TỊNH ĐỘ ĐẠI KINH KHOA CHÚ 2014-2017
(Giảng lần thứ 4)
PHẨM 25: CHÁNH NHÂN VÃNG SANH:
Nhân Chính Của Vãng Sanh
Tập 335
Hòa thượng Thích Tịnh Không chủ giảng.
Giảng tại: Hiệp hội Giáo dục Phật Đà HongKong.
Thời gian: Ngày 18 tháng 5 năm 2016.
Dịch giả: Minh Tâm và Chân Hạnh Ánh.
Giảo chánh: Thích Thiện Trang.
Ban Biên Dịch Hoa Tạng Huyền Môn.
Kính
thưa chư vị Pháp sư, chư vị đồng học, kính mời ngồi. Mời mọi người
cùng tôi quy y Tam Bảo: “A-xà-lê tồn niệm, ngã Đệ tử Diệu Âm, thỉ tùng kim nhật,
nãi chí mạng tồn, quy y Phật-Đà, lưỡng túc trung tôn, quy y Đạt-Ma, ly dục
trung tôn, quy y Tăng-Già, chư chúng trung tôn” (3 lần).
Mời
xem Đại Kinh Khoa Chú: trang thứ 798, trang 798, hàng thứ sáu đếm ngược từ trái
qua, khoa thứ tư này, 忙中念佛 “mang
trung niệm Phật” (niệm Phật trong bận rộn).
Mời xem Kinh văn:
【思惟熟計。欲得度脫。晝夜常念。願欲往生阿彌陀佛清淨佛國。十日十夜。乃至一日一夜。不斷絕者。】 “Tư duy thục kế, dục
đắc độ thoát, trú dạ thường niệm, nguyện
dục vãng sanh A Di Đà Phật thanh tịnh Phật quốc. Thập nhật thập dạ, nãi chí nhất nhật nhất dạ, bất đoạn
tuyệt giả.” (Suy xét kỹ càng chín chắn, mong được độ
thoát, ngày đêm thường niệm, nguyện mong vãng sanh cõi Phật thanh tịnh của A Di
Đà Phật. Mười ngày mười đêm, cho đến một ngày một đêm, tuyệt không gián đoạn).
Đây là đoạn nhỏ thứ tư 忙中念佛 “mang trung niệm Phật” (niệm Phật trong bận
rộn). Chúng ta xem Chú Giải của Niệm lão, 此下明忙裡偷閑,精進念佛 “thử
hạ minh mang lý thâu nhàn, tinh tấn niệm Phật” (tiếp theo đây nói rõ
tranh thủ trong bận rộn, tinh tấn niệm Phật). Câu nói này rất quan
trọng, tuy là tranh thủ trong sự bận rộn, nhưng họ tinh tấn. Tinh tấn thế nào? 『十日十夜』“Thập nhật thập dạ” (Mười ngày mười
đêm) không gián đoạn, hoặc là『一日一夜』“nhất nhật nhất dạ” (một ngày một đêm) không gián đoạn, 24
giờ, đó cũng là tinh tấn. 24 giờ ấy, buông xuống tất cả Vọng tưởng Tạp niệm
Phân biệt Chấp trước, một câu Phật hiệu, truy đảnh niệm Phật, cũng chính là câu
sau nối tiếp câu trước: A Di Đà Phật, A Di Đà Phật, A Di Đà Phật, A Di Đà Phật.
Nối tiếp như vậy không gián đoạn『不斷絕者』“bất đoạn tuyệt giả” (tuyệt không gián đoạn), đó là tinh tấn niệm
Phật, truy đảnh niệm Phật. 『思惟熟計』“Tư duy thục kế” (Suy xét kỹ càng
chín chắn), 思惟 “tư
duy” là nghĩ A Di Đà Phật; Niệm A Di Đà Phật, nghĩ A Di Đà Phật, không thể có
Tạp niệm, không thể có Vọng tưởng, không thể có Phân biệt Chấp trước, vậy thì
được rồi. Cho nên nhất tâm nhất ý cầu Phật tiếp dẫn, vãng sanh Thế giới Cực Lạc.
Suy xét kĩ càng chín chắn, chữ ‘thục’, đủ thấy được họ thường xuyên nghĩ, họ
nghĩ điều gì? Chính là nghĩ đến sớm một ngày vãng sanh Thế giới Cực Lạc, là
nghĩ việc này. 『欲得度脫』“Dục đắc độ thoát” (Mong được độ thoát), 即深思熟計,欲脫生死也 “tức thâm tư thục kế, dục thoát sanh tử dã” (tức suy nghĩ kỹ
càng, mong thoát sanh tử), thoát khỏi sáu đường luân hồi. 『願欲往生』“Nguyện dục vãng sanh” (Nguyện mong vãng
sanh), 捨穢求淨 “xả
uế cầu tịnh” (bỏ uế cầu tịnh), mong muốn vãng sanh đến Thế giới Tây Phương Cực
Lạc, “uế” là sáu đường luân hồi, chúng ta buông xuống sáu đường luân hồi, không
vui chơi trong sáu đường thêm nữa, sáu đường quá khổ rồi, Tây Phương Tịnh Độ tốt,
niệm niệm đều muốn cầu sanh Tịnh Độ, việc này tốt, phải tập thành thói quen như
vậy, thì được rồi. Mong thoát sanh tử, mong muốn vãng sanh, xả uế cầu tịnh, 以一切功德,迴向往生也 “Dĩ nhất thiết công đức, hồi hướng vãng sanh
dã.” (Đem tất cả công đức, hồi hướng vãng sanh).『晝夜常念阿彌陀佛清淨佛國』“Trú dạ thường niệm A Di Đà Phật thanh tịnh Phật
quốc” (Ngày đêm thường niệm cõi Phật thanh tịnh của A Di Đà Phật), 乃憶佛念佛往生正行也 “nãi ức Phật niệm Phật vãng sanh chánh hạnh dã” (chính là nhớ Phật niệm
Phật [là] chánh hạnh của vãng sanh). Đây [là] nhân thật sự của vãng sanh, chánh hạnh
của vãng sanh, hạnh là hành động, là hành vi, loại hành động này: là hành động
vãng sanh Thế giới Cực Lạc. Thời gian bao lâu? 相續十日十夜 “Tương tục thập nhật thập dạ” (Liên tục mười ngày
mười đêm), chúng ta thông thường nói là Phật thất tinh tấn, Phật thất tinh tấn là
bảy ngày, bảy ngày bảy đêm, ở đây là mười ngày mười đêm, bình thường rất ít niệm
Phật, thông thường vào lúc nào? Kỳ nghỉ, kỳ nghỉ ngày tết, kỳ nghỉ có thể có 10
ngày, thì đừng làm việc khác, chuyên chỉ làm sự việc này, vậy thì đúng rồi; 一般行人所需之功行也 “Nhất ban hành nhân sở nhu chi công hạnh dã” (Công hạnh mà người
tu hành thông thường cần [có]), vãng sanh nhất định phải có đủ công phu hành động.
一日一夜,乃多善根者所需之功行也 “Nhất
nhật nhất dạ, nãi đa thiện căn giả sở nhu chi công hạnh dã” (Một ngày một đêm, là
công hạnh mà người nhiều thiện căn cần), một ngày một đêm, điều
kiện là phải nhiều thiện căn. Thế nào gọi là thiện căn? Có thể sanh trưởng tất
cả thiện pháp gọi là thiện căn, có ba loại: không tham, không sân, không si, gọi
là ba thiện căn.
Phải luyện việc đó ngay trong cuộc sống hàng
ngày, sáu căn tiếp xúc với cảnh giới sáu trần: chính là nơi tu hành của chúng
ta. Tu ở chỗ nào? Mắt thấy sắc, thấy sắc không bị sắc quấy nhiễu, không bị sắc
(sắc tướng) dao động, nói cách khác, thấy sắc thấy được vô cùng rõ ràng, vô
cùng sáng tỏ, không có khởi tâm động niệm. Đó là Phật, người thông thường không
làm được không khởi tâm không động niệm; Bồ-tát khởi tâm động niệm, không Phân
biệt không Chấp trước, có khởi tâm động niệm, không có Phân biệt Chấp trước, đó
là Bồ-tát; Xuống một cấp nữa, vẫn có Phân biệt, mà không có Chấp trước, đó là
A-la-hán. Mắt đối với sắc trần, đây là chân tu; Tai đối với âm thanh, nghe được
vô cùng rõ ràng, vô cùng sáng tỏ; Công phu rốt ráo viên mãn là không khởi tâm động
niệm. Tam hiền Bồ-tát không có Phân biệt Chấp trước; A-la-hán còn có Phân biệt,
mà không có Chấp trước. Nói cách khác, sáu căn đối với cảnh giới sáu trần, có
khởi tâm động niệm Phân biệt Chấp trước, đó là phàm phu sáu đường, bao gồm ba
đường thiện, trong ba đường thiện có 28 tầng trời, đều không ngoại lệ, thấy sắc
nghe tiếng tất cả có Phân biệt, có Chấp trước. Nếu ý niệm này là ác niệm, không
phải ý niệm thiện, thì quả báo ở địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh. Địa ngục, ngạ quỷ,
súc sanh là tham sân si, chính là gốc rễ của bất thiện. Thiện căn là không
tham, không sân, không si, đây là ba thiện căn. Buông xuống, buông xuống điều
gì? Là buông xuống điều này.
Tu hành Phật pháp coi trọng
thực chất không coi trọng hình thức, hình thức không liên quan gì, không động
tâm, thật công phu. Không động niệm, không khởi tâm không động niệm, mắt tu
trên sắc trần, tai tu trên thanh trần, mũi tu trên hương trần, lưỡi tu trên vị
trần (chua ngọt đắng cay mặn, trên vị trần), thân tu trên xúc trần, ý tu trên
pháp trần. Khởi tâm động niệm. Có thể không khởi tâm động niệm hay không? Có thể,
nhưng không thể Phân biệt Chấp trước, không thể được. Thật công phu! Đặc biệt
là Thiền tông, công phu của Thiền tông, là lìa tất cả tướng, ngay tất cả pháp.
Lìa tất cả tướng, chính là mắt lìa sắc tướng vừa mới nói, họ không phải lìa, lợi
hại hơn lìa, căn bản họ không khởi tâm động niệm. Vậy thật lìa rồi, đó không phải
giả. Chư Phật Như Lai, còn có người đại triệt đại ngộ, minh Tâm kiến Tánh, đều
có thể đạt đến cảnh giới ấy. Đạt đến cảnh giới ấy, chúng ta thường xưng các
ngài là Pháp thân Bồ-tát, Hoa Nghiêm Viên giáo từ Sơ trụ trở lên, Biệt giáo là
Sơ địa trở lên mới có thể làm được. Bậc dưới Sơ địa: Thập trụ, Thập hạnh, Thập
hồi hướng, các ngài chưa đến cảnh giới đó, các ngài có khởi tâm động niệm, mà
không có Phân biệt Chấp trước, cũng rất tuyệt vời. Những bậc ấy đều là vĩnh viễn
thoát khỏi luân hồi rồi, bao gồm A-la-hán. A-la-hán có khởi tâm động niệm, có
Phân biệt, mà không Chấp trước.
Phàm phu chúng ta Chấp trước
quá nghiêm trọng, do đó Phật dạy chúng ta buông xuống. Buông không được làm sao
đây? Buông không được thì nhìn thấu trước. Ý nghĩa của nhìn thấu, là hiểu rõ
chân tướng sự thật trước. Chân tướng sự thật là gì? Là giả, không phải thật. 凡所有相皆是虛妄 “Phàm
sở hữu tướng giai thị hư vọng” (Những gì có tướng đều là hư vọng), chúng ta
biết niệm kinh văn ấy, nhưng chúng ta biết là giả hay không? Không biết. Phật
nói với chúng ta như vậy, chúng ta có hiểu hay không? Không hiểu. Ngày nay nhà
Cơ học lượng tử: chúng tôi đã đọc báo cáo của họ làm, đối với dạng người căn
tánh chúng ta đây: có sự giúp đỡ rất lớn. Chúng ta sáng tỏ được: câu nói này của
Phật là ý nghĩa gì. Những gì có tướng đều là hư vọng, tướng đó là hiện tượng vật
chất, hiện tượng tâm lý (hiện tượng tâm lý là ý niệm), hiện tượng tự nhiên (hiện
tượng đại tự nhiên), từ đâu đến? Toàn bộ đến từ trong: khởi tâm động niệm Phân
biệt Chấp trước của chính chúng ta, đã được các nhà Cơ học lượng tử phát hiện rồi.
Phát hiện như thế nào? Phương pháp họ dùng: và điều Phật nói trên kinh trùng hợp
ngẫu nhiên, cũng chính là hoàn toàn tương đồng với điều Phật nói, là phân tích
hiện tượng vật chất, chia đến sau cùng không còn nữa, mới bỗng nhiên đại ngộ.
Dùng thứ nào để phân tích? Khoa học 80 năm trước phát hiện nguyên tử, cho rằng
nguyên tử là: hiện tượng vật chất nhỏ nhất trên thế giới, tất cả hiện tượng vật
chất đều là do nguyên tử tạo thành. Về sau Khoa học kỹ thuật không ngừng tiến bộ,
thiết bị mới nhất có thể phá vỡ nguyên tử, sau khi phá vỡ, xem thử bên trong đó
còn có những vật gì, phát hiện bên trong có hạt nhân nguyên tử, có electron, có
nơ-tron. Nguyên tử khác nhau, vậy thì những electron và nơ-tron mà nó mang:
khác nhau nhiều hay ít, do đó nguyên tử thì rất nhiều loại. Loại nhỏ nhất đó, lại
đem phá vỡ tiếp, phát hiện hạt sơ cấp, những thứ đó là do hạt sơ cấp hợp thành.
Hạt sơ cấp còn có thể phá vỡ, phát hiện neutrino. Phá vỡ tiếp neutrino, thì hết
rồi. Vậy mới biết thứ nào là vật chất nhỏ nhất, neutrino là vật chất nhỏ nhất.
Neutrino lớn bao nhiêu?
Nhà Khoa học nói với chúng ta, sau khi phá vỡ một neutrino ra, thì không còn nữa,
neutrino là do bao nhiêu hạt sơ cấp hợp thành, nói cho chúng ta biết là 10 tỉ hạt
sơ cấp: hợp thành một neutrino. Phá vỡ neutrino ra, thì hết rồi, vậy neutrino hợp
thành thế nào? Thì ra là ý niệm. Không còn vật chất nữa, nhìn thấy hiện tượng
sóng của ý niệm. Bây giờ mới hoàn toàn hiểu rõ, hiện tượng vật chất là do sóng
của ý niệm mà sanh ra. Tần suất của sóng đó cao bao nhiêu? Chúng ta ngày nay
nói một giây, một giây nó chấn động bao nhiêu lần? Sóng ấy chính là sanh diệt,
niệm trước diệt niệm sau sanh, ý niệm ấy, niệm sau tiếp nối niệm trước, một niệm
tiếp tục một niệm, nó không gián đoạn. Một giây có bao nhiêu? Ở trên kinh Phật
nói với chúng ta, đức Phật Thích Ca Mâu Ni có một lần, ở cùng với Bồ-tát Di Lặc,
Phật hỏi ngài Di Lặc, 心有所念 “tâm
hữu sở niệm”(ý niệm có bởi tâm), với phàm phu, tâm
chúng ta có ý niệm, chúng ta rất rõ ràng, chúng ta vừa mới đang nghĩ gì, ý niệm
này: là do mấy ý niệm vi tế hợp thành? Là có mấy hiện tượng vật chất? Còn có mấy
hiện tượng ý thức? Câu hỏi của Phật là: 心有所念,幾念幾相識耶? “Tâm hữu sở niệm, kỷ niệm kỷ tướng thức da?” (Ý
niệm có bởi tâm, có mấy niệm mấy tướng thức?) Phật đã hỏi ba vấn đề,
mấy hiện tượng sóng ý niệm? Có mấy hiện tượng vật chất được sinh ra? Có mấy hiện
tượng tinh thần được sinh ra? Phật đã hỏi ba điều. Bồ-tát Di Lặc trả lời, chúng
ta chuyển đổi ra, Bồ-tát Di Lặc nói gảy ngón tay, trong khoảng gảy ngón tay đó,
có 32 ức trăm ngàn niệm. Đơn vị là trăm ngàn niệm, một trăm của ngàn là mười vạn,
32 ức nhân với trăm ngàn, con số có được là 320 ngàn tỷ. Một gảy ngón tay, một
gảy ngón tay có 320 ngàn tỷ, chúng ta gảy ngón tay, một giây có thể gảy mấy lần?
Có người nói với tôi, một giây có thể búng 7 lần. Đại khái tôi búng 4 lần, tôi
tin rằng, người trẻ thể lực rất mạnh, búng được rất nhanh, một giây búng 7 lần.
Bảy lần nhân với 320 ngàn tỷ, bằng 2 triệu 240 ngàn tỷ. Đó là một giây. Một
giây có bao nhiêu ý niệm? Có 2 triệu 240 ngàn tỷ ý niệm. Trong mỗi một ý niệm:
đều có sanh diệt của hiện tượng vật chất, 2 triệu 240 ngàn tỷ lần, chúng ta
không có cách nào biết, đã ở hiện tiền, vĩnh viễn không dứt, vô thủy kiếp đến
nay đến vô thủy kiếp về sau, sẽ không gián đoạn, là hiện tượng như vậy. Do đó đức
Phật nói phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng, căn bản không có, chỉ là ảo tướng
do sóng sinh ra, chúng ta lầm tưởng là thật. Khoa học 20 năm gần đây, mới phơi
bày chân tướng đó, mà đức Phật Thích Ca Mâu Ni lại từ 3000 năm trước, đã nói rõ
ràng, nói sáng tỏ sự việc đó rồi.
Làm sao Ngài biết được? Nhà Khoa học hiện tại
nghiên cứu vấn đề này, làm thế nào mà đức Phật biết. Khoa học mới ngày nay, rất
nhiều nhà Khoa học trẻ tuổi: đều đang thăm dò ý niệm. Vật chất là do ý niệm biến
ra, ý niệm do từ đâu ra? Đây là việc khó thứ hai. Đức Phật đều có giải đáp, đức
Phật nói với chúng ta, vật chất là do ý niệm biến ra, ý niệm là do vọng tâm biến
ra, chúng ta thì nói do tâm biến. Tâm đó trong Phật pháp: là nói Tự Tánh, nói
Chân Tâm, người Trung Hoa xưa nói bổn Tánh, 人之初,性本善 “nhân
chi sơ, Tánh bổn thiện” (người thuở đầu, Tánh vốn thiện), “bổn thiện” đó, chữ
“thiện” đó không phải thiện trong thiện ác, “thiện” là từ ca ngợi, từ ấy đã rất
viên mãn. Chúng ta đọc Lục tổ Đàn Kinh, Lục tổ Đại sư Huệ Năng sau khi đại triệt
đại ngộ, đã nói năm câu: Câu thứ nhất nói 何期自性,本自清淨 “Hà
kỳ Tự Tánh, bổn tự thanh tịnh” (Nào ngờ Tự Tánh, vốn tự thanh tịnh), chưa từng ô nhiễm,
là thanh tịnh; Câu thứ hai nói 本不生滅 “bổn
bất sanh diệt” (vốn không sanh diệt), ý niệm có sanh diệt, vật chất có sanh diệt, nhưng
Tự Tánh không có sanh diệt; Câu thứ ba 本自具足 “bổn
tự cụ túc”(vốn tự đầy đủ), trong Tự Tánh có vô lượng trí huệ, có vô lượng
công đức, vô lượng tài nghệ, vô lượng tướng hảo, không phải đến từ bên ngoài,
bên ngoài không có những thứ đó, mà đều là Bổn Tánh chính mình đầy đủ. Cho nên
chỉ cần chư vị khai ngộ, chư vị minh Tâm kiến Tánh, thì những thứ này tự nhiên
xuất hiện thôi. Có cần phải học không? Không thể học, điều do chư vị học được
toàn là giả, điều do Tự Tánh lưu xuất ra là thật, trí huệ chân thật. Cho nên đức
Phật đối với tình hình này, nhà Khoa học đã mất thời gian 400 năm, người sau tiếp
nối người trước, từng thời một nghiên cứu thảo luận, ngày nay đã phát hiện ra vật
chất, làm sáng tỏ vật chất cuối cùng là gì rồi. Đức Phật cần hay không? Đức Phật
không cần, chỉ cần minh Tâm kiến Tánh thì biết thôi. Vốn đã biết, đây gọi là
trí huệ. Cho nên câu thứ ba khi Đại sư Huệ Năng khai ngộ, 本自具足 “bổn tự cụ túc” (vốn tự đầy đủ). Câu thứ tư 本無動搖 “bổn vô động dao” (vốn không dao động), vốn không dao động
là gì? Là Thiền định. Tự Tánh vốn định, Tự Tánh chưa từng động, chưa từng lay
chuyển, vì vậy Tự Tánh vốn định. Nếu chúng ta muốn kiến Tánh, thì dùng phương
pháp gì? Tu định, bởi vì Tự Tánh vốn không dao động, Tự Tánh chính là bản thể của
đại định. Chúng ta tu định thì tương ưng với Tự Tánh, định đến một trình độ nhất
định, thì bỗng nhiên đại ngộ, hoàn toàn sáng tỏ rồi, là sự việc như vậy, đó là
thành Phật rồi. Thành Phật chính là đều hiểu rõ vạn sự vạn vật: trong toàn vũ
trụ thuộc quá khứ, hiện tại, vị lai, đó là trí huệ. Không phải do đến từ ngoài,
bên ngoài không có.
Tiểu định khai tiểu trí huệ,
đại định khai đại trí huệ, đại định viên mãn rốt ráo, thì không có điều gì
không biết, không thầy tự thông. Trí huệ của đức Phật Thích Ca Mâu Ni từ đâu mà
đến? Sau khi Ngài khai ngộ thì giảng kinh dạy học, 79 tuổi qua đời, giảng kinh
dạy học 49 năm, giảng nhiều kinh luận như vậy, là do ai dạy Ngài? Ngài học với
ai vậy? Đúng, không sai. Ngài 19 tuổi xuất gia đi cầu học khắp nơi, Người trẻ
tuổi vô cùng hiếu học ấy, với tất cả Tôn giáo của Ấn Độ, tất cả học phái, ngày
nay nói là học phái Triết học, Ngài đều tiếp xúc qua, thế nhưng những học phái ấy:
không liên quan đến kinh mà cả đời Ngài giảng. Thế thì chúng ta đã hiểu được,
19 tuổi rời xa nhà là buông xuống Phiền não chướng, sự việc phiền não của gia
đình nhiều; 30 tuổi buông xuống việc cầu học, không đi tham học thêm nữa, là buông
xuống Sở tri chướng. Tại sao vậy? Bởi những điều mỗi Tôn giáo đã nói, điều các
nhà Triết học đã nói, đều không giải quyết được vấn đề, không phải thật sự. Do
đó buông xuống, sau khi buông xuống thì tu định, dưới cây Bồ-đề, đêm thấy sao
sáng, khoát nhiên đại ngộ. Tu định là gì? Chính là buông xuống tất cả: vọng tưởng
tạp niệm, Phân biệt Chấp trước. Đều buông xuống thì như thế nào? Tự Tánh vốn định,
vốn không dao động, Tự Tánh bất động, không lay chuyển nữa, lúc này khoát nhiên
khai ngộ. Sau khi ngộ rồi, ngày hôm sau ở vườn Lộc Dã, với năm người tùy tùng,
phụ thân của Ngài đã phái năm người theo Ngài, tìm năm người đó trở về, chính
là năm Tỳ-kheo, giảng kinh thuyết pháp cho họ, năm người đó đã khai ngộ rồi. Ngộ
đó là tiểu ngộ, là A-la-hán.
Người Trung Hoa chúng ta
thường nói, 讀書千遍,其義自見。“độc thư thiên biến, kỳ nghĩa
tự kiến” (đọc sách ngàn lần, tự thấy nghĩa của sách). Tôi không biết quyển
sách đó, không hiểu được ý nghĩa, cũng không sao, chư vị chỉ biết đọc nhiều, đừng
đọc sai chữ, đừng đọc sót mất, đọc lên đến 1000 lần, thì tự nhiên sáng tỏ ý
nghĩa rồi, đó chính là tự thấy. Đó là gì? Tiểu ngộ. Tiếp tục đọc thêm 1000 lần,
1000 lần thứ hai, là đại ngộ. 1000 lần thứ ba, là đại triệt đại ngộ. Trước hết
phải biết, trong kinh có ý nghĩa hay không? Không có ý nghĩa, đừng cầu nghĩa của
kinh. Cầu nghĩa kinh là gì? Là tâm chư vị không định, trong tâm chư vị có ý niệm,
ý niệm này phá hỏng định công của chư vị rồi. Nhất định phải biết không có ý
nghĩa, tại sao không có ý nghĩa? Bởi vô lượng nghĩa, sau khi chư vị khai ngộ
chính là vô lượng nghĩa. Mỗi bộ kinh đều như vậy, thông một kinh thì thông tất
cả kinh, phải sáng tỏ đạo lý này. Đây là gì? Đây là Tự Tánh. Hiện tướng trong Tự
Tánh chúng ta, trong A-lại-da nói Tam tế tướng, Nghiệp tướng: (Nghiệp tướng là
khởi tâm động niệm, Nghiệp tướng), Chuyển tướng (chuyển tướng là ý niệm, là
Phân biệt Chấp trước), Cảnh giới tướng: (Cảnh giới tướng là hoàn cảnh sinh sống
hiện tiền của chúng ta, Cảnh giới tướng), đều là do từ vọng niệm sanh ra, không
phải thật, thật thì không có tướng. Tự Tánh không có tướng, nhưng có thể hiện
tướng, tuy hiện tướng, mà không trở ngại sự thanh tịnh của Tự Tánh, chính là
năm câu nói của Đại sư Huệ Năng, không có trở ngại. Hiện tướng trong không đó,
cũng không trở ngại Vô tướng của Tự Tánh. Giống như ngày nay chúng ta xem ti vi,
Tự Tánh là gì? Tự Tánh là màn hình, mở màn hình lên, là một khối ánh sáng, bên
trong chẳng có thứ gì. Năng biến là gì? Giống như chúng ta ấn nút mở kênh, ấn
vào nút mở kênh, thì tướng hiện tiền, ảo tướng, giả tướng, giả tướng đó là có
sanh có diệt, sát-na sanh diệt. Nó có phá hỏng hiện tướng của màn hình hay
không? Không phá hỏng, màn hình cũng không trở ngại chúng hiện tướng, đôi bên
không cản trở nhau. Thế thì Tự Tánh của chúng ta ở nơi nào? Tự Tánh khắp tất cả
chỗ, Tự Tánh khắp tất cả thời gian, chúng ta không rời xa Tự Tánh, rời khỏi Tự
Tánh, thì không có tướng đó nữa, tướng ấy theo đó mà khởi lên, nương vào Tự
Tánh mà biến hiện ra, không có Tự Tánh thì không hiện ra. Cũng giống như ti vi
chúng ta, kênh của chúng ta: nhất định phải hiển thị trên màn hình, không có
màn hình thì tướng không hiện ra được, cùng một đạo lý. Đây là Khoa học được
nói trong kinh Phật.
Lúc tôi bắt đầu học Phật,
học Triết học với thầy Phương Đông Mỹ, thầy Phương nói với tôi, Triết học kinh
Phật: là đỉnh cao nhất của Triết học toàn thế giới. Chúng tôi đã học 65 năm. 65
năm, hôm nay sáng tỏ rồi, trong Phật giáo, không những là đỉnh cao nhất của Triết
học, đồng thời cũng là đỉnh cao nhất của Khoa học. Phật đã từng nói trên kinh,
Tam tế tướng của A-lại-da, dùng Ý thức, Ý thức thứ sáu có thể duyên đến được,
nhưng không duyên đến Tự Tánh. Tự Tánh là thật, Ý thức thứ sáu là Vọng Tâm. Tam
tế tướng của A-lại-da là vọng cảnh, là cảnh giới hư vọng, không phải thật. Nguyên
do Vọng Tâm có thể duyên đến vọng cảnh, chứ không duyên đến Chân Tâm, không
duyên đến chân, còn vọng thì đều có thể duyên đến. Chúng ta liền có lý do tin
tưởng, những nhà Khoa học của thời nay, họ vẫn còn thứ để phát hiện, đó chính
là ý niệm là gì, ý niệm từ đâu mà đến, đây là Tam tế tướng của A-lại-da, họ có
thể phát hiện. Ba hiện tượng của A-lại-da, chính là huyền bí của vũ trụ, thứ nhất
là vật chất, họ đã sáng tỏ rồi, là giả, không phải là thật; Hiện tại nghiên cứu
điều thứ hai là ý niệm, niệm lực. Chúng tôi nhìn thấy sách trong nhà sách có
bán, rất nhiều báo cáo nghiên cứu niệm lực, có hơn mấy chục loại. Hiện tại vẫn
chưa làm rõ ràng, vẫn cần phải 20-30 năm, tôi tin rằng: họ có thể giảng rõ
ràng, giảng sáng tỏ điều đó. Có sự trợ giúp rất lớn đối với tu học Đại thừa,
giúp đỡ điều gì? Giúp chúng ta buông xuống. Chỉ cần chịu buông xuống thì có cơ
hội kiến Tánh, tại sao vậy? Bởi việc không buông xuống được quấy nhiễu chúng ta
tu định, chúng ta không cách gì quay trở về Tự Tánh vốn định, chính là vốn
không dao động, chúng ta không trở về được, không biết thứ quấy nhiễu này là giả,
cho rằng là thật, biết là giả thì không đặt trong tâm rồi. Vì vậy trong Phật
giáo có Khoa học.
Tịnh tông chúng ta nếu hỏi, Tịnh Độ có tướng,
thật có Thế giới Cực Lạc, Thế giới Cực Lạc giống kiểu nào? Giống như thế giới
chúng ta vậy. Chư vị thừa nhận: thế giới này của chúng ta là thật không? Thừa
nhận, vậy Thế giới Cực Lạc là thật, tướng của Thế giới Cực Lạc giống như chúng
ta đây. Thế nhưng không giống, không giống là ở điểm nào? Thọ mạng của người thế
giới chúng ta đây rất ngắn, có sanh có diệt, thọ mạng người ở Thế giới Cực Lạc
rất dài, không sanh không diệt; Thực vật nơi này của chúng ta, bốn mùa xuân hạ
thu đông không giống nhau, xuân sanh ra, hạ lớn lên, thu thâu hoạch, đông cất
chứa, có bốn mùa thay đổi; Thế giới Cực Lạc không có thay đổi, bốn mùa thường
xuân. Tại sao vậy? Bởi nơi đó chỉ có tâm hiện, không có thức biến. Nơi này của
chúng ta có tâm hiện, thêm vào thức biến nữa, biến chính là A-lại-da. Vãng sanh
đến Thế giới Cực Lạc: mỗi người đều chuyển thức thành trí, chính là chuyển A-lại-da
thành Đại Viên Cảnh trí, chuyển Mạt-na thành Bình Đẳng Tánh trí, chuyển Ý thức
thứ sáu thành Diệu Quán Sát trí, chuyển năm thức trước thành Thành Sở Tác trí,
đều chuyển tám thức thành bốn trí. Cho nên đó là một thế giới hiếm có, viên mãn
vô cùng. Tướng có phải vọng hay không? Là vọng, tướng vọng đó chẳng hề trở ngại
Tự Tánh, không trở ngại Chân Tâm, Chân Tâm không trở ngại tướng vọng đó xuất hiện,
không có quấy nhiễu. Không có Vọng Tâm, mà dùng Chân Tâm, đạo lý ở chỗ ấy.
Do đó tu hành, bao nhiêu
năm nay chúng ta cũng ngộ ra một đạo lý, đó chính là phải dùng Chân Tâm, không
thể dùng Vọng Tâm. Chân Tâm là gì? Chân Tâm của Tịnh Độ tông, chính là một câu
A Di Đà Phật, trong tâm chỉ có A Di Đà Phật, ngoài A Di Đà Phật ra, thì không
có ý niệm nào. Tại sao chúng ta phải niệm Phật? Bởi nếu chúng ta không dùng:
Phương pháp niệm A Di Đà Phật này, thì phải tu đến hoàn toàn không sanh ý niệm
nữa, trở về Tự Tánh, vậy quá khó, không làm được, đạo lý ở ngay chỗ này. Thật sự
không cầu Tây Phương Tịnh Độ, chính mình ở nơi đây quay về Tự Tánh, thì giống
như Đại sư Huệ Năng, trong 1000 năm khó có được mấy người, thật không dễ dàng!
Làm sao những bậc đó có thể tu thành? Bởi đã tu vô lượng kiếp trong đời quá khứ,
đời này lại gặp được duyên, lại tiếp tục làm, thì khoát nhiên đại ngộ; Không có
công hạnh của vô lượng kiếp quá khứ, thì họ không làm được. Chính chúng ta hiểu
rõ, phiền não tập khí chúng ta rất nặng, chúng ta không buông xuống. Một lần đến
như vậy, chúng ta học Phật pháp Đại Tiểu thừa mấy chục năm, thời gian quá ngắn,
không thể nào có thành tựu, bởi không buông xuống, nguyên nhân ở chỗ này, đạo
lý ở chỗ này. Vì thế ngày nay chúng ta, may mắn gặp được Pháp môn Tịnh Độ, gặp
được A Di Đà Phật, thì chúng ta được cứu rồi, ngay trong đời này nhất định vãng
sanh Thế giới Cực Lạc, vãng sanh đến Thế giới Cực Lạc làm gì? Nhất định ở bên
đó thành Phật. Ở bên đó thì dễ dàng rồi, cho dù vô lượng kiếp, cũng không lưu
tâm, tại sao vậy? Bởi thọ mạng dài, vô lượng thọ. Cho nên vãng sanh Thế giới Cực
Lạc, giống như chư vị đã thành Phật rồi, tuy không phải thật sự thành Phật, mà
bằng với thành Phật, đến trí huệ, thần thông, đạo lực (trí huệ đức năng) hầu
như đều tương đồng với Phật. Việc tương đồng ấy không phải do tự chúng ta tu,
mà là do A Di Đà Phật gia trì. Cho nên mỗi người vãng sanh, Thế giới Cực Lạc là
có đẳng cấp, bốn độ ba bậc chín phẩm, nơi ấy có đẳng cấp, tuy có đẳng cấp,
nhưng đãi ngộ ở đó bình đẳng, thật khó có được điều ấy! Chúng ta ở đây đối đãi
không bình đẳng, thí như nói người trời, đãi ngộ tốt hơn chúng ta nhiều lắm,
người chúng ta không sánh kịp với trên trời. Súc sanh không sánh kịp với người,
đường quỷ không sánh kịp với súc sanh, đường địa ngục tội nghiệp nhất, nếm đủ
đau khổ, không có một phút một giây nào để chư vị an lạc, là không bình đẳng.
Thế giới Tây Phương Cực Lạc bình đẳng, trên kinh nói, mỗi một người vãng sanh
Thế giới Cực Lạc: đều làm A-duy-việt-trí Bồ-tát. A-duy-việt-trí chính là bình đẳng,
tiêu chuẩn của ai? Tiêu chuẩn của Pháp thân Bồ-tát, là tiêu chuẩn cao nhất, hầu
như tương đồng với tiêu chuẩn của Phật, thật hiếm có được. Tại sao lại tu Pháp
môn này? Nguyên nhân chính ở chỗ ấy, hơn nữa chúng ta tu, chúng ta có phần nắm
chắc vãng sanh.
Chiếu theo nhân tu đó, chư
vị xem chỗ này, cả đời chỉ có mười ngày mười đêm, chỉ có một lần như vậy, một lần
đã thành tựu. Tiếp theo, một ngày một đêm, đó là gì? Đó là cả đời đều không gặp
được duyên phận, lúc mạng sắp hết mới gặp được duyên phận. Một ngày một đêm thì
họ vãng sanh, họ liền đi rồi, được hay không? Được. Điều kiện vãng sanh, điều
thứ nhất thật sự tin tưởng, không có nghi ngờ; Điều thứ hai thật sự muốn đi,
không có lưu luyến đối với thế giới này, không có lưu luyến đối với thân thể
này; Điều thứ ba, thật sự chịu niệm câu Phật hiệu A Di Đà Phật này, chư vị xem
niệm một ngày một đêm thì thành tựu rồi. Có thật không? Thật sự. Nhìn thấy hay
chưa? Nhìn thấy rồi. Đầu năm ngoái, cha của Tổng giám đốc Tạ ở Triều Châu vãng
sanh, những năm gần đây ông ấy đã làm rất nhiều việc tốt, công đức vô lượng,
gia trì cho cha ông ấy. Cha ông ấy cả đời không niệm Phật, khuyên cha niệm Phật,
cha lắc đầu, các con niệm được rồi, cha không niệm. Lúc sắp mạng chung, một giờ
sau cùng, hơn một giờ trước khi tắt thở, ông ấy khuyên cha ông, nói với cha ông
rằng: Thế giới Tây Phương Cực Lạc có thật, cha có tin hay không? Cha ông ấy gật
đầu, ông liền hoan hỷ, cha đã tin tưởng; Thế giới Cực Lạc có A Di Đà Phật, cha
có tin hay không? Cũng gật đầu. Ông nói: Bây giờ con niệm A Di Đà Phật, cha niệm
theo con. Niệm hơn một giờ thì vãng sanh rồi. Đó là chứng minh một ngày một
đêm. Cha ông thật vãng sanh, tướng lành hiếm có, có người nhìn thấy hoa sen, có
người nhìn thấy Phật quang, ông đến nói với tôi, đại khái còn quay phim kỉ niệm.
Ngày hôm đó tham gia đưa tiễn vãng sanh, có hơn ngàn người, mọi người đều nhìn
thấy cả.
乃至一日夜能不斷絕 “Nãi
chí nhất nhật dạ năng bất đoạn tuyệt” (Ngay cả một ngày đêm
có thể không gián đoạn), chúng ta làm được điều này. Do đó tôi khuyên họ, nếu
công việc rất bận, họ phải kiếm kế sinh nhai, họ không có cách nào tu, thì cách
tu thế nào? Nửa năm tu một lần, một năm tu hai lần, một lần một ngày đêm, 24 giờ.
Chư vị ở trong niệm Phật đường nhỏ, chuẩn bị sẵn thức ăn, chuẩn bị sẵn nước, 24
giờ không nghỉ ngơi, không ngủ nghỉ, một câu A Di Đà Phật niệm đến cùng. Sáu
tháng một lần, một năm hai lần; Hoặc là bốn mùa, ba tháng một lần, một năm bốn
lần. Nếu không nữa thì một năm một lần, tìm thời gian một ngày, tu một ngày như
vậy, làm theo phương pháp này. Rất hiệu quả, thật sự buông xuống, không nghĩ tới
ý niệm khác, một ngày đó là thật tinh tấn, thật sự hiệu quả.
Kinh văn tiếp theo là 妙果 “Diệu
quả” (Quả tuyệt diệu).
【壽終皆得往生其國。】 “Thọ chung giai đắc vãng
sanh kỳ quốc.”(Khi thọ mạng
hết đều được vãng sanh cõi đó).
Câu nói này là kinh văn. Mỗi chữ mỗi câu trong kinh
văn, đều do đức Phật Thích Ca Mâu Ni nói. Lão Cư sĩ Hạ Liên Cư hội tập bộ Kinh
này, chúng ta cảm kích nhất: chính là ngài ở trong bộ Kinh này, mỗi chữ, mỗi
câu đều có xuất xứ, không phải tùy tiện viết ra, đều là kinh văn trong năm loại
bản dịch gốc, không thay đổi một chữ nào, không sửa một chữ nào. Lão Hòa thượng
Hải Hiền, chụp hình với bộ Kinh nâng trên tay, thật khó có rồi. Chú Giải nói rằng,
故云壽終皆得往生其國 “Cố
vân thọ chung giai đắc vãng sanh kỳ quốc” (Nên nói tuổi thọ hết
đều được vãng sanh nước đó), đây chính là bao gồm một năm một lần, hoặc là một
đời. Cha của Tổng giám đốc Tạ, cả đời ông chưa từng niệm Phật, cũng không thừa
nhận, một giờ trước khi lâm chung đã tin tưởng, con trai hỏi ông, đã tin tưởng,
con trai dẫn ông niệm Phật, một giờ, thật sự đều vãng sanh Thế giới Cực Lạc, đã
chứng minh cho câu kinh văn này. Hành nhân dạng ấy là thuộc về loại chánh nhân
thứ ba, công đức của họ so với hai dạng phía trước phải kém hơn, không sánh bằng
hai loại phía trước, đây là loại sau cùng. Chúng ta xem thêm kinh văn tiếp
theo:
【行菩薩道諸往生者。皆得阿惟越致。】 “Hành Bồ-tát đạo chư vãng sanh giả. Giai đắc
A-duy-việt-trí.”(hành đạo Bồ-tát, những người vãng sanh: đều đạt được A-duy-việt-trí).
Chư vị xem đã nói ra rồi.
【皆具金色三十二相。皆當作佛。欲於何方佛國作佛。從心所願。隨其精進早晚。求道不休。會當得之。不失其所願也。】 “Giai cụ kim sắc tam thập nhị tướng.
Giai đương tác Phật. Dục ư hà phương Phật quốc tác Phật, tùng tâm sở nguyện,
tùy kỳ tinh tấn tảo vãn. Cầu đạo bất hưu, hội đương đắc chi, bất thất kỳ sở
nguyện dã.”(Đều đầy
đủ 32 tướng tốt thân kim sắc, đều chắc chắn thành Phật. Muốn ở cõi Phật phương
nào làm Phật, thì theo sở nguyện của tâm, theo sự tinh tấn mà thành Phật sớm
hay muộn. Luôn cầu đạo không ngừng nghỉ, sẽ chắc chắn được thành Phật, không mất
đi tâm nguyện đó).
Lời này do đức Phật Thích Ca Mâu Ni nói. Chúng ta phải tin
tưởng, mỗi câu đều là lời thật, câu nào cũng là lời chân thật, do Phật nói. Lời
Phật nói, là lời thật, chúng ta thì gọi đó là kinh. Có người hỏi tôi, trong
kinh sách có cặn bã hay không? Người hiện tại nói loại trừ cặn bã, gạt bỏ cặn
bã, tuyển chọn tinh hoa. Chúng ta có thể trả lời họ thế này: Thật sự là kinh,
thì không có cặn bã. Tại sao vậy? Bởi từ trong Chân Như Tự Tánh lưu xuất ra,
làm sao có thể có cặn bã? Từ trong miệng Bồ-tát lưu xuất ra, có lẽ có. Nếu chư
vị nói có, tôi không tin tưởng. Tại sao vậy? Bởi Bồ-tát đại triệt đại ngộ, minh
tâm kiến tánh, kiểu người giống như Đại sư Huệ Năng, làm sao có thể có cặn bã!
Cặn bã từ nơi nào mà ra? Từ trong Vọng Tâm mà ra, chứ trong Chân Tâm không có.
Cho nên lời của Phật và đại Bồ-tát đã nói, chúng ta tin sâu không nghi, y giáo
phụng hành, người đó có đại phước báo. Gặp mà nghi ngờ, thì không còn công đức
nữa. Gặp được mà không nghi ngờ, hoàn toàn tin tưởng, công đức ấy lớn rồi, tại
sao vậy? Bởi công đức ấy có thể giúp chư vị ở trong đời này, vãng sanh Thế giới
Cực Lạc. Vãng sanh Thế giới Cực Lạc chính là thành Phật, hy hữu khó được. Sự việc
nào ở thế gian là việc lớn? Thành Phật là việc lớn hàng đầu, không thể không biết.
Ngày nay chúng ta cũng gặp
được: duyên phận hy hữu khó được, khiến cho chúng ta nghiêm túc nỗ lực: cứu vãn
Văn hóa truyền thống, đào tạo một nhóm học trò kế thừa Văn hóa truyền thống,
làm thầy dạy Văn hóa truyền thống, phát nguyện đó, cả đời là chuyên dạy Văn hóa
truyền thống. Chúng tôi đã chọn hai bộ sách giáo khoa, bộ thứ nhất, là Quần Thư
Trị Yếu mà Đường Thái Tông hạ lệnh biên soạn, bộ thứ hai là vào những năm đầu
Dân Quốc, Quốc Học Trị Yếu do một số Học giả biên tập. Mục đích của chúng tôi rất
đơn giản, chính là hy vọng có một nhóm học trò, cả đời chuyên đọc hai bộ sách
đó, chuyên giảng hai bộ sách đó, giảng rõ ràng, giảng thấu triệt hai bộ sách
đó, phiên dịch ra văn Bạch thoại, rồi từ văn Bạch thoại phiên dịch ra văn tự nước
ngoài, dịch hết ra văn tự của mỗi một quốc gia trên toàn thế giới, lợi ích
chúng sanh toàn thế giới, khiến cho nhân dân toàn thế giới đều có thể hưởng thụ
được: lợi ích của Văn hóa truyền thống Trung Hoa, là việc tốt! Chính chúng ta
phải phát nguyện, cả đời chỉ làm giáo viên Tiểu học, chỉ làm giáo viên Trung học,
giúp thế hệ tiếp theo làm cắm gốc giáo dục. Cả đời này, buông xuống tất cả công
danh phú quý: mà chư vị đáng được hưởng thụ, chúng ta là làm sự việc này, làm
được vô cùng hoan hỷ, thật sự như lời của Trương Tái đã nói, 為天地立心,為生民立命,為往聖繼絕學,為萬世開太平 “vị
thiên địa lập tâm, vị sanh dân lập mệnh, vị vãng Thánh kế tuyệt học, vị vạn thế
khai thái bình” (vì thiên địa lập tâm, vì nhân dân lập mệnh, vì Thánh xưa mà kế tuyệt học,
vì vạn đời mà khai thái bình), chúng ta làm công việc đó. Duyên này rất khó có,
hy hữu khó gặp. Chúng ta hy vọng có thể có: 30 đến 50 Bồ-tát phát tâm Bồ-đề, là
sự nghiệp Bồ-tát, đây không phải sự nghiệp thông thường, dấn thân vào dạy học.
Có thể đọc thông, đọc sáng tỏ hai bộ sách này, thì chư vị đều không có khó khăn
với trọn bộ Tứ Khố rồi. Bất kỳ bộ sách nào trong Tứ Khố Toàn Thư, chư vị đều có
thể đọc, có thể lý giải. Vì vậy sau khi tốt nghiệp, tôi hy vọng những người đó:
vĩnh viễn có thể ở cùng một chỗ, cùng nhau sinh hoạt, cùng nhau học tập, làm tiếp
một việc lớn. Việc lớn tiếp theo là gì? Quần Thư Trị Yếu của Đường Thái Tông:
chỉ làm có một nửa, sách từ Tam Hoàng Ngũ Đế đến phía trước đời Tấn, là 2500
năm, sáu triều đại Tùy, Đường, Tống, Nguyên, Minh, Thanh tiếp theo đó, thì
không có trong Quần Thư Trị Yếu, có những điều tốt, sáu triều đại đó cũng sinh
ra không ít Thánh Hiền, chư vị mà nhìn bằng nhãn quang Phật pháp, thật sự có
Thánh Hiền xuất hiện, ngay cả có bậc vô sư tự thông, hy vọng họ có thể dùng thời
gian cả đời chính mình, dùng vào việc biên tập Tục biên của Quần Thư Trị Yếu. Tục
biên cũng là 50 quyển, 500 ngàn chữ. Tương lai cả hai thiên Chánh biên và Tục
biên, chính là tinh hoa của Tứ Khố Toàn Thư. Người đời sau chỉ cần đọc 100 quyển
sách đó, thì bằng với đọc được tất cả Tứ Khố Toàn Thư rồi. Công đức đó vô lượng
vô biên, đời của người đó liền có ý nghĩa, có giá trị! Tuổi tác tôi lớn rồi,
không có cách nào tham dự công việc, tôi sẵn sàng làm hộ pháp, tôi trợ giúp bên
cạnh, giúp chư vị tu học, khai ngộ, mở lớp, dạy học, biên tập Tục biên của Trị
Yếu, tôi đến hộ trì mọi người làm công việc này.
Chúng ta xem Chú Giải của
Hoàng Niệm lão, 『行菩薩道』“hành Bồ-tát đạo” (hành đạo Bồ-tát). Tôi vừa mới nói những
người đó đều là hành Bồ-tát đạo, không phải Bồ-tát thì họ không chịu làm. 表諸往生者皆是大乘也 “Biểu chư vãng sanh giả giai thị Đại thừa dã” (Thể hiện những người
vãng sanh đều là Đại thừa), tâm Đại thừa, tấm lòng Bồ-tát. Văn hóa truyền thống
Trung Hoa vô cùng quan trọng, thực sự có thể mang đến cho cá nhân chúng ta, mỗi
một cá nhân, bất kể chư vị là quốc gia nào, dân tộc nào, chư vị tín ngưỡng Tôn
giáo nào đều không liên quan, giúp cá nhân chư vị sống cả đời được hạnh phúc
vui vẻ, chư vị muốn hay không? Loại hạnh phúc vui vẻ này là thật, không phải là
giả, không liên quan đến địa vị của cải. Chư vị xem người xưa đọc sách thường
xuyên nhắc đến, niềm vui của Khổng tử Nhan Hồi. Khổng tử Nhan Hồi là Thánh
nhân, là niềm vui của Phật Bồ-tát, trời người Thần tiên cũng không sánh bằng,
là niềm vui của Phật Bồ-tát, cả đời mỗi người đều được hạnh phúc vui vẻ. Khổng
tử, Mạnh tử, Lão tử, Trang tử, các ngài làm được rồi, chư vị xem đời sống của
các ngài tự nhiên thanh thản biết bao, tự tại biết bao. Vận dụng vào gia đình,
gia đình chư vị hài hòa, gia hòa vạn sự hưng, mang đến cho chư vị gia đình hưng
vượng, mang đến cho chư vị sự nghiệp thành công, mang an định đến cho xã hội,
mang hòa bình đến cho thế giới. Quần Thư Trị Yếu có công năng này, thật sự có
thể giúp chư vị làm được. Ngày nay người nước ngoài học tập quyển sách này,
càng lúc càng nhiều rồi. Trước mắt chúng tôi có tám loại bản dịch, ở phương Tây
có bản dịch tiếng Anh, có bản tiếng Pháp, có bản tiếng Đức, có tiếng Tây Ban
Nha, có tiếng Nga, ở phương Đông có tiếng Nhật, có tiếng Hàn, có tiếng
Malaysia. Chúng tôi hy vọng tương lai toàn thế giới, có bao nhiêu loại văn tự,
tất cả đều dịch ra sách của họ, để mỗi một người đều có thể đọc được.
Chúng ta thường xuyên nghe
thấy có người nói, thế kỷ 21 là thế kỷ của người Trung Hoa. Người nước ngoài
nghe câu nói đó, họ hoảng sợ, tại sao vậy? Bởi quá khứ ức hiếp người Trung Hoa,
ngày nay người Trung Hoa đứng lên rồi, sợ báo thù. Tôi gặp một số bạn bè nước
ngoài, tôi tặng họ quyển sách đó, Quần Thư Trị Yếu, nói với họ, tôi cũng tin
Trung Hoa sẽ lớn mạnh lên, nhưng mà Trung Hoa thống nhất thế giới, không phải
chính trị, không phải quân sự, không phải vũ lực, không phải Khoa học kỹ thuật,
cũng không phải của cải thương mại, công thương buôn bán, không phải những thứ
đó, mà là gì? Chính là quyển sách đó, chư vị đi về xem kỹ càng đi, chư vị tán
thành hay không. Trung Hoa thống nhất toàn thế giới là thống nhất Văn hóa, là
dùng Văn hóa ưu tú nhất trên thế giới, hy vọng mọi người cùng nhau học, chúng
ta hình thành nhận thức chung, chúng ta có giá trị quan giống nhau, yêu chuộng
hòa bình giống nhau, là thống nhất như thế. Thậm chí sau khi thật sự vận dụng,
chúng tôi tin rằng, toàn thế giới, không phải một khu vực, trẻ em đều có cơ hội
đi học, không có một trẻ em nào thất học cả, trừ phi tự chúng không chịu đi học,
chịu đi học đều có trường học, đều có thầy dạy. Học trò đến lớp, từ Tiểu học đến
khi học xong lớp Tiến sĩ, không cần nộp học phí, không cần nộp phí sinh hoạt.
Tiền phí từ đâu đến? Nhà nước cho, nhà nước xếp khoản này: vào chi phí quan trọng
nhất của nước nhà, phải đào tạo thế hệ kế tiếp. Việc lớn thứ hai, là y tế, bị bệnh,
Bệnh viện là của nhà nước, Bác sĩ là của nhà nước, trị bệnh không cần đóng tiền,
nhà nước đứng ra gánh vác. Thứ ba, là dưỡng lão. Ba sự việc đó đều là nhà nước
đứng ra đảm nhận, tốt! Tiền phí ấy của nhà nước từ đâu mà đến? Thế giới hòa
bình, không có đánh nhau nữa, tiết kiệm phí Quân sự lại: thì có thể làm tốt ba
sự việc ấy. Mỗi quốc gia đứng ra dẫn đầu, tuyên bố với mọi người, đất nước
chúng tôi không cần quân đội, đất nước chúng tôi không phát triển vũ khí, thì
thế giới hòa bình rồi. Có thể làm được hay không? Có thể làm được. Dựa vào đâu?
Dựa vào Quần Thư Trị Yếu. Tôi tin nguyện vọng này là nguyện vọng chung của mỗi
cá nhân. Hành Bồ-tát đạo, điều tôi nói đây đều là hành Bồ-tát đạo. Chúng ta hy
vọng tương lai mỗi một Tôn giáo: đều nên hành Bồ-tát đạo. Tôn giáo nên làm ra cống
hiến, nội dung giáo dục của Tôn giáo, có giáo dục luân lý, có giáo dục đạo đức,
có giáo dục nhân quả, có giáo dục Thánh Hiền. Cho nên Tôn giáo rất quan trọng,
Tôn giáo nên đoàn kết, Tôn giáo nên trở về giáo dục, Tôn giáo nên học tập lẫn
nhau, Tôn giáo nên tay nắm tay, để hóa giải xung đột, nỗ lực thúc đẩy thế giới
hòa bình, thì Tôn giáo đó có ý nghĩa, liền có giá trị rồi.
以下,明上述 “Dĩ
hạ, minh thượng thuật” (Tiếp theo, làm sáng tỏ điều kể trên), lời phía trước đã
nói, nói rõ về因行之果 “nhân hạnh chi quả” (quả của nhân hạnh) đã giảng ở phía trước.
Chúng ta làm những việc đó là sự nghiệp của Bồ-tát, nhưng trở ngại chúng ta
vãng sanh hay không? Không trở ngại. Bởi vì chúng ta làm những việc đó, là
không cầu mong điều gì đối với thế giới này, không để trong tâm, đặt ở trong
tâm là A Di Đà Phật. Do đó, tương lai chúng ta vãng sanh đến Thế giới Cực Lạc,
tôi tin A Di Đà Phật ở bên đó: sẽ mở đại hội hoan nghênh, nhiều người tốt như vậy,
nhiều người thiện như vậy vãng sanh đến. Đây là việc chúng ta trong đời này, phải
nỗ lực tranh thủ, chúng ta có thể làm được.
因雖千差,其果一味。大乘行人壽終生彼,悉皆得阿惟越致 “Nhân
tuy thiên sai, kỳ quả nhất vị. Đại thừa hành nhân thọ chung sanh bỉ, tất giai đắc
A-duy-việt-trí.” (Nhân tuy ngàn khác biệt, nhưng quả cùng một vị. Hành nhân của Đại thừa
hết thọ mạng sanh cõi kia, toàn bộ đều đắc A-duy-việt-trí), chính là câu nói
này, A-duy-việt-trí là tiếng Phạn, ý nghĩa là viên mãn chứng được ba loại bất
thoái. Viên mãn chứng được ba loại bất thoái là ai? Là đức Phật Là Đẳng giác Bồ-tát
dưới Phật, đó là là A-duy-việt-trí. Đây chính là nói Thế giới Cực Lạc, tâm nguyện,
công hạnh vãng sanh của mỗi cá nhân chúng ta: là khác nhau, sanh đến Thế giới Cực
Lạc, chắc chắn có bốn cõi ba bậc chín phẩm khác biệt, giống như đi học vậy, dựa
theo trình độ của chư vị, đến bên đó để xếp lớp. Cấp lớp thấp nhất là cấp năm
nhất, hoàn toàn học từ đầu, tốt! Tôi cũng hài lòng, A Di Đà Phật làm thầy, từ
cơ sở đã tiếp thu sự dạy dỗ của A Di Đà Phật, khó có biết mấy, tôi cho rằng còn
vững chắc hơn là xếp lớp. Bởi vì trong kinh nghiệm của chúng tôi có giáo dục
xây nền móng, rễ càng dày càng kiên cố, chịu được gió thổi mưa sa, chịu được
khi gặp trắc trở, dày vò, họ sẽ không dao động, họ sẽ không thay đổi, họ sẽ
thành công. A-duy-việt-trí thì thật khó có rồi.
並悉皆紫金色身 “Tịnh
tất giai tử kim sắc thân” (đồng thời toàn bộ đều thân sắc vàng tía), đến Thế giới Cực Lạc
không phải là nhục thân, nhục thân rất phiền phức, nhục thân này là vật chất, cần
phải ăn uống, còn cần phải mặc áo giữ ấm, còn cần phải nhà cửa che chắn gió
mưa. Thân tướng đó khác biệt hoàn toàn, đến Thế giới Cực Lạc hoàn toàn tương đồng,
là giống nhau, bình đẳng, tùy theo ý muốn, thật bình đẳng, tùy theo ý muốn.
Thân thể là thân sắc vàng tía, chúng ta không cách nào tưởng tượng được. Bảy
báu của Thế giới Cực Lạc những thứ như vàng bạc, trân châu, mã não ấy, chúng ta
gọi đó là bảy báu, Thế giới Cực Lạc có. Nhưng bảy báu của Thế giới Cực Lạc,
không giống với vật chất ở đây của chúng ta, vật chất bên của chúng ta đây, bảy
báu vẫn là pháp sanh diệt y như cũ, bảy báu của Thế giới Cực Lạc không sanh
không diệt. Thân thể là sắc thân tử kim, chúng sanh thế giới Ta Bà: cho rằng
đây là tướng tốt nhất. Theo trên kinh nói, phần lớn là Ấn Độ cổ, người Ấn Độ cổ
cho là tướng tốt nhất, Ở đây đức Phật cũng dùng ngữ khí này. Người phương Đông
khác với người phương Tây, quan niệm thẩm mỹ cũng khác nhau, ở phương Đông sẽ
hiện tướng: mà người phương Đông tự cho là tốt đẹp nhất. Những câu chữ ấy là sống
động, đều không phải là cứng nhắc. Chính chư vị muốn điều gì, thì sẽ biến hiện
điều đó, nói cách khác, thật sự làm được tâm tưởng sự thành, được đại tự tại.
Tôi muốn thân kim sắc, thì là thân kim sắc; Muốn màu đỏ, thì biến thành màu đỏ;
Nghĩ màu vàng, thì biến màu vàng, tùy theo sở thích, điểm này khó có.
具足三十二種大丈夫相 “Cụ
túc tam thập nhị chủng đại trượng phu tướng” (Đầy đủ ba mươi hai
loại tướng đại trượng phu). Người Ấn Độ cũng tin rằng, quý nhân có tướng phú
quý, bần cùng có tướng của bần cùng, tướng mạo của người là khác nhau. Vậy Thế
giới Cực Lạc thì sao? Tướng mạo của Thế giới Cực Lạc giống nhau, tất cả đều là
tướng mà người Ấn Độ cổ đã nói, 32 loại tướng tốt, tướng đại trượng phu, đây là
cách nói của người Ấn Độ. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni: nói với chúng ta ở trên
Kinh Quán Vô Lượng Thọ, không phải cách nói này. Bộ Kinh đó không phải là nói với
người bình thường, mà nói với Phu nhân Vi Đề Hi, mẹ của Vương tử A Xà, là nói với
bà ấy. Nói với chúng ta A Di Đà Phật, thân có vô lượng tướng, tướng có vô lượng
vẻ đẹp. Chúng ta không có cách gì tưởng tượng được tướng hảo quang minh, cũng
không có cách gì có thể nói ra được, chúng ta chỉ có thể nói một cách chung
chung rằng: tận thiện tận mỹ. Hơn nữa thiện mỹ của Ngài, nằm ngoài dự đoán của
chúng ta, thậm chí chúng ta nhìn thấy mà nói không được, trước đây chưa từng thấy,
cũng chưa từng nghe. Thân có vô lượng tướng, tướng có vô lượng vẻ đẹp, trong vẻ
đẹp phóng vô lượng ánh sáng, trong ánh sáng hiện mười phương thế giới chư Phật,
cũng giống như chúng ta xem tivi vậy, hiện trạng hoạt động của thế giới chư Phật
ở mười phương: đều hiển hiện trong ánh sáng. Vì thế chư vị muốn thân cận một
tôn Phật nào cũng không khó, vừa động ý niệm, người đã đến được, đã gặp mặt Phật,
cúng Phật tu phước, nghe kinh nghe pháp, tăng trưởng trí huệ. Đến Thế giới Cực
Lạc tu phước tu huệ: chỉ thời gian rất ngắn đã viên mãn rồi, bởi vì các ngài có
năng lực hóa thân vô lượng vô biên, mỗi hóa thân đi thân cận một tôn Phật, đến
một cõi nước Phật, cõi nước Phật vô lượng vô biên, phân thân của chúng ta vô lượng
vô biên, đến bên đó để cúng Phật, nghe kinh, nghe pháp, cho nên rất nhanh đã đầy
đủ trí huệ rồi, toàn bộ đều hiển thị ra hết.
Thế giới này của chúng ta,
dù rằng là người đại triệt đại ngộ, người minh Tâm kiến Tánh, các ngài không có
duyên, thì trí huệ của các ngài cũng không dẫn ra được, duyên vừa đến thì trí
huệ khởi lên. Thí như nói kinh điển mà chúng ta xem không hiểu, chúng ta đọc
cho các ngài nghe, các ngài giảng cho chúng ta nghe, chúng ta đọc cho các ngài
nghe là duyên, hoặc chúng ta đem quyển sách này đến cho các ngài xem, đó cũng
là duyên, không có điều gì là các ngài không hiểu rõ, không có điều gì không
thông đạt. Do đó chúng ta phải tin tưởng, trí huệ là Tự Tánh vốn có, không phải
do từ ngoài đến, thứ từ bên ngoài đến là Khoa học kỹ thuật, chính mình có hay
không? Có, thứ nào cũng có, tuyệt diệu vô cùng. Vì thế mục đích dạy học là gì?
Là khai ngộ, mục đích giúp học trò khai ngộ, khai ngộ thì họ thành Phật, liền
thành Bồ-tát. Đương nhiên điều kiện thứ nhất, họ phải là chủng tánh Bồ-tát mới
được, không phải người có chủng tánh Bồ-tát thì khó rồi. Chủng tánh Bồ-tát
chính là người học Đại thừa, họ hành Bồ-tát đạo, cho nên rất nhanh. 不但身色如佛,且皆當作佛也 “Bất đãn thân sắc như Phật, thả
giai đương tác Phật dã” (Không những sắc thân như Phật, mà đều chắc chắn
làm Phật), ngữ khí đó rất khẳng định, không có một chút nghi ngờ nào. Không những
sắc tướng thân thể chúng ta, chính là tướng hảo quang minh, mà đức Phật chính
là A Di Đà Phật, A Di Đà Phật là tấm gương, tướng mạo và thân thể của người
nào: cũng đều giống A Di Đà Phật vậy, không cần phải ăn uống, tốt! Thân thể đó
sống lâu không già. Nơi đó không có Đông Tây Nam Bắc, không có hôm qua, hôm
nay, ngày mai, không có, tất cả là ngay lập tức, mãi mãi ngay tức thì, vô cùng
tuyệt diệu!
諸往生者,願於何方作佛,莫不隨其心願而得成就。故云從心所願也 “Chư vãng sanh giả, nguyện ư hà
phương tác Phật, mạc bất tùy kỳ tâm nguyện nhi đắc thành tựu. Cố vân tùng tâm sở
nguyện dã” (Tất cả
người vãng sanh, nguyện đến nơi nào làm Phật, thì không có tâm nguyện
nào mà không được thành tựu.
Nên nói là theo nguyện của tâm). Chư vị muốn đi đến nơi nào thì đi đến nơi đó, muốn
đến trái đất thì lại đến rồi, đến để làm gì? Đến để làm Phật, giống như đức Phật
Thích Ca Mâu Ni, đến để làm Phật. Mong muốn làm Phật ở nơi nào, thì không có gì
chẳng tùy theo tâm nguyện đó mà được thành tựu, vậy nên tùng tâm sở nguyện. 至於成佛之期 “Chí ư thành Phật chi kỳ” (Cho đến thời hạn
thành Phật), khi nào thành Phật, 則隨行人之精進早晚而異 “tắc
tùy hành nhân chi tinh tấn tảo vãn nhi dị” (thì tùy theo sự tinh
tấn của hành nhân mà sai khác sớm hay muộn). Thế thì xem chính
chư vị: công phu tu hành ở Thế giới Cực Lạc, chư vị rất tinh tấn, thì thời gian
đến sớm thôi; Không thể dũng mãnh tinh tấn, mà nhàn nhã tự tại, thế thì thành tựu
muộn một chút. May mà ở Thế giới Cực Lạc sớm muộn như nhau, không hề khác biệt.
Sớm ngày tinh tấn thì sớm ngày thành Phật, 故云求道不休,會當得之,不失其所願也 “cố
vân cầu đạo bất hưu, hội đương đắc chi, bất thất kỳ sở nguyện dã” (vì thế nói cầu đạo
không nghỉ, nên sẽ đắc được, không mất sở nguyện đó). Câu kinh văn này
nói, 求道之心,精進不休 “cầu
đạo chi tâm, tinh tấn bất hưu” (tâm cầu đạo: tinh tấn không ngừng nghỉ), họ không chịu nghỉ
ngơi, 皆當成佛 “giai đương thành Phật” (đều chắc chắn thành
Phật), ai cũng đều thành Phật, 決無違失(違背失去)其成佛之本願 “quyết
vô vi thất (vi bội thất khứ) kỳ thành Phật chi bổn nguyện” (nhất định không trái
mất (ngược lại mất đi) bổn nguyện thành Phật ấy), không có khả năng
này, thật hiếm thấy.
Chúng ta xem tiếp khoa sau
cùng, 義利無盡諸佛共讚 “nghĩa
lợi vô tận chư Phật cộng tán”(ý nghĩa lợi ích vô tận chư Phật cùng tán thán). Nghĩa là nói trên
lý, lợi là nói trên sự, bất luận là sự hay là lý đều là viên mãn cả, vô tận
chính là viên mãn, không phải phần ít, không phải phần nhiều, mà viên mãn rốt
ráo, cho nên chư Phật cùng khen ngợi. Chúng ta xem Kinh văn:
【阿難。以此義利故。無量無數不可思議。無有等等無邊世界。諸佛如來。皆共稱讚無量壽佛所有功德。】 “A Nan! Dĩ thử nghĩa lợi cố. Vô lượng
vô số bất khả tư nghì, vô hữu đẳng đẳng vô biên thế giới, chư Phật Như Lai,
giai cộng xưng tán Vô Lượng Thọ Phật sở hữu công đức.” (Này A Nan! Bởi vì ý nghĩa và lợi ích đó, nên
vô lượng vô số không thể nghĩ bàn không biết bao nhiêu chư Phật Như Lai ở vô
biên thế giới: đều cùng xưng dương tán thán tất cả công đức của Phật Vô Lượng
Thọ).
Chúng ta xem đoạn Chú Giải này, 佛告阿難。世尊為喚起會眾之重視 “Phật cáo A
Nan: Thế Tôn vi hoán khởi hội chúng chi trọng thị” (Phật bảo ngài A Nan: Thế Tôn là gọi lên sự chú ý của đại chúng trong
pháp hội), nhắc nhở mọi người, thì gọi ngài A Nan. Hễ mà gọi tên, thì tiếp theo nhất định có lời
rất quan trọng muốn nói, mọi người chắc chắn đề khởi tinh thần hăng hái chăm
chú lắng nghe. 故重呼當機阿難之名而告之曰 “Cố trọng hô đương cơ A Nan chi danh nhi cáo chi viết” (Vì thế đặc biệt gọi tên ngài A Nan đương cơ
mà nói cho đại chúng biết), nói với
ngài A Nan, nói với ngài A Nan là nói cho đại chúng biết, 以此義利故。此處利有二義:一者堅利如金剛,可壞一切而不為一切所壞 “dĩ thử nghĩa lợi cố. Thử xứ lợi hữu
nhị nghĩa: nhất giả kiên lợi như kim cang, khả hoại nhất thiết nhi bất vi nhất
thiết sở hoại” (bởi vì
ý nghĩa lợi ích đó. Lợi chỗ này có hai nghĩa: Một là rắn chắc sắc bén như kim
cang, có thể phá hoại tất cả mà không bị thứ nào phá hủy). Đây là từ thí dụ mà nói, trong hiện tượng vật
chất cứng chắc nhất là kim cang, chúng ta nói là đá kim cương, mài đá kim cương
bén nhọn, có thể cắt tất cả kim loại, vàng bạc đồng sắt thiết, đều có thể cắt vụn
chúng. Cho nên kim cương có thể hoại tất cả, mà sẽ không bị tất cả làm hoại,
kim cang có ưu điểm này. Ý nghĩa thứ hai là 利益 “lợi ích”, đây là nói pháp, 因此法門 “nhân thử Pháp môn” (vì Pháp môn này), chính
là tất cả pháp mà Phật nói, 84 ngàn Pháp môn, vô lượng Pháp môn, ở trong vô lượng
Pháp môn, Pháp môn nào chân thật nhất, giống như cứng rắn trong các kim loại vậy?
Chính là Pháp môn: trì danh niệm Phật vãng sanh Tịnh Độ, 能惠予一切眾生真實之利 “năng huệ dữ nhất thiết chúng sanh chân thật chi lợi” (có thể ban cho tất cả chúng sanh lợi ích
chân thật), chân thật chính là rốt
ráo thành Phật. 蓋謂往生法門之義理,舉體是金剛智慧,故云利也 “Cái vị vãng sanh Pháp môn chi nghĩa lý, cử thể thị kim cang trí huệ, cố
vân lợi dã” (Đại
khái nói rằng nghĩa lý của Pháp môn vãng sanh, toàn bộ thể là trí huệ kim cang,
nên nói là lợi). “Lợi” ở
đây là ý nghĩa như vậy, là dùng “lợi” đó để tỉ dụ, trí huệ kim cang mà chư vị
thành tựu, trí huệ đó có thể thông đạt tất cả pháp, không sinh ra chướng ngại
nào đối với vô lượng Pháp môn, cho nên gọi là “kiên lợi”. 同時又是大慈悲之流現 “Đồng thời hựu thị đại từ bi chi lưu hiện” (Đồng thời lại là sự lưu hiện của đại từ bi), tại sao vậy? Bởi 普施眾生真實究竟之利 “phổ thí chúng sanh chân thật cứu cánh chi lợi” (rộng ban lợi ích chân thật rốt ráo cho chúng
sanh), “lợi” đó chính là lợi
ích, lợi ích đó quá lớn rồi. Phật như vậy, mỗi người vãng sanh: đến Thế giới Cực
Lạc thành Phật: đều giống như A Di Đà Phật, Đại đức, đại trí, đại hạnh, đại
nguyện, phổ độ tất cả chúng sanh ở khắp Pháp giới hư không giới. Phật đang làm,
trước giờ chưa từng dừng nghỉ, từ trước đến nay chưa hề nghỉ ngơi.
Ngày nay vấn đề của chúng ta, là chúng sanh mê
quá sâu, mê quá lâu, nên duyên (duyên phận) đó càng lúc càng phai nhạt, ít người
tuyên truyền, ít người giảng kinh, ít người tu chân chánh. Tại sao vậy? Bởi đây
là Chánh pháp, đây là chân thật, mọi người không biết, nếu không có đức Phật
Thích Ca Mâu Ni nói với chúng ta, thì làm sao chúng ta biết được? Trên trái đất
này không người giảng. Phật nói với chúng ta, nói được rất rõ ràng, rất sáng tỏ,
đặc biệt là bộ Kinh Vô Lượng Thọ này, là quyển Kinh giới thiệu cho: vãng sanh
Thế giới Cực Lạc, sách thuyết minh của Thế giới Cực Lạc, Y chánh trang nghiêm
không gì sánh được, Thế Tôn đã giảng sáng tỏ, giảng thấu triệt cho chúng ta.
Phước báo chúng sanh thời đại này của chúng ta, tuy là sanh ở ngay trong xã hội
động loạn, nhưng phước báo lại rất lớn. Lời này là thế nào? Chư vị có thể gặp
được bộ Kinh điển này, đó là phước báo lớn của chư vị. Vì sao vậy? Bởi quyển
sách này là bản hội tập sau thế chiến thứ hai, mới lưu thông đây, trong thời
gian thế chiến thứ hai, những đệ tử nhà Phật, đã không có duyên phận gặp được,
mà chúng ta gặp được rồi. Chú Giải của lão Cư sĩ Hoàng Niệm Tổ tuyệt vời, đó là
Phật tái lai, Bồ-tát không làm ra được. Dùng 83 loại kinh luận, do Phật Bồ-tát
nói, 110 loại trước tác của Tổ sư Đại đức, để chú giải bộ Kinh này. Tổng cộng
là 193 loại, tư liệu nhiều như vậy, chú giải bộ Kinh này, là chánh tri chánh kiến.
Chú Giải của ngài, không có câu nào là không có căn cứ, là do tự mình tùy tiện
nói, chính mình nói thì người khác không tin tưởng, tất cả đều có căn cứ. Đây
là chúng ta may mắn có thể gặp được.
Hơn nữa chúng ta còn gặp được: lão Hòa thượng Hải Hiền làm
chứng minh cho chúng ta, việc này khó có. Ngài vãng sanh vào ba năm trước, năm
2013, tháng 1 năm 2013 vãng sanh. 20 tuổi xuất gia, Sư phụ đã dạy ngài một câu:
Nam Mô A Di Đà Phật, căn dặn ngài cứ một mạch mà niệm, sáng tỏ rồi không được
nói lung tung, không được nói. Ngài đã niệm câu Phật hiệu này 92 năm, chúng tôi
tin rằng, ngài từng đến Thế giới Cực Lạc, không chỉ một lần. Trong Vãng Sanh
Truyện, Đại sư Huệ Viễn Sơ tổ của chúng ta, cả đời từng thấy: A Di Đà Phật Thế
giới Cực Lạc ba lần, trước giờ chưa từng nói với ai, lần thứ tư lúc nhìn thấy,
Phật đến tiếp dẫn ngài vãng sanh, ngài mới nói ra. Về lão Hòa thượng Hải Hiền,
lời Sư phụ nói với ngài, trong lời có ý, đó chính là câu dặn dò sau cùng, sáng
tỏ rồi. Thế nào là đã sáng tỏ? Đại triệt đại ngộ, là sáng tỏ rồi. Sáng tỏ thì
thế nào? Không được tùy tiện nói, không được nói. Nếu ngài có thể nói, thì giống
như Đại sư Huệ Năng, không thể nói, vì hoàn cảnh khác nhau. Đại sư Huệ Năng vào
triều nhà Đường, là thời đại Phật pháp thịnh nhất, chư vị xem, đã được truyền y
bát, vẫn phải trốn vào trong nhóm thợ săn, ẩn mình 15 năm mới trở ra. Tại sao vậy?
Bởi tật đố chướng ngại, không phải người ngoài tật đố, mà là đồng hành đồng đạo.
Lão Hòa thượng Hải Hiền lúc đó nói ra, thế thì nguy to không? Không có ai tin
tưởng, nói ngài nói lời bịa đặt, gây phiền phức cho ngài. Cho nên Sư phụ dạy: đừng
nói. Khi nào thì ngài đại triệt đại ngộ? Tôi ước chừng có lẽ vào khoảng 40 tuổi.
25 tuổi có lẽ được công phu Thành phiến, chính là ngang với cảnh giới của
A-la-hán. 30 tuổi, đắc Sự Nhất tâm Bất loạn, ngang với địa vị Tam hiền Bồ-tát.
40 tuổi, đắc Lý Nhất tâm Bất loạn, chính là Pháp thân Bồ-tát. Ngài thật dụng
công, từ sáng đến tối [niệm] A Di Đà Phật không gián đoạn, chúng ta biết điểm
đó.
Cho nên đại từ bi lưu hiện, rộng ban lợi ích chân thật rốt
ráo cho chúng sanh, đây là lợi ích. 是故無量無數無等無邊世界諸佛 “Thị cố vô lượng vô số vô đẳng vô biên thế giới chư Phật” (Cho nên vô lượng vô số vô đẳng vô biên thế
giới chư Phật), câu
này toàn bộ đã bao gồm: tất cả Pháp giới hư không giới, tất cả cõi nước chư Phật,
tất cả chư Phật Như Lai, không một cõi nào không có ở trong, 皆共稱讚無量壽佛所有功德 “giai cộng xưng tán Vô Lượng Thọ Phật sở hữu công đức” (đều cùng xưng dương tán thán tất cả công đức
của Phật Vô Lượng Thọ). Thật sự
sáng tỏ sự việc đó, thật sự lý giải được Pháp môn này của A Di Đà Phật, thì
không thể không tán thán A Di Đà Phật! Vả lại với Pháp môn này của A Di Đà Phật,
không thể không giới thiệu cho chúng sanh, tại sao vậy? Bởi giới thiệu cho
chúng sanh, hễ có thể tin tưởng, có thể phát nguyện, nguyện sanh Thế giới Tây
Phương Cực Lạc, thì ai cũng thành tựu, không thiếu sót một ai cả. Vì thế, 凡夫往生皆不退轉 “phàm phu vãng sanh giai bất thoái chuyển” (phàm phu vãng sanh đều không thoái chuyển), mà còn địa vị cao, 齊 “tề” là bình
đẳng, bình đẳng với 補處菩薩 “Bổ xứ Bồ-tát”, Bổ xứ là
sau bổ sung vào ngôi Phật, 此乃十方世界之所無,是故十方如來悉共稱讚無量壽佛也。 “thử nãi thập phương thế giới chi
sở vô, thị cố thập phương Như Lai tất cộng xưng tán Vô Lượng Thọ Phật dã.” (đây là điều mà mười phương thế giới không
có, do vậy mà mười phương Như Lai đều cùng xưng dương tán thán Phật Vô Lượng Thọ). Cho nên mười phương chư Phật: không có một vị
Phật nào không ca ngợi A Di Đà Phật, chỉ có A Di Đà Phật phát đại nguyện đó, mười
phương chư Phật, Phật Phật trí huệ tương đồng, thần thông tương đồng, đạo lực
tương đồng, có cần phải xây thêm một Thế giới Cực Lạc nữa hay không? Không cần
nữa. Tại sao vậy? Bởi học trò bên này của chính mình, ta không thể giáo hóa, giới
thiệu tất cả đến Thế giới Cực Lạc, gửi đến Thế giới Cực Lạc thành Phật, vậy thì
đúng rồi. Vì thế Thế giới Cực Lạc thống nhiếp tất cả Phật pháp, bất luận một
tôn Phật nào, cũng không rời khỏi danh tự này, bất luận một Pháp môn nào, cũng
không rời khỏi Thế giới Cực Lạc, đến Thế giới Cực Lạc: là đại viên mãn cứu cánh
trong Phật pháp. Chúng ta phải ghi nhớ, trong đời này, nhất định không thể bỏ
qua cơ hội này, nếu như bỏ qua, thế thì thật sự sai lầm lớn rồi. Hôm nay thời
gian hết rồi, chúng ta học tập đến đây thôi.
(Hết tập 335)
Nguyện đem
công đức này
Hướng về khắp tất cả
Đệ tử cùng chúng sanh
Đều sanh nước Cực Lạc
Sớm viên thành Phật quả
Rộng độ khắp chúng sanh.
Nam Mô A Di Đà Phật.