Responsive Menu
Add more content here...

Luận Câu Xá – Phẩm 1 – Buổi 29

Giảng Ký A Tỳ Đạt Ma Câu Xá Luận (A Tỳ Đàm – Vi Diệu Pháp – Duy Thức Pháp Tướng) – Tạo Luận: Tôn giả Thế Thân – Dịch và Chú Thích: Tam tạng Pháp sư Huyền Trang – Bài 29: Phẩm 1 – Phân Biệt Giới – Buổi 29.

Giảng giải: Thầy Thích Thiện Trang

Giảng ngày: 12.02.2025

Phát trực tiếp trên Kênh YouTube Thích Thiện Trang

https://www.youtube.com/watch?v=eHeK68W85c8

mạng xã hội Facebook, Fanpage Thích Thiện Trang:

https://www.facebook.com/suthaythichthientrang

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật!

          Nam Mô A Mi Đà Phật!

Kính chào toàn thể quý vị đồng tu! Hôm nay là thứ Tư, chúng ta học về A Tỳ Đạt Ma Câu Xá Luận. Bài hôm nay là bài 29. Mấy bữa [gần đây], Thiện Trang đang cố gắng đưa phần nền tảng căn bản là kinh tạng, vào để học trước, và có một phần A Tỳ Đàm. Còn Luận Câu Xá, hình như mấy buổi rồi Thiện Trang không có chia sẻ. Để chúng ta có một nền tảng, khi vô học Luận Câu Xá thì sẽ dễ hơn. Chứ nếu vô [Luận] Câu Xá luôn thì có nhiều phần tương đối khó, Thiện Trang thấy là có nhiều phần khó. Cho nên đó là lý do tại sao chúng ta đang dừng lại một chút, chúng ta học một vài buổi nữa về phần kinh tạng, phần A Tỳ Đàm, rồi chúng ta sẽ học sâu chuyên về Luận Câu Xá.

          Thiện Trang xin phép mở màn buổi hôm nay, [là chia sẻ] một khai thị của đức Phật trong một bài kinh:


 Khai Thị Của Đức Phật

Tôi nghe như vầy: Một thời, đức Phật trú tại vườn ông Cấp Cô Độc, rừng cây Thái tử Kỳ Đà, nước Xá Vệ.

Bấy giờ, Phật bảo các Tỳ-kheo: “Thế gian có năm sự cực kỳ không thể đạt được. Những gì là năm? Vật phải mất mà muốn cho không mất, đó là không thể được.

Đây là điều thứ nhất ở thế gian chúng ta. Đây là một khai thị về Vô thường. Vật phải mất, tức là vật sẽ mất mà muốn cho không mất, đó là điều không thể được. Có nghĩa là ở tại thế gian này, cho dù quý vị muốn hay không muốn, dù có mong cầu, dù có mong là mình có được điều gì đó mãi mãi trên cuộc đời này, thì điều đó cũng không thể được.

Không biết quý vị thế nào, chứ Thiện Trang càng ngày cảm thấy điều đầu tiên mà mình không được, đó là thân thể. Thân thể của mình là vô thường. Có lẽ những người hai mươi mấy tuổi, mười mấy tuổi, thì không cảm nhận được lắm. Nhưng khi quý vị bước lên hàng ba, tức là U30, thì bắt đầu cảm nhận thấy sức khỏe của mình không bằng được như thời trẻ. Hồi nhỏ, cỡ nào quý vị cũng khỏe hết. Thiện Trang nhớ hồi nhỏ, [lúc] Thiện Trang [học] cấp II, cấp III, đi dầm mưa, đá banh cả buổi chiều không sao cả. Nhưng tới chừng hai mươi mấy tuổi, rồi qua 30 tuổi, tuy không đá banh nữa (vì hồi đó học Phật pháp rồi), nhưng nếu qua một cơn mưa thôi là bị bệnh, có thể về bị cảm.

Bây giờ qua 40 tuổi rồi, thì càng thấy hình như sức khỏe của mình xuống thêm một bậc nữa, không còn khỏe mạnh như xưa. Hồi xưa chịu trận giỏi lắm, khỏe lắm, cỡ nào cũng chịu được. Nhưng sau này, ví dụ như làm việc nhiều hay làm gì nhiều, thì cảm thấy mỏi mệt, rã rời. Ví dụ Thiện Trang ở trên đảo, lâu lâu kéo một số đồ vật, vì ở trên này xe không có tới nơi. [Khi] kéo một số đồ nặng nặng, kéo xong chừng một ngày thôi, thì ngày hôm sau là thấy người rã rời. Chứng tỏ là theo năm tháng, sức khỏe của chúng ta không [còn] đảm bảo được nữa. Đó là nỗi khổ của thế gian. Nỗi khổ này gồm nỗi khổ của Cầu bất Đắc khổ, già khổ, bệnh khổ, chết khổ, v.v… có tám nỗi khổ.

Đầu tiên, ở đây đức Phật nói là vật mất mà muốn cho không mất, đó là không thể được. Cho nên ở đời có nhiều việc, nhiều thứ, chắc chắn cũng phải ra đi. Có những thứ mình muốn xài mãi mãi cũng không được. Giống như ở thế gian, Thiện Trang thấy Tết này cũng có những thông tin tai nạn. Nhiều người đi xe bị hư xe, bay xe xuống vực, bay xe xuống ruộng, bay xe xuống sông, xuống hồ, v.v… Đó là những gì mà mình thấy được. Vật [phải] mất mà muốn không mất thì không được.

Pháp diệt tận mà muốn cho không diệt tận, đó là không thể được. Đây là điều thứ hai, đáng lẽ đánh số 1, 2… thì rõ hơn. Điều này [đối với] các pháp cũng vậy thôi. Ở thế gian, các pháp là vô thường, dù cho là gì thì cũng đến lúc diệt tận. Ngay cả Phật pháp mình, rồi đến lúc nào đó thì trên thế gian này cũng không còn. Chúng ta không cần nói đâu [xa], chúng ta nói tại đất Phật (Ấn Độ), bây giờ Phật pháp cũng không bằng thời xưa nữa. Dân Ấn Độ gần như không biết về Phật pháp, chỉ có những người ở quốc gia khác, và dần dần như thế thì [Phật pháp] cũng sẽ diệt thôi. Mình không có cách nào. Dù đức Như Lai có ra đời, giúp cho thì cũng không được. Bởi vì đó là quy luật Vô thường.

Pháp già mà muốn cho không già, đó là không thể được. Pháp bệnh mà muốn cho không bệnh, đó là không thể được. Pháp chết mà muốn cho không chết, đó là không thể được. Ba điều phía sau [này] 3, 4, 5 là già, bệnh, chết. Chắc chắn! Ai trong đời rồi cũng phải già, không thể nào sống mà không già. Nếu quý vị muốn sống mà không già, thì quý vị hãy chuyển lên cõi Trời, hoặc chuyển về Tây Phương Cực Lạc, hoặc đến Thế giới khác. Chứ Thế giới này thì có pháp già.

Quý vị thấy ở cõi chư Thiên, chư Thiên thực ra nói không già cũng là một khái niệm tương đối. Vì đến lúc sắp mạng chung, thì họ cũng có năm tướng suy hao hiện ra nơi thân, ở một số cõi Trời. Tất nhiên, ở một số cõi Trời khác không có chuyện đó, nhưng có một số cõi Trời thì có năm tướng suy hao. Năm tướng suy hao đó thời gian không lâu, cho nên cũng có thể nói thời gian đó là già.

Và ai [rồi] cũng già, quý vị dần dần theo năm tháng cũng thấy mình đã già. Đây là điều không thể [tránh] được, cho nên chúng ta mới tu hành. Nếu cho quý vị sống mãi mãi, sống lâu kiếp kiếp đời đời, luôn luôn khỏe mạnh, thì chắc chắn chúng ta không cần tìm đến Phật pháp đâu. Tại vì trong kinh, đức Phật nói: Nếu không có những nỗi khổ sanh, già, bệnh, chết, thì đức Như Lai không xuất hiện ở nơi đời. Nếu không có những nỗi khổ như sanh, già, bệnh, chết, thì đức Phật xuất hiện nơi đời để làm gì? Đức Phật ra đời để cứu khổ cho chúng sanh. Cho nên chúng ta rất may mắn, chúng ta biết được Phật pháp, đó là chúng ta tự cứu mình.

Điều tiếp theo là pháp bệnh, pháp chết. Chết thì ai cũng sẽ chết thôi, không thể nào [không chết] được.

Này các Tỳ-kheo, đó là năm sự cực kỳ không thể đạt được. Dù Như Lai xuất thế hay Như Lai không xuất thế, pháp giới vẫn hằng trụ như vậy, mà những tiếng sanh, già, bệnh, chết, vẫn không có mục nát, không bị diệt mất. Cái gì sinh ra, cái gì chết đi, đều quay về gốc.

Quý vị nhớ đây là đoạn khai thị rất quan trọng. Đó là năm điều cực kỳ không thể đạt được. Dù đức Phật (đức Như Lai) có ra đời hay không ra đời, có xuất thế hay không xuất thế, thì Pháp giới vẫn hằng trụ như vậy. Và những tiếng sanh, già, bệnh, chết, vẫn không có mục nát, không bị diệt mất. Cái gì sinh ra, cái gì chết đi, cuối cùng cũng quay trở về gốc. Đây là một sự thật. Tuy hôm nay là rằm tháng Giêng rồi, cũng là năm mới, nhưng chúng ta cũng phải chấp nhận điều đó.

Có nghĩa là Pháp giới vẫn thường hằng như vậy, quy luật vẫn như vậy. Đức Như Lai ra đời chỉ là chỉ cho chúng sanh, gọi là ‘khai thị chúng sanh, ngộ nhập Phật tri kiến’. Chúng ta biết như vậy để chúng ta tu hành. Nếu như biết như vậy thì có lợi ích gì không? Có lợi ích! Đức Phật nói ở đây:

Này các Tỳ-kheo, đó gọi là có năm sự này khó được. Hãy tìm cầu phương tiện tu hành năm căn. Sao gọi là năm? Đó là Tín căn, Tinh tấn căn, Niệm căn, Định căn, Huệ căn. Đó gọi là, Tỳ-kheo, hành năm căn này, thành Tu-đà-hoàn, Gia gia, Nhất chủng, lên nữa thành Tư-đà-hàm, chuyển lên nữa diệt năm Kiết sử thành A-na-hàm ở trên kia mà nhập Niết-bàn chứ không trở lại đời này nữa, chuyển lên nữa diệt tận Hữu lậu thành Vô lậu, Tâm giải thoát, Huệ giải thoát, tự thân tác chứng, tự an trú, biết như thật rằng không còn thọ thai nữa. Hãy tìm cầu phương tiện trừ bỏ năm sự trước, sau đó tu năm căn.

Ở đây Thiện Trang chỉ cho quý vị thêm một đoạn khai thị. Đoạn này chúng ta thấy là: nếu chúng ta hiểu được vấn đề ở trên, vấn đề ở trên là sự thật về khổ, chỉ có sự thật về khổ thôi, chẳng có gì hết. Vẫn là bài Khổ, Không, Vô thường, Vô ngã, suốt ngày nói thế thôi. Nếu quý vị hiểu được năm điều đó rồi, thì tu thêm năm căn (Ngũ căn): Tín căn, Tấn căn, Niệm căn, Định căn, Huệ căn. Nếu tu được như vậy thì thành Tu-đà-hoàn, Gia gia, Nhất chủng. Những địa vị này chúng ta đều [học qua] rồi. Tu có năm căn này thôi, cho nên Ngũ căn này cũng là một trong những cách để vào Sơ quả Tu-đà-hoàn. Chúng ta đã nói rồi, đây cũng là cách để vào Sơ quả Tu-đà-hoàn.

Thậm chí Tu-đà-hoàn này ngon hơn nữa, là Gia gia (còn hai, ba đời nữa trong cõi Dục, mà đời tôn quý), Nhất Chủng (còn một đời nữa trong cõi Dục). Lên nữa mới thành Tư-đà-hàm, rồi tiến lên nữa diệt năm Kiết sử mới thành A-na-hàm. Chỗ Gia gia, Nhất chủng theo Kinh này thì chúng ta thấy nằm dưới Tư-đà-hàm. Nhưng cũng khó xếp lắm, có chỗ thì xếp lên trên Tư-đà-hàm. Nhưng ở đây theo kinh này thì xếp theo [trên] Tu-đà-hoàn và dưới Tư-đà-hàm. Trong một bộ kinh, hình như có [đoạn] ngài Xá Lợi Phất đối đáp với ngài gì đó: là chỗ này khó xếp, vì khó mà nói được. Có khi họ có thể là A-na-hàm, tại vì họ còn một đời ở trong cõi Dục thôi, cho nên có thể xếp họ trên Tư-đà-hàm.

Nếu [chuyển lên] nữa thì họ trở thành A-na-hàm. Và khi là A-na-hàm rồi thì lên trên kia (là từ Sơ thiền trở lên), thì không bao giờ trở lại cõi này nữa, diệt hết Hữu lậu thì thành Vô lậu, được Tâm giải thoát và Tuệ giải thoát. Đây là quả chứng của A-la-hán.

Cho nên tu năm căn này cũng quan trọng: Tín căn, Tinh tấn căn, Niệm căn, Định căn, Huệ căn. Điều này chúng ta đã học qua rồi. Nếu như quý vị đồng tu nào quên thì không sao, chúng ta cũng [nhớ lại] được, bởi vì bộ này học đi học lại rất nhiều, và toàn học trong kinh Phật, ngắn lắm. Thiện Trang thích định nghĩa trong kinh, vừa ngắn gọn, vừa súc tích, vừa dễ hành. Còn những người giảng ra hình như rối hơn và càng khó hành, cảm thấy xa xôi, khó quá, cao siêu quá, nên khó hành. Còn trong kinh, Thiện Trang thấy đức Phật định nghĩa rất dễ. Hôm bữa chúng ta học rồi, quý vị nhớ không? Không nhớ thì chút nữa có định nghĩa lại trong này luôn.

Các Tỳ-kheo, hãy học điều này như vậy”.

Các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

(Kinh Số 6 – 34. Phẩm Đẳng Kiến – Thuộc Tăng Nhất A Hàm).

Như vậy chúng ta thấy, để tu thì tu Tín căn, Tinh tấn căn, Niệm căn, Định căn, Huệ căn, cũng có thể thành tựu. Chứ không phải khó quá đúng không? Ngày xưa mình thấy tu gì đâu mà khó quá, không biết Sơ quả Tu-đà-hoàn tu làm sao? Nhưng bây giờ chúng ta thấy dễ, có nhiều cách. Đây không phải chỉ Sơ quả Tu-đà-hoàn đâu mà có thể là Gia gia, Nhất chủng (cũng là Tu-đà-hoàn đấy, nhưng Tu-đà-hoàn cao hơn), hoặc Tư-đà-hàm, A-na-hàm, thậm chí thành A-la-hán.

Như vậy đoạn khai thị này quan trọng, vẫn là khai thị về Vô thường, Khổ, Không, Vô ngã thôi, và nên nhớ năm căn. Nếu quý vị không nhớ năm căn thì coi lại bài trước, còn chút nữa hình như cũng có ở đây.

Thiện Trang tiếp tục trích thêm một đoạn nữa:

Dấu Hiệu Thoái Chuyển Trong Tu Hành

(Đây cũng là lời của Phật. Thiện Trang xin trích một đoạn thôi, trong bài kinh dài lắm).

Tại đây, Tôn giả Sāriputta gọi các Tỷ-kheo: – Này các Hiền giả Tỷ-kheo. (Đây là Kinh Nikaya, nên Tôn giả Sāriputta tức là ngài Xá Lợi Phất. Ngài Xá Lợi Phất nói với các Tỳ-kheo: ‘Này các Hiền giả Tỷ-kheo’. Các Tỳ-kheo đáp)

– Thưa vâng, Hiền giả.

Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Tôn giả Sāriputta (Xá Lợi Phất). Tôn giả Sāriputta nói như sau: – Thưa các Hiền giả, Tỷ-kheo hay Tỷ-kheo-ni nào thấy trên tự thân (trên chính mình) có bốn pháp này, cần phải đi đến kết luận rằng: “Tôi thối đọa khỏi các thiện pháp”. Ðây được Thế Tôn gọi là thối đọa. Thế nào là bốn?

Ở đây nói rất rõ, đây là dấu hiệu để mình biết mình tu mình có bị thối đọa hay không? Người miền Nam gọi là thối, người miền Bắc gọi là thoái, tức là thoái chuyển hay thối đọa. #Thoái đọa: #thoái tức là lùi; #đọa là rớt xuống; ngôn ngữ dịch là lui sụt hoặc là thoái chuyển, [dịch] cách nào cũng được. Mình coi mình có dấu hiệu đó không. Cho nên trong kinh nói hết, chúng ta chỉ cần học kinh là biết. Bốn dấu hiệu này:

Tham ái tăng thịnh, sân tăng thịnh, si tăng thịnh, đối với các vấn đề có mặt, không có mặt, không có tuệ nhãn soi thấu. Có nghĩa là mình tu một hồi, mà mình thấy tham ái của mình tăng mạnh hơn (#thịnh là mạnh hơn), hoặc là thấy sự sân của mình tăng mạnh hơn, rồi mình thấy si của mình tăng thêm mạnh hơn, là mình biết mình đang thoái chuyển. Rồi đối với các vấn đề có mặt, không có mặt, không có tuệ nhãn soi thấu.

Ba vấn đề đầu thì dễ rồi, nếu mình tu, mà càng ngày mình càng tham, thì chắc chắn là sai rồi. Mình tu mà càng ngày mình càng sân, là cũng có vấn đề rồi, càng ngày càng si (si là si mê, si mê ở đây có nghĩa là Tà kiến). Tức là thay vì mình tu thì mình phải càng sáng suốt, mình phải đi đúng con đường Chánh pháp. Nhưng bây giờ mình tu, mà càng ngày mình càng si mê, bái ông thầy đó quá, thích ông thầy đó quá, Phật dạy kệ Phật, con đi theo con đường của con thôi, chẳng hạn như vậy. Chả cần biết người đó dạy có đúng [lời] Phật, đúng kinh hay không, không quan tâm. Những người đó, si càng ngày [càng nhiều], thì đó là thoái chuyển.

Thời nay quý vị thấy [những người như vậy] rất nhiều. Thông thường phong trào thời nay là thờ thầy hơn thờ Phật. Đây là một bệnh khiến cho chúng sanh thoái đọa trong tu hành thời nay. Vì thờ thầy, nên ai chửi thầy mình, ai nói ngược với thầy mình, dù đó là chân lý mình cũng không chấp nhận. Như vậy tính sân tăng thịnh, tham ái tăng thịnh, bởi vì tham tín đồ, tham đồng tu. Tức là mình kéo cho đông người vô, mặc dù pháp của mình không chính xác. Và có những điều [như] tham thế gian nữa, ví dụ tham cái này, tham cái kia, đủ các kiểu, tài sản, v.v…

Điều thứ tư, là vấn đề có mặt hay không có mặt, mình không có tuệ nhãn để soi thấu. Tức là mình không phân biệt được đúng hay sai, thiện hay ác gì hết. Thiện Trang nói chúng ta bây giờ có kính soi, kính chiếu yêu, [là] Sư Minh Tuệ. Ngài đi, ngài hành trì như vậy, và chúng ta thấy chúng sanh mê rất nhiều. Người không học Phật pháp, thấy ngài như thế thì tôn sùng, nhưng không hiểu. Số đó cũng có. Nhưng đáng tiếc hơn, là những người [học nhưng] không biết gì về Phật pháp, mà tham ái tăng thịnh, sân tăng thịnh, si tăng thịnh. Tức là vô chửi bới, thế này thế kia v.v… rồi không biết vấn đề đó đúng hay sai, cứ theo sự dẫn dắt của những người kia, v.v… thì đó là dấu hiệu đang thoái chuyển trong tu hành.

Vì sao? Mình không nói ngài là thần thánh gì hết, nhưng ít nhất mình soi ra, thì ngài cũng làm theo đúng trong kinh. Trong kinh đức Phật dạy, ngài [tu theo] 13 hạnh Đầu đà và giữ giới. Ngài làm đúng như thời đức Phật, gọi là Hành cước tăng hay Chiêu đề tăng. Làm được như vậy, trong kinh nói đó là phước điền. Tại vì cúng dường Chiêu đề tăng là phước báo lớn lắm. Thế nhưng chúng sanh thời nay mê, nghe chuyện gì đó, họ không có suy xét được, không phân biệt [được] đúng sai. Ví dụ như hồi bữa ngài nói ngài không thuộc 250 giới, thì bắt đầu chúng sanh kêu: ‘Vậy là ổng không biết giới gì hết’, thế này thế kia, chẳng hạn.

Bây giờ cho quý vị lên mạng search, quý vị tìm đủ 250 giới, và so 250 giới đó, có giới nào mà ngài không làm được? Coi thử coi, mình hãy coi trên sự thật. Cho nên thật ra chỉ có ba giới: không tham, không sân, không si. Nhưng tại vì ba [giới] đó khó [hành trì], nên Phật mới chia chẻ ra từng điều nhỏ. Và đối với những người hỏi thì người ta không hiểu. Một bên thì nói theo đúng ngôn ngữ nhà Phật, một bên thì đem thế gian ra xài. Mà nếu mình nói là mình giữ giới, mình chấp tướng giữ giới thì cũng sai. Chính vì vậy ngài nói ngài không giữ giới. Và người ta muốn thắng là cho thắng thôi.

Cho nên có nhiều người không hiểu, và thật ra chúng sanh thời nay mê lắm. Thiện Trang nói [sự việc] đợt này là một cách, gọi là kính chiếu yêu, để coi thử ai tu hành ra sao. Những người nào tu hành, bây giờ có rất nhiều người quay lưng với Chánh pháp. Vì sao? Họ quay lưng Chánh pháp vì đụng tới lợi ích của họ. Chúng ta thấy đó là những người chưa thể bất hoại tịnh đối với Phật, bất hoại tịnh đối với Pháp, bất hoại tịnh đối với Tăng, và thành tựu Thánh giới. Hay nói cách khác, những người đó không có cách nào. Đời này họ chưa đủ tiêu chuẩn để vào Sơ quả Tu-đà-hoàn được, đúng không quý vị? Đó là điều rất đáng tiếc! Chỉ vì một vài lợi ích nhỏ nhỏ hiện đời mà họ sẵn sàng quay lưng với Chánh pháp, đó là những điều rất đáng tiếc.

Cho nên từ đó, bài thi để xét tiêu chuẩn, gọi là niềm tin bất hoại đối với Phật, niềm tin bất hoại đối với Pháp, niềm tin bất hoại đối với Tăng, thành tựu Thánh giới, thời nay đa số không làm được.

Cho nên là mình thấy bốn tiêu chuẩn thoái đọa này là rõ ràng. Tăng thịnh thêm: tham ái, sân và si. Lên đó chửi ghê quá, mình thấy [vậy là biết họ] chả tu hành gì hết. Nếu thật sự tu hành, giả sử Thiện Trang nói: dù một người hành trì đúng hay sai, mà đi như vậy, thì mình cũng không quan tâm. Nếu như sai [thì mình] cũng không quan tâm. Huống hồ chi cứ vô chửi suốt, thì rõ ràng là sân tăng thịnh, tham ái tăng thịnh và si tăng thịnh, chả có [tu hành] gì hết. Từ đó xét ra là mình biết ngay, cho nên là không cần phải nói nhiều.

Thưa các Hiền giả, Tỷ-kheo hay Tỷ-kheo-ni nào thấy trên tự thân có bốn pháp này, cần phải đi đến kết luận rằng: “Tôi thối đọa khỏi các thiện pháp”. Ðây được Thế Tôn gọi là thối đọa. Cho nên ai có bốn điều này, thì mình biết là mình đang thoái chuyển đó.

Thưa các Hiền giả, Tỷ-kheo hay Tỷ-kheo-ni nào thấy trên tự thân có bốn pháp này, cần phải đi đến kết luận rằng: “Tôi không thối đọa khỏi các thiện pháp”. (Bây giờ thì ngược lại, là dấu hiệu mình đang tiến lên). Ðây được Thế Tôn gọi là không thối đọa. Thế nào là bốn?

Tham ái giảm thiểu, sân giảm thiểu, si giảm thiểu. Ðối với các vấn đề có mặt, không có mặt, có tuệ nhãn soi thấu. Ngược lại với trên, là nếu càng ngày mình tu, mà mình giảm bớt tham, giảm bớt sân, rồi giảm bớt si (tức là giảm bớt Tà kiến, mê mờ). Rồi những vấn đề nào đó, cho dù mình có mặt hay không có mặt, dù mình nghe qua hay mình chứng kiến v.v… vấn đề xuất hiện hay không xuất hiện, thì mình đều có tuệ nhãn, tức là mắt trí huệ để soi thấu, mình biết được việc đó đúng hay sai, thì đó là mình đang tu tốt. Người tu mà càng ngày càng u mê, càng ngày càng mê mờ, thì chứng tỏ là đi theo con đường thoái chuyển rồi.

Quý vị thấy nhiều đồng tu Tịnh Độ, họ tu rất tinh tấn, nhìn thì tinh tấn lắm, nhưng rõ ràng một thời gian họ sân ghê lắm, sân không có giảm thiểu mà sân tăng thịnh. Và sự tham của họ càng ngày càng lớn. Hồi xưa phát tâm là vì Chánh pháp, nhưng sau này là vì danh. Đạo tràng muốn cho đông, muốn đóng khung lại không cho người nào thoát ra khỏi. Ai đi chùa tôi, thì không được đi chùa khác, đến Đạo tràng của tôi mà còn đi tu ở Đạo tràng khác, nghe ông thầy khác là không được, chẳng hạn như vậy. Đó là đều tham, chứ không phải là tốt đâu.

Rồi si là sao? Si là si mê, càng ngày càng thờ tự một điều gì đó không đúng với Chánh pháp, mà mình không thay đổi được. Rồi có những vấn đề đúng sai thị phi, mà không phân biệt được đâu là đúng, đâu là sai. Đó là mình đang thối đọa. Và những người thoái chuyển, thì quý vị thấy rõ lắm.

Cho nên người học Phật là trí tuệ lắm, lúc nào cũng sáng suốt, rõ biết trong mọi tình huống. Và như vậy thì chúng ta đang là những người đi lên, nếu như chúng ta có được dấu hiệu đó.

Thưa các Hiền giả, Tỷ-kheo hay Tỷ-kheo-ni nào thấy trên tự thân có bốn pháp này, cần phải đi đến kết luận rằng: “Ta không thối đọa khỏi các thiện pháp”. Ðây được Thế Tôn gọi là không thối đọa.

((4.158) Thối Ðọa: Parihāni – Kinh Tăng Chi Bộ).

Đây là dấu hiệu [thối đọa và không thối đọa], trong Kinh Thối Đọa, Kinh 158, phẩm Bốn Pháp của Kinh Tăng Chi Bộ, quý vị có thể lên [đọc] tạng Kinh Nikaya.

Cho nên Thiện Trang thấy, là hầu như tất cả các vấn đề ở trong kinh đức Phật nói hết rồi, mình chịu khó học đi. Học Kinh A Hàm, Kinh Nikaya, A Tỳ Đàm, Luận Câu Xá, khi mình đầy đủ rồi thì quý vị muốn tu môn nào, tu pháp nào cũng có. Khi có Chánh kiến rồi thì không ai dụ được hết. Còn người ta vô, người ta dụ khéo lắm, nào là học theo ông thầy đó thôi, đừng coi kinh chi nhiều. Coi kinh nhiều loạn tâm, coi kinh nhiều là xen tạp, thế này thế kia… là dụ mình đó. Quý vị phải cẩn thận!

Trước hết [quý vị] coi thử vị thầy đó giảng có đúng theo kinh hay không? Nếu không đúng theo kinh, mà họ bảo như vậy, thì đó là đang dụ mình. Còn nếu giảng đúng theo kinh thì còn được, học không sợ loạn tâm thì đúng. Nhưng nếu không đúng theo kinh, mà bắt chỉ có nghe người ta thôi, đừng coi kinh nữa, là nguy hiểm lắm, coi chừng bị dụ đó.

Hôm nay Thiện Trang xin giới thiệu tiếp pháp niệm Tăng trong Kinh Tăng Nhất A Hàm. Hôm bữa mình học [đề mục] Tùy niệm Tăng ở bên Luận Thanh Tịnh Đạo rồi. Hôm nay chúng ta [xem pháp] này.

Pháp Niệm Tăng Trong Kinh Tăng Nhất A Hàm

Tôi nghe như vầy: Một thời, đức Phật trú tại vườn (ông) Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ Đà, nước Xá Vệ. Bấy giờ, đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

“Hãy tu hành một pháp. Hãy quảng bá một pháp. Đã tu hành một pháp rồi, liền có danh dự, thành tựu quả báo lớn, các điều thiện đủ cả, được vị cam lồ, đến chỗ Vô vi, liền được Thần thông, trừ các loạn tưởng, được quả Sa-môn, tự đến Niết-bàn. Một pháp ấy là gì? Là niệm Tăng”.

Đoạn này quý vị thấy nghe quen rồi đúng không? Vô phẩm Kinh Tăng Nhất A Hàm, lúc nào [cũng] có các pháp gọi là Lục niệm, có chỗ gọi là Thập niệm (10 pháp niệm). Và mở màn là lúc nào cũng: “Hãy tu hành một pháp. Hãy quảng bá một pháp. Đã tu một pháp rồi, liền có danh dự, thành tựu được quả báo lớn, các điều thiện đủ cả, được vị cam lồ, đến chỗ Vô vi, liền được Thần thông, trừ các loạn tưởng, được quả Sa-môn, tự đến Niết-Bàn. Một pháp ấy là gì?”. Chỉ đổi tên thôi.

Chúng ta thấy một pháp đó là niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm Giới, niệm Thí, niệm Thiên, niệm An-ban (niệm Sổ tức), [niệm Tử, niệm Thân, niệm An tịnh], có 10 pháp như vậy. Cho nên nếu mình học đầy đủ thì mình thấy pháp nào cũng được. Hồi xưa Thiện Trang mới tu, Thiện Trang cứ tưởng là phải tu tất cả các pháp, những pháp Thiền định cao siêu ghê gớm, hay pháp nào đó, chỉ có một pháp đó thì mới thành tựu. Nhưng sau này Thiện Trang biết là không phải. Quý vị biết không? Có những pháp rất đơn giản, cũng có thể thành tựu để ra khỏi sanh tử. Ví dụ quý vị đi cúng dường, thì cúng dường miết đi. Cúng dường rồi hồi hướng, thì mai mốt nghe pháp thế nào đó, rồi cũng đắc đạo, thành tựu thôi.

Nhưng quý vị nên nhớ, tuy pháp pháp như vậy, nhưng ở đây chúng ta chia ra ba hạng, chúng ta [đã] học ở bộ Luận Câu Xá này lúc đầu, quý vị nhớ không ạ? Hạng người chủng tánh tinh tấn là điều gì cũng làm hết, siêng năng kiểu đó, thì tu để thành Phật là hết 80 a-tăng-kỳ kiếp. Hạng người đức tin (là tin nhiều, tu kiểu chạy lung tung lang tang), thì họ tu sẽ mất 40 a-tăng-kỳ kiếp mới thành Phật. Và hạng người tu hành theo chủng tánh trí tuệ, thì tu mất 20 a-tăng-kỳ [kiếp] thôi. Như đức Phật Thích Ca, Ngài tu mất 20 a-tăng-kỳ kiếp, vì Ngài là chủng tánh trí tuệ. Và quý vị coi trong những câu chuyện tiền thân của Ngài, Ngài rất là trí tuệ.

Ví dụ như hôm nay, Thiện Trang có nghe câu chuyện trong Kinh Tiểu Bộ. Quý vị thấy có một câu chuyện vào thời quá khứ, lúc đó đức Phật cũng là một vị tu hành. Thời đó có một sự việc, là Ngài gặp được một vị Bích-chi-phật nhưng Ngài không biết. Ngài vẫn ngã mạn, và không có đảnh lễ vị đó. Vị đó nhắc nhở cho Ngài xong, rồi thuyết cho Ngài một đoạn, nói là: “Tương lai sau này, qua một thời gian nữa, thì ông sẽ thành Phật, hiệu là Sĩ Đạt Đa (Tất Đạt Đa). Ông mà có tính Ngã mạn như vậy thì không được”.

Vị đó [nói] xong rồi, lúc đó [Ngài] cũng không có lễ lạy, sau đó vị đó dùng Thần thông bay đi, để bụi bay lên mặt Ngài rồi bay đi. Thời đó, đức Phật với một trí tuệ tốt, cho nên Ngài hiểu ra ngay: “Tại sao vị này có Thần thông cỡ đó, mà các ngài còn khiêm tốn như thế. Còn ta, ta chẳng có gì hết, mà tại sao ta cống cao ngã mạn, với một chút danh [mà] người đời khen ngợi thôi”.

Từ đó Ngài mới sám hối, tu hành, và giữ gìn Trai giới, tu tốt hơn. Quý vị thấy, chỉ cần là người có chủng tánh trí huệ, thấy người ta hơn mình thôi là mình tự kiểm điểm lại bản thân. Còn chúng ta thì không được như vậy đúng không?

Và trong câu chuyện đó thì thật ra còn có mấy con vật nữa, ví dụ như có một con bồ câu chồng và bồ câu vợ (bồ câu mái). Hai con đang vui vẻ đi chơi, gọi là đôi uyên ương, lúc nào cũng có nhau. Bữa đó con bồ câu mái bị một con chim (hình như là chim đại bàng) bắt đi mất. Con chim bồ câu mái lúc đó hét lên kêu cứu, con kia chưa kịp làm gì thì con chim ưng/chim đại bàng kia cắn chết và ăn thịt luôn. Sau đó con bồ câu trống rất xót xa, đau khổ, và nó hiểu ra tại sao lại khổ, là [do] ái dục mà khổ. Vì có tình yêu cho nên khổ, nên từ đó nó phát tâm tu hành.

Những chủng tánh đó là những chủng tánh giác ngộ. Khi tu hành hết đời đó, thì con bồ câu và vị Tu sĩ lúc nãy (tiền thân của đức Phật) cũng đều sanh lên cõi Trời. Mấy con vật thì sanh lên cõi Trời, còn Ngài thì sanh lên cõi Phạm Thiên.

Trong câu chuyện còn có mấy con vật nữa, ví dụ có con chó đó, thấy con voi chết, nó thèm thịt quá nên cắn bụng con voi. Nó thấy cái lỗ và chui vô trong đó, ở luôn trong bụng con voi. Nó thấy đã quá, nên ở trong đó để ăn, không chịu ra nữa. Ai ngờ trời nắng lên, xác con voi bị co lại, ép giữ con chó ở trong đó không ra được luôn, khổ ơi là khổ. Phải tới một thời gian lâu sau thì mới có cơn mưa, bắt đầu da con voi nứt ra được một chút, thì con chó mới tìm cách chui ra được. Nhưng khi chui ra thì nó bị rụng hết lông, rất đau. Nó kêu là: ‘Vì sự tham ăn mà ta khổ như vậy’. Cho nên nó cũng không có tha thiết với việc đi tìm mồi nữa, và từ đó phát tâm tu hành. Nó tìm tới vị Tu sĩ kia, giống như con bồ câu. Vị Tu sĩ dạy cho nó tu pháp Bát quan trai.

Con gấu cũng vậy, con gấu vì ham ăn, đi vô trong ngôi làng đó [nên] bị người ta rượt đánh, nó sợ quá chạy ra ngoài. Nó cũng nghĩ như vậy, rồi đi lên vị Tu sĩ đó [để được] hướng dẫn tu. Có bốn con vật (con gấu, con bồ câu, con rắn, con chó) cộng với Ngài nữa là năm.

Con rắn thì khác hơn, lúc đó con rắn đang núp ở trong ổ mối, có một con bò đi ngang qua, nó đào đào đất, rồi vô tình dẫm lên con rắn. Con rắn giật mình nên cắn con bò chết. Dân trong làng thấy con bò chết thì rất là thương và chôn con bò. Con rắn thấy cảnh đó, kêu: ‘Tại vì ta sân hận, vì nổi sân thôi, mà ta làm con bò chết, rất là đáng thương’. Ta vì sự sân, mà gây nên nỗi khổ cho người ta. Từ đó nó [muốn] diệt được lửa sân đó, cho nên cũng phát tâm tu hành. Nó lên [gặp] vị [Tu sĩ], vị đó cũng dạy cho pháp tu Trai giới. Sau khi hết cuộc đời, nó cũng sanh về cõi Trời.

Quý vị thấy đó, những chủng tánh đó đều là những chủng tánh giác ngộ. Khi mình làm những việc ác đối với người, làm khổ cho người, khổ cho chúng sanh khác, hoặc là mình chịu khổ, thì mình có sự giác ngộ. Đó là chủng tánh trí tuệ. Cho nên tu hành ở đây chúng ta phải có trí tuệ. Trí tuệ đó là quan trọng nhất trong đời. Dù mình làm gì cho người ta đau khổ, hoặc là mình bị đau khổ, mình có sự giác ngộ như vậy, mình tu tập, thì con đường tu của mình sẽ tốt hơn. Đó là Thiện Trang kể sơ câu chuyện đó cho quý vị nghe, quý vị có thể tìm trong Kinh Tiểu Bộ của Nikaya, câu chuyện tiền thân của [đức Phật].

Chúng ta trở lại với pháp niệm Tăng, niệm Tăng là gì? Như vậy ở đây, lúc nào ai muốn quảng bá pháp nào thì cắt đoạn đó, đổi một chữ thôi. Nhưng đây đức Phật rất là công bằng.

Đức Phật bảo các Tỳ-kheo: “Thế nào là tu hành niệm Tăng, liền có danh dự, thành tựu quả báo lớn, các điều thiện đủ cả, được vị cam lồ, đến chỗ Vô vi, liền được Thần thông, trừ các loạn tưởng, được quả Sa-môn, tự đến Niết-bàn?” Có nghĩa là tu là được nhiều thứ vậy đó: có danh dự, có thành tựu quả báo lớn, đủ hết các điều thiện. Có nghĩa là quý vị khỏi cần phải đi làm thiện, thật ra không phải nói khỏi cần đi làm thiện, nhưng quý vị sẽ có đủ các điều thiện. Rồi [được] vị cam lồ, đến chỗ Vô vi, liền được Thần thông, [trừ các] loạn tưởng và được quả Sa-môn, tức là đến Niết-Bàn luôn.

Bấy giờ, các Tỳ-kheo bạch Thế Tôn rằng: “Gốc rễ của Pháp do Thế Tôn nói. Nguyện xin Thế Tôn vì các Tỳ-kheo nói diệu nghĩa này. Các Tỳ-kheo sau khi nghe từ Như Lai rồi sẽ thọ trì”.

Bấy giờ, đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo: “Hãy lắng nghe, lắng nghe, và suy nghĩ kỹ. Ta sẽ phân biệt rộng rãi cho các ông”.

Các Tỳ-kheo bạch rằng: “Kính vâng, Bạch Thế Tôn”.

Sau khi các Tỳ-kheo thọ giáo rồi, Thế Tôn bảo rằng. Đoạn này quan trọng, đây là pháp tu niệm Tăng. Chúng ta cứ đọc Lục niệm: niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, [niệm Giới, niệm Thí, niệm Thiên]. Bữa nay chúng ta coi thử niệm Tăng là thế nào. Niệm Phật, niệm Pháp thì [Thiện Trang] chỉ rồi, bữa nay là niệm Tăng. Chứ không mình cứ học hoài mà không có trích dẫn kinh, mỗi người nói mỗi kiểu.

“Tỳ-kheo chánh thân, chánh ý, ngồi kiết già, buộc niệm ở trước, không có tư tưởng nào khác, chuyên tinh niệm Tăng. Quý vị nhớ nha, chánh thân là ngồi ngay ngắn. Chánh ý tức là mình giữ ý niệm chân chánh ngay thẳng, ngồi kiết già. Quý vị thấy không? Suốt ngày đức Phật nói ngồi kiết già. Mình thì nói thôi khỏi ngồi kiết già, tất nhiên ngồi không được thì thôi, nhưng nếu ngồi được thì tốt. Đức Phật dạy vậy mà. Không có tư tưởng nào khác, chuyên tinh niệm Tăng. Bây giờ niệm thế nào?

Thánh chúng của Như Lai thành tựu từ nghiệp lành, chất trực, thuận nghĩa, không có nghiệp tà, trên dưới hòa mục, pháp pháp thành tựu. Thánh chúng của Như Lai thành tựu Giới, thành tựu Tam-muội, thành tựu trí tuệ, thành tựu giải thoát, thành tựu tri kiến giải thoát. Thánh chúng ấy gồm có bốn đôi, tám hạng. Đó là Thánh chúng của Như Lai, xứng đáng được tùy thuận cung kính, thừa sự, lễ bái. Sở dĩ vậy là vì đó là ruộng phước của thế gian. Ở trong Chúng này đều cùng là pháp khí, cũng vì tự độ lại độ người khác đến đạo ba thừa. Nghiệp như vậy gọi là Thánh chúng.

Bây giờ là niệm Tăng. Cuối cùng niệm Tăng là niệm điều gì? Chúng ta từ từ đọc lại. Thánh chúng của Như Lai thành tựu từ nghiệp lành: tức là mình phải tu nghiệp lành (nghiệp thiện) đã; rồi chất trực. Bây giờ có chất trực chưa? Bây giờ dối trá nhiều quá, thời nay điên đảo, Thiện Trang sợ lắm. Lên trên mạng coi, người ta bữa trước bữa sau, đổi qua đổi lại. Theo dõi hành trình Ấn Độ là thấy kỳ quá. Chúng sanh gì đâu mà kỳ, thề thốt đủ thứ các kiểu. Mà thề bữa trước, bữa sau là [thay đổi rồi]. Quý vị thấy, chúng sanh không có chất trực nhiều lắm. Cho nên là thôi, mình thương chúng sanh, mình sợ cho đời nay lắm. Bây giờ [chúng sanh] cứ xoay qua qua xoay lại, và rất dễ bị dao động đúng không? Tại sao hoang mang? Tại vì mình không có Chánh kiến, chứ mình có Chánh kiến là mình biết.

Bây giờ quý vị nghĩ đi, nghĩ đơn giản. Thiện Trang nói một người không có nhu cầu gì hết, chùa cũng không có, [chỉ] có ba y, một bình bát, mấy đồ vật chút chút, rồi đi ngoài đường vậy đó. Không có nhà, không có cửa, ăn cũng một bữa. Thế vậy là vì điều gì? Rồi cũng không bị sân lên. Người ta chửi cũng không [nói lại], người ta đánh tùm lum hết, tự nhiên hành hạ mình chi vậy! Quý vị nghĩ coi, tự mình suy ra. Còn những người kia họ làm gì? Họ kiếm tiền, họ làm gì, mình phải nghĩ trong đó. Rồi họ nói trước nói sau có thuận hay không? Hay đằng trước thì nói [một] đường, [đằng] sau nói [một] nẻo. Rồi thề thốt, nhưng làm ngược lại với lời thề v.v…

Mà quý vị biết không? Người không tin có đời sau thì họ mới thề kiểu đó. Quý vị thấy trong Tích Truyện Pháp Cú, thật ra Kinh Tiểu Bộ (Nikaya), có cô đó vì một lời thề độc thôi. [Tức là] cô đó là người vợ của một người kia, vì không có con nên [người chồng] cưới thêm một người vợ nữa. Tại vì cổ không có con, thì chồng cổ phải cưới thêm người vợ nữa để có con. Sau khi có con rồi, thì tất nhiên người chồng sẽ yêu chiều người vợ có con, và yêu đứa con kia. Cho nên cổ cũng muốn chiếm lấy tình cảm đó, bằng cách ra tay với đứa con nhỏ kia.

Cổ dùng kim đâm vô trong đầu đứa nhỏ đó, mà không để lại dấu vết gì hết, nên dần dần đứa nhỏ chết mà không biết tại sao. Người vợ bé thì nghi ngờ cổ, rồi ông chồng cũng nghi ngờ chứ, nhưng không điều tra ra. Pháp y thời đó không giỏi, không tốt hay sao đó, nên không điều tra ra. Cổ thề là cổ không làm chuyện đó, nếu mà làm chuyện đó thì sau này chồng cổ sẽ bị rắn cắn chết, con cổ sẽ bị nước cuốn trôi, sẽ bị hổ báo ăn. Nhà cổ, gia đình cổ sẽ bị lửa thiêu đốt chết, cháy hết. Cổ thề độc như vậy, vì cổ không tin có đời sau.

Và quý vị biết lời thề đó có ứng nghiệm không? Tại vì cổ không tin có đời sau, nên cổ nghĩ là lời thề đó cho vui thôi, miễn làm sao qua được [chuyện] đó là được rồi. Quý vị biết đến thời sau này, thời đức Phật Thích Ca, thì cổ mới sanh vào gia đình đó, cũng quyền quý, cũng giàu có thế nào đó, được canh giữ kỹ càng lắm. Nhưng cổ lại đi thông gian với một người hầu (người làm) ở trong nhà. Thông gian tức là tà dâm đó, sau đó cổ mang bầu. Vì cổ mang bầu cho nên tìm cách trốn đi, vì nhà đâu có chịu, thế này thế kia. Hai người trốn đi như vậy, một thời gian thì cổ mang bầu thêm đứa nữa.

Lúc ấyhai người đang đi thì trời mưa, ông chồng thấy vậy nên đi tìm chỗ nào để chặt cây sưởi ấm, vì ở trong rừng mà, bà vợ sinh nở ở trong rừng. Đang lúc đi chặt cây, đi một hồi thì ông chồng bị rắn cắn chết, không quay trở lại nữa. Còn bà vợ thì sinh đứa con ở trong [rừng] luôn. Một hồi khi trời mưa tạnh, người vợ đi tìm thì mới thấy chồng mình bị rắn cắn chết. Bà một tay dắt đứa con nhỏ, một tay ôm đứa con kia, hai đứa. Khi đi qua sông, bà thấy không thể dẫn hai đứa qua một lúc như vậy được, nên để đứa lớn ở bờ bên này, rồi ôm đứa nhỏ đi qua sông và bỏ nó lên bờ bên kia trước, [rồi quay lại đón đứa lớn].

Khi mới ra giữa sông thì bà thấy con hổ (có chỗ nói là con báo) tới bắt đứa con nhỏ, ăn mất. Bả hoảng quá, nên hét lên. Khi hét lên, thì đứa lớn tưởng bả kêu, nên nó từ trên bờ nhảy xuống sông. Thế là bà thấy đứa con lớn bị chìm và trôi luôn, bà không kịp can thiệp. Cho nên là mất [luôn] hai đứa con.

Bà gần như khùng điên, [vì] bị chấn động quá mạnh, trong thời gian ngắn mà [mất] ba người thân trong gia đình. Bây giờ không còn đường nào, nên bà trở lại gia đình. Khi về tới nhà bà mới hỏi thăm, thì người ta nói nhà đó hôm qua bị lửa cháy sạch, không còn người nào, chết hết rồi. Sau đó bà bị điên điên khùng khùng, thành một người điên luôn, tại vì [những chuyện đã xảy ra] như vậy.

Đó là quả báo của lời thề. Cho nên chúng sanh trong vòng luân hồi sanh tử, sợ lắm, không tin nên thề thốt. Quý vị nghĩ thề dễ lắm hả? Mình phát ra lời thề dễ dàng, mặc dù mình phát ra, mình nói là mình không có thề thật, nhưng trong tâm chứng kiến rồi, quả báo tới. Nên đáng sợ lắm!

[Về phần] cô đó, thì cổ đi mà không có quần áo luôn, tại vì khùng mà, đi một hồi thì tới gặp đức Phật. Nói chung, đức Phật thấy căn cơ của cổ cũng [đến lúc] được độ, cho nên khi [cổ] tới, do thần lực của Phật, tự nhiên cổ tỉnh lại, không bị điên nữa. Cổ nhớ lại, thấy mình không có [mặc] đồ đạc gì hết, cổ ngại quá nên lạy nằm sát xuống đất. [Đức Phật] bảo ngài A Nan đưa cho cổ một cái y, để cổ quấn lên người rồi đảnh lễ. Sau đó đức Phật thuyết cho bài pháp, cổ cũng chứng được, hình như là Sơ quả, và sau đó xuất gia. Sau này cổ trở thành một vị A-la-hán, đó là Tỳ-kheo-ni Vi Diệu, tên là Patàcàrà, lâu rồi Thiện Trang quên tên rồi.

Đó là còn may, [cô đó] có căn lành, chứ không có căn lành thì chắc là chìm đắm trong vòng sanh tử, nhiều đời sẽ khổ, vì lời thề và nghiệp ác năm xưa. Cho nên không có việc gì, mình phải cẩn thận. Ở thế gian dù họ không tin, nhưng mình cũng đừng ép họ phải thề. Quý vị nhớ đừng có thề độc, nhớ như vậy. Trong Phật không bao giờ có thề độc, nhiều người thề dại lắm. Muốn thề thì phải học đức Phật A Mi Đà, Ngài thề nguyện rằng: “Thề không thành Phật” thì được. Chứ quý vị thề không ra khỏi luân hồi, là chết luôn đó nha, là ở trong đó luôn. Quý vị thề chết, thề này thề kia là thôi, sau này quả báo tới thì đừng có trách, lúc đó sẽ khổ. Học Phật pháp thì phải cẩn thận điều này.

Ở đây Thiện Trang đang nói chữ chất trực. Thánh chúng của Như Lai thành tựu từ nghiệp lành, chất trực (nhớ là phải chất trực), thuận nghĩa, không có nghiệp tà, trên dưới hòa mục, pháp pháp thành tựu. Pháp pháp thành tựu có Chú Giải, nên hiểu là pháp tùy pháp hành, tức là thực hành theo thuận thứ của pháp. Đó là Chú Giải của Hòa thượng Tuệ Sỹ.

Thánh chúng của Như Lai thành tựu Giới, thành tựu Tam-muội (Tam-muội tức là Định), thành tựu trí tuệ, thành tựu giải thoát, thành tựu Tri kiến Giải thoát. Đó là Ngũ phần Pháp thân hương: Giới, Định, Tuệ, Giải thoát và Giải thoát Tri kiến. Thánh chúng ấy gồm có bốn đôi, tám hạng. Ở đây nói bốn đôi tám hạng, tức là Sơ quả hướng, Sơ quả, Nhị quả hướng, Nhị quả, Tam quả hướng, Tam quả, Tứ quả hướng, Tứ quả. Đó là bốn đôi tám hạng, kể vắn tắt.

Đó là Thánh chúng của Như Lai, xứng đáng được tùy thuận cung kính (phải như vậy mới xứng đáng được [cung kính] chứ), thừa sự, lễ bái. Sở dĩ vậy là vì đó là ruộng phước của thế gian. Nhớ nha, phải tới đây mới là ruộng phước của thế gian. Chúng này đều cùng là pháp khí, cũng vì tự độ lại độ người khác đến đạo ba thừa. Như vậy ba thừa đều được. Ba thừa là Thanh văn thừa, Bích-chi-phật thừa và Phật thừa. Nghiệp như vậy gọi là Thánh chúng. Mình làm như vậy thì mới là Thánh chúng nha. Niệm Tăng là niệm Thánh tăng, chứ không phải niệm Phàm phu tăng. Mình học thì mình mới biết niệm Thánh tăng, chứ không phải niệm Phàm phu tăng. Còn chúng ta thì thường niệm Phàm phu tăng.

“Đó là nói, này các Tỳ-kheo, nếu ai niệm Tăng, liền có danh dự, thành tựu quả báo lớn, các điều thiện đủ cả, được vị cam lồ, đến chỗ Vô vi, liền được Thần thông, trừ các loạn tưởng, được quả Sa-môn, tự đến Niết-Bàn. Cho nên, này các Tỳ-kheo, luôn phải tư duy không rời niệm Tăng, liền sẽ được những thứ công đức thiện này. Như vậy, này các Tỳ-kheo, hãy học điều này.”

Các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

(Kinh Số 3 – Phẩm Quảng Diễn Thứ Ba – Kinh Tăng Nhất A Hàm).

Như vậy bữa nay chúng ta đã hiểu niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng. Và sau khi học điều này, quý vị có để ý không? Hình như hằng ngày mình đang tu đấy, đúng không? Hầu như là mình đang tu hết. Hồi xưa cứ nghĩ nào là phải tu niệm Phật, niệm này kia, thì mới là tu. Còn thực tế, sau khi mình học bộ này, thì đang nghe pháp cũng là tu. Quý vị đang nghe pháp, ngồi kiết già, đang tư duy nghĩ nhớ về Tăng, về Pháp, về Phật, thì là tu đấy.

Cho nên đang nghe pháp cũng là tu hành, chứ không phải không tu. Hồi xưa cứ tưởng trì chú, rồi gì đó v.v… [mới là tu]. Cho nên đó là một sai lầm rất lớn. Tất nhiên tu thì phải ngồi yên, chứ còn quý vị vừa đi qua đi lại, vừa tư duy, thì không bằng. Tại vì chánh thân, chánh ý, ngồi kiết già, không có tư tưởng nào khác. Còn nếu mình xen tạp vô thì hiệu quả không lớn, ví dụ vừa làm việc vừa nghe, thì hiệu quả sẽ không lớn.

Có nhiều đồng tu nói, bộ này Thiện Trang giảng là phải ngồi đó nghe, thì mới hiệu quả. Còn vừa làm việc vừa nghe là không vô. Đúng rồi! Bộ này có nhiều kiến thức mới, thì quý vị phải nghe như vậy. Còn quý vị vừa làm việc, vừa nấu cơm, vừa làm gì, [mà] muốn nghe vô, thì quý vị phải nghe năm lần, mười lần, bởi vì rất nhiều kiến thức mới.

Nhưng mấy bài đầu thôi, quý vị nghe chừng hai mươi mấy bài là bắt đầu cảm thấy dễ, đúng không? Chứ còn lúc đầu quá nhiều kiến thức mới, và một bài như vậy Thiện Trang chia sẻ cũng rất dài, hai tiếng, hai tiếng rưỡi, nên nhiều đồng tu nghe không nổi. Đó là toàn nghe [những điều] xuất thế, mà nghe không nổi, thì chắc mình chỉ muốn ở trong vòng luân hồi thôi. Tức là niệm sanh tử của mình thì mạnh, còn niệm xuất sanh tử của mình yếu, thì tự quý vị tự biết mình đang ở đâu. Cho nên cố gắng, đừng để mình đi vào sanh tử. Phải cố gắng lên, tu hành phải nỗ lực chứ, đời này qua một cái là không biết đời sau thế nào.

Bây giờ Chánh pháp khó nghe. Quý vị có thấy Chánh pháp khó nghe không? Bây giờ tu Chánh pháp mà bị Tà pháp, bị gì đâu, suốt ngày phỉ báng, rồi tìm cách hại, còn hù giết v.v… đủ các kiểu. Thì sau này ai giảng cho mình Chánh pháp nữa, ai dám đứng ra giảng Chánh pháp, ai dám tu Chánh pháp nữa, núp hết trơn, ai dám truyền Chánh pháp nữa.

Điều này là một điều rất đáng sợ. Thiện Trang thấy điều đáng sợ là như vậy, chứ không có sợ gì. Cho nên thật sự sợ là sợ như thế, sau này Phật pháp sẽ đi về đâu, khi mà thời đại, pháp thì yếu, ma thì mạnh, gọi là ‘pháp nhược ma cường’, và Chánh pháp càng ngày càng ít người truyền, vì ai cũng sợ hết. Cho nên bất hoại tịnh đối với Phật, bất hoại tịnh đối với pháp, bất hoại tịnh đối với Tăng, và thành tựu Thánh giới, thì hầu như không làm được. Vì sợ mà! Không có chất trực, không có thuận nghĩa, không thể nào theo pháp, thực hành pháp (tùy pháp) không làm được.

Bây giờ Thiện Trang cung cấp cho [quý vị] một kiến giải nữa, [chứ không], mọi người nói. Tại vì có rất nhiều người nào là tán thán người này là Phật, Bồ-tát v.v… một cách tùy tiện, rồi xác nhận người đó là Phật, Bồ-tát tái lai, là Thánh nhân hay không Thánh nhân. Hoặc là nói: “Thầy Thiện Trang biết con là Thánh nhân không?” Thế này thế kia. [Vì vậy] bữa nay Thiện Trang cũng trích trong kinh, để có căn cứ, để mình xác định ai là Thánh nhân, làm sao để biết được Thánh nhân.

Ai Có Thể Biết Người Khác Có Phải Là Bậc Chân Nhân Hay Không?

 Chân nhân ở đây có nghĩa là A-la-hán, chúng ta biết chữ Chân nhân, ngôn ngữ trong kinh là A-la-hán. Bây giờ ai có thể biết người khác có phải bậc Thánh nhân hay không? Nói thế cho dễ! [Phần này] trích trong Kinh Nikaya, Kinh này ở Phẩm Bốn Pháp của Kinh Tăng Chi, Kinh Vassakāra.

Một thời, Thế Tôn trú ở Rājagaha (Vương Xá), tại Trúc Lâm, chỗ nuôi dưỡng các con sóc. Rồi Bà-la-môn Vassakāra, một đại thần nước Magadha (Ma Kiệt Đà) đi đến Thế Tôn, sau khi đến, nói lên với Thế Tôn những lời chào đón thăm hỏi. Sau khi nói lên với Thế Tôn những lời chào đón thăm hỏi thân hữu, Bà-la-môn Vassakāra, bậc đại thần nước Magadha bạch Thế Tôn:

– Thưa Tôn giả Gotama, bậc không phải Chân nhân có thể biết một người không phải Chân nhân: “Vị này không phải là bậc Chân nhân không”?

Tức là ông này hỏi: Có một bậc không phải Chân nhân, nói theo ngôn ngữ của Bắc truyền tức là phàm phu, có thể biết một người không phải là Chân nhân, vị đó không phải là Chân nhân hay không? Hay chúng ta nói ngôn ngữ bình thường nhất, là một người phàm phu có thể biết một người khác là phàm phu, chính hiệu là phàm phu hay không?

Bây giờ Thiện Trang nói đơn giản, Thiện Trang là phàm phu, quý vị cũng là phàm phu, vậy Thiện Trang biết quý vị có phải là phàm phu hay không? Có biết được không? Tức là hai người phàm phu với nhau, người này có biết người kia là phàm phu hay không. Chúng ta nói biết, chứ sao không biết, nhìn là biết rồi, đúng không? Có phải như vậy không? Đức Phật nói này.

– Không có trường hợp này, này Bà-la-môn, không có cơ hội để một người không phải Chân nhân có thể biết một người không phải Chân nhân: “Vị này không phải là bậc Chân nhân”.

Có nghĩa quý vị là phàm phu, quý vị không thể xác định người khác là phàm phu được, làm sao mà biết được. Quý vị không đủ khả năng, không có trường hợp này. Cho nên tránh nha, hồi xưa không biết mà chúng ta cứ phán bừa, phán bừa người này là thế này, nên mình kêu ông đó là phàm phu. Chưa chắc! Đức Phật nói chưa chắc, không biết, không có trường hợp, không có cơ hội đó. Mình là phàm phu mà, chưa phải Chân nhân, thì làm sao mà biết người ta không phải Chân nhân. Cho nên không được.

2.- Thưa Tôn giả Gotama, bậc không phải Chân nhân có thể biết bậc Chân nhân là: “Vị này là bậc Chân nhân”? (Lẽ ra nên thêm chữ ‘không’ nữa; ‘Vị này là bậc Chân nhân không?’)

Có nghĩa là bây giờ một người không phải Chân nhân, tức là nói phàm phu đi, có thể biết một bậc Thánh nhân, hay là một vị A-la-hán (một vị Chân nhân) là Thánh nhân hay không? Có biết không? Chúng ta hay nói, đặc biệt trong Tịnh Độ, đặc biệt bên Trung Hoa hay nói người này là Bồ-tát, người kia là Bồ-tát. Quý vị chưa phải là Thánh nhân, nhưng quý vị xác định người ta là Bồ-tát. Có phải như vậy không? Phật, Bồ-tát tái lai đó. Ở đây có hay không, chúng ta coi đức Phật trả lời.

– Không có trường hợp này, này Bà-la-môn, không có cơ hội để một người không phải Chân nhân có thể biết một người Chân nhân: “Vị này là bậc Chân nhân”.

Có nghĩa là quý vị là phàm phu, quý vị không có xác định được người đó là Chân nhân, dù họ là Chân nhân. Tức là dù họ là Thánh nhân, thì quý vị cũng không biết đâu. Cho nên, tội này là tội vọng ngữ nha quý vị. Từ bữa nay trở đi, đừng nói ai là Phật, Bồ-tát, ai là Thánh nhân, ai là A-la-hán, mà mình phải nói là tôi có thể tin, tôi tin như vậy thì được. Hoặc là mình nghi, nghi rằng vị đó là Thánh nhân, là A-la-hán, v.v… mình dùng chữ ‘có thể’, chứ mình khẳng định là mình vọng ngữ đó.

Tại vì mình đâu có biết, đức Phật nói là phàm phu không biết. Cho nên ngài Minh Tuệ mới nói: ‘Chỉ có Thánh nhân biết phàm phu, chứ phàm phu không biết Thánh nhân’. Đây là trường hợp thứ hai. Như vậy là không biết luôn.

Trường hợp thứ ba:

3.- Thưa Tôn giả Gotama, bậc Chân nhân có thể biết một bậc Chân nhân: “Vị này là bậc Chân nhân”? (Tất nhiên thêm chữ ‘không’ vào; ‘Vị này là bậc Chân nhân hay không?’)

Trường hợp thứ ba là vị Chân nhân tu chứng quả rồi, giả sử quý vị chứng quả rồi. Quý vị gặp một người chứng quả nữa, thì quý vị có biết được không? Hai người chứng quả, người này [có] biết người kia chứng quả hay không? Chúng ta coi thử đức Phật trả lời:

– Có trường hợp này, này Bà-la-môn, có cơ hội để một người chân nhân có thể biết một người chân nhân: “Vị này là bậc chân nhân”.

Có trường hợp, có cơ hội, tức là có cơ hội thôi chứ không phải chắc chắn. Nhiều khi có những quả vị không đủ cao thì mình cũng [không] biết, nhưng trường hợp [dưới] này là biết .

– Nhưng thưa Tôn giả Gotama, có trường hợp một người Chân nhân biết một người không phải là Chân nhân: “Vị này không phải là bậc Chân nhân (không)“?

Bây giờ Thánh nhân có biết người không phải Thánh nhân hay không? Tức là người đó là phàm phu hay không? [Giả sử] như quý vị là Thánh nhân rồi, quý vị biết Thiện Trang là phàm phu hay không? Thiện Trang là phàm phu đi, quý vị là Thánh nhân, vậy quý vị có biết Thiện Trang là phàm phu hay không? Câu hỏi của ông này là như vậy.

– Có trường hợp, này Bà-la-môn, có cơ hội để một người Chân nhân có thể biết một người không phải là Chân nhân: “Vị này không phải là bậc Chân nhân”. Đúng rồi đó! Cho nên Thánh nhân thì biết được phàm phu.

– Thật vi diệu thay, thưa Tôn giả Gotama, thật hy hữu thay, thưa Tôn giả Gotama! Thật khéo là lời nói này của Tôn giả Gotama: “Không có trường hợp này, này Bà-la-môn, không có cơ hội để một người không phải Chân nhân có thể biết một người không phải Chân nhân: “Vị này không phải là bậc Chân nhân”. Không có trường hợp này, này Bà-la-môn, không có cơ hội để một người không phải Chân nhân có thể biết một người Chân nhân: “Vị này là bậc Chân nhân”. Có trường hợp, này Bà-la-môn, có cơ hội để một người Chân nhân có thể biết một người Chân nhân: “Vị này là bậc Chân nhân”. Có trường hợp, này Bà-la-môn, có cơ hội để một người Chân nhân có thể biết một người không phải là Chân nhân: “Vị này không phải là bậc Chân nhân”.

(Trích từ Kinh Tăng Chi Bộ – Phẩm 4 Pháp).

Nói chung có bốn trường hợp, nhưng chúng ta nói đơn giản thôi, không cần dài dòng: Thánh nhân thì biết cả Thánh nhân là phàm phu, còn phàm phu không biết cả phàm phu lẫn Thánh nhân. Tóm lại là như vậy thôi.

Cho nên mình là phàm phu, thì đừng dại nói ông đó là A-la-hán, hoặc ông đó là phàm phu, cũng sai luôn. Tại vì mình không biết. Nhưng Thánh nhân thì biết, Thánh nhân biết cả hai, biết cả phàm phu và biết cả thánh nhân, có trường hợp đó. Có trường hợp đó tức là có trường hợp này.

Cho nên Sư Minh Tuệ mới nói là: chỉ có Thánh nhân mới biết phàm phu, còn phàm phu thì không biết Thánh nhân. Đơn giản là vậy! Còn thời nay mình điên đảo lắm, không biết đâu là Thánh nhân, đâu là phàm phu. Mình là phàm phu, không biết đâu là Thánh nhân, đâu là phàm phu, rồi mình kết luận tùm lum hết. Cho nên là điên đảo! Thời nay Phật pháp loạn là vì vậy, tôn vinh nào là Phật tái thế, Phật tái lai, nhiều lắm. Cho nên phải học, phải có Chánh kiến. Và Chánh kiến đó là phải từ trong Phật pháp mà có, phải từ nghe được mà có.

Hôm nay Thiện Trang chủ yếu giới thiệu cho quý vị Chánh kiến. Trong Bát chánh đạo, tầm quan trọng của Chánh kiến, hôm nay chúng ta sẽ học:

Tầm Quan Trọng Của Chánh Kiến (1)

Nếu chúng sinh nào thành tựu thân thiện hành, khẩu, ý thiện hành, không phỉ báng Thánh nhân, có Chánh kiến, thành tựu nghiệp Chánh kiến, thì do nhân duyên đó, khi thân hoại mạng chung, chúng sinh này chắc chắn đi đến chỗ lành, sanh vào cõi trời.

(Trích Từ Kinh Thiên Sứ – Thuộc Trung A Hàm).

Thiện Trang nói: tầm quan trọng của Chánh kiến ở đây, là nếu mình thành tựu được thân, khẩu, ý, tức là ba nghiệp đó phải thiện, rồi không phỉ báng Thánh nhân. Đời nay không biết ai là Thánh nhân, nên dễ phỉ báng lắm. Có Chánh kiến, thành tựu nghiệp Chánh kiến, do nhân duyên đó khi chết thì chắc chắn đi đến chỗ lành, sanh vào cõi Trời.

Cho nên bí quyết để sanh vào cõi lành, cõi Trời, là phải có Chánh kiến; và thân, khẩu, ý, ba nghiệp này phải thiện, rồi không phỉ báng Thánh nhân. Chứ còn bây giờ mình hay phỉ báng Thánh nhân lắm. Thật ra phỉ báng là đã không thiện rồi đúng không quý vị? Không thiện về khẩu, không thiện về ý rồi. Cho nên để được chắc chắn sanh lên cõi lành là [phải] như vậy.

Còn người Tà kiến thì đức Phật cũng nói, là họ thường sanh về hai trú xứ, đố quý vị là hai trú xứ nào? Đó là Địa ngục và Súc sanh, chứ không nói Ngạ quỷ. Ngạ quỷ là do tham nặng quá, thiếu phước quá, cho nên sanh vào Ngạ quỷ. Còn nghiệp Tà kiến, là không có Chánh kiến, thì sanh vào Địa ngục và Súc sanh. Cho nên Chánh kiến quan trọng lắm. Mà Chánh kiến là gì? Hôm bữa học rồi, nếu quên thì hôm nay chúng ta sẽ học lại, học đi học lại hoài cũng sẽ nhớ. [Phần này] trích từ Kinh Thiên Sứ, thuộc Trung A Hàm.

[Hôm] nay [Thiện Trang] tiếp tục giới thiệu Tầm Quan Trọng Của Chánh Kiến (2). Như vậy có Chánh kiến thì quý vị mới chắc chắn sanh vào cõi lành, cõi Trời. Cho nên nếu không có Chánh kiến, thì mình chắc chắn [không] có thân thiện, khẩu thiện, rồi phỉ báng Thánh nhân nữa thì đọa rồi, không nói. Nhưng có Chánh kiến là thành tựu đó. Cho nên Chánh kiến quan trọng lắm, chúng ta cố gắng [có] Chánh kiến. Hôm bữa Thiện Trang [giảng], có một bài kinh đức Phật nói rõ ràng: ‘Nếu người có Chánh kiến, thì cho dù trải qua trăm ngàn ức năm, họ cũng không đọa vào đường ác’. Cho nên Chánh kiến rất quan trọng.

Tầm Quan Trọng Của Chánh Kiến (2)

          Ở đây Thiện Trang trích [một] đoạn thôi, không có trích nhiều.

“Nay Ta cũng như vậy, gặp được con đường của cổ Tiên nhơn, lối mòn của cổ Tiên nhơn; dấu chân của cổ Tiên nhơn; chỗ Tiên nhơn xưa đã đi, nay Ta cũng đi theo. Con đường đó là Thánh đạo tám chi gồm: Chánh kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh tấn, Chánh niệm, Chánh định.

Có nghĩa là quý vị thấy rõ ràng con đường mà xưa nay các bậc Thánh đi, lối mòn của các bậc Thánh đi, dấu chân của bậc Thánh đi, có chỗ đi, chỗ đến, thì chính là con đường Thánh đạo tám chi (tám ngành) gồm có: Chánh kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh tấn, Chánh niệm, Chánh định.Điều này là quan trọng cực kỳ, quý vị giở Kinh A Hàm hay Kinh Nikaya, thì tám Chánh này (Bát chánh đạo) là cực kỳ quan trọng, được đức Phật nói đi nói lại rất nhiều lần. Quý vị không tin thì cứ giở kinh ra, hầu như lúc nào cũng thấy Chánh kiến, thấy Bát chánh đạo hết. Cho nên cực kỳ quan trọng, và đó là con đường xưa nay các bậc Thánh đã đi, mình cũng phải đi theo. Đây là đức Phật đang nói Ngài cũng đi theo con đường này thôi.

Ta từ nơi con đường này mà thấy được lão, bệnh, tử; sự tập khởi của lão, bệnh, tử; sự diệt tận của lão, bệnh, tử; con đường đưa đến sự diệt tận của lão, bệnh, tử. Có nghĩa là đức Phật cũng từ con đường này, tức là từ Thánh đạo tám chi này, mà Ngài thấy được nỗi khổ về già, bệnh, chết. Rồi Ngài thấy được nguyên nhân của khổ; sự tập khởi của [lão, bệnh, tử] là Khổ, Tập Diệt, Đạo, là Tứ Thánh đế. Rồi diệt được lão, bệnh, tử [tức là] Ngài cũng đưa đến diệt tận được những điều đó. Thật ra là Ngài thấy được Tứ đế nhờ Bát thánh đạo này.

 Thấy được sanh, hữu, thủ, ái, thọ, xúc, sáu xứ, danh sắc, thức, hành, thấy sự tập khởi của hành, sự diệt tận của hành, con đường đưa đến sự diệt tận của hành (điều này là thuộc về 12 nhân duyên. Ngài thấy được là do Ngài cũng tu Bát chánh đạo). Ta đối với pháp này tự biết, tự giác ngộ, thành tựu Đẳng Chánh Giác (thành Phật). Rồi Ta khai thị, hiển phát, vì an lạc và lợi ích của các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-ba-tắc, Ưu-bà-di và các Sa-môn, ngoại đạo, Bà-la-môn, tại gia, xuất gia, cả bốn chúng, được nghe, chân chánh hướng theo, khởi lòng tin ưa, biết pháp lành, khiến cho Phạm hạnh thêm rộng”.

(Trích Từ Kinh Thành Ấp – Kinh Số 325 – Thuộc Tạp A Hàm).

Đây là tầm quan trọng [của Chánh kiến]. Để giải thoát sinh tử, thì rõ ràng Chánh kiến là một trong Bát chánh đạo, cực kỳ quan trọng. Con đường này xưa nay ai cũng đi, bậc Thánh nào cũng đi, mình cũng đi theo như vậy. Đó là tầm quan trọng thứ hai về Chánh kiến. Thiện Trang xin tiếp tục trình bày thêm tầm quan trọng thứ ba của Chánh kiến, tức là nhiều lắm, nhưng ở đây giới thiệu thêm một chút thôi.

Tầm Quan Trọng Của Chánh Kiến (3)

Tư cụ của Thánh đạo.

Tư cụ tức là dụng cụ sản xuất, giống như mình đi làm ruộng thì quý vị phải có cày, có cuốc, có những [dụng cụ] khác [nữa]. Những cái đó gọi là tư cụ. Hoặc là người đi làm văn phòng bây giờ thì phải có máy tính, phải có viết, rồi cặp v.v… Những cái đó gọi là tư cụ. Bây giờ mình đi làm bậc Thánh, thì mình phải có dụng cụ gì đó, gọi là tư cụ của Thánh đạo.

Bấy giờ đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo rằng: “Có một con đường khiến chúng sanh được thanh tịnh, xả bỏ ưu sầu, than khóc, dứt hết buồn khổ ảo não, chứng được như pháp. Đó là Thánh chánh định, có cận tập, có trợ bạn và cũng có tư cụ,142 bao gồm bảy chi.

Có nghĩa là có một con đường để mình khỏi khổ, hết khổ, thì ở đây nói về Chánh định. Nhưng Chánh định không [thôi] thì không đủ, mà phải có những điều hỗ trợ bên cạnh nữa, [đó là] các tư cụ, thì có bảy điều nữa. Ở đây đang nói nghiêng về Chánh định, nhưng thật ra là cũng phải nói những điều khác nữa. Sẵn mình học luôn Chánh định.

Chánh định

Thế nào nói là Thánh chánh định có cận tập, có trợ bạn và có tư cụ gồm bảy chi? (Ở đây chỉ nói là nói bảy chi thôi, không nói Chánh định) Đó là, Chánh kiến, Chánh chí (Chánh tư duy), Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh phương tiện, Chánh niệm. Do bảy chi này mà có tập, có trợ và có cụ, khéo hướng đến tâm chuyên nhất, đó gọi là Thánh chánh định có tập, có trợ và có cụ. Vì sao vậy? (Ở đây quan trọng chỗ màu đỏ này thôi, quý vị hiểu từ chỗ màu đỏ này là được, rồi từ từ là hiểu bên trên).

Chánh kiến sanh Chánh tư duy, Chánh tư duy sanh Chánh ngữ, Chánh ngữ sanh Chánh nghiệp, Chánh nghiệp sanh Chánh mạng, Chánh mạng sanh Chánh tinh tấn, Chánh tinh tấn sanh Chánh niệm, Chánh niệm sanh Chánh định.

Quý vị thấy, như vậy là Chánh kiến đứng đầu, sanh ra Chánh tư duy. Cho nên không có Chánh kiến thì không có Chánh tư duy; không có Chánh tư duy thì làm sao sanh ra Chánh ngữ; không có Chánh ngữ thì làm sao sanh ra Chánh nghiệp; không có Chánh nghiệp thì làm sao sanh ra Chánh mạng; không có Chánh mạng thì làm sao có Chánh tinh tấn; không có Chánh tinh tấn thì làm sao sanh ra Chánh niệm; không có Chánh niệm thì làm sao sanh Chánh định. Vậy là rớt sạch. Có nghĩa là Chánh kiến cực kỳ quan trọng. Giống như đầu tàu, con tàu kéo các toa tàu, mà đầu tàu kéo đi đúng hướng là xong. Còn nếu [đầu tàu] kéo lệch hướng, thì tất cả các toa tàu khác đi lệch hướng.

Cho nên nhiều người tu hành, sở dĩ tu sai đường là vì họ không có Chánh kiến. Mà tại sao họ không có Chánh kiến? Chúng ta đã biết Chánh kiến là phải nghe Phật pháp, hoặc là tự mình tư duy, hoặc nghe từ người khác. Nhưng khổ nỗi, nghe từ người không có Chánh kiến, họ dạy cho mình không có Chánh kiến thì làm sao mình có Chánh kiến được, chính họ cũng không có Chánh kiến luôn. Chánh kiến từ đâu? Chánh kiến phải từ Phật, cho nên phải học từ trong kinh mới có Chánh kiến được. Không có Chánh kiến rồi thì không có Chánh tư duy, không có Chánh tư duy thì cũng không có Chánh ngữ, rồi kéo theo tất cả những điều sau cũng không có luôn.

Cho nên mình tu hành tinh tấn lắm, cuối cùng là Tà tinh tấn chứ không phải Chánh tinh tấn. Rồi mình tu, mình niệm ghê lắm, nhưng là Tà niệm chứ không phải Chánh niệm. Mình tu Định ghê gớm lắm, nhưng là Tà định chứ không phải Chánh định. Khi Chánh kiến không có là rớt hết. Rồi mình nghĩ là mình có Chánh ngữ, ai ngờ mình chửi người ta quá trời. Vì không có Chánh kiến nên mình mới chửi.

Giống như hồi nãy Thiện Trang nói, nếu mình không học đoạn trên, thì mình cứ lạm dụng từ Bồ-tát, đặc biệt đồng tu Tịnh Độ cứ nói Bồ-tát này, Bồ-tát kia. Sao quý vị dám nói người ta là Bồ-tát, là Phật v.v… thành ra là vọng ngữ rồi, lấy đâu ra Chánh ngữ. Không có Chánh ngữ thì làm sao có Chánh nghiệp. Khi mình làm những việc đó, người ta tưởng người ta là Phật, là Bồ-tát thật, người đó tái lai thật, rồi mình ủng hộ, kéo theo người khác ủng hộ v.v… Làm một hồi, Chánh pháp của Như Lai không được truyền, mà Tà pháp được truyền, là chết luôn!

Cho nên không có Chánh mạng. Chánh nghiệp và Chánh mạng không có, cuối cùng mình tu là không được gì hết. Và phương pháp tu của mình không có Chánh kiến, [thì] mình niệm không chính xác, rồi mình cũng không có định luôn. Tại vì sao? Vì pháp tu định của mình không đúng. Cho nên là quan trọng cực kỳ. Chưa hết đâu, đó mới là một đoạn thôi.

          Hiền Thánh Đệ tử (ở đây đức Phật nói Hiền Thánh, là bậc Hiền và bậc Thánh đó. Chúng ta thấy trước khi vào Thánh quả thì là bậc Hiền, tức là Tứ gia hạnh rồi) với tâm được Chánh định như vậy lập tức dứt sạch dâm, nộ, si. Hiền Thánh Đệ tử với chánh tâm giải thoát như thế, lập tức biết như thật rằng: ‘Sự sanh đã dứt, Phạm hạnh đã vững, điều cần làm đã làm xong, không còn tái sanh nữa’.

          Có nghĩa là nếu mà mình đầy đủ như vậy, thì mình dứt được hết dâm, nộ, si. Dâm thực ra là tham dục (là tham), nộ là sân, và si; có ba điều này thôi. Hết tham, sân, si rồi thì quý vị đạt quả vị gì? Đó là thành A-la-hán rồi. Với chánh tâm giải thoát như thế, biết như thật rằng: sự sanh đã dứt, Phạm hạnh đã vững, điều cần làm đã làm xong, không tái sanh nữa, là thành A-la-hán rồi.

          Cho nên tu được điều này thôi là [thành] A-la-hán. Còn bây giờ tại sao chúng ta chưa thành A-la-hán? Tại vì chúng ta không có đủ Chánh kiến, và Chánh kiến mình chưa được chính xác. Chánh tư duy cũng chưa đủ. Nói chung tám Chánh đạo này mình chưa đủ. Chứ nếu đủ hết là thành A-la-hán rồi. Mình đủ được một phần thì được một phần Thánh quả. Đủ hai phần thì được hai phần Thánh quả. Cho nên mới [được] sơ sơ thì gọi là Tùy Tín Hành, vô sơ sơ chút nữa có thể lên tới Tùy pháp hành, hoặc là tới Sơ quả Tu-đà-hoàn. Còn nếu khá hơn nữa, có Bát chánh đạo cao hơn nữa, thì là Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán. Đó là tùy theo mức độ. Cho nên có thành tựu được một phần, là do mình có Chánh kiến.

Thiện Trang giới thiệu cho quý vị định nghĩa về Chánh kiến. Đây không phải là Thiện Trang định nghĩa, mà đức Phật nói luôn:

Chánh kiến

Trong các chi ấy, Chánh kiến đứng ngay vị trí hàng đầu (quý vị thấy không? Chánh kiến ở vị trí hàng đầu, tức là quan trọng nhất). Nếu thấy rõ Tà kiến là Tà kiến thì đó gọi là Chánh kiến (ở đây định nghĩa đơn giản, định nghĩa khác, nếu thấy rõ Tà kiến là Tà kiến, thì đó là Chánh kiến. Bây giờ mình đã thấy rõ Tà kiến là Tà kiến chưa? Chưa!). Nếu thấy rõ Chánh kiến là chánh kiến thì đó cũng gọi là Chánh kiến. (Bây giờ mình cũng không biết đâu là Chánh kiến, không thấy rõ luôn, cho nên cũng chưa có Chánh kiến).

Thế nào là Tà kiến? (Bây giờ là định nghĩa Tà kiến đây. Các đồng tu thắc mắc Tà kiến là gì đúng không? Hôm nay được học Tà kiến). Đó là cho rằng không có bố thí, không có trai tự, không có chú thuyết, không có nghiệp thiện, ác; không có quả báo của nghiệp thiện, ác; không có đời này, đời sau; không có cha, không có mẹ; không có bậc Chân nhân ở trên đời đi đến thiện xứ, khéo ra khỏi cõi này, khéo hướng đến cõi kia, tự tri, tự giác, trong đời này hay đời sau mà tự tác chứng, thành tựu an trụ. Như vậy gọi là Tà kiến.

Bây giờ chúng ta phân tích chậm chậm cho quý vị nghe. Thế nào là Tà kiến? Đó là cho rằng không có bố thí, bố thí làm gì, bố thí có được gì đâu, [nên] can ngăn. Họ nói như vậy, thì đó là Tà kiến. #Không có Trai tự: là không có Bát quan trai gì hết; không có Trai tự, cúng tế, không có Bát quan trai. Quý vị thấy không? Bây giờ nhiều đồng tu Tà kiến lắm, không chịu tu Bát quan trai. Đó là Tà kiến.#Không có chú thuyết: chú thuyết là nói về các chú v.v… Tức là họ không tin vào sự linh ứng, nhiệm màu của chú. #Không có nghiệp thiện, ác: điều này thì rõ ràng, người đời thì họ không tin có nghiệp thiện, ác. #Không có quả báo của nghiệp thiện, ác: điều này cũng rõ ràng, người đời thì họ đâu có tin những điều này, rõ ràng họ [bị] tà kiến rồi. #Không có đời này đời sau: điều này cũng đúng, họ không tin là có đời sau đâu, chết là hết, kiểu vậy đó.

Rồi #không có cha, không có mẹ: điều này thì nhiều người không hiểu, không có cha, không có mẹ là gì, thì trong một bộ kinh khác có giải thích. Tức là người đó nghĩ rằng họ được đẻ ra từ gốc cây, nên không có cha, không có mẹ. Chứ không phải nói là không có cha, không có mẹ. Tức là mình được sanh ra trong đời là do có thai sanh mà sanh ra, chứ không phải tự nhiên từ trong gốc cây mà chui ra. Người như vậy gọi là không có cha, không có mẹ. Tất nhiên cũng có trường hợp hóa sanh, giống như cô gái Amla là trường hợp đặc biệt. Còn đa số loài người được sanh ra là chắc chắn phải có cha, có mẹ. Còn nếu mình nói là mình được sanh ra từ gốc cây, ông thần nào sanh ra, thì đó là Tà kiến. Trong kinh đó có giải thích như vậy.

#Không có bậc Chân nhân ở trên đời đi đến thiện xứ, khéo ra khỏi cõi này, khéo hướng đến cõi kia, tự tri, tự giác, trong đời này hay đời sau mà tự tác chứng, thành tựu an trụ. Như vậy gọi là Tà kiến. Điều cuối cùng tức là không tin vào bậc giác ngộ như A-la-hán, hay Thánh nhân gì cả. Quý vị cho là không có A-la-hán, không có Thánh nhân gì hết, như vậy đó là Tà kiến. Mình đã hiểu Tà kiến rồi, thì đảo lại là Chánh kiến thôi.

Thế nào gọi là Chánh kiến?[1] Đó là thấy rằng có bố thí, có trai tự, có chú thuyết, có thiện, ác nghiệp, có quả báo của thiện, ác nghiệp, có đời này đời sau, có cha có mẹ, có bậc Chân nhân ở trên đời đi đến thiện xứ, khéo ra khỏi cõi này, khéo hướng đến cõi kia, trong đời này hay đời sau tự tri, tự giác, tự tác chứng, thành tựu an trụ. Như vậy gọi là Chánh kiến.

Có nghĩa là mình tin vào có bố thí; có cúng dường; có Trai tự (Bát quan trai), tức là tin có pháp tu này; rồi có những sự linh ứng trong tu tập; có nghiệp thiện, ác tức là làm thiện thì được quả báo thiện, làm ác thì bị quả báo ác; rồi có đời này đời sau, tức là chết là chưa có hết đâu. Cho nên người [cho rằng] chết là hết, là rơi vào Đoạn kiến. Còn người [cho rằng] chết rồi mà đời sau vẫn trở lại làm người tiếp, thì đó là gọi là Thường kiến. Những điều đó đều là Tà kiến hết. Có 62 Tà kiến của giáo phái ngoại đạo của Ấn Độ là đức Phật giải hết, quý vị có thể coi trong bộ Kinh Phạm Võng.

Rồi có cha có mẹ, tức là mình được sanh ra là mình có cha. Ví dụ có nhiều người bị quăng ở đâu đó, nhưng chắc chắn là cũng có một người nào đó làm cha mình, chứ không thể chỉ có một mình mẹ mình, mà sanh ra mình được. [Cho nên] chắc chắn có mẹ, có cha. Rồi có những bậc Chân nhân ở trên đời, những bậc đó do tu tập ở đời này hay đời sau mà thành tựu. Đó là Chánh kiến.

Đây chỉ là một [định nghĩa về] Chánh kiến thôi, từ từ, quý vị đừng tranh cãi, kêu hôm bữa [học] Chánh kiến là biết như thật về Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Có định nghĩa đó nữa, nhưng hôm nay chúng ta học thêm định nghĩa này, rồi từ từ quý vị sẽ biết tại sao có hai định nghĩa.

Đó gọi rằng thấy Tà kiến là Tà kiến thì đó là Chánh kiến (quý vị thấy rõ, biết ai là Tà kiến, thì quý vị có Chánh kiến rồi đó). Thấy Chánh kiến là Chánh kiến (đúng rồi, bây giờ mình thấy ai có Chánh kiến, là mình cũng biết rồi đó); đó cũng gọi là Chánh kiến. Khi biết rõ như thế, liền phải cầu học để đoạn trừ Tà kiến, thành tựu Chánh kiến. Đó gọi là Chánh tinh tấn.

Quý vị thấy định nghĩa về Chánh tinh tấn này có dễ không? Dễ mà! Không khó! Hồi xưa mình cứ nói tinh là tinh chuyên, tấn là tiến tới, còn bữa nay [mình học] định nghĩa này đơn giản thôi. Quý vị chỉ cần biết đó là Tà kiến, đó là Chánh kiến, rồi ráng cầu học để đoạn trừ Tà kiến, thành tựu Chánh kiến, đó gọi là Chánh tinh tấn. Chỉ vậy thôi. Định nghĩa đơn giản vô cùng, cho nên [định nghĩa] Chánh tinh tấn này dễ.

Còn hồi xưa giảng theo kiểu ngôn từ, không đọc trong kinh, rồi giảng là tinh là tinh chuyên, tấn là tiến tới; tiến tới một cách tinh chuyên, không xen tạp. Đó là hồi xưa Thiện Trang giảng tầm bậy. Cho nên Thiện Trang xin sám hối nha quý vị, hồi xưa ai học điều đó thì chịu khó chỉnh lại giùm. Cho nên sau này Thiện Trang coi lại, Thiện Trang thấy hối hận lắm (hơi có Tâm sở Hối), là tại vì sao hồi xưa mình không được học những điều này, để mình giảng có những phần không chính xác. Tất nhiên là cũng có lợi ích cho chúng sanh, nhưng điều đó không nên. Mình phải theo Chánh giáo của Như Lai. Cho nên Chánh tinh tấn dễ không quý vị? Chánh tinh tấn dễ. Cho nên tu Bát chánh đạo không khó đâu. Tại vì mình nâng Bát chánh đạo theo hướng nào đó xa xôi quá, nên mình tu Bát chánh đạo trở thành khó.

Bữa nay không có thời gian để giới thiệu cho quý vị hết Bát chánh đạo. Bữa nay giới thiệu cho quý vị về Chánh kiến và Chánh tinh tấn rồi, dần dần giới thiệu theo trong kinh, chỉ cần đủ Bát chánh đạo này thì quý vị sẽ dễ dàng tu được. Chúng ta tu thấy dễ thì mình mới vào được Thánh quả chứ. Còn chúng ta học theo kiểu người ta giải ra cao vời quá, và chúng ta thấy mình không làm được. Mà đó là người ta giải, chứ không phải Phật giải. Cho nên ‘nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa’ có mấy ai giải [được]. Không học, mình chưa phải là Thánh nhân, chưa phải là A-la-hán thì giải sai nghĩa của Như Lai mà thôi, giải theo ngôn ngữ của mình. Chữ tinh đúng là tinh chuyên, tấn là tiến tới, rồi Chánh là không tà; rồi [mình nói] tinh chuyên, không xen tạp, tiến tới, không tà. Trong khi Chánh tinh tấn mình [học] sai rồi, thì từ đó trở đi sai hết. Rất là đáng tiếc!

Vậy là bữa nay mình học được Chánh kiến rồi nha. Bài này cấp cho quý vị một điều thôi, dần dần sẽ [cung] cấp tiếp. Như vậy vô tình ở đây mình cũng biết Chánh tinh tấn luôn rồi. Tiếp theo là mình sẽ biết thêm một điều nữa:

Tỳ-kheo suy niệm về sự đoạn trừ Tà kiến,[2] thành tựu Chánh kiến. Đó gọi là Chánh niệm.

Ở đoạn trên nói về Chánh kiến dễ lắm, Chánh tinh tấn cũng dễ luôn. Chánh tinh tấn là chỉ cần ráng cầu học làm sao để đoạn trừ Tà kiến, và thành tựu Chánh kiến. Còn bây giờ quý vị chỉ cần suy niệm về sự đoạn trừ Tà kiến, thành tựu Chánh kiến, đó gọi là Chánh niệm. Quý vị suy nghĩ trong tâm, lúc nào cũng [nghĩ] làm sao đó để đoạn trừ Tà kiến, thành tựu Chánh kiến, thì đó là Chánh niệm. Dễ ợt! Chỉ có như vậy thôi, chứ gì đâu mà giải Chánh niệm khó quá đi.

Cho nên Thiện Trang nói: hèn chi hồi xưa mình tu thấy khó là đúng rồi, tại vì giải xa quá, không đúng theo lời trong kinh. Cho nên mình thấy tiêu chuẩn quá cao, rồi mình tu không được. Và sau khi giải ra những điều này [theo kinh], thì quý vị thấy dễ không? Dễ mà! Đâu có gì khó đâu. Chỉ cần nắm được định nghĩa Chánh kiến là thế nào, Tà kiến là thế nào, mình ráng đừng [để] rớt vào Tà kiến, thành tựu được Chánh kiến. Rồi mình cầu học tu như vậy, mà tu siêng như vậy, gọi là Chánh tinh tấn. Còn tâm của mình luôn suy nghĩ: đó là Chánh kiến, đó là Tà kiến, mình đoạn trừ Tà kiến, và thành tựu Chánh kiến, đó gọi là Chánh niệm.

Cả ba chi này đi theo Chánh kiến, tùy tùng phương tiện của kiến.[3] Vì thế cho nên bảo Chánh kiến là đứng ngay ở vị trí hàng đầu.

Quý vị thấy Chánh niệm và Chánh tinh tấn liên quan đến Chánh kiến, mà Chánh kiến trật rồi thì thôi. Bữa nay chỉ giới thiệu sơ lược cho quý vị về ba điều này thôi, chứ nhiều quá thì quý vị không nhớ.

(Trích Từ Kinh Thánh Đạo – Kinh Số 189 – Thuộc Trung A Hàm).

Nếu ai muốn tìm hiểu Tám chánh đạo thì có nguyên bộ kinh, kinh đó là Kinh Thánh Đạo, Kinh số 189, thuộc Trung A Hàm. Cho nên Thiện Trang nói Kinh Trung A Hàm có nhiều điều quan trọng lắm. Quý vị biết như vậy rồi thì quý vị sẽ tu dễ dàng. Cho nên tu hoài mà không thành Thánh đạo là đúng rồi, [vì mình] tu trật.

Quý vị thấy hồi xưa ai tới gặp Phật hay Đệ tử của đức Phật, được thuyết cho bài pháp ngắn ngắn thôi là đắc đạo. Còn bây giờ tại sao mình học mấy chục năm mà không đắc đạo? Chính vì mình học Bát chánh đạo này trật lất, ngay từ đầu mình đã giải sai nghĩa của Như Lai rồi. Cho nên ‘nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa’, đó là mình chỉ nguyện thôi, chứ giải thì chưa được. Mở bộ kinh ra, lúc nào cũng ‘nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa’, nhưng mình không học thì làm sao biết được. Cho nên mình phải học là như vậy.

Cho nên nền tảng A Hàm và Nikaya cực kỳ quan trọng là vì vậy. Khi nền tảng sai rồi, Chánh kiến không có rồi, thì mình đi quá xa. Bởi vì mình tưởng là Chánh kiến là gì đó cao vời quá, Chánh tinh tấn là gì đó xa xôi quá, và mình thấy tu như vậy thì làm sao có hy vọng, nên càng tu thì càng sai. Giống như con tàu, nếu đầu tàu đã sai (vì Chánh kiến là ở vị trí đầu tàu), thì sẽ kéo cả toa tàu đi hướng khác, cho nên lạc hướng. [Điều này] nguy hiểm nha!

Đây là trích từ Kinh Thánh Đạo, thuộc Trung A Hàm. Bộ Kinh này ở gần cuối, nên chắc quý vị chưa nghe tới đâu.

Đó là một định nghĩa về Chánh kiến, bây giờ Thiện Trang xin đưa thêm một định nghĩa về Chánh kiến nữa:

Chánh Kiến Là Gì? (1)

Tôn giả Xá Lợi Phất khen xong hoan hỷ phụng hành. Lại hỏi: “Hiền giả Đại Câu Hy La, thế nào là Chánh kiến?” Đoạn này là trích từ một bộ kinh khác, nhưng nội dung thì giống với bộ kinh hôm trước mà Thiện Trang đã cung cấp cho quý vị.

Tôn giả Đại Câu Hy La đáp: “Biết như thật về Khổ, biết như thật về Khổ tập, Khổ diệt và Khổ diệt đạo. Đó gọi là Chánh kiến”. Quý vị thấy ngắn gọn không? Đọc tới đây thì sẽ có nhiều quý vị thắc mắc là tại sao đức Phật đưa ra hai định nghĩa vậy? Ở trên thì [định nghĩa] Chánh kiến thế này, ở dưới thì [định nghĩa] Chánh kiến thế kia. [Ở trên định nghĩa] Chánh kiến là có cha có mẹ, ở đời có bậc A-la-hán, có bố thí, có trai tự, có nghiệp thiện, ác, có quả báo của nghiệp thiện, ác. Ở trên là định nghĩa như vậy. Vậy sao bây giờ lại định nghĩa khác? Chắc chắn là mọi người sẽ nghi ngờ. Thật tế là có hai định nghĩa, và hai định nghĩa này đức Phật có giải. Tại vì mình chưa đọc kinh, nên mình không hiểu. Từ từ, quý vị đừng vội nôn nóng, sẽ có định nghĩa ở dưới này. Mời quý vị theo dõi tiếp:

Tôn giả Xá Lợi Phất nghe xong khen rằng: “Lành thay! Lành thay! Hiền giả Đại Câu Hy La”.

Tôn giả Xá Lợi Phất khen xong hoan hỷ phụng hành. Lại hỏi: “Hiền giả Đại Câu Hy La, có bao nhiêu nhân, có bao nhiêu duyên sanh Chánh kiến?” Điều này hôm bữa chúng ta học rồi đúng không? Mặc dù trích từ kinh khác, nhưng cũng giống như vậy. Thiện Trang thấy nội dung này lặp đi lặp lại 3 lần trong các bộ kinh. Tức là bộ kinh khác, nhưng cũng hỏi đi hỏi lại điều này, cho nên rất quan trọng.

Tôn giả Đại Câu Hy La đáp: “Có hai nhân, có hai duyên sanh Chánh kiến. Những gì là hai? Một là duyên từ người khác, hai là nội tâm tư duy. Đó là có hai nhân, có hai duyên sanh Chánh kiến”. Điều này thì hôm bữa Thiện Trang có trích rồi. Có hai nhân, hai duyên để sanh ra Chánh kiến: Một là duyên từ người khác, tức là người khác giảng cho mình nghe, hiểu. Hai là từ nội tâm tư duy, tức là mình phải tự suy nghĩ tư duy nữa. Chứ mình nghe không [thôi], chạy từ tai này qua tai kia, thì mình cũng không hiểu được.

Ví dụ quý vị nghe Chánh kiến là biết như thật về Khổ, Khổ tập, Khổ diệt, và Khổ diệt đạo. Vậy mình phải biết như thật về Khổ; Khổ có ba khổ, có bát khổ. Đó là sự thật về Khổ. Rồi mình phải biết nguyên nhân của khổ là gì. Rồi khi hết khổ thì như thế nào. Và con đường để hết khổ là tu điều gì. Ví dụ như tu Bát chánh đạo là con đường để diệt khổ đó. Chúng ta hiểu như vậy, rồi chúng ta phải tư duy, suy nghĩ. Đó là tự nội tâm mình tư duy. Và mình nghe từ người khác nữa. Mình ôn qua ôn lại thì sẽ sanh ra Chánh kiến.

Tôn giả Xá Lợi Phất nghe xong khen rằng: “Lành thay! Lành thay! Hiền giả Đại Câu Hy La”.

Tôn giả Xá Lợi Phất khen xong hoan hỷ phụng hành. Lại hỏi: “Hiền giả Đại Câu Hy La, có bao nhiêu chi thâu nhiếp Chánh kiến để đạt được Tâm giải thoát quả, Tuệ giải thoát quả, đạt được Tâm giải Thoát công đức, Tuệ giải Thoát công đức?”

Điều này là mới. Nếu chúng ta có Chánh kiến thì sẽ đạt được Tâm giải thoát quả (là quả của Tâm giải thoát), tức là quả của A-la-hán. A-la-hán thì có Tâm giải thoát và Tuệ giải thoát. Và [vị] A-la-hán có cả hai điều này thì gọi là A-la-hán Câu giải thoát. Trong Luận Đại Tỳ Bà Sa có chia ra A-la-hán có Tâm giải thoát, Tuệ giải thoát, và Câu giải thoát. Còn hôm bữa mình học trong bài kia thì chỉ có A-la-hán Câu giải thoát và Tâm giải thoát thôi, không có Tuệ giải thoát. Nhưng có khi chia ra bậc A-la-hán Tuệ giải thoát nữa.

Tất nhiên có Tâm giải thoát, Tuệ giải thoát thì sẽ có công đức của Tâm giải thoát và Tuệ giải thoát thôi. Vậy bây giờ mình xem có bao nhiêu chi thâu nhiếp Chánh kiến để đạt được điều này.

Tôn giả Đại Câu Hy La đáp: “Có năm chi thâu nhiếp Chánh kiến để đạt được Tâm giải thoát quả, Tuệ giải thoát quả; đạt được Tâm giải Thoát công đức, Tuệ giải Thoát công đức. Những gì là năm? (Ở đây quan trọng, xem mình tu điều gì đây) Một là được thâu nhiếp bởi Chân đế (Chân đế là sự thật. Chân đế là Niết-Bàn, nhưng chúng ta nói đơn giản Chân đế là pháp của Phật), hai là được thâu nhiếp bởi Giới (điều thứ hai là quý vị phải giữ giới), ba là được thâu nhiếp bởi Bác văn (Bác văn tức là nghe mà hiểu nhiều; bác là rộng, chứ không phải học có một bộ kinh mà đòi bác văn. Hồi xưa thì mình tin điều này, nhưng bây giờ Thiện Trang nói xin lỗi quý vị, Thiện Trang hiểu ra được rằng: đúng là không có Bác văn thì không thể nào có Chánh kiến được. Bởi vì mình học cái gốc đó, mà gốc đó trật rồi thì làm sao có Chánh kiến được. Cho nên phải có Bác văn tức là học rộng.

Chúng ta cũng học rộng. Thật ra Kinh A Hàm và Kinh Nikaya nói vậy thôi chứ cũng không nhiều lắm đâu, học cả bộ A Tỳ Đàm và Luận Câu Xá v.v… mà chuyên học, thì cũng học chừng hai năm là xong rồi, là có được nền tảng cực kỳ vững chắc. Sau đó quý vị tu môn nào cũng được. Chứ còn mình không [học] những điều này thì mình không có nền tảng. Mà không có nền tảng rồi thì những điều sau đó [trật] hết. Chúng ta cứ coi ở đây đi, chúng ta học thấy trật hết, những điều Phật dạy mà mình học thấy đi đâu [xa xôi]).

Bốn là được thâu nhiếp bởi Chỉ, năm là được thâu nhiếp bởi Quán.[4] Quý vị thấy không ạ? Bốn là phải tu Thiền chỉ, năm là phải tu Thiền quán. Chỉ và Quán là Samatha và Thiền na. Điều này thì rõ ràng. Cho nên Thiện Trang mới giới thiệu 40 đề mục tu Thiền chỉ đó. Thiện Trang phải dạy cho quý vị Thiền chỉ và Thiền quán. Thiền quán là mình đang học pháp đây. Mình có năm điều này thì mới thâu nhiếp Chánh kiến để đạt Tâm giải thoát quả, Tuệ giải thoát quả. Hay chúng ta nói là [để] đạt được quả A-la-hán, thì quý vị phải tu năm điều này, thì mới có Chánh kiến.

Như vậy Chân đế là giáo lý chân thật, và chúng ta phải giữ giới, phải học rộng nghe nhiều, và phải tu Thiền chỉ và Thiền quán. Nói tóm lại là như vậy thôi.

Vậy quý vị coi lại là mình tu đúng như vậy chưa? Nếu chưa đúng như vậy thì hèn chi mình là phàm phu là đúng rồi, mình chưa phải là A-la-hán là đúng rồi, chưa có Tâm giải thoát và Tuệ giải thoát. Tâm giải thoát cũng là A-la-hán, mà A-la-hán chỉ có tâm giải thoát thôi; còn A-la-hán Câu giải thoát thì có cả Tâm giải thoát và Tuệ giải thoát. Cho nên càng coi trong kinh thì thấy mình xưa nay tu trật lất, hèn chi tu bao nhiêu năm mà không tiến được, và Phiền não càng nhiều là đúng rồi.

Đó gọi là năm chi thâu nhiếp Chánh kiến để đạt được Tâm giải thoát quả, Tuệ giải thoát quả, đạt được Tâm giải Thoát công đức, Tuệ giải Thoát công đức”.

(Trích Từ Kinh Đại Câu Hy La – Kinh Số 211 – Thuộc Trung A Hàm).

Cho nên quý vị nhớ năm chi này nha. Bí quyết tu hành, đầu tiên là Chân đế; Chân đế là sự thật, ngôn ngữ của nhà Phật nói Chân đế khó hiểu, thì quý vị hiểu Chân đế là giáo pháp của Phật, mình phải tuân theo. Rồi chúng ta phải có giới, phải học rộng, học rộng là bác văn. Bác văn là nghe hiểu, là văn tư tu đó. Nói đơn giản là nghe hiểu, và sự nghe hiểu này phải rộng. [Điều cuối cùng] là chúng ta phải tu Thiền chỉ và tu Thiền quán.

Hôm qua Thiện Trang có nghe trong một bộ kinh, đức Phật nói nếu tu được Thiền chỉ, có nghĩa là những người tu Thiền chỉ mà đạt được Thiền chỉ, thì do nền tảng Thiền chỉ đó mà khi chuyển qua Thiền quán là họ đắc liền, đắc nhanh.

Cho nên Thiện Trang mới nghĩ, hèn chi mình không tu Thiền chỉ mấy, mà chỉ chăm tu Thiền quán, nên khó đắc. Nhưng Thiền chỉ giờ cũng khó tu quá, học 40 đề mục tu Thiền chỉ cũng có dễ đâu, không dễ, nhiều đồng tu thấy sợ quá. Nhưng nếu quý vị có Thiền chỉ sâu, có công phu sâu, thì chuyển qua Thiền quán là thành tựu liền, nhờ Thiền chỉ mà thành tựu Thiền quán, tất nhiên cũng có khi ngược lại. Đức Phật cũng nói: khi thành tựu Thiền quán, mà chuyển qua Thiền chỉ thì cũng thành tựu. Đại ý là vậy, Thiện Trang không có nói nguyên văn của Phật, Thiện Trang chỉ nói đại ý. Tức là miễn là thành tựu một trong hai [Thiền chỉ hoặc Thiền quán], hoặc là có trường hợp tu song song cả hai [pháp] đó.

 Đây là lời đức Phật nói trong kinh. Thiện Trang nói tất cả đều nói trong kinh, không phải ở A Tỳ Đàm nói không [thôi], mà trong kinh cũng nói như vậy. Cho nên tu cũng có ba con đường. Có người liều mạng tu Thiền chỉ trước, rồi tu Thiền quán sau. Có người thì tu Thiền quán trước, rồi tu Thiền chỉ sau. Có người vận dụng tu vừa Chỉ vừa Quán song hành. Và đức Phật thường khuyến khích [tu] song hành hai pháp đó. Thiện Trang để ý thấy [như] vậy.

Có người liều mạng tu Thiền chỉ, đắc quả thì đắc, không đắc thì thôi, có duyên thì đắc, không có duyên thì không đắc. Có người thì liều mạng tu Thiền quán thôi, vì Thiền quán chắc chắn đắc, thành tựu được A-la-hán mà không có Thần thông cũng được, miễn là đắc Niết-Bàn thôi. Kiểu như vậy. Hoặc là chứng Sơ quả Tu-đà-hoàn mà không có Thần thông cũng được, họ chấp nhận như vậy, cho nên họ tu Thiền quán không [thôi].

Nhưng thực tế nếu không có trợ của Thiền chỉ, thì quán đó [cũng] khó thành tựu hơn. Cho nên ít hay nhiều gì, Thiện Trang vẫn khuyên mọi người nên tu cả hai. Nếu chúng ta không có thời gian nhiều, thì chúng ta phải ưu tiên cho Thiền quán. Tức là học pháp nhiều, nghe pháp nhiều, rồi tư duy trong pháp nhiều, đó là tu Thiền Quán. Nếu ngồi im được, tư duy về Khổ, Không, Vô thường, vô Ngã v.v… những pháp nào đó, thì tu Quán dễ đắc đạo hơn. Còn tu Chỉ cũng giúp được nhiều lợi ích, đó là trợ cho tu Quán. Những điều này Thiện Trang đã nói rồi.

          Quý vị thấy Thiện Trang duyệt Kinh Trung A Hàm tới đây, và quý vị thấy cũng gần hết Kinh Trung A Hàm luôn rồi. Đó là một định nghĩa về Chánh kiến, bây giờ trở lại định nghĩa Chánh Kiến là gì? (2) Chánh kiến này giống như trên thôi.

           Chánh Kiến Là Gì? (2)

Tôi nghe như vầy: Một thời, đức Phật ở trong vườn ông Cấp Cô Độc, rừng cây Thái tử Kỳ Đà, nước Xá Vệ. Bấy giờ đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo: “Có tà, có chánh. Hãy lắng nghe, và suy nghĩ kỹ, Ta sẽ vì các ngươi mà nói. Những gì là tà? Là Tà kiến … cho đến Tà định (tức là tà ngược lại với [Tám chánh đạo], thì bây giờ là Tà kiến… cho đến Tà định). Những gì là chánh? Là Chánh kiến… cho đến Chánh định. (Chánh kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh tấn, Chánh niệm, Chánh định. Không có Chánh huệ nha, [vì] Chánh huệ là ra giải thoát rồi đó).

Thế nào là chánh kiến? Là nói: Có bố thí, có chú thuyết, có trai tự,[1] (ở đây có chú thích về trai tự. Ngài Tuệ sỹ có chú giải ở trong thuyết, trai, thì trai này là Bát quan trai), có thiện hành, có ác hành (giống như có việc thiện, việc ác), có quả báo thiện ác hành (ở đây thiếu quả báo của thiện hành), có đời này, có đời khác, có cha mẹ, có chúng sanh hóa sanh[2] (ở đây có bổ sung thêm: ‘có chúng sanh hoá sanh’ thôi, còn mấy điều kia giống ở trên), có A-la-hán thiện đáo,[3] (là A-la-hán khéo đến), thiện hướng,[4] (đây là những bậc A-la-hán. Thiện đáo là chân chánh ra khỏi thế gian, còn thiện hướng là chân chánh đến Niết-Bàn, tức là A-la-hán hướng, định nghĩa có khác một chút. Tức là biết có A-la-hán và A-la-hán hướng, tin có những bậc như vậy. Thật ra giống ở trên thôi, có người chứng ngay đời này, có người chứng đời sau), tự tri tự tác chứng đời này và đời khác, thành tựu và an trú, tự biết ‘ta, sự sanh đã hết, Phạm hạnh đã lập, những gì cần làm đã làm xong, không tái sanh đời sau.’ Điều này là mình tin có A-la-hán thôi. Tóm lại ở đây, A-la-hán thì có nhiều bậc A-la-hán, A-la-hán thiện khéo đến, trong những bậc hôm bữa mình học, quý vị nhớ có bậc Kiến chí, Thiện đáo, Thiện hướng. Kiểu vậy đó! Đó là A-la-hán hướng, hoặc là A-la-hán.

Tóm lại là mình tin có bố thí, có chú thuyết, có Trai tự (có Bát quan trai). Có pháp tu Bát quan trai có lợi ích. Rồi có thiện hành, có ác hành, có quả báo của việc thiện ác. Rồi có đời này đời sau, có cha có mẹ. Nhưng ở đây tin thêm là có loài chúng sanh hóa sanh nữa, như là chư Thiên. Chứ mình kêu không có chư Thiên, đó là Tà kiến rồi. Tóm lại có A-la-hán, có Thánh nhân là rồi được.

Đó là định nghĩa về Chánh kiến. Ở đây sẵn định nghĩa luôn mấy Chánh còn lại nhưng định nghĩa này đơn giản. Hôm khác sẽ giới thiệu định nghĩa dài hơn.

Thế nào là Chánh tư duy? Tư duy xuất yếu, tư duy vô nhuế, tư duy bất hại.[1] Tức là mình tư duy những điều quan trọng để ra khỏi thế gian, tư duy làm sao để mình không sân, tư duy làm sao để không làm hại chúng sanh. Nói đơn giản là vậy.

Thế nào là Chánh ngữ? Xa lìa nói dối, xa lìa hai lưỡi, xa lìa ác khẩu, xa lìa lời phù phiếm. Tóm lại giữ dùm cho bốn nghiệp của miệng (lời nói), bây giờ có viết nữa. Đó là đừng nói dối, nói lưỡi đôi chiều, nói lời thô ác, nói lời phù phiếm. Những điều này thuộc về Thập thiện. Quý vị giữ được trong Thập thiện là quý vị được Chánh ngữ. Dễ không? Dễ mà!

Thế nào là Chánh nghiệp? Lìa sát, đạo, dâm. Đừng có sát sanh, đừng trộm cắp, đừng dâm dục. Đối với người tại gia thì đừng tà dâm. Nhưng ở đây lìa sát, đạo, dâm tức là lìa dâm dục.

Thế nào là Chánh mạng? Cầu y phục, ẩm thực, ngọa cụ thuốc thang đúng như pháp, chứ không phải không như pháp. Điều này nói cho người xuất gia rồi. Còn người tại gia thì đức Phật nói là quý vị tránh những nghề nghiệp nào làm ăn không tốt. Ví dụ như buôn bán vũ khí, buôn bán súc vật, chúng sanh, buôn bán thịt, buôn bán thuốc độc, v.v…. Rồi có những nghề nào mà muốn làm hại chúng sanh khác, thì những nghề đó không phải là Chánh mạng. Quý vị [tại gia] nên [tránh những nghề] như vậy.

Còn đối với người xuất gia thì phải làm đúng như pháp. Ví dụ như người xuất gia không được đi cúng kiếng để lấy tiền. [Không được] coi sao bói quẻ, coi ngày tốt ngày xấu, đám cưới, đám tang để kiếm tiền. Đó đều là không Chánh mạng. Hoặc là Tỳ-kheo thì không được trồng trọt để tự sống, không được buôn bán, đó cũng không phải là Chánh mạng. Có những Chánh mạng đối với người xuất gia thì nhiều, nhưng đối với người tại gia thì ít hơn, dễ hơn. Vì người xuất gia cần cầu quả A-la-hán. Nếu không làm được như vậy thì không thể đắc A-la-hán trong đời này được.

Cho nên mấy giới đó là thuộc giới Tỳ-kheo đó quý vị. Tỳ-kheo không được đào đất, có giới như vậy. Quý vị thấy Sư Minh Tuệ có đào đất không? Rồi Tỳ-kheo không được bứt lá cây, không được chặt phá cây. Quý vị thấy [các Sư] có [làm] không? Đâu có đâu. Vậy thì quý vị cứ coi 250 giới Tỳ-kheo, có nhiều giới lắm. Rồi Tỳ-kheo không được đưa y cho người nữ giặt chẳng hạn, đó cũng là một [giới]. Hồi xưa là [tự] giặt, nhưng mình phải hiểu ý trong đó. Còn thời bây giờ có máy giặt, mình cho vô máy giặt [để] giặt thì khác. Nhưng bây giờ có những giới đó, mình phải học đàng hoàng.

Bây giờ mình không học nên mình không biết, nhưng Thiện Trang từ từ sẽ đăng lên [những giới đó]. Thiện Trang cũng sợ đăng đề mục Giới, [vì] quý vị coi mà quý vị không hiểu, rồi quý vị phỉ báng nữa. [Nhưng quý vị] phải coi giới đó nội dung cụ thể như thế nào, và tại sao Phật chế điều đó, mình phải hiểu. Cho nên giới Tỳ-kheo nói thì dễ, nhưng phải có thời gian để học thì mới học được. Chứ còn nói mơ mơ màng màng là giữ giới, [nhưng] quý vị không biết giữ.

Giống như Tỳ-kheo có giữ giới nửa tháng tắm một lần. Quý vị thấy có giới đó, rồi bắt đầu ai cũng giữ nửa tháng tắm một lần. Nhưng đằng sau đức Phật khai duyên ra: nào là trừ khi đi đường, trừ khi trời mưa, trừ khi làm việc, trừ khi nóng bức v.v… Cuối cùng là được tắm mà. Nguyên nhân chế [giới] là vì đợt đó thiếu nước, nên [đức Phật] mới chế ra giới đó. Chứ không phải do đức Phật [tự] chế ra như vậy, và Ngài có khai ra. Từ đó mình hiểu có những giới chế xong, nhưng Phật khai ra gần như hết rồi.

Thế nào là Chánh tinh tấn? Dục, tinh tấn, phương tiện, xuất ly, tinh cần, kham năng, luôn thực hành không lùi bước. Ở đây có nói khác một chút. Tức là quý vị phải có mong, muốn quý vị phải thật tinh tấn, khéo léo, xuất ly (là cầu mau ra khỏi sanh tử), tinh cần (là siêng năng), kham năng (là quý vị có khả năng kham nhẫn; #kham là kham nhẫn; #năng là siêng năng), và luôn thực hành không lùi bước. Đó là Chánh tinh tấn.

Thế nào là Chánh niệm? Nhớ nghĩ không dối không hư, luôn tùy thuận. Mình nhớ nghĩ, không có dối, không hư (hư là hư ngụy), luôn tùy thuận (tức là luôn luôn theo pháp).

Thế nào là Chánh định? Trụ tâm không loạn, kiên cố nhiếp trì, tĩnh chỉ, nhất tâm chánh định. Đây là định nghĩa đơn giản thôi, hôm sau Thiện Trang sẽ cung cấp cho quý vị định nghĩa đầy đủ.

Đức Phật nói kinh này xong. Các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì đức Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

Ở đây chúng ta quan trọng là định nghĩa về [Chánh kiến]. Định nghĩa [Chánh kiến] là có bố thí, có chú thuyết, có trai tự (có Bát quan trai), có việc lành việc ác, có quả báo việc lành việc ác, có cha có mẹ, có đời này đời khác, có chúng sanh hóa sanh, có A-la-hán (có bậc Thánh nhân). Ở đời mình cứ nghĩ vậy là mình có Chánh kiến.

          (Kinh Tà Chánh – Kinh 752 – thuộc Tạp A Hàm).

Khi chúng ta có thắc mắc thì Thiện Trang nói là do có hai loại Chánh kiến: là Chánh kiến Thế gian và Chánh kiến Xuất thế gian. Có nghĩa là phải có hai loại Chánh kiến, chứ không phải một loại. Một loại là định nghĩa như vừa rồi nói ở trên. Còn loại thứ hai là biết như thật về Khổ, Tập, Diệt, Đạo, biết như thật về Tứ đế, đó là Chánh kiến Xuất thế gian. Cho nên khi học Chánh kiến thì mình phải học cả hai, chứ không phải học mỗi Chánh kiến Thế gian, rồi cuối cùng mình không ra khỏi thế gian. Mình phải có Chánh kiến Xuất thế gian thì mình mới ra khỏi thế gian được. Nên nhiều người học, cứ ôm vô một loại là cũng không đúng.

Thiện Trang xin trích dẫn từ kinh, nói điều gì là có sách, có kinh hết.

Hai Loại Chánh Kiến Thế Gian Và Xuất Thế Gian

          Tôi nghe như vầy: Một thời, đức Phật ở trong vườn ông Cấp Cô Độc, rừng cây Thái tử Kỳ Đà, nước Xá Vệ. Bấy giờ Bà-la-môn Sanh Văn đi đến chỗ đức Phật, cúi đầu đảnh lễ sát chân Phật. Sau khi cùng đức Thế Tôn thăm hỏi ân cần xong, ông ngồi xuống một bên, bạch đức Phật rằng: “Thưa Cù Đàm, thế nào gọi là Chánh kiến?”

Đức Phật bảo Bà-la-môn: “Chánh kiến có hai (chính đức Phật nói nha): có Chánh kiến thuộc về thế tục, Hữu lậu, Hữu thủ, hướng đến đường lành (có nghĩa là nếu có Chánh kiến [này] thì thuộc về Thế gian thôi. Còn Hữu lậu và còn Thủ hữu, tức là còn ở trong sự chấp có, và chỉ hướng đến đường lành thôi. Nên quý vị giữ điều đó thì quý vị chỉ sanh về cõi lành thôi). Có loại Chánh kiến thuộc về xuất thế gian của bậc Thánh, Vô lậu, bất thủ, hết khổ chân thật, hướng đến thoát khổ. Chánh kiến thứ hai này mới ra khỏi sanh tử. Quý vị nhớ nha! Chứ mình học từ bữa tới giờ, ngay cả Chánh kiến thôi mà đã học sai rồi đúng không? Có người ôm được một chút [kiến thức] ở trên, là bắt đầu nói như thế là Chánh kiến. Thế nào là Chánh kiến Thế gian và Chánh kiến Xuất thế gian, thì bữa nay chúng ta học luôn. Cho nên không duyệt kinh tạng thì làm sao biết được, học vô là chụp, tưởng điều đó là Chánh kiến rồi. Chưa phải! Chưa đủ!

          Thế nào là Chánh kiến Hữu lậu, hữu thủ, chuyển hướng cõi thiện? (Nghĩa là quý vị tuân theo Chánh kiến này, thì chỉ được quả báo Hữu lậu và còn ở trong cõi thiện). Người nào thấy có bố thí, có chú thuyết… cho đến biết thế gian có A-la-hán, không tái sanh đời sau.[1] Này Bà-la-môn, đó gọi là Chánh kiến thế tục thuộc về thế gian, Hữu lậu, Hữu thủ, chuyển hướng cõi thiện. Tức là định nghĩa mà quý vị biết là có bố thí, có chú thuyết, có trai giới, có cha có mẹ, có nghiệp báo thiện ác, có quả báo thiện ác, rồi có A-la-hán không tái sanh đời sau nữa, điều đó chỉ [giúp] quý vị đi vào cõi thiện, cõi lành thôi. Cho nên tu theo đó chưa xuất thế gian được đâu. Rồi đè đầu tu theo đó đi. Chưa được!

Quý vị thấy chưa? Không học là Chánh kiến đã sai rồi, vì Chánh kiến chưa đủ, mà mình học mới được một nửa là xong luôn, có nghĩa là mình đã tu sai. Thiện Trang tin là rất nhiều người tu tập Vipassana cũng chỉ học được đoạn ở trên thôi, không học đoạn ở dưới. Có nhiều người vẫn thiếu, vì chưa có thời gian duyệt hết kinh tạng thì làm sao biết được.

Bà-la-môn, thế nào là Chánh kiến thuộc về xuất thế gian của bậc Thánh, Vô lậu, không thủ, hết khổ chân thật, hướng đến thoát khổ? (Đây là Chánh kiến để thành bậc Thánh) Thánh đệ tử nơi khổ tư duy về Khổ; về Tập, Diệt, Đạo tư duy đạo, tương ưng với tư duy Vô lậu, ở nơi pháp mà tuyển trạch, phân biệt, suy cầu, giác tri, khéo dùng trí huệ sáng tỏ mà quán sát. Đó gọi là Chánh kiến thuộc về xuất thế gian của bậc Thánh, Vô lậu, không thủ, chân chánh đoạn tận khổ, chuyển hướng đến thoát khổ”.

Như vậy là mình phải tu điều dưới này thì mới thoát khổ. Thật ra tư duy về Khổ, Tập, Diệt, Đạo, tư duy bốn điều này làm sao để tương ứng với tư duy Vô lậu. Đằng sau chỉ giải thích thêm thôi, ‘ở trong pháp mà tuyển trạch, phân biệt, suy cầu, giác tri (giác biết), khéo dùng trí huệ sáng tỏ mà quan sát được tất cả các pháp trong thế gian về bốn vấn đề Khổ, Tập, Diệt, Đạo’. Quý vị thấy điều gì quý vị cũng quan sát được. Nên Thiện Trang nói là tu hành mọi lúc mọi nơi, không phải mình đợi tới lúc vô chánh điện rồi mới tu, mà mình phải tu ngay trong lúc đang nấu cơm, xắt rau.

Ví dụ người Việt mình hay ăn món mướp xào, thì mình thấy: À! [Món] mướp này cũng là nguyên nhân [của khổ]. Vì sao? Vì nó là một trong bốn tứ thực, mình ở cõi này thì mình ăn, còn ở cõi khác [thì người ta] không ăn, A-la-hán chứng Niết-Bàn thì không ăn. Mình tư duy như vậy là mình biết khổ từ đâu ra v.v… Ngay trong đó mình tư duy, lúc nào cũng nghĩ về pháp Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Cứ như vậy, mình dùng trí tuệ xem xét phân biệt ra. Mình biết thức ăn này là Đoàn thực, vi tế thực v.v… trong đầu mình lúc nào cũng nghĩ, tư duy, phân biệt, dùng trí tuệ quan sát sáng tỏ hết. Đó là quý vị đang tu về Chánh kiến, đang tu về Khổ, Tập, Diệt, Đạo, thì tự nhiên quý vị sẽ được thôi.

Sau khi Phật nói kinh này xong, Bà-la-môn Sanh Văn nghe những gì Phật đã dạy, hoan hỷ tùy hỷ, từ chỗ ngồi đứng dậy ra về.

Như Chánh kiến cũng vậy, Chánh tư duy, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tấn, Chánh niệm, Chánh định, kinh nào cũng nói như trên.

(Đây là Kinh Sanh Văn – Kinh 757 – Kinh Tạp A Hàm).

Quý vị thấy bây giờ chúng ta rõ ràng về Chánh kiến rồi đúng không ạ? Tóm lại bữa nay [mình] giải quyết được hết vấn đề về Chánh kiến trong Bát chánh đạo hay là Bát thánh đạo. Và Chánh kiến là quan trọng nhất. Thiện Trang đã dành hết thời gian để giới thiệu về vấn đề này thôi, để hi vọng quý vị không bị lầm lẫn con đường tu hành. Chỉ cần thế thôi, còn các vấn đề [khác], sau khi mình hiểu rồi thì tu tập sẽ dễ, không có khó khăn gì. Vì nếu mình đã có nhận thức đúng thì mình tu tập sẽ đúng. Lâu lâu chúng ta cung cấp.

Cho nên nhiều đồng tu học rất lâu trong Phật pháp, nhưng mỗi Chánh kiến [thôi] mà vẫn chưa hiểu. Mình cứ ôm [những kiến thức] trên mạng, Thiện Trang thấy ngay cả tờ báo lớn cũng đăng ‘Chánh kiến là gì’? Thì họ quất vô ‘có cha có mẹ, gọi là Chánh kiến’. Họ không biết cả một đoạn dài như vậy mới là Chánh kiến. Mà Chánh kiến đó là Chánh kiến thế gian thôi, họ chưa có duyên để đọc đến đoạn sau, có Chánh kiến xuất thế gian nữa.

Cho nên những gì mình học, nếu không có nghiên cứu, không thực sự dành thời gian nhiều, thì sự học của mình nhỏ nhoi. Và đôi khi mình vô, mình chấp [cho là] điều đó đúng rồi, là mình tiêu luôn. Vì không có [sự] so sánh, không có đối chứng.

Thời nay chúng ta đã có công nghệ đầy đủ trên mạng, có kinh điển, kinh sách nhiều lắm. Quý vị học ai thì quý vị cũng kiểm tra lại giùm, vị thầy đó, cô đó, vị Sư đó, vị Cư sĩ đó giảng pháp có đúng theo kinh Phật hay không? Nói phải có sách, mách phải có chứng và [phải] có [ở trong] kinh. Ít nhất là quý vị phải có điều đó. Còn những người muốn giảng dạy, muốn truyền đạo cho người khác, thì ít nhất [cũng] phải biết một ngôn ngữ nữa, để mình làm chủ ngôn ngữ. Vì [có] những chỗ người ta dịch không chính xác, mà mình cũng không biết. Rồi nhiều khi họ bịa kinh, sửa kinh, mà mình cũng không biết luôn. Thời nay Thiện Trang thấy có hiện tượng sửa kinh. Có những bộ kinh người khác dịch rồi, của Hán tạng chẳng hạn, hay kinh đó dịch rồi. Nhưng sau này có người sửa lại, họ sửa nhưng không căn cứ vào bản gốc để sửa, mà họ cố tình sửa để có lợi cho nhóm của họ v.v… Thiện Trang thấy sợ quá. Sau này Thiện Trang thấy ớn quá, Thiện Trang tin dùng bản của người nào, là cả một vấn đề. Thứ hai nữa là Thiện Trang phải tra, phải coi bản gốc.

Thực ra bây giờ dần dần trên thế giới cũng có nhiều người dịch, nên thư viện đó lên cả thế giới rồi, cho nên yên tâm, mình có thể đối chiếu được một vấn đề nào đó, chứ không khó như [hồi] xưa. Tất nhiên quý vị không biết ngôn ngữ thì cũng chẳng sao, vì bây giờ có nhiều bản dịch khắp nơi. Nhưng mình phải theo những người nào thực sự tin sâu nhân quả. Còn những người không tin sâu nhân quả, thì dù có chức vụ cao lớn gì, họ cũng sẵn sàng sửa kinh, rút gọn kinh v.v… Thiện Trang sợ điều đó lắm. Bộ kinh dài như vậy mà họ tóm tắt thành ngắn gọn có một chút thôi. [Bộ] kinh tụng cả ngày [mới hết], [mà] họ [dịch] thành ra tụng [có] một tiếng, hai tiếng là hết, [họ] rút gọn như vậy. Những trường hợp đó Thiện Trang xin phép không dám dùng. Thiện Trang chỉ coi kinh gốc là yên tâm.

Quý vị cũng vậy, thời nay phải cẩn thận, vì thời này người ta không tin sâu nhân quả, người ta dễ làm những việc có lợi cho họ. Đó là ngay cả Chánh kiến, tin có nghiệp báo của thiện ác, có quả báo của đời sau, mà họ không tin nên họ mới làm như vậy. Ngay cả người truyền pháp, mà truyền bằng sự không tin như vậy, thì nguy hiểm lắm. Cho nên là [quý vị ráng học pháp]. Thời sau này học Phật pháp khó hơn thời xưa, bởi vì có nhiều nhiễu nhương quá, không tu được. Giảng cũng không giảng được, truyền pháp cũng không được, càng ngày càng khó hơn, cho nên quý vị phải trân trọng [pháp duyên này].

Có thể mình không có nhiều cơ hội để tu hành, nếu để đời sau thì Thiện Trang nghĩ càng khó hơn, nếu với tình hình này. Là những người biết Phật pháp rồi, thì quý vị hãy học và tranh thủ tu, để vào [được các địa vị], ít nhất là Tùy tín hành. Những người không có trí tuệ tốt thì tu theo con đường Tùy tín hành, [còn] những người có trí tuệ tốt hơn thì tu theo con đường Tùy pháp hành. Đó là hai con đường đi vào Sơ quả rất dễ dàng. Chúng ta đã học qua hai địa vị đó rồi, quý vị coi lại.

Chúng ta học những điều này thật ra là huân tập, để vào [được] dòng Thánh, dòng Hiền. Nếu quý vị học nhiều, tu tập nhiều, nghe nhiều như vậy, [thì] theo năm tháng, dần dần quý vị sẽ vào được những quả vị trước Tu-đà-hoàn, ví dụ như Tứ gia hạnh: Noãn vị, Đảnh vị, Nhẫn vị, Thế đệ Nhất vị.

Thật ra chúng ta quay đi quay lại, cũng chỉ là [tu] các pháp Khổ, Không, Vô thường, Vô ngã, Bát chánh đạo. Rồi tu tập các Biệt tướng Niệm trụ, Tổng tướng Niệm trụ v.v… thực ra là tu những điều này thôi, chứ không có gì đâu. Rồi quán hơi thở, quán sổ tức, hay là những pháp niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, những pháp này đều đưa đến giác ngộ giải thoát.

Tùy mỗi người, [người nào] mạnh điều nào thì dùng điều đó. Quý vị cố gắng dùng một thời gian thì tự nhiên hiệu quả xuất hiện. Rồi [sau đó] quý vị tu môn nào cũng được, quý vị muốn tu Thiền tông Đại thừa hay tu Lăng Nghiêm, hay [tu môn] gì cũng được. Khi quý vị có Chánh kiến rồi, quý vị tu thì sẽ biết được môn đó có hợp với mình hay không, có hợp với Chánh pháp hay không, bất cứ môn nào mình cũng sẽ rõ ràng. Còn nếu không có Chánh kiến, thì dù mình học mình tu, nhiều khi đổ ra công sức rất nhiều, nhưng hiệu quả thu lại lợi ích không lớn. Nên nhớ như vậy!

Việc đi đúng đường giống như con tàu chạy đúng đường, hoặc chiếc xe đó chạy đúng đường, thì con đường đó mỗi bước đi là mỗi bước gần đến đích. Hoặc mình đi bộ, thì mỗi bước đi là mỗi bước gần đến đích. Hay là con tàu, thì mỗi giây phút sau, là mỗi [giây phút] gần đến đích hơn. Cũng vậy, nếu như mình đi lệch đường thì mỗi bước đi là [càng] xa đích hơn, đúng không quý vị?

Tùy theo [mức độ] lệch, lệch một chút còn đỡ. [Theo] nguyên tắc, ví dụ quý vị đi hướng từ đây đến đây thì sẽ ra tới Hà Nội, mà quý vị chạy một hồi, quý vị rẽ ở đây, mà [quý vị] rẽ [sai đường] thì sẽ càng xa hơn mà thôi. Nếu quý vị quay ngược, thì là tà nữa, nên càng ngày càng xa.

Cho nên Phật pháp là phải xây dựng nền tảng trước, và phải nhận thức cho chính xác về tất cả vấn đề căn bản. Vấn đề căn bản có rồi, thì quý vị đi rất nhẹ nhàng, từ đó chúng ta sẽ tu dễ dàng. Thiện Trang thấy sau khi học những điều này, thì thấy tu rất nhẹ nhàng, không có gì vất vả.

Trong Kinh đức Phật nói, ví dụ những người Cư sĩ thời Phật, ban ngày thì họ ra đồng ruộng, tối về họ thiền định và tư duy về pháp, sáng sớm họ dậy họ cũng tư duy về pháp. Trong kinh đức Phật nói như vậy thôi, cũng đâu có gì ghê gớm đâu. Đức Phật vẫn chấp nhận cho quý vị ra ngoài làm việc v.v… có thời gian tranh thủ tối về thiền định, tư duy về pháp, sáng dậy thì cũng tư duy về pháp. Như vậy thì dần dần quý vị cũng thành tựu [được].

Thời đức Phật nhiều người đắc đạo lắm, còn bây giờ tại sao chúng ta không đắc đạo? Vì pháp mạt. Mạt ở chỗ không phải là pháp mạt, mà không có ai truyền Chánh giáo, [cho nên] tu lệch, có nhiều điều không đúng. Ngay cả Chánh kiến thôi mà mình đã không [học] đúng rồi, thì làm sao có những điều sau, làm sao có Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh tấn, Chánh định.

Mỗi bữa Thiện Trang chia sẻ như vậy, khi học hết phần nền tảng này kha khá rồi, thì bữa sau mình chạy phần Luận Câu Xá nhanh hơn, vì mình có nền tảng rồi. Thiện Trang muốn cung cấp cho quý vị nền tảng để quý vị tu tập. Chứ học Luận Câu Xá thì lâu quá, [phải học thời gian] lâu [nữa] thì mới cung cấp được nền tảng. Vì Luận câu Xá không phải đơn giản, mà phải có độ sâu trong đó.

Hôm nay thời gian cũng hết rồi, hẹn quý vị vào hôm khác chúng ta học tiếp, hôm nay dừng ở đây. Quý vị học bấy nhiêu đó cũng nhiều rồi, hy vọng quý vị nghe tới nghe lui rồi quý vị sẽ nắm được. Thiện Trang xin chia sẻ như vậy, cảm thấy mọi sự cũng không khó khăn lắm. Thiện Trang thấy có bao nhiêu quả vị như vậy, như bữa hôm trước trong bảng có 31 quả vị, Thiện Trang đã bổ sung thêm hai [quả vị] nữa là Nhị quả hướng và Tam quả hướng, là 33 quả vị. Quý vị học theo đó là được, nắm vững rồi thì quý vị sẽ thành công.

A Mi Đà Phật! Mời quý vị chúng ta cùng hồi hướng.

“Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ

Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn

Pháp môn vô lượng thệ nguyện học

Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành”.

“Nguyện đem công đức này

Hướng về khắp tất cả

Đệ tử cùng chúng sanh

Đều trọn thành Phật đạo”.

Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật!

Nam mô A Mi Đà Phật!