, Địa tiền Tam hiền Bồ-tát chỉ có thể Phục nhẫn, cũng không tệ, số người này rất nhiều, trước khi Đăng địa, Đăng địa là đại triệt đại ngộ, đây là khi chưa minh Tâm kiến Tánh, chưa đại triệt đại ngộ, công phu của ngài chỉ có thể đạt đến phục, hàng phục, với chúng ta mà nói là rất khó, rất khá rồi, Phục nhẫn.

Thứ hai là 信忍 “Tín nhẫn”, ý nghĩa sâu hơn phía trước. Tín là gì? 初地、二地、三地得無漏信 “Sơ địa, Nhị địa, Tam địa đắc vô lậu tín” (Sơ địa, Nhị địa, Tam địa được vô lậu tín), gọi là Tín nhẫn. Vô lậu tín là gì? Đoạn hết tham sân si mạn nghi rồi. A-la-hán đã đoạn rồi, đây là Tư hoặc, tham sân si mạn nghi, Tứ quả A-la-hán đã đoạn rồi, tín của ngài gọi là Vô lậu tín, đối với Phật Pháp thì Vô lậu tín, đối với Tịnh Độ thì ngài vẫn còn nghi hoặc. Quý vị phải nhìn nhận cho rõ, Sơ địa, Nhị địa, Tam địa, Sơ địa Bồ-tát đã minh Tâm kiến Tánh rồi, tuy là phá Vô minh, nhưng Tập khí của Vô minh vẫn rất nặng. Cho nên thăng cấp lên trên, thứ ba là 順忍 “Thuận nhẫn”. Thuận nhẫn là Tứ địa, Ngũ địa, Lục địa, có thể tin pháp Đại thừa mà Phật đã nói, có thể thuận theo lời Phật đã dạy, tu Bồ-đề đạo. Như vậy không chỉ siêu việt lục đạo luân hồi, mà ngài còn siêu việt mười pháp giới, Sơ địa thì siêu việt mười pháp giới rồi, đây là Tứ, Ngũ, Lục địa.

Trong bộ kinh này của chúng ta rõ ràng nói đến Pháp nhẫn, Pháp nhẫn là “Vô sanh Pháp nhẫn”, Vô sanh Pháp nhẫn là Thất địa, Bát địa, Cửu địa, thật sự hiểu rõ tất cả pháp không sanh, tất cả pháp trong khắp pháp giới hư không giới không sanh, cho nên gọi là Vô sanh nhẫn. Sao lại không sanh? Sanh diệt gần như là cùng lúc, quý vị nói nó sanh thì nó diệt rồi, quý vị nói nó diệt, nhưng nó lại sanh ra. Đây chính là điều mà nhà Cơ học Lượng tử hiện nay phát hiện được, tất cả pháp là ảo tướng sinh ra dưới tần suất dao động cao của ý niệm, vốn dĩ không tồn tại, do nhà Vật Lý học của Đức, ông Max Planck nói, ông nhìn thấy chân tướng này. Tần suất cao bao nhiêu? Chúng ta dùng lời trong kinh Phật đã nói, là do Bồ-tát Di Lặc nói, 一彈指三十二億百千念 “nhất đàn chỉ tam thập nhị ức bách thiên niệm” (một khảy ngón tay [có] 32 ức trăm ngàn niệm), một khảy ngón tay này. Một giây có thể khảy bao nhiêu lần? Có người nói với tôi là khảy bảy lần. 32 ức trăm ngàn niệm, trăm ngàn là mười vạn, 32 ức nhân cho mười vạn bằng 320 ngàn tỷ, một khảy ngón tay này có bao nhiêu lần sanh diệt? 320 ngàn tỷ. Nếu một giây khảy bảy lần, vậy chính là, một phần 2 triệu 240 ngàn tỷ giây, một lần sanh diệt là một phần 2 triệu 240 ngàn tỷ giây, đó là sanh hay là diệt? Thất địa Bồ-tát nhìn thấy rồi, Bát địa Bồ-tát nhìn thấy rõ hơn, ngài thấy rõ điều gì? Rõ pháp Vô sanh, ngay cả ý niệm cũng không có, tốc độ của ý niệm càng nhanh hơn. Vì vậy, đây là Vô sanh Pháp nhẫn. Sau cùng là 寂滅忍 “Tịch diệt nhẫn”, Tịch diệt là Thập địa, Đẳng giác, Diệu giác. Năm loại nhẫn này đều là nói thật tướng các pháp, đến loại thứ tư là Vô sanh Pháp nhẫn, Tịch diệt nhẫn, hoàn toàn thấu suốt triệt để rồi, tướng, phi tướng, bất khả đắc; niệm, phi niệm, cũng bất khả đắc. Ý niệm có thể sanh ra hiện tượng, cho nên trong kinh Phật thường nói tất cả pháp từ tâm tưởng sanh, chính là nói đến đạo lý này.

Chúng ta xem tiếp bên dưới, 七、八、九地,諸念不生 “Thất, Bát, Cửu địa, chư niệm bất sanh” (Thất, Bát, Cửu địa: không sanh các niệm), đây gọi là Vô sanh nhẫn. Thật sự nhìn thấy rồi, hiểu rõ rồi, không còn nghi hoặc nữa, tất cả pháp không sanh, tất cả pháp không diệt, không sanh thì làm gì có diệt? 十地、妙覺,得菩提果 “Thập địa, Diệu giác, đắc Bồ-đề quả” (Thập địa, Diệu giác được quả Bồ-đề), đây gọi là Tịch diệt nhẫn, thanh tịnh tịch diệt. Nhà Thiên Thai nói là đoạn hết hoặc rồi, “hoặc” này là chỉ điều gì? Tập khí của vô thỉ Vô minh, đoạn sạch hết 41 phẩm Tập khí rồi, Thật Báo độ cũng không còn nữa. Thật Báo độ là do Tập khí của vô thỉ Vô minh hình thành, Tập khí không còn nữa, thì không thấy Thật Báo độ nữa, Tập khí không phải là thật. Cho nên chúng ta gọi Thật Báo độ là Nhất chân pháp giới, Nhất chân pháp giới là bởi vì nó không có sanh diệt, gọi là Nhất chân. Trên thực tế, đoạn sạch hết Tập khí của Vô minh rồi, thì không thấy tướng ấy nữa, thời gian tồn tại của nó là ba a-tăng-kỳ kiếp, chúng ta cũng gọi là vô lượng thọ, ba đại a-tăng-kỳ kiếp, thời gian đó rất dài, gọi là vô lượng thọ, là vô lượng của hữu lượng. Đủ ba đại a-tăng-kỳ kiếp rồi, hiện tượng ấy không còn nữa, không thấy nữa, Thường Tịch Quang hiện tiền, đây gọi là được quả Bồ-đề. Được quả Bồ-đề chính là ngài chứng được Thường Tịch Quang, dung nhập Thường Tịch Quang. Thường Tịch Quang là chính mình chân thật, là bản lai diện mục của chính mình, tức là Tự Tánh. Ba chữ “Thường Tịch Quang ” đều là miêu tả về Tự Tánh, thường là không sanh không diệt; tịch là bất động, trước nay chưa từng dao động, tức là Tự Tánh vốn định; quang là quang minh chiếu khắp, là nói đến trí huệ, vô lượng vô biên trí huệ, không gì không biết, không gì không thể, cho nên có thể hiện ra vạn pháp. Đó gọi là Diệu giác.

Nhà chú giải kinh thời xưa, 有認為伏忍、信忍、順忍 “hữu nhận vi Phục nhẫn, Tín nhẫn, Thuận nhẫn” (có người cho rằng Phục nhẫn, Tín nhẫn, Thuận nhẫn), chính là ba loại nhẫn trong bản kinh này, đây là Đại đức thời xưa có cách nói này. Thậm chí có người cho rằng loại Phục nhẫn đầu tiên, là ba cấp bậc thượng trung hạ, 為本經之三忍者。蓋皆不許他方菩薩聞佛名號,應時即得一忍,二忍,乃至無生法忍也 “vi bổn kinh chi tam nhẫn giả. Cái giai bất hứa tha phương Bồ-tát văn Phật danh hiệu, ưng thời tức đắc nhất nhẫn, nhị nhẫn, nãi chí Vô sanh Pháp nhẫn” (là ba loại nhẫn của kinh này. Cho nên đều không đồng ý Bồ-tát phương khác nghe danh hiệu Phật, lập tức liền được nhất nhẫn, nhị nhẫn, cho đến Vô sanh Pháp nhẫn). Cách nói này không viên mãn, sao lại xem nhẹ Bồ-tát phương khác rồi? Quý vị phải biết, năm nguyện sau cùng của 48 nguyện là vì Bồ-tát phương khác mà phát nguyện, không phải vì người thông thường, mà phát nguyện vì Bồ-tát phương khác, Bồ-tát phương khác sao lại nghe danh hiệu mà không thể thành Phật? Ý trong kinh này rất rõ ràng, 但據經文 “đãn cứ kinh văn” (chỉ căn cứ vào kinh văn), chúng ta căn cứ kinh văn trong Vô Lượng Thọ, trong ba loại nhẫn này, sau cùng là nói đến Vô sanh Pháp nhẫn, đó chính là bao gồm Vô sanh Pháp nhẫn, 實無可疑 “thật vô khả nghi” (thật không có gì đáng nghi), loại nhẫn thứ ba là Vô sanh Pháp nhẫn, là thật, không phải giả. Trong nguyện thứ 34 của bản Ngụy Dịch nói, bản dịch của ngài Khang Tăng Khải, 設我得佛,十方無量不可思議諸佛世界眾生之類,聞我名字,不得菩薩無生法忍,諸深總持者,不取正覺 “thiết ngã đắc Phật, thập phương vô lượng bất khả tư nghị chư Phật thế giới chúng sanh chị loại, văn ngã danh tự, bất đắc Bồ-tát Vô sanh Pháp nhẫn, chư thâm tổng trì giả, bất thủ Chánh-giác” (Nếu con thành Phật, các loài chúng sanh trong mười phương vô lượng không thể nghĩ bàn thế giới chư Phật, nghe danh tự con, [mà] không được Vô sanh Pháp nhẫn của Bồ-tát, các môn tổng trì sâu thì con không giữ ngôi Chánh-giác). Đây là bản Kinh Vô Lượng Thọ do ngài Khang Tăng Khải phiên dịch, nguyện thứ 34 nói rất rõ ràng, chúng sanh trong mười phương vô lượng vô biên Thế giới chư Phật, trong chúng sanh này bao gồm Bồ-tát, nghe danh tự A Di Đà Phật, không được Vô sanh Pháp nhẫn của Bồ-tát, các môn tổng trì sâu, thì A Di Đà Phật phát thệ không thành Phật. Hiện nay, Ngài đã thành Phật mười kiếp rồi, từ đây có thể biết, mỗi nguyện trong 48 nguyện đều đã thực hiện rồi. Kinh văn trong bản Tống Dịch cũng có, bản Tống Dịch là gần đây nhất, 聞我名者,應時即得初忍、二忍,乃至無生法忍。成就阿耨多羅三藐三菩提。可見願文中之第三法忍,決定是無生法忍也 “văn ngã danh giả, ưng thời tức đắc sơ nhẫn, nhị nhẫn, nãi chí Vô sanh Pháp nhẫn. Thành tựu A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề. Khả kiến nguyện văn trung chi đệ tam Pháp nhẫn, quyết định thị Vô sanh Pháp nhẫn dã” (nghe danh hiệu con, lập tức liền được sơ nhẫn, nhị nhẫn, cho đến Vô sanh Pháp nhẫn. Thành tựu A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề. Có thể thấy Pháp nhẫn thứ ba trong lời nguyện chắc chắn là Vô sanh Pháp nhẫn), điều này có minh chứng, đây không phải là giả thiết.

Lại căn cứ vào Luận Chú, Chú Giải Kinh Vô Lượng Thọ của Pháp sư Đàm Loan, trong đó có, 即見彼佛,未證淨心菩薩 “tức kiến bỉ Phật, vị chứng tịnh tâm Bồ-tát” (liền thấy vị Phật ấy, Bồ-tát chưa chứng tịnh tâm), đây là chỉ Sơ địa đến Thất địa, 畢竟得證平等法身 “tất cánh đắc chứng bình đẳng Pháp thân” (rốt ráo được chứng Pháp thân bình đẳng). 又曰:平等法身者,八地以上法性生身菩薩也 “Hựu viết: Bình đẳng Pháp thân giả, Bát địa dĩ thượng pháp tánh sanh thân Bồ-tát dã” (Lại nói: Pháp thân bình đẳng là pháp tánh sanh thân Bồ-tát từ Bát địa trở lên). Ở đây đã nói quá rõ ràng, vãng sanh đến Thế giới Tây Phương Cực Lạc, thân người là thân pháp tánh, không phải là pháp tướng, pháp tướng là Tướng phần của A-lại-da. Tất cả hiện tượng vật chất ở thế giới này của chúng ta đều là Tướng phần của A-lại-da, hiện tượng tinh thần là Kiến phần của A-lại-da, hiện tượng tự nhiên là Tự chứng phần của A-lại-da. Tâm hiện thức biến, tâm chính là pháp tánh, là Chân Tâm; những gì Chân Tâm sanh ra là chân tướng, nhưng thông qua A-lại-da thì biến thành giả tướng, A-lại-da biến Nhất chân pháp giới thành mười pháp giới, thành lục đạo luân hồi. Thế giới này vốn dĩ không có mười pháp giới, không có lục đạo luân hồi, cho nên lục đạo mười pháp giới đều là giả, do A-lại-da biến ra. Chúng ta học Phật chẳng thể không biết điều này, biết rồi có lợi ích gì? Đoạn nghi sanh tín, nhưng người biết được thì không nhiều, người không biết chân tướng thì quá nhiều rồi. Tiếp theo trong ngoặc đơn, 又曰:平等法身者,八地以上法性生身菩薩也 “hựu viết: Bình đẳng Pháp thân giả, Bát địa dĩ thượng pháp tánh sanh thân Bồ-tát dã” (lại nói: Pháp thân bình đẳng là pháp tánh sanh thân Bồ-tát từ Bát địa trở lên), ở đây chú giải rõ ràng rồi. Tiếp theo lại nói, 聞阿彌陀如來至德名號,畢竟得平等口業。皆是聞佛名號,得證無生法忍之明證 “văn A Di Đà Như Lai chí đức danh hiệu, tất cánh đắc bình đẳng khẩu nghiệp. Giai thị văn Phật danh hiệu, đắc chứng Vô sanh Pháp nhẫn chi minh chứng” (nghe danh hiệu chí đức của A Di Đà Như Lai, rốt ráo được khẩu nghiệp bình đẳng. [Đây] đều là minh chứng của việc nghe danh hiệu Phật, được chứng Vô sanh Pháp nhẫn), chứng cứ rõ ràng sáng tỏ, nói rõ tam nhẫn là Đại thừa, Pháp nhẫn này thật sự là nói đến Vô sanh Pháp nhẫn.

Chúng ta xem tiếp bên dưới, 無生法忍,略云無生忍。真智安住於無生無滅之實相理體而不動,謂之無生法忍 “Vô sanh Pháp nhẫn, lược vân Vô sanh nhẫn. Chân trí an trụ ư vô sanh vô diệt chi thật tướng lý thể nhi bất động, vị chi Vô sanh Pháp nhẫn” (Vô sanh Pháp nhẫn, nói tỉnh lược là Vô sanh nhẫn. Chân trí an trụ trong thật tướng và lý thể của không sanh không diệt nên bất động, gọi đó là Vô sanh Pháp nhẫn). Chính là quý vị thật sự khẳng định rồi, cảnh giới mà sáu căn hiện nay tiếp xúc là không sanh không diệt, quý vị không có chút nghi hoặc nào, như vậy gọi là chứng được Vô sanh Pháp nhẫn. Quyển thứ 50 của Luận Trí Độ, Luận Đại Trí Độ có tổng cộng 100 quyển, trong quyển thứ 50 nói: 無生法忍者,於無生滅諸法實相中,信受通達,無礙不退,是名無生忍 “Vô sanh Pháp nhẫn giả, ư vô sanh diệt chư pháp thật tướng trung, tín thọ thông đạt, vô ngại bất thoái, thị danh Vô sanh nhẫn” (Vô sanh Pháp nhẫn: Ở trong thật tướng các pháp không sanh diệt, tin nhận thông đạt, vô ngại bất thoái, đây gọi là Vô sanh nhẫn), [đó là trong] quyển thứ 50 của Luận Trí Độ. Tiếp theo, quyển thứ 73 của Luận Trí Độ cũng có, nói chi tiết hơn, 無生忍者,乃至微細法不可得 “Vô sanh nhẫn giả, nãi chí vi tế pháp bất khả đắc” (Vô sanh nhẫn là ngay cả pháp vi tế cũng bất khả đắc). Pháp vi tế chính là hiện nay chúng tôi nói, nhà Cơ học Lượng tử nói là neutrino, trong kinh giáo Đại thừa nói là cực-vi-sắc, cũng gọi là cực vi chi vi, cũng gọi là lân hư trần, nó làm hàng xóm với hư không, tức là nó không thể phân tách ra nữa, phân tách ra chính là hư không. Nhà Cơ học Lượng tử ngày nay chính là phát hiện được từ đây, họ phân tích hiện tượng vật chất, phân tích đến sau cùng thì không còn nữa, hoàn toàn tương ưng với kinh Phật đã nói. Không thấy hiện tượng vật chất nữa, không thấy nữa thì thấy gì? Nhìn thấy hiện tượng sóng dao động của ý niệm, mới hoảng nhiên đại ngộ, hiện tượng vật chất là ảo tướng sanh ra từ sự dao động trong tần suất cao của ý niệm, không phải là thật. Đây là bí mật của vũ trụ, ba loại hiện tượng, nhà khoa học cũng tìm thứ này. Vật chất là gì, tìm được rồi, còn ý niệm là gì, hiện nay vẫn chưa tìm được. Ý niệm là hiện tượng tinh thần, hiện tượng tâm lý, vật chất là hiện tượng vật lý, nhà khoa học ngày nay nói với chúng ta, cách chia làm hai của nhà khoa học tạo thành sự nghi hoặc trong mấy trăm năm, vì sao vậy? Phân chia sai rồi, tâm và vật, hiện nay biết đó là một, không phải hai, chia nó ra làm hai thì sai rồi. Cho nên trong khoa học có rất nhiều vấn đề không thông suốt được, chính là sai ở chỗ này. Hiện nay hiểu rõ rồi, tâm và vật là một thể, trong kinh Phật nói rất rõ ràng, 一切法從心想生 “nhất thiết pháp tùng tâm tưởng sanh” (tất cả pháp từ tâm tưởng sanh), quý vị xem, ý niệm chính là tâm tưởng, tất cả hiện tượng vật chất là từ tâm tưởng sanh, vấn đề này được giải quyết rồi.

Hiện nay, vấn đề thứ hai là tâm tưởng từ đâu ra? Vì sao lại có tâm tưởng? Khó hơn vấn đề trước. Nhà khoa học thấy lạ, thời xưa không có thiết bị khoa học, sao Thích Ca Mâu Ni Phật biết được? Sao lại nói được rõ ràng như vậy, nói được tường tận như thế? Họ không làm sáng tỏ được. Chúng ta biết được, bởi vì Phật từng nói, chúng ta tin lời Phật nói. Phật nhìn thấy từ trong Thiền định, thấy được từ trong Thiền định, được đại định, được thần thông, khai trí huệ; nhà khoa học không phải dùng phương pháp Thiền định, mà dùng Toán học để suy tính, dùng thiết bị để quan sát, tuy họ thấy được rồi, nhưng họ không có thần thông, họ không có trí huệ, không như nhau. Cho nên Phật không cần mượn những công cụ khoa học này, không cần dùng, [mà dùng] Thiền định, được định thì thông đạt tất cả rồi. Vì sao vậy? Vì Tự Tánh vốn định. Cho nên, tâm nhất định phải thanh tịnh, nhất định phải định, định thì sanh trí huệ. Tâm động, đặc biệt là người hiện nay tính khí nông nổi, tâm như thế chỉ sanh phiền não, không sanh trí huệ, thiệt thòi rất lớn. Phật giáo truyền đến Trung Hoa, đã truyền lý niệm tu học này đến Trung Hoa rồi, nhà Nho của Trung Hoa đã tiếp nhận, nhà Đạo của Trung Hoa cũng tiếp nhận rồi, đều chú trọng thanh tịnh bình đẳng, tâm địa thanh tịnh bình đẳng, đều xem trọng điều này. Tâm thanh tịnh bình đẳng sanh trí huệ, không sanh phiền não, người có trí huệ hiện tiền thì không tạo nghiệp. Vì sao người ta lại tạo nghiệp? Vì mê hoặc điên đảo mà tạo nghiệp. [Nếu] họ không mê, không điên đảo thì họ sẽ không tạo nghiệp.

Phật pháp cao minh, cho nên hiện nay chúng ta có thể nói, trong kinh Đại thừa giảng những điều gì? Chúng ta giới thiệu cho đại chúng trong xã hội, là giáo dục phổ thế, phổ là phổ biến, thế là thế giới. Đối với đại chúng xã hội trong khắp thế giới mà giảng, [thì] Phật giảng dạy không sâu, giảng luân lý, giảng đạo đức, giảng nhân quả, khiến cho mọi người sống trong thế giới này được an định hài hòa, đối đãi bình đẳng, chung sống hòa thuận, cùng nhau tồn tại và phồn vinh, đây là giáo dục phổ thế. Một việc hướng thượng, có thể nói là Triết học cứu cánh, khoa học cứu cánh, đã nói viên mãn về khoa học, Triết học rồi, không còn gì cao hơn nữa, thật sự là đạt đến đỉnh cao. 60 năm trước, Tiên sinh Phương Đông Mỹ dạy tôi Phật Pháp, nói với tôi kinh điển Đại thừa là Triết học của Phật giáo, là đỉnh cao nhất của Triết học toàn thế giới. Hiện nay chúng ta biết, nhà Cơ học Lượng tử nói với chúng ta, không chỉ là Triết học cấp cao, mà còn là khoa học cấp cao. Nói về tốc độ, tốc độ của niệm lực không thể nghĩ bàn, ý niệm vừa động thì biến khắp pháp giới. Vì vậy, khắp pháp giới hư không giới với chính mình thật ra là một thể, một thể thì không thể tách ra. Cho nên Vọng tưởng Phân biệt Chấp trước, đây là sai rồi, sai lầm rất lớn, đây toàn là những gì trong Ý thức, Vọng tưởng là A-lại-da, Phân biệt là Ý thức thứ sáu, Chấp trước là Mạt-na. Chuyển tám thức thành bốn trí mới gọi là Đại thừa, chuyển như thế nào? Được định thì chuyển rồi, trong định, tự nhiên chuyển rồi.

Chúng ta xem tiếp đoạn bên dưới, trong quyển thứ 73 của Luận Trí Độ lại nói, Vô sanh nhẫn là ngay cả pháp vi tế cũng bất khả đắc, 何況大 “hà huống đại” (huống chi là lớn). Pháp vi tế là gì? Chính là lượng tử, neutrino, danh từ trong Phật Pháp gọi là cực-vi-sắc, chính là pháp vi tế, bất khả đắc. Lớn đều là do những pháp vi tế này hợp thành, trong Kinh Kim Cang nói 一合相 “nhất hợp tướng” (một hợp tướng). Chữ “một” đó chính là pháp vi tế, một hợp tướng, một hợp tướng là giả, bất khả đắc, 是名無生 “thị danh vô sanh” (đây gọi là vô sanh). 得此無生法,不作不起諸業行,是名得無生法忍 “Đắc thử Vô sanh pháp, bất tác bất khởi chư nghiệp hạnh, thị danh đắc Vô sanh Pháp nhẫn” (Đạt được pháp Vô sanh này, không tạo tác không dấy khởi các nghiệp hạnh, đây gọi là được Vô sanh Pháp nhẫn), quý vị thật sự đạt được pháp Vô sanh, quý vị không khởi không tạo, các nghiệp là nghiệp thiện nghiệp ác, nghiệp tịnh nghiệp nhiễm, thảy đều không dấy khởi, quý vị cũng sẽ không tạo, quý vị cũng không dấy khởi, sẽ không sanh khởi ý niệm này, đó gọi là Vô sanh Pháp nhẫn, được Vô sanh Pháp nhẫn.

Lại nữa, trong quyển thứ 12 của Đại Thừa Nghĩa Chương nói: 理寂不起,稱曰無生 “Lý tịch bất khởi, xưng viết vô sanh” (Không khởi lý tịch, gọi là vô sanh). Lý chính là chân lý, chân lý rất mơ hồ, không dễ gì thể hội, chính là chân tướng, trong kinh nói là thật tướng các pháp. Thật tướng là gì? Thật tướng là không sanh. Tịch là không động, câu nói thứ tư của Đại sư Huệ Năng khi khai ngộ là 何期自性,本無動搖 “hà kỳ Tự Tánh, bổn vô động dao” (nào ngờ Tự Tánh, vốn không dao động), đó chính là tịch, không động, chưa từng dao động. Đây là gì? Tự Tánh vốn định, cũng chính là Chân Tâm. Chân Tâm là như thế nào? Chân Tâm là bất động, cho nên Tự Tánh vốn định. Chúng ta muốn đức năng của Tự Tánh hiển lộ ra ngoài, làm thế nào mới hiển lộ ra ngoài? Không động thì hiển lộ ra rồi. Vừa động thì mê, không động chính là giác, bổn giác, chúng ta có thể tu đến không động chính là bổn giác, thỉ giác chính là dựa vào bổn giác mà khởi tác dụng. Bổn giác khởi tác dụng là không gì không biết, không gì không thể, không chỉ có biết, mà còn có khả năng, có thể sanh ra vạn pháp. Vũ trụ từ đâu mà có? Vũ trụ từ đây mà có, không phải là [từ] vụ nổ lớn, vụ nổ lớn thì nói không thông. Hiện tượng của vụ nổ lớn tượng trưng cho điều gì? Mê hoặc đến tột cùng mới có vụ nổ lớn. Vụ nổ lớn giống như nổi giận, vì sao con người lại nổi giận? Mê rồi nên nổi giận. Hiểu rõ rồi thì mỉm cười cho qua. Vì vậy, phải hiểu rõ chân tướng sự thật, chư Phật và Pháp thân Bồ-tát không có gì khác, chính là hiểu rõ chân tướng của vũ trụ. Không đạt được điều thật, cũng không đạt được điều giả, đừng tưởng rằng điều thật thì có thể đạt được, điều thật thì cả tướng cũng không có, không có hiện tượng vật chất, không có hiện tượng tinh thần, không có hiện tượng tự nhiên, ba loại hiện tượng này đều trọn chẳng đạt được. Đây là chân tướng, khế nhập cảnh giới này thì được đại tự tại. Vì vậy, 慧安此理 “huệ an thử lý” (trí huệ an trong lý này), trí huệ chân thật, hoàn toàn hiểu rõ đạo lý này. Chiếu kiến, Bồ-tát Quán Thế Âm, 行深般若波羅蜜多時,照見五蘊皆空 “hành thâm bát nhã ba-la-mật-đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai không”. Ngũ uẩn hay, ngũ uẩn bao gồm hiện tượng tự nhiên, trong ngũ uẩn có sắc pháp, có tâm pháp, tâm, thọ tưởng hành thức, hoàn toàn hiểu rõ, đều là giả, chiếu kiến ngũ uẩn giai không. Trong ngũ uẩn có vật chất, có tinh thần, có hiện tượng tự nhiên, thức thứ tám là hiện tượng tự nhiên.

Tiếp theo, lại nữa, Lăng Nghiêm Kinh Trường Thủy Sớ, Niệm lão thật tài giỏi, thu thập nhiều kinh luận như vậy, ngài có thể tìm được câu này thật sự là không dễ dàng. Trong Trường Thủy Sớ nói: 了法無生,印可決定,名無生忍 “Liễu pháp vô sanh, ấn khả quyết định, danh Vô sanh nhẫn” (Hiểu pháp vô sanh, khẳng định thừa nhận, gọi là Vô sanh nhẫn). Liễu là hiểu rõ, pháp là tất cả vạn pháp, tất cả pháp thế gian và xuất thế gian, tất cả pháp thế gian và xuất thế gian là gì? Không có sanh. Ấn khả, ấn là quyết định, như quý vị đóng dấu thừa nhận rồi, ấn khả. Ấn khả điều gì? Tất cả pháp không sanh, thật sự quyết định rồi, không còn nghi ngờ nữa, như vậy gọi là Vô sanh nhẫn. Bồ-tát ở địa vị nào? Thất địa trở lên, Thất địa là hạ phẩm Vô sanh nhẫn, Bát địa là trung phẩm Vô sanh nhẫn, Thất Bát Cửu, Cửu địa là thượng phẩm Vô sanh nhẫn. Thập địa là hạ phẩm Tịch diệt nhẫn, trung phẩm là Đẳng giác, thượng phẩm là Diệu giác. Trong Kinh Nhân Vương nói như vậy. Trong quyển thứ 12 của Đại Thừa Nghĩa Chương nói, như Bồ-tát Long Thọ đã nói 初地以上亦得無生 “Sơ địa dĩ thượng diệc đắc vô sanh” (Sơ địa trở lên cũng được vô sanh), đây là cách nói thông thường, Sơ địa Bồ-tát đại triệt đại ngộ, minh Tâm kiến Tánh thì được Vô sanh nhẫn. 若依《仁王》 “Nhược y Nhân Vương” (Nếu căn cứ vào Kinh Nhân Vương), trong Kinh Nhân Vương nói, 及與《地經》,無生在七、八、九地 “cập dữ Địa Kinh, vô sanh tại Thất, Bát, Cửu địa” (cùng với Địa Kinh, vô sanh ở [bậc] Thất, Bát, Cửu địa), vừa rồi đã nói, Thất địa là hạ phẩm, Bát địa là trung phẩm, Cửu địa là thượng phẩm, chia thành ba phẩm.

《宋譯》曰:聞我名號,證無生忍。成就一切平等善根。住無功用,離加行故,不久令得阿耨多羅三藐三菩提 “Tống Dịch viết: Văn ngã danh hiệu, chứng Vô sanh nhẫn. Thành tựu nhất thiết bình đẳng thiện căn. Trụ vô công dụng, ly gia hạnh cố, bất cửu linh đắc A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề” (Bản Tống Dịch nói: Nghe danh hiệu con, chứng Vô sanh nhẫn, thành tựu tất cả thiện căn bình đẳng, trụ trong vô công dụng, nên lìa khỏi gia hạnh, không lâu sau khiến được A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề). Bên dưới, Đại sư Vọng Tây giải thích: 既云無功用,知證第八地。故知本經之第三忍 “Ký vân vô công dụng, tri chứng đệ Bát địa. Cố tri bổn kinh chi đệ tam nhẫn” (Đã nói là vô công dụng, [thì] biết là chứng đệ Bát địa. Nên biết là Pháp nhẫn thứ ba trong kinh này), chú trọng ở pháp thứ ba: Vô sanh Pháp nhẫn, chính là Vô sanh Pháp nhẫn trong Kinh Nhân Vương đã nói. Theo ý của Đại sư Vọng Tây, cần phải là Bát địa Bồ-tát. Phật thường nói cảnh giới của Bát địa trở lên đồng với Phật, Bát địa trở lên, đối với vạn pháp trong vũ trụ rõ ràng sáng tỏ, thông suốt thấu triệt, tuyệt đối không để trong tâm, Bát địa. Đoạn này, Niệm lão trích dẫn đều là để chứng minh loại nhẫn thứ ba trong kinh này, Vô sanh Pháp nhẫn, Pháp nhẫn thứ ba thật sự là Vô sanh Pháp nhẫn. Dùng điều này làm tiêu chuẩn, như trong Kinh Nhân Vương đã nói, năm loại nhẫn mà trong Kinh Nhân Vương nói là phẩm vị cao, không phải là Đại thừa thông thường, đây là Đại thừa thật giáo chân chánh.

Tiếp theo, Đại sư Vọng Tây nói, 問:以聞名力,豈得無生 “vấn: Dĩ văn danh lực, khởi đắc vô sanh” (hỏi: nhờ sức nghe danh hiệu, sao lại được vô sanh), câu hỏi rất hay, chúng ta chỉ nghe một câu A Di Đà Phật này, sức mạnh này làm sao có thể được vô sanh, Vô sanh Pháp nhẫn, Bát địa Bồ-tát, thoáng chốc thì ngang bằng với Bát địa rồi, ai tin? Đây cũng là [lý do mà] Tịnh tông được gọi là pháp khó tin. Hằng ngày chúng ta nghe danh hiệu Phật, chúng ta có chứng được vô sanh không? Không có. Vô sanh ở ngay trước mặt, không rời khỏi chúng ta, chúng ta chấp tướng, chúng ta cho nó là có sanh có diệt. Ai biết được nó không sanh không diệt? Có phương pháp tốt có thể giúp chúng ta, hằng ngày xem tivi, hình ảnh trên tivi không sanh không diệt, tần suất của nó là một giây một trăm lần, tivi hiện nay (tivi màu) một giây có một trăm lần sanh diệt, đã gạt được chúng ta rồi, chúng ta cho là thật có. Tivi là một giây một trăm lần, hoàn cảnh hiện thực của chúng ta thì một giây có bao nhiêu lần? Phải nhớ, 2 triệu 240 ngàn tỷ, tivi lừa chúng ta, chúng ta còn có thể nhận biết được; 2 triệu 240 ngàn tỷ này, không cách nào nhận biết, cho đó là thật, không giả chút nào, thật ra đều là giả, không có thứ gì là thật. Lão Hòa thượng Hải Hiền nói với chúng ta một lời chân thật, lời chân thật này là gì? “Chăm chỉ niệm Phật, thành Phật là thật, còn lại thì điều gì cũng là giả”. Câu nói này là lời chân thật, đã nói ra chân tướng sự thật rồi, chúng ta chẳng thể không xem trọng. Ngài nói ra câu nói này, ngài thật sự chứng được. Thật sự chứng được, căn cứ vào kinh văn này, Hòa thượng Hải Hiền là Bát địa Bồ-tát, vì sao vậy? Ngài thật sự chứng được vô sanh, ngài ra đi tự tại, không sanh không diệt. Duyên phận ở thế giới này hết rồi, ngài lại đến thế giới phương khác, có rất nhiều thế giới có duyên với ngài, ngài lại phân thân, hóa thân, đi rồi. Câu trả lời của ngài Vọng Tây rất hay, vì sao nghe danh hiệu có thể được vô sanh? 佛願力故 “Phật nguyện lực cố” (Vì nguyện lực của Phật). Nguyện nào? Chính là nguyện này, Phật thực hiện nguyện này rồi, [nếu] Ngài không thực hiện thì Ngài không thể thành Phật, Ngài thực hiện rồi. Nguyện lực này của A Di Đà Phật gia trì, quý vị nghe được Phật hiệu thì được Vô sanh nhẫn.

故《十住論》云:過去無數劫,有佛號海德。今現在十方,各得成正覺。皆從彼發願,聞名定作佛 “Cố Thập Trụ Luận vân: Quá khứ vô số kiếp, hữu Phật hiệu Hải Đức. Kim hiện tại thập phương, các đắc thành Chánh-giác. Giai tùng bỉ phát nguyện, văn danh định tác Phật” (Nên Luận Thập Trụ nói: Vô số kiếp quá khứ, có Phật hiệu là Hải Đức. Nay hiện thân ở mười phương, mỗi thân được thành Chánh-giác. Đều do Ngài phát nguyện, nghe danh nhất định làm Phật). Trong Luận Thập Trụ có đoạn văn này, vô số kiếp trong quá khứ có một vị Phật, Phật hiệu là Hải Đức, Hải Đức Như Lai. Kim hiện tại thập phương, nay đang hiện thân ở mười phương, thân nào cũng được thành Chánh-giác. Hóa thân của Ngài đều thị hiện bát tướng thành đạo, giống hệt như Thích Ca Mâu Ni Phật vậy, đại triệt đại ngộ, minh Tâm kiến Tánh dưới cây Bồ-đề. Đều do Ngài phát nguyện, nghe danh nhất định làm Phật, “Ngài” là Hải Đức Như Lai. Bên dưới Niệm lão chú giải rằng: 上之論證,妙顯他力,佛願加被,使聞名者,證無生忍,定當作佛 “Thượng chi luận chứng, diệu hiển tha lực, Phật nguyện gia bị, sử văn danh giả, chứng Vô sanh nhẫn, định đương tác Phật” (Phần trên nói về chứng, hiển bày tha lực một cách vi diệu, nguyện của Phật gia bị, khiến cho người nghe danh, chứng Vô sanh nhẫn, nhất định sẽ làm Phật). Tiếp theo nói, 且聞不是但聞,必能起行 “thả văn bất thị đãn văn, tất năng khởi hạnh” (nghe này không phải chỉ là nghe, mà chắc chắn có thể khởi hạnh), câu nói này vô cùng quan trọng. Nghe này không phải chỉ là nghe, chỉ nghe, không để trong tâm thì không thể khởi hạnh; nghe này, có tâm, có ý thức, để trong tâm, đã nghe danh hiệu Phật rồi, họ có thể hành. Hành, đơn giản nhất, phương tiện nhất chính là niệm Phật, sau khi nghe xong thì chịu niệm, thật sự niệm. Lão Hòa thượng Hải Hiền biểu pháp cho chúng ta, ngài nghe lời dạy của Sư phụ, Sư phụ dạy ngài một câu Nam mô A Di Đà Phật, nói với ngài cứ niệm liên tục, ngài đã niệm suốt 92 năm, 必能起行 “tất năng khởi hạnh” (chắc chắn có thể khởi hạnh), ngài có thể thành Phật, chỉ bốn chữ này.

Tiếp theo, ngài trích dẫn quyển thứ 20 của Niết Bàn Kinh Sớ nói rõ với chúng ta, 若聞常住二字,生生不墮者 “nhược văn thường trụ nhị tự, sanh sanh bất đọa giả” (nếu nghe được hai chữ “thường trụ”, thì đời đời không bị đọa lạc). Thường trụ, là thuật ngữ của nhà Phật, tự viện đạo tràng gọi là thường trụ. Ngạn ngữ trong nhà Phật của Trung Hoa, nói là: thường trụ như sắt rèn, Tăng như nước chảy. Thường trụ là chỉ đạo tràng, đạo tràng không động, nó nằm mãi ở đó, người ở đó lưu động. Nếu quý vị nghe được hai chữ này thì tâm quý vị định, ở đạo tràng ấy như như bất động, chắc chắn thành tựu. Đây là gì? Chính là câu mà ngạn ngữ đã nói: 一門深入,長時薰修 “Nhất môn thâm nhập, trường thời huân tu” (Thâm nhập một môn, huân tu lâu dài). Ở trong đạo tràng này, tâm được định, thường đổi chỗ, tâm bị dao động. Thời xưa, quý vị đến tự viện để quải đơn, thầy tri khách tiếp đãi quý vị, liền hỏi quý vị, thầy từ đâu đến? Thầy ở bên đó bao lâu rồi? Nếu thời gian ở đó rất ngắn, quý vị quải đơn trong thường trụ, cũng sẽ không cho quý vị thời gian rất dài. Nếu quý vị ở một nơi trên ba năm, thông thường đều hoan nghênh quý vị, hoan nghênh quý vị đến ở lâu dài, vì sao vậy? Vì tâm quý vị định. Dụng ý này rất sâu, bất luận làm gì cũng phải nhất tâm chuyên niệm thì sẽ thành công; thường xuyên thay đổi, đổi đề mục, sẽ không thành tựu, chẳng thể không biết [điều này].

Hôm nay chúng tôi đặc biệt nhắc đến, ba vị Thánh ở chùa Lai Phật tỉnh Nam Dương, dụng ý là gì? Tâm các ngài định, cả đời các ngài chỉ định ở một nơi, chỉ định ở một môn, một câu Phật hiệu niệm đến cùng, không chuyển hướng, không đổi Pháp môn, vị nào cũng thành tựu rồi, không phải chỉ riêng một vị. Lão Hòa thượng Hải Hiền 92 năm, mẹ của ngài từ nhỏ đã ăn chay niệm Phật, 86 tuổi vãng sanh; Sư đệ của ngài là lão Hòa thượng Hải Khánh 71 năm, ngài xuất gia năm 11 tuổi, 82 tuổi ra đi, đã niệm câu Phật hiệu này 71 năm, vị nào cũng có thành tựu tuyệt vời. Học Phật tu Tịnh Độ, mong muốn đời này có thể lìa cứu cánh khổ, cứu cánh khổ là lục đạo luân hồi, thoát khỏi lục đạo luân hồi, vãng sanh Thế giới Cực Lạc được cứu cánh vui, tu như thế nào? Học theo ba vị ở chùa Lai Phật là được, nhất định thành tựu, tuyệt đối không phải là gạt quý vị. Một câu Phật hiệu niệm đến cùng, nương theo bộ Kinh Vô Lượng Thọ này, Tập Chú của lão Cư sĩ Hoàng Niệm Tổ, một bộ kinh là đủ rồi. Nội dung của bộ chú giải này quá phong phú, trong đây trích dẫn 83 loại kinh luận, 110 loại chú sớ của Tổ sư Đại đức, Đại thừa Tiểu thừa, Tông môn Giáo hạ, Hiển giáo Mật giáo, thảy đều bao gồm trong đây. Cho nên một quyển này là đủ rồi, không cần phải xem thêm những quyển khác nữa. Trợ tu chính là sách Vĩnh Tư Tập về ba vị Thánh ở chùa Lai Phật, có thể xem nhiều lần, [đó] là tấm gương tốt của chúng ta.

Nếu nói chọn thêm một quyển sách để trợ tu, tôi giới thiệu cho quý vị Tịnh Tu Tiệp Yếu Báo Ân Đàm của lão Cư sĩ Hoàng Niệm Tổ, quyển sách này thông qua nhiều năm chỉnh lý, hiện nay bản hiệu đính xuất bản rồi, trong đó giúp quý vị đoạn nghi sanh tín, kiên cố đạo tâm vãng sanh của quý vị, tức là nguyện tâm. Bộ sách ấy, văn tự không phải do lão Cư sĩ viết, tuổi tác ngài quá cao rồi. Ngài dùng cách thức như kể chuyện tán gẫu, hết sức thoải mái, vô cùng tự tại, giải thích chi tiết về nội dung của 32 lạy do Liên công đã viết. Trong đó cũng bao gồm pháp luân viên mãn, có Đại thừa có Tiểu thừa, có Thiền tông có Giáo hạ, trong Giáo hạ bao gồm Hoa Nghiêm, Pháp Hoa, Duy Thức, Tam Luận, có Hiển có Mật, quá phong phú rồi. Vấn đề nghi ngờ nan giải nào cũng tìm được đáp án trong đó, xem đó là thường thức Phật học mà đọc, tác dụng là có thể giúp quý vị phá trừ nghi hoặc. Trong lý luận của Phật giáo, trong việc tu hành, giải hành chứng đều có đầy đủ, khiến quý vị không còn nghi ngờ về tín giải hành chứng nữa. Một bộ sách rất khó có được, là báo cáo tâm đắc cuối cùng về việc học Phật trong cả đời học Phật của ngài, chẳng thể không xem, phải xem nhiều lần. Ở chỗ chúng ta có in sách, còn có đĩa CD, đĩa CD là sách nói.

Chúng ta xem trong quyển 20 của Niết Bàn Kinh Sớ nói: 若聞常住二字,生生不墮者,聞有多種,若能深思惟,如說行者,即生生不墮 “Nhược văn thường trụ nhị tự, sanh sanh bất đọa giả, văn hữu đa chủng, nhược năng thâm tư duy, như thuyết hành giả, tức sanh sanh bất đọa” (Nếu nghe được hai chữ “thường trụ” thì đời đời không bị đọa lạc. Nghe có nhiều loại, nếu có thể tư duy sâu sắc, thực hành đúng như lời dạy, thì đời đời không đọa lạc). Chú giải này nói rất hay, sau khi nghe xong có thể tư duy sâu sắc, làm rõ ràng, làm sáng tỏ đạo lý, tu hành đúng như lời dạy, thì đời đời không đọa lạc. Có nghĩa là: 聞後能深思惟,並如說修行,始能得生生不墮之益。可見聞之一字,意兼信受,不僅是一經於耳 “Văn hậu năng thâm tư duy, tịnh như thuyết tu hành, thủy năng đắc sanh sanh bất đọa chi ích. Khả kiến văn chi nhất tự, ý khiêm tín thọ, bất cận thị nhất kinh ư nhĩ” (Sau khi nghe xong có thể tư duy sâu sắc, đồng thời tu hành đúng như lời dạy, mới có thể được lợi ích đời đời không đọa lạc. Có thể thấy được một chữ “nghe”, ý nghĩa bao gồm cả tín thọ, không chỉ là một lần nghe qua tai mà thôi). Một lần nghe qua tai, tai bên này nghe được, lọt qua tai bên kia rồi, không hiệu quả. Sau khi nghe xong thì thế nào? Tin tưởng, không chỉ tin, mà còn tiếp nhận, tiếp nhận chính là y giáo phụng hành.

Tiếp theo đúc kết quy nạp nguyện này, nhất nhị tam nhẫn trong nguyện này thật sự là ba loại nhẫn trong phẩm 15: Bồ-đề Đạo Tràng của kinh này. Ba loại nhẫn này là gì? Là Âm hưởng nhẫn, Nhu thuận nhẫn, Vô sanh Pháp nhẫn, trong Phẩm thứ 15: Bồ-đề Đạo Tràng có giảng ba loại nhẫn này. Trong quyển thứ năm của Vô Lượng Thọ Kinh Sao có giải thích, thứ nhất: 音響忍,由音響而悟解真理者 “Âm hưởng nhẫn, do âm hưởng nhi ngộ giải chân lý giả” (Âm hưởng nhẫn: Từ âm hưởng mà ngộ hiểu chân lý), đây chính là nghe kinh nghe pháp mà khai ngộ. Người nghe kinh nghe pháp thì nhiều, nhưng người khai ngộ không nhiều, vì sao vậy? Kinh luận mà Phật Bồ-tát đã nói, đều là từ trong Tự Tánh lưu xuất ra. Tự Tánh là gì? Đại sư Huệ Năng nói rất hay, Tự Tánh là thanh tịnh, là không sanh không diệt, là vốn tự đầy đủ, là vốn không dao động, có thể sanh ra vạn pháp. Trong khi giảng kinh thuyết pháp làm thế nào mới có thể tương ưng với Tự Tánh? Phải chân thành, phải thanh tịnh, phải cung kính. Cho nên Ấn tổ thường dạy người khác: Một phần thành kính được một phần lợi ích, chân thành cung kính, mười phần thành kính được mười phần lợi ích, trăm phần thành kính được trăm phần lợi ích, vạn phần thành kính được vạn phần lợi ích. Quý vị có mấy phần tâm chân thành, có mấy phần tâm cung kính? Điều này thì khó, đặc biệt người hiện nay tính tình nông nổi, không còn chân thành nữa, đương nhiên cũng không có cung kính. Cung kính là tướng, dáng vẻ của chân thành, thành ở trong và biểu hiện ra bên ngoài. Tôi thường khuyên đồng học, ở trong sinh hoạt hằng ngày, làm việc đối người tiếp vật đều dùng Chân Tâm, tuyệt đối không lừa dối tất cả chúng sanh, ai được lợi ích? Chính mình được, là thật, không phải giả. Vì sao phải gạt người khác? Vì sao phải ức hiếp người khác? Không nên, dùng tâm chân thành “chính là” chân thành đối với chính mình, tất cả chúng sanh với chúng ta là một thể. Đại sư Huệ Năng nói rất hay: 何期自性,能生萬法 “Hà kỳ Tự Tánh, năng sanh vạn pháp” (Nào ngờ Tự Tánh có thể sanh ra vạn pháp), vạn pháp với chính mình là một thể, gạt người tức là gạt mình, ức hiếp người khác tức là ức hiếp chính mình, tự lừa dối mình. Vì vậy, chướng ngại lớn nhất khi chúng ta học đạo không ở bên ngoài, mà ở bên trong, hoàn toàn là dùng sai tâm rồi. Đây là do ngộ giải, khai ngộ rồi, nên được nhẫn.

Loại thứ hai: 柔順忍,慧心柔軟,能隨順真理 “Nhu thuận nhẫn, huệ tâm nhu nhuyễn, năng tùy thuận chân lý” (Nhu thuận nhẫn: Huệ tâm nhu nhuyễn, có thể tùy thuận chân lý). Chân lý hiện vạn pháp, cho nên Phật dạy chúng ta tùy hỷ, tùy thuận, hằng thuận chúng sanh, tùy hỷ công đức là được. Tâm phải nhu nhuyễn, không thể cang cường, cang cường thì nhất định tạo tội nghiệp. Trước đây, chúng tôi nêu ra, tâm Bồ-đề, gồm mười chữ, “chân thành, thanh tịnh, bình đẳng, chánh giác, từ bi”, niệm niệm không thể tách rời, Khởi tâm Động niệm thì phải dùng những chữ này để đối chiếu thử xem, có tương ưng hay không, trong hành động “nhìn thấu, buông xuống, tự tại, tùy duyên, niệm Phật”, tốt! Năm xưa, tôi giảng kinh ở các nơi tại nước Mỹ, dùng điều này khuyên người khác, dùng điều này tự tu. Tu như thế nào gọi là chân tu hành? Tu từ đâu? Từ Khởi tâm Động niệm, từ ngôn ngữ tạo tác, huệ tâm nhu nhuyễn, có thể tùy thuận chân lý.

三無生法忍,證無生之實性 “Tam: Vô sanh Pháp nhẫn, chứng vô sanh chi thật tánh” (Thứ ba: Vô sanh Pháp nhẫn, chứng thật tánh của vô sanh), thật chính là thật tướng, tánh chính là Tự Tánh, 而離諸相者,是悟道之至極也 “nhi ly chư tướng giả, thị ngộ đạo chi chí cực dã” (nên lìa các tướng, là điểm tột cùng của sự ngộ đạo). Chỉ có thật sự hiểu rõ thật tánh của vô sanh, hiện nay tuy chúng ta chưa chứng được, nhưng chúng ta có phước báo hơn người thông thường. Vì sao vậy? Vì người thời xưa không nghe được báo cáo của nhà khoa học, đối với những điều Phật đã giảng trong kinh như: “vạn pháp đều không”, “tất cả pháp không sanh không diệt”, đều rất khó tiếp nhận. Hiện nay chúng ta có thể tiếp nhận, vì sao vậy? Vì khoa học chứng minh cho chúng ta rồi, nhà Cơ học Lượng tử không gạt người, khoa học thật sự quan sát được, đã thấy rõ ràng, những gì có tướng đều là hư vọng. Những tướng này từ đâu sanh ra? Từ ý niệm mà sanh ra. Trong kinh Phật có rất nhiều câu nói như vầy: 相由心生 “Tướng do tâm sanh”, 色由心生 “sắc do tâm sanh”, 一切法從心想生 “nhất thiết pháp tùng tâm tưởng sanh” (tất cả pháp từ tâm tưởng sanh). Phật thường nói, thường xuyên nhắc nhở chúng ta, là thật, không phải giả. Cho nên hiện nay, có người nói xã hội của thế gian này động loạn, tai nạn trên trái đất rất nhiều, điều này từ đâu ra? Từ ý niệm mà ra. Tướng do tâm sanh, ý niệm tốt thì biến thành Thế giới Cực Lạc, ý niệm không tốt thì biến thành tam đồ địa ngục, đây là lời chân thật, đây là lý chân chánh. Làm thế nào giúp hóa giải tai nạn? Niệm Phật là được rồi. Vì sao vậy? Vì Phật là ý niệm tốt nhất. Tâm lượng của chúng ta phải lớn, ta niệm câu Phật hiệu này hồi hướng cho trái đất, hồi hướng cho tất cả chúng sanh trên trái đất, đừng hồi hướng cho chính mình, chính mình cũng là một thành viên trong chúng sanh trên trái đất, phải nghĩ đến phạm vi rộng lớn. Càng lớn thì càng tốt, hồi hướng cho tất cả chúng sanh ở hư không pháp giới, thay họ niệm Phật, thay họ niệm Phật, nguyện mọi người cùng sanh Tịnh Độ, như vậy tốt biết mấy! Tâm lượng này mở rộng rồi, khắp pháp giới hư không giới không sót một ai. Đây là ngộ đạo đến tột cùng, Vô sanh Pháp nhẫn.

此三忍當於第十五品中詳論之 “Thử tam nhẫn đương ư đệ thập ngũ phẩm trung tường luận chi” (Ba loại nhẫn này sẽ được nói tường tận trong phẩm thứ 15), ba loại nhẫn này, ở đây nói sơ lược, ở phía sau, đây là phẩm thứ sáu, đến phẩm thứ 15, Niệm lão giải thích tường tận cho chúng ta. Mong rằng chúng ta trong đời này được Âm hưởng nhẫn, được Nhu thuận nhẫn, được Vô sanh Pháp nhẫn, chúng ta vãng sanh không còn khó nữa, nắm chắc, có tín tâm vãng sanh, như vậy mới là công đức chân thật của học Phật. Thời gian hôm nay hết rồi, chúng ta học tập đến đây thôi.

(Hết tập 204)

Nguyện đem công đức này
Hướng về khắp tất cả
Đệ tử cùng chúng sanh
Đều sanh nước Cực Lạc
Sớm viên thành Phật quả
Rộng độ khắp chúng sanh.

Nam Mô A Di Đà Phật.

Trả lời 0