Responsive Menu
Add more content here...

Luận Câu Xá – Phẩm 1 – Buổi 30

Giảng Ký A Tỳ Đạt Ma Câu Xá Luận (A Tỳ Đàm – Vi Diệu Pháp – Duy Thức Pháp Tướng) – Tạo Luận: Tôn giả Thế Thân – Dịch và Chú Thích: Tam tạng Pháp sư Huyền Trang – Bài 30: Phẩm 1 – Phân Biệt Giới – Buổi 30.

Giảng giải: Thầy Thích Thiện Trang

Giảng ngày: 19.02.2025

Phát trực tiếp trên Kênh YouTube Thích Thiện Trang

https://www.youtube.com/watch?v=680LGatSapc

mạng xã hội Facebook, Fanpage Thích Thiện Trang:

https://www.facebook.com/suthaythichthientrang

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật!

          Nam Mô A Mi Đà Phật!

Kính chào toàn thể quý vị đồng tu! Hôm nay là thứ Tư, chúng ta chia sẻ về A Tỳ Đạt Ma Câu Xá Luận (Luận Câu Xá). Hôm nay là bài thứ 30. Bộ này quý vị đồng tu đều quen rồi. Chúng ta học bộ này là chuyên sâu về giáo pháp giải thoát. Mục đích của chúng ta là để có thể vào Sơ quả, hoặc ít nhất thì cũng vào dòng không còn thối đọa trong vòng sanh tử. Tức là chúng ta sẽ không bị rớt xuống ba đường ác: Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sanh, và đường ác trong A-tu-la. Đó là bộ này, chúng ta học chuyên về giáo pháp giải thoát.

Phần này chúng ta cũng học qua, gồm A Tỳ Đàm của bên Nam truyền (Vi Diệu Pháp của Nam truyền), hay những bộ chuyên về giáo pháp giải thoát bên Nam truyền, chúng ta có học Luận Câu Xá của Bắc truyền, và có phần tạng kinh từ A Hàm và Nikaya của cả hai bên Nam truyền và Bắc truyền.

Hôm nay chúng ta cũng sẽ giới thiệu một phần. Chúng ta mở màn ở đây:

Trong Luận Thanh Tịnh Đạo nói:

Lý do đắc quả Dự lưu và Nhất lai là Giới, quả Bất hoàn là Định, quả A-la-hán là Tuệ.

                   Thiện Trang có làm bảng cho gọn để dễ nhớ:

NhânQuả
GiớiDự lưu (Sơ quả Tu-đà-hoàn)
GiớiNhất lai (Nhị quả Tư-đà-hàm)
ĐịnhBất hoàn (Tam quả A-na-hàm)
TuệA-la-hán (Tứ quả)

Nhân để được Sơ quả Tu-đà-hoàn (quả Dự lưu) chính là Giới. Quả thứ hai là Nhị quả Tư-đà-hàm (Nhất lai là một lần ở trong cõi Dục nữa thôi) cũng là Giới. Hai nhân sau: Định là nhân để được Tam quả A-na-hàm (quả Bất hoàn là không trở lại cõi Dục), và Tuệ là nhân để đắc được quả A-la-hán.

Ở đây để chúng ta nhớ lại một chút về phần quan trọng của Giới, Định, Tuệ (tùy quý vị muốn gọi Huệ hay Tuệ gì cũng được). Nhân có Giới thì mình mới vào được Sơ quả, Giới ở đây chúng ta học ở bài trước là chúng ta phải có Ngũ giới. Giữ Ngũ giới cho tốt thì được vào Sơ quả, thậm chí đến Nhị quả. Thực ra ở đây, nói đúng hơn là có thể nói Bát giới, Bát giới có thể vào Nhị quả, Bát giới tức là Bát quan Trai giới. Ngũ giới không [thôi] thì nhiều khi cũng chưa đủ, nên đôi khi cũng phải thọ Bát quan trai. Đức Phật nói người trì Ngũ giới và trì cả Bát quan Trai giới trong ít nhất sáu ngày trai, thậm chí cả ba tháng Thần túc.

Quý vị thấy khi đắc được định, ví dụ trong khi nhập được Thiền thì tự nhiên phát sinh được Luật nghi. Hồi xưa Thiện Trang thấy khó hiểu, Luật nghi là quý vị có thể giữ được giới. Thực ra không có gì khó hiểu hết, nếu chúng ta học bộ này. Nếu mình nhập được Sơ thiền, thì tự nhiên không có Tâm sở Sân, không có Tâm sở Tham. Quý vị không sân [thì] quý vị không thể nào giết một loài chúng sanh nào khác, nên quý vị tự nhiên giữ được giới không sát sanh. Không tham nên không trộm cắp, cho nên tự nhiên giữ được giới không trộm cắp. Vì sao? Vì Sơ thiền [được] niềm vui hỷ lạc, [do] trừ năm Triền cái rồi (năm Triền cái trong đó có Tham, Sân) cho nên tự nhiên được như vậy thôi. Nhưng còn Thiền, còn Định thì giữ được; hết Thiền, hết Định thì không giữ được. Đó là điều dở bên tu Thiền chỉ.

Chúng ta phải tu thêm Thiền quán. Vì mỗi khi đắc Thiền quán, thì thông thường sẽ đắc luôn, gọi là Đà-la-ni, đắc là đắc luôn. Nếu mình đắc được đủ cấp độ là đắc luôn. Học Thiền quán ở đâu? Học trong mọi lúc, mọi nơi, trong mọi đời sống. Ví dụ nhân duyên trong cuộc đời chúng ta, quý vị cứ nhìn cuộc đời chúng ta là một bài học để tu Thiền quán.

Quý vị thấy từ nhỏ, mấy đứa nhỏ sống chung với nhau, mình đi học chung cùng bạn bè, vui chơi vậy đó. Nhưng sau một cấp thôi, cấp 1 có thể là bắt đầu tan rã ra, đứa đi học trường này, đứa đi học cấp 2 trường khác. Còn không, nếu vô học cấp 2 thì lại chia lớp như thế nào đó, cũng không giống nhau. Rồi lên cấp 2, cùng lắm là có thể học cùng [nhau] bốn năm, từ lớp 6 đến lớp 9. Sau khi học từ lớp 6 đến lớp 9 xong, thì lại một sự biến động tiếp. Tất nhiên ở giữa cũng có nhiều biến động, có đứa thì bị bệnh tật nên ở lại lớp, nghỉ học, thế này thế kia, hoặc chuyển đi nơi khác, v.v… việc đó không có biến động nhiều, nhưng cấp 2 lên cấp 3 (lớp 9 lên lớp 10) là một biến động khác nữa. Lúc đó có thể không học chung với nhau nữa, không cùng thầy cô nữa, thế này thế kia, v.v… Đến lúc học xong lớp 12 thì là biến động lớn [hơn nữa]. Và càng về sau thì càng phân biệt rất rõ.

Quý vị nhìn lại bạn bè của quý vị, nếu quý vị đã trải qua 20 năm của cuộc đời, sau khi tốt nghiệp Trung học Phổ thông, thì quý vị thấy rất rõ nghiệp của chúng sanh, mỗi người đi mỗi khác. Do nhân cộng duyên, duyên là mình lựa chọn ngành này, lựa chọn ngành kia, mình lựa chọn trường này, lựa chọn trường kia. Hai đứa bạn có thể rất thân nhau từ nhỏ, học cùng trong xóm, học cùng lớp, từ lớp 1 đến lớp 12, nhưng cuối cùng họ cũng không thể nào lựa chọn chung một con đường. Dù họ chọn cùng nghề, đi cùng ngành Sư phạm, cùng ngành Bác sĩ chẳng hạn, nhưng cuối cùng họ cũng không thể lấy chung chồng, không thể lấy chung vợ. Và cuối cùng là họ phải khác nhau.

Cho nên trong đời, mình thấy được những điều đó là mình thấy nhân duyên lựa chọn trong đời cực kỳ phức tạp. Nó tự động phân hóa chúng sanh, phân li chúng sanh theo những dòng khác nhau. Dòng đó chúng ta gọi là dòng nghiệp. Nếu chúng ta là những người học Phật pháp, chúng ta muốn ra khỏi sanh tử, thì chúng ta cũng chọn con đường, phân con đường, đi con đường theo dòng giải thoát. Dòng giải thoát chỉ có cách là mình thường xuyên ở trong kinh, thường xuyên ở trong giáo pháp của Như Lai, để mình luôn luôn vun bồi trí tuệ giải thoát giác ngộ, để mình vun bồi được Giới, Định, Tuệ. Với ba nhân đó đủ, thì tự nhiên mình nhập vào dòng pháp của Như Lai, nhập vào dòng Thánh.

Ở bảng trên, quý vị thấy chúng ta giữ được Giới, nhân Giới là chính. Thực ra bộ Luận này nói Giới không [thôi] thì không đủ đâu, mà còn có Định và Huệ nữa. Nếu ai muốn đọc bộ Luận Thanh Tịnh Đạo thì Thiện Trang giới thiệu, có bản dịch của [Sư cô] Thích Nữ Trí Hải. Bản này có hai quyển (tập 1, tập 2), rất dày, quý vị thích thì coi. Mà thực ra Thiện Trang đã chia sẻ những phần quan trọng, ví dụ những đề mục tu Thiền chỉ đều có trong này, Thiện Trang cũng đã chia sẻ cho quý vị. Nếu quý vị không có thời gian, thì Thiện Trang đúc kết lại cho quý vị. Mình học không bao giờ là đủ. Đối với Phật pháp, phải học với tấm lòng hấp dẫn nhất, say mê nhất, thì như vậy mình sẽ đi gần đến giải thoát. Hi vọng là quý vị đều thích học bộ môn này.

Ở đây là nói [nhân] chính. Tuy trong Luận Thanh Tịnh Đạo nói như vậy, nhưng thực tế Giới, Định, Huệ phải đi chung và chủ yếu là nhấn mạnh về Giới. Quý vị biết trong Giới, thành tựu được một phần về Giới thì được một phần giải thoát. Có nghĩa là nếu mình giữ được năm giới, thì mình có thể chứng được Sơ quả Tu-đà-hoàn, thậm chí là Nhị quả Tư-đà-hàm. Nếu mình giữ được giới Tỳ-kheo (giới Tỳ-kheo còn gọi là cận viên) một cách viên mãn, thì mình sẽ đến quả A-la-hán. Gần với quả A-la-hán nên gọi là cận viên. Nên có những người chưa làm được giới Tỳ-kheo thì họ chưa thành A-la-hán thôi. Nhiều người cứ đem giới đó áp đặt cho tất cả những người xuất gia là phải làm được. Thực ra người ta chưa làm được thì người ta chưa thành A-la-hán thôi, còn mình làm được thì mình thành A-la-hán. Chẳng qua là như vậy! Giữ Giới nhưng phải có tu Định, tu Huệ, chứ còn giữ Giới không [thôi] thì cũng không được. Chúng ta hãy hiểu được điều này.

Thiện Trang giới thiệu thêm chút nữa phần kinh tạng:

Nhân Duyên Khiến Sau Khi Đức Phật Nhập Diệt Thì Diệu Pháp Không Còn Tồn Tại Lâu Dài

          Bây giờ chúng ta tìm hiểu xem tại sao?

Như vầy tôi nghe. Một thời, Thế Tôn trú ở Kimbila, tại rừng Trúc. Rồi Tôn giả Kimbila đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Tôn giả Kimbila bạch Thế Tôn:

– Bạch Thế Tôn, do nhân gì, do duyên gì, sau khi Như Lai nhập diệt, diệu pháp không còn tồn tại lâu dài? Đây là vấn đề mà chúng ta cũng rất trăn trở. Chúng ta muốn giáo pháp Như Lai tồn tại lâu dài ở thế gian. Như vậy thì làm sao? Ở đây có một bài kinh nói rõ, đức Phật trả lời thế này:

– Ở đây, này Kimbila, khi Như Lai nhập diệt, các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo-ni, nam Cư sĩ, nữ Cư sĩ sống không cung kính, không tùy thuận bậc Ðạo sư; sống không cung kính, không tùy thuận Pháp; sống không cung kính, không tùy thuận chúng Tăng; sống không cung kính, không tùy thuận học pháp; sống không cung kính, không tùy thuận không phóng dật; sống không cung kính, không tùy thuận tiếp đón. Này Kimbila, đây là nhân, đây là duyên khiến cho Như Lai nhập diệt, Diệu pháp không còn tồn tại lâu dài.

           Ở đây chúng ta hiểu được nhân, có sáu nhân: Thứ nhất là những người xuất gia và tại gia (Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, nam Cư sĩ, và nữ Cư sĩ) sống không cung kính, không tùy thuận bậc Đạo sư. Tức là không có cung kính đối với Phật, không tùy thuận tức là không làm theo lời Phật dạy. Điều thứ hai là sống không cung kính, không tùy thuận Pháp, [tức là] pháp dạy [mà] mình cũng không theo. Điều thứ ba là sống không cung kính, không tùy thuận chúng Tăng. Thời nay thì rõ ràng lắm, bây giờ Cư sĩ dạy chúng Tăng luôn đúng không? Thiện Trang thấy đặc biệt càng về sau này, hình như Phật pháp Bắc truyền mình chắc là sắp diệt. Tại vì trong kinh đức Phật nói, thời nào Cư sĩ thành tựu, Cư sĩ leo lên hoằng pháp là thời đó pháp sắp diệt.

Theo mấy thời trong kinh, Thiện Trang không nhớ là trong kinh nào, nhưng trong Pháp Uyển Châu Lâm (trích bộ kinh nào đó) có nói: Khi thời Mạt pháp, đầu tiên là Tỳ-kheo-ni thịnh (Ni thịnh) rồi tới Cư sĩ thịnh. Mà thời Cư sĩ thịnh là pháp sắp diệt. Tại vì sao? Vì chính những người Cư sĩ là những người điều khiển chúng Tăng, rồi thế này thế kia. Bây giờ quý vị thấy rõ ràng rồi đó.

Ở bên Phật giáo Nam truyền thì không có hiện tượng này. Ở bên Phật giáo Nam truyền, quý vị coi ở Thái Lan, hay Lào, Campuchia, quý vị theo dõi hành trình của Sư Minh Tuệ là quý vị biết. Quý vị không cần coi đâu, quý vị coi trên tivi cũng được, coi trên điện thoại cũng thấy, ở đó người Cư sĩ rất cung kính [chúng Tăng]. Cư sĩ là Cư sĩ, không bao giờ có vụ Cư sĩ mà dạy chúng Tăng, nói này nói kia chúng Tăng. Nếu họ thấy chư Tăng, những vị Tỳ-kheo phạm giới thế này thế kia, thì họ chỉ có lên báo cho Tăng đoàn xử lý. Còn ở Việt Nam chúng ta, chẳng có phạm giới gì mà người Cư sĩ lên chửi tứ tung, chửi cả người xuất gia. Chính vì vậy nên Phật pháp sắp diệt. Đó là nằm ở [nhân] sống không cung kính, không tùy thuận chúng Tăng.

Thứ tư là sống không cung kính, không tùy thuận học pháp. Học pháp đây chính là Giới. Không có cung kính, không có tùy thuận theo Giới. Thứ năm là sống không cung kính, không tùy thuận không phóng dật. [Phóng dật] có nghĩa là tùy tiện, không phóng dật là không tùy tiện. Bây giờ ngược lại, là mình rất tùy tiện, mình muốn làm thế nào thì làm, buông trôi, buông thả. [Thứ sáu] là sống không cung kính, không tùy thuận tiếp đón. [Có nghĩa] là mình không cung kính, không tiếp đón đối với chúng xuất gia, đối với những người Thượng trung Hạ tọa (ý nói Tỳ-kheo). Ở Việt Nam thì chúng ta thấy rõ những yếu tố này. Nên mình nhìn vào dấu hiệu này [là] mình biết. Đây là nhân, là duyên, khiến cho Như Lai nhập diệt, Diệu pháp không tồn tại lâu dài.

Ở đây Thiện Trang sẵn chia sẻ một chút. Chúng ta cũng cố gắng làm sáu điều này: Cung kính Phật, cung kính Pháp; cung kính không phải cung kính không [thôi], mà phải tùy thuận tức là nghe theo, nghe theo lời Phật, nghe theo kinh pháp. Và cung kính, tùy thuận theo Tăng. Tất nhiên Tăng ở đây phải là những người tu hành đúng. Còn mình bây giờ mình không biết Giới, không biết Pháp, không biết gì hết, mà lên mạng bảo thầy phải thế này, thầy phải thế kia, điều khiển luôn cả mọi người. Ví dụ như mọi người lên [coi] mấy cái giật tít đó quý vị, Sư này Sư kia sử dụng điện thoại là phạm giới. Quý vị coi thử trong Giới luật của Phật, có giới nào là bắt không sử dụng điện thoại [không]? Chẳng hạn như vậy, mà họ cũng giật tít đó quý vị, kiểu như vậy.

Quý vị cứ hỏi các vị Sư Nam truyền về tài sản của Tỳ-kheo thời hiện nay. Các vị Sư Nam truyền sẽ giải thích cho quý vị mỗi thời mỗi khác. Giống như thời nay, nếu một vị Tỳ-kheo tu hạnh bình thường, mà hoằng pháp lợi sanh, [thì] họ không thể không có máy tính, không thể không có điện thoại, v.v… Những điều đó là bình thường. Tu kiểu đó khác, bởi vì đức Phật không có chế ra những điều đó. [Mà phải coi] sử dụng những điều đó theo mức độ nào, sử dụng theo điều kiện gì, thì mới phạm giới. Phạm giới thì các giới kia đã bao gồm rồi. Ví dụ lên mở điện thoại, mở laptop ra để coi phim ảnh, nhạc nhẽo, thì phạm giới, trong giới không xem nghe ca múa hát. Hoặc trong 250 giới của Tỳ-kheo bên Bắc truyền và 227 giới của Tỳ-kheo bên Nam truyền, thì có rồi. Cho nên mình không học [mà] mình cứ kết tội như thế, đó là mình không biết, không hiểu.

Thiện Trang chia sẻ thêm một chút. Tất nhiên ở đời thì mình không áp đặt một ai hết. Giống như một trận nước lớn tràn vào, mà con đê bị yếu, bị rò rỉ, sắp làm vỡ đê rồi. [Nếu] mình là người trong vùng đó, thì bây giờ mình [sẽ làm] như thế nào? Có người sẽ chọn giải pháp là: thôi mình bỏ trốn trước cho chắc, dọn nhà, chuyển nhà chạy trước. Cũng vậy, trong giáo pháp, khi Chánh pháp bị lu mờ, bị những thế lực nào đó, những người nào đó công kích để phá hoại Chánh pháp, mà mình không đứng ra bảo vệ, mình bỏ trốn trước cho yên thân. Như vậy cũng giống như những người [thấy] đê sắp vỡ, đê sắp có vấn đề, nhưng mình không [đứng] ra gia cố, mà mình lo chạy trốn trước. Đó là một hạng người.

Hạng người thứ hai là: Ôi! Đê vỡ ở khúc kia, không liên quan đến mình, nên thờ ơ, không quan tâm. Cũng vậy, Chánh pháp Như Lai truyền hay không truyền, hay có gì [đi nữa] v.v… thì mình cũng chẳng cần bảo vệ. Vì bảo vệ hay không bảo vệ, thì cũng không có ý nghĩa gì. Người ta nghĩ như vậy.

Người thứ ba thì tùy duyên, có điều kiện bảo vệ thì ra làm, không có thì thôi, không phải trách nhiệm của mình. Chẳng hạn [vậy]. Cũng vậy, bảo vệ Chánh pháp hay không bảo vệ Chánh pháp cũng không quan trọng.

Ở đây Thiện Trang muốn nói với quý vị nghe câu này. Một câu mà hồi xưa Thiện Trang coi trong phim Tây Du Ký. Quý vị biết Tây Du Ký chỉ là một tác phẩm thôi, viết lên để chúng ta coi, để hiểu một chút về Phật pháp thôi, chứ không có thật như vậy. Ngài Huyền Trang đi Ấn Độ không có yêu quái, không có Tôn Ngộ Không, không có Trư Bát Giới hay Sa Tăng đâu. Nhưng câu chuyện đó rất nổi tiếng.

Và trong đó, hồi nhỏ Thiện Trang coi mà cứ thắc mắc, là tại sao các yêu tinh luôn luôn lan truyền một tin: là ăn thịt Đường Tăng thì sẽ trường sinh bất tử. Thịt Đường Tăng thì có gì để trường sinh bất tử? Mà trong tác phẩm đó không giải thích, chỉ có lan truyền như vậy thôi. Đến bây giờ thời hiện đại, thì Thiện Trang mới hiểu tại sao yêu quái lại lan truyền câu nói như thế. Quý vị biết tại sao không? Thực tế là ăn thịt Đường Tăng cũng đâu có trường sinh bất tử được. Đức Phật đâu có nói như vậy đúng không? [Trong phim] Tây Du Ký chỉ truyền nhau như vậy. Ý là gì? Ý là những con yêu quái, yêu tinh đại diện cho thế lực xấu; còn Đường Tăng (Đường Tam Tạng) là biểu hiện cho điều thiện. Muốn cái xấu tồn tại mà [không] bị kính chiếu yêu, thì chỉ có cách là hãy tấn công, diệt những điều tốt đi. Ý trong câu chuyện Tây Du Ký là như vậy.

Và chúng ta thấy điều đó rất rõ trong đời hiện nay, đúng không ạ? Cho nên ở đây sẵn Thiện Trang chia sẻ về Diệu pháp. Có những người bảo vệ Chánh pháp, họ không sợ gì hết, họ lăn xả ra để bảo vệ. Giống như người cứu đê, vì nghĩ đến tất cả mọi người, nên họ sẵn sàng lăn xả ra cứu đê để cho làng mình, xóm mình, vùng mình không bị lụt, không bị ngập, không bị nạn. Lỡ mình có chết thì cũng không sao, có những người anh hùng như vậy. Đó là bảo vệ Chánh pháp, thì cũng có những người như vậy. Tùy mỗi người.

Trở lại đây, Thiện Trang chỉ [muốn] nói là: mình muốn cho Chánh pháp được tồn tại lâu dài, thì hãy làm ngược lại. Ở đây có nói:

– Do nhân gì, do duyên gì khi Như Lai nhập diệt, Diệu pháp được tồn tại lâu dài?

Ở đây, này Kimbila, khi Thế Tôn nhập diệt, các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo-ni, nam Cư sĩ, nữ Cư sĩ sống cung kính tùy thuận bậc Ðạo Sư; sống cung kính tùy thuận Pháp; sống cung kính tùy thuận chúng Tăng; sống cung kính tùy thuận học pháp; sống cung kính tùy thuận không phóng dật; sống cung kính tùy thuận tiếp đón. Này Kimbila, đây là nhân, đây là duyên khiến cho khi Như Lai nhập diệt, Diệu pháp được tồn tại lâu dài.

Thiện Trang chỉ mong gửi đến thông điệp như vậy thôi, chúng ta hãy làm được sáu điều trên, thì Diệu pháp được tồn tại lâu dài, sẽ lợi ích cho chúng sanh rất nhiều.

((6.40) Kimbila (AN 5.201*, AN 7.59*) – Kinh Tăng Chi Bộ – Tạng Nikaya).

Đoạn này quý vị có thể tìm ở Kinh số 40 của phẩm Sáu pháp, Kinh Kimbila, Kinh Tăng Chi Bộ – Tạng Nikaya. Đó là một câu chuyện, một vấn đề mà chúng ta cũng giới thiệu.

Có đồng tu nói là gần đây Thiện Trang giảng hình như cho ít câu chuyện, nên nghe hơi mệt, nhiều kiến thức quá. Hôm nay Thiện Trang xin giới thiệu cho quý vị câu chuyện:

Câu Chuyện Nhân Quả Của Việc Phỉ Báng Thánh Nhân

Tôi nghe như vầy: Một thời, đức Phật ở trong vườn Trúc, khu Ca Lan Đà, thành Vương Xá. Bấy giờ, có Tỳ-kheo Cù Ca Lê là bè đảng Đề Bà Đạt Đa, đi đến chỗ đức Phật, đảnh lễ sát chân Phật, rồi ngồi lui qua một bên. Bấy giờ, đức Thế Tôn bảo Tỳ-kheo Cù Ca Lê: “Này Cù Ca Lê, vì sao đối với Phạm hạnh thanh tịnh của Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên, mà ngươi khởi tâm không thanh tịnh, để sẽ phải chịu khổ não lâu dài, không có lợi ích”.

Đây là thời đức Phật, có ông Đề Bà Đạt Đa, thì chắc ai cũng biết quá rồi. Ổng chống Phật, làm nhiều việc [xấu] lắm. Ở đây có một người bè đảng của Đề Bà Đạt Đa, tên là Cù Ca lê, cũng là một vị Tỳ-kheo. Đức Phật rất thương xót nên mới nói với ổng: là vì sao ngươi (tức là vị Tỳ-kheo đó) đối với Phạm hạnh thanh tịnh của Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên; tức là hai ngài Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên thì đặc biệt quá rồi, hai vị này giống như hai [bên] tả, hữu của đức Phật vậy đó, để giúp lan truyền Chánh pháp; mà người này lại khởi tâm không thanh tịnh, thậm chí phỉ báng. Đức Phật nói nếu như vậy thì tương lai phải chịu nỗi khổ lâu dài, không có lợi ích. Đức Phật khuyên như vậy. Để coi vị Tỳ-kheo này [trả lời] thế nào.

Tỳ-kheo Cù Ca Lê bạch đức Phật: “Bạch Thế Tôn, nay con tin lời Thế Tôn, những điều đó là đúng (có nghĩa là ổng cũng tin đó). Nhưng tâm Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên có ác dục”. Có nghĩa là ổng nói miệng là tin đức Thế Tôn, nhưng thật ra ngay câu sau thì nói là ‘tâm ngài Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên có ác dục’. Như vậy là ổng phỉ báng.

Nói như vậy lần thứ hai, lần thứ ba. Tỳ-kheo Cù Ca Lê thuộc bè đảng Đề Bà Đạt Đa ở chỗ đức Thế Tôn, trong khi nói lại lần thứ ba, chống đối, không nhận chịu, liền từ chỗ ngồi đứng dậy bỏ đi. Chỗ này là sau ba lần đức Phật khuyên mà ổng cũng không nghe, [ngược lại] là ổng chống đối, không nhận chịu, và liền từ chỗ ngồi đứng dậy bỏ đi.

 Cho nên điều này là bình thường, thời đức Phật cũng có người như vậy, huống chi là chúng ta, thời nay là bình thường quý vị ha! Cho nên mình học những câu chuyện này, là câu chuyện ngay thời đức Phật trong kinh điển, chứ không phải kinh luôn luôn nói điều tốt. Chúng ta thấy là [kinh luôn] nói sự thật. Có những điều không tốt đẹp trong Tăng đoàn thời xưa, thời đức Phật đã có. Và ông này cũng vậy, có Phật mà còn chống đối luôn, không chịu nghe, không chịu nhận. Cho nên [thời nay có những chuyện như vậy] là bình thường.

Sau khi đứng dậy bỏ đi, khắp người ông nổi đầy mụt nhọt giống như trái lật, dần dần to lên như trái đào.

Quý vị thấy quả báo tới rất nhanh, tại vì sao? Thứ nhất là phỉ báng ngài Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên. Thứ hai là chống lại lời Như Lai. Ai chống lại lời Như Lai ba lần thì quả báo thường tới liền. Quý vị thấy trong kinh, có những người mà đức Phật hỏi ba lần mà không trả lời, là thấy trên trời, có vị thần Kim Cang cầm chày nói: ‘Nếu ông không trả lời thì tôi đánh bể đầu’. Quý vị thấy, trong kinh có những câu chuyện như vậy.

Cho nên người nào cũng sợ lắm, không dám nói dối. Thậm chí nói dối trước Phật thì cũng bị đánh bể dầu, nên là họ sợ, [bởi vì] Phật có thần Kim Cang [hộ pháp]. Còn [ở] đây, vị này bị quả báo, mới bỏ đi là khắp người nổi mụt nhọt giống như trái lật, dần dần to lên như trái đào.

Khi ấy Tỳ-kheo Cù Ca Lê đau đớn thống khổ, miệng kêu lên: ‘Nóng quá! Nóng quá!’ (Quý vị thấy [ổng rất] đau đớn) Máu mủ chảy ra, thân hoại mạng chung, sanh vào Địa ngục lớn Bát Đàm Ma (có nghĩa là bị chết luôn, sanh vào Địa ngục).

Bấy giờ, có ba vị Thiên tử dung mạo tuyệt vời, vào lúc cuối đêm, đến chỗ Phật, cúi đầu lễ sát chân Phật, ngồi lui qua một bên. Lúc ấy, một Thiên tử bạch Phật: “Tỳ-kheo Cù Ca Lê thuộc bè đảng Đề Bà Đạt Đa nay mạng chung”.

Thiên tử thứ hai thưa: “Chư Tôn nên biết, Tỳ-kheo Cù Ca Lê mạng chung rơi vào Địa ngục”.

Quý vị thấy Tỳ-kheo Cù Ca Lê rơi vào Địa ngục Bát Đàm Ma, ở đây có dịch nghĩa là hoa sen đỏ, là tên của Địa ngục thôi. [Ở Địa ngục này], thân thể nứt ra giống như hoa sen đỏ, hình như [chúng ta] đã học ở bên bộ Khoa Chú Tuyển Giảng rồi đúng không ạ? Hoa sen đỏ là [tên] của Địa ngục, thân thể nứt ra giống như hoa sen đỏ mà nứt [ra] vậy.

Thiên tử thứ ba liền nói kệ:

Tức là bây giờ có ba vị trời Thiên tử (là người cõi Trời) đến báo cho Phật là vị Tỳ-kheo đó chết rồi. Vị thứ hai thì nói là vị đó chết xong rồi rơi vào Địa ngục; còn vị thứ ba thì nói bài kệ. Chúng ta coi thử bài kệ này nói thế nào.

Con người sanh ở đời,

Búa sanh từ trong miệng,

Trở lại chém thân mình,

Đó do lời nói ác.

Bài kệ này chính là bài kệ trích trong Kinh Pháp Cú (Tích Truyện Pháp Cú, hay là Kinh Pháp Cú, hay là Kinh Tiểu bộ – Nikaya) cũng có bài kệ này, rất nổi tiếng. Còn đây là Kinh A Hàm nha.

Đáng chê lại khen ngợi;

Đáng khen ngợi lại chê.

Tội này sanh nơi miệng,

Chết rơi vào đường ác.

Thời nay quý vị thấy những người phạm điều này rất nhiều, rất đáng thương. Thời nay, chúng ta thấy có những người hành theo đúng Chánh pháp, giống như Sư Minh Tuệ, lẽ ra là đáng khen mà họ lại chê, rồi đáng chê mà lại khen, khen người giả kia. Ở đây thì vị Thiên tử (người trời) này nói luôn: là tội này sanh nơi miệng, chết rơi vào đường ác. Cho nên rất đáng thương, chúng sanh thời nay mê quá lớn, nên không có cách nào.

Quý vị cố gắng! Chúng ta hiểu được Chánh pháp, cố gắng tu và cố gắng tránh. Điều nào đáng chê thì chê, điều nào đáng khen thì khen, nếu không thì không chê không khen. Chứ còn làm ngược, thì tội này sanh nơi miệng, chết rơi vào đường ác.

Cờ bạc mất hết của,

Phải quấy là lỗi lớn;

Hủy Phật cùng Thanh văn,

Thì đó là tội lớn.

Cho nên Thiên tử nói điều này giống như tội cờ bạc mất hết của. Còn tội hủy báng Phật, Thanh văn, A-la-hán là tội lớn. Cho nên vị này tội lớn quá, rớt vào Địa ngục luôn.

Ba vị Thiên tử kia nói kệ này rồi liền biến mất. Qua sáng sớm hôm sau, bấy giờ đức Thế Tôn đi vào trong Tăng, trải chỗ ngồi, ngồi trước đại chúng, bảo các Tỳ-kheo: “Cuối đêm qua, có ba vị Thiên tử đến chỗ Ta, đảnh lễ sát chân Ta, ngồi lui qua một bên. Thiên tử thứ nhất thưa Ta rằng:

Bạch Thế Tôn, Tỳ-kheo Cù Ca Lê thuộc bè đảng Đề Bà Đạt Đa nay mạng chung.

Thiên tử thứ hai nói với chư Thiên khác rằng: Tỳ-kheo Cù Ca Lê mạng chung, rơi vào Địa ngục.

Thiên tử thứ ba liền nói kệ:

Con người sanh ở đời,

Búa sanh từ trong miệng,

Trở lại chém thân mình,

Đó do lời nói ác.

Đáng chê lại khen ngợi,

Đáng khen ngợi lại chê.

Tội này sanh nơi miệng,

Chết rơi vào đường ác.

Sau khi nói kệ này rồi liền biến mất. Này các Tỳ-kheo, các ông có muốn nghe kỳ hạn thọ mạng của chúng sanh sinh vào Địa ngục A Phù Đà không?”

Tức là đức Phật nhắc lại, không biết sao trong kinh thì chư Thiên toàn đến thăm Phật vào khoảng nửa đêm. Chắc có lẽ là thời gian đó phù hợp nhất hay sao đó. Thiện Trang thì không biết tại sao, vì lý do nào, có thể là do lúc đó chúng sanh ngủ hết rồi, đức Phật tiếp dễ, khỏi phải mâu thuẫn bị chồng chéo thời gian với cõi Người, với những người ở đời, có lẽ là vậy. Đức Phật kể ra chuyện hôm qua, và đức Phật mới nói cho các vị Tỳ-kheo là: kỳ hạn thọ mạng, tức là thời gian tuổi thọ của chúng sanh ở trong Địa ngục A Phù Đà là bao nhiêu. Địa ngục này chưa tới Địa ngục của ông Cù Ca Lê.

Các Tỳ-kheo bạch đức Phật: “Bạch đức Thế Tôn, nay chính đúng lúc, cúi xin đức Thế Tôn vì đại chúng nói về kỳ hạn thọ mạng của chúng sanh trong Địa ngục A Phù Đà. Các Tỳ-kheo nghe xong sẽ lãnh thọ phụng hành”.

Đức Phật bảo Tỳ-kheo: “Hãy lắng nghe và suy nghĩ kỹ, Ta sẽ vì các ông mà giảng nói. Thí như tại nước Câu Tát La bốn thăng là một a-la, bốn a-la là một độc-lung-na, mười sáu độc-lung-na là một xà-ma-na, mười sáu xà-ma-na là một ma-ni, hai mươi ma-ni là một khư-lê, hai mươi khư-lê là một kho hạt cải đầy trong đó.

Quý vị thấy con số này, chúng ta nghe không hiểu, tại vì số tên gì lạ hoắc, chúng ta quen đơn vị cm, mm, gam hay gì đó… Chứ thời đó dùng số kiểu này, thì chúng ta cũng không quan trọng lắm, chúng ta [chỉ] nghe thôi. Ở đây có chú giải con số này, nên Thiện Trang tạm tính ra một kho hạt cải là 1x4x16x16x20x20 = 409.600 a-la. A-la này là bao nhiêu thì không biết, nhưng chúng ta chỉ cần biết là một kho hạt cải đầy trong đó. Quý vị tưởng tượng nhà quý vị có một cái kho, mà quý vị chất đầy hạt cải trong đó, hạt cải nhỏ lắm, nhỏ hơn hạt mè (hạt vừng) nữa. Mà một kho như vậy biết bao nhiêu. Một kho đó rồi nhân thêm số lượng như vậy, bây giờ chúng ta thử coi thọ mạng ở trong Địa ngục đó như thế nào.

 Giả sử, nếu có người, cứ 100 năm lấy một hạt cải, như vậy cho đến khi hết sạch kho hạt cải đầy kia, thọ mạng của chúng sanh trong Địa ngục A Phù Đà vẫn chưa hết.

Quý vị thấy sợ không? Địa ngục A Phù Đà, bây giờ để cho dễ hiểu, ai cũng biết hạt mè (hạt vừng), ai cũng ăn mè (vừng), thì quý vị chất đầy hạt mè (hạt vừng) trong nhà của quý vị. Rồi cứ 100 năm quý vị vô lấy một hạt, lấy như vậy cho [đến khi] lấy hết luôn, mà thọ mạng của chúng sanh trong Địa ngục A Phù Đà đó chưa hết. Ghê vậy đó quý vị! Mà quý vị thấy là nhân thêm 100 năm nữa, như vậy thì biết bao nhiêu thời gian ở trong Địa ngục. Cho nên ở đời được một chút vui vẻ, được một chút lợi ích, không đáng bao nhiêu tiền hết, nhưng chúng sanh tạo tội nghiệp, khi vô trong Địa ngục thì thật đáng thương. Quý vị thấy thọ mạng quá lâu.

20 lần thọ mạng của chúng sanh trong Địa ngục A Phù Đà như vậy bằng thọ mạng của một chúng sanh trong Địa ngục Ni La Phù Đà (mấy Địa ngục này Thiện Trang không có tả ra, tả ra mất thời gian, chúng ta nghe tên là được rồi). 20 lần thọ mạng của chúng sanh trong Địa ngục Ni La Phù Đà bằng thọ mạng của một chúng sanh trong Địa ngục A Tra Tra (20 lần rồi, nhân thêm 20 lần nữa, là thành 400 rồi đó). 20 lần thọ mạng của chúng sanh trong Địa ngục A Tra Tra bằng thọ mạng của một chúng sanh trong Địa ngục A Ba Ba (như vậy là nhân thêm 20 lần nữa). 20 lần thọ mạng của chúng sanh trong Địa ngục A Ba Ba bằng thọ mạng của một chúng sanh trong Địa ngục A Hưu Hưu (như vậy là 4 lần con số 20 nhân cho nhau rồi đó). 20 lần thọ mạng của chúng sanh trong Địa ngục A Hưu Hưu bằng thọ mạng của một chúng sanh trong Địa ngục Ưu Bát La (tức là 5 lần con số 20 (20^5).20 lần thọ mạng của chúng sanh trong Địa ngục Ưu Bát La bằng thọ mạng của một chúng sanh trong Địa ngục Bát Đàm Ma (Địa ngục Bát Đàm Ma. Như vậy thì 20^6 rồi đó, mà vẫn chưa hết thọ mạng). 20 lần Thọ mạng của chúng sanh trong Địa ngục Bát Đàm Ma bằng thọ mạng của một chúng sanh trong Địa ngục Ma Ha Bát Đàm Ma (Ma Ha Bát Đàm Ma là hoa sen đỏ lớn. Tức là 7 lần con số 20 (20^7). Chưa hết, còn nhân cho con số ở trên (409.600 a-la) nữa. A-la [không biết là bao nhiêu], thôi mình tính hạt mè đi, lâu như vậy đó).

Này Tỳ-kheo, Tỳ-kheo Cù Ca Lê mạng chung rơi vào Địa ngục Ma Ha Bát Đàm Ma (tức là Địa ngục cuối cùng này. Quý vị thấy sợ không?), vì Tỳ-kheo này đối với Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên sanh ác tâm phỉ báng. Cho nên, các Tỳ-kheo, hãy học như vầy: Ở nơi chỗ tim đèn, mồi lửa đang cháy kia còn không muốn hủy hoại, huống là hủy hoại chúng sanh có thức”.

Cho nên là sợ lắm quý vị! Quý vị nghe câu chuyện này xong thì quý vị cũng sợ luôn, đúng không ạ? Ở đời, vị Tỳ-kheo này rất đáng thương. Chỉ vì theo bè đảng cho Đề Bà Đạt Đa, phỉ báng ngài Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên, nên ổng rơi vào Địa ngục Ma Ha Bát Đàm Ma này, tính sơ sơ là 20^7, tức là có bảy con số 20 nhân với nhau. Mà so với Địa ngục kia (Địa ngục ở trên), quý vị biết Địa ngục đầu tiên là cứ 100 năm tới lấy một hạt cải, ở trong một cái phòng toàn là hạt cải, mà hạt cải nhỏ lắm, đâu có lớn đâu. Trong kinh hay nói hạt cải chứa núi Tu Di, quý vị nhớ không? Trong kinh Đại thừa hay là trong Kinh Hoa Nghiêm hay nói như vậy. Một hạt cải nhỏ cỡ đó, mà bây giờ cả cái phòng to, [ví dụ] cái phòng ngủ nhỏ nhỏ của quý vị thôi, mà chất đầy hạt cải. 100 năm tới lấy một hạt, lấy hết hạt cải đó mà vẫn chưa hết thọ mạng của chúng sanh trong Địa ngục A Phù Đà. [Rồi còn] nhân thêm 7 con số 20 nữa. Vị Tỳ-kheo Cù Ca Lê này, vì tội phỉ báng ngài Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên, mà vô Địa ngục đó thời gian lâu như vậy. Quý vị nghĩ đáng thương cỡ nào.

Cho nên ở đời hạnh phúc không được bao nhiêu, lợi ích không được bao nhiêu, phỉ báng có một chút thôi, mà tội vô trong đó nặng như vậy. Nghe như vậy chúng ta thấy rất thương cho thời đó, vị Tỳ-kheo này rất đáng thương. Ta nhìn vào thời nay cũng rất đáng thương. Có nhiều người vì những lợi ích rất nhỏ nhoi trong đời này, vì danh hay vì gì đó, mà chúng ta gọi là yêu quái, yêu tinh muốn ăn thịt Đường Tăng, kiểu vậy. Cho nên họ tạo ra rất nhiều nghiệp nặng, và tương lai họ sẽ chịu quả báo rất nặng bởi, vì hủy hoại Chánh pháp. Tất nhiên có thể nhẹ hơn ở đây, nhưng mình thấy nội thời gian ở trong Địa ngục cỡ đó thì quá đáng sợ.

Ở đây còn có một chú ý nữa. Đức Phật nói: “Ở nơi chỗ tim đèn, mồi lửa đang cháy kia còn không muốn hủy hoại, huống là hủy hoại chúng sanh có thức”. Ở đây ý nói là chúng sanh có thức là chúng sanh có tình thức (tức là có Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức), tức là chúng sanh Hữu tình, mà hủy hoại. Nhiều người kêu giết một con kiến không có gì, giết một con ruồi không có gì, giết một con gì đó không có gì. Theo tinh thần trong kinh, đức Phật dạy, thì có thể chưa có gì, đối với quý vị có tâm như thế nào. Nhưng có khi vì giết mỗi chúng sanh nhỏ đó thôi, nhưng với tâm ác đó thì có thể kết nhân, đến lúc chết nó hiện ra thì quý vị cũng đọa. Cho nên đọa Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sanh vẫn có, khi [chỉ vì] chuyện nhỏ như vậy thôi. Cho nên rất cẩn thận.

Đây là giới sát sanh. Ở đây trong Giới [nói là] phạm bậc tiểu (bậc hạ), nhưng quý vị nên nhớ: bậc hạ dù có sám hối, nhưng nghiệp đó không hết. Cho nên phải cẩn thận, vì mình là người học Phật. Nghe Địa ngục này là sợ rồi đúng không ạ?

Đức Phật bảo các Tỳ-kheo: “Hãy học như vậy”.

Đức Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo nghe những gì đức Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

(Kinh 1192. Cù Ca Lê [27] – Kinh Tạp A Hàm).

Quý vị có thể tìm [câu chuyện này] trong Kinh Tạp A hàm. Cho nên là ở đời, đừng vì lợi ích nhỏ nhoi mà tạo những ác nghiệp. Thời nay chúng sanh tạo nhiều nghiệp dữ lắm, họ mắng nhiếc Tỳ-kheo, rồi thế này thế kia. Bậc đức hạnh tu càng nhiều, thì tội [mắng nhiếc các vị ấy] càng nặng, nên nhớ vậy. Những người tu hành thôi, chẳng cần phải nói Tỳ-kheo gì hết, cho [là] ngoại đạo đi. Nhưng nếu là một người đức hạnh, người ta tu pháp nào không biết, [hoặc] là một người ở nhân gian thôi, [mà] quý vị phỉ báng, thì cũng đã tội rồi, đừng nói là những người tu hành trong nhà Phật, [các ngài] tu đúng Chánh pháp thì tội [phỉ báng] rất nặng.

Đó là câu chuyện thứ nhất, nghe chút đi cho đổi tư tưởng. Sẵn chỗ này Thiện Trang xin giới thiệu thêm một đoạn nữa.

Những Người Chịu Tội Nặng Nhất Trong Địa Ngục Thời Đức Phật Thích Ca

Thiện Trang đọc rất nhiều kinh, thì Thiện Trang thấy hình như có bốn người chịu tội nặng nhất, mà đức Phật kể trong kinh. Rất may mắn là trong một bài kinh, đức Phật nhắc tới bốn người này. Có thể là theo Thiện Trang thôi, chưa chắc là nặng nhất, mình tạm nói là trong những người chịu [tội] nặng nhất.

Tôi nghe như vầy: Một thời, đức Phật trú tại nước Xá Vệ, trong vườn ông Cấp Cô Độc, rừng cây Thái tử Kỳ Đà. Bấy giờ đức Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:

“Có bốn người trong đại Địa ngục. Bốn người ấy là ai? Tội nhân Mạt Khư Lê; đại tội nhân Tỳ-kheo Đế Xá; đại tội nhân Đề Bà Đạt Đâu (Đề Bà Đạt Đa); đại tội nhân Tỳ-kheo Cù Ba Li (Cù Ca Lê). Có khi phiên âm từ tiếng này sang tiếng kia [nên] khác âm, nhưng là [cùng] một người thôi.

Như vậy quý vị thấy bốn người ở trong đại Địa ngục (là Địa ngục lớn): Một là tội nhân Mạt Khư Lê; hai là Tỳ-kheo Đế Xá; ba là Đề Bà Đạt Đâu; bốn là Tỳ-kheo Cù Ba Li. Bây giờ quý vị coi, ông này [Cù Ba Li] là Tỳ-kheo, ông Đề Bà Đạt Đa cũng là Tỳ-kheo, rồi ông Đế Xá cũng là Tỳ-kheo. Cho nên người xuất gia đọa Địa ngục cũng nặng. Hình tướng của mình là người xuất gia, mà mình làm không đúng thì đọa nặng hơn. Khủng khiếp! Chúng ta coi thử những người này tại sao, họ làm tội gì mà đọa dữ vậy. Trong kinh này có, ở đây đức Phật nói.

Tội nhân Mạt Khư Lê, thân bốc ngọn lửa dài 60 khuỷu tay (thân bốc lửa dài 60 khuỷu tay. Tội nhân này bị bốc lửa dữ). Tội nhân Đế Xá, thân bốc ngọn lửa dài 40 khuỷu tay (ông này đỡ hơn). Tội nhân Đề Bà Đạt Đâu, thân bốc ngọn lửa dài 30 khuỷu tay. Tội nhân Cù Ba Li, thân bốc ngọn lửa dài 20 khuỷu tay. Như vậy ông Cù Ba Li này bị nhẹ hơn. Chúng ta coi tiếp, tại sao [họ bị đọa]. Mình vừa mới nghe [đến] tội nhân Cù Ba Li (Cù Ca Lê) thôi, và biết ông Đề Bà Đạt Đâu (Đề Bà Đạt Đa), còn hai người kia thì mình không biết [họ] phạm tội gì.

Tỳ-kheo nên biết! Mạt Khư Lê dạy vô số chúng sanh, khiến hành tà kiến, tưởng điên đảo, tưởng chấp có không. Đây là nhân. Ông Mạt Khư Lê làm thầy, dạy vô số chúng sanh khiến hành tà kiến, tưởng điên đảo, tưởng chấp có không. Đó là dạy giáo pháp sai, chúng sanh tà, nên là đọa nặng hơn nữa.

Cho nên làm thầy [cũng] nguy hiểm. Làm thầy mà không có Chánh kiến, dạy sai là đọa sâu. Ông này dạy vô số chúng sanh khiến hành tà kiến. Cho nên là đừng ham làm thầy, nếu mình không biết Chánh pháp. [Nếu] không biết Chánh pháp, thì tốt nhất là cứ học theo kinh. Kinh [Phật] nói sao thì mình đọc ra như vậy, nói lại [lời trong kinh] thì không sợ. Chứ còn mình tự bịa ra, thời nay nhiều người tự bịa, tự sáng tác, tự viết kinh luôn, chế này chế kia, một hồi là coi chừng, mai mốt vô Địa ngục không biết bao giờ ra.

Vị này là chịu tội nặng nhất. Quý vị thấy lửa cháy cao nhất mà, dài đến 60 khuỷu tay, nặng hơn ông Đề Bà Đạt Đa nữa. [Đây] là tội nặng nhất đó. Cho nên đừng có ham [làm thầy người khác] nha. Thời nay phải có Chánh kiến, học gì phải căn cứ kinh điển. Chứ không, dạy một hồi, mình tưởng đắc đạo ghê gớm lắm, chúng sanh tôn thờ mình lên trời. Nhưng sau này ở Địa ngục không biết bao giờ ra, thì thật là đáng thương, lâu lắm đó!

Bây giờ xem ông Đế Xá làm gì, ổng cũng là một vị Tỳ-kheo đó.

Kẻ ngu Đế Xá đoạn ứng khí để dành của Thánh chúng.[Thiện Trang] không biết Ứng khí này, ở đây [có] Chú Giải, Thiện Trang cũng không tìm được trong kinh là câu chuyện này nằm ở đâu. Ứng khí này định nghĩa là bình bát của chúng Tăng, nên cũng không biết được [việc] này là thế nào. Cho nên câu chuyện này Thiện Trang xin phép là chưa có chi tiết đầy đủ, và Thiện Trang đọc nhiều kinh mà cũng chưa thấy. Ngay cả bản của ngài Tuệ Sỹ dịch, thì cũng không chú giải được rõ, ngài cũng không tìm thấy luôn. Thiện Trang cũng không biết, để khi nào Thiện Trang sẽ kiếm coi “đoạn ứng khí” là làm việc gì.

Kẻ ngu Đề Bà Đạt Đâu gây đấu loạn chúng Tăng, giết Tỳ-kheo-ni A-la-hán, khởi ý sát hại nhắm đến Như Lai. Ông Đề Bà Đạt Đa này gây tới ba chuyện: Một là gây đấu loạn chúng Tăng, là phạm tội Ngũ nghịch. Hai là giết Tỳ-kheo-ni A-la-hán. Giết một vị Tỳ-kheo-ni, mà vị đó là A-la-hán rồi, cho nên là hai tội Ngũ nghịch. Rồi ổng khởi ác ý sát hại nhắm đến Như Lai nữa, là ba tội Ngũ nghịch. Nhưng ổng vẫn nhẹ hơn tội của hai ông kia, quý vị thấy không ạ?

Ông kia là do dạy chúng sanh khiến hành tà kiến, nên tội nặng hơn. Bữa nay học ra thì mình mới biết, tội làm thầy mà dạy chúng sanh điên đảo, dạy chúng sanh hành tà kiến, thì tội đó nặng hơn là tội Ngũ nghịch nữa. Cho nên thời nay đi xuất gia mà không biết, đi xuất gia mà vào Tà pháp là chết đó, sợ lắm. Nguy hiểm! [Chúng ta] phải cẩn thận nha. Còn ‘đoạn ứng khí’ có lẽ là khiến cho dòng Thánh chúng, hoặc là làm thế nào đó, mà sao tội nặng dữ vậy, không biết.

Tội nhân Cù Ba Li phỉ báng Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên. Quý vị thấy, mặc dù tên là Cù Ba Li, nhưng [ông này] phỉ báng ngài Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên, nên chúng ta biết ổng là Cù Ca Lê ở trên đó.

Lại nữa Tỳ-kheo! Tội nhân Mạt Khư Lê dạy vô số chúng sanh khiến hành tà kiến, nên thân hoại mạng chung đọa vào Địa ngục Diệm Quang. Ông này dạy vô số chúng sanh khiến hành tà kiến, nên tội này nặng lắm.

Tội nhân Đế Xá làm đoạn tuyệt ứng khí lưu dư của Thánh chúng, thân hoại mạng chung đọa Địa ngục Đẳng Hoạt. Địa ngục này chúng ta có học qua rồi. Lúc nào đó khi học lại Kinh Vô Lượng Thọ, thì chúng ta sẽ giới thiệu nguyên văn trong kinh, giới thiệu về Địa ngục Đẳng Hoạt này.

Tội nhân Đề Bà Đạt Đâu (Đề Bà Đạt Đa) khởi tâm mưu hại nhắm đến Như Lai, thân hoại mạng chung đọa Địa ngục A-Tỳ. Ông này thì đọa Địa ngục lớn, Địa ngục A-Tỳ luôn.

Tội nhân Cù Ba Li, do phỉ báng Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên, nên thân hoại mạng chung đọa Địa ngục Bát Đầu Ma. Điều này thì rõ ràng, ở trên là Địa ngục Ma Ha Bát Đầu Ma, hay là Bát Đầu Ma, là hoa sen đỏ lớn.

Bấy giờ tội nhận Mạt Khư Lê bị ngục tốt kéo lưỡi ra, lôi ngược phía sau dọc trên xương sống. Sở dĩ như vậy, vì xưa kia dạy vô số chúng sanh khiến hành tà kiến. Tức là dạy chúng sanh hành tà kiến, mai mốt xuống bị ngục tốt kéo lưỡi ra, lôi ngược phía sau lên, dọc theo xương sống. Nghe như vậy cũng sợ, cho nên bớt [tạo ác nghiệp] đi.

Thiện Trang nói thật, Thiện Trang nghe mấy điều này cũng thấy sợ, cho nên hầu như Thiện Trang chỉ giảng theo kinh thôi, không dám nói điều gì ngoài kinh, dù là người khác nói. Thiện Trang nói: người đó nói thì người đó chịu trách nhiệm. Thiện Trang chưa tìm thấy trong kinh, thì Thiện Trang không chịu trách nhiệm với lời nói đó. Hồi xưa không biết, sau này đọc kinh nhiều rồi sợ quá. Thật sự sợ, không dám nói kiểu khẳng định này kia. Điều đó là thôi, không dám nói đâu.

Đại tội nhân Đế Xá bị ngục tốt xẻ mình ra, rồi rót nước đồng sôi lên tim, lại lấy viên sắt nóng bắt nuốt. Sở dĩ như vậy, do đoạn tuyệt ứng khí lưu dư của Thánh chúng. Ông này thì bị ngục tốt xẻ mình ra, rót nước đồng sôi lên tim, lấy viên sắt nóng bắt nuốt. Vì hồi xưa đã tạo tội này.

Tội nhân Đề Bà Đạt Đâu (tức là Đề Bà Đạt Đa) bị bánh xe sắt nóng cán nát thân hình, lại bị chày sắt giã nát thân thể, rồi bị bầy voi giày xéo thân thể, lại bị ngọn núi sắt cháy nóng trấn áp lên mặt, toàn thân bị quấn bởi lá đồng nóng cháy (ông này bị nhiều hình phạt: bị xe sắt cán nát thân hình, rồi chày sắt giã nát thân hình, thêm bị bầy voi dày xéo thân thể, rồi bị ngọn núi sắt cháy nóng áp lên mặt, toàn thân bị lá đồng nóng quấn cháy). Sở dĩ như vậy, do xưa kia gây đấu loạn chúng Tăng, phá hòa hợp Tăng nên bị bánh xe sắt cán nát đầu (đó là đức Phật nói ra nguyên nhân).

Lại kẻ ngu Đề Bà Đạt Đâu này xúi Thái tử kia giết vua cha, do quả báo này mà bị chày sắt giã nát thân (đức Phật nói ra nguyên nhân, ở đời làm [chuyện] gì, xuống Địa ngục có quả báo tương ưng). Lại kẻ ngu si Đề Bà Đạt Đâu kia cho voi uống rượu say để hại Như Lai, do quả báo này nên bị bầy voi giày xéo. Quý vị nhớ có câu chuyện, chính ông Đề Bà Đạt Đa xúi vua A Xà Thế (tức là Thái tử) giết cha, rồi sau đó cho voi say ra để hại đức Phật. Cuối cùng con voi không hại được Phật, mà bị Phật nhiếp phục, con voi đó chết được sanh lên cõi Trời. Đó là [nó tự chết thôi], chứ không phải đức Phật làm nó chết, quý vị nghe cho kỹ. Nhưng ý là như vậy, nên khi xuống Địa ngục thì [Đề Bà Đạt Đa]bị bầy voi giày xéo.

Lại kẻ ngu Đề Bà Đạt Đa kia ở trên núi Kỳ Xà Quật cầm đá ném Phật, do quả báo này nên bị núi sắt nóng trấn áp lên mặt. Quý vị nhớ câu chuyện này, tức là trên núi Kỳ Xà Quật, khi đức Phật đi khất thực, thì ông [Đề Bà Đạt Đa] ném hòn đá xuống, để đè chết Phật. Trong Kinh A Hàm nói, có vị Thần núi thấy vậy nên mới ra đỡ, thì hòn đá bể và chỉ rớt một mảnh xuống chân Phật, làm đức Phật chảy máu. Nên mới gọi là xuất Phật thân huyết, là làm thân Phật chảy máu, tội đó cũng là một tội. Nhưng ở đây do quả báo đó, nên ổng đọa vào Địa ngục này thì bị núi sắt nóng trấn áp lên mặt.

Lại kẻ ngu Đề Bà Đạt Đa kia giết Tỳ-kheo-ni A-la-hán, do quả báo này nên bị lá đồng sắt nóng cháy quấn chặt thân. Điều này cũng rõ ràng, vị Tỳ-kheo-ni này can ngăn ổng nhưng ổng không nghe, ổng đánh chết luôn. Cho nên ổng bị tội đó.

Tỳ kheo nên biết! Tội nhân Cù Ba Li trong Địa ngục Liên Hoa kia (Địa ngục Bát Đàm Ma là Địa ngục Hoa Sen), bị nghìn con trâu cày lên lưỡi. Sở dĩ như vậy, bởi do phỉ báng Xá Lợi Phất và Mục Liên. Do nhân duyên quả báo này mà bị nghìn con trâu cày nát lưỡi.

Quý vị thấy rõ ràng là có quả báo, dùng nghiệp nào thì mai mốt bị như thế, dùng lưỡi thì bị [quả báo] như vậy. Nên ở đời mình phải cẩn thận, ngày xưa chỉ có nghiệp miệng (lưỡi) thôi. Bây giờ có nghiệp bàn phím nữa, đánh trên bàn phím điện thoại, bàn phím máy tính, đánh trên mạng, rồi thao tác cắt sửa video. Mai mốt xuống Địa ngục, thì chắc bị [tội] liên quan đến tay, đúng không quý vị? Làm những tội nào đó, mai mốt xuống chắc là bị như vậy.

Thời nay có thể quả báo phải khác chứ, mỗi thời do dùng nghiệp gì, dùng đối tượng nào. Nên nghe xong thì mình cũng biết sợ. Đang nghe bộ này, đang bay trên trời, lâu lâu cũng xuống Địa ngục một bữa, đi du ký Địa ngục, cho sợ sợ một chút mà cố gắng tinh tấn tu hành.

Lại nữa Tỳ kheo! Tội nhân Mạt Khư Lê, thân bốc ngọn lửa dài 60 khuỷu tay. Nếu có chúng sanh nào khởi lên ý nghĩ này ‘ta nên cứu vớt, làm ích lợi cho người này.’ Rồi lấy nước trong bốn biển lớn cao đến 40 khuỷu tay mà tưới lên thân ấy. Nước biển kia tức thì tiêu hết mà ngọn lửa không tăng không giảm. Cũng như tấm lá sắt nóng được lửa đốt suốt 4 ngày; rồi có người đến lấy 4 giọt nước mà rưới vào. Nước tức thì tiêu hết. Ở đây cũng vậy, nếu có người đến lấy nước 4 biển lớn mà rưới lên thân người kia để tắt lửa, sẽ không bao giờ kết quả. Sở dĩ như vậy, do tội của người ấy quá sâu, quá nặng.

Quý vị thấy tội của người này là dạy vô số chúng sanh hành Tà kiến, đến nỗi bây giờ lấy nước bốn biển lớn, mình nói biển Thái Bình Dương, Đại Tây Dương, Bắc Băng Dương và Ấn Độ Dương, mà tưới vô người ổng, để dập tắt lửa, thì nước tan biến mất. Đức Phật nói: Giống như quý vị đem lá sắt nóng đốt suốt bốn ngày, rồi lấy bốn giọt nước rưới vào đó, thì nước bốc hơi mất, lửa không tắt được. Quý vị thấy tội đó nặng đến cỡ nào, là tội nặng nhất. Nên Thiện Trang nói: Tội này là tội nặng nhất, quá nặng. Rất là đáng thương!

Còn tội nhân Đế Xá kia, thân bốc ngọn lửa dài 40 khuỷu tay. Nếu có chúng sanh nào vì thương xót người này, lấy nước trong 3 biển lớn rưới lên thân ấy. Nước biển kia tức thì tiêu mất, mà ngọn lửa không giảm. Cũng như có người lấy 3 giọt nước nhiểu lên tấm vỉ sắt nóng, nước tức thì tiêu mất, không đọng lâu được. Ở đây cũng vậy, giả sử lấy nước của 3 biển lớn mà rưới lên thân của Đế Xá, nước tức thì tiêu mất mà lửa không tăng giảm.

Quý vị thấy tội của người này cũng nặng, có giảm một chút. Đức Phật lấy ví dụ giảm hơn, là lấy nước ba biển lớn thôi, chứ không phải bốn biển. Ông kia thì bị tội, mà lấy hết nước trên bốn Đại dương của thế giới, [rưới lên] nhưng cũng không chữa nổi, không ăn thua chút nào hết. Còn ông này thì [lấy nước của] ba biển lớn. Cho nên ở đời, quý vị đừng [vì] một chút gì đó mà mình không tin, rồi tạo nghiệp, tới khi vào [Địa ngục] thì không biết bao giờ ra, tội lắm. Lúc đó đau lắm, khổ lắm, lúc đó có hối hận thì cũng muộn màng rồi.

Tội nhân Đề Bà Đạt Đâu, thân bốc ngọn lửa dài 30 khuỷu tay. Nếu có chúng sanh nào khởi tâm thương xót, muốn khiến cho lửa trên thân của Đề Bà Đạt Đa vĩnh viễn tắt mất, lấy nước của 2 biển lớn đến rưới lên thân. Nước tức thì tiêu mất. Cũng như nhiểu 2 giọt nước lên vỉ sắt nóng, không làm tăng giảm. Với kẻ ngu Đề Bà Đạt Đâu cũng vậy, lấy nước của 2 biển lớn mà rưới lên thân, nước lập tức tiêu mất mà lửa không giảm. Sự thống khổ của Đề Bà Đạt Đâu là như vậy.

Cho nên ông Đề Bà Đạt Đa cũng quá tội. Quý vị nên nhớ, ông Đề Bà Đạt Đa cũng vô Noãn vị rồi, tương lai 60 kiếp sau thì chứng quả, mà bây giờ tội còn đó. Chúng ta mà chưa tu tới đó, ngày nào đó chúng ta cũng dễ [rớt vào đây] lắm, đời sau quay quay, vô nhà Tà kiến hay vô nhà nào đó, rồi chống lại giáo pháp của Như Lai. Vì điều gì đó, người ta thuê đóng giả, vô phá hoại [Phật pháp]. Ví dụ như hạnh tu của người ta, một người tu thanh tịnh, nhưng vì mình cần đóng giả để phá hoại họ, mình phỉ báng cho lắm vô. Rồi mai mốt nhận được bao nhiêu tiền đâu, nhưng cuối cùng mình bị đọa, không biết bao giờ ra. Cho nên đau khổ. Chúng sanh thời nay điên đảo, không tin nhân quả. Nhưng nhân quả đời nay cũng mau đến lắm, quý vị cứ để ý đi. Nên Sư Minh Tuệ nói: “Trò chơi của nghiệp, chúng ta đang cùng chơi, thì vui vẻ thôi”. Đối với ngài thì vui vẻ, còn mình thấy cảnh này thì không vui nổi đâu quý vị, vô Địa ngục kiểu này không vui được đâu.

Tội nhân Cù Ba Li (người phỉ báng ngài Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên) thân bốc ngọn lửa dài 20 khuỷu tay. Giả sử có chúng sanh vì thương xót người này, lấy nước trong một biển lớn đến rưới lên thân, nước tức thì tiêu mất mà lửa không giảm. Cũng như nhiểu một giọt nước lên vỉ sắt nóng, nước tức thì tiêu mất, không đọng lâu được. Với Tỳ-kheo Cù Ba Li cũng vậy. Vì bị tội báo lôi cuốn, phải nhận chịu tội ấy.

 Đó là 4 người thọ tội cực trọng (cho nên Thiện trang mới nói bốn người bị tội nặng nhất thì chắc là đây. Theo trong kinh, thì bốn người này là tội nặng nhất). Các ngươi hãy tự chuyên xa lánh các tai hoạn như vậy, vâng theo các Hiền Thánh mà tu tập Phạm hạnh. Như vậy, các Nhân giả hãy học điều này”.

Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe những điều đức Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

(Kinh Số 5 – Phẩm 50 – Lễ Tam Bảo – Kinh Tăng Nhất A Hàm).

          Thiện Trang nói toàn trong kinh. Qua đoạn vừa rồi hy vọng quý vị phát tâm thoát ly sanh tử tốt hơn. Chúng ta tu mà giải đãi là tại vì sao? Thông thường tâm giải đãi là do không thấy quả báo, nỗi khổ ở đời sau, chúng ta cứ nghĩ là chúng ta ngon rồi. Quý vị chưa vào địa vị thứ ba trong Tứ gia Hạnh vị, thì con đường đó còn khổ, vẫn còn có thể đọa Địa ngục bình thường. Ông Đề Bà Đạt Đa đã vào Noãn vị mà còn như vậy, huống hồ chi những người như chúng ta, nếu như chưa vào.

          Cho nên phải tu, tu để giải thoát sanh tử, phải tha thiết để đời này liễu sanh thoát tử. Hoặc ít nhất cũng phải vào được bốn điều, đó là: Bất hoại tịnh đối với Phật, bất hoại tịnh đối với Pháp, bất hoại tịnh đối với Tăng, và thành tựu được Thánh giới. Người đó được đức Phật ký thuyết là đắc Tu-đà-hoàn, không đọa vào các đường dữ. Chúng ta không làm được như vậy, thì cũng cố gắng làm được Sơ quả hướng. Trong kinh nói Sơ quả Hướng thì không đọa vào đường ác nữa. Sơ quả hướng là nằm trong [các địa vị] như Tùy tín hành, Tùy pháp hành. Hoặc có chỗ kéo luôn hai địa vị sau của Tứ gia hạnh vào Sơ quả hướng, tức là Nhẫn vị và Thế đệ Nhất vị.

Đó là luận của chư Tổ nói, mỗi người có nhìn nhận khác nhau. Thiện Trang cũng nghĩ, miễn làm sao không đọa vào đường ác nữa là được. Từ Nhẫn vị trong Tứ gia Hạnh vị thì không đọa đường ác nữa là được. Nói thì nghe cũng ngon, nhưng thực ra cũng khổ lắm quý vị. Tuy không đọa đường ác, nhưng cứ lang thang cõi Người, cõi Trời, suốt mấy chục đời, thậm chí cả trăm đời, thì cũng lâu lắm, khổ lắm.

Cho nên thà vô Tu-đà-hoàn cho rồi, Tu-đà-hoàn tiêu chuẩn, [tối đa] bảy đời thì sẽ không còn ở cõi Dục nữa. Bảy đời là thoát khỏi cõi Dục, gọi là Thất lai. Còn không, nhanh nhanh thì vô Gia gia, Nhất chủng cho nhanh, lên cõi khác và chứng A-la-hán cho rồi, không còn trở lại nhân gian nữa. Nhân gian này khổ lắm! Hoặc ít nhất là mình được niềm tin bất hoại đối với Phật, đối với Pháp, đối với Tăng thôi, thì mình không bao giờ chống lại Tam Bảo đâu. Còn bây giờ, những người mà không có Thiện căn thì họ sẽ chống lại Tam Bảo.

Thiện trang chia sẻ để [quý vị] đỡ buồn ngủ. Không biết quý vị như thế nào, chứ Thiện Trang từ nhỏ, có một điều Thiện Trang nói: Tuy không theo một đạo nào hết, hồi xưa [Thiện Trang] không theo Tôn giáo nào. Nhưng nếu như mướn Thiện Trang, cho đi làm những việc phá Tôn giáo người ta, thì Thiện Trang không làm. Điều đó là chắc chắn. Vì mình không bao giờ làm việc ác như thế, mình không bao giờ phá niềm tin của người ta. Chứ không phải như thời nay, nhiều người rất đáng thương, họ vì lợi ích rất nhỏ mà sẵn sàng làm những việc không tốt, nên thật là đáng thương.

Hôm nay [Thiện Trang] xin giới thiệu, sẵn đang nói liên quan đến những việc mà bây giờ đang hot trên mạng. Chúng ta cũng đua chen một chút, theo những gì hot [của] xã hội. Để nói thêm về hành pháp Đầu đà, bây giờ nhiều người nói Sư Minh Tuệ thế nào? Thiện Trang cũng trích trong kinh về ‘Hành Pháp Tu Đầu Đà Thì Mau Chứng Quả’. ‘Nói có sách, mách có chứng’. [Bài này] không dài lắm, mời quý vị xem.

Hành Pháp Tu Đầu Đà Thì Mau Chứng Quả

 Tôi nghe như vầy: Một thời, đức Phật trú tại nước Xá Vệ, trong vườn ông Cấp Cô Độc, rừng cây Thái tử Kỳ Đà. Bấy giờ đức Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:

“Nếu Tỳ-kheo thành tựu 11 pháp này thì chắc chắn có điều được tăng trưởng. Những gì là 11? Ở đây, Tỳ-kheo thành tựu Giới, thành tựu Tam-muội, thành tựu Trí tuệ, thành tựu Giải thoát, thành tựu Giải thoát Tri kiến, các căn tịch tĩnh, ăn uống biết đủ, hằng tu hành cộng pháp, và cũng biết phương tiện ấy, phân biệt nghĩa ấy, không đắm lợi dưỡng. Như vậy Tỳ-kheo, nếu thành tựu 11 pháp này, thì có khả năng để tăng trưởng. Vì sao vậy? Tất cả các thực hành, chân chánh có 11 pháp”.

Ở đây nói về pháp tu, không phải riêng Tỳ-kheo đâu, mà nếu chúng ta tu thành tựu được 11 pháp này: Thứ nhất là thành tựu về Giới, Giới luôn luôn được đức Phật xếp ở hàng đầu. Thứ hai là thành tự về Định, Định là Tam-muội. [Thứ ba] là thành tựu về Trí tuệ, [thì] chúng ta cũng phải học. Giới, Định, Tuệ, lúc nào cũng đứng đầu. Rồi sau đó thành tựu được Giải thoát; Giải thoát Tri kiến; các Căn tịch tĩnh; ăn uống thì biết đủ chứ không phải ăn quá; rồi luôn luôn, #hằng tức là luôn luôn, tu hành mà cộng pháp; và cũng biết phương tiện ấy; phân biệt nghĩa ấy. Tu hành cộng pháp, ngôn ngữ này Thiện Trang không hiểu rõ, đây là Thiện Trang tạm giải thích thôi, có thể là mình biết dùng nhiều phương pháp tu phối hợp với nhau. Và [cuối cùng] là không đắm lợi dưỡng, tức là không có tham đắm lợi dưỡng. Thành tựu được 11 pháp này, thì có khả năng để tăng trưởng. Vì sao? Vì các thực hành chân chánh có 11 pháp.

Lúc bấy giờ ngài A Nan bạch đức Thế Tôn rằng: “Vì sao chân chánh có 11 pháp, mà không nhiều hơn?” 11 pháp này thật ra là liên quan đến hạnh Đầu đà đằng sau nói.

“Những gì là mười một? Đó là, a-lan-nhã, khất thực, ngồi một chỗ, ăn một bữa, ăn đúng giữa trưa, ăn không chọn nhà, giữ ba y, ngồi dưới gốc cây, ngồi giữa trời trống, chỗ nhàn tĩnh, mặc y vá, hoặc ở tại bãi tha ma. Đó là Tỳ-kheo nếu thành tựu 11 pháp này, thì có điều sở đắc. Đây là hạnh Đầu đà, và ở đây nói có 11 pháp thôi. A-lan-nhã là nơi yên tĩnh, rồi khất thực, ngồi một chỗ, ăn một bữa. Quý vị thấy ăn một bữa, và ăn đúng giữa trưa. Thật ra chỗ này dịch không rõ lắm, phải là ăn đúng giữa ngày. Đây là ngôn ngữ thôi, quý vị đừng chấp trước quá. Có nghĩa là mình ăn làm sao trước giữa ngày. Ăn không chọn nhà, tức là đi tùy duyên. Rồi giữ ba y, tức là chỉ ba y thôi, không có nhiều hơn, và đi đâu cũng mang theo ba y. Ngồi dưới gốc cây, ngồi giữa trời trống, chỗ nhàn tĩnh, mặc y vá (tức là không mặc y người ta cúng cho sẵn, mà tự mình vá y), hoặc ở tại bãi tha ma. Đó là tu hạnh Đầu đà.

Đó là Tỳ-kheo, nếu thành tựu 11 pháp này thì có điều sở đắc. Chỗ này có một bộ kinh khác nói rõ hơn, ở đây chúng ta chỉ mang tính giới thiệu về hạnh Đầu đà thôi, ý Thiện Trang muốn nói về kết quả.

Nay Ta lại nói thêm cho ông biết. Nếu ai trong 11 năm học pháp này, tức hiện thân thành A-na-hàm, chuyển thân thành A-la-hán. Quý vị thấy đã không? Tu pháp này trong 11 năm, thì ngay đời này hiện thân (tức là thân hiện tại này) thành A-na-hàm luôn, và chuyển thân (tức là đời sau) thành A-la-hán luôn. Cho nên pháp hạnh tu Đầu đà rất tuyệt vời, nhưng [chúng ta] tu không nổi thôi, chứ còn tu [được] là ngon lắm. Tu được thì hiện thân (tức là thân này) thành A-na-hàm, và sau chuyển thân (là thân sau) thành A-la-hán. Cho nên ai tu 11 năm là thành tựu. Nhưng không cần 11 năm đâu, ở đây nói tiếp:

Này các Tỳ kheo, hãy bỏ qua 11 năm. Nếu ai trong chín, tám, bảy, sáu, năm, bốn, ba, hai, một năm học pháp này, thì người ấy sẽ thành một trong hai quả, hoặc A-na-hàm, hoặc A-la-hán. Có nghĩa là tu không cần 11 năm đâu, 11 năm cũng lâu quá, thôi chín năm; chín năm cũng lâu, thôi tám năm, bảy năm cuối cùng là một năm thôi. Một năm thôi là thành A-la-hán hoặc A-na-hàm. Quý vị thấy ngon không? Cho nên ai nghe như vậy thì chắc phát tâm đi tu quá, tu một năm thôi là thành A-na-hàm hay A-la-hán, có phải như vậy không?

Thật ra nếu quý vị hành trì đúng, [vì] giữ hết giới mà. Quý vị phỏng vấn quý Sư, quý Sư cũng không biết là đi từ ngày nào, năm nào, tháng nào. [Quý Sư] không xài điện thoại nên không biết luôn. Hỏi [thì quý sư trả lời]: là con cũng không biết, con không nhớ con đi từ ngày nào. Bây giờ là ngày nào, năm nào, tháng nào cũng không biết. Mình thì ở nhà, mình coi nên mình biết ngày, tháng, năm. Còn bây giờ [quý Sư] không biết luôn. Cho nên đó là thua luôn. Có nghĩa là tâm [các ngài] thanh tịnh.

Quý vị thử bỏ điện thoại ra, không dùng điện thoại, không có gì hết, rồi quý vị cứ đi như vậy, ngày nào cũng như vậy. Quý vị không có vướng bận về nhân gian, quý vị bỏ hết rồi. Còn ở nhà thì mình vướng bao nhiêu thứ, nào là chồng, con cái, rồi [phải lo] cơm nước đủ thứ. Còn [quý Sư] tùy duyên, tới bữa có cơm [thì ăn], không có thì thôi, khất thực mà, [nên] có gì ăn nấy. Nhà cũng không có, nên khỏi phải lo. Có ba y và mấy đồ đem theo thôi, có mấy tài sản đó thôi, không còn gì hết. Tu như vậy thì mau thành tựu. Cho nên đức Phật nói là 11 năm, mà không cần 11 năm, tu một năm cũng được. Một năm thành bậc A-na-hàm, bậc A-la-hán. Cho nên tại sao pháp tu này thành tựu tối thắng như vậy. Chưa hết đâu quý vị, ở đây nói hơn nữa:

Hãy bỏ qua 12 tháng. Tỳ-kheo nào có thể tu hành pháp này trong một tháng, Tỳ-kheo ấy chắc chắn thành một trong hai quả: hoặc A-na-hàm, hoặc A-la-hán. (Quý vị thấy đã không? Đức Phật nói khẳng định luôn, hành pháp này trong vòng một tháng thôi, thì Tỳ-kheo ấy chắc chắn thành một trong hai quả: hoặc A-na-hàm, hoặc A-la-hán). Vì sao vậy? Mười hai nhân duyên đều xuất từ mười một pháp. Đó là, sanh, già, bệnh, chết, ưu, sầu, khổ, não.

Ở đây Thiện Trang chia sẻ như vậy, để ai có duyên thì ráng. Thiện Trang cũng hy vọng, không biết mình có điều kiện [không], nói tham là sau này đi tu 1 tháng thôi. Thật ra mình tu dở quá thì mình tu 3 tháng. Mà có tu nổi không? Vấn đề là có đủ sức khỏe để tu được không? Hạnh này khó đúng không quý vị?

Đâu phải đơn giản đâu: ở gốc cây, ngồi nhà trống, chỗ nhàn tĩnh v.v… Phật bảo ở bãi tha ma, là nghĩa địa đó; Rồi ăn không chọn nhà v.v… Mấy điều kia hạnh kia thì dễ hết, hạnh khó nhất ở đây là ngồi. Cho nên 13 pháp hạnh Đầu đà, ở đây thì chỉ nói 11 pháp thôi. Quý vị thấy, nếu làm được một tháng là thành bậc A-na-hàm, hoặc A-la-hán. Đức Phật nói chắc chắn luôn.

Cho nên nếu có thể thì mình thử xem, hi sinh cuộc đời, đi 1 tháng hoặc 2 tháng, không chắc thì đi 3 tháng. Ai mà nhiều phước, đi được thì có thể thành tựu đó. Còn không thành tựu, không thành Thánh thì cũng thành nhân, cũng được rất nhiều lợi ích. Cho nên không thể phỉ báng được đúng không quý vị? Mấy người không biết mà người ta phỉ báng, thì tội nặng là vậy đó.

Nay Ta dạy các Tỳ-kheo, hãy như Tỳ-kheo Ca Diếp. Giả sử có người hành pháp khiêm khổ, khó có hạnh nào sánh kịp. Vì sao? Bởi Tỳ-kheo Ca Diếp đã thành tựu mười pháp này. Nên biết, các Như Lai trong quá khứ thành Đẳng Chánh Giác (thành Phật) cũng do thành tựu 11 pháp này. Nay Tỳ-kheo Ca Diếp, vì thương tưởng hết thảy chúng sanh. Nếu cúng dường các Thanh văn quá khứ, thì thân sau mới được báo ứng. Giả sử cúng dường Ca Diếp, thì ngay thân này mà thọ nhận báo ứng.

Quý vị thấy đã không? Vì ngài Ca Diếp, tức là đang khen hạnh Đầu đà chứ gì nữa, ai chả biết ngài Ca Diếp là hạnh Đầu đà [đệ nhất] đúng không? Cho nên ngoài ngài thành tựu được hạnh này rồi, đức Phật nói là cúng dường các vị Thanh văn quá khứ, thì thân sau mới được báo ứng. Nhưng riêng cúng dường cho ngài Ca Diếp thì ngay thân này nhận được báo ứng. Cho nên ai cúng dường [cho ngài] xong là giàu.

Thiện Trang không biết có đúng không, nhưng Thiện Trang tin là đúng. Ý là không biết đúng hay không, là ở chỗ Sư Minh Tuệ. Khi Sư Minh Tuệ vừa xuất hiện, chưa có đông người, chưa có YouTuber đi theo, thì Thiện Trang [đã] khuyên các đồng tu nào cúng dường được thì tranh thủ đi cúng. Và ai cúng xong là phước lên. Quý vị thử coi, ai cúng được hồi đó là phước lên. [Phước] có lên hay không, thì chúng ta cứ theo dõi thử xem, [vì ở đây nói là] báo ứng ngay trong đời này.

[Thiện Trang] để ý, hình như có người trước đó bị chèn ép, nhưng sau khi cúng dường xong thì sau này lên được, hết bị chèn ép. Có nghĩa là phước lên nhanh. Quý vị thấy, nếu Sư Minh Tuệ thành tựu được hạnh này, quý vị cúng dường thì phước cũng lớn giống như vậy. Cho nên cúng dường ngài Ca Diếp, thì ngay thân này được nhận báo ứng nha. Nên mình không học thì mình đâu biết được. Đoạn này còn quan trọng hơn nữa, những đoạn Thiện Trang bôi chữ đỏ là quan trọng.

Giả sử Ta không thành Vô thượng Đẳng Chánh Giác, [thì] sau sẽ do Ca Diếp thành Đẳng Chánh Giác (quý vị thấy đức Phật nói là giả sử Ngài không thành Phật, thì ngài Ca Diếp sẽ thành Phật. Ghê chưa!) Do nhân duyên này, Ca Diếp vượt hơn các Thanh văn quá khứ. Ai có thể hành như Ca Diếp, ấy là hành tối thượng.

Câu cuối cùng quan trọng, ngài Ca Diếp là vượt hơn các Thanh văn của quá khứ. Và ai có thể hành như ngài Ca Diếp, ấy là hành tối thượng. Câu cuối cùng: Ai có thể hành như ngài Ca Diếp, ấy là hành tối thượng.

Quý vị ráng, ai làm được thì làm, Thiện Trang chưa có duyên làm hạnh này, chắc mình cũng giải đãi quá, lười quá. Mình còn sợ khổ, mình chưa dám bỏ, mình còn lấy danh là mình đang bận giảng pháp, cho nên không dám làm việc này. Tương lai, hy vọng là có duyên nào đó, để mình có thể đi thực hành thử xem. Tất nhiên là mình thực hành thử thôi, điều đó không phải cầu tham, nhưng cũng thực hành để trải nghiệm, ít nhất phải có thời gian để trải nghiệm thì tốt.

Không dễ đâu quý vị, đi ra ngoài [cần phải] có sức khỏe. Ở các nước vùng Đông Nam Á thì dễ, chứ sau này nếu Sư Minh Tuệ đi qua Châu Âu, thì mùa Đông khí hậu khắc nghiệt hơn, rất khó [khăn]. Sẽ khó khăn hơn nhiều, không dễ đâu. Còn việc nhận được sự cúng dường v.v… thì không lo. Bây giờ Sư Minh Tuệ cũng nổi tiếng lắm, đi đến đâu thì người ta cũng biết, cả thế giới biết rồi chứ không phải là mỗi ở Việt Nam hay là ở Đông Nam Á đâu. Nên việc đi ké theo ngài thì không có đói đâu, điều đó thì khỏi lo. Nhưng vấn đề là mình có chịu nổi thời tiết, chịu nổi nhiều khó khăn như vậy không? Khó lắm! Cho nên là tại sao tu [hạnh này] thì có thể nhanh thành tựu. Đây là [Thiện Trang] trích trong kinh, chứ không phải tự nói nha.

Như vậy Tỳ-kheo, hãy học điều này”.

Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe những điều Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

(Kinh Số 2 – Phẩm Phóng Ngưu Thứ 9 – Kinh Tăng Nhất A Hàm).

Cho nên có trong kinh hết nha, Thiện Trang nói tu như thế nào là có trong kinh hết. Như Sư Minh Tuệ là tu theo trong kinh, chứ không phải là người ta bịa đặt nói này nói kia, đó là người ta không hiểu. Chúng sanh thời nay mê muội lắm, họ cố tình bẻ lệch đi những điều không cần thiết. Thiện Trang cũng đã nói rồi, chúng ta là phàm phu, theo trong kinh thì phàm phu không biết Thánh nhân, mà cũng không biết ai là phàm phu. Tóm lại chúng ta không đánh giá được ngài là thế nào, cho nên không biết Sư Minh Tuệ có phải là bậc Thánh hay không. Chúng ta nói là có thể thôi, nhưng không đoán được chắc chắn 100%.

Nhưng nếu hành được hạnh này, tức là ai có thể hành như ngài Ca Diếp, thì ấy là hành tối thượng. Cho nên phước cúng dường đối với ngài Ca Diếp lớn như vậy, ngay đời này được nhận báo ứng. Mình cúng dường cho những người tu như vậy, không được 100%, thì cũng được bao nhiêu phần trăm đó, thì cũng đỡ đúng không? Cho nên đó là ruộng phước của thế gian. Chúng sanh chửi nhiều thì mất phước điền, chúng sanh cũng sẽ chịu quả báo, đáng thương cho họ. Đó là Thiện Trang đã chia sẽ hết phần này.

Bây giờ còn thời gian, Thiện Trang chia sẻ về phần A Tỳ Đàm. A Tỳ Đàm chúng ta đã có học qua các Tâm sở, Thiện Trang sẽ trở lại 52 món Tâm sở, chứ không thì chúng ta quên.

52 món Tâm sở thì gồm: 13 Tâm Sở Tợ tha, 14 Tâm sở Bất thiện và 25 Tâm sở Tịnh hảo. Chúng ta thấy tất cả là 52 món Tâm sở. Ở đây chúng ta đã học qua: 13 Tâm sở Tợ tha gồm 7 Tâm sở Biến hành và 6 Tâm sở Biệt cảnh. Thiện Trang xin đọc lại. 7 Tâm sở Biến hành của Tợ tha gồm: Xúc, Thọ, Tưởng, Tư, Nhất hành, Mạng quyền, Tác ý. 6 [Tâm sở] Biệt cảnh là: Tầm, Tứ, Thắng, Giải, Cần, Hỷ, Dục. Còn [Tâm sở] Bất Thiện thì có 14 Tâm sở: 4 tâm sở Bất thiện Biến Hành (tức là trong Bất thiện thì luôn có 4 Tâm sở này): Si, Vô tàm, Vô úy và Trạo cử. Ngoài ra có 10 Tâm sở Biệt cảnh của Bất thiện, đó là: Tham, Tà kiến, Ngã mạn, thuộc nhóm Tham phần; Sân, Tật, Lận, Hối thuộc nhóm Sân phần; Hôn trầm, Thùy miên, Nghi thuộc nhóm Trì trệ và Do dự.

Hôm nay chúng sẽ học tiếp 25 Tâm sở Tịnh hảo, tức là [25] Tâm sở tốt đẹp, #tịnh là thanh tịnh, tịnh là tốt. Chữ tịnh trong chữ Pali, Sanskrit dịch ra là mỹ, là tốt; #hảo cũng là tốt. Trong này cũng chia ra, gồm có 19 Tâm sở Tịnh hảo Biến hành. Tất nhiên là 19 [Tâm sở] rồi, thì còn có 6 Tâm sở Biệt cảnh thôi. 6 Tâm sở Biệt cảnh thì chia ra ba phần: 3 Tâm sở Tịnh hảo Giới phần, 2 Tâm sở Tịnh hảo Vô lượng phần, 1 Tâm sở Tịnh hảo Trí quyền. Thật ra nói thì nhiều vậy, nhưng hôm nay chúng ta học ít thôi. Học một, hai Tâm sở thôi, chứ học nhiều quá thì quý vị cũng không nhớ.

Hôm nay chúng ta vào Tâm sở đầu tiên trong 19 Tâm sở Tịnh hảo Biến hành, đó là Tâm sở Tín. Ở đây có Tín, Niệm, Tàm, Úy. Thật ra mấy [Tâm sở] này nghe cũng quen, chúng ta có học Vô tàm, Vô úy ở trên này rồi. Đối ngược lại với Vô tàm, Vô úy là thành Tàm, Úy rồi. Cho nên là cũng dễ thôi, không đến nỗi khó lắm. Bây giờ thì chúng ta học Tâm sở Tín.

1. Tâm sở Tín: Tín là gì? Tín có nghĩa là tin (nghĩa của chữ Tín là tin). Tín ở đây là tin tưởng vào điều thiện, tức là mình tin những điều nào thiện. Trong thời kỳ có Phật pháp, thì đây là niềm tin vào Tam Bảo. Trạng thái tâm của Tâm sở Tín là mình phải tin vào những điều thiện. Và khi nào mình biết có Phật pháp, thì đó là tin vào Tam Bảo. Mình phải có niềm tin đối với Tam Bảo. Tâm sở Tín đơn giản là như vậy.

Như vậy thì [mình] tin vào điều thiện chưa? Chúng ta hay có câu là ‘Tà không thể thắng Chánh’. Nhưng thật ra nhiều người không tin đâu, khó lắm. Nhiều người vẫn tin vào những điều nào tà tà chút cũng được. Tin vào điều thiện mà mình kêu thôi nói dối chút đi, nói dối mới được xong việc, thế này thế kia. Cho nên niềm tin này nói vậy chứ, có lúc mình không tin. Tâm sở này, tuy nói vậy, mình học Phật rồi nhưng có những lúc mình vẫn không tin. Mình kêu: ‘À, không được’. Cho nên tin vào điều thiện mà trong thời kỳ có Phật pháp (tức là chúng ta đây), thì phải [có] niềm tin vào Tam Bảo (tức là Phật, Pháp, Tăng). Điều này khó! Cho nên Tâm sở Tín này khó.

Tín là nguồn cội của các hạnh lành, khi không có niềm tin thì gì cũng không. Có nghĩa là nếu Tín là nguồn cội, giống như nước phải có từ nguồn, cội là cây phải có từ gốc. Tất cả những hạnh lành có được là nhờ niềm tin. Và khi không có [niềm tin] thì điều gì cũng không có nữa hết, coi như xong. Cho nên tất cả những việc tà, việc sai, là do không có [Tâm sở Tín]. Quý vị thấy là Tâm sở Tín này giúp cho mình, cho nên quan trọng.

Tín được thiết lập hay tin vào Tam Bảo tức là Phật, Pháp, Tăng; hay Tín là sự tín ngưỡng hay đức tin trong sạch với nhân vật pháp lý đáng tin.Có nghĩa là mình tin có hai điều: Một là tin đối với Tam Bảo là Phật, Pháp, Tăng. Hai là mình tin với sự kính ngưỡng, đức tin trong sạch đối với một nhân vật nào đó, một pháp nào đó. Nhưng pháp đó, lý đó, phải là đáng tin, và nhân vật đó [cũng] đáng tin. Cho nên có tin được không? Quý vị phải có [niềm] tin. Ví dụ nếu quý vị không tin Thiện Trang, thì quý vị đâu nghe pháp của Thiện Trang. Quý vị không tin Sư Minh Tuệ, thì quý vị cũng đâu có coi Sư Minh Tuệ làm gì, đúng chưa?

Sẵn đang giảng về điều này, [Thiện Trang nhớ] có người hỏi Sư Minh Tuệ là chiếc lá rơi từ đâu? Sư Minh Tuệ giải thích là chiếc lá rơi từ Vô minh. Có người mới hỏi là thầy có thể giải thích câu trả lời của Sư Minh Tuệ hay không? Thiện Trang nói là điều đó lẽ ra quý vị nên hỏi Sư Minh Tuệ, nhưng bây giờ Sư Minh Tuệ nói ngắn gọn quá, Thiện Trang cũng không biết thế nào. Thiện Trang không phải là bậc Thánh nhân để hiểu được ý của Sư Minh Tuệ, nhưng thôi thì mình cũng đem khả năng, sở đoản, sở trường gì đó của mình ra để giải thích.

Đây là theo Thiện Trang thôi, không biết có đúng hay không. Nếu chiếc lá rơi từ Vô minh, mà quý vị giải thích cao siêu, thì thế này: Tất cả vòng sanh tử luân hồi từ đâu ra? Chính là xuất phát từ Vô minh. Ở trong 12 nhân duyên, Vô minh duyên Hành, Hành duyên Thức, Thức duyên Danh sắc v.v… một dòng như vậy. Cho nên tất cả những gì hiện diện trên cõi đời này mà ta cảm nhận thấy, thật ra là do Vô minh mà ra. Nếu quý vị hết Vô minh thì quý vị chẳng thấy lá rơi nữa. Đó là ý nghĩa giải thích [cho] tất cả các vấn đề, gọi là tất cả Tam giới là do đâu mà có.

Giống như trong Chứng Đạo Ca của Thiền sư Vĩnh Gia nói: Mộng lý minh minh hữu Lục thú, giác hậu không không vô Đại thiên’. Có nghĩa là trong mộng thì rõ ràng có sáu cõi, nhưng khi mình giác rồi, thì mình thấy các cõi có cũng như không, có hay không, không quan trọng. Cho nên chiếc lá rơi là do những người vô minh, còn vô minh cho nên thấy lá rơi. Nếu quý vị hết thấy lá rơi rồi thì cũng không có. Tóm lại đó là giải thích theo kiểu cao siêu.

Còn giải thích theo kiểu bình thường, gọi là ứng cơ. Quý vị rảnh rỗi, quý vị đi hỏi lá rơi từ đâu là quý vị đang vô minh. Tại vì sao? Người học Phật không hỏi tu hành như thế nào, mà đi hỏi chiếc lá rơi. Đó là vô minh chứ gì nữa. Tức là mình còn muốn đi chất vấn người ta, mình còn muốn tìm hiểu, dò xét v.v… là mình đang vô minh. Với tâm vô minh nên mình mới đặt ra câu hỏi [như vậy], để đem sự kiện không có gì đặc biệt, đưa lên cho thành đặc biệt, để chất vấn người ta. Đó là mình đang vô minh.

Giống như Lục tổ Đại sư Huệ Năng, khi có người hỏi thế nào là La-sát, [thì ngài] mới nói người đó một điều gì đó, để người ta nổi xung lên, thì ngài Lục tổ mới nói đó là La-sát, tâm ông đang là La-sát. Tại vì người ta đang hỏi câu trong Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, phẩm Phổ Môn nói là rơi vào nước La-sát. Vậy La-sát là gì? Cho nên ngài kêu: khi tâm ông nóng giận lên như vậy thì gọi là La-sát, La-sát là như thế. Tức là tâm nóng giận là tâm La-sát, chiêu cảm cảnh La-sát, vậy thôi.

Cũng vậy, chiếc lá rơi, nếu mình nghĩ là giác ngộ thì là giác ngộ, còn mình nghĩ là vô minh thì là vô minh. Vậy thôi! Một chiếc lá rơi cũng có thể giúp cho quý vị đắc đạo A-la-hán, đắc đạo Thánh nhân Bích-chi-phật. Người ta thấy được như vậy. Còn mình thấy lá rơi mà mình chấp vào đó, mình đem đi hỏi v.v… rồi nghĩ tưởng tùm lum, thì là mình đang vô minh. Thay vì mình đang sáng suốt trong Bốn đế, thì mình lại mê mờ trong Bốn đế, thì gọi là lá rơi từ Vô minh.

Định nghĩa Vô minh là gì? Vô minh có nghĩa là không sáng suốt đối với Bốn đế (Tứ đế): Khổ đế, Tập đế, Diệt đế, Đạo đế. Các pháp do duyên sanh, cũng do duyên mà diệt, lá rơi thì cũng do duyên sanh. Duyên là gì? Duyên là lá đang ở trên cành cây, đến lúc lá vàng, hoặc lá không vàng mà do gió thổi hay thế nào đó v.v… nên nó rớt. Nếu quý vị thấy được cảnh đó, quý vị nghĩ là lá đang rơi, lá rơi là quý vị giác ngộ. Còn quý vị không thấy, mà quý vị còn đem hiện tượng đó đi hỏi, lá rơi từ đâu nữa, thì quý vị không có giác ngộ, đó là quý vị đang vô minh đúng không? Quý vị hiểu theo ý nghĩa nào đó thì tùy.

Đó là Thiện Trang giải thích, không phải là chân lý, quý vị đừng đem đó cho là chân lý. Quý vị hãy tự suy xét, mỗi người có thể tự đưa ra phương án cho chính mình, tự mình hiểu. Thiện Trang cũng không có áp đặt một ai hết, Thiện Trang chỉ chia sẻ như vậy thôi.

Bây giờ trở lại với Tâm sở Tín. Tín thì có Tà tín và Chánh tín. Tà tín là tin về những điều tà thì không nói, còn Tâm sở Tín là đang nói về Chánh tín, nếu chúng ta nói về Chánh tín. Chánh tín (là niềm tin chính xác) thì có bốn điều: Một là tin về nghiệp. Có ai tin về nghiệp chưa? Hai là tin về quả của nghiệp. Điều này là tin nhân quả đó. Ba là tin nghiệp là của riêng mỗi người, ai làm nấy chịu. Quý vị tin được ba điều đó chưa? Bốn là tin sự giác ngộ của đức Như Lai. Có bốn điều này thì gọi là Chánh tín.

Thiện Trang xin nhắc lại: Một là tin về nghiệp; Hai là tin về quả của nghiệp; Ba là tin nghiệp là của riêng mỗi người, có nghĩa là quý vị làm thì tự quý vị chịu, còn tôi làm thì tự tôi chịu, ai làm nấy chịu, không có ai gánh vác cho ai được hết. Trong Kinh Địa Tạng nói là mỗi người đều đi con đường riêng của mỗi người, không có ai thay thế, chịu khổ cho ai được hết. Và thứ tư là tin vào sự giác ngộ của đức Như Lai, có nghĩa là mình tin là đức Phật là người giác ngộ, giác ngộ là biết hết tất cả mọi thứ, không có gì mà Ngài không biết. Đó là niềm tin. Bốn điều đó tạo thành Chánh tín.

Cho nên ai có Chánh tín, là người đó tin về nghiệp, tin về quả của nghiệp, tin về nghiệp là riêng của mỗi người, và tin vào sự giác ngộ của Phật. Quý vị tin vào nghiệp chưa? Có tin, nhưng chúng ta tin tới đâu. Quý vị tin vào quả của nghiệp chưa? Có tin, nhưng cũng chưa biết tin tới đâu. Nhiều người biết quả rồi nhưng vẫn [làm]. Con biết là xấu, nhưng thôi con cứ nói dối cho xong việc này đã, rồi từ từ con sửa sau. Đó là không tin vào quả của nghiệp. Tức là nghiệp mình nói dối thì đã kết quả xấu rồi, cho nên là mình chưa tin. Rồi mình có tin nghiệp là riêng của mỗi người chưa? Mình cứ nghĩ là nhờ thầy Thiện Trang, rồi bám theo người này người kia cứu.

Quý vị nên nhớ, trong Kinh Lăng Nghiêm, ngài A Nan gặp nạn mà đức Phật cũng đâu có [giúp được], cuối cùng đức Phật cũng không thể giúp cho một người chứng quả. Mình không tin, mình không tự mình tu, gọi là ‘ông tu ông đắc, bà tu bà đắc, không tu không đắc’. Phần ai nấy tu, phần ai nấy đắc; phần ai nấy làm, phần ai nấy hưởng. Tất nhiên sự chia sẻ cũng có một phần nào, nhưng không phải là chính, việc chính là nghiệp là của riêng mỗi người.

Và thứ tư là mình tin tuyệt đối vào sự giác ngộ của đức Như Lai, thì khi đó mình sẽ có Chánh tín. Bữa nay là mình học về Chánh tín theo định nghĩa ở đây, còn bữa nào mình sẽ học về Chánh tín ở trong kinh nữa.

Khi người Phật tử quy y Tam Bảo, thì đức tin của vị ấy phải hiểu lý do và căn nguyên. Niềm tin của người quy y Tam Bảo, là mình phải hiểu lý do và nguồn gốc. Chứ không phải cứ tới quy y, làm lễ xong cầm phái quy y về, rồi mình nói là Quy y Tam Bảo. Không phải [như vậy]! Quý vị phải hiểu được Tam Bảo là gì, rồi mình quy y và nương tựa về.

Có nhiều Phật tử ngày nay đi chùa mấy chục năm, nhưng không phải là Đệ tử của Phật, không phải là Phật tử đâu, gọi là không có hiểu gì về giáo pháp của Như Lai. Cho nên [họ] không tin về nghiệp, không tin về quả của nghiệp, không tin nghiệp là của riêng mỗi người, mà suốt ngày cầu cúng, lên đó chỉ mong ban phước, giáng họa, đầu năm còn cầu cúng sao, giải hạn, rồi đủ thứ các chuyện… Đó là không hiểu gì hết, nên những người đó rất đáng thương.

Vị ấy được yêu cầu nghiên cứu và kiểm tra đối tượng đức tin của bản thân. Một đức tin Phật giáo không đi ngược lại sự tìm hiểu về tâm linh, bất cứ sự ngờ vực nào về những pháp mơ hồ đều được khuyến khích tìm hiểu chúng. Có nghĩa là trong Phật giáo khuyên quý vị là trước khi quy y Tam Bảo, thì phải tìm hiểu cho kỹ, nghiên cứu cho kỹ, làm sao đó hiểu để niềm tin của mình rõ ràng. Và Phật pháp không bắt quý vị tin một cách mơ hồ, mà khuyến khích quý vị hãy tìm hiểu cho kỹ, hãy hiểu rõ để tin.

Cho nên bất cứ vị thầy nào, vị sư nào, hay ai đó, Tu sĩ hay Cư sĩ mà dạy cho quý vị tin một cách mơ hồ, đó là không đúng với tinh thần của Phật giáo. Phật giáo là luôn rõ ràng, phải giải thích cho người ta hiểu rõ tại sao như thế, như thế, để người ta hiểu và người ta tin. Chứ không phải hiểu một cách mê mờ, vô cứ kêu người ta tin đi. [Mặc dù] Phật pháp có nói là vào đạo bằng niềm tin, nhưng quý vị tin cũng phải có căn cứ, chứ không phải tin mù, nói cứ theo như vậy đi, thì không phải. Mọi thứ phải rõ ràng, mà muốn rõ ràng thì phải học giáo lý.

Tác dụng của Tâm sở Tín là gì? Tín được ví như là viên ngọc báu vô song của Chuyển Luân Thánh Vương. Ngọc báu này khi đặt trong nước bẩn thì sẽ làm tất cả cặn bã được lắng xuống, và hơi ấm được thoát ra, để làm cho nước mát và tinh khiết. Tức là nếu nước bị bẩn và ấm, thì chỉ cần lấy viên ngọc của Chuyển Luân Thánh Vương (ngọc đó gọi là ngọc lục bảo, ngọc này là một trong bảy báu của Chuyển Luân Thánh Vương) bỏ vào trong nước đang dơ, thì mọi cặn bã lắng xuống hết, và nước đang nóng thì trở thành mát và tinh khiết. Cho nên Tâm sở Tín này quan trọng.

Cũng như thế khi Tâm sở Tín phối hợp với tâm, thì tất cả các pháp Phiền não như Tham, Sân, Si tan biến, với thành tựu là tâm trở nên trong sạch và mát mẻ. Quý vị nhớ cho kỹ điều này. Có nghĩa là nếu quý vị có Tâm sở Tín, thì khi phối hợp với tâm (sau này chúng ta sẽ học bao nhiêu tâm đó), thì tất cả Phiền não như Tham, Sân, Si tự nhiên tan biến, và thành tựu là tâm của mình sẽ trở nên trong sạch và mát mẻ. Đó là lợi ích rất lớn, cho nên phải có Tín.

Còn một ví dụ nữa như sau: Tín được ví như bàn tay, có thể nắm lấy đá quý, ngọc quý, nếu chúng sanh may mắn được lên một ngọn núi đầy những đá quý, ngọc quý (có nghĩa là quý vị đi lên một ngọn núi đầy đá quý, ngọc quý, nhưng nếu quý vị không có tay thì cũng không nắm được, không đem được gì về hết. Có nghĩa là vào núi báu mà về tay không đó. Thì [Tâm sở] Tín là giống như mình có bàn tay). Thật ra vị ấy khi được tiếp xúc với giáo lý của đức Phật thì còn mày mắn hơn là lên ngọn núi châu báu (cho nên mình may mắn lắm, mình được tiếp xúc với giáo lý của đức Phật, thì mình còn may mắn hơn là lên ngọn núi châu báu). Bởi vì người với Tín thì có thể đạt được những quả phúc quý giá hơn châu báu.

Có nghĩa là mình đạt được những quả hạnh phúc, phước) lớn hơn châu báu nữa, ví dụ như ra khỏi sanh tử, chứng [quả] Thánh nhân. Châu báu đâu có giúp được quý vị đâu. [Tín] thì giúp cho quý vị bao nhiêu đời sau nữa, còn châu báu thì quý vị xài một đời là hết. Cho nên ở đây quan trọng.

Tâm sở Si là pháp dẫn đầu trong những Tâm sở Bất thiện, còn Tâm sở Tín là pháp dẫn đầu trong những Tâm sở Tịnh hảo. Có nghĩa là ở đây có 2 Tâm sở quan trọng, mà [giúp] quý vị xác định được thiện hay ác, tốt hay xấu. Đó là Tâm sở Si, là pháp dẫn đầu trong những Tâm sở Bất thiện, chúng ta đã học Tâm sở Si rồi. Nhưng ngược lại, Tâm sở Tín là pháp dẫn đầu trong những Tâm sở Tịnh hảo. Tức là trong Tâm sở Tịnh hảo thì Tín là quan trọng nhất.

Đây là châu báu quý giá nhất, và một trong Năm quyền và Năm lực. Quý vị nhớ Năm quyền và Năm lực, là Ngũ căn và Ngũ lực. Ngũ căn và Ngũ lực là gì, thì chắc quý vị biết, từ từ rồi chúng ta cũng sẽ học thôi. Năm quyền là: Tín, Tấn, Niệm, Định, Huệ, và Năm lực luôn. Đây là châu báu quan trọng nhất.

Cho nên trong Đại Trí Độ Luận, ngài Long Thọ nói:“Phật pháp đại hải, tín vi năng nhập, trí vi năng độ”. Có nghĩa là biển lớn của Phật pháp, tin thì mới vào được, và có trí thì mới qua được. Chứ còn không tin thì không vào được. Rồi quý vị muốn qua dòng biển sanh tử mà quý vị không có trí, thì cũng thua luôn. Cho nên Tâm sở Tín này cực kỳ quan trọng.

Tín trong Tín, Tấn, Niệm, Định, Huệ, thì có khi gọi là quyền. Bởi vì nó nắm quyền ghê lắm, tu hành được hay không là do năm điều này. Cho nên gọi là Tín quyền. Vậy khi nào có Tín quyền? Vấn đề là khi nào chúng ta có Tín quyền, khi nào có niềm tin? Niềm tin mà giúp cho mình thành tựu trong Phật pháp (thành tựu ít hay thành tựu nhiều), đó gọi là Tín quyền. Vậy bây giờ khi nào có? Đó là khi nào có đức tin, thái độ tín ngưỡng, sự quyết tin, sự rất kính trọng, tín lực, tín quyền. Tức là đức tin có trong khi nào, thì Tín quyền vẫn có trong khi ấy.

Có nghĩa là không phải quý vị tin sơ sơ, mà thái độ này, sự tín ngưỡng này mình phải rất tin, quyết tin, cực kỳ tin luôn, thì mới được, chứ không phải tin hời hợt. Cho nên điều này cũng khó. Trong Phật giáo, tin mà không có trí tuệ thì thành mù quáng, và cũng lạc đường. Còn nếu mình nói không tin thì cũng không vô được. Cho nên phải dùng trí tuệ để suy xét. Còn nếu không có trí tuệ thì thôi, nhắm mắt tin đại thì hên xui. Gặp một vị thầy tốt thì đúng đường, còn gặp vị thầy tà thì sai đường. Thiện Trang tin là những người học trong lớp này, đa số đều là những người có trí tuệ cả. Nhưng Thiện Trang thấy thời nay phần nhiều là không có trí tuệ, không phân biệt được việc nào đúng sai, thiện ác.

Và một điều dở nữa, là khi mình học với những người trí tuệ rồi, nhưng mình không tin người đó. Quý vị thấy có nhiều người lên nói tin thầy, tin Thiện Trang. Miệng thì nói vậy, thậm chí ca ngợi ghê gớm, nhưng thật tế sau lưng thì họ không tin hoàn toàn, họ vẫn nghĩ theo đường hướng của họ, họ vẫn thích làm theo hướng đó. Cho nên họ cũng không tin. Rồi có người nói tin Sư Minh Tuệ, dù sao cũng chỉ tin Sư Minh Tuệ thôi, nhưng thật tế là cũng chẳng có tin. Kêu sao Sư Minh Tuệ bây giờ bị bỏ bùa rồi, bị chú Phước Nghiêm dẫn dắt rồi, bị lừa rồi v.v… Chính mình không tin Sư Minh Tuệ thì mình mới nói như vậy. Còn nếu mình tin Sư Minh Tuệ, thì mình sẽ tin vào trí tuệ của Sư Minh Tuệ, sự lựa chọn của Sư Minh Tuệ. Cho nên là mình cũng tin vào mình hơn. Tóm lại là không có niềm tin, thì không có Tín quyền này.

Đó là mình tin một đối tượng nào đó thôi, chứ Thiện Trang không nói quý vị. Quý vị phải suy xét, quý vị phải có niềm tin. Khi mình đã suy xét rồi, mình biết người ta là người thế nào rồi, theo năm tháng thế này thế kia, thì quý vị phải theo đó.

Bữa nay là ngày giảng pháp, sẵn có người hỏi Thiện Trang chuyện của Sư Minh Tuệ. Quý vị lưu ý, ngày nào giảng thì quý vị đừng hỏi. Bởi vì có nhiều người không tinh tế lắm, ngày nào Thiện Trang sắp giảng, mà cứ toàn nhắn hỏi, thì làm sao Thiện Trang có thời gian để trả lời. Thiện Trang đã nói rất nhiều lần rồi, nhưng cũng có nhiều người [như vậy]. Hình như là thứ Bảy người ta rảnh, thì cũng thông cảm cho họ, vì họ đi làm cả tuần, thì không nói. Nhưng bữa nay là thứ Tư mà. [Người đó] hỏi: ‘Có người hỏi đến đảnh lễ Sư Minh Tuệ làm gì? Thì con trả lời làm sao?’

Thiện Trang xin trả lời thế này: Ở thế gian người ta có một câu nói là ‘trăm nghe không bằng một thấy, trăm thấy không bằng một sờ’. Cũng vậy, mình cũng chỉ nghe trên mạng, coi trên mạng, coi trên video v.v… thì chắc chắn không bằng đến đó trực tiếp. Cho nên quý vị phải đến gặp để xem thế nào, đó là để mình cảm nhận được nhiều hơn. Tất nhiên có nhiều người sẽ đặt vấn đề là: ‘Ủa thế thầy Thiện Trang có đến gặp Sư Minh Tuệ đâu, mà thầy Thiện Trang có thể khẳng định được điều gì’.

Thiện Trang nói, thật ra có nhiều vấn đề, nếu quý vị tinh tế thì quý vị không cần phải đến nhiều đâu. Nhưng đến thì sẽ cảm nhận được nhiều hơn. Ví dụ, quý vị thấy [Sư Minh Tuệ] suốt ngày đi ngoài đường như vậy, rồi suốt ngày YouTuber quay từ sáng tới tối, thì trốn đường trời nào được. Nội mà đi từ sáng đến tối kiểu đó, rồi ăn uống giữ như vậy đó, và trả lời với đại chúng như vậy đó, với trí tuệ sáng suốt như vậy đó. Bao nhiêu đó đủ tin chưa? Đủ tin rồi đúng không?

Còn những điều mà người ta nói là mầu nhiệm thế này thế kia, thì mình chưa cảm nhận được. Tại vì mình không có [gặp] trực tiếp, phải những người được gặp trực tiếp [thì mới biết]. Rồi nào là nói từ trường tại đó tốt lắm v.v… Mình không đến đó thì mình không cảm nhận được điều đó. Mình chỉ cảm nhận từ xa qua từ trường, rồi dáng đi, rồi các ngôn ngữ, hay mình nghe thấy an lạc chẳng hạn, thì mình thấy đúng.

Cho nên mình chỉ cảm nhận được mấy điều đó thôi. Còn nếu quý vị đến được tận nơi, thì quý vị sẽ cảm nhận được nhiều hơn. Đấy là lý do đầu tiên nên đến, nếu như có điều kiện.

Thứ hai nữa là, thông thường người ta nói điều gì mà mình không tiếp xúc, tức là nghe từ xa, thì sẽ không đủ tốt bằng ở tại đó. Vì khi đến đó thì mình sẽ có nhiều xúc cảm hơn. Thiện Trang thấy hầu như những người đến đó, họ thấy Sư Minh Tuệ, thấy đoàn như vậy, thì hầu như họ thay đổi tâm rất nhiều. Một số người đi theo một thời gian thì tự nhiên thay đổi, họ tốt lên, v.v… Thiện Trang thấy như vậy, chứng tỏ là có sức ảnh hưởng nào đó, mình có thể hưởng được từ trường hay hưởng điều gì đó. Từ đó, nếu quý vị có điều kiện thì nên đến. Đó là lý do thứ hai.

Lý do thứ ba nữa là mình sẽ có rất nhiều xúc động khi mình coi thực tế. Tại vì quý vị chỉ coi trên tivi, coi trên điện thoại, thì màn ảnh nhỏ quá. Nhưng mình ra ngoài đời, mình sống trong môi trường thật đó, thì mình [sẽ] thấy được nhiều điều hay hơn. Và mình cũng không bị ảnh hưởng bởi những YouTuber quay góc này góc kia v.v…. Mà bằng đôi mắt của mình, đôi tai của mình, bằng trí của mình, để mình suy xét, mình coi được. Đó là những lí do để mình kiểm chứng. Có thể quý vị sau khi đi một lần như vậy, thì niềm tin của quý vị sẽ tăng lên. Đó là phước duyên của quý vị.

Còn một điều nữa, là nếu như quý vị tới, biết đâu quý vị có duyên để kết duyên với một người tu hành. Không phải một người, mà là nhiều người tu hành. [Rồi] các Sư trong đoàn, thậm chí những người hộ trì [trong đoàn] đó, đó là kết pháp duyên. Trong đó, nếu tu như đoạn kinh vừa nãy nói, thì có thể chứng thành A-na-hàm, A-la-hán. Tương lai những vị đó, có người nào thành tựu được như vậy, thì mình cũng có duyên như vậy. Biết đâu các ngài quán lại, thì các ngài sẽ độ mình. Hoặc là do phước đó, mình tu được phước tăng lên, thì từ đó mình tu được dễ hơn.

Ví dụ như quý vị cúng dường được một chai nước, cúng dường được một bữa ăn, hoặc một thứ gì đó nhỏ nhỏ, một cây kim, một cuộn chỉ v.v…. Nếu vị đó sau này thành Thánh nhân, thì quý vị có phước rất lớn. Hoặc người đó bây giờ là Thánh nhân, thì phước của quý vị rất lớn. Đấy là những lý do, mà nếu có thể thì mình nên đi. Và còn một lý do nữa, là mình đi đến đó để mình có cơ hội học hỏi những hạnh đó. Cho dù [họ] không phải là Thánh nhân, không có gì, thì mình cũng nên học hỏi. Đấy là Tín quyền.

Bốn ý nghĩa của Tâm sở Tín: (1) Là một trạng thái tin Tam Bảo, nghiệp quả của đời này đời sau. (2) Phận sự là tín ngưỡng Tam Bảo. (3) Thành tựu là tâm không vẩn đục. Có nghĩa là nhờ quý vị tin, nên tâm của quý vị được trong sạch. Quý vị thấy nhiều người có tâm giả dối, là tại vì họ không có niềm tin. Quý vị thấy ở đời có những người bị lừa. Vì sao bị lừa? Có hai lý do bị lừa: Một là tin, vì tin nên mới bị lừa, tâm trong sạch, trong sáng quá. Thứ hai là không có trí tuệ. Nên những người có trí tuệ thì khó bị lừa. Rồi có những người nghi ngờ thì cũng không bị lừa, [vì] lúc nào họ cũng nghi hết, nên [không] ai lừa được họ. Quý vị phải tin một điều gì đó thì người ta mới lừa quý vị vô hướng đó. Quý vị không tin hướng này, quý vị tin hướng kia thì bị lừa hướng kia. Giống như bây giờ giữa chánh và tà, quý vị tin tà nên quý vị bị tà lừa. [Còn] nếu quý vị không tin bên nào hết thì không bị lừa. Cho nên tâm mà lúc quý vị tin, thì đó là tâm thiện, tâm trong sạch.

(4) Nhân gần là có nhân vật đáng tín ngưỡng. Nghĩa là thường thường để thành tựu được Tâm sở Tín này, thì phải có một nhân vật nào đó, đáng để mình tin và ngưỡng mộ. Nên không có thì cũng khó. Phật pháp mà nói trên lý thuyết không [thôi] thì cũng khó. Phải thấy có người thực hành, có người tác chứng, có người làm cho mình thấy. Rồi mình gần được người đó, mình gần gũi được, hoặc mình thấy qua người đó thì mình tin. Còn không thì Phật pháp giống như sách vở thôi, không hoạt động được bao nhiêu.

Quý vị thấy Phật pháp bây giờ đang hưng thịnh được một chút, là nhờ có Sư Minh Tuệ và đoàn làm đúng pháp. Các ngài làm gì cũng đúng như trong kinh nói. Người ta thấy khổ hạnh, thấy thế này thế kia nên người ta tin. Chứ hồi xưa, Thiện Trang nhớ thời gian cách đây một năm thôi, thời [gian] này năm trước hoặc là trước Tết nữa, hơn một năm rồi, thì họ chửi ơi là chửi. Trong Phật giáo, mà lên đâu là bị chửi đó, người ta chỉ cần thấy người xuất gia là người ta chửi rồi, nào là thế này thế kia. Tại vì không có nhân vật đáng tín ngưỡng. Sau này thì có người đáng tín ngưỡng [rồi].

Có đồng tu nói: ‘Con đã gặp được Sư Minh Tuệ ở Nha Trang hồi tháng chín, và con cảm nhận được năng lượng tích cực của ngài. Con bị từ trường của Sư lúc đó khiến không nói nên lời, vì hoan hỷ’. Thiện Trang thì cũng nghe nhiều đồng tu kể rằng: sau khi đến gặp Sư Minh Tuệ, cũng có cảm giác từ trường rất tuyệt vời. Nhiều người trở về tu tinh tấn hơn v.v…. Đó là Thiện Trang nghe thôi, Thiện Trang chưa có gặp, nên không biết. Nhưng nhiều người kể, và đa số những người kể đều là những người thật thà tu hành, nên Thiện Trang cũng tin. Đồng tu cũng vì tán dương công đức, cũng nói sự thật, chả ai nói dối để làm gì. Và mỗi câu nói của mọi người, như đồng tu vừa rồi nói, thì tăng thêm phần công đức cho chính mình. Cho nên chúng ta hiểu được [như vậy].

Đó là chúng ta đã nói xong Tâm sở Tín. Như vậy [quý vị] nhớ Tâm sở Tín này nằm trong Tâm sở Tịnh hảo Biến hành. Tức là ở trong Tâm sở tốt thì luôn luôn có 19 Tâm sở này.

Tâm sở quan trọng tiếp theo là Tâm sở Niệm. Niệm là Tâm sở quan trọng. Tín cũng quan trọng, mà Niệm cũng quan trọng. Quý vị thấy Tín, Tấn, Niệm, Định, Huệ, Ngũ căn, Ngũ lực có hết. Bây giờ Thiện Trang chia sẻ luôn [Tâm sở Niệm], dừng thì sớm quá, mà không dừng thì có thể trễ. Thôi cứ chia sẻ, quý vị nghe thêm, học thêm chút nữa, thì tu hành mình đi tiến thêm bước nữa, không sao.

2. Tâm sở Niệm: Niệm là gì? Nói đơn giản niệm là nhớ, là biết. Niệm là lưu tâm, là nhớ được, nhớ ghi, tỉnh táo, hay biết theo dõi pháp đang diễn tiến. Trạng thái chính của Niệm là không trôi đi, tức là không cho phép không hay biết pháp đang diễn tiến. Đơn giản, Niệm là quý vị phải lưu tâm, quý vị nhớ được, quý vị nhớ ghi, và quý vị không phải chỉ nhớ không [thôi], mà phải tỉnh táo. Và chúng ta luôn biết được các pháp đang diễn biến như thế nào. Đó mới gọi là Niệm.

Ví dụ như Thiện Trang đang cầm cây bút, Thiện Trang quay quay, nói chuyện một hồi rồi đặt cây bút [ở] đâu mất. Thiện Trang không biết cây bút đó ở đâu [nữa], vì mình làm [nhưng] mình không theo dõi được trạng thái, diễn tiến của việc cầm cây bút. Đó là thất niệm.

Như vậy Niệm là ngoài nhớ ra, thì mình phải ghi nhận được và [phải] tỉnh táo, sáng suốt, thấy được các pháp diễn biến như thế nào. Còn không thì là thất niệm. Cho nên những thất niệm liên tục xuất hiện, chứ không phải không. Quý vị đừng tưởng mình luôn luôn niệm được. Thông thường chúng ta cũng có những lúc thất niệm, cho nên lúc đó quên.

Ví dụ như quý vị đang nói chuyện điện thoại, vô cầm chìa khóa để chuẩn bị đi xe máy, đi ô tô, cầm chìa khóa một hồi bỏ đâu mất, rồi không biết để chìa khóa ở đâu. Vì lúc đó tâm mình đang chú ý vào đề tài này, nên tay mình [cầm nhưng] không ghi nhớ được, không ghi nhận được hiện trạng vật chất, tức là cầm chìa khóa để đâu.

Điều này quan trọng lắm! Người tu mà tưởng mình có trí nhớ giỏi, là Niệm giỏi. Không phải! Trí nhớ thôi chưa đủ. Tâm sở Niệm ở đây là ghi nhận được cảnh đang diễn biến nữa. Tức là ngoài việc nhớ ra, còn phải ghi nhận được cảnh đang diễn biến như thế nào.

Giống như quý vị đang nghe pháp của Thiện Trang, mà quý vị không ghi nhận được Thiện Trang vừa nói câu gì. Đó là quý vị đã thất niệm. Chứ không phải là trí nhớ không [thôi]. Ai có trí nhớ dai, thì đó là một phần. Nhưng còn một điều, là đang lúc hiện tiền đây, mà mình tập trung được tâm để ghi nhận được cảnh đang diễn biến như thế nào, pháp đang diễn biến như thế nào, thì đó cũng là Niệm. [Còn] không ghi nhận được thì là thất niệm.Tức là không bị trôi đi, không cho biết, đó mới là Niệm. Chứ không phải nói [có] trí nhớ mới [là Niệm].

Nói [về] trí nhớ, thì [như] Tôn giả Châu Lợi Bàn Đà Già đâu có nhớ gì đâu. Cho nên Niệm phải là ghi nhớ được [hiện cảnh]. Định nghĩa chữ niệm này khác với niệm trong thế gian, mình cứ tưởng niệm là ghi nhớ. Cho nên nếu không học thì mình hiểu sai thuật ngữ Phật pháp, vì vậy mình tu Bát chánh đạo trật lất hết là vậy. Do mình hiểu sai thì làm sao mình tu trúng được.

Khi một người không có đủ Niệm, vị ấy không nhớ được những điều được thấy hay nghe, như những cái nồi hay những trái bí ngô rỗng trôi trên dòng nước. Đây là đưa ra ví dụ, nghĩa là khi mình không có đủ Niệm, thì vị ấy không nhớ những điều được thấy hay nghe. Đó cũng là một trạng thái không đủ Niệm, là do Niệm của mình kém. Cho nên người nào tu thì biết Niệm của [mình] kém. Niệm kém thì đằng sau có cách, làm sao để mình tu có được Tâm sở Niệm này tốt hơn. Điều này cũng quan trọng. Tín, Tấn, Niệm, Định, Huệ, mà quý vị không có Niệm thì cũng không được. Và trong Bát chánh đạo có Chánh niệm, không có Chánh niệm thì cũng không được. Cho nên Niệm cũng quan trọng lắm. Ví dụ giống như những cái nồi, hay trái bí ngô rỗng trôi trên dòng nước, trôi lờ đờ như vậy thôi, chứ không ghi nhận được gì hết.

Niệm là sự tỉnh thức, không sao lãng trong lúc tâm biết cảnh. Niệm là tỉnh thức, không sao lãng trong lúc tâm biết cảnh. Chứ không phải quý vị đang nghe pháp của Thiện Trang, mà quý vị không nhớ, quý vị đang nghĩ chuyện gì đó, là quý vị là thất niệm. Cho nên Niệm là phải tỉnh thức. Đạo Phật quan trọng điều này lắm. Vì đạo Phật là đạo tỉnh thức. Và khi tỉnh thức đạt đến mức độ nào đó thì đắc đạo. Quý vị luôn luôn sáng suốt thì làm sao rớt vào đường ác được. [Khi] ngủ, mình mơ thấy đường ác rồi mình chui vô đó, hoặc mình thấy những cảnh mình phá giới, lúc đó là thất niệm, mất niệm. Chứ một người tỉnh thức, rõ biết, thì làm sao làm những việc sai được. Cho nên Niệm này quan trọng lắm.

Định nghĩa rốt ráo nhất của Niệm là sự rõ biết điều gì đang xảy ra. Tức là định nghĩa rốt ráo nhất của Niệm là sự rõ biết điều gì đang xảy ra. Mà sự rõ biết này thật ra có hai yếu tố: Yếu tố thứ nhất là quý vị phải biết sự kiện gì đang xảy ra. Và yếu tố thứ hai là cũng phải khơi lại những gì trong quá khứ, để kết nối với dữ liệu quá khứ. Nếu quý vị không có dữ liệu quá khứ, quý vị mơ mơ màng màng, đưa cho quý vị một vật gì đó, mà quý vị không có dữ liệu trong quá khứ, thì quý vị cũng đâu biết đó là cái gì, cũng mơ mơ màng màng thôi. Hoặc Thiện Trang đang giảng pháp đây, mà quý vị nghe nhưng không hiểu Tâm sở là gì, quý vị không nhớ, thì quý vị nghe nãy giờ cũng như không. Rồi không biết Tâm sở Tịnh Hảo là gì, trong 52 món Tâm sở chúng ra đang học điều gì, thì không có điều đó là coi như thua.

Cho nên Niệm, thật ra vừa là quá khứ và hiện tại, hồi tưởng lại những tưởng trong quá khứ (dữ liệu trong quá khứ), và kết nối với hiện tại, luôn theo dõi biết được điều gì đang diễn ra, đang diễn biến như thế nào. Đó là Niệm. Cho nên Tâm sở này cực kỳ quan trọng, vậy nó mới có mặt trong Bát chánh đạo, và mai mốt sẽ chuyển [thành] Chánh niệm trong Bát chánh đạo. Mà Chánh niệm là gì thì phải nhớ. Rồi từ từ chúng ta [sẽ] học.

Khi ta nhận biết được điều gì đang xảy ra, thì nó đã biến diệt và trở thành quá khứ rồi. Quý vị thấy, khi mình vừa ghi nhận là nó biến diệt và đã trở thành quá khứ rồi.

Đó là lý do chữ niệm thường được hiểu là sự ghi nhớ, nhưng sự ghi nhớ này gắn liền với thực tại trước mắt, không phải là sự ghi nhớ theo cách hồi tưởng hay ký ức. Cho nên nếu không học thì chúng ta sai lầm, chúng ta tưởng là [niệm] là ghi nhớ, hồi tưởng kí ức thôi. Nhưng trong khi đó Tâm sở Niệm này quan trọng, là ghi nhớ gắn liền với thực tại trước mắt. Cho nên không học thì mình hiểu sai. Mình cứ tưởng Niệm là nhớ thôi. Không phải! Niệm phải có cả hiện tại [nữa]. Tâm sở [Niệm] này định nghĩa là như vậy. Và theo pháp Phật thì có 4 điều:

1. Một là Niệm pháp tỉnh của đời: Tức là nhờ Niệm đó [mà] mình rất tỉnh [táo], sáng suốt. Gọi là pháp tỉnh của đời mà, tức là tỉnh táo.

2. Hai là người có Niệm hằng được tiến hoá: Người có Niệm thì luôn luôn tiến lên, còn chúng ta quên thì rớt xuống. Ai nhớ pháp giỏi thì họ thường [tiến] lên. Đây không phải là nhớ pháp, mà là nhớ trong mọi lúc, mọi nơi, mình luôn theo dõi được pháp, theo dõi được sự chuyển biến của mỗi công việc, thì không sao.

Ví dụ Thiện Trang nói có nhiều người bị rớt vào tà, tại sao bị tà? Vì họ mất niệm, họ thiếu cảnh giác là biết các pháp đang diễn biến. Ví dụ có người giả dạng là người tốt, thì đến lúc nào đó họ cũng lòi đuôi cáo, đuôi chồn của họ ra, khi họ lòi ra thì mình phải bắt liền. Người có Niệm là họ biết được trạng thái khi đối phương vừa lòi ra điều bất thường. Còn người không có Niệm thì sẽ không phân biệt được, họ cứ nhớ quá khứ người đó tốt thế này thế kia, đối với mình tốt v.v… cho nên bị lừa.

Quý vị theo dõi sự kiện của đoàn Sư Minh Tuệ đi qua Ấn Độ, thì quý vị thấy rõ nhất những diễn biến như vậy. Chúng ta không khẳng định một người nào tốt từ trước tới sau, chúng ta hãy học cách để theo dõi, để thấy được rằng các pháp đang diễn biến, điều này đang diễn biến, điều kia đang diễn biến, bất cứ sự bất thường nào xảy ra, thì chúng ta đều ghi nhận được. Đó là mình có Niệm và tỉnh thức. Còn nếu quý vị mê, vì quý vị mê người đó quá, thấy người đó tốt quá nên thương, và cho dù người đó làm xấu mình cũng không nhận ra. Rồi thấy người này xấu nên ghét, người xấu bây giờ thành người tốt thì mình cũng không chấp nhận. Đó là mình không có Niệm.

Cho nên trong Phật pháp lúc nào cũng đánh giá các pháp ở hiện tại. Tất nhiên quá khứ là quá khứ, chỉ cung cấp tham khảo: hồi trước tôi có thể là một người xấu, nhưng bây giờ tôi tốt, thì hãy ghi nhận điều tốt của tôi. Nếu quý vị không có năng lực đó, quý vị cứ sống theo tình chấp, ôm hình bóng quá khứ, thì mãi mãi quý vị sống trong vòng luân hồi. Bởi vì quý vị chỉ chạy theo tưởng của quá khứ, chứ quý vị không có niệm về hiện tại, tương lai. [Như vậy] là tiêu đấy! Cho nên Phật pháp đề xướng sự tỉnh thức, sự sáng suốt rõ biết, theo dõi diễn biến các pháp đang xảy ra như thế nào. Nếu quý vị có được điều đó, thì điều thứ ba nói là:

3. Ba là người có Niệm [thì] được hưởng an vui: Người có Niệm, tức là có Tâm sở Niệm hiện hành, thì được hưởng an vui. Cho nên mấy người đau khổ là người ta thất niệm. Thất niệm nên toàn nhớ chuyện hôm qua: À, hôm qua bà đó chửi tôi. Trong khi đó mình phải theo dõi hiện tượng bây giờ, bây giờ ta đang thế nào, hoàn cảnh thế nào v.v… Mình không theo mà mình để [tâm] chạy về quá khứ, tưởng về quá khứ thì quên cảnh hiện tại, cho nên không vui. Còn nếu quý vị có cảnh hiện tại thì được an vui. Cho nên bí quyết của an vui là hãy luôn luôn tỉnh thức, luôn luôn Chánh niệm.

4. Thứ tư là người có Niệm thời hằng ngày đặc biệt: Tức là ngày nào cũng là ngày đặc biệt hết. Cho nên [Tâm sở] Niệm cực kỳ quan trọng.

Thiện Trang nói: Tâm sở Tín thì quan trọng rồi, nhưng Tâm sở Niệm cũng là tu hành. Các đồng tu cố gắng, đừng bao giờ tưởng, [hay] bị áp chế điều gì đó về quá khứ. Đặc biệt, quý vị luôn có Tâm sở Niệm thì không bị ai dắt mũi được hết. Quý vị luôn có Tâm sở Niệm hiện thời thì ngày nào cũng đặc biệt. Vì quý vị an vui, rõ ràng, sáng suốt, sống trong thực tại, đồng thời quý vị làm chủ bản thân mình, và không bị bất cứ thứ gì có thể dẫn dắt quý vị đi đâu hết. Cho nên [quý vị nhớ] ngày nào cũng là ngày đặc biệt, ngày nào cũng là ngày tốt đó.

Với Niệm, chúng sanh có thể nhớ lại những sự kiện quá khứ, Niệm có thể tu tập được phát triển. Khi Niệm được phát triển lên cao độ, vị ấy đạt được sức mạnh nhớ về những kiếp quá khứ, do đó Niệm có phận sự nhớ. Cho nên nếu mình tu tập nhiều, thì đầu tiên là mình theo dõi rõ ràng hiện tại, nhưng đồng thời mình phát triển cao độ lên, dần dần [Niệm] mạnh lên, thì nhớ được quá khứ.

Đây là Thiện Trang chia sẻ thôi, không biết có phải không, nhưng Thiện Trang thấy sau khi mình tu tập theo đạo Phật nhiều, thì trí nhớ của mình tốt hơn. Thứ nhất là nhớ ra những chuyện trong đời, những chuyện từ hồi nhỏ tự nhiên nhớ ra nhiều lắm, nên dần dần nhớ ra nhiều điều. Nhiều người hỏi sao thầy nhớ nhiều vậy? Thiện Trang nói không phải Thiện Trang nhớ nhiều, mà là tự nhiên nhớ ra. Ngày xưa quên rồi, nhưng tự nhiên tu tập thế nào đó, rồi từ từ nhớ ra điều này, nhớ ra điều kia.

Cho nên Thiện Trang tin những điều đức Phật nói là tự nhiên nhớ được tiền kiếp v.v… đó là tự nhiên thôi, do trí của mình sáng. Tức là Chánh niệm của mình càng nhiều, thì những gì quý vị học qua trong đời, những sự kiện trong đời, là quý vị nhớ. Nhưng quý vị nhớ là không [để] bị lôi cuốn. Có nghĩa là dù sự nhớ đó gợi lên những điều xấu, thì mình cũng không khổ với cảnh xấu đó. Và những cảnh đó dù có tốt đẹp thì mình chỉ thấy: À, cảnh đó qua rồi, giống như một giấc mộng v.v… Mình không bị những cảnh đó làm khó chịu, hay vui buồn v.v… mình không theo cảnh đó. Thì đó mới tương ưng với Chánh niệm. Còn quý vị nhớ, bắt đầu tưởng tượng, hồi xưa quen anh chàng đó, đi quán cóc, quán chè nào đó v.v… nhớ tưởng một hồi là quý vị thất niệm ngay. Tại vì quý vị không nhớ được hiện tại, không theo dõi được hiện tại. Đó là thất niệm nha.

Đức Phật nhắc nhở các Đệ tử mỗi ngày không quên những nghiệp thiện, và luôn nhớ thực hiện tâm nguyện phấn đấu để thoát khỏi tất cả khổ. Có nghĩa là mình nhớ những việc thiện, và luôn thực hiện tâm nguyện, mình nhớ là luôn phấn đấu để thoát khổ. Quan trọng là [phải] nhớ tu hành để thoát khổ.

Nếu một người luôn luôn niệm hay biết theo ở Sáu căn, ghi nhớ những gì mà vị ấy quan sát, chỉ là thấy hay nghe (thấy hay nghe, ngửi mùi v.v… mình nhận được hết), thì vị ấy có thể ngăn chặn những Phiền não thâm nhập tâm. Tu quan trọng là ở chỗ này. Quý vị mà sáng suốt rõ biết hết Sáu căn: Tai, mắt, mũi, lưỡi, thân, ý, thì quý vị ngăn chặn được Phiền não. Còn quý vị đang phiền não, là do mấy điều đó dắt mình đi theo Phiền não.

Cho nên ráng học, ráng nhớ, điều này quan trọng. Người luôn luôn niệm, là biết theo dõi được Sáu căn, mình đưa điều gì vô là mình biết hết, thì đố quý vị phiền não được đó. Chắc chắn quý vị sẽ không buồn, không giận, không tức, không bị cảnh chuyển. Còn ta đang bị cảnh chuyển, tâm ta buồn vui chạy theo nó, là do ta đang thất niệm. Bí quyết là như vậy.

Trong ý nghĩa này Niệm được ví như người gác cổng, ngăn chặn những kẻ trộm cướp không cho thâm nhập vào thành phố. Điều [này] quan trọng, vậy thì mình phải giống như người gác cổng. Thành phố có cổng vào, hay nhà mình có cửa vào, thì [mình] không cho trộm cướp vô. Tâm sở Niệm mà có, thì ngăn trừ sự độc hại từ bên ngoài. Cho nên Tâm sở này cực kỳ quan trọng. Mình tu chưa được là tại vì mình chưa có Tâm sở này hiện tiền liên tục, lâu lâu mới có, lúc có, lúc không. Lúc có thì không phiền não, nhưng lúc không có thì phiền não, bởi vì mấy tên giặc chạy vô mà mình không biết. Tên cướp, tên trộm vô lấy hết đồ, lấy hết công đức của mình ra mà mình không biết, mình chạy theo nó cho nên cháy hết công đức, ‘một ngọn lửa sân, thiêu cả rừng công đức’ là vậy đó.

Nhiều người đồng tu không học mấy điều này nên không biết, họ kêu: ‘Sao con cố gắng làm lắm, nhưng con vẫn phiền não, dễ sân, ghét người?’ Thiện Trang thấy tội nghiệp quá. Thiện Trang biết người đó tu Tịnh Độ, nên Thiện Trang nói là họ chưa học sâu Tịnh Độ, chứ nếu học sâu Tịnh Độ, niềm tin Tịnh Độ vững rồi, chịu khó qua nghe bộ Luận Câu Xá, thì sẽ biết tại sao. Bởi vì chính mình không quan sát được tâm vi tế, mà làm sao biết tâm vi tế? Phải học mấy Tâm sở thì mới biết được tâm vi tế. Còn không thì mình đâu biết, mình đâu làm chủ được, mình cứ chạy theo những điều thô ở bên ngoài.

Giống như mình không đóng cửa thành lại để mình canh cửa, mà mình mở ra, nhưng không có thành trì gì hết nên tên cướp vô chỗ nào đó, thì làm sao mình quan sát. Kêu tôi ngăn chặn không cho cướp vô thành, nhưng khổ nỗi thành có nhiều cửa quá. Bây giờ mình phải đóng bớt cửa đi, chỉ để mấy cửa chính, người nào vô thì ta quan sát người đó, kiểm tra xem có tên trộm, tên cướp nào không. Đó là Niệm luôn hiện tiền, [mình] theo dõi được hết thì không bị.

Niệm cũng là một trong Năm quyền, là một trong Năm lực, là một trong Thất giác chi, và là chi thứ bảy trong Bát thánh đạo. Quý vị thấy quan trọng không? Một trong Năm quyền: Tín, Tấn, Niệm, Định, Huệ. Một trong Năm lực: cũng là Tín, Tấn, Niệm, Định, Huệ. Trong Thất giác chi thì có Niệm giác chi. Và trong Bát Thánh đạo thì có Chánh niệm đứng thứ bảy. Cho nên [Niệm] cực kỳ quan trọng.

Niệm quyền trong khi có sẽ ra sao? (Khi nào mình có Niệm quyền?) Khi nào có Niệm, phụ niệm hồi quang nhớ được, thường nhớ, vẫn nhớ, không lơ đãng, không quên. Niệm quyền tức là niệm lực, Chánh niệm. Có nghĩa mình phải có một loạt dấu hiệu để thấy, dấu hiệu đó là quý vị nhớ được vấn đề liên quan, quý vị quay lại nhìn được, gọi là hồi quan. Quý vị thường nhớ, quý vị vẫn nhớ, quý vị không lơ đãng, quý vị không quên. Rồi khi quý vị có sức mạnh, gọi là niệm lực, và cũng là Chánh niệm. Có những điều đó thì mới có Niệm quyền được.

Bốn ý nghĩa của Tâm sở Niệm:

1. Là trạng thái cách tâm không lơ đãng hay cách nhớ đặng luôn luôn: Tức là trạng thái tâm của mình không lơ đãng, và nhớ được luôn.

2. Phận sự là không mê mờ, quên lãng: điều này rõ ràng.

3. Thành tựu là không cho cảnh xa lìa tâm: Thành tựu là mình không bị lìa khỏi cảnh, tâm mình lúc nào cũng nhớ.

4. Nhân gần nhất là có sự nhắc chắc của Tứ niệm xứ: Nghĩa là điều này thành tựu bên Tứ niệm xứ, quán: Thân, Thọ, Tâm, Pháp.

Cho nên phải tu Tứ niệm xứ để mạnh Tâm sở Niệm. Mình không có Tâm sở Niệm là do tu Tứ niệm xứ yếu, quán Thân cũng không được, quán Tâm cũng không được, quán Thọ cũng không được, quán Pháp cũng không được. Không có những điều đó cho nên hay quên, nếu quý vị có điều đó thì quan trọng.

Phần cuối cùng là 17 yếu tố để phát sanh được Tâm sở Niệm. Bây giờ muốn phát sanh được Tâm sở Niệm thì có 17 yếu tố. [Phần này khá] dài, Thiện Trang cũng [chỉ] trình bày qua, nhưng hết giờ rồi, nên để bữa sau chúng ta sẽ trình bày tiếp điều này. Chứ bây giờ mà [Thiện Trang] giảng hết 17 yếu tố này, thì chắc 20 phút nữa chưa xong, thôi để bữa khác. Chúng ta tạm thời nhớ bao nhiêu đó được rồi.

Thời gian hôm nay hết rồi, Thiện Trang xin dừng ở đây. Bữa nay chúng ta học được hai Tâm sở, nhưng học chưa hết. [Hai] Tâm sở này cực kỳ quan trọng, nhớ là [Tâm sở] Biến hành này quan trọng, phải có Tín và Niệm. Mình phải làm sao đó để có 19 Tâm sở biến hành này. Lúc nào cũng có 19 Tâm sở biến hành này thì coi như mình đi về hướng thiện. Hướng thiện là những tâm thiện được hình thành. Tâm thiện hình thành là có: 24 tâm thiện ở Dục giới, 15 tâm thiện ở Sắc giới, 12 tâm thiện ở Vô Sắc giới, và 40 tâm Siêu thế (tức là tâm hướng đến đắc đạo quả), tất cả đều có.

Cho nên Tâm sở Niệm này là một trong 19 Tâm sở Tịnh hảo Biến hành cực kỳ quan trọng. Mình học những điều trước, là để xét mình, trừ ác. Còn bây giờ mình học là để tăng thiện, nó nằm trong Tứ chánh cần, nên là quan trọng hết. Không học mấy điều này thì mình tu Bát chánh đạo, Thất bồ Đề phần là giả hết, không ăn thua. Tại vì mình không học cái gốc. Mình nói vậy thôi chứ mình không theo kịp cảnh. Cho nên phải học A Tỳ Đàm, Luận Câu Xá, học những điều này thì mới thành tựu được.

Thời gian hôm nay hết rồi. Mời quý vị chúng ta cùng hồi hướng.

“Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ

Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn

Pháp môn vô lượng thệ nguyện học

Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành”.

“Nguyện đem công đức này

Hướng về khắp tất cả

Đệ tử cùng chúng sanh

Đều trọn thành Phật đạo”.

Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật!

Nam mô A Mi Đà Phật!