Responsive Menu
Add more content here...

Luận Câu Xá – Phẩm 1 – Buổi 22

Giảng Ký A Tỳ Đạt Ma Câu Xá Luận (A Tỳ Đàm – Vi Diệu Pháp – Duy Thức Pháp Tướng) – Tạo Luận: Tôn giả Thế Thân – Dịch và Chú Thích: Tam tạng Pháp sư Huyền Trang – Bài 22: Phẩm 1 – Phân Biệt Giới – Buổi 22.

Giảng giải: Thầy Thích Thiện Trang

Giảng ngày: 18.12.2024

Phát trực tiếp trên Kênh YouTube Thích Thiện Trang

https://www.youtube.com/watch?v=WvkNcgD5owc

mạng xã hội Facebook, Fanpage Thích Thiện Trang:

https://www.facebook.com/suthaythichthientrang

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật!

          Nam Mô A Mi Đà Phật!

          Kính chào toàn thể quý vị đồng tu! Hôm nay [là] thứ Tư, chúng ta học bộ Luận Câu Xá, hôm nay là bài 22. Đầu tiên Thiện Trang xin giới thiệu một khai thị ở trong kinh. Mời quý vị theo dõi:

Khai Thị Về Vô Thường

Này các Ma-nạp ma, thực là kỳ lạ, thực là kỳ lạ? Sanh mạng con người thực quá ngắn ngủi, phút chốc đã qua đời khác. Do đó, cần phải làm các việc lành, cần tu Phạm hạnh, vì đã sanh ra thì không thể không chết. Thế nhưng người đời nay đối với việc làm đúng pháp, việc làm hợp lẽ, việc thiện, việc tốt lại không thực hành, cũng không cầu mong”.

          Đoạn này là một đoạn khai thị ở trong Kinh Trung A Hàm. Đây là đức Phật đang kể về một câu chuyện từ đời trước, tức là tiền thân của Ngài, Ngài là một vị Đạo sĩ dạy cho các người Đệ tử của mình. Ngài khai thị cho những người Đệ tử Vô thường là như thế nào? Đây chính là khai thị trong đời quá khứ, chứ không phải khai thị [ở] đời hiện tại của đức Phật. Tuy nhiên chúng ta có thể xem, khai thị này rất hay.

Sanh mạng đời người thì thực sự là quá ngắn ngủi, phút chốc là đã qua đời khác. Quý vị nhớ giùm câu này, thì chúng ta bớt Phiền não ở thế gian. Ở thế gian mình có nhiều Phiền não, là do mình không nhìn thấy được sự Vô thường. Cho nên cần phải làm các việc lành, việc tốt (việc thiện), và cần tu Phạm hạnh. Vì đã sanh ra thì không thể nào không chết, chắc chắn sẽ có ngày chúng ta chết. Đó là điều chắc chắn, cho nên đoạn khai thị này rất quan trọng.

Chúng ta chỉ cần nhớ đoạn: “Sanh mạng con người thực quá ngắn ngủi, phút chốc đã qua đời khác. Do đó, cần phải làm các việc lành, cần tu Phạm hạnh, vì đã sanh ra thì không thể không chết”. Đã sanh ra thì chắc chắn sẽ chết, đừng có trốn. Đừng nói là đức Phật nói bi quan, bi lụy quá, hoặc thầy Thiện Trang suốt ngày cứ hù chết. Thực tế là vậy! Dù muốn hay không, dù thế nào đi chăng nữa thì cũng đến ngày đó thôi.

“– ‘Này các Ma-nạp ma, giống như dệt vải, thêm một hàng chỉ ngang là thêm một phần gần thành, gần xong; cũng vậy, này Ma-nạp ma, mạng sống con người như vải dệt gần xong, khó giữ được, rất ít, quá ít vị ngọt, mà đau khổ, tai hoạn lại lớn, tai hoạn quá nhiều!’

(Trích Từ Kinh Số 160 – Kinh A-Lan-Na Thuộc Trung A Hàm).

Tức là đức Phật đưa ra một hình ảnh để ẩn dụ, đó là dệt vải. Chắc ngày xưa người ta sẽ cảm nhận được rõ hơn, [khi] dệt vải thì người ta đan các đường chỉ dọc trước, sau đó đan các đường chỉ ngang, cứ [lần lượt như vậy]. Cứ thêm một đường chỉ [ngang] như vậy, thì tấm vải dệt đó sẽ mau thành hơn. Đức Phật khai thị: Cứ thêm một sợi chỉ dệt vải, thì miếng vải sắp thành. Cũng vậy, mạng người cứ thêm một chút thời gian nữa, là cũng thấy sắp đi. Cuộc đời khó giữ được lắm, quá ít vị ngọt, mà đau khổ và những hoạn nạn (tai nạn, khổ nạn) thì nhiều.

Hôm nay cũng vào dịp cuối năm của năm dương lịch rồi, hôm nay là ngày 18/12, thoáng cái là hết năm 2024 rồi, chúng ta chuẩn bị bước sang năm 2025. Tuổi âm, tuổi dương gì thì mỗi người cũng cộng thêm một tuổi nữa, tặng thêm trên đầu một tuổi nữa. Người nào hồi xưa tự hào là em vừa tròn 18, thì bây giờ thành 19 rồi, người nào U30 thì nhiều khi chuẩn bị bước sang U40. Cứ thế cộng thêm một tuổi nữa, và không biết từ bao giờ mình đã già.

Thiện Trang thấy cuộc đời thoáng chớp mắt mấy chục năm qua rất nhanh. Ngày xưa [còn] nhỏ mình xem thường lắm, tại mình nghĩ cuộc đời rất dài. Nhưng càng về sau thì cảm nhận hình như cuộc đời ngắn quá, và mình cảm thấy thời gian là không đủ. Tức là mình không có đủ thời gian để học tập, để tu tập, và để làm nhiều điều mình mong muốn. Nhiều khi lâu lâu coi những khai thị này thì có chút cảm động. Vì nhận thấy đúng là cứ thêm một hàng chỉ ngang là thêm một phần gần thành, gần xong trong [việc] dệt vải. Cũng vậy, trong mạng sống con người thêm một ngày nữa, thêm một tháng nữa, thêm một năm nữa, thì cũng giống như mình sắp từ giã cõi đời này càng gần hơn.

Có vị đồng tu hỏi Thiện Trang rằng: “Thưa thầy, chúng con muốn nghe bộ Kinh Nikaya và Kinh A Hàm theo sự giới thiệu của Thầy. Vậy thì nên nghe bộ nào trước? Bởi vì Kinh Nikaya và Kinh A Hàm nhiều quá”. Quý vị biết [Kinh] A Hàm thì có bốn bộ: Trung A Hàm, Tạp A Hàm, Tăng Nhất A Hàm, Trường A Hàm; [còn Kinh] Nikaya [có] năm bộ: Trường Bộ Kinh, Trung Bộ Kinh, Tăng Chi Bộ Kinh, Tiểu Bộ Kinh, một bộ nữa Thiện Trang nhất thời quên mất [Tương Ưng Kinh]. Năm bộ Nikaya tương đương như vậy, thực ra hai bộ đó cũng ngang ngang nhau thôi. Nhưng nếu quý vị học thì Thiện Trang khuyên là: quý vị hãy bắt đầu từ bộ Trung A Hàm. Tại vì bộ Trung A Hàm có nhiều pháp hành nhất, nhiều khai thị về Vô thường nhất, và nhiều vấn đề hay nhất nằm ở [bộ] Trung A Hàm.

Thiện Trang thích nhất bộ Trung A Hàm. Trung A Hàm cũng gần gần, tương đương với Trung Bộ Kinh, nhưng Trung Bộ Kinh bên Nikaya thì ít kinh hơn, nếu xét về trung là không bằng. Còn nếu xét về nhiều bộ kinh thì Kinh Tiểu Bộ có nhiều câu chuyện hơn, thì quý vị có thể coi. Quý vị có thời gian thì nghe đi [để] thấy đời vô thường, cứ suốt ngày vô thường, mà có rất nhiều pháp hành. Như vừa rồi là một đoạn khai thị về Vô thường, cứ thỉnh thoảng mấy bộ là lại nhắc Vô thường. Cho nên nền tảng A Hàm và Nikaya cực kỳ quan trọng là vậy. Nếu mình không học Vô thường thì mình không biết được.

Kinh điển thì quá nhiều, chúng ta muốn học, muốn biết thì phải làm sao? Tùy căn tánh! Nếu quý vị có căn tánh tốt thì quý vị học đơn giản cũng sẽ vào, nhưng nếu quý vị có căn tánh không tốt thì phải chia chẻ ra. Ở trong Tiểu Bộ Kinh, chuyện tiền thân, đức Phật có đưa ra một ví dụ: Có một vị Tỳ-kheo đến xin đức Phật: “Con xin phép hoàn tục, bởi vì Giới luật của Phật nhiều quá, con không thể nào hành trì được”. Tức là có vị Tỳ-kheo xin hoàn tục, thì đức Phật hỏi tại sao. Người ấy nói là tại vì Giới của Ngài đưa ra nhiều quá, con không nhớ được. Quý vị biết giới Tỳ-kheo có 250 giới theo Bắc truyền, Nam truyền là 227 giới, nhiều quá nên không nhớ được. Cho nên ngài ấy cảm thấy làm không được, thôi xin phép hoàn tục.

Đức Phật nói: “Nếu bây giờ Ta không cho nhiều như vậy, ông chỉ giữ ba điều thôi được không?” Ngài [ấy] nói: “Ba điều thì chắc con làm được”. Đức Phật nói: “Vậy thì giờ ông chỉ cần giữ ba nghiệp: nghiệp thân, nghiệp khẩu, nghiệp ý. Không cần phải giữ tất cả các giới kia. Làm sao thân, khẩu, ý luôn luôn tốt, thanh tịnh là được”. Vị Tỳ-kheo đó về hành trì có bao nhiêu đó thôi, thời gian sau thì đắc quả A-la-hán.

Các vị Tỳ-kheo khác mới hỏi đức Phật: “Bạch đức Thế Tôn, tại sao một người chỉ cần [giữ] như vậy thôi cũng có thể đắc A-la-hán?” Đức Phật nói thật ra tổng cương lĩnh chỉ có bao nhiêu đó thôi, giữ ba nghiệp thân, khẩu, ý. Nhưng vì tổng thì nặng, [còn] chia càng nhỏ ra thì càng dễ làm. Giống như thời xưa, tiền thân [của Ta] gặp được khối vàng lớn, thay vì Ta mang không nổi thì ta chia ra làm bốn phần, thì nhẹ nhàng [nên] mang được. Cũng vậy, nếu giáo pháp của Phật quá rộng, quá lớn, gom lại nói một điều gì quá cao siêu, thì thay [vào đó] chúng ta học chia chẻ ra. Chia chẻ chính là những bộ như Vi Diệu Pháp, A Tỳ Đàm, hay Luận Câu Xá, gọi là học chia chẻ ra.

Mai mốt mình học vào phẩm Hiền Thánh, quý vị sẽ thấy là riêng các địa vị Thánh thôi mà chúng ta học cả một phẩm rất dài. Mà phải học phẩm Phiền Não đằng trước đó nữa. Ví dụ hôm qua có đồng tu hỏi Thiện Trang cho xin phần Tứ gia hạnh (Noãn, Đảnh, Nhẫn, Thế Đệ Nhất Vị). Thiện Trang copy chụp hình sơ sơ mấy trang giấy mà vẫn chưa đủ, chỉ là một phần thôi. Thiện Trang thấy nhiều quá sợ người ta đọc không được nên gửi bấy nhiêu thôi, mà thấy khó chứ không phải dễ. Cho nên những bộ Duy Thức như thế này cần phải có người thông suốt để giảng.

Chúng ta cứ từ từ học, Phật pháp vô biên, càng học chi tiết bao nhiêu thì càng dễ tu bấy nhiêu. Vì mình tu giống như đi con đường từ Hà Nội vào Thành phố Hồ Chí Minh. Người ở trong kia gọi [hỏi]: “Đến chưa? Đến chưa?” Kêu “Chưa! Chưa đến gì hết, còn lâu lắm, đợi hoài không thấy”. Nhưng nếu cứ đi được một chút, xong rồi người ta hỏi đến chưa, thì mình nói đến được Huế rồi, chút sau nói đến được Quảng Ngãi rồi, một thời gian sau nói đến Nha Trang rồi, đến Đồng Nai rồi, v.v… Vậy thì gần tới rồi đó. Mỗi lần một nấc đến, là mình cảm thấy mình đã đi qua được một đoạn đường.

Cũng vậy, nếu học bộ Luận Câu Xá này hay bộ A Tỳ Đàm này, thì quý vị sẽ cảm thấy hình như dễ hơn rất nhiều. Tại vì mình đi được một đoạn là hình như mình đã bước được một bước rồi. Vì Tứ gia hạnh vị thì còn dễ hơn nữa, quý vị chỉ cần tới Nhẫn vị thôi là quý vị không đọa ác đạo rồi. Cho nên là dễ hơn. Còn Tùy pháp hành, Tùy tín hành là đằng sau nữa. Tức là đằng sau Tứ gia hạnh một hồi mới tới Tùy tín hành, Tùy pháp hành. Mà Tùy tín hành, Tùy pháp hành là mình đã thấy dễ rồi, bây giờ có những địa vị đằng trước dễ hơn nữa. Đằng trước Tứ gia hạnh vị còn có những địa vị khác nữa, dễ hơn rất nhiều. Cho nên mình cảm thấy mình đi tới đâu thì có thành tựu tới đó, mình đi tới đâu, mình có đạt được tới đó, thì quý vị sẽ yên tâm hơn.

Khi mình đã vào được như Tứ gia hạnh thôi là quý vị sắp ra khỏi sanh tử rồi, [sanh tử] mình cũng có hạn kỳ. Ví dụ vô Noãn vị thì chắc chắn sẽ chứng Niết-Bàn, trước sau gì cũng đắc quả Thánh thôi. Tức là chỉ cần địa vị đầu tiên là Noãn vị trong Tứ gia hạnh thôi, là ngon rồi. Cho nên mình tu là mình thấy, và mình phải học tiêu chuẩn đó là gì, làm theo đó là gì, mình đoạn Phiền não nào, v.v… Chứ mới vô mà bắt quý vị [đạt] Sơ quả Tu-đà-hoàn thì khó quá.

Tại vì quý vị biết tiêu chuẩn Sơ quả Tu-đà-hoàn là phải phá Thân kiến, Giới cấm thủ và Nghi. Và người đó giống như trong Kinh Nikaya có một bộ kinh cũng ví dụ về núi (bữa trước có người nào đó trích, nhưng trích không đúng bộ kinh đó, có hai bộ kinh ví dụ về núi), đức Phật lấy ví dụ giống như lấy bảy hòn đá đặt trên núi Tu Di, thì so bảy hòn đá đó với núi Tu Di thế nào? Các vị Tỳ-kheo nói: “Bạch đức Thế Tôn, bảy hòn đá đó so với núi Tu Di không là gì hết”. Đức Phật [nói]: “Cũng vậy, một người mà chứng Sơ quả Tu-đà-hoàn thì Phiền não của họ còn ít giống như bảy hòn đá, còn Phiền não mà họ đã đoạn được giống như núi Tu Di vậy”.

Tức là tới Sơ quả Tu-đà-hoàn là cỡ đó, cho nên mình thấy khó là đúng. Bởi vì Phiền não mình nhiều như núi Tu Di, mà đoạn còn có bảy hòn đá thôi thì mới chứng Sơ quả Tu-đà-hoàn. Cho nên thấy là quá khó.

Nhưng nếu mình học, mình thấy có những quả vị trước đó không tới mức đó, thì thấy dễ hơn. Chúng ta thấy tới đó là ngon rồi, ví dụ quý vị tới Noãn vị thì cũng ít đọa ác đạo rồi, thậm chí có những vị trí khác đỡ [hơn nữa]. Còn hồi xưa mình thấy chúng sanh giống như rùa mù gặp bọng cây, thì thấy khó quá. Nếu mình tu kha khá thì không đến nỗi rùa mù gặp bọng cây trên biển đâu. Cho nên từ đó quý vị yên tâm.

Sau khi chúng ta học những phẩm vị đó, chúng ta thấy hình như mình tới đó, nhiều khi vậy đó! Từ đó mình tự tin hơn trên con đường lộ trình giải thoát. Chứ còn không thì mình cứ bi quan, bi lụy, sợ, tại vì mình không biết mình đang ở đâu. Giống như một người đi từ Hà Nội tới Thành phố Hồ Chí Minh, họ không biết họ đang đi ở đâu, họ kêu không biết bao giờ tới, vì con đường chưa bao giờ đi. Nhưng nếu họ có bản đồ, bữa nay tới Nghệ An, bữa nay tới Quảng Bình, bữa nay tới Huế rồi đây, là mình biết con đường mình đi cũng có ngày đến. Có nghĩa là mình đã đi được một đoạn, thì niềm tin của mình đối với Phật pháp sẽ mạnh hơn, đối với chính mình sẽ mạnh hơn, và sự an lạc cũng theo đó mà đi theo.

Tiếp theo có một cách nói về con đường giải thoát nữa, cũng là trích trong kinh:

Con Đường Giải Thoát

“Ở đây tôi là Bà-la-môn. Sa-môn là dòng Sát-lợi. Nhưng Sa-môn, Bà-la-môn đều chung một con đường, tìm cầu một giải thoát như nhau. Sa-môn có thừa nhận chúng ta cùng một con đường chăng?”

Ở đây có một ông Bà-la-môn tới hỏi đức Phật. Đoạn kinh này quá dài nên Thiện Trang không trích, nói chung tới chất vấn đủ thứ, nhưng đoạn lúc này là ổng hỏi (đức Phật): Tôi cũng là Bà-la-môn, Sa-môn. Vậy chúng ta có cùng một con đường (tức là con đường giải thoát) không?

Đức Phật bảo Bà-la-môn: “Ông có thấy vậy chăng?”

Bà-la-môn đáp: “Tôi thấy như vậy”.

Đức Phật bảo: “Ông hãy khởi tâm ý hướng về một giải thoát duy nhất, đó là Chánh kiến”.

Hôm nay mục tiêu của đoạn này là Thiện Trang giới thiệu cho quý vị một giải thoát, đó là Chánh kiến. Bây giờ Chánh kiến là gì? Chúng ta suốt ngày hay nói Bát chánh đạo, tóm lại Chánh kiến là gì? Bữa sau Thiện Trang sẽ giới thiệu Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, v.v… mình sẽ học hết. Những điều này [là] căn bản mà.

Bà-la-môn bạch đức Phật: “Chánh kiến tức là một giải thoát duy nhất, hay còn có giải thoát nào nữa?”

Đức Thế Tôn nói: “Còn có giải thoát khác nữa, để đắc Niết-Bàn. Sự ấy có tám. Đó là Chánh kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh tấn, Chánh niệm, Chánh định. (Chúng ta biết Bát chánh đạo nằm ở đây). Bà-la-môn, đó là đạo có tám chi dẫn đến Niết-Bàn”.

Cho nên khẳng định tu để đến Niết-Bàn phải có tám điều này: Chánh kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh tấn, Chánh niệm, Chánh định. Mỗi vị sư giảng thông thường đưa ra một định nghĩa khác nhau. Định nghĩa này có trong kinh, nên Thiện Trang xin giới thiệu cho quý vị lần lượt Bát chánh đạo này theo trong kinh.

Bà-la-môn hỏi: “Có chúng sanh nào biết được đạo tám chi này không?” (Tám chi này quan trọng như vậy [thì] có chúng sanh nào biết không?)

Đức Phật nói: “Số ấy không chỉ một trăm nghìn. Bà-la-môn, nên biết, có vô số trăm nghìn chúng sanh biết đạo tám chi ấy”. (Chúng ta chắc cũng biết đúng không? Cũng may mắn).

Bà-la-môn hỏi: “Có hạng chúng sanh nào không hiểu được đạo tám chi này chăng?” (Có hiểu không? Chắc chúng ta chưa hiểu đó).

Đức Phật nói: “Hạng chúng sanh không hiểu, không phải chỉ một người”. Tức là rất đông. Cho nên mình không hiểu cũng [đúng].

Sẵn ở đây giới thiệu tiếp, cũng bộ kinh đó:

11 Hàng Chúng Sanh Không Đắc Đạo

          Mình phải tránh, cố gắng né điều này, tại vì không đắc đạo mà.

Bà-la-môn hỏi: “Có hạng chúng sanh nào không thể đắc pháp này chăng?”

Đức Phật nói: “Cũng có hạng chúng sanh không đắc đạo. Hạng người ấy có mười một. Những gì là mười một? Đó là: (1) gian ngụy, (2) ác ngữ, (3) khó can gián, (4) không biết đền trả, (5) hay ganh tị, (6) giết cha mẹ, (7) giết A-la-hán, (8) đoạn thiện căn, (9) việc thiện trở lại làm ác, (10) chấp có ngã, (11) khởi ác niệm nhắm đến Như Lai. Bà-la-môn, đó là mười một hạng người không thể đạt đến đạo tám chi này”.

Đây là đoạn khai thị rất quan trọng. Tại vì sao? Nếu chúng ta rơi vào 11 hạng người này thì chúng ta không thể nào đắc đạo được. Mình phải tránh!

1. Gian ngụy: Gian ngụy là thế nào thì chắc quý vị cũng biết rồi đúng không? Ngụy là ngụy quân tử, dối trá. Gian là gian xảo, dối trá. Như vậy nếu tu hành mà gian xảo, dối trá thì không đắc đạo được đâu.

2. Ác ngữ: Ác ngữ là những lời [nói], viết, v.v… ác.

3. Khó can gián: Người này tính tình ngang bướng quá, nói không nghe, khó can gián. Họ thích làm gì thì họ làm thôi.

4. Không biết đền trả: Đây là những người vô ơn, không biết đền trả, thì điều này không được.

5. Hay ganh tị: Tính hay ganh tị là cũng không được đắc đạo.

6. Giết cha mẹ: Điều này là phạm vào Ngũ nghịch, không đắc đạo.

7. Giết A-la-hán: Cũng phạm vào Ngũ nghịch.

8. Đoạn thiện căn: Đoạn thiện căn này mai mốt chúng ta học trong phẩm Hiền Thánh có. Tức là mình tu mình có thiện căn rồi, nhưng mà sau đó mình làm gì đó thụt mất thiện căn. Đáng lẽ vào địa vị, xong [lại] rớt. Bao giờ quý vị tới địa vị thứ hai trong Tứ gia hạnh là Đảnh vị, thì không đoạn thiện căn. Còn nếu [vào] mấy địa vị trước thì [vẫn có thể bị] thụt [lại]. Giống như vào Noãn vị rồi nhưng thiện căn có thể bị mất. Tất nhiên chắc chắn [rồi] cũng sẽ chứng Niết-Bàn, nhưng sẽ lâu hơn. [Còn] Thiện căn mà còn là đi miết với mình.

Thiện Trang nói cho quý vị biết điều này, đây là Thiện Trang cảm nhận thôi: là ai ở trong đời này mà rất hiền thiện, thật thà, sống chân chất. Rồi người ta dù có thế nào chăng nữa thì cũng làm người tốt, không bị xã hội phồn hoa này chi phối, tức là không kéo người ta vào đường xấu được. Những người đó có thể là rơi vào chỗ không đoạn thiện căn này. Không đoạn thiện căn tức là người ta phải từ địa vị thứ hai trong Tứ gia hạnh, là Đảnh vị. Nên biết đâu [có] những người như vậy. Quý vị là những người như vậy thì quý vị có thể vui mừng, biết đâu mình đã vào Đảnh vị mà mình không biết. Tại vì vô mấy địa vị đó thì quý vị không biết đâu, phải vào Sơ quả Tu-đà-hoàn thì quý vị mới biết được. Còn [vào] mấy địa vị trước, [như] Thế đệ Nhất vị thì quý vị cũng không biết đâu, chỉ khi học thì may ra mình cảm nhận được.

9. Việc thiện trở lại làm ác: Điều này đang thiện rồi mà trở lại làm ác thì thôi rồi, không đắc đạo.

10. Chấp có Ngã: điều này cũng khó, chưa phá Ngã thì không thể nào đắc đạo. Vô Ngã là Niết-Bàn mà, tức là A-la-hán mới Vô ngã.

11. Khởi ác niệm nhắm đến Như Lai: Điều này cũng thuộc về tội Ngũ nghịch. Quý vị coi thử coi mình có rớt vào đây không? Cho nên cứ coi cho kỹ nha. Có những vị tu, ví dụ như quý vị thấy ông tướng cướp Vô Não (Angulimala) giết tới 999 người, mà cuối cùng cũng chứng A-la-hán, vì không rớt vào trường hợp này. Hoặc là như Tôn giả Ca Lưu Đà Di là một người quậy tưng bừng thời Phật, thuộc về Lục quần Tỳ-kheo. Quý vị thấy có việc vui lắm, Thiện Trang kể cho [quý vị nghe] cho vui.

Có một Đạo sĩ Bà-la-môn khác, họ hằng ngày giảng dạy pháp dưới một gốc cây, giống như cây Bồ đề vậy đó. Hồi xưa thời Ấn Độ [là] vậy. Sáng ra có người Đệ tử lúc nào cũng ra quét qua quét lại cho sạch, rồi trải tòa ra cho Sư phụ tới giảng. Sư phụ ở cái thất gần đó, ngày nào cũng tới đó giảng, rồi đại chúng tới đó ngồi nghe. Bữa đó Tôn giả Ca Lưu Đà Di đi ngang qua, xong rồi cãi cọ gì đó. Tôn giả Ca Lưu Đà Di [đi] vô thì có người cúng dường tiền, nên ngài mới thuê người tối nay tới chặt cái cây đó, bứng đi chỗ khác. Thế là ban đêm cho chặt, bứng cây.

Sáng ra, người Tiểu đồng, gọi là Đệ tử của ông Bà-la-môn kia, cũng như mọi ngày ra quét quét mà không thấy cái cây đâu hết, thì mới khóc nói: “Ủa sao qua một đêm mà cái cây đâu mất rồi?” Về báo Sư phụ cái cây mất rồi, không biết tại sao. Thế là thầy trò ôm nhau khóc: “Cái cây mất rồi, bây giờ làm sao giảng pháp?” Thế này thế kia…

[Lúc đó] Tôn giả Ca Lưu Đà Di đi ngang qua, ngài cười haha, nói: “Ông biết tại sao cái cây mất không?” [Vị kia nói:] “Tại sao mất? Ông thần nào lấy?” [Tôn giả Ca Lưu Đà Di nói]: “Tui nè, tui thuê người tối hôm qua tới chặt sạch”. Từ đó [ông kia] méc lên Phật. Phật mới cấm là sau này không được làm vậy nữa. Tức là ngài quậy tưng bừng.

Rồi có giới là cấm sát sanh. Tôn giả Ca Lưu Đà Di vốn là tướng quân, cho nên có khả năng bắn cung thiện xạ. [Tôn giả] thấy người ta bắn chim, kêu: “Mấy người bắn kém quá. Đưa đây tui”. Thế là ngài bắn một loạt tên, vèo, vèo, vèo, cả đàn quạ rớt xuống. Ổng nói: “Ô, bữa nay có đàn quạ đem nướng thịt rồi”. [Thế là] ăn. Các Tỳ-kheo mới báo lên Phật. Đức Phật từ đó chế giới là không được sát hại chúng sanh. Quý vị thấy Tôn giả Ca Lưu Đà Di có nhiều chuyện hài lắm. Sau này quý vị biết ngài có rất nhiều chuyện, nhưng sau ngài cũng đắc đạo A-la-hán.

Cho nên là không rơi vào 11 điều này thì có thể đắc đạo A-la-hán. Chúng ta có thể nói như vậy. Tất nhiên còn nhiều điều khác nữa, nhưng mà ở đây nói tóm tắt.

Bà-la-môn, đó là mười một hạng người không thể đạt đến đạo tám chi này.

Khi Phật nói đạo tám chi này, ông Bà-la-môn liền dứt sạch trần cấu, được Pháp nhãn Thanh tịnh. Rồi Bà-la-môn Thi La nói với năm trăm Đệ tử: “Các ngươi ai có sở thích gì thì hãy tự mình tụng tập. Ta nay muốn theo Như Lai khéo tu Phạm hạnh”.

Tức là [vị Bà-la-môn] được nghe giảng pháp một chút thôi là đắc đạo luôn, dứt sạch trần cấu, đắc Pháp nhãn Thanh tịnh. Có chỗ chú giải đây là chứng Sơ quả Tu-đà-hoàn, tại vì có chữ “dứt sạch trần cấu”. Còn nếu chỉ có Pháp nhãn [Thanh] tịnh thôi, thì có chỗ cũng nói là Tu-đà-hoàn, có chỗ nói là đắc địa vị trước Tu-đà-hoàn. Điều này Thiện Trang cũng không biết, do không thấy chú giải, không ai chú giải. Chỉ lời Phật nói mới chính xác, [còn] các chú giải đời sau thì mình cứ tham khảo thôi.

Các Đệ tử bạch rằng: “Chúng con cũng muốn xuất gia học đạo”. (Tức là ông Bà-la-môn này được độ rồi, ổng đi theo đức Phật. Các Đệ tử của ổng cũng xuất gia học đạo).

Bấy giờ, Bà-la-môn cùng năm trăm Đệ tử thảy đều quỳ xuống, chắp tay bạch Thế Tôn: “Cúi mong Thế Tôn nhận cho chúng con xuất gia học đạo”.

Đức Phật nói: “Hãy khéo đến đây, Tỳ-kheo! (Tức là Thiện Lai Tỳ-kheo đó.) Hãy đến với Như Lai mà tu hành phạm hạnh Vô thượng, để dần dần dứt sạch nguồn khổ”.

Đức Như Lai nói xong lời này, năm trăm Bà-la-môn tức thì thành Sa-môn. Sau đó Đức Thế Tôn lần lượt thuyết pháp, nói các đề tài vi diệu cho năm trăm người này nghe; đề tài về thí, về giới, sanh thiên (thí là bố thí, về giới, về sanh thiên. Chúng ta hay niệm Thí, niệm Giới, niệm Thiên đó). Dục là bất tịnh tưởng, xuất yếu là an lạc. Như pháp mà chư Phật Thế Tôn thường thuyết, là Khổ, Tập, Tận, Đạo; Thế Tôn bấy giờ rộng nói chi tiết cho những người này nghe. Tức thì năm trăm người hoàn toàn dứt sạch các Lậu, đắc Pháp thượng nhân.

(Kinh số 6-Chương 9: Phóng Ngưu – Kinh Tăng Nhất A Hàm).

(Phóng ngưu là thả bò).

Như vậy đắc Pháp thượng nhân này là pháp nào? Dứt sạch các Lậu, hết hoàn toàn các Lậu tức là hết các Phiền não, thì phải là quả vị A-la-hán. Cho nên Khổ, Tập, Diệt, Đạo này rất quan trọng. Quý vị thấy cứ gặp đức Phật là ngon đúng không? Cách Phật giảng là gì? Đầu tiên là giảng cho người ta mấy đề tài về bố thí, về giới, về sanh thiên, cho người ta thấy vui. Xong rồi lên đó một hồi giảng luôn Khổ – Không, Vô thường, Vô ngã, giảng một hồi là đắc đạo thôi. Còn chúng ta do căn lành yếu, duyên nghiệp của chúng ta nặng, chúng ta không sanh vào thời Phật, không chính thức được gặp đức Thế Tôn, cho nên chúng ta học nhiều [mà vẫn] trơ trơ, đúng không?

Tại vì thứ nhất là thuốc mình uống không đúng. Thứ hai là bác sĩ không phải là bác sĩ chuyên nghiệp, toàn là y tá mới học nghề, chưa tốt nghiệp bác sĩ, cho nên không thể nào chữa bệnh tốt được. Giống như y tá mới ra nghề đó, kiểu như vậy. Chứ còn y tá mà là A-la-hán thì cũng tốt. Còn bây giờ Pháp sư toàn là người phàm phu, có người nào giỏi lắm thì cũng vào các địa vị Tứ gia hạnh v.v… hoặc Sơ quả Tu-đà-hoàn thì vẫn chưa ăn thua. Nói chung A-la-hán thuyết pháp còn chưa được tốt nữa, tức là chưa tốt bằng Phật, huống hồ chi người bình thường.

Ở đây Thiện Trang muốn giới thiệu thế nào là Chánh kiến, và có bao nhiêu nhân, bao nhiêu duyên để sanh Chánh kiến. Quý vị thấy không ạ? Cách của Thiện Trang là gì? Thiện Trang muốn giới thiệu cho quý vị điều nào cũng có trình tự, rất là trình tự, rất là bài bản. Quý vị có để ý không? Ví dụ như Bát chánh đạo là con đường để giải thoát sanh tử, vậy thì Chánh kiến là gì? Chánh tư duy là gì? Chánh nghiệp, Chánh mạng v.v… Và muốn thành tựu những điều đó thì phải thành tựu những gì? Thiện Trang luôn luôn dạy theo trình tự logic như vậy. Cho nên nếu quý vị học với Thiện Trang, ai mà chịu khó là thu nhận đạt được rất nhiều lợi ích. Quý vị nên học một trình tự [như vậy], để sau này quý vị truyền lại cho những người đời sau, cố gắng truyền như vậy.

Chứ chúng ta cứ đem lên hỏa mù, không sắp xếp một thứ tự nào cả, thì việc tu học của mình khó lắm. Mình học phải có sơ đồ, bước trước, bước sau. Bây giờ mình biết Bát chánh đạo là bí quyết để chứng đạo Thánh. Vậy thì Bát chánh đạo mình tu như thế nào? Bây giờ có 8 Tâm sở [để tu] đó, hồi bữa mình hỏi công thức 8 Tâm sở. Nhưng bây giờ Chánh kiến là gì thì mình phải biết, và làm sao để đạt được Chánh kiến thì phải [học]. Hôm nay giới thiệu cho quý vị Chánh kiến trong Bát chánh đạo.

Thế Nào [là] Chánh Kiến Và Bao Nhiêu Nhân, Duyên Để Sanh Chánh Kiến?

Tôn giả Xá Lợi Phất khen xong hoan hỷ phụng hành. Lại hỏi: (Đoạn này là một đoạn dài, nhưng Thiện Trang trích ngài Xá Lợi Phất hỏi) “Hiền giả Đại Câu Hy La, thế nào là Chánh kiến?” (Chánh kiến là thế nào? Chứ còn bây giờ mình suốt ngày nghe các vị thầy giảng, tóm lại đức Phật giảng trong kinh Chánh kiến là gì?).

Tôn giả Đại Câu Hy La đáp: “Biết như thật về Khổ, biết như thật về Khổ tập, Khổ diệt và Khổ diệt đạo. Đó gọi là Chánh kiến”.

Quý vị thấy không ạ? Xưa nay quý vị nghe Chánh kiến, nào là biết đúng Chánh pháp, rồi nói vòng vòng nào là nói biết rõ điều này đúng, điều kia sai, v.v… Nhưng thật ra theo trong kinh, định nghĩa đơn giản thôi, là: “Biết như thật về Khổ, biết như thật về Khổ tập, Khổ diệt và Khổ diệt đạo”. Tức là Tứ đế, mà quý vị biết như thật thì gọi là Chánh kiến.

Vậy mình biết như thật chưa? Đảm bảo chúng ta chưa biết như thật. Chúng ta biết thì biết sơ sơ thôi. Nói khổ, mình đã chấp nhận khổ chưa? “Thưa thầy đúng là đời khổ”. Vậy biết đời khổ rồi mà vẫn chưa [buông], cũng còn ham đời mà, chưa buông đâu!

Rồi biết nguyên nhân của khổ chưa? Là Khổ tập đó. Rồi biết niềm vui sau khi diệt khổ là thế nào chưa? Biết như thật cũng không biết luôn. Và cuối cùng Khổ diệt đạo là con đường để diệt khổ, là Bát chánh đạo, hay là Tứ niệm xứ, hay là bộ chúng ta đang học [A Tỳ Đạt Ma Câu Xá Luận] v.v… Biết như thật được như vậy mới là có Chánh kiến. Mà sự biết này, bây giờ học còn chưa học được nữa, thì làm sao biết như thật được, đúng không?

Quý vị coi thử, có rất nhiều đồng tu không có năng lực này. Ví dụ như học vô nền văn hóa truyền thống là ôm bên thế gian luôn, đâu biết Khổ, Tập, Diệt, Đạo gì đâu. Cho nên là hãy học, học thì mới biết như vậy được.

Tôn giả Xá Lợi Phất nghe xong khen rằng: “Lành thay! Lành thay! Hiền giả Đại Câu Hy La”. (Như vậy là bữa nay có định nghĩa Chánh kiến rồi nha, rất ngắn gọn, là biết như thật về Khổ, Tập, Diệt, Đạo, nói tóm lại là vậy).

Tôn giả Xá Lợi Phất khen xong hoan hỷ phụng hành. Lại hỏi: “Hiền giả Đại Câu Hy La, có bao nhiêu nhân, có bao nhiêu duyên sanh Chánh kiến?” (Quý vị thấy hay không? [Ngài] từ bi hỏi cho mình đó, có bao nhiêu nhân, có bao nhiêu duyên để sanh ra Chánh kiến. Chứ mà biết như thật, [vậy] bây giờ làm sao?).

Tôn giả Đại Câu Hy La đáp: “Có hai nhân, có hai duyên sanh Chánh kiến. Những gì là hai? Một là duyên từ người khác, hai là nội tâm tư duy. Đó là có hai nhân, có hai duyên sanh Chánh kiến”.

Quý vị thấy ở đây muốn có Chánh kiến, [một là] phải từ người khác, tức là nghe người khác giảng. Và hai là quý vị phải từ nội tâm tư duy. Cho nên trong kinh đức Phật hay nói là: “Này các Tỳ-kheo, đây là bìa rừng, đây là gốc cây, đây là căn nhà trống. Các Tỳ-kheo hãy ngồi kiết già (có khi là nói ngồi bán già gì đó) mà tư duy về các pháp Khổ – Không, Vô thường, Vô ngã v.v…”

Tư duy là nội tâm mình tư duy. Cho nên học rồi phải có thời gian thỉnh thoảng tư duy một chút. Chứ không phải là “đọc thư thiên biến, kỳ nghĩa tự kiến”, điều đó khác. Học Phật pháp, ở đây đức Phật khuyên là thường tư duy, tức là mình thường xuyên nghĩ về điều đó. Ví dụ bữa nay nghe Khổ – Không, Vô thường, Vô ngã rồi, thì ngày nào [đó] mình ngồi, có khi quý vị không cần công phu niệm Phật đâu, quý vị chỉ cần ngồi đó [tư duy]: “Đời khổ thiệt đó ha! Sanh ra khổ, đi làm khổ, có con cái khổ, rồi sinh con cũng khổ. Bây giờ có chồng cũng khổ, tiền nhà tiền tháng gì đó cũng khổ, lúc chết cũng khổ”. Nói như Kinh Vô Lượng Thọ là sanh khổ, già khổ, chết cũng khổ, bệnh cũng khổ, hôi thối bất tịnh chẳng có gì vui.

Mình thường xuyên tư duy như vậy thì mới thành tựu được về Khổ. Rồi bắt đầu mình nói: “Vậy tại sao mình khổ?” Tại vì có nhiều ham muốn nên khổ, mong cầu nhiều thì khổ nhiều v.v… Tóm lại nhiều Phiền não cho nên khổ v.v.. đủ các khổ. Đó là mình tư duy. Rồi nghĩ: “Sao các ngài không khổ?” Vì các ngài diệt được hết các [Phiền não] đó. Các vị Thánh giống như đức Phật Thích Ca, đức Phật Ca Diếp, hoặc là các vị Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, các ngài đã vượt qua con đường đó. Bởi vì các ngài không còn khổ nữa, diệt được hết khổ rồi. Và con đường đó chính là [sự] tu tập.

Thường xuyên nghĩ như vậy, thật ra quý vị không biết có tác dụng gì đâu. Nhưng Thiện Trang thấy thế này, rất là đơn giản, là cứ tư duy nhiều như vậy thì dần dần hình như tư duy của mình mạnh lên, tức là nó dồn vào trong A-lại-da thức đó, cho nên dần dần phát ra được, thì chúng ta mới mạnh được. Đó là lời đức Phật dạy.

Đây mới là Chánh kiến thôi đó, phải tu như thế. Như vậy phải có: Một là duyên từ người khác, tức là mình phải nghe giảng pháp; hai là nội tâm tư duy. Hai nhân này, hai duyên này để sanh Chánh kiến.

Tôn giả Xá Lợi Phất nghe xong khen rằng: “Lành thay! Lành thay! Hiền giả Đại Câu Hy La”.

Tôn giả Xá Lợi Phất khen xong hoan hỷ phụng hành. Lại hỏi: “Hiền giả Đại Câu Hy La, có bao nhiêu chi thâu nhiếp Chánh kiến để đạt được tâm giải thoát quả, tuệ giải thoát quả, đạt được tâm giải thoát công đức, tuệ giải thoát công đức?”

Bây giờ làm sao để thâu nhận được, để cuối cùng mình được tâm giải thoát (tâm giải thoát quả tức là tâm giải thoát), rồi tuệ giải thoát (điều này nằm trong quả vị A-la-hán), rồi đạt được tâm giải thoát công đức, tuệ giải thoát công đức? Cho nên bài Kinh này cực kỳ hay, quý vị thấy không ạ? Có đầy đủ hết. Những chữ Thiện Trang để đỏ là quan trọng, quý vị cứ nhớ những dòng chữ đỏ này.

Tôn giả Đại Câu Hy La đáp: “Có năm chi thâu nhiếp Chánh kiến để đạt được tâm giải thoát quả, tuệ giải thoát quả; đạt được tâm giải thoát công đức, tuệ giải thoát công đức. Những gì là năm? (Vậy bây giờ mình chỉ cần tu năm điều này đúng không? Tức là mình phải có Chánh kiến, Bát chánh đạo rồi, nhưng mình phải tu năm điều này).

Một là được thâu nhiếp bởi chân đế. Chân đế thì tất nhiên khác Tục đế. Mình nói đơn giản, quý vị hay nói tất cả các pháp Thế gian là Vô thường, mình hiểu được Chân đế [là như vậy]. [Ngoài ra] Chân đế chính là Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Nói chung có rất nhiều cách nói.

Hai là được thâu nhiếp bởi Giới. Quý vị biết là [mình phải] có Giới. Tức là đằng trước là thật ra nói Tứ đế: Khổ – Không, Vô thường, Vô ngã, hoặc là Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Thứ hai là mình phải có Giới (Giới trong Giới luật).

Ba là được thâu nhiếp bởi bác văn. Bác là rộng rãi, văn là nghe. Tức là quý vị phải học rộng nghe nhiều. Muốn được giải thoát thì phải học rộng nghe nhiều.

Bốn là được thâu nhiếp bởi Chỉ. Chỉ này là Chỉ trong Thiền chỉ, phải tu Thiền chỉ.

Năm là được thâu nhiếp bởi Quán. Quán là Thiền quán.

Cho nên năm điều này đưa đến giải thoát là đúng. Tại vì thật ra, tóm lại [là] quý vị phải thông được giáo pháp, quý vị phải giữ giới. Rồi quý vị phải nghe nhiều, chứ nghe ít quá thì mình lấy gì để xài, đúng không? Rồi bốn là phải tu Thiền chỉ, năm là tu Thiền quán.

Đó gọi là năm chi thâu nhiếp Chánh kiến để đạt được tâm giải thoát quả, tuệ giải thoát quả, đạt được tâm giải thoát công đức, tuệ giải thoát công đức”. Tu bấy nhiêu đó thôi. Bộ Kinh này cực kỳ quan trọng, quý vị thấy trích đoạn vậy thôi mà có bao nhiêu thứ quan trọng.

Tôn giả Xá Lợi Phất nghe xong khen rằng: “Lành thay! Lành thay! Hiền giả Đại Câu Hy La”.

Tôn giả Xá Lợi Phất khen xong hoan hỷ phụng hành.

(Trích từ Kinh Số 211: Kinh Đại Câu Hy La – Kinh Trung A Hàm).

[Đây là] Thiện Trang dẫn từ Kinh A Hàm. Quý vị thấy Kinh Trung A Hàm không [thôi] mà thấy cũng đủ hay, tại vì Kinh Trung A Hàm nhiều hơn Kinh Nikaya. Kinh Trung A Hàm có tới 222 bộ kinh, còn Kinh Trung Bộ bên Nikaya thì chỉ có được một trăm mấy bộ kinh đó, ít hơn, nhất thời Thiện Trang quên mất [số chính xác].

Kinh Tạp A Hàm và Trung A Hàm rất hay. Nếu quý vị có thời gian, mà quý vị thích nghe về nền tảng cơ bản [Kinh] Nikaya và [Kinh] A Hàm, thì Thiện Trang khuyên quý vị hãy nghe bắt đầu từ Trung A Hàm. Kinh Trung A Hàm hay và giọng đọc cũng rất hay, có rất nhiều câu chuyện và nhiều tấm gương tốt. Ví dụ Thiện Trang thích câu chuyện mà nói ba vị Tôn giả sống với nhau rất hòa hợp: Tôn giả Nan Đề, Tôn giả Kim Tỳ La và [một vị] Tôn giả nữa. Ba vị đó sống trong rừng rất là đoàn kết, sống rất là tuyệt vời với nhau.

Đó là những câu chuyện, những hành trạng, mà thực sự Thiện Trang thích coi Kinh A Hàm, Kinh Nikaya hay hơn những câu chuyện của Tổ sư Trung Hoa. Hay hơn chỗ nào quý vị biết không ạ? Tức là ở trong Kinh A Hàm, Kinh Nikaya hoặc là tạng Giới luật của Phật thì luôn luôn nói sự thật. Sự thật thì có khổ đau, đắng cay, và cũng có ngọt ngào, có cả nước mắt lẫn nụ cười. Nghĩa là trong các câu chuyện đó, có những câu chuyện mình đọc lên [thấy] xót xa vô cùng, nhưng mang lại những bài học rất tốt. Tại vì sao?

Ví dụ như câu chuyện hôm bữa quý vị thấy Thiện Trang trích từ Kinh Tạp A Hàm, câu chuyện Lão Nam Nữ. Tức là hai vợ chồng già đó, họ già quá rồi, [họ đang ngồi] hơ lửa. Đức Phật mới nói thấy họ tội không!Người thì lưng cong rồi mà họ vẫn còn ái nhiễm với nhau như vậy. Nếu hồi xưa, lúc còn trẻ nếu họ đi làm lụng siêng năng, thì họ đã có thể giàu nhất thành Xá Vệ. Nếu thời gian đó mà họ đi xuất gia thì có thể đắc được Đệ nhất Thánh quả A-la-hán. Vào phần thứ hai của cuộc đời, nếu họ làm lụng siêng năng thì họ cũng giàu thứ nhì của thành Xá Vệ, và nếu họ đi xuất gia, tinh tấn tu tập thì họ đắc được đệ Tam quả A-na-hàm. Vào thời kỳ thứ ba của cuộc đời, nếu họ siêng năng làm lụng thì họ cũng giàu thứ ba của thành Xá Vệ, và nếu đi xuất gia thì họ cũng đắc được Nhị quả Tư-đà-hàm. Và phần thứ tư của cuộc đời, nếu như họ siêng năng làm lụng thì họ cũng giàu thứ tư của thành Xá Vệ, và nếu đi xuất gia thì họ đắc Sơ quả Tu-đà-hoàn. Nhưng này A Nan, bây giờ họ quá già rồi, không có cách nào, dù có làm lụng cũng không có giàu được nữa. Dầu có đi xuất gia chăng nữa thì cũng không đắc được pháp Thượngnhân.

Quý vị thấy câu chuyện đó rất là xót xa, nhưng mà mình hiểu ra được rất nhiều điều. Thứ nhất là số phận không phải là một điều gì đó mình bị trói buộc, mà do mình nỗ lực, do những nỗ lực trong đời. Và thời gian tuổi trẻ rất quan trọng. Cho nên nếu không biết [lo tu từ sớm], thì không có được [nhiều lợi ích]. Và quý vị rút ra được: là tu học Phật pháp [nên] tu từ lúc còn trẻ, càng trẻ bao nhiêu thì tốt bấy nhiêu, xóa đi câu: “Tuổi trẻ vui nhà, tuổi già vui chùa”, và câu “tu đâu cho bằng tu nhà, thờ cha kính mẹ hơn là đi tu”. Thờ cha kính mẹ hơn đi tu sao được? Đi tu người ta đắc quả A-la-hán kìa, quý vị thấy không?

Câu chuyện đó là trong Kinh Tạp A Hàm. Trong Kinh Nikaya cũng có câu chuyện như vậy, nhưng chi tiết có khác một chút, là hai vợ chồng đó được kế thừa gia sản, mỗi người 8.000 lượng vàng, hai người giàu lắm, 16 ngàn lượng vàng, mà cuối cùng già như vậy đó. Và quả vị chứng thì nói khác nhau chút, ví dụ người chồng đắc quả A-la-hán, vợ thì đắc Tam quả A-na-hàm, cứ rớt xuống một bậc như vậy.

Thực ra thì cũng giống nhau, Thiện Trang kêu thôi mình không cần, chỉ cần lấy câu chuyện một bên là được rồi. Nhưng nói để quý vị bên Nam truyền, những người coi Kinh Nikaya đừng nói Thiện Trang nói sai, mà hai bên có khác nhau một chút. Mình đừng nói: “Thầy Thiện Trang nói bậy”. Không! Quý vị nên coi cả hai, rồi quý vị nói.

Nhiều người lâu lâu cứ học một bên, rồi bắt đầu kêu: “Thầy đó nói bậy”. Không phải! Quý vị chưa học bên kia, mình phải có sự so sánh. Cùng một câu chuyện, có khi chính ngay trong Kinh Nikaya, nhưng câu chuyện đó lặp qua hai bộ kinh khác nhau: Một bên là Tăng Chi, một bên là Kinh Trường Bộ, hoặc Tiểu Bộ, v.v… thì đã không giống nhau rồi, có khi khác một chút. Đó là mình nói khác một chút, không sao đâu, mình học thì lấy đại ý.

Quý vị thấy những câu chuyện như vậy mang lại nỗi buồn, mình thấy xót xa cho hai vợ chồng đó. Cho nên có người hỏi: “Thưa thầy, lẽ ra đức Phật biết hai người đó có khả năng đắc độ, mà sao không cứu họ, không giúp cho họ đi xuất gia để chứng đạo quả, cuối cùng để người ta già như vậy? Trong khi ông tướng cướp Vô Não (Angulimāla) trước khi giết mẹ, đức Phật thấy không ổn rồi nên phải tới cứu ngay, để ổng không giết mẹ, để còn đắc quả A-la-hán. Chứ ông giết mẹ thì rơi vào tội Ngũ nghịch rồi, không đắc A-la-hán được. Tại sao [đức Phật] không làm như vậy?”

Quý vị có thắc mắc tại sao không? Tại sao đức Phật không công bằng? Ngài tướng cướp Vô Não thì giúp, còn hai người vợ chồng đó sao không giúp đi, vì người ta cũng có thể đắc A-la-hán mà. Quý vị có thấy đức Phật có một năng lực thông hết tất cả, mà tại sao như vậy?

Thật ra mình nghe tóm tắt câu chuyện nên mình không hiểu, nhưng nếu đọc kỹ lại kinh, thì mình thấy ngài tướng cướp Vô Não là đã phát nguyện trong đời trước rồi, khi ra bị dân ném đá cho đến chết thì ngài phát nguyện trả thù, và cũng phát nguyện đời sau gặp đức Phật sẽ thành tựu. Còn hai vợ chồng kia không có phát nguyện, và họ [tu] không đủ, trong đó nói là họ phải nỗ lực siêng năng thì mới đạt được như vậy. Còn bây giờ không nỗ lực siêng năng, tà tà thì không đạt được. Đức Phật biết duyên chưa tới, thì thôi kệ, cho họ đi tiếp, có thể đời sau nào đó họ [sẽ được] độ.

Cho nên đức Phật cũng chỉ độ người có duyên, và trong Kinh A Hàm chúng ta thấy đức Phật nói: “Giống như nhà có ba đám ruộng: một đám ruộng rất tốt, một đám ruộng vừa, và một đám ruộng xấu. Khi gieo lúa thì phải ưu tiên gieo cho đám nào?” Ông đó nói: “Tất nhiên là phải gieo cho đám ruộng tốt trước chứ, sau đó hết rồi mới gieo sang đám ruộng vừa”. [Đức Phật hỏi]: “Hết rồi sao?” [Ông đó nói]: “[Hết rồi thì gieo sang đám ruộng xấu”. [Đức Phật nói]: “Cũng vậy, đức Như Lai không phải không bình đẳng với tất cả chúng sanh. Nhưng Ta phải ưu tiên độ người có thiện căn chín muồi trước, rồi mới tới hạng trung, rồi mới tới hạng hạ”.

Cho nên mình là hạng hạ, mình không được độ nè! Mình không được độ là do mình không chịu nỗ lực, không chịu cố gắng. Quý vị thấy học kinh Phật, mình càng học thì càng thông suốt, hay như vậy, có những câu chuyện xót xa, nhưng [giúp mình] tốt lên. Còn nếu chúng ta chỉ nghe những câu chuyện như bên Trung Hoa, quý vị thấy thường là những câu chuyện theo hướng rất tốt đẹp. Vị nào cũng tốt đẹp, không có Tập khí, Phiền não. Rồi sanh ra đời là đồng chân đi xuất gia, lớn lên đắc đạo thành Tổ sư. Mình thấy các ngài tuyệt vời quá. Còn nếu mình nghe trong Kinh Nikaya, Kinh A Hàm, quý vị thấy có [những vị] có Tập khí, Phiền não ghê gớm, nhưng cuối cùng cũng đắc được. Ví dụ như ngài Tôn giả Ca Lưu Đà Di, trước khi đắc quả ngài là một trong những vị đắc A-la-hán mà Tập khí, Phiền não [rất nhiều], đủ thứ chuyện. Có những chuyện đọc ra cười vỡ bụng, những chuyện dâm dục v.v… đủ luôn, nhưng ngài được một điều là thật thà, Phật chế ra giới nào là ngài giữ giới đó.

Cho nên có chuyện Thiện Trang kể rồi đó, ví dụ như chuyện ngài trang trí phòng (thất) cho thật đẹp, rồi mời các Phật tử nữ vô trong đó để sàm sỡ. Cô nào không chịu được thì ra nói: “Hôm nay trong Tịnh xá, mà lại giống như trong nước mà tự nhiên có lửa, tự nhiên có chuyện kỳ lạ như vậy”. Còn mấy cô khác thích thì nói: “Ngài làm đi chứ, ngài vô việc chính đi, ngài cứ vòng vòng hoài, không làm việc chính”. Ngài nói: “Phật cấm dâm dục rồi, tôi không làm được việc chính, tôi chỉ vòng vòng vậy thôi”. Tức là có những chuyện như vậy. Nhưng rõ ràng là ngài có căn lành đấy chứ, và cuối cùng sau khi bị một nạn thì ngài cũng giác ngộ.

Đó là mới kể những chuyện sơ sơ, còn những chuyện ghê hơn nữa kìa, thôi để lúc nào kể. Nhưng thật sự quý vị thấy có rất nhiều người có Phiền não, Tập khí rất lớn, vào trong đạo Phật, xuất gia [với] đức Phật. Hoặc là vị Tôn giả tên gì Thiện Trang quên rồi, ông mê Phật quá nên theo Phật xuất gia. Tức là nhìn thấy tướng Phật đẹp quá, mê mà không có cách nào nên đi theo Phật. Phật vô cứ cho, ổng mê đức Phật nên suốt ngày nhìn ngắm đức Như Lai mắt mãi không rời. Ngắm nhìn kiểu ô nhiễm, chứ không phải ngắm nhìn Như Lai không rời giống như mình, mình nhìn là chiêm ngưỡng cung kính. Còn ổng là nhìn say đắm theo kiểu ái dục.

Cuối cùng đức Phật biết, nhưng Ngài chưa thuyết pháp gì hết, dần dần bỏ ổng, không cho ổng đi theo. Ổng nằm giống như bệnh tương tư vậy, tương tư Phật, riết rồi bị bệnh. Khi ổng bị bệnh sắp chết thì Phật mới quay về thăm. Ổng mừng lắm, ngồi dậy, sau đó đức Phật thuyết cho một bài pháp. Quý vị có thể coi Kinh Nikaya, có câu chuyện đó rõ ràng, đức Phật thuyết: “Có gì đâu, thân thể Như Lai hôi thối này” v.v… “Ai thấy pháp là thấy Như Lai, ai thấy Như Lai là thấy pháp”. Khi thuyết xong bài đó thì ổng cũng đắc quả. Tức là sắp chết rồi, bệnh tương tư Như Lai mà cuối cùng được đắc quả, đắc độ. Nghĩa là đức Phật luôn quán xét rằng: miễn là có duyên thì Ngài sẽ độ, cho dù là thiện duyên, hay ác duyên v.v…

Hoặc là có [câu chuyện]: Có bà thấy đức Như Lai vào, bà chạy ra ôm Phật, kêu: “Ơ, con trai ta! Con trai ta”. [Có vị] Tôn giả nói: “Bà không thể ôm đức Thế Tôn được”. Đức Phật nói: “Cứ để bả ôm”. Bả ôm, bả nói con trai của bả mà. Một hồi xong rồi đức Phật thuyết pháp, thì bà cũng đắc đạo, hình như là Sơ quả Tu-đà-hoàn. Đức Phật nói: “Tại vì hồi xưa bả cũng là mẹ Ta trong đời quá khứ, nên bây giờ khi gặp lại thì giống như tiềm thức của bả khởi lại. Cho nên khi bả thấy Ta là nhận ngay con của bà. Nhờ [sự việc] đó, nên Ta thuyết pháp thì bà có thể tiếp nhận và đắc đạo”.

Đức Phật luôn luôn có phương tiện độ sanh, Ngài với trí tuệ của một bậc giác ngộ thông suốt ba đời. Còn chúng ta chẳng có năng lực đó, nên chúng ta nói mỏi cả miệng, rớt nước mắt, rồi đủ thứ các kiểu, nghe xong thì cảm động nhưng rồi cũng như không. Quý vị cố gắng nha, Thiện Trang chia sẻ là tại sao học kinh điển hay như vậy.

Và những câu chuyện trong kinh luôn luôn có hai chiều, tốt có, xấu có, lẫn lộn. Có những chuyện, ví dụ Thiện Trang nhớ học trong Giới luật, có vị đó rất tội nghiệp. Tức là bỏ hết sự nghiệp giàu có, tất cả mọi thứ, từ một người đại gia đi xuất gia, nhưng cuối cùng lại phạm giới với một cô kỹ nữ, để bị trục xuất ra khỏi Tăng đoàn.

Có những chuyện mình nghe thấy rất xót xa, nếu quý vị nhìn theo chiều hướng xấu thì quý vị sẽ nói: “Sao kỳ vậy?” Nhưng những câu chuyện đó gợi lên cho mình ấn tượng rất mạnh, bởi vì sao? [Vì] thấy xót xa như vậy, cho nên những người nào học qua câu chuyện đó, mỗi khi người ta muốn phạm giới hay đụng tới chuyện sắc giới chẳng hạn, thì người ta sẽ liền nhớ tới chuyện đó, vì người ta có ấn tượng.

Cho nên tại sao đạo Phật là đạo của sự thật, cứ nói thẳng ra, nói trắng ra, nói cho tới cùng, thì người ta sẽ giác ngộ. Còn cứ thêu hoa dệt gấm, nào [là] mai mốt viết lịch sử cho đẹp vô, nào là vị thầy đó [tuyệt vời], v.v… Quý vị thấy vị nào [viên] tịch xong rồi chúng ta cũng viết như vậy, viết lên cả lịch sử đẹp vô cùng, nào là từ nhỏ sinh ra trong gia đình, giống như cha mẹ có người báo mộng cho được mang thai. [Rồi] ra đời, lớn lên không có một chút nào xấu, đi học rất tốt, ngoan hiền, không có bóng hồng nào ở trong tim. Sau này lớn lên đi xuất gia, hoằng dương Phật pháp, cuối cùng chứng đạo quả làm Tổ sư.

Mình nghe vậy thì thật sự cũng tốt, cũng hay, một sự trong sạch thật là tuyệt vời, nhưng mình làm không được. Vì sao? Vì chúng ta là người trong trần, vì trong trần nên chúng ta còn rất nhiều những Phiền não, Tập khí, kiểu này kiểu kia. Cho nên chúng ta thấy chắc mình không có hy vọng rồi, đúng không?

Còn nếu quý vị coi những câu chuyện thời đức Phật ở trong kinh, đặc biệt trong Luật tạng. Thiện Trang hơn quý vị tại gia một chút là Thiện Trang được học Luật tạng, có nhiều câu chuyện mà Thiện Trang cảm thấy rất hay. Những người nào mà khùng khùng, điên điên [giống] như cô mà bị mất mấy đứa con, rồi mất chồng, v.v… nhưng cuối cùng vẫn đắc đạo. Rồi những người quậy phá tưng bừng vô [cũng đắc đạo], miễn là vào [được Phật pháp].

Cho nên trong Kinh Đại Bảo Tích, đức Phật mới nói là: Giống như các con sông chảy vào biển lớn, tuy là có nhiều dòng nước, có nhiều vị. Nhưng vào biển lớn thì chỉ có một vị, đó là vị mặn. Cũng vậy, giáo pháp của Như Lai chỉ có một vị, đó là vị giải thoát”. Tất cả mọi người vào trong giáo pháp Như Lai đều đạt được giải thoát, tất nhiên [sớm] hay muộn mà thôi. Quý vị thấy tuyệt vời như vậy tại sao không học? Thiện Trang thấy cứ ôm kinh mà học, quý vị chỉ cần học kinh thôi là thành công.

 Đời nay quý vị thấy Sư Minh Tuệ chứng minh cho mọi người thấy: là ta không cần phải biết ngôn ngữ gì cao sang, nào là Hán cổ, nào là Pali, nào là Sankrit… không bằng ta chỉ ôm hai bộ chính là Nikaya và A Hàm. Tất nhiên ngài cũng không bỏ Kinh Đại Bảo Tích, kinh Đại thừa. Nhưng rõ ràng chỉ cần thực hành theo Nikaya và A Hàm thôi, là đã có được lợi ích lớn rồi, huống hồ chi nếu có thể thọ trì được cả kinh Đại thừa nữa. [Quý vị] phải cố gắng theo nha! Cho nên Thiện Trang nói vẫn phải là “y pháp bất y nhân”, kinh Phật vẫn tuyệt vời hơn. Kinh Nikaya và Kinh A hàm quá nhiều, quý vị học chưa hết đâu, [còn] kinh Đại thừa nữa, nhiều lắm, quý vị cứ học đi rồi từ từ [sẽ] sáng tỏ.

Còn những người có tâm phân biệt, nói kinh này không phải Phật thuyết, kinh kia không phải Phật thuyết, quý vị chưa đủ các Chánh kiến để xác định điều đó. Nên nhớ, chưa chứng quả Tu-đà-hoàn thì quý vị chưa có Chánh kiến, khi chưa có Chánh kiến thì quý vị chưa xác định được bộ kinh nào là Phật thuyết hay không. Trong Kinh Đại Bát Niết Bàn của Trường Bộ nói rõ: Chớ vội bác điều gì nếu chưa có căn cứ”. Nên nhớ như vậy! Cho nên phải cố gắng khiêm tốn học, chứ đừng có vô mà thấy điều gì trái ngược với mình là bác hết. Chưa chắc! Những điều gì trái ngược với mình chưa chắc đã sai, nên nhớ như vậy! Những gì thuận theo mình chưa chắc đã đúng. Tại vì sao? Có thể mình vào đã sai, cho nên là chưa chắc nha!

Đạo Phật là đạo giác ngộ, giác là tỉnh giác, luôn sáng suốt, con đường mình đi không được sai, một bước chân lỡ sai là sai rồi, hướng đi lỡ sai là trật rồi. Một lối rẽ khác thì có thể dẫn đến Tà đạo rồi. Làm sao ta biết là ta đã bước đi được chính xác chưa, khi ta chưa có Chánh kiến của một người chứng Sơ quả Tu-đà-hoàn. Trong kinh nói rõ ràng: là chỉ có người [chứng] Sơ quả Tu-đà-hoàn, thì mới xác nhận được niềm tin không cần dựa vào người khác. Điều này Thiện Trang đã trích rồi. Và người đó từ đó trở đi chỉ có quy y Phật, không bao giờ bỏ nữa. Bởi vì sao? Bởi vì họ xác định rất chính xác giáo pháp, còn chúng ta chưa tới Sơ quả Tu-đà-hoàn thì chưa đâu. Nhớ học cho nhiều đi, học nhiều thì tự nhiên sáng tỏ, nó bung ra. Chứ còn quý vị cứ nghe ít quá, học không đủ, mình không có bác văn (là đa văn) thì [sẽ] có vấn đề. Đó là Thiện Trang chia sẻ kinh nghiệm [như vậy] .

Hôm nay Thiện Trang xin trở lại với mục Tâm sở. Ở đây có 52 món Tâm sở. Thiện Trang xin nhắc lại, nhắc đi nhắc lại cho quý vị thuộc luôn, khỏi mất công học nhiều.

[52 món Tâm sở] gồm: 13 Tâm sở Tợ tha, 14 Tâm sở Bất thiện và 25 Tâm sở Tịnh hảo. 13 Tâm sở Tợ tha gồm: 7 Tâm sở Biến hành và 6 Tâm sở Biệt cảnh. Chúng ta biết trong tất cả các trạng thái hoạt động của mình, thì luôn luôn có 7 Tâm sở [Biến hành] là: Xúc, Thọ, Tưởng, Tư, Nhất hành, Mạng quyền, Tác ý. Có thể có một số trường hợp có 6 Tâm sở Biệt cảnh: Tầm, Tứ, Thắng giải, Cần, Hỉ, Dục. Còn bây giờ chúng ta đang học ở phần 14 Tâm sở Bất thiện gồm: 4 Tâm sở Bất thiện Biến hành (chúng ta đã học qua), Biến hành tức là trong Tâm sở Bất thiện luôn luôn có 4 [Tâm sở]: Si, Vô tàm, Vô úy, Trạo cử; và 10 Tâm sở Biệt cảnh thì chúng ta đang học.

Hôm trước chúng ta đang học nhóm Tham phần gồm có: Tham, Tà kiến, Ngã mạn. Hôm nay chúng ta sẽ học nhóm Sân phần gồm: Sân, Tật, Lận, Hối. Bữa sau nữa chúng ta sẽ học nhóm Do dự và Trì trệ gồm: Hôn trầm, Thùy miên và Nghi. Hôm bữa mình đang học đến Tâm sở Tham thôi, bữa nay chúng ta học Tâm sở Tà kiến và Ngã mạn. Và nếu có thời gian thì chúng ta sẽ học luôn hết cho đủ. Chúng ta cố gắng học, bởi vì học hết những điều này [thì] chúng ta tu được khá nhiều.

 Bữa nay chúng ta học [Tâm sở] Tà kiến, Tà kiến là gì? Nãy mình học Chánh kiến rồi, thì ngược lại với Chánh kiến là Tà kiến, [điều này] dễ đúng không quý vị? #Tà kiến dịch nghĩa trong A Tỳ Đàm là mê tín, là quan điểm. Tức là Tà kiến là sự nhận định, sự cố chấp theo một pháp sai, không đúng với chân lý, [với] bản thể thật. Có nghĩa là bây giờ [điều] đúng là như vậy mà mình lại cho là khác. Mình không chịu chấp nhận sự thật, mà mình nhận định, chấp chặt theo, và đi theo pháp sai, không đúng với chân lý, bản thể sự thật.

Thật ra Tà kiến là sản phẩm phụ của Si, tức là do Si mà ra, nên nó biến hành là vậy đó. Tức là [Tâm sở] Biến hành chắc chắn có mặt [Tâm sở] Si. Có Si thì sẽ dẫn thêm Tà kiến, và tất nhiên có Si thì sẽ dẫn thêm Tham v.v… Do Si mà kéo theo Tà kiến, chứ nếu quý vị có trí tuệ thì khó có Tà kiến lắm, mà quý vị sẽ có Chánh kiến. Đằng trước thì chúng ta thấy có tâm Tham, bây giờ thì chúng ta thấy có Tà kiến.

Tà kiến là nhận thức sai đối với Chân pháp, gọi là Tà kiến. Tức là đối với pháp chân thật thì mình nhận thức sai. [Học] Tâm sở này thì chúng ta liên hệ giữa Tâm sở Si, Tham và Tà kiến, chúng ta đối chiếu luôn. [Tâm sở] Si đã được giải thích ở trên, bữa trước mình học rồi, bây giờ [Thiện Trang] nhắc lại luôn. [Si] là che mù ý và làm mù Pháp nhãn, không thấy được Thật tánh Các pháp, tức là Si nên không thấy được Thật tánh của các pháp. Si làm cho chúng sanh thấy các pháp là Thường, Lạc, Ngã, Tịnh.

Đáng lẽ chúng ta phải thấy Khổ – Không, Vô thường, Vô ngã thì mới được, đằng này chúng ta thấy Thường, Lạc, Ngã, Tịnh. Ví dụ chúng ta thấy cuộc đời còn dài cho nên cứ từ từ tu, đó là thấy Thường. Đời vui mà Sư Thiện Trang nói khổ, đâu có phải đâu, đời vui mà, đó là ta thấy Lạc. Rồi thấy mình làm chủ được cuộc đời mà, mình [muốn] giàu sang thì có giàu sang, muốn có xe thì có xe, đó là Ngã, trong khi biết là Vô ngã. Rồi Tịnh cũng có nghĩa là mỹ, là đẹp. Mình thấy cuộc đời vẫn vui, vẫn đẹp mà, người yêu đẹp, vợ con đẹp, chồng vợ đẹp, nhà đẹp. Mình thấy là Thường, Lạc, Ngã, Tịnh rõ ràng mà, đâu có thấy Khổ – Không, Vô Thường, Vô ngã đâu. Cho nên nhận định đó là Si.

Bởi vì Tà kiến này nên Tham bám theo dai dẳng, dính mắc. Tức là từ Si kéo theo Tham và Tà kiến, Tà kiến là mình nhận định sai, mình thấy đời vui, thanh tịnh, đẹp, v.v… mình thấy thức ăn ngon, đâu có thấy bất mỹ, bất tịnh đâu, cho nên mình thích. Đó là do từ Si, nên dẫn đến Tham, dẫn đến Tà kiến, mình chấp như vậy, chấp mọi sự thật là hiện hữu.

Và Tà kiến này là căn bản phổ biến nhất để sanh ra Thân kiến và Ngã kiến. Thân kiến và Ngã kiến cũng là từ Tà kiến mà ra. Cho nên trong Duy Thức Đại thừa, quý vị thấy học Bách Pháp Minh Môn Luận, có chia ra sáu loại căn bản Phiền não là: Tham, Sân, Si, Mạn, Nghi và Ác kiến. Ác kiến chia ra 5 loại: Thân kiến, Biên kiến, Kiến thủ kiến, Giới cấm thủ và Tà kiến. Đó là Ác kiến [theo] Đại thừa Bách pháp Minh Môn Luận. Quý vị thấy rõ ràng là từ Tà kiến mà ra thôi.

Thân kiến thì thuộc về Tà kiến này chứ không ở đâu ra. Thân kiến là do mình có chấp chặt thân này là ta, đó là một nhận định sai, [do] mình không thấy được Vô ngã, Không, Vô thường. Cho nên lúc đó mình có Thân kiến.

Còn Ngã kiến là gì? Có hai [loại] kiến: là Thân kiến và Ngã kiến. Thân kiến là chấp thân Ngũ uẩn: Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức này là ta, có ta trong đó, trong đó có ta. Còn Ngã kiến thì sao? [Nói đến] Ngã kiến là nhiều khi mình không biết. Ngã kiến thì vi tế hơn Thân kiến, Ngã kiến là mình chấp tin rằng có sự hiện hữu của một cái Ngã, hay chúng ta nói là có một linh hồn bất diệt. Tức là mình nói: À! Tôi có một linh hồn, nên chấp có linh hồn, nên gọi là Ngã kiến. Cho nên Ngã kiến phải tới địa vị A-la-hán mới hết.

Thân kiến thì Sơ quả Tu-đà-hoàn mới hết được. Tức là phần thô là Thân kiến thì Sơ quả Tu-đà-hoàn hết được, nhưng Ngã kiến thì khó lắm, phải tới Tứ quả A-la-hán mới hết. Cho nên không đơn giản đâu, coi vậy chứ Tà kiến này theo mình ghê lắm, từ Thân kiến quấn thêm [nhiều thứ] nữa. Như vậy Thân kiến thì từ Sơ quả Tu-đà-hoàn [là hết], còn Ngã kiến thì phải Tứ quả A-la-hán [mới hết].

Tà kiến này thông thường do nhiều kiến thức Biên kiến, #Biên kiến là chấp Thường và chấp Đoạn. Chấp qua một bên là đời dài mãi mãi, không bao giờ hết, hoặc là trong kinh thì nói đức Như Lai thường còn hay là không thường còn. Chấp một bên nào đó thì gọi là Thiên kiến. Rồi những ý tưởng kì lạ thì gọi là Hoang vu kiến. [Rồi] kiến của khu vực này, [khu vực kia], [như] quý vị sống ở khu vực đó có văn hóa như vậy, ví dụ khu vực đó người ta chết xong rồi thì lấy kim châm vào người, hoặc là chết rồi thì đem chôn gì đó… Đó gọi là Khu vực kiến. Rồi có những điều kì lắm, mỗi thời đại có đủ các loại. Nói chung có rất nhiều điều sinh ra Tà kiến.

Ví dụ mình sinh ra ở Châu Âu thì mình có kiến của Châu Âu, chưa chắc là tà nhưng mình theo [kiến] của Châu Âu. Rồi mình [ở] Châu Mỹ thì theo kiến của Châu Mỹ, hoặc mình [ở] Việt Nam thì theo văn hóa Việt Nam. Và bên nào cũng mặc định là mình đúng hết. Tại vì mình sống ở đó mọi người như vậy mà. Giống như Việt Nam mình thấy [mọi người] ra đường thì phải đi xe bên phải, nên mình mặc định ra đường là phải đi xe bên phải. Và mình sống từ nhỏ đến lớn ở Việt Nam ra đường là luôn phải đi xe bên phải. Nhưng quý vị qua Thái Lan, Anh quốc (nước Anh) người ta đi xe bên trái. Vậy thì bên nào đúng? Bên nào cũng đúng. Đó là do có khu vực, do vùng đó [tạo] ra kiến [như vậy].

Cho nên các nền văn hóa mỗi [nơi mỗi] khác, và mỗi thời đại mỗi khác. Chính vì vậy huân tập cho mình rất nhiều Tà kiến. Tức là những điều nào không đúng với giáo lý của Phật thì gọi là Tà [kiến], những điều nào đúng với giáo lý của Phật thì không phải là Tà kiến, nói vậy cho dễ.

Cho nên có rất nhiều điều do mình sống ở trong môi trường đó, do mình ở thời đại đó, do mình ở trong gia đình đó, do mình học từ đâu đó, riết rồi mình áp đặt theo đó. Và mình bị ‘tiên nhập vi chủ’, tức là cái nào vào trước thì làm chủ. Và xui cho mình là cái đó không đúng với giáo pháp của Như Lai, thì trở thành Tà kiến. Và Tà kiến càng sâu bao nhiêu thì không gỡ ra được, khi mình nghe [điều khác đi] thì bị dội ngược [lại].

 Ví dụ như mình học thuyết tiến hóa của Darwin, ai học cũng được trang bị lý thuyết đó, và mình mặc định thuyết đó đúng rồi, tại vì mình học từ nhỏ đến lớn mà, giả sử như vậy. Nhưng nếu quý vị có nghiên cứu sâu, người ta nói thuyết đó không đúng, khi nghe ai đó nói không đúng là mình [phản bác lại]: Người đó nói sai rồi, không đúng. Rồi khi nào mình học vào kinh Phật, ở đây Thiện Trang nói Thiện Trang hồi xưa không có tìm hiểu bên ngoài trước, Thiện Trang chỉ vô kinh Phật thôi. Thiện Trang thấy trong kinh Phật nói đâu phải loài người xuất phát từ động vật như vậy đâu, mà ngược lại loài người là từ trời Phạm Thiên (Quang Âm) xuống, v.v… thế này thế kia mà.

Lúc đó là một sự đấu tranh rất lớn, bởi vì sao? Mình thấy điều này khoa học nói có trình tự logic, còn kinh Phật lại nói một cách mơ hồ như vậy, làm sao mà biết được đây? Mình đâu có [chứng minh] được, bây giờ tin bên nào? Mình rất là đấu tranh, giằng xé giữa hai bên. Lúc đó Thiện Trang mới biết Phật pháp thôi, Thiện Trang chưa có biết sâu. Thiện Trang kêu: Điều này khó quá! Khó thực sự! Nhưng mình phải tin vào đức Phật chứ, cho nên ráng tin. Và nghĩ thôi kệ, là điều kia sai nhưng mình không biết tại sao sai, còn tin kinh Phật đúng nhưng không biết tại sao đúng. Sau này bắt đầu học dần dần rồi hiểu cõi Trời, học điều này, học điều kia, đọc nhiều kinh thì biết: À, kinh Phật dạy tất cả hiện trạng ở Thế gian đều đúng hết. Tại vì hồi xưa mình ít biết quá, nên đức Phật đưa ra điều đó mình tưởng là mê tín.

Sau này Thiện Trang học về các châu khác, ví dụ như Châu Uất Đơn Việt (Bắc Cô Lô Châu), chế độ xã hội của họ hoàn toàn không giống với mình ở đây. Ví dụ như họ sanh ra đời, họ chẳng phải đi làm gì hết, ăn rồi đi chơi. Muốn ăn thì tới lấy mấy cây củi, lấy đá sắp sẵn rồi bỏ lên đó thành cái bếp, nấu nướng một chút rồi ăn, hoặc lượm trái cây ăn. Và người ta cũng chả có chế độ gia đình gì hết, nam nữ đi chơi thỏa mái vậy đó. Rồi gặp nhau [nếu] thích thì dẫn nhau vô trong bụi, bụi cây đó không biết nghiệp lực thế nào đó, biết hai người không có huyết thống thì phủ lá xuống, rồi ở trong đó sống với nhau bảy ngày. Xong ra là sinh đứa con, mà cũng chẳng nuôi đứa con luôn, còn sinh ở đầu gối nữa. [Nghe vậy] mình cũng khó mà tin được đúng không? Quý vị nghe sinh con ở đầu gối. Rồi đặt đứa bé ở ngoài đường, mỗi người đi ngang qua họ lấy ngón tay để vô trong miệng đứa bé, thì tiết ra chất giống như sữa, bảy ngày sau nó lớn.

Bảy ngày là một con số, chứ không phải là con số 7 ngày. Quý vị nên nhớ, số 7 trong kinh Phật là một thời gian lâu, chứ không phải là nhất định. Đứa bé lớn lên rồi cũng trở thành người bình thường. Y phục ở đó người ta cũng chả cần trộm cắp, khi xuống tắm thì họ cởi hết quần áo để ở trên bờ, tắm xong rồi họ lên thì cứ lấy [bất cứ] đồ nào [của ai] mặc vô thôi, chứ không cần quan tâm là đồ của ai hết.

 Hồi xưa mình nghe như vậy thì mình rất khó chấp nhận, bởi vì sao? Một xã hội như vậy sẽ loạn hết đúng không ạ? [Vì] họ không giống mình, mình thấy rất khó chịu, bởi vì mình có Kiến thủ kiến, mình giữ Tà kiến của mình rồi. Nhưng sau này Thiện Trang học nhiều, Thiện Trang kêu: Sao đức Phật nói họ đều giữ Thập thiện, tất cả người Bắc Cô Lô Châu đều sanh lên cõi Trời. Mai mốt mình học tới Thị xứ Phi xứ, trong mười điều lực của Như Lai, có một điều gọi là Thị xứ Phi xứ lực, là trí tuệ năng lực mà biết đâu là đúng, đâu là sai. Đức Phật mới cử một ví dụ như người Bắc Cô Lô Châu sau khi chết mà sanh vào đường ác, không sanh lên cõi Trời, thì đó là một điều Phi xứ. Và nếu biết tất cả người Bắc Cô Lô Châu mạng chung đều sanh lên cõi Trời, đó là Thị xứ, đó là điều chính xác. Và đức Phật nói họ đều tu Thập thiện, mình thấy: ‘Ủa, Thập thiện đâu? Họ tà dâm mà!’ Mình thấy sao nam nữ [họ lại] như vậy, nhưng mà đức Phật nói là Thập thiện, tại vì sao? Vì xã hội là như vậy.

          Cho nên về sau khi Thiện Trang qua nước ngoài ở một thời gian rồi, thì Thiện Trang mới nói là: Tà dâm của người Việt thì tội nặng, nhưng tà dâm ở phương Tây thì tội nhẹ. Có người hỏi: “Thưa thầy, bên phương Tây nam nữ cũng tà dâm nhiều lắm, mà sao mặt mày của họ sáng vậy? Còn bên Việt Nam người ta tà dâm thì mặt mày lại tối thui?”

Thiện Trang kêu có nguyên nhân, đó là vì quan điểm xã hội khác nhau. Ở phương Tây người ta chấp nhận chuyện đó, cho nên họ không bị áy náy, bức rức khi làm chuyện đó, sau việc đó thì họ thấy bình thường. Còn ở Việt Nam, người ta làm xong thì họ giấu giếm, họ có cảm giác tội lỗi, mặc cảm. Đó là bị tội rồi, [đã] kết nghiệp, trong A-lại-da thức lưu rồi.

Thứ hai nữa là bị áp lực từ gia đình, xã hội, mọi thứ, bị người ta nói: Con đó không đàng hoàng, thằng đó không đàng hoàng, hay cô vợ đó không đàng hoàng, thằng chồng đó không đàng hoàng v.v… Từ những người kia họ nghĩ xấu về mình, [nên] kết nghiệp từ đó. Còn ở phương Tây thì họ thấy bình thường. Nếu quý vị qua Châu Mỹ La-tinh v.v… thì nạn đó còn nhiều hơn nữa. Do họ quen rồi nên nghiệp nhẹ, [nhưng] không thể nói là không có nghiệp. Vì sao? Vì không phải tất cả mọi người ở trên thế giới này đều sống như vậy. Nếu tất cả mọi người ở trên thế giới này đều sống như vậy, thì việc đó không phải là nghiệp. Bởi vì [nếu] ai cũng mặc định chấp nhận chuyện đó, thì xã hội trở về nguyên thủy giống thời xưa, chế độ mẫu hệ người ta sống như vậy, thì không sao hết. Nhưng do phương Tây họ sống như thế, còn ở phương Đông, đặc biệt các nước Hồi giáo, các nước phương Đông… họ vẫn nhìn vào đó và thấy khó chịu, [nên] nghiệp kết từ đó. Chẳng qua là anh ít nghiệp hơn thôi, chứ không phải là không có nghiệp.

Quý vị hiểu không? Tại vì có chúng sanh khó chịu, việc làm của mình mà khiến cho người khác khó chịu là có nghiệp trong đó, nghiệp xấu, nghiệp ác, và như vậy là có nghiệp. Chúng ta học Phật pháp thì phải hiểu biết như vậy, chứ không là mình không giải được những hiện tượng đó. Sau này Thiện Trang đọc nhiều kinh điển nên Thiện Trang giải được. Cùng một việc đó, làm ở xứ sở đó thì có thể nhẹ tội, nhưng làm ở xứ khác thì tội nặng hơn.

Cho nên đức Phật mới nói trong Giới luật, quý vị có thể coi ngay trong bộ Kinh Đại Bát Niết Bàn của Nam truyền, Kinh Nikaya: “Này các Tỳ-kheo, tuy là những giới do đức Như Lai đã chế ra, nhưng sau này nếu các ông thấy không quan trọng, không cần thiết ở vùng nào đó, thì các ông có thể bỏ”. Quý vị nhớ nha, [đức Phật nói] là có thể bỏ. Nhưng bây giờ chúng ta không biết giới nào là nhỏ nhặt. Rồi trong bộ Luật Ngũ Phần, quyển 21 hay 22 gì đó, đức Phật có nói: “Có những điều tuy là Như Lai chưa chế ra, nhưng ở thời đại đó, ở quốc độ đó cần giữ thì các ông phải giữ”. Hòa thượng Minh Thông nói: bây giờ ở Việt Nam bắt đi xe máy phải đội mũ bảo hiểm, nên Tỳ-kheo cũng phải đội mũ bảo hiểm khi đi moto. Đó là luật, tùy thời đại.

Bởi vì sao? Đức Phật chế ra giới là “tị thế cơ hiềm”, tức là tránh những sự chê bai, những sự phỉ báng của chúng sanh đối với mình. Đó là đức Phật chế ra thêm mấy giới đó, còn thật ra giới chính thì chỉ có mấy giới thôi. Cho nên quý vị thấy Tỳ-kheo chỉ có 4 giới trọng là 4 giới Ba-la-di: là giới giết người, phá thai, và tợ thai; giới Dâm dục; giới Đại trộm cắp; và giới Đại vọng ngữ. Còn Tỳ-kheo-ni thì có 8 giới, thêm 4 giới nữa, nhưng nói chung cũng quy về 4 giới đó. Nếu phạm 4 giới đó thì không còn là Tỳ-kheo nữa, nhưng phạm ở mức độ trọng nha. Tức là trong 4 giới đó chia ra các mức độ: trọng… nếu chưa tới mức đó thì phạm ở mức độ thứ hai, quý vị cứ căn cứ theo đó. Người Cư sĩ cũng vậy, chúng ta đã học bộ Tại Gia Luật Yếu Quảng Tập rồi, quý vị biết thì quý vị suy ra. Thật ra Giới luật chỉ có bấy nhiêu giới đó, còn các giới sau là giới phụ, hỗ trợ cho giới đó, để [giữ giới đó] tốt hơn, và tránh tị thế cơ hiềm, tức là tránh để người ta không chê bai, chỉ trích.

Cho nên mình học kinh Phật thì phải học cho thấu đáo thì mới hiểu được, còn không thì mình học mơ mơ màng màng thì bị trói buộc trong đó rất nhiều. Có rất nhiều điều như phong tục của địa phương trói mình, rồi thêm học kinh mà cũng không biết thì [tự] trói mình luôn, như vậy rất khổ.

Thiện Trang xin trở lại chỗ Tâm sở, chúng ta chưa học xong Tâm sở Tà kiến. Tà kiến có 4 yếu tố: 1. Là trạng thái chấp cứng những gì không đáng chấp; 2. Phận sự là suy xét điều sai với sự thật; 3. Thành tựu của nó là chấp cứng theo sự nhận định sai; 4. Nguyên nhân chủ yếu nhất là chấp cứng rằng: chỉ có sự nhận thấy của ta là đúng, hay là không chịu gặp bậc hiền trí, nhất là đức Phật.

Quý vị để ý nha, ở đây nguyên nhân chủ yếu nhất [của Tà kiến] là chấp cứng, cho rằng sự nhận thấy của ta là đúng, rồi không chịu gặp bậc hiền trí, nhất là đức Phật, mình không chịu tiếp nhận, đó là mình rớt vào Tâm sở Tà kiến. Và sự chấp chặt này khó vượt qua lắm, rơi vào đó rồi thì khó ra, cho nên cũng nguy hiểm. Và những người nắm giữ Tà kiến thì dễ gây ra những sự va chạm ở thế gian. Ví dụ bây giờ quý vị thấy văn hóa ở phương Đông, như các nước Hồi giáo v.v… thì thường họ va chạm nhiều, khủng bố nhiều. Đó là do họ chấp chặt vào điều này, nên khi họ thấy [người] phương Tây làm những gì đó không đúng [với tri kiến của họ] thì họ khó chịu.

Tâm sở Tà kiến là thuộc về [Tâm sở] Biệt cảnh. Tại sao vậy? Biệt cảnh nghĩa là trong Tâm sở Bất thiện không phải nhất định lúc nào cũng có Tâm sở Tà kiến này, có lúc có, lúc không. Mình lấy ví dụ Tâm sở Sân, sân thì chưa chắc là có Tà kiến, nhiều khi sân nhưng không phải là Tà kiến. Ví dụ quý vị có Chánh kiến đấy, nhưng thấy người ta Tà kiến nên mình mới tức (sân). Hoặc là quý vị có tâm trạng Hôn trầm (buồn ngủ), thì quý vị đâu có Tà kiến được. Đang buồn ngủ thì Tà kiến chỗ nào, buồn ngủ thì ngủ thôi chứ. Cho nên Tà kiến là thuộc về Biệt cảnh. Biệt cảnh tức là có lúc không có, chứ không phải lúc nào cũng có. Còn Biến hành trong Bất thiện là lúc nào cũng có mặt hết. Ví dụ đang hôn trầm thì chắc chắn là có Si rồi, còn Tà kiến thì chắc chắn có Vô tàm, Vô úy.

Nhiều người nói: “Ủa sao Tà kiến mà có Vô tàm, Vô úy được?” Có, nhưng mình không biết, mình không nhận ra thôi. Tại vì sao? Vì Vô tàm, Vô úy này là đối với Phật pháp, mình có Tà kiến thì tất nhiên là mình có Vô tàm, Vô úy đối với Phật pháp rồi, cho nên rõ ràng là có.

Và Tà kiến thì tất nhiên là có Trạo cử rồi, vì tâm mình chấp vào đó và hướng về đó mà. Cho nên [Tâm sở] Biến hành có đầy đủ hết trong này.

Thiện Trang xin giới thiệu Tâm sở tiếp theo là Ngã mạn. Ngã mạn là gì? Ngã mạn là nhìn thân này như là ta, ta là giỏi nhất, ta biết nhiều nhất, ta không có đối thủ trong thế gian. Thiện Trang lấy ví dụ thôi, tức là thông thường mình tự cho là mình ngon lắm, mình giỏi nhất, như Thiện Trang cho Thiện Trang là giỏi nhất chẳng hạn. Rồi cho tôi là biết nhiều nhất, không ai biết bằng tôi, tôi đọc hết 5 bộ Kinh Nikaya, 4 bộ A Hàm, rồi bao nhiêu kinh Đại thừa tôi biết hết, kiểu vậy đó. Cho nên đó là Ngã mạn. Rồi ta không có đối thủ trong thế gian, đó là Ngã mạn to nữa. Ví dụ ta không có đối thủ trong xóm đó, ta không có đối thủ trong Pháp môn đó, đó thuộc về Ngã mạn hết.

Và [Tâm sở] Ngã mạn là sản phẩm phụ của 2 Tâm sở Si và Tham, có nghĩa là Ngã mạn là từ 2 Tâm sở Si và Tham mà ra. Si là mình nhận thấy sự vật sai, tại vì quý vị cho là có Ngã nên quý vị mới Ngã mạn. Đó là Si rồi. Và tại sao quý vị có Ngã mạn? Bởi vì quý vị có Tham. Tại sao tham? Bởi vì quý vị ham danh hay ham gì đó… Như tôi có danh là Đệ nhất Cư sĩ, Đệ nhất Pháp sư, Đệ nhất học vấn hay Đệ nhị, Đệ tam gì đó v.v… Nói chung là có những sự ham trong đó, cho nên sản phẩm phụ Ngã mạn xuất hiện. Nếu quý vị không có Si, không có Tham, thì chúng ta yên tâm, sẽ không có Ngã mạn đâu, vì có Chánh kiến mà.

Cho nên nhiều người nói: vậy mình có Tâm sở Ngã mạn không? Điều này thì mình phải thường xuyên suy xét. Mình học thì mình chịu khó kết nối lại. Tại vì ở đây Thiện Trang không có nhiều thời gian, Thiện Trang chỉ nói lược thôi. Nên quý vị cứ để ý từng chi tiết là tại sao [Tâm sở đó] có. Như vậy bây giờ muốn không ngã mạn thì phải làm sao? Điều này thì từ từ, để mình học rồi mình sẽ biết.

Tâm sở Ngã mạn này do Tâm sở Si hỗ trợ cho. Và ở đây thông thường có 9 trường hợp. Có người nói: ở trên nói không đủ. Thật ra Thiện Trang nói: ở trên nói không đủ. Tại vì sao? Có những người không cho là mình giỏi nhất, mà cho mình là dở nhất thì có được không? Có phải là Ngã mạn không? Trong này nói có 3 loại 9 trường hợp: 1. Mình giỏi hơn người và ỷ mình giỏi hơn người, là có Ngã mạn; 2. Mình giỏi bằng người mà mình cho là giỏi hơn người, cũng là Ngã mạn; 3. Mình kém hơn người mà mình cho rằng mình hơn người, cũng là Ngã mạn. Chứ không phải mặc định là tôi giỏi hơn, hay là tôi dở mà cho là tôi giỏi hơn, là Ngã mạn. Mà thật tế là mình có giỏi hơn mà cho là mình giỏi hơn, thì cũng là Ngã mạn. Hoặc bằng người ta mà mình cho là giỏi hơn thì cũng là Ngã mạn. Đó là 3 trường hợp.

3 trường hợp tiếp theo: là bằng người ta mà mình cho là mình bằng người ta. Hoặc mình giỏi hơn mà cho là mình bằng người ta, và mình dở hơn mà cho là mình bằng người ta, thì đều là Ngã mạn. Trường hợp này có không quý vị? Có luôn.

Còn trường hợp nữa là: Thưa thầy, con là phàm phu ngu dốt, con học dở v.v… Quý vị nghĩ trường hợp này có phải [là Ngã mạn] không? Có luôn. Đó là rơi vào 3 trường hợp cuối cùng, gọi là Ỷ thua. Tức là mình giỏi hơn người ta mà mình cho là mình thua người ta, mình bằng người ta mà mình cho là mình thua người ta, và mình thật sự thua người ta mà mình cho là mình thua người ta, thì [3 trường hợp] này đều là Ngã mạn.

Định nghĩa của Ngã mạn là quý vị xác định vị trí của mình so sánh với người khác. Khi còn có sự xác định so sánh như thế thì có Ngã mạn. Và xin nói với quý vị là chúng ta có Ngã mạn không? Ai nói không có [Ngã mạn] thì xin giơ tay thử coi, bình luận là con không có đi. Nếu quý vị bình luận mình không có Ngã mạn thì quý vị là siêu đẳng luôn. Quý vị biết là tại sao là siêu đẳng không? Vì Ngã mạn là 1 trong 10 Kiết sử, thuộc về năm Thượng phần Kiết sử, [chỉ] A-la-hán mới hết Ngã mạn, Tam quả A-na-hàm thì vẫn còn có sự so sánh giữa mình với người khác. Cho nên khi chúng ta là phàm phu thì chắc chắn chúng ta có Ngã mạn. Đừng nói sao (Sư) thầy Thiện Trang ngã mạn. Thôi khỏi nói! Chắc chắn là thầy Thiện Trang có luôn, vì thầy Thiện Trang chưa chứng Tứ quả A-la-hán.

Cho nên đừng có nói giỏi, nói tài, tại vì mình không học giáo pháp nên mình cứ tự cho là mình ngon, mình nói là con không có Ngã mạn. Xin lỗi! 9 trường hợp trên là dính hết. Có ai mà không dính? Chỉ có A-la-hán mới không còn Ngã mạn thôi, tức là họ không còn có ý niệm so sánh nữa, không còn so sánh là tôi hơn người, tôi thua người, hay tôi bằng người nữa. Người không còn so sánh nữa thì mới hết Ngã mạn. Đó là [thuộc về] Ngũ Thượng phần Kiết sử.

Và tại sao chúng ta có sự so sánh? Bởi vì chúng ta sống nương tựa theo quá nhiều thứ. Ví dụ chúng ta [nói về] xuất thân: Tôi tự hào là tôi xuất thân từ gia đình quý phái, có học thức; còn thầy Thiện Trang thì xuất thân từ gia đình nông dân v.v… Đó là một sự so sánh. Và sự so sánh đó là Ngã mạn. Rồi nói về dòng dõi: Tôi ở cung đình Huế nè, [tên là] Công Tằng Tôn Nữ Bành Thị Lộ Liễu gì đó… nghĩa là tôi là con cháu của đời vua triều Nguyễn v.v… đủ thứ các kiểu. Đó là mình có sự Ngã mạn rồi, [cho mình] thuộc dòng dõi con nhà gia thế. Hoặc là ỷ mình là con của Bộ trưởng cấp nào đó… Ở Việt Nam có câu: “Ở nhà mặt phố, bố làm to”. Kiểu như vậy đều là Ngã mạn.

Tiếp theo là so sánh về vẻ đẹp, vóc dáng: Tôi đẹp hơn bạn, tôi là Hoa hậu nè v.v… Hoặc là so sánh về [dáng vẻ] xấu xí như: tôi xấu hơn thầy, tôi không trang nghiêm bằng thầy… Đó cũng là Ngã mạn luôn. Đẹp hay xấu, hơn hay thua hay bằng gì [cũng đều] là Ngã mạn hết. Quý vị nên nhớ, so sánh cỡ nào, còn có sự so sánh là còn Ngã mạn.

Tiếp nữa là so sánh về tài sản: là tôi giàu hơn, tôi nghèo hơn, hay tôi bằng người ta, thì cũng là Ngã mạn. Rồi so sánh về trình độ học vấn, ví dụ như thầy Thiện Trang là trình độ Đại học Sư phạm Toán, còn tôi là Tiến sĩ nè. Hoặc là tôi thua thầy Thiện Trang, tôi học tới lớp 12 thôi. [So sánh] hơn hay thua hay bằng gì cũng đều là Ngã mạn cả, có sự so sánh là Ngã mạn.

Rồi về công việc thì dễ rồi: mình làm ngành này là ngành cao quý trong các ngành nghề cao quý. Hồi xưa Thiện Trang học ngành Sư phạm thì được mệnh danh như vậy đó. Hoặc tự ti là tôi làm nghề này không được tốt, nghề bị người ta chê v.v… Đó là Ngã mạn. Mình bị [vướng vào] điều đó thì là Ngã mạn. Cho nên quý vị làm sao hết [so sánh] được, đâu có hết được.

Tiếp tục là so sánh về tài nghệ, về kiến thức (là biết nhiều hay biết ít), về sự học hỏi (là tôi học nhiều hay học ít), về biện tài (tôi nói giỏi, biện luận giỏi hơn hay thua gì đó) v.v… nhiều lắm. Nói chung biểu hiện của [Ngã mạn] là giương lên ngọn cờ tự khoe, nâng cao hoặc tâm đắc, hoặc là mình hạ xuống. [Dù là] nâng cao hay hạ xuống hay bằng người thì đều là [Ngã mạn]. Nói chung là chúng ta bị dính hết. Còn ai không dính thì quý vị là A-la-hán. Chứ không có cách nào quý vị [khỏi điều này], vì đây là Kiết sử mà. Cho nên mình muốn bớt thôi, bớt so sánh.

Và Thiện Trang thấy đa số đồng tu ai cũng có so sánh hết, so sánh thầy mình, rồi so sánh người này với người kia v.v… tu có tốt hơn không, đẹp hơn không, xấu hơn không, hiền hơn không v.v… so đủ các kiểu. Cứ so sánh hơn thua trong đó, còn so sánh thì còn có sự Ngã mạn. Mình tự hào kiểu gì, hay mình tự ti kiểu gì, đó đều là Ngã mạn. Cho nên cho rằng thấp hèn cũng là Ngã mạn, mà cho cao sang hay ngang bằng cũng là Ngã mạn hết. Cho nên điều này khó lắm.

Và nguyên nhân cơ bản nhất của Tâm sở Ngã mạn là Tham và Tà kiến. Tham là gì? Tại vì chúng ta có mong muốn một điều gì đó nên chúng ta mới so sánh. Ví dụ như muốn có địa vị thì người ta so sánh cho ngon: À, tôi học 5 bộ Kinh A Hàm rồi nè, còn quý vị chưa học. Mình có một cái danh trong đó, có một sự tự hào trong đó, đó là tham danh rồi. Hoặc là quý vị nói là: Tôi đâu có học được nhiều như thầy Thiện Trang đâu, tôi chỉ học bấy nhiêu đó thôi. Quý vị nói nghe tưởng như khiêm tốn lắm, nhưng thật ra là quý vị đang tham danh, nên đưa ra để bào chữa. Tức là mình so sánh như thế để bào chữa cho việc tham của mình. Cho nên đó cũng là Tham.

Và trong đó cũng có Tà kiến, vì mình nhận định sai. Nhận định sai này là nhận định sai về tà. Thật ra trên đời này những việc đó không có thật, tất cả những gì Thiện Trang kể như dòng dõi, xuất thân, địa vị quyền quý hay học vấn, v.v… thì đâu có thật đâu. Vì sao không có thật? Vì đời này thì như vậy, nhưng đời sau thì không như vậy nữa. Đời này mình ra đời, mình có phước báo gì đó, hay mình đầu thai bằng tâm tốt rồi phước báo đi theo, mình làm vua hay làm chức này chức kia đủ các quyền, rồi mình đi học cao… Nhưng đời sau nghiệp quay một phát, xuống đi làm ăn mày, ăn xin. Rồi học vấn thì đời này giỏi ghê gớm, [nhưng] đời sau thì dốt đặc. Giống như ông Châu Lợi Bàn Đà Già, đời trước làm Pháp sư, cuối cùng quý vị thấy đời sau dốt, đâu có biết được.

Cho nên có rất nhiều nguyên nhân do mình chưa nhận định được, còn khi nào quý vị nhận thức được dòng luân hồi, quý vị biết là tất cả những điều đó là do duyên mà thành. Đời này ta có thân hình xinh đẹp, học giỏi hay là quyền quý cao sang là do nhiều duyên, mà thật ra là do phước cộng duyên tạo ra. Chứ nếu cho quý vị sinh ra ở Châu Phi thì quý vị có tự hào không? Không! Chắc chắn là không tự hào về những điều đó.

[Ví dụ] Thiện Trang sanh ra mà sanh vào gia đình khác thì cũng chưa chắc Thiện Trang được như bây giờ. Hoặc Thiện Trang sanh vào gia đình cao sang hơn thì Thiện Trang có thể ở một địa vị khác, có nhiều yếu tố như vậy. Đó là nghiệp thôi, do không hiểu về nghiệp nên chúng sanh có định chấp như vậy. Và chấp đó là Tà kiến, từ đó sanh ra Ngã mạn.

Còn nếu khi nào mình hiểu tất cả chúng sanh luân hồi từ vô thỉ [kiếp] đến nay đều là bình đẳng, vì địa vị quyền quý cao sang, học vấn, tất cả mọi thứ trên đời này đều là vô nghĩa. Bởi vì nó thoáng chốc như mây bay, thay đổi liên tục, qua mấy chục năm, mấy trăm năm là thay hình đổi dạng. Trong Kinh Vô Lượng Thọ nói là “cải hình dịch đạo”; #cải là đổi, cải hình là thân hình; #dịch đạo là chuyển con đường [giữa]: Trời, Người, Ngạ quỷ, Địa ngục, Súc sanh, A-tu-la… Chúng ta đổi liên tục và quay như vậy cho nên không có điều nào để tự hào, cũng không có gì để so sánh.

 Địa vị A-la-hán với nhận thức đó thì mới là A-la-hán, các ngài mới hết được [Ngã mạn], còn mình chưa có nhận thức đó. Mình nói là nói trên miệng chơi vậy thôi, nói cho vui vậy thôi, chút nữa [lại] cũng tự hào: Tôi bữa nay giảng hay lắm đó, trên đời này ít có người Việt nào giảng hay được như tôi, đó là Thiện Trang tự nghĩ vậy đó. Rồi một hồi quý vị nói: Bữa nay mình tự hào là mình cũng may mắn lắm, bởi vì nghe được bài pháp rất tuyệt vời, bao nhiêu đồng tu kia đâu có được nghe. Tức là mình cũng có so sánh trong đó. So sánh hơn thì dễ nhìn thấy, còn ti liệt mạng là so sánh thua thì mình khó thấy, rồi so sánh bằng cũng khó thấy nữa. Thiện Trang nói Ngã mạn, là thường chúng ta thấy được ở sự so sánh hơn, còn so sánh thua, so sánh bằng là khó. Vậy phải làm sao? Quý vị cố gắng bám chặt giùm sự so sánh hơn, rồi sau đó bỏ đi.

Thiện Trang thấy ở trong lớp học các đồng tu cũng vậy, một hồi rồi cũng bắt đầu so sánh. Cho nên tâm [so sánh] đó không thể không [có]. Hồi xưa thì mình thấy khó chịu, nhưng sau này mình thấy điều này nằm ở Ngũ Thượng phần Kiết sử mà, A-la-hán mới hết, cho nên bình thường. Cho nên quý vị cứ so sánh nói thế này thế kia, thầy này thế này, thầy kia thế kia, cô này thế này, cô kia thế kia. [Mình đều] cười hết, vì sao? Vì chúng sanh là như vậy, vì phàm phu là như vậy. Cho nên hãy xem tất cả chúng sanh là phàm phu, vì họ còn nhiều Phiền não mà thương họ, như vậy thì dễ hơn. Còn xem tất cả chúng sanh là Phật, Bồ-tát, mình là phàm phu thì không được, tại vì thấy [chúng sanh] là phàm phu rõ ràng mà.

Quý vị thấy hay không? Học như thế này mới vui vẻ, hoan hỷ và từ đó trở đi ta không chấp lỗi người nữa. Bởi vì ai cũng có Ngã mạn thôi. Đừng nói là không có Ngã mạn, có Ngã mạn [nhưng] cao hay thấp, ít hay nhiều thôi. Cho nên từ đó vô tư, [thấy] đời vui phơi phới. Quý vị học bộ A Tỳ Đàm này, quý vị [sẽ] nhìn mọi người theo cách nhìn thông cảm, nhìn mình rõ hơn, nhìn sáng suốt hơn, và tự nhiên sống một cách đơn giản nhẹ nhàng, đâu có căng thẳng, đâu có ép buộc người ta đâu.

Còn học kiểu Đại thừa mà suốt ngày ép buộc người này, ép buộc người kia, tại sao thầy Thiện Trang giảng pháp ngã mạn thế, tại sao thế này, tại sao thế kia, tại sao huynh đệ ngã mạn… Chính mình đang so sánh là mình có Ngã mạn rồi. Còn người ta Ngã mạn cũng là bình thường thôi, bởi vì người ta chưa phải là A-la-hán. Nên nhớ như thế! Cho nên từ đó tâm mới thanh tịnh. Ở đây chúng ta đang học [Tâm sở] Ngã mạn, bây giờ chúng ta học luôn cho hết mấy Tâm sở tiếp theo.

Ở đây còn một vấn đề nữa, để [Thiện Trang] chiếu lại ba Tâm sở: Tham, Tà kiến, Ngã mạn. Ba [Tâm sở] này gom chung lại gọi là nhóm Tham phần. Nhóm Tâm sở này có nhiệm vụ kéo dài vòng đời hay vòng sanh tử mà chúng ta gọi là vòng luân hồi. Cho nên chủ yếu ba [Tâm sở] này kéo chúng ta đi vào vòng đời sanh tử luân hồi. Vì chúng ta có Ngã, có Tà kiến, có Tham, ba điều này là chính yếu để chúng ta đi vào dòng đời. Dù kinh Đại thừa nói cỡ nào, quay quay một hồi quý vị [cũng] phân tích những điều đó ra, nó cũng nằm ở trong này. Nếu quý vị sáng suốt [thì] phá được, nhưng điều này khó, vì [những Tâm sở này] thuộc [nhóm] Tham phần.

          Ví dụ chư Tổ hay nói là: “Ái bất trọng bất sanh Ta Bà”. Ái chính là tham, mà mình [lại] quá nặng, không nặng thì không thể sanh vào Thế giới Ta Bà này. Tham đó từ đâu mà ra? Thật ra là do Tà kiến nhìn ra sai, và do chấp có Ngã mạn ‘tôi thế này, thế kia’, cho nên từ đó mà ra. Thực ra là ba loại Phiền não Tham, Sân, Si thôi. Si sâu quá, Tà kiến là thuộc về Si rồi. Về Ngã mạn, thông thường Ngã không được thì có Sân. Nhưng Sân chúng ta chưa học, bây giờ chúng ta học luôn.

Còn một điều nữa là vì sao Tâm sở [Ngã mạn được] gọi là Biệt cảnh? Tâm sở Ngã mạn này là Biệt cảnh. Thông thường chúng ta có sự so sánh, nhưng có những lúc thì không có sự so sánh. Trạng thái nào không có sự so sánh, quý vị biết không? Quý vị cứ lấy ra một trường hợp là được. Ví dụ như chúng ta đang buồn ngủ, thì có so sánh gì đâu. Khi đang hôn trầm, đang buồn ngủ thì làm gì có so sánh ai với ai đâu, đang ngủ gục mà. [Nên] [Tâm sở] Hôn trầm này không có [Ngã mạn đi kèm]. Cho nên mới gọi là Biệt cảnh, tức là có những trường hợp không có.

Còn [Tâm sở] Biến hành thì những trường hợp xấu là có hết. Hoặc trong trường hợp có nghi, nhiều khi đâu cần phải có Ngã mạn mới nghi. [Ví dụ] nghi vấn đề nào đó thì đâu cần có Ngã mạn đâu. Có khi nghi cũng là do bị Ngã mạn mà nghi, nhưng có trường hợp nghi mà không cần có Ngã mạn. Ví dụ chúng ta nghi về giáo pháp, nghi về một người nào đó đúng hay sai, thì mình đâu có Ngã mạn, đâu có sự so sánh hơn thua gì trong đó. Nên đấy là bình thường. Nhưng có những lúc nghi, vì [cho] mình giỏi hơn người đó, mình không biết nên mình nghi về vấn đề đó chẳng hạn. Đó là thuộc về Ngã mạn. Nhưng có những điều nghi bình thường thôi, ví dụ như nghi là không biết A-la-hán có Thần thông hay không? Đó chỉ là một sự nghi bình thường thôi. Tâm sở Nghi như vậy không thuộc về Ngã mạn, không có Ngã mạn đi kèm. Cho nên gọi là Biệt cảnh.

Như vậy Thiện Trang đã giới thiệu qua hết được ba Tâm sở Biệt cảnh: Tham, Tà kiến và Ngã mạn. [Thiện Trang] giảng luôn hết Tâm sở, để mai mốt mình học Luận Câu Xá dài dài chút. Tiếp theo chia sẻ về nhóm Sân phần. Nhóm Sân phần thì gồm có: Tâm sở Sân, Tật, Lận, Hối. Những [Tâm sở] này thì chắc chúng ta cũng có nhiều lắm, đúng không?

1. Tâm sở Sân: nếu chúng ta đếm trong này [thì Tâm sở Sân] là Tâm sở thứ tám trong Tâm sở Bất thiện, hoặc là Tâm sở thứ tư trong Tâm sở Bất thiện Biệt cảnh. Sân chính là sự tức giận, sự hờn, sự buồn rầu, sự ghét, sự ác cảm, sự căm thù, v.v…

Phần này mình phải học rộng như vậy, chứ nói Sân không [thôi] thì quý vị không hiểu. Sân là gì? Sân là sự tức giận, ai cũng biết điều này rồi. Nhưng sự hờn trách cũng có Sân, và buồn rầu cũng thuộc về Sân. Chứ không phải mình nói buồn rầu không phải là Sân, buồn rầu [cũng] là đang sân. Tại sao quý vị buồn? Vì bất mãn với điều gì đó nên mới buồn. Cho nên ngay điều đó mà mình cũng không biết là mình sân. Buồn vì ta bất mãn với cuộc đời sao éo le quá, buồn vì ta cầu mà không được.

Ví dụ như người ta thất tình người ta buồn, đó là Cầu bất Đắc khổ. Rồi buồn vì đáng lẽ mình cầu thầy Thiện Trang khen mà thầy Thiện Trang chê mình quá, [nên] mình buồn. Đấy cũng là Sân. Buồn là Sân nha! Cho nên học bộ A Tỳ Đàm, học Duy Thức rõ như vậy thì mới tu. Chứ suốt ngày mình nói sân, sân… nhưng mình chỉ biết sân là tức giận thôi. Còn mình đâu biết buồn cũng thuộc về Sân đâu. Hờn là sân thì cũng có thể hiểu được. Rồi ghét ai đó hay ghét việc gì đó là Sân.

Mà tại sao ghét? Thông thường có yêu thương thì có ghét, tức là có thích thì có ghét. Thích không được thì ghét, đối ngược [lại]. Giống như quý vị thích màu xanh, mà ra tới chỗ đó người ta chơi toàn màu đỏ rực, [nên mình ghét]. Ghét màu đỏ rực, vì mình kêu màu đỏ là màu của những người háo thắng. Hoặc thầy Thiện Trang để [bảng] Tâm sở [Bất thiện] toàn màu đỏ. Thiện Trang cố tình để màu đỏ [vì bất thiện là] xấu mà, xấu nên để màu đỏ. [Mình thì] nhìn màu đỏ chói mắt quá, khó chịu quá, [đó là] Sân đó. [Hoặc] thấy màu đen mình ghét thì cũng là Sân. Ghét là [thuộc về] Sân.

Rồi có ác cảm không? Có nhiều! Thấy người đó là có ác cảm rồi, là Sân đó. Nên đừng nghĩ mình không có, mình không học bộ này thì mình không biết được đâu. Mình cứ nói sân, sân, sân… tưởng tức lên là sân, đó là một trạng thái thôi. Rồi sự căm thù [cũng là] Sân, điều này rõ ràng rồi, sự căm thù này thì ai cũng biết, v.v… có những trường hợp như vậy. Cho nên định nghĩa trong [tiếng] Pali là: tự ác độc hại gọi là Sân. Tức là những gì ác, mà độc hại cho chính mình thì gọi là Sân. Tại sao Sân độc hại cho chính mình? Vì nó hại mình trước.

Cho nên sự tức giận, sự hờn, sự buồn rầu, sự ghét, sự ác cảm, sự căm thù, đều là Sân. Không học [bộ này] mà quý vị đòi “Con xưa đã tạo bao nhiêu ác nghiệp; Đều do vô thủy Tham, Sân, Si; Từ thân ngữ ý mà sanh ra; Tất cả con nay xin sám hối”. Sám hối có hết đâu! Vì sao? Vì có biết Sân là gì đâu. Nên không học vô kiến thức này, mình cứ học trên văn tự, suốt ngày nói sân, sân… Quý vị thấy không? Không học bộ này thì tu điều gì. Nền tảng căn bản không có thì làm sao tu được.

Cho nên tu bao nhiêu năm, mình sân mà đâu có biết mình sân. Tôi tưởng tôi buồn vì tôi tu không được, tôi buồn vì sao hôm nay thầy Thiện Trang giảng khó hiểu quá, nghe không được. Buồn là Sân đó, đang bất mãn đấy. Nói chung sự bất mãn nào đó là Sân. Nếu chúng ta định nghĩa đơn giản thì bất mãn là Sân, có một sự không hài lòng là Sân. [Sự] ác cảm, sự ghét, sự căm thù là không hài lòng về người nào đó, cho nên sau này mình thấy: Ồ, hèn chi tới Tam quả A-na-hàm mới hết điều này.

Chứ nếu hết sân kiểu tức giận thì dễ mà. Cho quý vị hoàn cảnh như ý, sung sướng chút là quý vị hết tức đó mà. Điều gì cũng được đáp ứng hết, là hết Sân. Nhưng khổ nỗi quý vị cho như vậy nhưng có những điều khác, ví dụ như lâu lâu quý vị cũng buồn, lâu lâu quý vị cũng hờn, lâu lâu quý vị cũng thấy có gì đó khó chịu, v.v… nên vẫn là Sân đó thôi. Cho nên không có cách nào, phải Tam quả A-na-hàm mới hết được Sân, vì Sân thuộc về Ngũ Hạ phần Kiết Sử.

Sơ quả Tu-đà-hoàn chỉ đoạn được ba thứ: Thân kiến, Giới cấm thủ và Nghi. Nhị quả Tư-đà-hàm giảm thêm được ba thứ, đôi khi thì nói là giảm hai thứ là: Tham và Sân. Thật ra giảm thêm được Vô minh nữa. Rồi tới Tam quả A-na-hàm mới hết Tham, hết Sân. Cho nên đừng nói tôi không sân nha quý vị. Khi quý vị nói xác định là mình không sân, thì lạy quý vị được rồi, [vì] quý vị tới Thánh nhân rồi đó. [Là] một vị Tam quả A-na-hàm, thì xứng đáng lạy quý vị được rồi. Nên đừng nói tôi không sân. Quý vị sai lầm hết, chúng ta [đều có] sân hết.

Cho nên đừng nói sao mà thầy Thiện Trang (Sư Thiện Trang) sân. Bây giờ thì [Thiện Trang] bớt sân hơn chút rồi, theo năm tháng mình tu, mình bớt sân được một chút là đỡ rồi. Bây giờ Thiện Trang để ý giọng nói của Thiện Trang lắm, đôi khi mình nghe thử coi mình đang nói chuyện với người ta bằng giọng nói gì. Nếu có giọng hơi khó chịu một chút là chúng ta đang sân. Cho nên phải rất kiểm soát giọng nói. [Vì] mình kiểm soát được giọng nói là mình nhận ra, gọi là “tùy hình mà bắt hình dong”. Mình phải nhận được đối tượng của nó, thì quý vị mới quan sát, mới tu được.

Giống như hôm qua, hôm kia, có đồng tu nhắn tin [cho Thiện Trang] là biết người ta đang sân, đang bất mãn. Thiện Trang cũng cũng nhắn lại bình thường thôi, không có gì hết, [vì biết] họ đang sân, thì mình đừng sân theo họ, đơn giản vậy thôi. Quý vị tu như vậy thì mới có ngày vào dòng Thánh được. Nên nhớ Sơ quả Tu-đà-hoàn nói không đoạn Sân, nhưng thật ra là giảm Sân rồi, quý vị vào dòng Thánh là bớt mấy điều này. Ngay cả không phải Sơ quả Tu-đà-hoàn đâu, mà Tứ gia hạnh vị, những địa vị trước cũng bớt rồi, bớt được một phần chứ không phải [sân] nguyên si.

Tu là chuyển hóa, chuyển từ từ, giống như hồi xưa mình có  100 điểm, bây giờ giảm bớt về còn 50, thì mới vào dòng Thánh chứ. Còn quý vị chưa giảm được chút nào, vẫn y nguyên, thì chỉ là phàm phu thôi. Cho nên cố gắng coi [Tâm sở] Tham, Sân, nói chung các loại Phiền não này, mình học thì mình phải quan sát được. Học ở đây không phải học kiến thức để cho vui, [mà hãy] cố gắng quan sát tâm mình trong mọi hành động, mọi lời nói, mọi cử chỉ, mọi việc làm, mọi ý nghĩ. Và mình biết mình là phàm phu, nên đừng buồn nha! Đừng buồn em hỡi! Vì em cũng là phàm phu thôi mà! Quý vị cũng vậy, quý vị là phàm phu thì đừng buồn, buồn làm gì! [Vì] buồn là Sân. Khổ nỗi buồn cũng là Sân, cho nên không được buồn, phải tu tự tại, càng tự tại thì [sẽ] không bị sân.

Khó vậy đó! Cho nên quý vị thấy tại sao nhiều người tu Tịnh Độ lâu năm mà mặt mày họ sân? Tại vì chính họ có trạng thái không hài lòng với lộ trình tu tập của họ. Họ cảm thấy: “Sao con tu lâu năm, thời khóa kín như vậy, tu nhiều như vậy mà con không đạt được gì hết?” [Đó là] đang buồn đấy. Buồn là sân đó, quý vị biết không? Có ai nói đâu mà biết! Hôm nay mới nghe, nghe rồi thì sửa đi, tu tự tại. Nên có nhiều Tâm sở mà lát nữa mình học thêm.

Ví dụ như sáng ra lỡ [quên] bật [chuông đồng hồ], hoặc ngủ quên quá giờ, đáng lẽ bốn giờ dậy công phu, bốn giờ rưỡi dậy công phu, năm giờ dậy công phu. Nhưng bữa nay ngủ tới sáu giờ, thấy khó chịu bứt rứt trong người, đó là trạng thái Tâm sở Hối (là hối hận). Hối hận vì chuyện đã qua, và đang buồn vì chuyện đó, thì [Tâm sở] Hối đi cùng với [Tâm sở] Sân. Sân với ai? Sân với mình chứ ai. [Như vậy] không được! Tu hành phải tự tại, lỡ rồi [thì thôi], cho nên phải đem Kinh Nhất Dạ Hiền ra xài, lúc nào [Thiện Trang] trích cho quý vị Kinh Nhất Dạ Hiền. Bên Trung A Hàm cũng có Kinh Nhất Dạ Hiền, nhưng để tên khác.

Nói chung chuyện đã qua đừng đuổi theo nữa, chuyện quá hãy khứ bỏ qua đi, [còn] chuyện tương lai chưa tới thì đừng nghĩ, càng nghĩ nhiều, càng lo nhiều, thì quý vị chạy theo mấy điều đó nhiều. Không hối thì Trạo cử, không Trạo cử thì Sân, lúc nào cũng chạy theo mấy Tâm sở đó thôi. Cho nên đức Phật dạy cho chúng ta phương pháp: là hãy sống ngay trong hiện tại, chỉ có hiện tại là đây. Và người càng làm chủ được hiện tại bao nhiêu, thì người đó rất tuyệt vời, người đó tự nhiên nhẹ nhàng, an lạc. Còn nghĩ về quá khứ, mà thông thường quá khứ thì đau buồn và buồn thương nhiều. [Vì] đời mấy khi vui, đời lúc nào chẳng là những ngày đau thương, buồn vì những chuyện chưa làm được, những chuyện bứt rứt, v.v… Giống như hồi xưa biết vậy tôi đã đi xuất gia rồi, đâu như bây giờ có hai đứa con ở trong nhà, còn phải chăm ông chồng say xỉn, bệnh tật nữa, v.v… mệt quá. Thế là buồn đó, buồn là sân, nên tu hoài mà mặt mày tối thui.

Còn quý vị tu tại sao mặt mày sáng? Vì người đó sống trong hiện tại nhiều, người ta đang vui vẻ, hằng ngày nghe pháp an lạc, hằng ngày nghe Sư Thiện Trang giảng, hằng ngày mở kinh nghe nên vui quá trời. Vì mình đang sống trong Chánh niệm, mình chỉ biết đời mình đang vui vì được nghe Chánh pháp, được nghe Phật pháp, nghe những điều xưa nay chưa từng được nghe. Quá vui rồi còn gì nữa! Còn quá khứ đâu có sửa đổi được, đó thuộc về Tâm [sở] Hối, mà Hối kéo theo Sân. Cho nên cố gắng học Tâm sở này [vì] cực kỳ quan trọng. Ở đây [Thiện Trang] cũng nói theo kiểu Ngã mạn chút, là rất khó có ai giảng được kiểu này, đó là nói ngã mạn luôn, [vì] mình đang so sánh, nói rõ ràng là mình biết mình đang ngã mạn.

Cho nên [tu] Tứ niệm xứ là khi tâm ta sân thì ta biết ta sân, khi si thì ta biết ta si, khi ta đang hoài nghi thì ta biết tâm ta đang hoài nghi, tâm tham biết tâm tham, v.v… biết hết tất cả. Vì biết tất cả cho nên ta dừng lại được. Còn người không biết cho nên người ta chạy theo, càng chạy thì càng khổ, càng đau, và càng luân hồi. Bí quyết tu hành đơn giản vậy thôi. Khi tâm quý vị thanh tịnh, thì quý vị tu bất cứ Pháp môn nào đều có hiệu quả, đối với người tu Tịnh Độ thì quý vị niệm một câu Phật hiệu cũng vãng sanh Tây Phương Cực Lạc quốc. Quý vị tu dở dở cũng chắc chắn được cõi Người, cõi Trời, không kém đâu, thậm chí [được] cõi Trời rất tốt. Vì tâm quý vị toàn Tâm sở thiện đang hiện tiền. Các Tâm sở ác hiện lên là ta dứt liền, tức là ta dừng ngay.

Bí quyết tu hành có bao nhiêu đó thôi, nắm chắc 52 món Tâm sở, nhào cho nhuyễn, nhào qua nhào lại, quan sát tâm, quan sát tới quan sát lui, [tâm] chạy đi đâu [mình] bắt hết bỏ vô là xong, thì tự nhiên một thời gian là hết. Bí quyết có vậy thôi.

Cho nên Thiện Trang nói những bài thi gần đây [của] Thiện Trang rất khó, thi một lúc mấy bài, nào là người không hiểu phỉ báng, nào là người chê trách, người nói phản bội Sư phụ, người nói thế này thế kia, nói đủ các chuyện, thi một lúc. [Nhưng] không sao cả! Đó là chuyện xưa rồi, bây giờ ta không quan trọng, người ta sống thế nào thì kệ họ, không quan trọng, ai muốn thế nào thì cứ sống thế đấy.

Thực ra mình thương cho họ vì họ không hiểu. Nếu quý vị hiểu được bộ A Tỳ Đàm, bộ Luận Câu Xá này, tới bài hôm nay thì quý vị đã biết giá trị Sư Thiện Trang đang chia sẻ bộ này mang lại cho đồng tu rất lớn. Mà tại sao lại nói bây giờ ổng đi theo con đường khác. Nên nhiều khi rất đáng thương, thay vì hiểu ra là mình tùy hỷ, tán thán thì [được] vô lượng công đức, mà mình [lại] phỉ báng thành ra tội nghiệp. Cho nên đó là mình thương họ, chứ còn với mình chẳng có gì hết, trên đời này tất cả vốn là: Khổ – Không, Vô thường, Vô ngã.

Cho nên một người tán thán cũng không có chết chóc gì đâu, một người chê trách cũng chỉ vậy thôi, không ăn thua, thêm một người nữa [cũng thế] thôi, chỉ có kết thêm thù oán nhiều thêm thì tội cho nhau mà thôi. Còn kết thêm bạn thì tốt hơn, tương lai gặp nhau còn cười tươi được, dễ độ. Còn nếu kết nhiều ác duyên thì không tốt, nhưng cuộc đời luôn luôn phải vậy. Trong cuộc đời luôn luôn có lối rẽ, và những lối rẽ đã khiến cho những người không còn đi chung với nhau. Cho nên chúng ta phải hiểu điều đó, và chúng ta cứ buông xả chúng ta tu thôi, còn kệ chúng sanh.

Như vậy Thiện Trang mới nói sơ về Tâm sở Sân, Sân cũng có tên là Phẫn, nên ở [trong] Đại Thừa Bách Pháp Minh Môn Luận chia ra là Phẫn, nghĩa là xâm phạm pháp Câu sanh, làm cho hư hại, bầm dập, nứt bể. Có nghĩa Phẫn là ta tức, mà ta hại cho chúng sanh khác, hại đến các pháp Câu sanh (sanh cùng), làm cho hư hại, bầm dập v.v… Chú Giải của Pali là cách xâm phạm, đè nén pháp Câu sanh, gọi là Phẫn, điều này tức là bực mình. Ví dụ quý vị bực mình mà [làm] ra hành động [thì] gọi là Phẫn. Sau này chúng ta học bộ Duy Thức Bách Pháp Minh Môn Luận thì chia rõ hơn, thế nào là Phẫn, Hận… tức là những mức độ của Tâm [sở] Sân này chia ra kỹ [hơn]. Ở đây do Thiện Trang nghĩ thôi mình cứ học như thế là đủ rồi, còn để mai mốt [Thiện Trang] dạy qua bộ đó, nếu chúng ta còn thời gian. Chứ mình đem bộ đó kéo vào đây thì dài quá, mà bộ đó là Bách Pháp Minh Môn Luận, cho nên không nghiên cứu sâu về điều này. Chỉ cần giới thiệu qua là mình nhận dạng được [Tâm sở] Sân được rồi.

Và thông thường khi chúng sanh đối diện với sự khát khao về vật dục, sự bám chặt, sự dính mắc, hay Tham thì sẽ sanh khởi Sân. Thông thường tại sao mình sân? Bởi vì mình khao khát về vật dục, tức là mình mong muốn một điều gì đó, ví dụ như mong muốn chiếc xe, mong muốn cái này cái kia… đó là Sân. Giống như quý vị thấy chúng ta đang cầm điện thoại, mà sơ ý rớt xuống, bể mất cái kiếng màn hình, thì quý vị cảm thấy tức lên, vì sao? Vì tiếc, đổ lỗi cho mình, đổ lỗi cho thằng con tại sao vô ý như vậy, đụng vào tay mình làm rớt cái điện thoại. Đó là do quý vị tham, tham không được cho nên sân.

Nên người có công phu nếu bị rớt thì sẽ nói: “Các pháp tùng duyên sanh, diệc phục tùng duyên diệt”. Các pháp do duyên sanh, cũng do duyên mà diệt, đức Phật là [bậc] Đại Sa-môn, Ngài thường nói như vậy mà. Nên ta không sao hết, duyên hết rồi thì thôi. Bể màn hình thì ráng xài đỡ, còn có tiền thì đi thay màn hình mới. Còn không thay thì từ từ kiếm cái [điện thoại] nào đó xài đỡ. Có nghĩa là việc đó qua rồi, quý vị tiếc để làm gì nữa, đâu có thay đổi được gì đâu. Cho nên nhiều người bực tức lên, rồi chửi con, chửi chồng, chửi vợ, chửi đủ các kiểu, bởi vì làm bể đồ. Nhiều khi bể một cái rất đơn giản [như bể] một cái chén, một cái ly mà mình đã sân lên rồi, vì sao? Vì tham vật dục, đó là một điều.

Rồi vì sự bám chặt, tức là mình bám chấp vào một điều gì đó và mình cho đó là chân lý. Ví dụ như quý vị đồng tu Tịnh Độ học pháp hay nói: Kinh Vô Lượng Thọ là Đệ nhất kinh, một bộ Kinh Vô Lượng Thọ thôi. Nghe nói thầy Thiện Trang hồi xưa xiển dương Kinh Vô Lượng Thọ, bữa nay ổng xiển dương bộ Luận Câu Xá, thấy không giống mình nữa nên tức. Xưa nay nghe nói ổng theo Hòa thượng Tịnh Không, bữa nay ổng không theo nữa, hình như ổng theo Nam truyền, thế là tức lên. Đó là sự bám chặt, dính mắc vào đó. Mà khổ nỗi quên mất mình học là học theo đức Phật Thích Ca, chúng ta là học với đức Phật, đâu có phân biệt môn phái, tông phái thế này thế kia. Quý vị càng phân biệt bao nhiêu, thì quý vị càng sân nhiều bấy nhiêu. Người học Nam truyền nói: Kinh Pali mới là kinh hay, kinh nào đó thế này thế kia không được, cho nên bực mình.

Có cô nhắn như sau: “Các bạn của con nói con tu pháp này là theo tà. Kinh này là ngoại đạo, là tà, thế này thế kia v.v…” Thiện Trang nói vậy là toàn những người sân, không biết họ tu bao nhiêu năm, nhưng nếu họ nói mình là tà, là gì đó v.v… là coi chừng họ sân rồi đó. Nếu người tu có công phu thực sự thì kêu: “Thôi, từ từ đi, coi kinh đi”.

Hôm qua cũng có một đồng tu lạ nào, Thiện Trang không biết, nhắn [tin] vô thì Thiện Trang nói: Thôi, coi kinh đi, chịu khó coi kinh đi thì biết đúng sai. Chứ bây giờ vô thấy Trưởng lão Thích Thông Lạc cũng đúng, rồi người này đúng, Sư Thiện Trang cũng nói hay quá, không biết ai đúng ai sai, ai tà ai chánh, người nào cũng nói hay hết mà. Thiện Trang nói chịu khó coi kinh đi, coi kinh đi rồi từ từ trí tuệ sáng ra là mình biết. [Người kia nói]: “Nhưng mà kinh toàn là kinh phi Phật thuyết, không biết kinh nào”. Thiện Trang nói: Phi Phật thuyết hay không phi Phật thuyết thì làm sao biết. Cứ coi đi, coi từ từ rồi biết phi Phật thuyết hay không phải phi Phật thuyết, tức là của Phật hay không phải của Phật, mình phải coi.

Thiện Trang cũng hướng dẫn hãy chịu khó coi Kinh Nikaya và Kinh A Hàm, rồi từ từ mò lên coi kinh điển Đại thừa. Cứ coi đi, còn không biết coi từ đâu thì Thiện Trang chỉ luôn: cứ coi nghiễn đi, thật ra những bộ kinh, coi một hồi cũng [hiểu] được thôi. Trường A Hàm thì nói về vấn đề khác, hôm bữa Thiện Trang có nói rồi. [Còn] nếu muốn tu tập thì coi Trung A Hàm trước, nếu nghi ngờ thì coi song song với Trung Bộ Kinh của bên Nikaya. Đối chiếu coi có viên mãn hay không, cứ coi từ từ, những vấn đề chính đức Phật nói rất nhiều lần. Lúc nào đức Phật cũng nói Khổ – Không, Vô thường, Vô ngã. Các Kiết sử Phiền não, v.v… những quả vị Thánh lúc nào đức Phật cũng nói. Lúc nào đức Phật cũng nói đoạn ác tu thiện, khuyến tấn ra khỏi sanh tử, lúc nào mà Phật chẳng nói như vậy, bộ kinh nào chẳng nói vậy. Quý vị cứ coi dần dần, thì quý vị ấn được một pháp [gọi là] Tam [pháp] ấn: Khổ – Không, Vô thường, Vô ngã nằm trong tâm quý vị. Quý vị mở bộ kinh nào mà thấy không nói về Khổ – Không, Vô thường, Vô ngã, thì quý vị biết đó không phải là Chánh pháp của Như Lai. Đáng lẽ dạy chúng ta sáng suốt, tự nương bước chân mình đi, tự làm ốc đảo của chính mình mà không dạy, [lại] dạy chúng ta nương tựa vào một điều gì đó mê tín, không rõ ràng, thì đó là tà, cầu cúng gì đó v.v… là tà thôi.

Tự mình biết chứ cần ai nữa. Còn bây giờ nghe thầy này nói cũng hay, thầy kia nói cũng hay quá, tại vì mình không có Chánh kiến nên nghe điều nào cũng hay. Còn nếu có Chánh kiến rồi, thì xin lỗi quý vị, người ta có nói trời nói đất cũng không nghe được đâu, tại sao? Tại vì có pháp ấn rồi. Cho nên chịu khó học đi, bỏ thời gian ra nghe, học một thời gian. Thiện Trang không nói Thiện Trang đúng hay sai, quý vị không nên nói Thiện Trang đúng hay sai, mà hãy coi kinh Phật thì sẽ biết Thiện Trang đúng hay sai. Cho nên bây giờ [Thiện Trang] không tuyên truyền như hồi xưa nữa, hồi xưa mình không biết nên mình tuyên truyền. Giờ Thiện Trang nói hình như mình cũng có Tâm sở Hối (hối hận), nhiều khi ngày xưa mình tuyên truyền như vậy, mà thôi, bây giờ tùy duyên, không sao hết.

Thiện Trang nói nếu có cơ hội, sau này Thiện Trang trở lại giảng Kinh Vô Lượng Thọ thì sẽ giảng khác, giảng một cách tuyệt vời hơn. Có nghĩa là mình tự tại, thoải mái, không ép buộc ai hết. Học và giảng theo đúng tiêu chuẩn lấy Kinh A Hàm, Nikaya để chú giải cho Kinh Vô Lượng Thọ. Tức là câu kinh văn này trong Kinh Vô Lượng Thọ, bên Kinh Nikaya nói như thế nào, giải thích thuật ngữ đó như thế nào, Kinh A Hàm giải thích như thế nào, hoặc Kinh Đại Bảo Tích giải thích như thế nào, v.v… Lấy toàn kinh ra để chú giải lại cho Kinh Vô Lượng Thọ. Giảng như vậy quý vị nghe còn đã hơn nữa, bởi vì toàn trong lời Phật. Lời Phật nhiều hơn, tốt hơn lời Tổ. Tất nhiên lời Tổ cũng tốt rồi, nhưng lời Phật càng đáng tin hơn, cho nên hy vọng tương lai sẽ làm được như vậy.

Không sao! Mình cứ tự tại, vì tương lai không truy tìm, không truy cầu, có duyên thì làm, không có duyên thì thôi, làm được bao nhiêu thì làm. Ngày mai biết đâu lên tăng xông (lên máu) chết biết đâu được, đời vô thường mà, chúng ta phải luôn luôn thường trực nhận thức đời là Vô thường. Không tham, không mong cầu gì ở thế gian, có duyên thì làm. Sống một ngày ráng nỗ lực một ngày, sống hai ngày ráng nỗ lực hai ngày, tương lai ta không biết như thế nào, kệ! Thiện Trang chia sẻ như vậy.

Còn quý vị đồng tu nào theo Nam truyền nói kinh đó là kinh phi Phật thuyết, mai mốt nếu Thiện Trang có duyên chia sẻ thì quý vị thấy có phải phi Phật thuyết hay không? Tại vì mình chưa coi thì làm sao mình đánh giá được. Muốn đánh giá là mình phải coi, điều đó có khớp với Kinh A Hàm và Kinh Nikaya hay không? Nếu khớp thì không phải là phi Phật thuyết. Nếu nói không phải là Khổ – Không, Vô thường, Vô ngã, không đúng với Tam pháp ấn: Khổ – Không là một cặp đi [với nhau], [cùng với] Vô thường, Vô ngã nữa là thành Tam pháp ấn. Mình nói bốn điều, nhưng thực ra Khổ là Không, Vô thường, Vô ngã. Quý vị coi thử Kinh Vô Lượng Thọ có những điều đó không? Chứ nhiều khi cứ nghe không [thôi], qua [người nào] diễn dịch lại sẽ không thể đúng được, nếu như mình không tự tìm hiểu. Thiện Trang chia sẻ như vậy.

Cho nên khi chúng sanh đối diện với một cảnh không mong muốn, thì sự Sân, sự ghét, sự ác cảm sinh khởi. Nên khi mình gặp những gì không mong muốn, thông thường mình bị sân. Cho nên sống ở đời có một chiêu để tránh, đức Phật dạy là: “Thiểu dục tri túc” là ít muốn biết đủ, và “Tri túc thường lạc” là biết đủ thường vui. Mình càng mong cầu bao nhiêu, thì chắc chắn mình sẽ sân nhiều bấy nhiêu, bởi vì không đạt được.

Và Sân này, đầu tiên là hủy hoại tự thân trước khi hủy hoại tha nhân. Tức là nó hại mình trước rồi hại người sau. Hại mình theo hai phương diện về khoa học và tâm linh. Khoa học là gì? Một khi sân tức lên, thì quý vị thấy người có dễ chịu không? Tiến sĩ Masaru Emoto người Nhật (ông Giang Bổn Thắng) nghiên cứu rồi, sân sẽ [làm cho] nước kết tinh xấu, khi đưa vô tủ lạnh rồi chụp dưới kính hiển vi thì thấy nước [kết tinh] xấu. Vậy thì theo quảng cáo của Aquafina: 70% cơ thể bạn là nước, thì mỗi lần quý vị sân lên là nước trong mình xấu. Cho nên một hồi người nào sân nhiều thì mặt mày nhìn là biết liền. Chuyển biến đầu tiên là mặt nhăn hơn, khó chịu hơn, sân lên, rồi xấu, da dẻ không đẹp, không căng bóng được đâu, mà [mặt mày nhìn] khó chịu lắm. Cho nên người sân nhìn tướng là biết sân, [bởi vì Sân] hủy hoại mình về mặt Vật lý Khoa học.

Về tâm linh, Sân là nhân để đưa vào các cõi khổ, thọ các quả báo khổ, ví dụ như Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sanh. Nếu chúng ta nói nặng, thì sân quá nặng sẽ đọa vào Địa ngục. Nói như vậy là một cách nói theo Kinh Thập Thiện. Thực tế khi quý vị tu kha khá hơn, sân nhiều nhưng có phước thì chỉ vào A-tu-la thôi, không vào Địa ngục. Còn sân nhiều thì có thể làm sư tử, làm mấy loài hung dữ, hoặc làm người nhưng là người không có phước báu. Cho nên Sân là một yếu tố. Mà đọa Địa ngục là thuộc về Tà kiến, nặng về Tà kiến thì đọa vào Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sanh nhiều hơn; Sân chỉ là một yếu tố thôi.

Cho nên hủy hoại [một] mặt về chính mình, còn huỷ hoại người khác, [điều này] không cần phải bàn. Quý vị sân rồi thì ai cũng sợ hết. Thiện Trang bây giờ sợ mấy người sân lắm, ở gần những người sân thì mình thấy bất an. Mình mà còn cảm thấy bất an, đừng nói gì người khác, cho nên mình né được ai thì né bớt đi. Hồi xưa thì thích tiếp duyên, nhưng bây giờ Thiện Trang sợ lắm, ai mà sân quá thì thôi né đi cho khoẻ. Tại vì mình biết cảnh giới tu Thiền, mình học các bước tu Thiền là đừng thân gần, đừng ở gần những người nào hay sân, hay buồn phiền, hay thế này thế kia. [Họ] nhiều Phiền não là mình phiền não theo, suốt ngày họ mang cho mình [thêm Phiền não] thôi. Cho nên hãy ở bên những quyến thuộc, những người nào vui vẻ, vui tươi, lạc quan, yêu đời, v.v… thì quý vị dễ tu lắm. Còn người nào suốt ngày buồn rầu, buồn rầu là sân đó, còn sân kiểu giận tức, tâm tánh bất thường, lúc nổi điên, lúc nổi khùng, giận dỗi, [những điều] đó khổ lắm.

Mà Thiện Trang thấy điều này là thiện căn nhiều đời của mỗi người hay sao đó, không phải là trẻ nhỏ hay người lớn, trẻ nhỏ hay người lớn không quan trọng, mà do thiện căn nhiều đời. Nhiều người già rồi cũng sân, cũng si, cũng giận hờn y như trẻ nhỏ, là [Thiện Trang] cũng sợ lắm. Ở đây quý vị nào mà sân quá là Thiện Trang xin phép né.

Sân có nhiều điều, [nhưng] thông thường có thể hiện ra trạng thái trả thù, cách tính của ác độc là tính ác độc và thái độ ác độc; cách tính ám hại là sự ám hại, thái độ, và tính ám hại; sự sân, sự tức tối, sự hung hãn v.v… Nói chung điều nào mà biểu hiện ra như vậy là tâm sân nặng quá rồi. Cho nên bốn ý nghĩa của Tâm sở Sân: 1. Là trạng thái làm cho thân tâm thô tháo. Điều này rõ ràng, quý vị mà sân là làm việc thô tháo, làm việc tầm bậy, làm việc sai, không đúng nữa. 2. Phận sự là thiêu đốt sắc, ý vật, và nơi nương tựa của mình nóng nảy. Tức là thiêu đốt, làm nóng, nói chung là hủy hoại xung quanh, tính nóng nảy. 3. Thành tựu là hư hoại thân tâm. Cho nên là hư hoại cả thân lẫn tâm. Đừng dại mà sân nha! Sân ở đây có nhiều yếu tố, như ở [phần] trên [nói] Sân là sự tức giận, hờn, buồn rầu, sự ghét, ác cảm, sự thâm thù, v.v… chứ không phải là sân bình thường mà chúng ta học. Đó là chúng ta học cạn quá. 4. Nhân gần nhất (nhân cận) là độ sát hại. Nói chung do mình tiếp xúc với những thứ gì mà không hài lòng.

Và Sân cũng là một Tâm sở Biệt cảnh. Vì sao? Biệt cảnh tức là có lúc không có tâm sở Sân trong những Tâm sở xấu. Quý vị coi lại Tâm [sở] Sân nằm ở Biệt cảnh thôi. Có những lúc mình không có sân đâu. Vậy lúc nào không sân? Điều này cũng khó đúng không? Lấy ví dụ, trong Tâm sở xấu (Tâm sở Bất thiện), thì tất nhiên bốn [Tâm sở]: Si, Vô tàm, Vô úy, Trạo cử thì có rồi. Bây giờ mình coi thử trong 3 nhóm [Tham phần, Sân phần, Trì trệ và Do dự] thì có điều nào không có Sân không? Ví dụ như Nghi thì không có Sân, có những điều mình nghi đâu có vì sân đâu. Mình muốn biết pháp đó, mình muốn hiểu vấn đề đó nên mình nghi, lúc đó mình đâu có sân, mình nghi để mình học hỏi mà.

Còn Ngã mạn thì dễ đi theo Sân. Hoặc đôi khi có những cái tham mà mình đạt được thì mình không sân. Ví dụ quý vị đang tham ăn, ăn ngon, uống nước ngọt được thoả mãn thì đâu có sân, lúc đó Tham không đi chung với Sân. Nhưng tham không được thì mới sân, chứ không phải lúc nào cũng sân. Rồi lúc buồn ngủ, ngủ bình thường thì không sân. Còn khi ngủ mà bị quay hình, lên video, thấy người ta nói, v.v… thì mới nổi sân. Hoặc đôi mình không muốn ngủ mà cứ buồn ngủ, cho nên mình buồn phiền, bực mình với chính mình, nên sân. Nên trong trạng thái Hôn trầm, Tâm sở Hôn trầm có thể đi chung với Sân và cũng có thể không đi chung với Sân. Chúng ta thấy [rõ] được rồi nha.

Thời gian hôm nay đã hết rồi, mà [Thiện Trang] mới giảng tới [Tâm sở] Sân, để hôm sau Thiện Trang cố gắng chia sẻ hết mấy Tâm sở. Chúng ta dành mấy buổi để học về Tâm sở, để quý vị ứng dụng thực hành trước. Còn kiến thức của bộ Luận Câu Xá thì từ từ mình học bổ sung sau, bởi vì có nhiều [kiến thức] lắm. Ví dụ quý vị muốn học các địa vị Hiền, Thánh, quý vị phải học từ Sơ quả đến Tứ quả A-la-hán, rồi học Tứ gia hạnh, Tùy tín hành, Tùy pháp hành v.v… Những điều đó phải học hai chương, hai phẩm, thì quý vị mới học được. Noãn vị thôi cũng phải một đoạn, cho nên rất dài. Những điều đó đều quan trọng cả, thì chúng ta phải học từ từ.

Ở đây chúng ta tranh thủ đưa lên những tâm đắc, những điều quan trọng để dạy trước. Nếu quý vị học bộ A Tỳ Đàm, hay bộ Vi Diệu Pháp thì bao giờ mới tới đây. Mà khi học tới đây thông thường người ta giới thiệu rất nhanh, cho nên mình học mà mình không ứng dụng được. Thiện Trang thích mình học tới đâu thì mình xài được tới đó, thà biết ít nhưng biết tới đâu dùng được tới đó, thì mình đi được một đoạn đường. Còn mình biết nhiều kiến thức, nói thì vanh vách, nhưng mình không ứng dụng được, tức là pháp đó không hiệu quả.

Phật pháp là pháp để thực hành, pháp là để thực hiện, để được lợi ích ngay. Cho nên mong quý vị thông cảm, chúng ta cứ đi chậm chậm. Thiện Trang tin những bài giảng như vậy tương lai sẽ được nhiều người truyền hơn, bởi vì những điều này ứng dụng thực tế, bất cứ tông phái nào, Pháp môn nào cũng cần. Mới đầu người ta thấy lạ, lạ thì thông thường khó tiếp nhận. Giống như trong một khu rừng có nguyên một đàn khỉ sống quen rồi, tự nhiên có một con khỉ rất đẹp, rất dễ thương tới, nhưng thấy con khỉ lạ thì chúng tấn công. Cũng vậy, có những gì không quen với mình thì khó tiếp nhận, nhưng thời gian quen rồi thì mình sẽ dễ dàng tiếp nhận, nếu như mình biết điều đó hiệu quả, lợi ích.

Quý vị thấy hiệu quả, lợi ích thì hãy cố gắng giới thiệu cho những người nào có duyên, biết đâu họ nghe thì sẽ thay đổi được đời tu của họ. Không phải Thiện Trang quảng cáo Thiện Trang, nhưng chỉ mong là giúp cho giáo pháp của Như Lai được truyền ở đời. Thêm một chút nữa, phần nhỏ thôi, không lớn, cũng giúp cho những người tu có tâm muốn giải thoát sanh tử, muốn đến bờ kia Niết-Bàn, thì họ ứng dụng được chút nào đó. Chúng ta chính là những người đồng tu, đồng học thôi, tương lai chúng ta đều nhận đức Phật làm thầy chứ không có ai làm thầy đâu. Quý vị chứng Sơ quả Tu-đà-hoàn chỉ nhận Phật làm thầy thôi, không nhận người khác làm thầy. Chúng ta chỉ là đồng học.

A Mi Đà Phật! Thời gian hôm nay hết rồi, Thiện Trang xin chia sẻ đến đây, hẹn quý vị vào buổi khác. Mời quý vị chúng ta cùng hồi hướng.

“Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ

Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn

Pháp môn vô lượng thệ nguyện học

Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành”.

“Nguyện đem công đức này

Hướng về khắp tất cả

Đệ tử cùng chúng sanh

Đều trọn thành Phật đạo”

A Mi Đà Phật!