Responsive Menu
Add more content here...

Luận Câu Xá – Phẩm 1 – Buổi 21

Giảng Ký A Tỳ Đạt Ma Câu Xá Luận (A Tỳ Đàm – Vi Diệu Pháp – Duy Thức Pháp Tướng) – Tạo Luận: Tôn giả Thế Thân – Dịch và Chú Thích: Tam tạng Pháp sư Huyền Trang – Bài 21: Phẩm 1 – Phân Biệt Giới – Buổi 21.

Giảng giải: Thầy Thích Thiện Trang

Giảng ngày: 11.12.2024

Phát trực tiếp trên Kênh YouTube Thích Thiện Trang

https://www.youtube.com/watch?v=b-fi2a1TPt0

mạng xã hội Facebook, Fanpage Thích Thiện Trang:

https://www.facebook.com/suthaythichthientrang

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật!

          Nam Mô A Mi Đà Phật!

          Kính chào toàn thể quý vị đồng tu! Hôm nay [là] thứ Tư, chúng ta chia sẻ về Luận Câu Xá. Hôm nay là bài thứ 21, chúng ta đang học ở Phẩm thứ nhất của Luận Câu Xá. Những nội dung mà Thiện Trang giới thiệu ở đây, thực ra có rải rác trong Luận Câu Xá, nhưng chúng ta có kết hợp với bộ A Tỳ Đàm (Vi Diệu Pháp) của bên Nam truyền, cho nên có những phần chúng ta được học trước. Phần trong Tạng kinh giới thiệu có nhiều bộ kinh như Kinh A Hàm, Kinh Nikaya, đều là những kiến thức cần thiết. Thiện Trang cố gắng sắp xếp lại trình tự để cho quý vị học, quý vị nắm được trình tự để mình học tới đâu thì mình hành được tới đó. Cho nên có những thứ tự không giống theo bất cứ một giáo trình nào khác. Vì vậy cho dù quý vị có nghe bộ Luận Câu Xá của ai đi chăng nữa thì cũng không thể giống với bộ Luận này. Cho nên đừng nói là giống rồi, chúng ta không cần học.

Chúng ta không mất nhiều thời gian [nữa], hôm nay chúng ta giới thiệu vào phần nội dung. Đầu tiên Thiện Trang trở lại với “27 Địa Vị Hiền Thánh” đã giới thiệu ở bài 20, trích từ Kinh Phước Điền thuộc Trung A Hàm. Thiện Trang xin nhắc lại, vì bữa trước chỉ giới thiệu thôi, hôm nay sẽ nói rõ hơn một chút.

27 Địa Vị Hiền Thánh

Này Cư sĩ, 18 hạng người Hữu học là những ai? Là Tín hành, Pháp hành, Tín giải thoát, Kiến đáo, Thân chứng, Gia gia, Nhất chủng, Hướng Tu-đà-hoàn, Đắc Tu-đà-hoàn; Hướng Tư-đà-hàm, Đắc Tư-đà-hàm; Hướng A-na-hàm, Đắc A-na-hàm, Trung Bát-niết-bàn, Sanh Bát-niết-bàn, Hành Bát-niết-bàn, Vô hành Bát-niết-bàn, Thượng lưu Sắc cứu cánh. Đó là 18 hạng Hữu học.

Ở đây Thiện Trang muốn giới thiệu lại một chút về các địa vị: Tín hành, Pháp hành, Tín giải thoát, Kiến đáo, Thân chứng, Gia gia, Nhất chủng. Các địa vị này là trước khi chứng Sơ quả Tu-đà-hoàn, bỏ luôn cả Hướng Tu-đà-hoàn (Tu-đà-hoàn hướng) vào nữa. Bên Vi Diệu Pháp gọi là Tu-đà-hoàn đạo, đạo với hướng thì cũng giống nhau. Quý vị đếm từ Tín hành (Tùy tín hành), Pháp hành (Tùy pháp hành), Tín giải thoát, Kiến đáo (#đáo có khi dịch là đảo, đảo hay đáo cũng vậy, nhưng nên dịch là đáo thì đúng hơn. Vì chữ đáo hay đảo là cùng một âm, nhưng phải dịch là Kiến đáo), Thân chứng, Gia gia, Nhất chủng. Tổng là bảy. [Những địa vị] này ở trong một số bộ luận hay Thiên Thai Tứ Giáo Hóa Nghi thì gọi là Thất hiền (là bảy địa vị Hiền).

Từ Hướng Tu-đà-hoàn, Đắc Tu-đà-hoàn; Hướng Tư-đà-hàm, Đắc Tư-đà-hàm; Hướng A-na-hàm, Đắc A-na-hàm, Trung Bát-niết-bàn, Sanh Bát-niết-bàn, Hành Bát-niết-bàn, Vô hành Bát-niết-bàn, Thượng lưu Sắc cứu cánh, [được] xếp vô là địa vị Thánh. Thiện Trang muốn nói về các địa vị [Hiền] này, quý vị có thể coi trong bất cứ một bộ luận nào, ví dụ như của Tông Thiên Thai, hay mai mốt chúng ta học trong Luận Câu Xá này cũng có, trong những bộ luận khác cũng có. Chứ không phải mỗi trong kinh có, nhưng ở đây chúng ta muốn dẫn trong kinh để quý vị thấy rõ.

Ví dụ hôm bữa chúng ta có một tiêu chuẩn để không đọa lạc, [đó là] vào quả (Dự lưu) mà chỉ là [niềm tin] bất động (niềm tin bất động đối với Phật, niềm tin bất động đối với Pháp, niềm tin bất động đối với Tăng, và đầy đủ Thánh giới), thì nằm trong địa vị Thất hiền này: Tín hành, Pháp hành, Tín giải thoát, Kiến đáo, Thân chứng, Gia gia, Nhất chủng. Ở trong Luận Câu Xá, mai mốt chúng ta học, có một địa vị gọi là Nhẫn vị hay Thế đệ Nhất vị. Hai địa vị đó, nếu chúng ta chỉ cần tới Nhẫn vị thôi thì đã không đọa vào ba đường ác rồi. [Quý vị] nhớ: tới đó là không đọa đường ác. Nên quả Dự lưu hôm bữa mà niềm tin bất động đối với Phật, Pháp, Tăng, và đầy đủ Giới thì chưa phải là Tu-đà-hoàn. Vì Tu-đà-hoàn là phải phá Thân kiến, Giới cấm thủ, và Nghi. Nhưng từ đó trở đi, ngôn ngữ của Phật giáo Nam truyền gọi là vào dòng Thánh rồi, bên Bắc truyền thì gọi là vào dòng Hiền. Hiền, Thánh thật ra bên Pali hay tiếng Phạn cũng là một thôi. Nhưng qua Trung Hoa thì các chư Tổ Trung Hoa chia ra thành Hiền, Thánh cho rõ ràng.

Chúng ta phải hiểu được như vậy. Cho nên chỉ cần tới địa vị đó là mình đã không đọa vào ba đường ác rồi. Còn quý vị bước thêm một hồi nữa, quý vị tới Tu-đà-hoàn (phá Thân kiến, Giới cấm thủ, và Nghi), thì quý vị mới còn tối đa bảy đời nữa ở trong Dục giới, rồi sau đó không còn ở Dục giới nữa, và tối đa 7 đời [sẽ] chứng A-la-hán, địa vị này thì cao hơn. Còn có những địa vị thấp hơn.

Cho nên mình học [nhưng] nhiều khi mình không hiểu, rồi mình thấy tiêu chuẩn để vô Sơ quả Tu-đà-hoàn lớn quá, khó quá. Ở đây xin giới thiệu với quý vị: tính luôn cả Sơ quả Tu-đà-hoàn hướng là tám địa vị. Tám địa vị này thấp hơn Tu-đà-hoàn. Quý vị vào được [những địa vị] đây là cũng ngon rồi.

Còn A-la-hán thì ở đây:

Này Cư sĩ, 9 hạng người Vô học là những ai? (A-la-hán đó) Là Tư pháp, Thăng tấn pháp, Bất động pháp, Thoái pháp, Bất thối pháp, Hộ pháp, Hộ tắc Bất thoái Bất hộ Tắc thoái, Thật trụ pháp, Tuệ giải thoát, Câu giải thoát. Đó là 9 hạng vô học”.

(Trích từ Kinh Phước Điền thuộc Trung A Hàm).

Quý vị để ý, từ Thật trụ pháp, Tuệ giải thoát, Câu giải thoát, ba địa vị này là không thoái chuyển A-la-hán. Còn những địa vị đằng trước là có khi thoái chuyển lại. Trong Luận Đại Tỳ Bà Sa nói rằng: họ có thể thoái chuyển nhiều nhất tối đa về Tu-đà-hoàn thôi, không có [thoái] hơn nữa. Hộ tắc Bất thoái Bất hộ Tắc thoái dịch nghĩa là #hộ tức là mình hộ trì được pháp, thì sẽ không có thoái chuyển, [còn] nếu mình không hộ trì được pháp đó thì thoái chuyển. Hạng này là hạng ở giữa. Mấy hạng ở trước thoái là bình thường. [Trong] chín bậc thực ra có ba bậc A-la-hán (Thật trụ pháp, Tuệ giải thoát, Câu giải thoát) là không thoái chuyển thôi.

Ở đây so với bài hôm trước, Thiện Trang giới thiệu năm kiểu A-la-hán ở A Tỳ Đàm nữa. Quý vị thấy còn có A-la-hán chứng thêm Tam minh, rồi nhiều thứ nữa, thì [những địa vị này] ở đâu? Là nằm ở Câu giải thoát này, kèm thêm [và] chia nhỏ ra. Cho nên chia tất tần tật hết từ đầu đến cuối, trong một bộ Vi Diệu Pháp khác người ta có thể chia ra thành 43 địa vị. Ở đây mới có 27 [địa vị], nhưng mình chia thêm Câu giải thoát ra. Rồi chia thêm chỗ A-na-hàm từ Sơ thiền cho đến Tứ thiền. Tức là A-na-hàm có thể sanh về trời Sơ thiền, Sơ thiền có mấy tầng trời đó, hoặc Nhị thiền có ba tầng trời, Tam thiền có ba tầng trời, cho đến Tứ thiền, cộng một hồi thành ra 43 địa vị. Quý vị hiểu số 43 từ đâu ra là như vậy. Chứ không thì một hồi [thấy] sao [thầy] Thiện Trang giảng lại mâu thuẫn thế, lúc thì nói có mấy địa vị, lúc thì nói nhiều thế. Tức là từ đó mà chia ra, chia càng nhỏ ra thì càng nhiều [địa vị], còn không lại nói lược thì có bao nhiêu đó thôi. Chúng ta cũng hiểu dễ dàng thôi.

Những địa vị như từ Hướng A-na-hàm, Đắc A-na-hàm, Trung Bát-niết-bàn, Sanh Bát-niết-bàn, Hành Bát-niết-bàn, Vô hành Bát-niết-bàn, Thượng lưu Sắc cứu cánh, là A-na-hàm hết. Đó là vẫn chia chưa kỹ, Đắc A-na-hàm cũng phải chia ra Trung Bát-niết-bàn, Sanh Bát-niết-bàn, Hành Bát-niết-bàn, Vô hành Bát-niết-bàn, Thượng lưu Sắc cứu cánh, toàn là ở trời Ngũ Tịnh Cư Thiên. Thực tế là còn một loạt hạng đắc A-na-hàm ở đằng trước nữa, sanh về trời Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền. Một loạt như vậy thành ra nhiều.

Nếu chúng ta chia tỉ mỉ ra, càng kỹ bao nhiêu thì càng dễ tu. Vì mình tu tới đâu, mình thấy đắc tới đó. Giống như bây giờ quý vị học, kêu ráng học đến lớp 12 thì mới tốt nghiệp, mới phát cho quý vị bằng tốt nghiệp. Quý vị cảm thấy mới vô học lớp 1 thì bao giờ mới tới lớp 12. Nhưng bây giờ thôi cứ học hết lớp 1 thì phát cho sổ học bạ, ký đã học hết lớp 1, xong lớp 2, v.v… xong lớp 5 cấp đỡ cho một cái bằng đi, rồi tới lớp 9 cấp đỡ một cái bằng đi, v.v… Càng như vậy thì một người học sẽ cảm thấy mình tu, mình học, mình có gì đó để đắc. Vì chúng sanh phàm phu mà, cho nên chia nhỏ ra như vậy dễ hơn. Còn nói lược thế kia thì mình cứ nhìn tiêu chuẩn Tu-đà-hoàn trở lên là mình thấy ngán quá. Phá Thân kiến, Giới cấm thủ, Nghi, khó quá, thì bây giờ mình chỉ cần nhẹ nhẹ hơn, cố gắng vào Tùy tín hành, Tùy pháp hành, hoặc Gia gia, Nhất chủng, v.v… những địa vị đó, nói chung là nhiều lắm. Đó là lý do mình học kỹ càng vậy đó. Không kỹ thì mơ mơ màng màng, nhưng mình học rất kỹ.

Hôm nay Thiện Trang giới thiệu thế nào là Tùy tín hành và Tùy pháp hành. Tức là mỗi bữa giới thiệu chút thôi, từ từ rồi lúc nào đó giới thiệu mấy địa vị kia. Bữa nay địa vị đầu tiên là Tùy tín hành và Tùy pháp hành, trích trong kinh luôn:

Thế Nào Là Địa Vị Tùy Tín Hành, Tùy Pháp Hành?

Tôi nghe như vầy: Một thời, đức Phật ở tại vườn ông Cấp Cô Độc, rừng cây Thái tử Kỳ Đà, nước Xá Vệ. Bấy giờ, đức Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo: (Ở đây cũng là pháp tu của người vào Tùy tín hành, tất nhiên có nhiều cách tu nhưng ở đây có một cách, tức là bộ kinh khác thì nói cách khác nữa).

Có năm thủ uẩn. Những gì [là] Năm? Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức thủ uẩn. (Điều này quen không quý vị? Chúng ta đang học điều này và chúng ta vào là vào Tùy tín hành luôn).

Thế nào là sắc thủ uẩn? Những gì là Sắc, tất cả chúng đều là bốn đại. (Rất quen đúng không quý vị? Chúng ta đang học Sắc là bốn đại: Đất, Nước, Lửa, Gió mà), và sắc do bốn đại tạo; đó gọi là Sắc thủ uẩn (chúng ta học tới đây biết rồi). Lại nữa, sắc kia là vô thường, khổ, là pháp biến dịch (Quan trọng là điều này, nhớ giùm sắc đó là vô thường, khổ, là biến dịch; biến dịch là biến đổi, thay đổi, di chuyển. Cho nên nhớ giùm chân lý Tứ đế là Khổ, Không, Vô thường, vô Ngã, chỉ cần nắm [mấy điều] đó thôi). Nếu Sắc thủ uẩn này vĩnh viễn bị đoạn trừ không dư tàn, rốt ráo xả ly, diệt tận, ly dục, tịch diệt, các Sắc thủ uẩn khác không tương tục, không xuất hiện, không khởi lên; đó gọi là vi diệu, cũng gọi là tịch tĩnh, cũng gọi là xả ly tất cả Hữu dư, Ái tận, Vô dục, Diệt tận, Niết-bàn.

Đầu tiên là nói Sắc uẩn rồi, tiếp theo:

Thế nào là Thọ thủ uẩn? Đó là sáu thọ thân. Những gì là sáu? Thọ phát sanh do xúc con mắt; thọ phát sanh do xúc của tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Đó gọi là Thọ thủ uẩn. Lại nữa, Thọ thủ uẩn này là vô thường, khổ, là pháp biến dịch, cho đến, diệt tận, Niết-bàn.

Quý vị thấy đoạn này quen không? Quá quen! Chúng ta đang học điều này mà, Luận Câu Xá [cũng] đang học điều này luôn. Điều này ở trong kinh, Thiện Trang dẫn để quý vị thấy Luận Câu Xá này là trong kinh ra, không phải mình học theo chư Tổ rồi trật lất. Không có! Có căn cứ [trong] kinh điển. Chúng ta học Thọ này là do tiếp xúc của mắt, thọ do tiếp xúc của tai, tai thì nghe âm thanh, rồi mũi, lưỡi, thân, ý. Sáu cảm thọ khởi lên do sự tiếp xúc đó.

Thế nào là Tưởng thủ uẩn? Đó là sáu tưởng thân. Những gì là sáu? Tưởng phát sanh do xúc con mắt; cho đến, tưởng phát sanh do xúc của ý (giống y chang Luận Câu Xá rồi đúng không quý vị? Đây là kinh nha). Đó gọi là Tưởng thủ uẩn. Lại nữa, Tưởng thủ uẩn này là vô thường, khổ, là pháp biến dịch, cho đến, diệt tận, Niết-bàn. Nói tóm lại là nhớ giùm Khổ, Vô thường, là pháp dời đổi, và cuối cùng cũng sẽ đi đến không (diệt tận). Tương tự như vậy:

Thế nào là Hành thủ uẩn? Đó là sáu tư thân (#tư là suy nghĩ, đây là định nghĩa của đức Phật). Những gì là sáu? Tư phát sanh do xúc con mắt; cho đến, tư phát sanh do xúc của ý. Đó gọi là Hành thủ uẩn.

Ở đây nói [hành là] suy nghĩ, còn ở trong A Tỳ Đàm có người giải thích là suy nghĩ về thiện ác. Nhưng trong kinh này, đức Phật nói là “tư” thôi, tư là suy nghĩ. Suy nghĩ do mắt của mình tiếp xúc, ví dụ chúng ta thấy hình ảnh của Thiện Trang đang hiện lên, bắt đầu suy nghĩ bữa nay thầy Thiện Trang, sư Thiện Trang không vui, thầy buồn hay thế nào đó, v.v… Cảm giác đó là do phát sanh từ mắt.

Tương tự, tư (suy nghĩ) do phát sanh từ âm thanh. Ví dụ nghe âm thanh, bữa nay nghe giọng thầy Thiện Trang có vẻ rõ ràng, bữa nay chắc sức khỏe của thầy tốt, chẳng hạn. Như vậy [đó là] tư do điều đó. Không chỉ mỗi âm thanh do tai, rồi mình ăn, miệng là vị giác, mũi ngửi mùi, thân tiếp xúc với môi trường, ý là pháp mình nghe hôm nay. Ví dụ mình nghe hôm nay mình thấy hoan hỷ, vui vẻ. Thầy Thiện Trang đang trích dẫn trong kinh, để chứng minh rằng Luận Câu Xá này hoàn toàn tương ưng với kinh, để mình có niềm tin hơn, mình hoan hỷ. Những sự tư (suy nghĩ) như vậy gọi là Hành uẩn. Cho nên đôi khi mình phải học trong kinh [thì] mình mới biết chữ tư này. Hành uẩn này mà theo định nghĩa A Tỳ Đàm thì lại khác, đôi khi có khác chút. Có thể do mỗi người nhận thức khác nhau.

Lại nữa, Hành thủ uẩn này là vô thường, khổ, là pháp biến dịch, cho đến, diệt tận, Niết-bàn.

Thế nào là Thức thủ uẩn? Đó là sáu thức thân. Những gì là sáu? Thức thân con mắt; cho đến ý thức thân, đó gọi là Thức thủ uẩn. (Cũng giống vậy thôi! Thức là sự biết. Những gì là sáu? Mấy sự biết này chúng ta đã học hết rồi). Lại nữa, Thức thủ uẩn này là vô thường, khổ, là pháp biến dịch, cho đến, diệt tận, Niết-bàn.

Tóm lại là vậy. Cuối cùng nhớ giùm tất cả điều đó là Khổ, Vô thường, là pháp biến dịch. Quý vị tu được Ngũ uẩn: Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức, thì chúc mừng quý vị. Đức Phật nói luôn:

Này các Tỳ-kheo, nếu đối với pháp này mà dùng trí tuệ tư duy, quán sát, phân biệt, nhẫn thọ, đó gọi là Tùy tín hành, siêu thăng, ly sanh, vượt qua khỏi địa vị phàm phu. (Nghe đã không? Nếu đối với các pháp này mà dùng trí tuệ tư duy, quán sát, phân biệt, nhẫn thọ. Mình học mình phải có trí tuệ tư duy trong đó, mình quán sát, mình phân biệt, mình nhẫn thọ. Chúng ta đang học, đang làm những điều này đúng không?Đó gọi là Tùy tín hành. Và sẽ siêu thăng(làvượt hẳn lên), ly sanh (ở trong đây có chú giải là nhập Chánh tánh Ly sanh. Trong ngôn ngữ của mấy bộ luận là nhập Chánh tánh Ly sanh),vượt qua khỏi địa vị phàm phu. Cho nên Tùy tín hành là đã vượt qua địa vị phàm phu, vào dòng Hiền, dòng Thánh rồi. Bên Pali gọi là dòng Thánh, bên Hán tạng gọi là dòng Hiền). Nếu chưa đạt được quả Tu-đà-hoàn, mà nửa chừng không chết, thì chắc chắn sẽ đạt được quả Tu-đà-hoàn.

Có nghĩa là mình tu theo điều này thì chắc chắn đến quả Tu-đà-hoàn, nếu như mình không chết giữa chừng. Còn chết thì chưa chứng Tu-đà-hoàn, [nhưng] cũng được vào Tùy tín hành rồi, trước sau gì quần quần một hồi rồi cũng chứng. Có điều nếu mình đủ thời gian, mình tu được tới đây rồi, đời này quý vị tu được điều này [trí tuệ tư duy, quán sát, phân biệt, nhẫn thọ], nói chung nắm đượcnăm Thủ uẩn này, và nhớ Khổ, Không, Vô thường, vô Ngã giùm. Cứ nhớ vậy, tư duy đi tư duy lại, nghĩ đi nghĩ lại, nhớ hoài, học hoài, cuối cùng thì quý vị cũng ra khỏi địa vị phàm phu thôi, vượt khỏi địa vị phàm phu. Và nếu quý vị còn đủ thọ mạng, còn đủ thời gian tu được như vậy, thì chắc chắn chứng Tu-đà-hoàn. Nhớ [như vậy]! Còn nếu không đủ [thời gian] thì đức Phật không nói tiếp, nhưng chúng ta tự biết là không đủ [thời gian] thì chúng ta cũng ra khỏi địa vị phàm phu rồi. Nhớ là ra khỏi địa vị phàm phu rồi nha, không phải là phàm phu nữa, cũng là lên một bậc rồi. Coi như là được cấp bằng mẫu giáo [hay] lớp lá, lớp mầm, lớp chồi gì đó, cũng được một lớp rồi. Đó là Tùy tín hành, ngon không? Ngon chứ!

Chứ không, ăn rồi cứ suốt ngày nói Tu-đà-hoàn, Tu-đà-hoàn khó quá. Bây giờ xin giới thiệu, trước Tu-đà-hoàn có tám địa vị nữa, địa vị đầu tiên là Tùy tín hành. Mai mốt mình học Luận Câu Xá có địa vị ngon lắm, Nhẫn vị thôi là không đọa ác đạo rồi. Còn Noãn vị, địa vị đầu tiên trong Luận Câu Xá, là chắc chắn sẽ chứng đạo. Tại vì vô đây rồi là chắc chắn chứng đạo rồi, không nói gì hết, nhưng không biết bao giờ chứng thôi, và thậm chí còn đọa Địa ngục A Tỳ nữa. Noãn vị trong Tứ gia hạnh vẫn có thể đọa Địa ngục A Tỳ, nhưng không sao, trước sau gì cũng chứng.

Còn mấy vị trí kia, còn phàm phu là không biết bao giờ [chứng] luôn. Cho nên học như vậy thì mình mới thấy dễ tu, mới thấy mình tu được. Còn không, học [mấy địa vị] kia thấy mơ màng quá, xa vời quá, đạo quả quá khó, rồi mình không muốn tu nữa đúng không? [Còn] mình học [những địa vị] này thì mình thấy phấn chấn rồi:À, con có hy vọng đó. Tiêu chuẩn này quá dễ mà, quý vị chỉ có dùng trí tuệ tư duy quán sát, phân biệt, nhẫn thọ đối với năm Thủ uẩn này thôi. Và mình quán sát Vô thường, Khổ, là pháp biến dịch, [cho đến] diệt tận, rồi Khổ, Không, Vô thường, vô Ngã, tóm lại là [những điều] đó.

Đó là Tùy tín hành. Bây giờ là Tùy pháp hành.

“Này các Tỳ-kheo, nếu đối với pháp này, mà bằng tăng thượng trí tuệ, tư duy quán sát, nhẫn thọ, đó gọi là Tùy pháp hành, siêu thăng, ly sanh, vượt qua khỏi địa vị phàm phu. Nếu chưa đạt được quả Tu-đà-hoàn, mà nửa chừng không chết, thì chắc chắn sẽ đạt được quả Tu-đà-hoàn.

Địa vị này là tu tốt hơn địa vị kia một chút thôi, là bằng “tăng thượng trí huệ”. Tức là ở trên này chỉ làtrí tuệ tư duy, quán sát, phân biệt, nhẫn thọthôi, mới sơ sơ thôi. Còn đây là tăng thượng trí tuệ, rồi cũng tư duy quan sát… giống vậy. [Nếu] chưa đạt Tu-đà-hoàn mà không chết, thì chắc chắn sẽ đạt quả Tu-đà-hoàn. Có nghĩa là [nếu] quý vị có thời gian thì quý vị chứng luôn Sơ quả. Quý vị thấy sướng không? Sung sướng hơn đúng không?

Thấy chưa? Học Phật pháp như vậy mới hấp dẫn, chứ suốt ngày nói đời Mạt pháp tu không có ai chứng gì hết. Xin lỗi! Không học, không tu, [thật ra là do] không biết tu, không biết học, không có ai dạy cho nên mạt pháp, chứ còn tu đúng thì không có chuyện mạt pháp, nhớ vậy! Pháp của Phật không bao giờ mạt, chỉ có người mạt và người truyền [pháp] mạt. Khi truyền [pháp] là dụt hết kinh, che hết mấy dòng này đi. Rồi tu một Pháp môn nào đó, chọn pháp nào đó mà pháp đó cao quá, không phù hợp thì mới mạt, đúng không? Không phù hợp tại vì cao quá, mình tu không vào. Cho nên hôm nay mừng rồi nha!

Quý vị nhớ nha! Nếu mà tu được vậy là [đắc] Tu-đà-hoàn luôn. Vậy mình ráng có tuổi thọ lâu lâu chút là mình chứng Tu-đà-hoàn được nha. Cho nên Thiện Trang sau khi học kinh tạng, duyệt gần hết tạng kinh rồi, Thiện Trang mới phát hiện ra: hóa ra chứng Sơ quả, Nhị quả cũng không khó lắm, quan trọng là biết đường và cần có thêm thời gian một chút. Có thời gian thôi [là được], tại vì mình ở trong pháp, mình trụ năm này qua tháng nọ, cứ thấm dần thấm dần. Mưa dầm thì thấm lâu, nước nhỏ giọt hoài cũng đầy ly thôi, đầy thùng luôn.

Cho nên là ở đây đức Phật nói: nếu mình tu sơ sơ theo [đoạn] trên thôi, chưa có trí tuệ lắm thì cũng được [quả] Tu-đà-hoàn, nếu mình không chết giữa chừng. Còn nếu mình không chết giữa chừng, mình có trí tuệ tăng thượng, tức là trí tuệ lên nữa thì mình chứng luôn Nhị quả Tư-đà-hàm. Ở đây chắc người ta đánh nhầm, để [Thiện Trang] coi lại bản chữ Hán cho chắc. Hồi bữa nhớ coi là chữ “Tư” rõ ràng đầu tiên mà, mới sửa là Tư-đà-hàm mà sao thành Tư-đà-hoàn vậy không biết. Để coi lại nha, nhưng Thiện Trang nhớ bữa đó Thiện Trang sửa lại chữ “Tư” rồi, là chắc chắn đằng sau phải là “hàm” chứ không phải là “hoàn”. Còn nếu mà sai thì cũng không sao, điều này không quan trọng lắm, để bữa sau coi lại, chứ bây giờ không kịp coi chữ Hán.

“Này Tỳ-kheo, đối với pháp này nếu bằng trí tuệ chân chánh mà quán sát như thật, ba Kiết (ba Kiết sử) được biết rõ là hoàn toàn đoạn trừ; đó là: Thân kiến, Giới thủ, Nghi. Tỳ-kheo, đó gọi là quả Tu-đà-hoàn, sẽ không rơi vào đường ác, quyết định thẳng đến Chánh giác (Chánh giác đây là A-la-hán), bảy lần sanh qua lại giữa Trời Người, cuối cùng sẽ cứu cánh biên tế của khổ.

Có nghĩa là nếu mình tu tốt nữa là sẽ chứng luôn Tu-đà-hoàn, trừ được ba Kiết sử [Thân kiến, Giới cấm thủ, Nghi]. Cho nên đây là tới Tu-đà-hoàn luôn rồi. Vậy thì còn nguyên đoạn giữa nữa [là] một trời quả nữa, ở trên nói rồi. Ở đây nói bảy lần qua lại giữa Trời Người là nói tắt. Ở bộ kinh khác Thiện Trang đã trích rồi, đức Phật nói là tối đa bảy lần thôi, chứ không phải là chắc chắn bảy lần.

“Này Tỳ-kheo, nếu đối với pháp này nếu bằng trí tuệ chân chánh mà quán sát như thật, tâm sẽ không khởi lên Lậu hoặc, đó gọi là A-la-hán. Khi các lậu đã sạch rồi, những gì cần làm đã làm xong, trút bỏ gánh nặng, đạt được mục đích của mình, các Kiết sử hữu dứt sạch, chánh trí, tâm đạt được giải thoát.”

Bấy giờ, các Tỳ-kheo sau khi nghe những điều Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

(Kinh 52. Phân Biệt (1) – Tạp A Hàm).

 Đoạn này là trích từ Kinh A Hàm, Thiện Trang muốn nói cho quý vị, tại vì sao Thiện Trang hay trích Kinh A Hàm hơn Kinh Nikaya? Nguyên nhân đơn giản là tại vì: Thứ nhất có nhiều người nói: “Thầy Thiện Trang đang theo Nam truyền”. Xin lỗi! Tôi trích luôn Kinh A Hàm – Hán tạng, Kinh Bắc truyền. Thứ hai, những người học Nam truyền chê Bắc truyền là Tổ sư Trung Hoa nói, giảng v.v… truyền không đúng Chánh pháp Như Lai. Xin lỗi! Quý vị học những gì mà Thiện Trang trích từ Kinh A Hàm thì hoàn toàn đúng. Cho nên nếu quý vị học Nam truyền rồi phê phán Bắc truyền là cũng sai. [Bắc truyền] có sai là do “y nhân bất y pháp”, là nương theo người không nương theo pháp. Kinh Nam truyền, kinh Bắc truyền không khác nhau nhiều, nội dung A Hàm và Kinh Nikaya là gần tương đương. Quý vị không tin, quý vị cứ tra cứu mà xem.

Thiện Trang cũng xin chia sẻ thêm một chút để quý vị muốn nghiên cứu Kinh A Hàm và Kinh Nikaya thì tổng quan như thế nào. Sau khi Thiện Trang đã coi gần hết, nói là coi gần hết chứ thật ra là coi hết rồi, nhưng cuối cùng có những đoạn coi, hoặc là nghe lướt qua, không nắm được hoàn toàn. Cho nên đang tiếp tục nghe lại, coi lại. Nếu mọi người muốn học Kinh A Hàm và Kinh Nikaya thì bắt đầu từ đâu? Và kinh nào nói nội dung nào? Thiện Trang xin chia sẻ như thế này:

Về Kinh A Hàm có bốn bộ, đó là: Trường A Hàm, Trung A Hàm, Tạp A Hàm và Tăng Nhất A Hàm. Trường A Hàm tương đương với Kinh Trường Bộ của Tạng Nikaya. Một bên là chữ Hán của Bắc truyền, một bên là của Nam truyền, hai bộ kinh này gần như khớp nhau. Thiện Trang không dám nói là khớp nhau hoàn toàn, bởi vì số bộ kinh gần ngang nhau. Kinh Trường A Hàm ít hơn Kinh Trường Bộ một chút (mấy bài kinh). [Về] nội dung thì có những nội dung bên này có, nhưng bên kia không có. Trường A Hàm và Trường Bộ Kinh là những kinh dài cho nên gọi là “trường”.

Quý vị coi Kinh Nikaya, Thiện Trang xin phép quý vị là quý vị đừng coi Trường Bộ Kinh trước, bởi vì mở đầu là Kinh Phạm Võng, là thôi rồi, mệt rồi đó. Kinh Phạm Võng là kinh nói về phá 62 Tà kiến của ngoại đạo. Như vậy [nếu] quý vị nghe những điều đó thì quý vị không thấy giống kinh Phật, rồi quý vị đọc ngán lắm, mà dài lắm. Đọc khoảng 2 tiếng rưỡi mới hết bộ kinh đó, rất dài. Tương đương với A Hàm cũng có một bộ kinh tương tự như vậy. [Vì vậy] không nên coi bộ đó trước.

Kinh thứ 2, Kinh Sa Môn Quả cũng khá dài, nhưng Kinh Sa Môn Quả nói về Tứ quả A-la-hán thế này thế kia v.v… thì cũng hay. Quý vị coi bên này với bên kia, Trường Bộ Kinh với Trường A Hàm tương đương nhau. Trong đó nói nhiều về các giáo phái ngoại đạo, nói nhiều về: ví dụ như Thế giới này được hình thành như thế nào, con người từ đâu mà có, rồi các cõi Bắc Câu Lô Châu, Nam Thiệm Bộ Châu, Đông Thắng Thần Châu, cõi Trời, Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sanh v.v… thì hai bộ kinh này nói nhiều nhất. Ai muốn nghiên cứu về phần Triết học, thì hai bộ kinh này nói nhiều. Nói nhiều thôi nha, chứ không phải là thiếu pháp hành. Bởi vì có những phần pháp hành cũng có trong đó. Pháp hành ví dụ như [việc tu] chứng quả v.v… Như Kinh Sa Môn Quả cũng nói về cách tu chứng quả, hoặc là Kinh Nhất Thiết Lậu Hoặc (là Tất cả các Lậu hoặc), cũng toàn nói về tu hành chứng quả, cho nên cũng không thể bỏ qua. Đó là Trường A Hàm và Trường Bộ Kinh.

Và nếu quý vị muốn nghe đầy đủ về các cảnh giới, thì Kinh Trường A Hàm nói đầy đủ hơn Kinh Nikaya, Trường Bộ Kinh nói không đầy đủ. Ví dụ những đoạn nói về cõi Người bắt đầu từ tuổi thọ bao nhiêu, từ trời Quang Âm rồi sanh ra, tại sao bây giờ chúng ta có Thế giới này như vậy, thì Kinh Trường A Hàm nói đầy đủ hơn. Các cõi Long (Rồng), Điểu, Thần, các cõi A-tu-la… thì Kinh Trường A Hàm nói đầy đủ hơn Kinh Trường Bộ. Đấy thì chúng ta phải biết là hai bộ có khác nhau một chút, nên học cả hai để đối chiếu.

Thứ hai là Kinh Tăng Nhất A Hàm. Tăng Nhất là gì? Tăng Nhất A Hàm là kinh mà [có] từng chi phần, ví dụ như cái nào là một pháp thì xếp vô một, hai pháp, rồi ba pháp thì xếp vô [hai], ba, rồi bốn, năm, sáu cho đến 11. Kinh Tăng Nhất A Hàm tương đương với Kinh Tăng Chi Bộ bên Nam truyền, thì cũng xếp các pháp [như vậy]. Ví dụ như có bảy pháp bất thoái là gồm những gì, hoặc là có năm con đường để diệt trừ khổ đau, v.v… cứ tầng tầng như vậy, sắp xếp theo tăng số như vậy, một trật tự sắp xếp hơi khác lạ. Chính vì vậy chúng ta cần tìm điều gì mà số bảy thì vô tìm Thiên Bảy, cần tám thì vô Thiên Tám. Trong đó nói tu chứng cũng có, mà nói cả bên ngoài cũng có, nói cả Thế giới đủ các chủ đề. Tại vì sắp xếp theo con số tăng dần, cho nên không biết đường nào mà lần. Vì vậy phải có thời gian để coi. Đó là hai bộ Kinh: Tăng Chi Bộ và Tăng Nhất A Hàm thì tương đương nhau.

Thiện Trang thấy Kinh Tăng Chi nhiều hơn Tăng Nhất A hàm một chút (vài bộ), Kinh Tăng Nhất A hàm có vẻ ít hơn. Nhưng ngược lại có một số bộ mà trong Kinh Tăng Nhất A Hàm có, mà Kinh Tăng Chi không có. Cho nên cũng không thể bỏ Kinh Tăng Nhất A Hàm được.

Thứ ba là Kinh Trung A Hàm. Kinh Trung A Hàm có 222 bộ kinh. Kinh [này] tương ưng với Kinh Trung Bộ của bên Nikaya. Nhưng Trung Bộ của Nikaya thì có trăm mấy bộ kinh thôi, ít hơn. Vậy Kinh Trung A Hàm có nhiều bộ kinh quan trọng và hay hơn, và coi qua coi lại thì nói chung cũng có khác nhau. Như vậy riêng phần Trung Bộ Kinh, thì Thiện Trang thấy thích Trung A Hàm hơn bên kia, thích hơn thôi nhưng vẫn phải coi bên kia, bởi vì có những điều mà bên A Hàm không có, nhưng Trung Bộ Kinh có.

Thứ tư của A Hàm đó là Kinh Tạp A Hàm mà Thiện Trang mới vừa trích chẳng hạn. Kinh Tạp A Hàm là gì? Tạp là đủ thứ các kiểu. [Tương ưng với] bên kia là Tiểu Bộ Kinh, và còn một bộ kinh nữa của Nikaya là Kinh Tương Ưng. Thực ra Tạp A Hàm có phần vừa giống cả Kinh Tăng Chi, có phần thì giống cả Kinh Tương Ưng, có phần giống luôn cả Kinh Tiểu Bộ. Nhưng lấy hết bốn bộ A Hàm so với Tạng Nikaya, thì thua [về] phần tiền thân của đức Phật, không đủ. Phần tiền thân của [đức Phật] v.v… mấy câu chuyện Ngạ quỷ sự thì bên A Hàm không đủ. Thiện Trang cứ thắc mắc sao bốn bộ A Hàm cuối cùng vẫn thua Tiểu Bộ Kinh của Nikaya. Thiện Trang mới coi, vậy chứ có nhiều chuyện nữa ở đâu?

Quý vị phải tra ở những kinh khác nữa, tức là bên Hán tạng còn có những kinh, ví dụ như Kinh Xuất Diệu, rồi mấy bộ kinh khác nữa, không nằm trong Kinh A Hàm. Coi lại cuối cùng cũng giống bên Nikaya. Cho nên là bốn bộ A Hàm không hoàn toàn tương ưng với năm bộ Kinh Nikaya.

Đó là Thiện Trang đã lượt qua hết rồi, Thiện Trang xin đúc kết như vậy cho quý vị thấy. Cho nên nếu quý vị muốn học mà thấy sao bên này có mà bên kia không có, thì quý vị chịu khó nghiên cứu duyệt hết Hán tạng. Tức là Hán tạng bây giờ hình như cũng dịch ra khá nhiều rồi, [nhưng] chưa đủ đâu quý vị. Thiện Trang có biết chữ Hán cho nên Thiện Trang dịch ra những kinh: Kinh Xuất Diệu, kinh này kinh kia Thiện Trang coi được. Hình như có một Đại tạng kinh Linh Sơn gì đó ở Việt Nam dịch hết rồi, quý vị có thể coi trong đó là có hết. Cho nên là không có thiếu đâu, có hết. Vì vậy [quý vị] cứ coi đầy đủ, và nếu ai giỏi thì cứ học đi. Học bởi vì sao? Học để mình có Chánh kiến, mình có Chánh kiến rồi thì mình không bị người ta dẫn dắt đi đâu hết.

Mục tiêu của Thiện Trang là cung cấp cho quý vị để quý vị có một trí tuệ sáng suốt, rõ biết, không bị chúng sanh lừa. Thời nay dễ bị lừa lắm, nào vô đó là bắt đầu đóng khung, bắt học theo một vị thầy ở đó thôi. Học theo thầy đó cho nên cuối cùng mình có giỏi lắm thì mình cũng giỏi thua vị thầy đó, đúng không? Tại vì mình đâu có học với đức Phật đâu. Còn Thiện Trang cung cấp với quý vị như vậy để quý vị tiến lên. Quý vị phải giỏi, quý vị phải là Đệ tử của đức Thế Tôn, chứ không phải là Đệ tử của Thiện Trang, nhớ vậy nha! Mục tiêu của Thiện Trang cung cấp cho quý vị là vì như vậy.

Mai mốt Thiện Trang trích Kinh KaLaMa ra cho quý vị nhớ: chớ vội tin dù đó là thầy dạy cho mình, chớ vội tin dù đó là truyền thống v.v…. Có nhiều điều chưa chắc tin được đâu. Tuy là vậy, nhưng vì thầy mình cũng học với một vị thầy nào đó, mà lỡ ông thầy nào đó tà kiến ổng chỉ cho mình, mà mình cũng học rồi truyền lại cho Đệ tử của mình tà kiến sao. Cho nên hãy học với Phật thì chính xác, và chúng ta đều là Đệ tử của Phật.

Thiện Trang cũng là một người học với đức Thế Tôn, Thiện Trang mong là Thiện Trang truyền để quý vị bước lên, quý vị học với đức Thế Tôn. Và quý vị học được với đức Thế Tôn thì quý vị mới thành tựu hơn Thiện Trang được. Căn tánh của quý vị giỏi hơn Thiện Trang, thì quý vị mới thành tựu hơn Thiện Trang được. Còn quý vị mà học với Thiện Trang thôi, thì cùng lắm là quý vị bằng với Thiện Trang thôi đúng không? [Cho nên] đừng có dại, mình phải là Đệ tử của đức Phật, [bậc] Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác thì mình mới thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác được. Còn Đệ tử của một ông phàm phu thì thế nào mình cũng là phàm phu, mình giỏi lắm thì mình cũng chứng quả. Tất nhiên về nguyên tắc ở trong kinh có dẫn ra nhiều câu chuyện, là phàm phu cũng có thể dạy cho người ta chứng quả được, thậm chí chứng đến Tam quả, Tứ quả được. Nhưng việc đó hy hữu, hiếm có. Còn thực tế thì ráng học theo Phật đi. Cho nên là phải như vậy.

Như hôm nay Thiện Trang không có thời gian để tìm lại bộ kinh, là có một câu chuyện nói về ba vị Tỳ-kheo thì phải. Ba vị Tỳ-kheo sau khi tu, dạy cho bà Cư sĩ đó tu đã một hồi, thì bà đó nói: “Các thầy tu thế nào thì con tu thế đó”. Bà vô trong rừng để tu, tu một thời gian thì đắc Tam quả A-na-hàm. Sau khi đắc Tam quả A-na-hàm rồi, [bà đó] mới quán sát lại thấy mấy vị thầy của mình chưa chứng quả vị nào hết. Bả nghĩ sao các thầy tu tinh tấn lắm mà, quý thầy dạy cho mình cũng phương pháp đó mà mình tu thì đắc Tam quả, còn quý thầy thì không chứng gì hết. Bả mới quan sát để tìm coi nguyên nhân, với địa vị A-na-hàm và có Thần thông hay sao đó, bả quan sát thì mới biết nguyên nhân là do Vật thực, tức là do thức ăn. Các thầy ăn những thức ăn không phù hợp. Sau đó bả chỉ lại cho mấy vị thầy cách ăn uống cho phù hợp, và sau khi ăn uống phù hợp thì các vị đó cũng đắc quả luôn.

Cho nên đôi khi trong kinh đức Phật nói phải khéo ăn, ăn không đúng, không phù hợp thì coi chừng không chứng quả. Tại vì sao? Ví dụ như bây giờ chúng ta ăn đồ ăn âm quá, suốt ngày quý vị ăn nấm rồi ăn chay nhiều đồ âm, mà cơ thể mình yếu nữa nên cứ hôn trầm, thụy miên. [Cơ thể] không khỏe mạnh thì làm sao tu được. Rồi ăn món này bị bệnh, ăn món kia [bị bệnh], v.v… Cho nên ăn cũng phải biết ăn, ăn phù hợp. Ăn không phù hợp thì không được, nhớ nha!

Cho nên đức Phật dạy [hết], [mình] đừng có học Đại thừa theo kiểu là cảnh giới của Bồ-tát Đại thừa thì không cần ăn uống gì, vô cái là chuyển thành tốt hết. Điều đó đúng, chính xác, [nhưng là] cảnh giới của Bồ-tát Sơ trụ Hoa Nghiêm trở đi, bậc 41 của Biệt giáo, bậc 11 của Viên giáo. Còn chúng ta là phàm phu thì chúng ta không học cách đó được đâu, chúng ta học theo đức Phật đi. Đức Phật dạy là bệnh thì hãy khéo chữa bệnh, ăn cũng phải khéo ăn, ở cũng phải khéo chọn chỗ ở, nhớ như vậy. Chứ đừng có tưởng mình vô tướng rồi, không có đâu. Mình là phàm phu, chưa vô tướng được đâu, nên quý vị để ý vậy. Ví dụ như ăn, quý vị biết bí quyết ăn làm sao không?

Bây giờ có nhiều người Việt Nam mình ăn, Thiện Trang biết [là ăn chưa đúng]. Hồi xưa Thiện Trang không biết, tại vì Thiện Trang người từ nhỏ suy dinh dưỡng rồi, mới có mấy tuổi chui vô trong rừng ở cho nên suy dinh dưỡng, ăn thì quen ăn [vậy] rồi. Quý vị biết không? Hồi nhỏ cơm còn không có ăn nữa mà, làm sao ăn ngon được. Sau này có cơm thì cũng quen ăn với một chút đồ ăn thôi. Ở Việt Nam mình có món gọi là món mắm kho quẹt. Tức là bỏ một chút dầu, hồi xưa là mỡ chứ không phải là dầu nữa, rồi cho một chút mắm, một chút nước gì đó, khuấy khuấy là ăn [với] nguyên một tô cơm được rồi đúng không? Những kiểu ăn như vậy thì không đủ dinh dưỡng. Quý vị ăn như vậy, ăn nhiều chỉ no bụng mà thôi, không có đủ dinh dưỡng. Vì thật ra khoa học nói những thức ăn từ tinh bột như gạo, v.v… thì không có nhiều dinh dưỡng.

Vậy nguyên tắc ăn, quý vị không cần ăn nhiều như vậy. Người Việt Nam mình ăn nhiều nhưng không đủ dinh dưỡng, ăn như vậy chỉ no bụng chứ không đủ dinh dưỡng. Nếu muốn đủ dinh dưỡng thì quý vị nên học cách ăn của phương Tây. Người phương Tây ăn thế nào? Người ta ăn ít tinh bột thôi, trong bữa ăn đó người ta ăn 1/4 tinh bột thôi. Có nghĩa là ví dụ như cơm gạo, mì, bánh mì hay gì đó thì người ta ăn 1/4 thôi. Người ta sẽ ăn thêm 1/4 nữa là rau, là [một] nửa rồi đó, hoặc là hơn chút tùy cơ thể. Một nửa 50% thì 25% là tinh bột, 25% là rau, rau sống rồi [trái cây] gì đó để cho đủ vitamin. Và ăn thêm 50% là các loại đạm, chúng ta ăn chay thì [đạm là] các loại đậu, nấm v.v… Ăn các loại đạm cung cấp vô cơ thể như vậy mới đủ.

Và Thiện Trang thử rồi, Thiện Trang tập. Bây giờ thì do ăn kiểu kia quen rồi, bây giờ ăn kiểu đó khó. Nhưng Thiện Trang ăn thử, chỉ cần ăn một ngày một bữa và ăn nhẹ thôi, không cần ăn no, thì Thiện Trang cũng đủ dinh dưỡng cả ngày, không đói, không mệt. Cho nên thay đổi ngay. Quý vị cố gắng học [cách ăn này], cách ăn này hơi sang một chút đối với người nghèo. Nhưng là hồi xưa thôi, chứ còn bây giờ điều kiện mình cũng khá mà đúng không quý vị? Thiện Trang thấy bây giờ đồ ăn chay đầy đủ các kiểu mà, quý vị ăn được như vậy, tập được như vậy một thời gian, thì quý vị ăn ít thôi mà cũng khỏe. Thiện Trang thấy ăn như vậy mà ăn một ngày một bữa vẫn đủ dinh dưỡng. Đủ dinh dưỡng là cơ thể không bị ốm. Còn mình ăn kiểu kia thì mình ăn nhiều nhưng vẫn ốm, tại vì mình ăn không đủ. Cho nên là dinh dưỡng cũng là một vấn đề.

Quý vị coi thời đức Phật cũng vậy, thời đức Phật trừ những giai đoạn khó khăn thôi, còn bình thường các ngài đi khất thực hoặc là được đi dự Trai tăng, người ta cúng dường đầy đủ nào là thức ăn cứng, thức ăn mềm, thức ăn này kia, đầy đủ hết các vật thực, cho nên mới khỏe như vậy. Đệ tử của đức Phật đó. Chúng ta cũng phải vậy, chúng ta đừng có vội học Bồ-tát Đại thừa. Bồ-tát Đại thừa là các ngài vô quái ngại rồi, các ngài ăn gì cũng chuyển vào thành đồ tốt hết. Còn chúng ta [đừng] học theo cảnh giới đó, cảnh giới đó không phải của mình, chưa đâu.

Giống như quý vị nghe nói trong kinh, Bồ-tát Đại thừa ở đâu thì cảnh ở đó sẽ không có tai nạn, không có gì, [vì] cảnh tùy tâm chuyển mà, chuyển hết. Nhưng quý vị coi giùm Kinh A Hàm, Kinh Nikaya đi, thời đức Phật, đức Phật ở nơi đó, sét vẫn đánh người ta chết kìa. Rồi ở nơi đó vẫn có lũ lụt này kia, ví dụ như câu chuyện lũ lụt mà nhóm ngài Ưu Lâu Tần Loa Ca Diếp đó, vẫn bị lũ lụt kìa. Và đức Phật ở [đó nhưng] mùa màng [nơi] đó vẫn mất [mùa], thất bát, vẫn bị đói kìa.

Cho nên không phải đâu, bởi vì đó là học theo Kinh Hoa Nghiêm, mấy kinh Đại thừa thì đúng ở Thế giới phương khác như Thế giới Tây Phương Cực Lạc thì đúng. Còn Thế giới Ta Bà này thì không phải như vậy. Chúng phải hiểu, chứ đừng có học rồi chấp tướng. Chấp rồi mình ráng hành theo Bồ-tát Đại thừa, hành một thời gian rồi mình phiền não, tại vì mình làm không được.

[Quý vị] nên nhớ, ba loại Phiền não gồm Kiến tư hoặc, Trần sa hoặc và Vô minh hoặc, giống như ba lớp áo: lớp áo trong, lớp áo giữa và lớp áo ngoài. Không có chuyện cởi lớp áo trong mà chưa cởi lớp áo ngoài, nên nhớ như vậy. Lớp áo ngoài là Kiến tư hoặc, lớp áo giữa là Trần sa hoặc, và lớp áo trong là Vô minh hoặc. Vậy thì quý vị muốn cởi luôn [lớp áo] ở trong là Vô minh hoặc, làm Bồ-tát Đại thừa là thành Sơ trụ Viên giáo Hoa Nghiêm, thì xin lỗi quý vị, quý vị làm không được đâu. Một lúc mà quý vị cởi ba lớp áo là không thể rồi, cho nên hãy cởi lớp áo đầu tiên. Kiến tư hoặc chính là mười Kiết sử mà chúng ta đang học đây, gồm năm Hạ phần Kiết sử và năm Thượng phần Kiết sử. Mình là phàm phu, mình xác định rõ ràng, mình cứ đi chậm mà chắc, đừng ham trèo cao để rồi té đau, vì sao? Vì mình không phải cảnh giới đó.

Tất nhiên, có một số người có thể làm được, nhưng Thiện Trang nghĩ không phải là chúng ta. Tự Thiện Trang thấy, Thiện Trang cũng học rất nhiều rồi, [nhưng] không hiệu quả bằng, tức là mình cứ tưởng mình vào được, nào nghe đã lắm, rồi chuyển tâm, v.v… đang nghe thì đã thiệt, nhưng tới khi gặp cảnh là mê.

Và trong Vi Diệu Pháp nói: một bậc A-la-hán (mình nói chứng quả A-la-hán nha), các ngài dù là A-la-hán [nhưng nếu] không thường xuyên [nhập] Thiền định, “Thiền duyệt vi thực” tức là dùng Thiền định, mà các ngài vẫn tiếp cảnh, cứ suốt ngày gặp người này người nọ hoài, thì các ngài cũng ốm nhách, các ngài cũng bệnh thôi. Nên nhớ là vậy!

A-la-hán còn chưa làm được huống hồ chi là mình. Cho nên các bậc A-la-hán, các ngài sợ đám đông lắm, các ngài né, né. Còn lên Bồ-tát rồi thì mới tự tại thôi. [Như] quý vị thấy Sư Minh Tuệ, không biết ngài chứng [quả] gì, nhưng rõ ràng đợt trước đó ngài bị chúng sanh bu hoài một thời gian là cũng ốm nhách, chịu không nổi, mặt mày cũng xanh luôn. Mình không biết cảnh giới của ngài, Thiền định thế nào, nhưng rõ ràng [là ngài cũng] không chịu nổi.

Cho nên đừng tưởng mình giỏi, mình hãy làm một người thật thà. Mà thật thà tốt nhất là dành thời gian học giùm, coi Kinh A Hàm, Kinh Nikaya. Còn nếu không có thời gian, thì quý vị học ở đây, Thiện Trang cũng toàn trích dẫn kinh để quý vị vừa coi đó, quý vị lỡ thấy Thiện Trang giảng sai, thì quý vị thấy: À kinh này không thể sai được, đức Phật nói mà, kinh nói mà.

Còn nếu Thiện Trang tóm tắt lại, mà tóm tắt theo kiểu giảng theo ý của Thiện Trang thì nhiều khi sai. Giống như chỗ 7 phương pháp để đoạn Phiền não, hoặc 6 phương pháp đoạn Phiền não, bữa nghe bên kia nói như vậy, Thiện Trang đã giảng rồi. Nhưng hôm nay coi lại kinh, thấy mấy điều bị trật rồi, tại vì sao? Nói theo người ta mà, người ta nói vậy, tóm tắt lại, nên mình cũng nói theo như vậy. Cuối cùng không phải, là người ta tóm tắt sai, có mấy chi tiết hay hơn nữa nằm trong đó. Cũng không sao, bữa nào mình giảng lại theo kinh.

Cho nên phải cẩn thận, tóm tắt của người ta cũng hay, nhưng chưa chắc đã đúng với ý của Phật, bởi vì người ta lãnh hội như thế, thì người ta nói như thế thôi. Cho nên sau này Thiện Trang rút kinh nghiệm rồi, Thiện Trang chia sẻ hầu như dẫn kinh, và Thiện Trang thích cách này. Còn ai nói gì thì nói, muốn thế nào cũng được, không phải mọt sách, nhưng mình phải nói có sách, mách có chứng. Còn những điều Thiện Trang chưa trích dẫn được thì mong quý vị thông cảm. Vì Kinh tạng Nikaya, Kinh A Hàm nhiều quá, hồi đó coi qua, nghe hay hay, chưa kịp ghi lại thì tụt luôn. Mình kêu để bữa sau ghi lại, nhưng bữa sau không biết nằm ở đâu, rồi cứ nhớ nhớ vậy thôi, nên có khi nhầm chút. Hoặc không có dẫn cho quý vị, thì quý vị thông cảm, từ từ rồi [Thiện Trang] tìm lại.

Hôm nay xin giới thiệu cho quý vị pháp tu Niệm hơi thở theo Kinh Tăng Nhất A Hàm. Tức là bữa mình giới thiệu 40 đề mục tu Thiền chỉ, trong đó có pháp tu [Niệm hơi thở]. Ở đây Thiền Trang không nói là tu Thiền chỉ, đây là Kinh A Hàm, không biết người ta tu Thiền chỉ hay Thiền quán. Quý vị coi thử xem là Thiền chỉ hay Thiền quán. Bởi vì đề mục Niệm hơi thở là vừa Thiền chỉ, vừa Thiền quán.

Pháp Tu Niệm Hơi Thở Theo Kinh Tăng Nhất A Hàm

          Tôi nghe như vầy: Một thời đức Phật trú tại vườn ông Cấp Cô Độc, rừng cây Thái tử Kỳ Đà ở nước Xá Vệ. Bấy giờ, đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

          “Hãy tu hành một pháp. Hãy quảng bá một pháp. Đã tu hành một pháp rồi, liền có danh dự, thành tựu quả báo lớn, các điều thiện đủ cả, được vị cam lồ, đến chỗ Vô vi, liền được Thần thông, trừ các loạn tưởng, được quả Sa-môn, tự đến Niết-bàn. Những gì là một pháp? Là Niệm an ban”.

 Đoạn này quý vị thấy quen không ạ? Rất quen, chúng ta đã dẫn đoạn này hôm bữa, muốn đề xướng niệm Phật thì người ta đổi chữ ‘những gì là một pháp’ thành niệm Phật. Người ta muốn niệm pháp thì đổi thành niệm pháp, muốn niệm hơi thở thì đổi thành niệm an ban, muốn niệm Tăng thì đổi thành niệm Tăng. Đây là trong Kinh Tăng Nhất A Hàm, ở thiên Một Pháp.

Cho nên chúng ta không học Kinh Tăng Nhất A Hàm, người ta đề xướng niệm Phật thì cứ quất niệm Phật thôi, người ta thích niệm Tăng thì cứ quất niệm Tăng thôi. Tại vì có những bộ kinh tương tự như nhau, chỉ đổi một chữ này. Đó là giá trị của việc coi kinh với không coi kinh. Có thầy thấy tâm đắc niệm Phật thì dẫn niệm Phật thôi. Rồi có thầy tâm đắc niệm hơi thở thì quất niệm hơi thở, ổng thích niệm gì quất lên cho mình. Và Đệ tử [nói]: “Kinh Phật mà!” “Cũng đúng, cũng đúng! Là kinh Phật, [mình] theo thầy”. Nhưng khổ nỗi thầy đã lọc bỏ mấy bộ kia.

Cho nên khiến một số người có căn tánh khác, họ không vào được. Tất nhiên căn tánh của ông thầy thì ok, căn tánh của những người theo ổng thì ok, nhưng có những người căn tánh khác đã không được học, vì pháp của Phật rất bình đẳng. Thiện Trang cũng chỉ nói cho đầy đủ thôi. Ở đây Niệm an ban là Niệm hơi thở đó quý vị.

Đức Phật bảo các Tỳ-kheo: “Thế nào là tu hành Niệm an ban, liền có danh dự, thành tựu quả báo lớn, các điều thiện đủ cả, được vị cam lồ, đến chỗ Vô vi, liền được Thần thông, trừ các loạn tưởng được quả Sa-môn, tự đến Niết-bàn?”

Có nghĩa là niệm hơi thở cũng đến Niết-Bàn, giống như niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm Giới, niệm Thí, niệm Thiên, 6 pháp niệm đó ở trong phẩm này đều có hết. Cho nên pháp pháp bình đẳng, không có cao thấp là vậy.

          Bấy giờ, các Tỳ-kheo bạch Thế Tôn rằng: “Gốc rễ của Pháp do đức Thế Tôn nói. Nguyện xin đức Thế Tôn vì các Tỳ-kheo mà nói diệu nghĩa này. Các Tỳ-kheo sau khi nghe từ Như Lai rồi sẽ thọ trì”.

          Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo: “Hãy lắng nghe, lắng nghe, và suy nghĩ kỹ (ở trong âm Hán Việt là thiện tư niệm chi). Ta sẽ phân biệt rộng rãi cho các ông”.

          Các Tỳ-kheo bạch rằng: “Kính vâng! Bạch đức Thế Tôn”.

          Sau khi các Tỳ-kheo thọ giáo rồi, đức Thế Tôn bảo rằng:

Bây giờ cách niệm theo hơi thở như thế nào, đây là theo kinh nha, chứ không phải tự mình nói thì người ta không tin.

          “Tỳ-kheo chánh thân, chánh ý, ngồi kiết già, buộc niệm ở trước, không có tư tưởng nào khác, chuyên tinh niệm An ban. Nói An ban, tức là khi hơi thở dài, hãy quán biết hơi thở ta hiện đang dài; Nếu hơi thở lại ngắn, hãy quán biết hơi thở ta hiện đang ngắn; Nếu hơi thở rất lạnh, hãy quán biết hơi thở ta hiện đang lạnh; Nếu hơi thở lại nóng, hãy quán biết hơi thở ta hiện đang nóng. Quán khắp thân thể từ đầu đến chân, tất cả đều nên quán biết. Nếu hơi thở lại có dài ngắn, cũng hãy quán hơi thở có dài ngắn. Dụng tâm đặt nơi toàn thân, biết hơi thở dài ngắn, tất cả đều biết rõ, cho đến khi hơi thở ra vào được phân biệt rõ ràng. Nếu tâm đặt nơi thân, biết hơi thở dài ngắn, cũng lại biết rõ, đếm hơi thở dài ngắn cũng phân biệt rõ ràng“.

Như vậy cách này là nguyên lời văn của Phật. Chánh thân tức là thân của mình đừng làm việc tùm lum; Chánh ý là ý nghĩ đừng suy nghĩ tùm lum, tà la; rồi ngồi kiết già. Cho nên có những người nói không nên ngồi kiết già, thực tế đức Phật lúc nào cũng bảo ngồi kiết già. Tuy nhiên, có những người ngồi kiết già không được, ngồi kiết già không được thì quý vị ngồi bán già, ngồi bán già không được thì ngồi chân trong chân ngoài, không thì ngồi sao cũng được. Chứ còn ngồi kiết già mà đau quá rồi suốt ngày tu gì được. Đó là nói tư thế tốt nhất, chứ không có nhiều người cứ chấp, nói “tu hành ngồi chấp tướng”. Thật ra Phật cũng bảo như vậy, toàn chấp tướng không đó. Cho nên học Đại thừa riết, cuối cùng bác Sự, thành ra mình tu không đạt được gì.

Buộc niệm ở trước có nghĩa là ý niệm phải hướng về trước, không có tư tưởng nào khác, rồi chuyên tinh niệm An ban tức là niệm hơi thở, niệm ghi nhớ hơi thở. Đơn giản lắm quý vị! Quý vị chỉ cần biết: hơi thở dài thì biết hơi thở đang dài, hơi thở ngắn thì biết hơi thở đang ngắn, hơi thở lạnh thì biết hơi thở lạnh, hơi thở nóng thì biết hơi thở nóng. Rồi quán hết thân thể từ đầu đến chân, quán biết như vậy. Dụng tâm đơn giản vậy thôi quý vị, có khó gì đâu, phân biệt rõ ràng như vậy, rồi cuối cùng đắc được đạo luôn.

Thấy chưa? Pháp tu của Phật đơn giản lắm. Thiện Trang coi trong kinh, tức là cách tu của Phật không có khó khăn, không có phức tạp gì hết, rất đơn giản, cứ tu vậy thôi là thành tựu. Ở đây đức Phật nói:

“Như vậy, các Tỳ-kheo, đó gọi là niệm an-ban, liền được thành tựu đầy đủ quả báo lớn, các điều thiện đủ cả (có nghĩa là khỏi đi làm thiện cũng đủ thiện luôn), được vị cam lồ (là nước uống của cõi Trời, của chư thiên, nên đã lắm), đến chỗ Vô vi (là không sanh không diệt), liền được Thần thông, trừ các loạn tưởng (hết các loạn tưởng), được quả Sa-môn (Tứ quả Sa-môn hoặc là nói 27 quả Sa-môn như lúc nãy nói), tự đến Niết-bàn. Cho nên, này các Tỳ-kheo, luôn phải tư duy không rời niệm an ban, liền sẽ được những thứ công đức thiện này. Như vậy, này các Tỳ-kheo, hãy học điều này”.

Các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

(Kinh Số 8 – Phẩm Quảng Diễn Thứ 3 – Kinh Tăng Nhất A Hàm).

Quý vị thấy phương pháp này tu không có khó gì hết, không có cao siêu gì hết, rất đơn giản. Thiện Trang coi đúng kinh Phật dạy [rất] đơn giản, và hình như đời sau mỗi người bày thêm một chút hay sao ấy, bày thêm kiểu này, bày thêm kiểu kia. Ở đây Thiện Trang không có trích từ đề mục tu Niệm hơi thở của bên [Luận] Thanh Tịnh Đạo, vì Thiện Trang thấy bên đó nói cũng y chang như này, nhưng nói dài hơn, vòng lên vòng xuống, nói chung là chỉ thêm. Thiện Trang thấy thôi mình theo Phật là được rồi. Giống nhau thì trích một bên là được rồi, không cần trích theo Luận Thanh Tịnh Đạo.

Và ở bên Kinh Nikaya thì có một bộ kinh nói khác một chút, là khi trụ hơi thở thì trụ ngay ở chóp mũi, thế là bao nhiêu người bắt đầu cố gắng vận hết khí trụ ngay chỗ mũi, thì lại là sai. Thật ra là để ý hơi thở thở ra từ mũi. Đây là bộ Kinh A Hàm [nói], thì quý vị coi, Thiện Trang thấy ok, quý vị theo là được rồi.

Cho nên tu, quý vị thấy có khó không ạ? Đạo Phật phải đơn giản vậy, chứ [khó] gì đâu. Ai tu niệm Phật thì chư Tổ như Đại sư Ấn Quang chỉ thêm một cách, là gắn câu Phật hiệu vào trong hơi thở, gắn cách nào cũng được. Quý vị muốn gắn chỗ nào thì gắn, gắn vào lúc thở ra hay vào thì tùy quý vị. Cho nên tu đơn giản lắm, có [khó] gì đâu, gì mà Thật tướng các pháp ghê gớm lắm. Không [cần]! Cho nên học thì đã thiệt, nhưng thực hành không được. Còn nếu thực hành được thì mình thực hành những điều này dễ, chỉ cần để ý hơi thở, theo dõi hơi thở ra, hơi thở vô. Thiện Trang thấy thực hiện theo [phương pháp] này dễ, không buồn ngủ, không biết sao [Thiện Trang] thấy không buồn ngủ, mình [không] chạy theo những điều gì mà mình suy nghĩ.

Thật ra những pháp học cao, ở đây không phải mình phản bác, nhưng mình học các pháp cao thì cũng đã, hưng phấn lắm. Ví dụ như học Thập Huyền môn của Hoa Nghiêm thì đã lắm, nhưng đã được lúc đó thôi. Tức là tới khi đem xài thì xài không được, còn [phương pháp] này xài được. Học thì không có gì hứng thú gì ghê gớm, không có cao siêu gì, nhiều khi không đã, nhưng thực hành thì được. Tức là tâm mình thì chạy lên được, nhưng mình hành không tới. Quý vị cứ thử đi, Phật Pháp là đến để mà thấy. Chỗ ‘đến để mà thấy’ là nằm ở chỗ Công đức niệm Pháp, đức Phật nói rất nhiều lần, mình phải thực hành thì mới thấy được [lợi ích].

Hôm nay [Thiện Trang] đã giới thiệu cho quý vị đề mục Niệm hơi thởtheo kinh. Ở đây đức Phật có nói kết quả của pháp tu quán Niệm hơi thở. Để cho công bằng chút, nãy giờ [trích] Kinh A Hàm không thôi, bây giờ trích [Kinh] Nikaya.

Kết Quả Của Pháp Tu Quán Niệm Hơi Thở

 5. V. Quả (2) (S.v,314)

…Niệm hơi thở vô, hơi thở ra, này các Tỳ-kheo, được tu tập, được làm cho sung mãn thời có quả lớn, có lợi ích lớn. Tu tập như thế nào, làm cho sung mãn như thế nào, niệm hơi thở vô, hơi thở ra thời có quả lớn, có lợi ích lớn?

Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đi đến khu rừng, hay đi đến gốc cây, hay đi đến căn nhà trống, ngồi kiết già, lưng thẳng, đặt niệm trước mặt (quý vị thấy giống ở trên không? Khá giống,chỉ có khác là [Phật] dạy đi vô rừng, đi vô gốc cây, đi vô nhà trống, rồi ngồi kiết già, lưng thẳng, là Chánh thân đó, đặt niệm trước mặt); vị ấy chánh niệm hơi thở vô, chánh niệm hơi thở ra. “Quán từ bỏ, tôi sẽ thở ra”, vị ấy tập.

Tu tập như vậy, này các Tỷ-kheo, làm cho sung mãn như vậy, niệm hơi thở vô, hơi thở ra thời có quả lớn, có lợi ích lớn.

Đoạn‘làm cho sung mãn’ là ngôn ngữ dịch của Hòa thượng Minh Châu, nếu quý vị thông tiếng Pali, thông Hán tạng thì quý vị thấy bên chữ Hán gọi là ‘huân tập, huân tu’ tức là làm cho sung mãn. Tại vì mình dịch từ tiếng này qua tiếng kia rồi mình thấy từ ngữ khác nhau, nhưng thật ra mình tập đi tập lại, làm miết, gọi là làm cho sung mãn).

Tu tập như vậy, này các Tỷ-kheo, làm cho sung mãn như vậy, niệm hơi thở vô, hơi thở ra thời được chờ đợi bảy quả, bảy lợi ích. Thế nào là bảy quả, bảy lợi ích? (Không biết được bảy quả gì, thì quý vị nghe luôn nha).

Ngay trong hiện tại, lập tức thành tựu Chánh trí (tức là Trí tuệ chân chánh). Nếu ngay trong hiện tại không lập tức thành tựu Chánh trí, thời khi mệnh chung, thành tựu Chánh trí (Chánh trí ở đây là A-la-hán). Nếu khi mệnh chung không thành tựu Chánh trí, thời sau khi đoạn diệt năm Hạ phần Kiết sử, được Trung gian Bát-niết-bàn, được Tổn hại Bát-niết-bàn, được Vô hành Bát-niết-bàn, được Hữu hành Bát-niết-bàn, được Thượng lưu, đạt đến Sắc cứu Cánh thiên.

Như vậy điều này chính là những quả vị ở Kinh [A Hàm], quý vị thấy tương đương nhau không? Tuy là hai bộ kinh khác nhau nhưng một hồi rồi cũng nói các quả vị này thôi. Đây chính là đoạn mà Thiện Trang có nói đức Phật có hứa năm điều ngay hiện tại mà quý vị không chứng, thì sau đó mệnh chung sẽ thành chứng. Nếu [mệnh chung] không chứng thì đời sau [sẽ] được chứng mấy [quả vị] này, thì nằm trong đoạn đó.

Tu tập như vậy, này các Tỷ-kheo, làm cho sung mãn như vậy, niệm hơi thở vô, hơi thở ra thời được chờ đợi bảy quả, bảy lợi ích này.

(V. Phẩm Bộc Lưu – Kinh Tương Ưng – Tạng Nikaya).

Như vậy quý vị thấy hay không, rất dễ, rất đơn giản thôi, có gì đâu mà tu khó khăn. [Chỉ cần] niệm hơi thở thôi, thở vô thở ra, có gì đâu mà bày đủ chiêu, nào là pháp khí v.v… Thời xưa làm gì có pháp khí, đánh beng beng, tùng tùng đâu. Không có! Thời đức Phật không có những điều đó. Chúng ta cứ tu càng đơn giản đúng với những gì Phật dạy, thì càng dễ chứng đắc. Còn thời nay tu phải đông chúng, lên hò hét, đánh trống, đánh chuông, đánh mõ, đủ các kiểu, càng đánh nhiều thì tâm mình bị [dễ bị] phân tán. Nên nhớ vậy!

Còn pháp Phật đơn giản: vô khu rừng đi con, vô gốc cây đi con, ngồi nhà trống, ngồi kiết già xuống, lưng thẳng tức là chánh thân, đặt niệm trước mặt giùm, rồi theo dõi hơi thở. Hơi thở ra biết thấy hơi thở ra, vô biết vô, dài biết dài, ngắn biết ngắn, lạnh biết lạnh, nóng biết nóng, [theo dõi] hơi thở vậy thôi. Để ý [hơi thở] hoài một hồi, [rồi] đắc đạo hồi nào không hay, chứng luôn Thần thông v.v… Đề mục tu hơi thở là đắc cả Thiền chỉ và Thiền quán. Đó là đề mục chung để tu Thiền chỉ và Thiền quán.

Cho nên nếu ai tu niệm Phật thì gắn thêm [câu Phật hiệu vào]. Đại Sư Ấn Quang cũng có nói gắn một câu Phật hiệu vô nên ngài không sợ, vì đằng nào một hơi thở vừa dứt thì ngài cũng có một câu Phật hiệu đó, nên chết cũng không sao, vừa dứt hơi thở là qua đời khác [rồi]. Trong kinh đức Phật nói như vậy đúng không? Mạng người chỉ trong hơi thở. Vậy ai tu niệm Phật thì họ tu kiểu đó được, không sợ!

Chúng ta thấy những pháp tu này rất đơn giản, đâu cần bày ra ghê gớm quá. Còn sau này thì tất nhiên các chư Tổ có bày ra cho phù hợp với chúng ta, phù hợp với mỗi đời, thì quý vị cũng có thể theo. Trong đó có những chư Tổ cũng là những ngài tu đắc đạo, chắc cũng cao thủ, nhưng không phải ai cũng vậy, nên [quý vị] phải cẩn thận. Những điều gì được lưu truyền mà không giống trong kinh thì chúng ta phải suy xét, để thực hành thử, chứ không mình cứ tin quá, rồi nhiều khi mình tu một hồi không được gì. Còn những gì đức Phật đã nói, thì bậc Như Lai không bao giờ nói sai đâu. Quý vị yên tâm!

          Để cho quý vị thấy hưng phấn hơn, Thiện Trang tiếp tục trích phần Những Lợi Ích Hiện Tại Của Tu Tập, trích từ Kinh Sa-Môn Quả – Kinh số 2 trong Trường Bộ Kinh của Tạng Nikaya. Bộ kinh này rất dài, không thể trích dẫn hoàn toàn, [Thiện Trang sẽ] cố gắng.

          Bộ Kinh này nói về hoàn cảnh của vua A Xà Thế sau khi phạm tội giết cha, sau này ông sám hối, ông rất mong tìm được những người mà nói cho ông pháp nào để được an tâm. Ông tìm tới tất cả các vị giáo chủ của các giáo phái ngoại đạo, nhưng ông ấy không hài lòng, vì những cách trả lời của các vị đó không được. Cuối cùng có người giới thiệu ổng đến gặp đức Phật.

Bữa đó đêm trăng sáng, có một vị đại thần dẫn ông ấy đi, khi đi nửa chừng thì ông giật mình, [vì nghe nói] có đức Phật [cùng] 152 Tỳ-kheo hay 1,250 Tỳ-kheo ở trong khu rừng, mà ông không [nghe] thấy một tiếng tằng hắng, không thấy một tiếng nhảy mũi cho đến một cử động nào hết. Ông sợ quá, run lên, tại vì ổng nghĩ chắc vị đại thần này dẫn [mình] đi vô chỗ kẻ thù, định phục kích [để] hại mình. [Chứ] tại sao đông người như vậy mà không có tiếng động.

Tại vì các vị Tỳ-kheo thời đức Phật toàn là cao thủ, chứ không như mình, chút lại nhảy mũi, ho, rồi đủ các kiểu ồn ào, [ở đây] không như vậy cho nên ổng [sợ]. Vị đại thần nói: “Không! Các vị chư tăng của đức Phật tuyệt vời lắm”, thì sau đó ổng đã phục rồi. Khi vào [gặp Phật] ổng nói: Con đã đi hỏi các giáo sĩ ngoại đạo, nhưng [họ] đã nói những điều như vậy, như vậy. Và đức Phật đã giải cho ổng những tư tưởng đó.

Đoạn sau này thì ổng mới hỏi: “Thưa [đức] Thế Tôn, tu thì được những gì ở hiện tại, lợi ích ở đâu? Chứ trong kinh nói toàn hứa hẹn ở đời sau không [thôi]”. Bây giờ mình nói tu phải được lợi ích gì trong đời này chứ, đạo Phật mê tín quá, toàn nói đời sau không thôi. Thiện Trang thấy đoạn này hay nên mới dẫn [đoạn này], đức Phật nói lợi ích trước mắt cho người xuất gia trong đời hiện tại, mời quý vị coi:

Những Lợi Ích Hiện Tại Của Tu Tập

(Trích từ Kinh Sa-Môn Quả – Kinh số 2 trong Trường Bộ Kinh của Tạng Nikaya).

Vua A Xà Thế nói: “Bạch Thế Tôn, Thế Tôn có thể cho biết kết quả thiết thực hiện tại của hạnh Sa-môn chăng?” Tức là tu theo hạnh Sa-môn xuất gia thì hiện tại được lợi ích gì, phải có kết quả thiết thực chứ. Chứ bây giờ toàn nói đời tương lai, toàn hứa giàu có v.v… thì mơ hồ. Mình phải học những điều này thì mới biết được.

Ðại vương có thể được. Này Ðại vương, ta sẽ hỏi Ðại vương về vấn đề này. Ðại vương hãy trả lời tùy theo ý muốn của Ðại vương.

…….

Đoạn đầu rất dài, Thiện Trang cũng không có trích dẫn. Đoạn đầu ý nói về lợi ích của sự cung kính. Ví dụ như người bình thường, nhưng sau khi đi xuất gia vào Tăng đoàn thì được sự cung kính từ những người khác, ngay cả đức vua cũng cung kính, v.v…. Rồi không phải nộp thuế, không phải đi làm v.v… Đó là những lợi ích mà đi làm hạnh Sa-môn hiện tại, đấy là [lợi ích] rõ ràng. Đức Phật nói rất là chi tiết.

Sau đó đức Phật nói về giữ giới, tránh các tà mạng như xem sao, bói quẻ, coi ngày tốt, ngày xấu cho đám cưới, đám tang gì đó. Nói chung quý vị mà đem đoạn này ra là đánh sập các chùa hiện tại, cho nên là thôi mình không đưa ra. Những hạnh đó là thuộc tà mạng đó. Bây giờ mình thấy mấy điều này là tà mạng hết, đám cưới, đám tang gì đâu [mà xem ngày tốt, xấu], v.v… không cho phép. Cho nên đoạn này nói vậy thôi, thì chúng ta biết vậy. Chúng ta không có trích, quý vị muốn biết thì tự coi.

          Này Ðại vương, Tỷ-kheo ấy nhờ đầy đủ giới luật, nên không thấy sợ hãi từ một chỗ nào về phương diện hộ trì giới luật. Vị ấy nhờ đầy đủ giới luật cao quý này, nên hưởng lạc thọ, nội tâm không vẩn đục. Như vậy, này Ðại vương, Tỷ-kheo đầy đủ giới luật.

          …..

Tức là việc giữ giới để làm gì? Quý vị thấy là: không thấy sợ hãi từ một chỗ nào về phương diện hộ trì giới luật. Và nhờ vậy cho nên được hưởng lạc thọ, nội tâm không vẩn đục. Không phải giữ giới để làm gì, mà giữ giới thì tự nhiên quý vị được an tâm, được niềm vui, và tâm mình sẽ không vẩn đục tức là tâm mình sáng. Đó là những lợi ích. Chứ mấy lợi ích ở trên thì quá thế gian, quá bình thường rồi, như cung kính, không phải nộp thuế, không phải đi làm, không phải vất vả thế này thế kia… Điều đó là bình thường, còn đây là lợi ích bắt đầu trong tâm rồi v.v…

Đoạn sau này rất dài:

Ðại vương, thế nào là Tỷ-kheo hộ trì các căn? Này Ðại vương, khi mắt thấy sắc, Tỷ-kheo không nắm giữ tướng chung, không nắm giữ tướng riêng. Những nguyên nhân gì, khiến nhãn căn không được chế ngự, khiến tham ái, ưu bi, các ác, bất thiện pháp khởi lên, Tỷ-kheo tự chế ngự nguyên nhân ấy, hộ trì nhãn căn, thực hành sự hộ trì nhãn căn. Khi tai nghe tiếng… mũi ngửi hương… thân cảm xúc… ý nhận thức các pháp, vị ấy không nắm giữ tướng chung, không nắm giữ tướng riêng. Những nguyên nhân gì khiến ý căn không được chế ngự, khiến tham ái, ưu bi, các ác, bất thiện pháp khởi lên, Tỷ-kheo chế ngự nguyên nhân ấy, hộ trì ý căn, thực hành sự hộ trì ý căn. Vị ấy, nhờ sự hộ trì cao quý các căn ấy, nên hưởng lạc thọ nội tâm, không vẩn đục. Như vậy, này Ðại vương, Tỷ-kheo hộ trì các căn.

Tóm lại Thiện Trang muốn dẫn đoạn này là do sự tu tập mà được. Ở trên là do giữ giới mà được, còn ở đây là do hộ trì các căn mà được sự hưởng lạc thọ nội tâm, và nội tâm không vẩn đục.

          Tiếp theo ở dưới này nữa, Chánh niệm tỉnh giác, đoạn này cũng quan trọng.

          Ðại vương, thế nào là Tỷ-kheo Chánh niệm tỉnh giác? Ðại vương, ở đây, Tỷ-kheo khi đi tới, khi đi lui đều tỉnh giác; khi nhìn thẳng, khi nhìn quanh đều tỉnh giác; khi co tay, khi duỗi tay đều tỉnh giác; khi mang y kép, bình bát, thượng y đều tỉnh giác, khi ăn, uống, nhai, nuốt đều tỉnh giác; khi đi đại tiện, tiểu tiện đều tỉnh giác; khi đi, đứng, ngồi, nằm, thức, nói, yên lặng đều tỉnh giác. Như vậy, này Ðại vương, Tỷ-kheo Chánh niệm tỉnh giác.

Đoạn này cực kỳ quan trọng, quý vị tu phải được như vậy. Cho nên lâu lâu test thử, bữa nào quý vị thử coi, quý vị mở cửa ra mà có một người đứng bên cạnh hù một phát. [Nếu] quý vị giật mình là quý vị không có tỉnh giác, công phu của quý vị không có đủ định. Tức là lúc đó mình đang mê mê, cho nên mình không có giác được, không giác được thì người ta hù một phát là mình giật mình. Còn nếu mà mình tỉnh giác thì mình sẽ nhìn được nhanh hơn, mình cũng có thể giật mình nhưng mình chỉnh được ngay. Còn có người công phu sâu, là khi đó họ trơ trơ luôn, vì họ thấy rất rõ. Điều đấy là cũng để [kiểm tra] công phu tỉnh giác của mình. Cho nên đạo Phật là đạo tỉnh giác. Quý vị tu là phải được như vậy, tất cả các việc làm mình đều tỉnh giác thì mới được.

Ở đây chỉ có nói là nằm, ngồi, thức thôi, không có nói ngủ, đức Phật chưa nói tới ngủ. Nhưng quý vị luyện công phu như vậy thì từ từ mới được. Chứ bây giờ mình mê quá, ban ngày cũng mê, ban đêm ngủ cũng mê luôn, thì làm sao ra khỏi sanh tử luân hồi được, quý vị hiểu không? Bây giờ nhiều khi ngay cả ban ngày mà chúng ta sợ đủ điều hết, không cần ai hù, một chuyện rất đơn giản thôi. Ví dụ đang bình thường vậy, [tự nhiên] có một cuộc điện thoại kêu: “Em ơi em, bữa nay con em bị té xe ở chỗ đó rồi đó, em ra mau lên”. Rồi bắt đầu cuống lên, chạy lung tung, run rẩy hết [lên], kêu: “Chìa khóa của tui đâu rồi v.v…” đủ thứ các kiểu, không biết làm gì hết. Đó là không có công phu một chút nào hết. Quý vị vẫn là một phàm phu trong vòng sanh tử, xin chia buồn với quý vị nếu quý vị như vậy.

Cho nên người tỉnh giác lúc đó nghe như vậy thì sao? [Người tỉnh giác sẽ nghĩ] thế gian vô thường, con mình cũng có vận mạng của nó, không biết nó có sao không, nên bình tĩnh [hỏi]: “Chị ơi chị, vậy nó có bị sao không?” [Họ] kêu: “Chưa biết nữa!” “Chưa biết [thì] không sao, để chút em ra”. Cứ bình tĩnh, bởi vì sao? Thế gian vô thường! Vì tất cả mọi việc trên thế gian đều không có gì cả.

Và quý vị phải có nhận thức là Khổ, Không, Vô thường, Vô ngã. Thiện Trang nói là [quý vị phải có] Tam Bảo thường trực hiện tiền. Tam Bảo có nghĩa là gì? Là Phật, là Pháp, là Tăng. Phật là gì? Phật là sự giác ngộ, tức là mình phải luôn nhớ Phật, nếu mình nói hơi mê tín là mình phải nhớ đến đức Phật. Còn nếu mình nói là sự giác ngộ thì mình phải có kiến thức về Khổ, Không, Vô thường, Vô ngã theo mình. Rồi Pháp là gì? Pháp là tất cả các pháp cũng vậy, thế gian này là Vô thường, Vô ngã, điều gì cũng không làm chủ được. Cho nên học thuộc bài Khổ, Không, Vô thường, Vô ngã đi, Tam pháp ấn đó phải nắm được, [khi] gặp chuyện gì [xảy] ra thì mình cũng thấy như vậy. Tăng là gì? Tăng là thanh tịnh. Thanh tịnh là gì? Tất nhiên mình nhớ đến các vị thầy, vị tăng chứng quả vị Thánh rồi, thì không nói. Nhưng mình phải nhớ là mình luôn luôn phải thanh tịnh.

Khi nào quý vị tỉnh giác thanh tịnh được như vậy, dù [trong] hoàn cảnh nào, thì gọi là ‘thường trực Tam Bảo hiện tiền’. Quý vị gặp bất cứ cảnh duyên nào [mà] quý vị vẫn làm chủ được, thì quý vị yên tâm, sớm hay muộn gì thì quý vị cũng sẽ đắc đạo giải thoát. Nếu mà tu được như vậy, Thiện Trang tin là quý vị đời này ít nhất cũng vào địa vị Tùy tín hành, hoặc là vô trong mấy địa vị Thất hiền, chứ không phải ít đâu. Còn quý vị tu một hồi, cuối cùng thấy con mình cũng [là] thật, chồng mình cũng là thật v.v… đủ các kiểu. Thì quý vị vẫn khổ miết thôi, không có hết khổ được đâu.

Cho nên bài giáo lý của Phật giúp chúng ta hiểu, hiểu rồi thì hành. Hành là gì? Mình sống với được [giáo lý]. Chứ quý vị cứ suy đi nghĩ lại, rồi cuối cùng con vẫn là con, chồng vẫn là chồng, nhà vẫn là nhà của tui, v.v… Trong khi đó đức Phật nói trong kinh:

Con ta tài sản ta

Người ngu sanh Phiền não

Đến ta còn không có

Con đâu, tài sản đâu”.

[Quý vị] nhớ giùm Kinh Pháp Cú, Kinh Pháp Cú là Tiểu Bộ Kinh. Trong Tiểu Bộ Kinh có một câu chuyện như vậy và một bài kệ, cứ một câu chuyện là một bài kệ. Và quý ngài thấy như vậy dài quá, nên rút bài kệ đó ra một đoạn và tập hợp lại chung, góp vô trong Tiểu Bộ Kinh. Nhưng trong Tiểu Bộ Kinh có đoạn đó rồi, gọi là Kinh Pháp Cú. Và Kinh Pháp Cú chính là Kinh Xuất Diệu bên Hán tạng. Kinh Xuất Diệu thì không nằm trong bốn bộ Kinh A Hàm. Quý vị nhớ như vậy, và quý vị tìm trong Kinh Xuất Diệu thì có. Xuất diệu tức là trích ra những điều vi diệu.

Cho nên đừng nói là bên Hán tạng thiếu kinh, không phải! Thiếu kinh là do mình không coi ngoài bốn bộ A Hàm, mình tưởng chỉ có bốn bộ A Hàm là hết rồi. Không phải! Còn có kinh khác nữa, nên có nhiều điều khác nữa. Quý vị cứ coi các cách tu hành là được như vậy.

          Thiện Trang nói lợi ích trước mắt của việc Chánh niệm tỉnh giác là quý vị làm việc gì cũng giỏi hết. Quý vị ở thế gian thì quý vị trở thành siêu sao, quý vị làm việc gì cũng giỏi, học cũng giỏi, nấu cơm nấu nước, đi làm hay chạy xe, việc gì cũng giỏi. Cho nên người tu hành một thời gian thì sự tỉnh giác của mình sáng suốt lắm, mình làm việc được nhiều lợi ích. Quý vị nhớ, tu là phải như vậy, chứ không phải tu một hồi rồi mê. Pháp tu nào mà đưa đến người tu càng ngày càng mê, ngơ ngơ ngác ngác, hồi xưa thì [tâm] toàn nghĩ xuất thế gian, còn bây giờ thì toàn nghĩ trong thế gian, nào là tình cảm, anh chị em, vợ chồng gì đó, v.v… thì quý vị đang mê và càng ngày càng mê thêm. Và xin lỗi! Quý vị đã thoái chuyển rồi. Quý vị cứ nhìn vào đó thì biết.

Làm sao học mà càng ngày càng giác ngộ, càng sáng suốt, càng buông nhiều, càng bớt tham, sân, si, thì đó là Chánh pháp. Còn pháp nào mà dạy cho quý vị càng ngày càng ngã mạn, càng cống cao, càng chấp trước, càng ngày càng yêu đương, càng ngày càng gì đó v.v… thì đó là [Tà pháp]. Yêu đương ở đây là yêu đương trai gái, còn yêu thương trong nhà Phật là từ bi. Quý vị tu như vậy là đúng rồi. Mình phải phân biệt được các pháp: Xuất thế gian là luôn luôn học Khổ, Không, Vô thường, Vô ngã, cho nên mình chán hết, dần dần mình không ham thế gian này nữa đâu.

Ở đây còn vài bạn trẻ đúng không? Các bạn trẻ hồi nhỏ lớn lên thì cũng thấy các bạn yêu đương sướng quá, mình cũng muốn yêu cho đỡ cô đơn. Tới ngày Valentine ở nhà không có yên tâm, hồi xưa Thiện Trang biết mà. Đời của Thiện Trang là không có ngày Valentine nào hạnh phúc hết, cho nên Thiện Trang biết lắm. Hồi xưa cứ tới ngày Valentine, không biết số mình làm sao đó mà không có người yêu, hoặc có người yêu chăng nữa thì cũng ở xa, không có cơ hội, thế là yên tâm, không có gì hết. Cho nên Thiện Trang biết là cuộc đời này cũng vui, vì ngược đời. Sau này học Phật pháp Thiện Trang mới biết là do mình đã phát nguyện trong đời quá khứ rồi, nên không sao hết. Mình rất tỉnh táo, sáng suốt. Nhưng chúng sanh thì không tỉnh táo, sáng suốt, ngày đó thì họ cảm thấy buồn. Buồn là sai rồi đó.

Quý vị nên nhớ là ở thế gian, mọi sự hiện hữu, có điều gì cũng là khổ cả, càng có nhiều thì càng khổ nhiều. Quý vị thấy không? Ở đây có các cô các chú đã lập gia đình rồi, hồi xưa mình tự do, muốn đi đâu thì đi, muốn ăn gì thì ăn, muốn mua gì thì mua, muốn xài gì thì xài, muốn làm gì cũng được, muốn tu cũng được… Khi không lấy ông đó về, lấy bà đó về, bây giờ ăn cũng không yên thân, ăn thì vừa phải nấu món cho mình, vừa phải nấu món người ta thích. Đã chiều ông chồng rồi, bây giờ phải chiều thêm món cho đứa con nữa. Muốn đi cúng dường, muốn xài điều gì cũng phải suy xét, đàm phán với đối phương, và phải chia ra: anh mua cái này, em mua cái này. Còn có nhiều ông keo là không cho luôn. Khổ chưa? Rồi đi đâu cũng không được, con bám, chồng bám v.v… hết tự do.

Cho nên ở đời có nhiều thì khổ nhiều, quý vị nhớ như vậy. Cho nên trong Kinh A Hàm, đức Phật kể câu chuyện mà Thiện Trang đã kể rồi đó: Có ông đó tới than: Bạch đức Thế Tôn, con khổ quá, vì con nợ người ta, mỗi đêm sợ chủ nợ tới đòi. Con có 7 đứa con ở góa, chúng chưa có chồng nên khổ quá. Con có mấy con bò bị lạc mất mà 7 ngày rồi chưa tìm được” v.v… đủ các khổ. Đức Phật nói: Ta không có những nỗi khổ đó, bởi vì Ta không có con nên Ta không có những đứa con ở góa. Ta không có con bò đi lạc vì Ta đâu có nuôi bò. Ta cũng không có nợ tiền ai nên đâu có ai đòi. Hằng ngày Ta chỉ đi du hóa…” Đức Phật nói một hồi ổng giác ngộ, sau đó ổng xuất gia và chứng quả A-la-hán hay Tu-đà-hoàn gì đó, Thiện Trang quên rồi.

Quý vị nhớ nha! Chỉ cần đổi thôi. Mọi sự hiện hữu ở đời, có ở đời là khổ thôi. Quý vị càng có [nhiều] ràng buộc bao nhiêu thì quý vị càng khổ bấy nhiêu. Người tu hành là gì? Con đường đi ra khỏi sanh tử là phải tự mình đi. Cho nên đức Phật mới nói:Hãy tự thắp đuốc lên mà đi, hãy tự xây dựng ốc đảo cho chính mình”, nên nhớ như vậy. Và ở đời càng phụ thuộc bao nhiêu thì càng khổ thôi. Quý vị đừng mong cầu, đừng trông mong vào ai hết thì đỡ khổ, phải tự mình bước đi. Quý vị càng phụ thuộc vào người khác thì quý vị càng khổ. Cho nên bí quyết là đừng phụ thuộc nhiều. Mình phụ thuộc người ta, [trong khi] đời là Vô thường, Vô ngã mà, pháp đó đâu có chắc được đâu.

Ở đây nhiều người lập gia đình thì chắc quá biết rồi. Đến tối ngủ nhiều khi cũng ngủ không yên, ông chồng ngáy khò khò không ngủ được, hoặc bà vợ ngáy khò khò không ngủ được. Rồi ban đêm ổng thức dậy đi vệ sinh thì mình ngủ cũng không được. Cho nên được một điều mà [phải] khổ bao nhiêu điều. Thiện Trang nói để cho các bạn trẻ cố gắng vượt qua. Chứ còn mấy người lớn tuổi, mấy ông già bà già thì chắc hiểu quá rồi. Cho nên bây giờ ráng chuyển tình duyên thành pháp duyên đi, ráng nương nhau mà tu trong cuộc đời còn lại để ra khỏi sanh tử, để tránh đời sau lặp lại.

Đó là nỗi khổ trong cõi Người thôi, còn nỗi khổ trong Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sanh thì còn khổ nữa. Súc sanh, Địa ngục quý vị thấy rồi đúng không? Làm mấy con kiến bò bò, làm mấy con ong bay bay đâu có sướng gì đâu. Đó là mình thấy Súc sanh thôi đó. Rồi làm con heo bị người ta giết, khổ lắm, không nên. Và Ngạ quỷ thì đói khát vô cùng. Còn Địa ngục thì không có thời gian nữa, vô đó bị hành hình, bị chém giết, bị ném lên núi đao, rừng thẳm, rồi bị ném vào vạc dầu, chảo lửa v.v… đủ các khổ. Thôi khổ lắm! Hãy [mau] thoát ra khỏi thôi. Con đường thoát khổ mình đang đi, ráng đi cho trọn vẹn, cho xong.

Đoạn tiếp theo là nói về Chứng các tầng Thiền, sẵn [Thiện Trang] nhắc lại các tầng Thiền luôn:

Khi quán tự thân đã xả ly năm triền cái ấy (năm Triền cái gồm: Tham dục, Sân hận, Hôn trầm (Thụy miên), Trạo cử Hối quá, và Nghi ngờ. Nếu nói đơn giản là Dục triền, Hận triền, Hôn thụy, Trạo hối, và Nghi. Mình muốn bỏ năm Triền cái thì phải dùng 5 Tâm sở: Tầm, Tứ, Hỷ, Lạc, Nhất hành (định). Những điều này đã học rồi, nên Thiện Trang không nhắc lại), hân hoan sanh; do hân hoan nên hỷ sanh; do tâm hoan hỷ, thân được khinh an; do thân khinh an, lạc thọ sanh; do lạc thọ, tâm được định tĩnh. Tỷ-kheo ly dục, ly ác pháp, chứng và trú thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, với tầm, với tứ. Tỷ-kheo thấm nhuần, tẩm ướt, làm cho sung mãn, tràn đầy thân mình với hỷ lạc do ly dục sanh, không một chỗ nào trên toàn thân không được hỷ lạc do ly dục sanh ấy thấm nhuần.

Thiện Trang muốn trích đoạn dẫn dài như vậy là để chúng ta thấy rõ Sơ thiền gồm những gì. Thông thường người ta vô là nói: ‘[Sơ thiền] là ly dục, ly các ác pháp bất thiện, chứng và an trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có Tầm có Tứ’. Chúng ta mới thấy đoạn này thôi. Nhưng quý vị thấy đoạn gia hành là đoạn ở đằng trước này nè: ‘Khi quán tự thân đã xả ly năm Triền cái ấy, hân hoan sanh; do hân hoan nên hỷ sanh; do tâm hoan hỷ, thân được khinh an; do thân khinh an, lạc thọ sanh; do lạc thọ, tâm được định tĩnh’.

Cho nên mình không học kinh tạng mà học theo các vị giảng, thì các ngài chỉ cắt khúc này thôi. Mà thật ra đoạn gia hành là đoạn dụng công trước, gọi là đoạn khởi động. Cái gì cũng phải có bắt đầu và khởi động, xe trước khi chạy cũng phải khởi động, điều gì cũng vậy, phải có giai đoạn đó thì mới ổn được, mà bị bỏ đi mất, vô dạy cho mình đoạn này thôi, thì quý vị tu khó là vậy.

Quý vị xem đoạn gia hành này: Phải xả ly năm Triền cái, đừng tham, đừng sân, đừng giận ghét ai hết. Rồi đừng buồn ngủ, người đừng có đơ đơ, đừng có lăng xăng (Trạo cử), đừng có nghi. Đó mới là xả ly 5 Triền cái. [Tiếp tục] là [phải có] hân hoan sanh, tu mà không vui thì làm sao vô Sơ thiền đây. Do hân hoan nên hỷ sanh, tức là càng vui hơn nữa. Do tâm hoan hỷ, thân được khinh an. Bây giờ quý vị được khinh an chưa? Hay vô ngồi mà thấy đau đớn quá, bắt chước ngồi kiết già thấy đau quá thì đố mà vô được Sơ thiền đó. Cho nên nhiều người tu mà không có đoạn gia hành này thì làm sao thành tựu được. Rồi do thân khinh an, lạc thọ sanh; do lạc thọ, tâm được định tĩnh. Phải có nguyên đoạn này, rồi mới tới đoạn ly dục, ly các ác pháp bất thiện, rồi mới chứng và trú Thiền thứ nhất được. Mình toàn là đem quả ra xài mà quên mất nhân.

Cho nên Thiện Trang nói xưa nay mình toàn học theo kiến giải của người ta, sau này Thiện Trang kêu: thôi mình đọc kinh cho chắc. Đọc kinh thì thấy: Ô! Đoạn này là có đoạn [gia hành] này nè, áp dụng đoạn [gia hành] này là tới kết quả thôi. Quý vị thấy không? Hồi xưa mới vô mình cứ đòi diệt 3 Hạ phần Kiết sử: Thân kiến, Giới cấm thủ và Nghi, thì sẽ chứng Sơ quả Tu-đà-hoàn. Ăn rồi cứ đè đầu chỗ đó. Nhưng làm sao để diệt 3 Kiết sử đó thì không học, mình cứ nhắm làm sao phải phá Thân kiến đi, phá Giới cấm thủ và Nghi đi. Nhưng khổ nỗi đức Phật dạy một trời, cách đơn giản nhất là [phải có] niềm tin bất hoại đối với Phật, niềm tin bất hoại đối với Pháp, niềm tin bất hoại đối với Tăng. Đó là một lối vào, một lối thôi nha. Có khi thì nói Bát chánh đạo, Thất giác chi v.v… đủ các kiểu.

Nhưng tóm lại Thiện Trang thấy điều đầu tiên là quý vị cố gắng tin giùm Phật, tin giùm Pháp, tin giùm Tăng và tin Thánh giới đi. Hãy làm được như vậy. Thật ra làm sao để tin? Mình cứ học nhiều, rồi thực hành theo thì dần dần mình tin thôi. Dần dần niềm tin mạnh rồi thì cuối cùng thành bất động thôi chứ có gì đâu. [Làm] cách như vậy thì Phiền não dần dần rơi rụng, mình thực hành theo năm tháng mình thấy được lợi ích, thì mình tu như vậy. Chứ mới vô mà bắt bỏ Thân kiến, rồi có bỏ được đâu. Rồi Thân kiến thế nào cũng không biết, Nghi thế nào cũng không biết.

Cho nên phải có giai đoạn gia hành. Mà gia hành là giống như hôm bữa có bài có bảng 9 tầng đoạn Phiền não đó. Hãy làm một người thật thà trước đã. Tu hành gì mà quý vị không thật thà thì quý vị tu không đắc Thiền, không đắc định, không đắc quả đâu. Thật thà là để tâm mình không ray rứt. Không thật thà thì mình có thể lừa người khác đúng không quý vị? Quý vị có thể lừa được người khác, nhưng quý vị sẽ không lừa được chính quý vị. Khi vô Thiền thì tâm cứ ray rứt, hiện ra. Người phá giới thì ray rứt do phá giới, còn người dối trá thì tâm sẽ ray rứt và không an. Cho [nên] không đắc được Thiền đâu, các chi thiền rớt sạch.

Rồi ở đây nói 5 Triền cái, quý vị mà còn có Sân, ghét ai đó, hay khó chịu với việc gì đó, thì quý vị không thể đắc Sơ thiền, vậy làm sao đắc các tầng Thiền khác. Cho nên mình tu mà mình rõ ràng thì tu được thôi. Chứ còn tu mà cứ đem quả ra ép thì làm sao được. Quý vị cứ tu nhân đi, nhân chánh thì quả sẽ chánh, thì sẽ thay đổi thôi. Người ta hay nói: ‘Hình ngay thì bóng sẽ dài’. Mình cứ làm sao đúng là được.

Và theo năm tháng Thiện Trang không biết quý vị cảm nhận thế nào, chứ Thiện Trang quay lại học kỹ nền tảng Kinh Nikaya, Kinh A Hàm, đặc biệt phần A Tỳ Đàm về Tâm sở, thì không cần bảo quý vị không tham, không sân, không si, quý vị cũng tự nhiên không tham, không sân, không si, bớt đi rất nhiều. Bởi vì sao? Mình vừa tham là mình biết mình khởi ý niệm tham rồi, thì tự nhiên mình sẽ điều chỉnh. Mình chỉ cần biết thôi, cho nên đức Phật đâu có bảo là xả tham đâu, mà bảo là mình chỉ cần biết thôi, biết rồi thì mình sẽ xả. Rồi mình thấy mình khó chịu với ai đó, khó chịu chuyện gì đó, thì mình biết là mình đang sân đó, cho nên mình cũng tự nhiên bỏ thôi, thì dần dần tự nhiên hết sân. Và như vậy tự nhiên Tham, Sân, Si sẽ giảm thôi. Rồi học pháp nhiều thì mình sẽ sáng suốt, rõ biết, nhẹ nhàng. Rồi mình cũng chả quan tâm tới ai hết, hồi xưa mình học trên cao, mình đem tiêu chuẩn ra áp đặt cho người này người kia. Còn bây giờ ai tu thì cũng vậy thôi, ai tu được thì tu, vì người ta chưa tới lúc mà. Và đối với những chúng sanh mê thì mình thấy thương hơn.

Quý vị thấy không ạ? Cho nên là tự nhiên thôi, mà tự nhiên thì tu nhẹ nhàng, thấy càng ngày càng khỏe, càng dễ tu. Hồi xưa tu thì áp lực, phải xem tất cả chúng sanh đều là Phật, Bồ-tát, chỉ riêng ta là phàm phu. Nhưng làm không được, rồi không biết tại sao lại như vậy. Rồi “Bồ-tát, Bồ-tát niên niên thập bát” (là Bồ-tát, Bồ-tát năm nào cũng tuổi 18), mà sao mình bệnh quá trời, bệnh thế này thế kia, chắc là mình tu sai rồi, v.v…

Thật ra quý vị coi giùm Kinh A Hàm, Kinh Nikaya đi, đức Phật còn bệnh kia mà. Đức Phật với các đại Đệ tử như ngài Xá Lợi Phật còn bệnh quá trời kìa, có sao đâu! Cho nên tại vì mình đặt tiêu chuẩn cao quá, mình nghĩ mình ghê gớm, rồi mình thấy mình làm không được, mình bị áp lực, áy náy… [Thành ra] mình nghi pháp: “Ủa vậy mình tu có đúng hay không? Không biết pháp đó có sai không? Hay là mình tu bị sai rồi? Chứ sao mình tu mà mình bị bệnh”.

Cho nên tri kiến đó sai, [nên] dẫn đến bất an, thành ra nghi pháp. Trong ba Kiến hoặc: Thân kiến, Giới cấm thủ và Nghi, đó là mình nghi pháp hành của mình, nghi về bản thân của mình, thì làm sao quý vị phá được Nghi. Cho nên pháp phải phù hợp với mình thì mới tu được. Mình chưa phải là Thánh nhân, Bồ-tát thì mình tu theo pháp của mình. Tất nhiên pháp Đại thừa rất hay, phải học Đại thừa để mở rộng tâm lượng.

Thật ra cũng không sao, đức Phật từ bi lắm, quý vị xem Kinh Diệu Pháp Liên Hoa đi, có đồng tu hỏi Thiện Trang: “Mình tu mình chứng quả A-la-hán rồi thì sao?” Quý vị chứng quả A-la-hán rồi, nếu quý vị là Bồ-tát Đại thừa thì quý vị đi lên thôi. Trong Kinh Diệu Pháp Liên Hoa có phẩm Hóa Thành Dụ, quý vị nhớ không? Hóa Thành Dụ là gì? Đức Phật có đưa ra một ví dụ: Có một người dẫn một đoàn người đi tìm kho báu, nơi của kho báu đó gọi là Bảo sở. [Vì] đi đoạn đường quá dài, họ mệt mỏi, đuối quá, không muốn đi nữa, cho nên vị đó mới dùng Thần thông hóa hiện ra một thành gọi là Bảo sở, bảo với mọi người là đến rồi đó. [Sau khi mọi người] đi vào đó thấy đã quá, ăn uống, nghỉ ngơi khỏe khoắn rồi, thì người đó mới thu Thần thông và nói rằng là: “Ở đây mới là nơi Hóa thành thôi, chứ chưa phải là Bảo sở. Đến Bảo sở thì chúng ta chỉ mới đi được một nửa thôi, còn một nửa đường nữa”. Nhưng mọi người thấy khỏe mạnh rồi nên đi tiếp được.

Đức Phật nói cũng vậy, nếu Ta dạy cho chúng sanh một pháp Nhất thừa thành Phật, thì chúng sanh thấy con đường thành Phật quá dài, quá xa, nên họ thấy ngán, đi không nổi. Cho nên ở giữa Ta phải chia ra nào là các địa vị Thanh văn, Duyên giác v.v… đủ các địa vị (như chúng ta đang học đó), chia càng nhỏ ra thì chúng sanh tu được tới đâu thì thấy hưởng được quả vị đó, họ được pháp lạc giống như Hóa thành đó, và như vậy họ sẽ tinh tấn đi lên bởi vì có được như vậy.

Đó là tinh thần của Đại thừa, quý vị thấy hay không? Hay mà! Kinh Lăng Nghiêm nói là có hai hạng A-la-hán: Một là Độn căn A-la-hán, và hai là hàng Lợi căn. Độn căn là khi họ chứng A-la-hán, họ sợ sanh tử quá nên nhập Niết-Bàn trước. Còn hàng Lợi căn thì sau khi chứng A-la-hán họ sẽ nâng cấp lên thành Bồ-tát và độ sanh tiếp. Điều này thì quý vị tin hay không tin cũng không sao. Vì quý vị tu đến lúc đó thì quý vị sẽ tự biết, có những người như thế. Và đức Phật cũng không có chê trách gì đâu. Tại vì đến lúc nào thì quý vị cũng sẽ đi con đường đó thôi, vì “Thập phương Bạc Già Phạm, Nhất lộ Niết-Bàn môn”. Hôm bữa Thiện Trang có nói câu đó rồi. Hoặc là câu: “Trong thế giới mười phương, chỉ có pháp Nhất thừa, không hai cũng không ba, trừ Phật phương tiện thuyết”.

Khi quý vị lên rồi thì quý vị cũng đi con đường đó thôi. Còn bây giờ chưa đi thì từ từ đi, trước sau gì cũng phải đi thôi. Nên quý vị yên tâm! Chuyện đó không quan trọng. Quan trọng là bây giờ quý vị làm sao thoát khổ đã. Đức Phật dạy cho chúng ta ra khỏi sanh tử là quan trọng. Phải ráng ra khỏi sanh tử trước đi. Khi quý vị thành tựu rồi thì quý vị mới độ người được. Trong kinh rất nhiều lần đức Phật nói là: “Giống như người chưa biết bơi, thì không thể nào cứu người chết đuối được”. Hình như trong Kinh Kim Quang Minh đức Phật nói câu đó thì phải. Thiện Trang đọc nhiều kinh quá, Thiện Trang không nhớ là kinh nào, Kinh Kim Quang Minh hay Kinh Đại Bảo Tích gì đó, có câu nói như thế.

Cũng vậy, chúng ta hãy ráng tu đi, khi nào mình tu an lạc rồi thì mọi người sẽ theo mình thôi. Quý vị không cần nói độ sanh gì hết, người ta cũng tìm đến quý vị, người ta cũng bái quý vị, xin quý vị chỉ cho cách tu. Còn mình nói mình tu an lạc lắm, mình tu pháp Đại thừa thù thắng lắm v.v… mà mặt mày đầy sân si. Rồi người ta nói một chút là mình nổi điên, nổi khùng, chửi người ta tu thế này thế kia. Hoặc là mình tu càng ngày đầu óc ngơ ngơ ngác ngác, thì không được đâu, [tu như vậy] không đúng. Pháp đó không sai nhưng mình tu không phù hợp.

 Như vậy đấy là chứng được các tầng Thiền, đây là [Thiện Trang] giới thiệu luôn Sơ thiền rồi đó. Ở đây có ví dụ cũng vui lắm:

Này Ðại vương, như một người hầu tắm lão luyện hay đệ tử người hầu tắm (hồi xưa thời Phật đã có người hầu tắm rồi). Sau khi rắc bột tắm trong thau bằng đồng, liền nhồi bột ấy với nước, cục bột tắm ấy được thấm nhuần nước ướt, nhào trộn với nước ướt, thấm ướt cả trong lẫn ngoài với nước, nhưng không chảy thành giọt. Cũng vậy, này Ðại vương, Tỷ-kheo thấm nhuần, tẩm ướt, làm cho sung mãn, tràn đầy thân hình với hỷ lạc do ly dục sanh, không một chỗ nào trên toàn thân không được hỷ lạc do ly dục sanh ấy thấm nhuần.

Này Ðại vương, đó là quả thiết thực hiện tại của hạnh Sa-môn, còn vi diệu thù thắng hơn những quả thiết thực hiện tại của hạnh Sa-môn trước. (Quý vị thấy không? Được luôn Sơ thiền).

Ở đây nói tiếp [là chứng được] Nhị Thiền, cũng tương tự như vậy, Thiện Trang xin đọc nhanh:

Lại nữa, này Ðại vương, Tỷ-kheo ấy diệt tầm và tứ, chứng và trú thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm không tứ, nội tĩnh nhất tâm Tỷ-kheo ấy thấm nhuần, tẩm ướt làm cho sung mãn, tràn đầy thân mình với hỷ lạc do định sanh, không một chỗ nào trên toàn thân không được hỷ lạc do định sanh ấy thấm nhuần.

Này Ðại vương, ví như một hồ nước, nước tự trong dâng lên, phương Ðông không có lỗ nước chảy ra, phương Tây không có lỗ nước chảy ra, phương Bắc không có lỗ nước chảy ra, phương Nam không có lỗ nước chảy ra, và thỉnh thoảng trời lại mưa lớn. Suối nước mát từ hồ nước ấy phun ra thấm nhuần, tẩm ướt, làm cho sung mãn tràn đầy hồ nước ấy, với nước mát lạnh, không một chỗ nào của hồ nước ấy không được nước mát lạnh thấm nhuần. Cũng vậy, này Ðại vương, Tỷ-kheo thấm nhuần tẩm ướt, làm cho sung mãn tràn đầy thân mình với hỷ lạc do định sanh, không một chỗ nào trên toàn thân, không được hỷ lạc do định sanh ấy thấm nhuần.

Này Ðại vương, đó là quả thiết thực hiện tại của hạnh Sa-môn, còn vi diệu thù thắng hơn những quả thiết thực hiện tại của hạnh Sa-môn trước.

Tiếp đến là [chứng] Tam thiền:

Lại nữa, này Ðại vương, Tỷ-kheo ly hỷ trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là “Xả niệm lạc trú”, chứng và an trú thiền thứ ba. Tỷ-kheo thấm nhuần, tẩm ướt, làm cho sung mãn tràn đầy thân mình với lạc thọ không có hỷ ấy, không một chỗ nào trên toàn thân, không được lạc thọ không có hỷ ấy thấm nhuần

Quý vị muốn chứng được các tầng Thiền thì cứ chứng Sơ thiền trước đi đã, rồi diệt Tầm và Tứ thì chứng Thiền thứ hai. Thiền thứ ba là ly hỷ trú xả, tức là bỏ niềm vui đó đi, thì tự nhiên sẽ được Chánh niệm tỉnh giác, thì sẽ được [chứng] tới Thiền thứ ba thôi. Thiền thứ tư cũng tương tự như vậy. Thiện Trang để nguyên [văn] ở đây, để quý vị thấy thôi, chứ Thiện Trang không đọc lại. Quý vị có thời gian thì coi lại hoặc bấm tạm dừng video lại để coi, nếu muốn coi.

Này Ðại vương, ví như trong hồ sen xanh, hồ sen hồng, hồ sen trắng, có những sen xanh, sen hồng hay sen trắng. Những bông sen ấy sanh trong nước, lớn lên trong nước, không vượt khỏi nước, nuôi sống dưới nước, từ đầu ngọn cho đến gốc rễ đều thấm nhuần tẩm ướt, đầy tràn thấu suốt bởi nước mát lạnh ấy, không một chỗ nào của toàn thể sen xanh, sen hồng hay sen trắng không được nước mát lạnh ấy thấm nhuần. Cũng vậy, này Ðại vương Tỷ-kheo thấm nhuần, tẩm ướt, làm cho sung mãn, tràn đầy thân mình với lạc thọ không có hỷ ấy, không một chỗ nào trên toàn thân không được lạc thọ không có hỷ ấy thấm nhuần.

Này Ðại vương, đó là quả thiết thực hiện tại của hạnh Sa-môn, còn vi diệu thù thắng hơn những quả thiết thực hiện tại của hạnh Sa-môn trước. (Ngay hiện tại được như vậy chứ không phải chỉ hứa hẹn đời sau).

[Tiếp đến là chứng được] Tứ thiền:

Lại nữa, này Ðại vương, Tỷ-kheo, xả lạc, xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước, chứng và trú vào thiền thứ tư, không khổ, không lạc, xả niệm thanh tịnh. Tỷ-kheo ấy thấm nhuần toàn thân mình với tâm thuần tịnh trong sáng, không một chỗ nào trên toàn thân không được tâm thuần tịnh trong sáng ấy thấm nhuần. (Thiền thứ tư khó hơn phải xả ý niệm không khổ, không lạc gì hết, ở đây cũng đưa ra ví dụ).

Này Ðại vương, ví như một người ngồi, dùng tấm vải trắng trùm đầu, không một chỗ nào trên toàn thân không được vải trắng ấy che thấu. Cũng vậy, này Ðại vương, Tỷ-kheo thấm nhuần toàn thân mình với tâm thuần tịnh, trong sáng, không một chỗ nào trên toàn thân không được tâm thuần tịnh trong sáng ấy thấm nhuần.

Này Ðại vương, đó là quả thiết thực hiện tại của hạnh Sa-môn, còn vi diệu, thù thắng hơn những quả thiết thực hiện tại của hạnh Sa-môn trước.

                   Thiện Trang nói tiếp theo là chứng Thần thông, tức là hiện tại chứng Thần thông luôn.

 *Chứng được các loại Thần thông

Với tâm định tĩnh, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến dễ sử dụng vững chắc, bình thản như vậy. Tỷ-kheo chú tâm, hướng tâm đến sự hoá hiện một thân do ý làm ra. Vị ấy tạo một thân khác từ nơi thân này, cũng là sắc pháp, do ý làm ra, đầy đủ các chi tiết lớn nhỏ, không thiếu một căn nào.

Đoạn này nói là có thể biến ra một thân khác. Quý vị thấy không? Nhiều người không tin điều này, nhưng lời Phật nói thì mình không thể không tin. Nếu Thiện Trang nói thì quý vị nói ông thầy nói, nhưng đây là lời Phật [nói ở] trong kinh.

Trong đây có mấy loại Thần thông, Thiện Trang muốn giới thiệu cho quý vị luôn các loại Thần thông, để sau này mình không nói lại nữa, chứ không mình toàn nghe người ta giảng, còn lời Phật giảng thì như thế nào. Đây là lời Phật:

1. Thần túc thông:

Với tâm định tĩnh, thuần tịnh không cấu nhiễm không phiền não nhu nhuyễn dễ sử dụng, vững chắc bình thản như vậy. Tỳ-kheo dẫn tâm, hướng tâm đến các Thần thông. Vị ấy chứng được các loại thần thông, một thân hiện ra nhiều thân, nhiều thân hiện ra một thân, hiện hình biến hình đi ngang qua vách, qua tường, qua núi như đi ngang hư không, độn thổ, trồi lên ngang qua đất liền, như ở trong nước; đi trên nước không chìm như trên đất liền; ngồi kiết già đi trên hư không như con chim, với bàn tay chạm và rờ mặt trăng và mặt trời, những vật có đại oai lực, đại oai thần như vậy; có thể tự thân bay đến cõi Phạm Thiên.           

          Đó là Thần túc thông, [quý vị] nghe đã không? Đây là quả hiện tại chứng được. Vậy tại sao chúng ta tu không có được điều này? Vì mình tu kém quá. Rồi bữa nay tin chưa? Hồi xưa cứ nói thầy Thiện Trang nói xạo. Không, [đây là] Phật nói. Quý vị không tin được thì xin chia buồn [với] quý vị, đó là quý vị chưa bất hoại tịnh đối với Phật, chưa bất hoại tịnh đối với Pháp, thì quý vị là phàm phu, vậy thôi! Còn tin được những điều này thì khó.

          Những điều này thật ra không khó, nếu quý vị có thực hành, quý vị có một chút tiểu định thì cũng có một chút Thần thông nho nhỏ. Sau này quý vị thấy những điều nhỏ nhỏ mình làm được, chắc mình định hơn thì sẽ làm được điều lớn hơn. Từ từ mình sẽ tin: đi qua tường, qua vách, qua núi, rồi độn thổ, đủ các kiểu biến hình. Đi, ngồi kiết già trên hư không như con chim. Thậm chí bàn tay sờ tới mặt trăng, mặt trời luôn. Bây giờ làm gì được. Và thậm chí tự thân bay lên cõi Phạm Thiên. Đã như vậy tại sao không tu?

          Mình thấy học miết rồi kêu thần thoại, nhưng thật ra không phải. Quý vị tu thì biết. Cho nên ngày nào đó mà quý vị chứng được Thần thông này thì quý vị sướng lắm. Quý vị đâu sống ở nhân gian nhưng chẳng có ham muốn gì nhiều đâu. Vì mấy Thần thông này đã hơn, mình đi đâu chơi sướng hơn chứ. Ở thế gian này quý vị ham đi du lịch, đất nước này đất nước kia, cảnh đẹp này cảnh đẹp kia. Xin lỗi! Quý vị có mấy [Thần thông] này thì quý vị chả cần, quý vị lên cõi Phạm Thiên, lên cõi Trời đẹp hơn. Ở dưới này người xấu hoắc, lên đó toàn là người đẹp. Tiên nữ, Thiên tử (tiên nam) cũng đẹp, cái gì cũng đẹp hết. Nhưng với tâm định tĩnh thì quý vị cũng chẳng thấy người ta đẹp, đẹp cũng bình thường. Cho nên mình phải tu chứng mới được. Đạo Phật là đến để thấy.

Đoạn này y chang rồi [vậy] chúng ta nói tiếp:

          Này Ðại vương, ví như một người thợ gốm khéo tay, hay đệ tử người thợ gốm, với đất sét khéo nhồi nhuyễn, có thể làm các loại đồ gốm tùy theo sở thích. Này Ðại vương, ví như một người thợ ngà khéo tay, hay đệ tử người thợ ngà, với ngà khéo đẽo dũa có thể làm các loại đồ ngà tùy theo sở thích. Này Ðại vương, ví như người thợ vàng khéo tay hay đệ tử người thợ vàng, với vàng khéo tinh nhuyễn có thể làm các loại đồ vàng tùy theo sở thích. Cũng vậy này Ðại vương, với tâm định tĩnh, thuần tịnh, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình thản như vậy, Tỷ-kheo dẫn tâm hướng tâm đến các thần thông. Vị ấy chứng được các thần thông một thân hiện ra nhiều thân, nhiều thân hiện ra một thân; hiện hình biến hình, đi ngang qua vách, qua tường, qua núi, như đi ngang qua hư không; độn thổ trồi lên, ngang qua đất liền như ở trong nước; đi trên nước không chìm như đi trên đất liền; ngồi kiết già đi trên hư không như con chim; với bàn tay chạm và rờ mặt trời và mặt trăng, những vật có đại oai lực, đại oai thần như vậy; có thể tự thân bay đến cõi Phạm Thiên.

          Này Ðại vương đó là quả thiết thực hiện tại của hạnh Sa-môn còn vi diệu thù thắng hơn những quả thiết thực hiện tại của hạnh Sa-môn trước (đức Phật nói luôn quả như vậy. Đó là Thần túc thông).

          2. Thiên nhĩ thông:

Đoạn đằng trước giống nhau, chúng ta chỉ cần nói: “Tỷ-kheo với thiên nhĩ thanh tịnh siêu nhân có thể nghe hai loại tiếng, chư Thiên và Người, xa và gần”. Quý vị nhớ Thiên nhĩ thông mới nghe được hai loại tiếng: chư Thiên và loài người thôi, xa và ở gần, để mình thấy rõ ràng.

Này Ðại vương, ví như một người đang đi qua đường, nghe tiếng trống lớn, tiếng trống nhỏ, tiếng loa, tiếng xập xõa và tiếng kiểng. Người ấy nghĩ: “Ðây là tiếng trống lớn, đây là tiếng trống nhỏ, đây là tiếng loa, tiếng xập xõa, tiếng kiểng”. Cũng vậy, này Ðại vương, với tâm định tĩnh, thuần tịnh, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình thản như vậy, Tỷ-kheo dẫn tâm, hướng tâm đến Thiên nhĩ thông. Tỷ-kheo với thiên nhĩ thanh tịnh siêu nhân, có thể nghe hai loại tiếng, chư Thiên và Người, xa và gần.

Này Ðại vương, đó là quả thiết thực hiện tại của hạnh Sa-môn, còn vi diệu thù thắng hơn những quả thiết thực hiện tại của hạnh Sa-môn trước.

          3. Tha tâm thông:

Với tâm định tĩnh, thuần tịnh, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình thản như vậy, Tỷ-kheo dẫn tâm, hướng tâm đến Tha tâm thông. Tỷ-kheo dẫn tâm, hướng tâm đến Tha tâm thông. Tỷ-kheo sau khi đi sâu vào tâm của chúng sanh, của loài người với tâm của mình, vị ấy biết được như sau:

Tâm có tham, biết là tâm có tham. Tâm không có tham, biết là tâm không có tham.

Tâm có sân, biết là tâm có sân. Tâm không có sân, biết là tâm không có sân (điều này thì dễ mà đúng không?)

Tâm có si, biết là tâm có si. Tâm không có si, biết là tâm không có si (điều này thì khó, nhiều khi si nhưng không biết).

Tâm chuyên chú, biết là tâm chuyên chú. Tâm tán loạn, biết là tâm tán loạn.

Ðại hành tâm, biết là đại hành tâm. Không phải đại hành tâm, biết không phải là đại hành tâm (Thiện Trang quên tra cứu đại hành tâm là gì).

Tâm chưa vô thượng, biết là tâm chưa vô thượng. Tâm vô thượng, biết là tâm vô thượng.

Tâm thiền định, biết là tâm thiền định. Tâm không thiền định, biết là tâm không thiền định (điều này khó, đâu có đơn giản).

Tâm giải thoát, biết là tâm giải thoát. Tâm không giải thoát, biết là tâm không giải thoát.

Quý vị biết luôn người ta giải thoát hay chưa, điều đó rõ ràng. Những ví dụ này quý vị có thể coi. Thiện Trang chỉ trích dẫn sơ sơ như vậy. Đó là Tha tâm thông. Tâm của người ta ra sao mình biết hết.

Này Ðại vương, ví như một người đàn bà, một người đàn ông, một thiếu niên trẻ hay một thanh niên ưa trang sức, nhìn mặt của mình trong tấm gương trong sạch, sáng suốt hay một chậu nước trong. Nếu mặt có tỳ vết, liền biết mặt có tỳ vết; nếu mặt không có tỳ vết, liền biết mặt không có tỳ vết. Cũng vậy, này Ðại vương, với tâm định tĩnh, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình thản như vậy, Tỷ-kheo dẫn tâm, hướng tâm đến Tha tâm thông. Tỷ-kheo sau khi đi sâu vào tâm của chúng sanh, của mọi người với tâm của mình, vị ấy biết được như sau:

          Tâm có tham, biết tâm có tham. Tâm không có tham, biết tâm không có tham.

          …… (Đoạn này giống với đoạn trên).

4. Túc mạng thông:

Với tâm định tĩnh, thuần tịnh, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyễn, dễ sử dụng, vững chắc, bình thản như vậy, Tỷ-kheo dẫn tâm, hướng tâm đến Túc mạng minh (Túc mạng minh hay Túc mạng thông cũng vậy thôi; #minh tức là sáng tỏ. Sáng tỏ được mạng đời trước gọi là Túc mạng minh). Vị ấy nhớ đến các đời sống quá khứ, như một đời, hai đời, ba đời, bốn đời, năm đời, mười đời, hai mươi đời, ba mươi đời, bốn mươi đời, năm mươi đời, một trăm đời, hai trăm đời, một ngàn đời, một trăm ngàn đời, nhiều hoại kiếp, nhiều thành kiếp, nhiều hoại và thành kiếp[1]. Vị ấy nhớ rằng: “Tại chỗ kia ta có tên như thế này, dòng họ như thế này, giai cấp[2] như thế này, thọ khổ lạc như thế này, tuổi thọ đến mức như thế này. Sau khi chết tại chỗ kia, ta được sanh ra tại chỗ nọ. Tại chỗ ấy, ta có tên như thế này, dòng họ như thế này, giai cấp như thế này, thọ khổ lạc như thế này, tuổi thọ đến mức như thế này. Sau khi chết tại chỗ nọ, ta được sanh ra ở đây”. Như vậy Tỷ-kheo nhớ đến nhiều đời sống quá khứ cùng với các nét đại cương và các chi tiết.

Quý vị có tin điều này không? Điều này khỏi cần, ráng tu đi. Mình tu không được Túc mạng thông cỡ này, nhưng đôi khi có biết một chút một số chuyện, [trong] nhất thời quý vị có thể biết một vài đời nào đó. [Hoặc] có khi mình tu tương ưng thế nào đó mình cũng biết. Điều đó là bình thường.

Thiện Trang thấy nếu quý vị biết được điều này cũng đỡ lắm. Vì quý vị sẽ diệt được rất nhiều Phiền não. Ví dụ quý vị biết được đứa con đó không phải là con của mình, nó là oan gia hoặc là người kẻ thù của mình, hoặc là người tình của mình ở đời trước v.v…. thì [mình thấy] bình thường lắm. Và mình biết được nguyên nhân tại sao mình với người ta ở đời này thù oán nhau, tại sao mình gặp người ta thì mình thích, v.v…. đủ các kiểu. Và mình nhìn thấy được đời quá khứ của mình, quý vị càng biết được thì hầu như chẳng ham trong luân hồi nữa. Cho nên những điều này thuộc về tu Thiền chỉ thôi, mà cũng có Thần thông. Tất nhiên, đôi khi tu Thiền quán cũng có.

Quý vị có những điều này thì cũng hỗ trợ rất nhiều. Bởi vì mình sáng tỏ với luân hồi. Và mình cũng sáng tỏ nghiệp báo của mình và chúng sanh, thì tự nhiên Phiền não cũng bớt nhiều lắm. Vì những chấp trước của mình ghê gớm lắm, đa số các quý vị tại gia là chỉ [nghĩ] con, chồng, suốt ngày chỉ nghĩ con là con, chồng là chồng. Nếu quý vị có một chút Túc mạng [thông], cho quý vị biết đứa con đó không phải là con quý vị. Đời trước nó là một đứa nào đó, bây giờ nó tới nhà quý vị thôi, là quý vị hết thương nó thôi, quý vị không mê nó nữa. Rồi người yêu cũng vậy, Thiện Trang xin nói nếu quý vị biết đó không phải là người yêu, mà chỉ là một kẻ tới đòi nợ, thì quý vị hết yêu nổi. Giả sử quý vị biết [đó là] người yêu thật, người chồng, người vợ của mình trong đời quá khứ thì cũng vậy thôi. Vì đời trước cũng vậy, rồi đời này cũng vậy thôi, mai mốt cũng chết giống nhau. Rồi từ từ mình buông được.

Đây là thuộc về Thiền chỉ, [tu] Thiền chỉ có Túc mạng thông này. [Nhưng] đôi khi mình tu Thiền quán cũng có. Điều này [mình] không biết được nhiều đời lắm, nhưng đôi khi mình chỉ biết chút thôi là cũng đỡ lắm. Thiện Trang nói với quý vị, sau đó là quý vị thấy đời giả ghê lắm. Vì mọi lời hứa trong vòng luân hồi đa số là giả. Tức là người ta hứa hay phát nguyện [gì đó] thì đa phần là không thành tựu, phải tới lúc nào đó đủ thì mới thành tựu. Chứ không phải phát nguyện là thành tựu, hoặc hứa hẹn gì là thành tựu. Có thành tựu, nhưng là giả hết. Dần dần sau đó mình không có trách người, không than thân trách phận, chẳng trách gì ai. Lúc đó quý vị mới thấy: hóa ra chỉ có phàm phu là khổ, khổ vì không biết đời trước, cho nên cứ chạy theo đời hiện tại. Kẻ thù mà cứ chạy theo yêu thương, [còn] người đáng lẽ thương, đáng lẽ tốt cho mình thì mình không chịu theo, mình lại theo thằng trời ơi. Kiểu như vậy, [luân hồi] qua lại, mình thấy chán lắm rồi.

Và đối với Thiện tri thức cũng vậy. Quý vị nghĩ là quý vị đang nghe pháp của Thiện Trang, mà quý vị kính tin thì cũng không phải đơn giản đâu. Tức là Thiện Trang với quý vị cũng đã kết thiện duyên trong đời quá khứ rồi. Còn nhiều người vì kết ác duyên nên họ tới một thời gian rồi cũng chống đối, cũng bỏ đi, hoặc thế này thế kia. Vì sao? Vì người ta đã từng kết ác duyên với mình, nên nghiệp duyên khiến tới, như nước và lửa vậy, không hòa hợp với nhau được. Không biết thế nào, nhưng có những điều như vậy.

Ví dụ như bên Đạo gia, họ đưa ra Ngũ hành: Kim sanh Thủy, Thủy sanh [Mộc], v.v… mấy Ngũ hành tương sanh tương khắc gì đó, nhất thời Thiện Trang quên mất. Thiện Trang không nghiên cứu, nhưng thấy hình như cũng có những chỗ đúng. Ví dụ như Thiện Trang là mạng Đại hải thủy, nên không biết sao đi đến đâu cũng mưa, nước nhiều. Xưa nay mình tự hào mình là Đại hải thủy, cho nên không sợ chuyện gì hết. Nhưng khi gặp Thiên hà thủy là vẫn bị lấn ép ngay thôi. Cho nên cũng không biết tại sao lại như vậy, mình nghĩ: “Ủa sao lại mê tín nhở, nhưng mà đúng nhở”. Thiện Trang không tin mấy chuyện đó lắm, nhưng sao kì vậy, hình như cũng đúng đấy chứ.

Thật ra hồi xưa [Thiện Trang] không học kinh Phật, sau này học kinh Phật mới biết. Chính Kinh Phạm Võng trong Trường Bộ Kinh đức Phật nói:Do những vị đó họ có Thiền định, họ tu Thiền, ở trong Thiền định họ thấy nên nói ra như vậy. Và những cách nói của họ không đúng hoàn toàn.Tức là họ thấy nhưng họ không thấy hết tất cả trường hợp, họ thấy chỉ bao nhiêu trường hợp đó thôi, và họ mặc định đó là chân lý. Cho nên đức Phật nóicó những điều họ không thấy, có những điều họ nói là: “Nhất ẩm nhất trác mạc phi tiền định” (bên Đạo gia). Tức là một miếng ăn, một ngụm nước đều do tiền định hết, nhưng họ không biết là có ‘Bất tư Nghì nghiệp’.

Đức Phật [nói] có một loại nghiệp gọi là Bất tư Nghì nghiệp, nghiệp đó chỉ có Phật biết thôi, còn hàng Thanh văn, Duyên giác cũng không biết, huống hồ chi phàm phu. Có những nghiệp này nghiệp kia nhiều đời quá mà họ không biết. Cho nên những lý thuyết của ngoại đạo cũng đúng một phần, chứ không phải là không đúng.

Rồi tại sao người ta xưng mình là Phạm thiên v.v… thì đức Phật có nói hết. Quý vị cứ coi trong Kinh Phạm Võng của Trường Bộ Kinh, đức Phật giải thích hết những hiện tượng đạo, Tôn giáo… Mình học những điều đó thì Chánh kiến của mình rõ ràng và không bị dụ hoặc được. Điều đó là [dành] cho những người thích nghiên cứu, còn mình tu thì cũng không cần phải quan tâm chuyện đó.

Quý vị thấy đây là Túc mạng thông hay Túc mạng minh, là mình biết được nhiều đời nhiều kiếp.

5. Thiên nhãn thông:

Với tâm định tĩnh, thuần tịnh, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyễn, dễ sử dụng, vững chắc, bình thản như vậy, Tỷ-kheo dẫn tâm, hướng tâm đến trí tuệ về sanh tử của chúng sanh. Vị ấy với thiên nhãn thuần tịnh, siêu nhân, thấy sự sống và chết của chúng sanh (điều này cũng gọi là Sanh tử minh). Vị ấy biết rõ rằng, chúng sanh người hạ liệt kẻ cao sang, người đẹp đẽ kẻ thô xấu, người may mắn kẻ bất hạnh, đều do hạnh nghiệp của chúng.

[Điều này] không trách ai hết, biết rõ tại sao cao sang hay hạ liệt, đẹp hay thô xấu, may mắn hay bất hạnh, đều do hạnh nghiệp của họ (hạnh nghiệp tức là nghiệp làm của họ).

“Này các Hiền giả, những chúng sanh này làm những điều ác hạnh về thân, lời và ý, phỉ báng các bậc Thánh, theo tà kiến, tạo các nghiệp theo tà kiến. Những người này sau khi thân hoại mạng chung, phải sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, Địa ngục”.

Nhớ nha! Làm những ác hạnh về thân, lời, ý (là ba nghiệp thân, khẩu, ý), mà quan trọng là phỉ báng các bậc Thánh, theo Tà kiến và tạo các nghiệp theo tà kiến, thì người này sau khi chết sẽ sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, Địa ngục. Bây giờ người ta cũng làm những việc này nhiều đúng không?

Này các Hiền giả, còn những chúng sanh nào làm những thiện hạnh về thân, lời và ý, không phỉ báng các bậc Thánh, theo Chánh kiến, tạo các nghiệp theo Chánh kiến, những người này, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh lên các thiện thú, cõi trời, trên đời này. Như vậy vị ấy với Thiên nhãn thuần tịnh siêu nhân thấy sự sống chết của chúng sanh. Vị ấy biết rõ rằng chúng sanh, người hạ liệt kẻ cao sang, người đẹp đẽ kẻ thô xấu, người may mắn kẻ bất hạnh, đều do hạnh nghiệp của chúng.

Quý vị thấy không? Tu tới mức độ này thì quý vị còn nghi với giáo pháp của Phật không? Chắc chắn là không, đúng không? Nên cứ tu đi, tu đi rồi biết, đạo Phật có nói là “tự tác, tự tri, tự chứng” đến để thấy. Tự tác là tự mình thực hành, tự tri là tự mình biết, tự chứng là tự mình trải nghiệm đúng như vậy, mình thấy đúng như vậy, mình thấy thật chứ không phải mình thấy qua việc hiểu, việc nghe. Cuối cùng mình sẽ đến để thấy, khi đó quý vị mới không nghi, quý vị mới tu được, chứ không quý vị nói Phật giáo mê tín, thế này, thế kia. Đức Phật nói những điều siêu nhân này, mình tu tới được chưa? Chưa tới thì ráng tu rồi mới thấy.

Mấy điều đó vẫn là phàm phu, còn cuối cùng kết quả tiếp theo trong lợi ích hiện tại là chứng quả vị Thánh nhân. Ở đây đức Phật chỉ nói một quả vị thôi.

*Chứng quả vị Thánh nhân

          Với tâm định tĩnh, thuần tịnh, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình thản như vậy.

          Quý vị nhớ nha! Ở đây là phải có tâm định tĩnh nè. Quý vị có tâm định tĩnh chưa? Thuần tịnh chưa? Không cấu nhiễm chưa? Không Phiền não chưa? Nhu nhuyến chưa? Dễ sử dụng chưa? Vững chắc chưa? Bình thản chưa? Hay gặp chuyện gì thì bắt đầu nhảy lên, cho nên Thiện Trang nói đa số người khi gặp chuyện gì là nhảy cẫng lên, bắt đầu phiền não, nên chưa định tĩnh được, chưa bình thản được. Hãy ráng tu, tu làm sao trơ ra, luyện làm sao trơ hết với mọi cảnh giới, thì quý vị sẽ thành công. Dù thuận cảnh hay nghịch cảnh, dù có chuyện gì đi chăng nữa cũng phải trơ ra. Giống như bữa coi mấy video Sư Minh Tuệ đọc đơn tố cáo hay đơn gì đó của bà đó, đọc xong mà cũng thấy ngài vui cười, bình thường. Phải cỡ như vậy, chứ không tự nhiên ai đó mà kiện mình rồi bực mình lên. Quý vị tu làm sao mà quý vị tỉnh bơ, tất cả mọi chuyện y như không. Quý vị phải làm được như vậy).

          Tỷ-kheo dẫn tâm, hướng tâm đến Lậu tận trí. Vị ấy biết như thật “đây là khổ”, biết như thật “đây là nguyên nhân của khổ”, biết như thật “đây là khổ diệt”, biết như thật “đây là con đường đưa đến khổ diệt”, biết như thật “đây là những Lậu hoặc”, biết như thật “đây là nguyên nhân của Lậu hoặc”, biết như thật “đây là sự diệt trừ các Lậu hoặc”, biết như thật “đây là con đường đưa đến sự diệt trừ các Lậu hoặc”. Nhờ hiểu biết như vậy, nhận thức như vậy, tâm của vị ấy thoát khỏi dục lậu[1], thoát khỏi hữu lậu[2], thoát khỏi Vô minh lậu[3]. Ðối với tự thân đã giải thoát như vậy, khởi lên sự hiểu biết: Ta đã giải thoát. Vị ấy biết: Sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, việc cần làm đã làm; sau đời hiện tại, không có đời sống nào khác nữa.

Đó là quả vị A-la-hán. Cho nên bây giờ quý vị muốn tu chứng A-la-hán, [thì phải làm đoạn] gia hạnh đằng trước: Với tâm định tĩnh, thuần tịnh, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình thản như vậy; rồi [tu] Tứ đế giùm: Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Phải biết như thật, chứ không phải biết kiểu như mình là chỉ biết [qua] nghe thôi, nghe nói khổ thì biết khổ, nhưng mai mốt khổ cũng không biết luôn. Rồi con đường diệt khổ là sao, nguyên nhân khổ là sao, các Lậu hoặc chính là mười Kiết sử, quý vị biết như thật chưa? Hay mười Kiết sử không biết luôn? [Biết] trật lất, [rồi] giảng cũng trật luôn, cho nên là không được đâu. Bao giờ biết như vậy rồi mới thoát khỏi Dục lậu, Dục lậu là Phiền não ở cõi Dục; thoát khỏi Hữu lậu, Hữu lậu là còn có Phiền não. Hữu lậu này là ở cõi Sắc và Vô sắc; thoát khỏi Vô minh lậu thì hết hoàn toàn, không còn Vô minh nữa. Lúc đó làm A-la-hán rồi thì tự mình biết: “Ta đã giải thoát. Vị ấy biết: Sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, việc cần làm đã làm; sau đời hiện tại, không có đời sống nào khác nữa”, tức là mình không còn luân hồi nữa.

Đó là quả báo hiện tại, đức Phật nói với vua A Xà Thế như vậy. Mình thì thấy mấy quả vị này hơi xa quá, thầy ơi khó quá. Mình không biết tu hành kiểu gì, mà sao những điều đức Phật dạy toàn là những lời rất đơn giản, rất bình thường, mà cuối cùng mình tu sao thấy khó quá. Tại vì sao? Vì mình không nhuần nhuyễn.

Thật ra nếu quý vị học được nền tảng kỹ càng, mình học chừng mười năm [thì sẽ] khác hẳn. Tại vì mình chưa học, mình mới vô nhưng mình thấy cũng đã rồi. Vấn đề là phải có người dẫn cho mình, chỉ cho mình, chứ Tam tạng kinh điển nhiều như vậy làm sao học hết được. Phải có người chỉ cho mình những phần trọng tâm để mình vào. Chứ không, quý vị ở tại gia thì bao giờ mới đọc hết được mấy bộ Kinh A Hàm, Nikaya, Vi Diệu Pháp, Luận Câu Xá, v.v… Đâu thể nào đọc hết được, phải có người chỉ dẫn.

Quý vị thấy Thiện Trang chỉ cho quý vị đâu có nhiều, bữa nay là buổi 21 mà các đồng tu kha khá một chút là theo kịp, các đồng tu chưa có nền tảng thì theo không nổi, phải từ từ. Nhưng những đồng tu tạm tạm thôi, vào là thấy 21 bài của bộ này đã thay đổi cuộc đời của mình. Vậy đâu có khó, học 100 bài là khác ngay.

Mà quý vị biết Thiện Trang là phàm phu, Thiện Trang chỉ là người nhiều Phiền não ở tại đời này, mà Thiện Trang chia sẻ như vậy. Nếu mình sanh ở thời đức Phật, mà mình nghe được 100 bài, đức Phật ngày nào cũng giảng như vậy mà không đắc đạo A-la-hán mới lạ. Đó là gì? Phàm phu như mình còn có thể chuyển đổi được, huống chi [thời đức Phật]. Quý vị học A Tỳ Đàm, quý vị học Luận Câu Xá, học Tâm sở rồi, thì quý vị thừa biết người nào có sân si hay không. Quý vị biết trong giọng nói của vị thầy đó có sân hay không, có bất mãn hay không? Bất mãn là có Tâm sở Sân, là chưa phải A-la-hán rồi. Biết người ta có phải là phàm phu hay không, biết liền.

Tất nhiên Sơ quả Tu-đà-hoàn thì chưa xác định được, Sơ quả, Nhị quả thì hơi khó, nhưng Tam quả là hết Ngũ Hạ phần Kiết sử rồi, quý vị đem Ngũ Hạ phần Kiết sử ra so là quý vị biết hết, bây giờ học Tâm sở là biết hết rồi, không ai lừa được hết. Cho nên chắc chắn không có ai dụ hoặc được quý vị hết. Không có [chuyện người ta] nói Thánh nhân rồi mình tin ầm ầm như ngày xưa, rồi nói Bồ-tát tái lai gì đó, A-la-hán gì đó, v.v… không tin đâu. Vì sao? Ta có nền tảng giáo pháp Như Lai, ta có kính soi của Như Lai. Không phải kính chiếu yêu đâu, mà đây là kính soi cả phàm phu lẫn Thánh nhân. Mình soi được hết và mình soi được tâm mình, soi được tâm người, và mình thấy con đường giải thoát gần.

Cho nên giá trị của bộ này học hay vậy, ai không học thì uổng mất nửa cuộc đời tu, thậm chí ¾ cuộc đời tu luôn đó, chứ không phải một nửa đâu. Bây giờ còn một chút thời gian Thiện Trang sẽ chia sẻ về Tâm sở, bữa nay ráng chia sẻ được bao nhiêu thì chia sẻ. Hôm nay Thiện Trang dùng chương trình để vẽ lại Tâm sở trong A Tỳ Đàm cho đẹp hơn, chứ thấy vẽ trong Word thấy đồng tu chia sẻ lên xấu quá, thấy xấu nên mình vẽ lại.

Ở đây 52 món Tâm sở thì có 13 Tâm sở Tợ tha chúng ta đã học, trong đó có 7 Tâm sở Biến hành, 6 Tâm sở Biệt cảnh. 7 Tâm sở Biến hành là: Xúc, Thọ, Tưởng, Tư, Nhất hành, Mạng quyền, Tác ý. Còn 6 Tâm sở Biệt cảnh là: Tầm, Tứ, Thắng giải, Cần, Hỷ, Dục. Hôm bữa mình đang học tới 14 Tâm sở Bất thiện. Thiện Trang thấy Bất thiện nên tô đỏ rực lên cho dễ [thấy]. 4 Tâm sở Bất thiện Biến hành gồm có: Si, Vô tàm, Vô uý, và Trạo cử, hôm bữa học rồi. Bữa nay chúng ta học tới 10 Tâm sở Bất thiện Biệt cảnh, gồm có:

1. Nhóm thứ nhất là nhóm Tham phần gồm có: Tham, Tà kiến và Ngã mạn. Tức là mấy thằng này luôn luôn có Tham đi chung với nhau. Ví dụ Ngã mạn là do tham về thân, tham danh, tham gì đó thì mới có Ngã mạn. Hoặc Tà kiến là cũng do Tham, có Tham đi theo nên gọi là Tham phần.

2. [Nhóm] thứ hai là Sân phần gồm có: Sân, Tật, Lận, Hối.

3. Nhóm thứ ba là nhóm Trì trệ và Do dự gồm: Hôn trầm, Thụy miên và Nghi. Ở đây chia ra Hôn trầm, Thụy miên là hai điều, còn lại là Nghi.

Sau này chúng ta sẽ học 25 Tâm sở Tịnh hảo. Bản này đẹp rồi, chúng ta sẽ nhìn thấy dễ hơn, bữa sau học tới đây sẽ vẽ tiếp. Hôm nay chúng ta học tới phần Tham, Tà kiến và Ngã mạn. Nếu có thời gian thì học hết, còn không thì học về Tham cũng được.

Ở đây Tâm sở Bất thiện Biệt cảnh gồm 3 nhóm: nhóm Tham phần, nhóm Sân phần, nhóm Trì trệ và Do dự.

II.B. Tâm sở Bất thiện Biệt cảnh gồm 10:

1.Tham; 2.Tà kiến; 3.Ngã mạn; (Nhóm Tham phần).

4.Sân; 5.Tật (Tật đố); 6. Lận (che giấu); 7.Hối (Hối hận) (Nhóm Sân phần).

8.Hôn trầm; 9.Thụy miên; 10.Hoài nghi; (Nhóm Trì trệ và Do dự).

Quý vị nhớ [Tâm sở] Biến hành và Biệt cảnh chưa? Biến hành là có trong tất cả các trường hợp tâm. Ví dụ như nhóm Tâm sở Bất thiện Biến hành thì 4 Tâm sở [Si, Vô tàm, Vô úy, Trạo cử] lúc nào cũng có. Quý vị muốn làm việc bất thiện thì quý vị phải có Si, phải có Vô tàm, Vô uý và Trạo cử. 4 Tâm sở này là chắc chắn phải có trong các việc bất thiện và ý nghĩ bất thiện. [Còn] nhóm [Tâm sở] Biệt cảnh thì có thể có, có thể không. Có lúc thì có Tham, có lúc không phải Tham mà do cái khác. Những vấn đề đó thì chúng ta nghiên cứu [sau], khi học hết rồi chúng ta sẽ đưa ra các ví dụ lúc nào thì như thế nào.

1. Tâm sở Tham: Tham là gì? Tham với Dục khác nhau. Ở trên kia mình học về Dục rồi, chứ không một hồi Dục và Tham lẫn lộn với nhau. Dục thuộc về [Tâm sở] Tợ tha, là mong muốn, có thể là mong muốn tốt hoặc là mong muốn không tốt, cho nên điều này là Tợ tha. Còn Tham định nghĩa như sau: Tham là sự ham muốn nhiễm đắm chấp cứng. Có nghĩa là ham muốn nhưng có nhiễm đắm và chấp cứng ở trong đó. Tham là sự khát khao mạnh mẽ về vật dục hay sự sung sướng, sự hạnh phúc trong Thiền.

Ở đây Tham là sự khát khao mạnh mẽ về vật dục, có nghĩa là những mong muốn về vật chất; hay là sự sung sướng, sự hạnh phúc trong Thiền. Ngay cả trong Thiền quý vị vẫn có Tham, chứ không phải mình tu, mình ngồi trong Thiền thấy đã đã, dễ chịu quá, rồi mình muốn ngồi Thiền hoài thì cũng là Tham. Tại vì sao? Quý vị tham là tham Thiền định. Cho nên định nghĩa Tâm sở Tham rộng hơn.

Tham sẽ không bao giờ từ bỏ thực tính khát khao, nên mọi người cố gắng sở hữu lấy, chiếm lấy. Ví dụ quý vị thích Iphone 16, mà phải có cho bằng được Iphone 16. Cho nên ở Việt Nam mặc dù nghèo nhưng chơi sang, 30 mấy triệu cũng được, ráng nhịn ăn, ăn mì gói một, hai tháng gì đó để mua Iphone. Đó là Tham, cho nên khổ thôi.

Rồi sự sung sướng là gì? Là sung sướng trong dục của thế gian. Ví dụ như vì thích cô đó, mong cô đó, cho nên theo đuổi, mua bao nhiêu quà cáp, dẫn đi ăn chè v.v… rồi rước về nhà cho bằng được, cho nên khổ. Đó là những nỗi khổ, vì tham nên khổ.

Rồi tham trong Thiền, tu Thiền đắc được Sơ thiền hay Vị đáo định gì đó, thấy an an rồi lo ngồi thiền suốt, không chịu học pháp. Tại vì mình muốn chiếm hữu nó nên dính mắc, dính mắc đó mới là Tham. Còn chúng ta tu Thiền định cũng có an lạc, nhưng chúng ta biết Thiền này không phải là rốt ráo, chỉ là Thiền vui vui, an lạc thôi, nên sẵn sàng bỏ. Ta không dính chấp vào đó thì không phải là Tham. Tham là dính mắc, quan trọng là từ “dính mắc”, “chấp cứng”, “muốn chiếm hữu”, thì đó là Tham.

Vậy [quý vị] có Tham không? Tâm sở [Tham] này nhiều lắm. Đảm bảo chúng ta ở Dục giới thì Tâm sở Tham nhiều lắm. [Tham] là khát khao mong muốn hướng tới tìm những điều mới. Tức là tâm này luôn luôn mong muốn tìm đến những điều mới. Do đó chúng sanh không thể thực sự được hạnh phúc nếu không đoạn trừ Tham. Vì sao? Người ta nói là ‘lòng tham không đáy’, bởi vì có điều này rồi lại muốn điều kia.

Ở đời, thời xưa kêu: “Một túp lều tranh, hai trái tim vàng” là được rồi. Nhưng không! Về sau phải có xe đạp, rồi lên đời mua xe máy, xe máy chưa xịn nên phải mua xe máy xịn hơn. Rồi xe máy xịn hơn chưa được, phải mua ô tô. Ô tô chưa đủ phải có nhà to, nhà một lầu chưa đủ phải hai lầu, ba lầu, bốn lầu mới được. Rồi có máy bay mới được, máy bay cũng chưa được phải có thêm nữa. Nói chung là không bao giờ dừng, vì không bao giờ dừng cho nên không bao giờ hạnh phúc. Quý vị không bao giờ hạnh phúc hết, người biết hạnh phúc là người biết ‘tri túc thường lạc’. Đức Phật dạy là biết đủ thì thường vui. Trong Kinh Di giáo đức Phật cũng nói: “Tri túc chi nhân, [tuy ngọa địa thượng du vi an lạc]” tức là người biết đủ thì tuy nằm trên đất cũng vẫn an lạc. Còn người không biết đủ thì dù ở trên thiên đường cũng không vừa ý. Đó là trong Kinh Di giáo của Hán tạng.

Cho nên rõ ràng, thực tính này là dính mắc, bám dai dẳng vào vật dục hay Thiền, và sự sung sướng, hạnh phúc cả trong Thiền và bình thường. Trong Vi Diệu Pháp đưa ra một ví dụ giống như con khỉ bị dính keo, do thợ săn biết con khỉ thích keo nên bôi keo lên cây. Keo đó khi có ánh nắng chiếu vào thì tỏa ra ánh sáng lấp lánh, con khỉ thấy đẹp nên chạy tới để tay vô, thì bị dính tay này, nó tiếp tục để tay kia thì bị dính tay kia, nó dúi đầu vô thì dính luôn và cuối cùng nó bị bắt.

Đấy là do tham, càng tham thì càng dính vô. Tại vì thích nên khổ, cho nên ở đời thường khổ là do mình tham. Quý vị muốn không khổ thì bớt tham, tham gì cũng khổ, mong được tiếng cũng khổ. Nói chung đừng có mong muốn gì, không có dính mắc. Cho nên ở đời hãy tùy duyên, có cũng được, không có thì thôi. Chứ nhiều người nói không có gì hết, không có thì cũng khổ. Mà mình có, nhưng vừa phải và xứng đáng, đừng cố đeo đuổi điều gì để khổ, gọi là ‘tri túc thường lạc’, là biết đủ thường vui.

Để nhìn ra Tham là khi có sự ham, sự muốn, sự rất muốn, dục vọng, yêu mến, rất yêu mến, và khi nào có những bất thiện như thế thì trong đó có Tham. Quý vị thấy mình muốn cái gì đó quá là Tham, điều đó dễ nhìn nhất. Rất muốn nhưng mình phải xét coi. Cho nên có những cái phải vừa phải, tức là mình sống trung đạo thôi, đừng chấp quá rồi cuối cùng khổ, làm sao đó sống vừa phải là được.

Tâm sở Tham có bốn ý nghĩa: 1. Thứ nhất là trạng thái chấp cứng cảnh: tức là mình thích chấp cảnh đó. 2. Phận sự là dính mắc vào cảnh. 3. Thành tựu là không buông cảnh, tức là mình cố gắng cầm giữ lấy cảnh đó. 4. Nguyên nhân chủ yếu nhất là thấy các pháp cảnh truyền và cho rằng đáng ưa thích, và tâm hiệp thế (hợp với Thế gian), Tâm sở là Sắc pháp. Điều này không rõ lắm, nói đơn giản là mình thấy cảnh ưa thích quá cho nên mình chạy theo nó.

Nếu Tham trong Tập đế của Tứ đế thì có ba kiểu: 1. Một là thích hiện hữu, ví dụ như mình không chịu nhập Niết-Bàn, mình kêu phải có thân hình này mới sướng, phải có thế này thế kia, đó là thích hiện hữu; 2. Thứ hai là thích sở hữu, cái gì cũng muốn chiếm lấy; 3. Thứ ba thích hưởng thụ, đó là tham ái.

Còn kể theo cảnh giới thì có: tham ở Dục giới, tham ở Sắc giới, và tham ở Vô sắc giới. Cho nên phải đến Tam quả A-na-hàm mới hết tham, diệt được tham rồi, vì diệt được Ngũ Hạ phần Kiết sử rồi mà, tập khí còn thôi nhưng đỡ rồi. A-la-hán thì hết hoàn toàn.

Tại sao gọi [Tham] là Tâm sở Biệt cảnh? Biệt cảnh là có lúc mình không có tâm Tham, ví dụ như quý vị có lúc mình từ bi, bố thí. Hay quý vị cung kính một vị thầy nào đó, mình cúng dường nhưng đâu mong cầu được quả báo gì đâu. Hoặc mình thấy người ta nghèo quá mình bố thí, mình từ bi bố thí chứ không mong cầu gì trong đó. Đó là không tham. Hoặc có những việc làm bất thiện là vì mình ghét người đó quá, mình tức mình chửi gì đó, v.v… thì mình đâu có tham, chỉ ghét thôi, đó là sân. Hoặc lúc bất thiện có trạng thái hôn trầm, buồn ngủ, thì có tham gì đâu. Có những trạng thái như vậy nên nó là Biệt cảnh, tức là lúc có, lúc không.

2. Tâm sở Tà kiến: Tà kiến dịch là mê tín. Tà kiến là sự nhận định hay cố chấp theo pháp sai, không đúng với chân lý bản thể thật. Có nghĩa là mình nhận định một điều gì đó rồi chấp theo nó, nhưng điều đó không đúng với thực tế, thì đó là Tà kiến. Và Tà kiến là sản phẩm phụ của Tâm sở Si. Si là [Tâm sở] Bất thiện Biến hành, sinh ra Tà kiến. Vì nếu quý vị không si thì làm sao mà tà kiến được. Quý vị có trí tuệ, quý vị biết đúng rồi, thì quý vị chấp cái đúng chứ đâu chấp cái sai.

Quý vị nhớ Tâm sở Si không? Nói đơn giản Si là không rõ ràng, không hiểu biết về Tứ đế, gọi là Si. Tứ đế là Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Giống như Thế gian vô thường mà mình cho là thường, đó là Si. Đời người là giả tạm, đứa con đâu phải là con mình, nhưng mình cứ cho là con mình, cho nên đó là Si. Và mình chấp giữ những điều đó thì gọi là Tà kiến. Sự nhận thấy sai so với Chánh pháp gọi là Tà kiến. Đơn giản vậy thôi! Tức là do mình si nên sanh ra Tà kiến.

Liên hệ giữa [Tâm sở] Si, Tham và Tà kiến, ví dụ Tâm sở Si ở trên là che mù đi ý chí, làm mù Pháp nhãn, không thấy được thực tính của Pháp. Si làm cho chúng ta thấy các pháp là thường, lạc, ngã, tịnh. Ví dụ như mình thấy mình còn sống lâu dài là thường, thế gian có biến đổi đâu, đời vui mà, đâu thấy đời khổ. Rồi mình thấy mình làm chủ được cuộc đời, cho nên mình có ngã. Rồi mình thấy cũng thanh tịnh chứ không thấy Khổ, Vô thường, Vô ngã, thì đó là Si. Mình nhận thấy Thế gian như vậy.

Cho nên ở đời quý vị thấy người si nhiều không? Đa số không học Chánh pháp Như Lai thì si thôi. Đâu có mấy ai không học mà thấy cuộc đời chán đâu, [thấy] Khổ, Vô thường, Vô ngã đâu. Mấy người [không học mà thấy] đó chắc là chủng tánh giác ngộ rồi, [chẳng qua] chưa gặp Phật pháp thôi, [nhưng] trước sau gì cũng chứng quả Độc giác Bích-chi-phật.

Bởi Tà kiến này nên Tham bám dai dẳng, dính mắc vào ta hay người, và Tà kiến nhận định sai cho ta và người thực sự hiện hữu. Tức là Tà kiến làm mình nhận định là ta luôn luôn hiện hữu v.v… Thực ra có đoạn kinh nói rất hay, nhưng hôm nay không kịp giờ, thôi để bữa khác dẫn cho quý vị nói về nhận định ta và người như thế nào.

Tà kiến là căn bản và phổ biến nhất của Thân kiến và Ngã kiến. Cho nên Tà kiến dẫn đến Thân kiến và Ngã kiến. Quý vị có biết Thân kiến và Ngã kiến là khác nhau không? Có nhiều người không hiểu Thân kiến và Ngã kiến khác nhau ở chỗ nào. Thân là thân Ngũ uẩn: Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức, mình chấp có mình ở trong đó, Sắc này là ta, thân thể này là ta, ta ở trong đó, ở trong đó có ta. Rồi mình chấp thêm Thọ, Tưởng, Hành, Thức, tương tự như vậy. Đó là Thân kiến.

Còn Ngã kiến là mình tin có một sự hiện hữu của một cái ngã hay một linh hồn, hay một bản thể, thực thể ở trong thân. Ví dụ chưa chắc mình chấp vào thân mình, nhưng mình chấp là: Tôi bỏ thân này là tôi có một linh hồn, tôi lên cõi nào đó v.v… Sự chấp đó vẫn là một Ngã kiến. Nhiều người nói sao Ngã kiến khó vậy thầy? Đúng rồi, A-la-hán đâu có chấp như vậy nữa, cho nên các ngài mới ra khỏi. Ngã kiến sâu hơn nữa, nên gọi là Vô minh kiết ở trong Ngũ Thượng phần Kiết sử, cho nên khó. Bây giờ mình diệt được Thân kiến là may rồi.

Và hai nhận định đó đều thuộc về Tà kiến, cho nên Tà kiến khó lắm. Thân kiến cũng là một trong 10 Kiết sử, và chỉ bỏ được khi quý vị tới Thất lai đạo, tức là Sơ quả Tu-đà-hoàn mới hết, cho nên khó. Còn Ngã kiến thì A-la-hán mới diệt được, mới Vô ngã được.

Hôm nay hết giờ rồi, để bữa khác [Thiện Trang] giảng tiếp, kiến thức hôm nay cũng đã quá nhiều rồi. Chúng ta coi lại 52 món Tâm sở trong A Tỳ Đàm. Bữa nay [Thiện Trang] giảng rõ ràng, [quý vị] chụp lại hình này để coi. Nhớ là chúng ta đang học đến Tà kiến, và sau đó đến Ngã mạn, thì nhóm này là nhóm Tham phần.

Thời gian hôm nay cũng hết rồi, hẹn quý vị vào lúc khác, Thiện Trang sẽ chia sẻ mỗi bữa một chút. Hy vọng chúng ta học, mọi người đều cảm thấy hoan hỷ, an lạc. Thiện Trang chỉ cố gắng chia sẻ với quý vị, quý vị nghe được thì nghe, không nghe được thì thôi. Thiện Trang nói với quý vị, Thiện Trang không mong cầu gì ngoài mong quý vị sớm giác ngộ, sớm đắc đạo giải thoát, sớm ra khỏi sanh tử. Quý vị làm được như vậy là tốt rồi. Ai đi được thì đi, ai nghe được thì nghe, Thiện Trang không mong cầu gì hết, ai có duyên thì nghe, chứ không phải Thiện Trang giảng để cầu điều gì.

Chúng ta học tới đây, quý vị cũng học được 20 bài vừa rồi, bài hôm nay bài 21, thì chả ai dại gì đọa lạc trong sanh tử luân hồi, chẳng ai dại tham, sân, si gì hết, chỉ có mình làm chưa được thôi chứ mình đều cố gắng. Thiện Trang tin là quý vị đều như vậy, cho nên quý vị cũng nghĩ Thiện Trang như vậy. Thiện Trang là người chia sẻ cho quý vị, chẳng lẽ nào mình dại, bán thuốc cho người mà mình không uống, nấu món ăn ngon cho người ta mà mình không ăn. Quý vị cứ ráng học đi. Hôm nay chúng ta hồi hướng tại đây:

“Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ

Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn

Pháp môn vô lượng thệ nguyện học

Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành”.

“Nguyện đem công đức này

Hướng về khắp tất cả

Đệ tử cùng chúng sanh

Đều trọn thành Phật đạo”.

Nam Mô A Mi Đà Phật!