Responsive Menu
Add more content here...

Tập 334 – Tịnh Độ Đại Kinh Khoa Chú 2014

TỊNH ĐỘ ĐẠI KINH KHOA CHÚ 2014 – 2017

(Giảng lần thứ 4)

PHẨM 25: CHÁNH NHÂN VÃNG SANH:

Nhân Chính Của Vãng Sanh

Tập 334

Hòa thượng Thích Tịnh Không chủ giảng.

Giảng tại: Hiệp hội Giáo dục Phật Đà HongKong.

Thời gian: Ngày 17 tháng 5 năm 2016.

Dịch giả: Minh Tâm và Chân Hạnh Ánh

Giảo chánh: Thích Thiện Trang

Ban Biên Dịch Hoa Tạng Huyền Môn.

          Kính chào chư vị Pháp sư, chư vị đồng học, kính mời ngồi. Mời mọi người cùng tôi quy y Tam Bảo: “A-xà-lê tồn niệm, ngã Đệ tử Diệu Âm, thỉ tùng kim nhật, nãi chí mạng tồn, quy y Phật-Đà, lưỡng túc trung tôn, quy y Đạt-Ma, ly dục trung tôn, quy y Tăng-Già, chư chúng trung tôn” (3 lần).

          Mời xem Đại Kinh Khoa Chú, trang 797, xem từ dòng đầu tiên: Đây là kinh văn. Chúng ta xem Chú Giải, 從不當瞋怒至至誠忠信 “Tùng ‘bất đương sân nộ’ chí ‘chí thành trung tín’” (Từ ‘không nên sân nộ’ đến ‘chí thành trung tín’), đây là câu đầu tiên, 為人乘之世善 “vi Nhân thừa chi thế thiện” (là việc thiện thế gian thuộc Nhân thừa). Là lời nói trong Thập Thiện Nghiệp Đạo, 嫉妒,妒忌他人之盛事 “Tật đố, đố kị tha nhân chi thịnh sự” (Tật đố là: đố kị việc hưng thịnh của người khác). Việc tốt của người khác, tâm lượng chính mình nhỏ không thể bao dung, thì sẽ ganh ghét với việc tốt của người khác, bất luận là ở đức hạnh, địa vị, tài phú, đều không chịu được điều [họ] tốt hơn ta, đều phải nghĩ đủ mọi cách: để chướng ngại họ, để đả kích họ. 又害賢曰嫉 “Hựu hại hiền viết tật” (Lại hại bậc Hiền gọi là tật). Hiền là người việc gì cũng tốt hơn mình, đây là tâm lượng nhỏ, lòng dạ hẹp hòi, không dung chứa được người khác. Tiếp theo là, 貪餮 “tham thiết” (Tham lam, ham ăn ngon), đây là nói về ham ăn, vô cùng cầu kỳ với việc ăn uống, đều là dục vọng, đó là dục vọng với thức ăn. 慳惜 “Xan tích” (Keo kiệt tiếc của), trong Đại thừa Nghĩa Chương nói rằng, 吝惜財法稱慳 “lận tích tài pháp xưng xan” (tiếc rẻ tiền của và pháp gọi là xan), có tiền của không thể giúp người khác; Có pháp không mong muốn truyền dạy cho người khác, đây là tiếc pháp. Những việc này đều là thuộc về ác nghiệp. Người thế gian không biết, nhưng Phật biết.

          Khi tôi mới học Phật, tôi nhớ ngày đầu tiên, gặp gỡ người xuất gia, đến thăm hỏi Đại sư Chương Gia, có thể tính là đã chính thức học Phật. Trước lúc ấy, thì học Triết học với thầy Phương Đông Mỹ, lúc bấy giờ đối với Phật, là khái niệm Triết học. Thầy đã giới thiệu Phật pháp cho tôi, nói với tôi, đức Thích Ca Mâu Ni: là nhà Triết học vĩ đại nhất trên thế giới, chúng tôi học Triết học, kinh Phật Đại thừa là đỉnh cao nhất: trong tất cả Triết học trên toàn thế giới, học Phật là sự hưởng thụ cao nhất của đời người, xưa nay chưa từng có ai nói những điều này, không hề nghe nói đến, tôi đã nhập môn như vậy. Bài mục đó của thầy Phương: chính là Triết học kinh Phật, sau khi giảng xong, tôi đã tiếp nhận Phật pháp, liền sinh ra ưa thích đối với Phật pháp, bắt đầu đi dạo chùa chiền, trước đấy không muốn đi vào chùa chiền. Việc dạo chùa chiền này vì mục đích gì? Để mượn kinh sách xem. Bởi vì ở thời đại đó, cuộc sống vô cùng khó khăn, trong nhà sách không có lưu thông sách Phật, không tìm thấy sách Phật. Toàn Đài Loan chỉ có hai nhà in sách Phật, đầu tiên là nhà sách Thụy Thành ở Đài Trung, thứ hai là nhà sách Khánh Phương ở Đài Nam, sách Phật mà hai nhà sách này in: chủng loại rất ít, phần nhiều là dùng cho Kinh sám Phật sự, dùng cho khóa tụng sớm tối, số lượng cũng ít, chủng loại ít, số lượng cũng ít. Cho nên những điển tịch mà chúng tôi muốn học tập: đều không tìm thấy, cách duy nhất chính là đến chùa chiền: mượn Đại Tạng Kinh để chép. Đại Tạng Kinh thì không thể đem ra khỏi chùa, vì thế chúng tôi tận dụng kỳ nghỉ, đã ở trong chùa chép kinh từ sáng đến tối. Tự mình chép những quyển mà chúng tôi muốn học, tôi nhớ rằng tôi cũng chép qua mười mấy quyển.

          Đại sư Chương Gia nói với tôi, dạy tôi tu Bố thí, Bố thí tài, Bố thí pháp, Bố thí vô úy. Về Bố thí tài, thu nhập mỗi tháng của chúng tôi rất ít ỏi, không có năng lực dùng Bố thí tài. Thầy nói với tôi, Bố thí tài là nhân, được tài phú là quả báo. Gia đình giàu sang ở thế gian này, sự giàu sang của họ từ đâu mà đến? Do có nhân đã tu trong đời quá khứ, đời này họ đáng có được. Bố thí Pháp là nhân, thông minh trí huệ là quả báo. Bố thí vô úy thí là nhân, mạnh khỏe sống lâu là quả báo. Do đó, tu ba loại Bố thí này: được ba loại quả báo, không giả chút nào. Tôi nói với thầy: tài thì không được, không có năng lực này. Thầy nói với tôi: có một hào tiền hay không? Tôi nói một hào tiền có thể. Có một đồng tiền hay không? Một đồng tiền vẫn được. Thầy nói với tôi, thường giữ tâm Bố thí, gặp được duyên, tùy phận tùy sức: thì đều là Bố thí viên mãn. Chúng tôi đây mới hiểu ra, nhà Phật nói rất có đạo lý, trên người chư vị chỉ có hai đồng tiền, chư vị đều lấy cho hết hai đồng tiền, đó là Bố thí viên mãn, bất luận chư vị có bao nhiêu, chư vị cũng viên mãn rồi. Viên mãn được phước báo lớn nhất, chính là phước báo cũng viên mãn. Dạy tôi học ba loại Bố thí này. Không thể tiếc của, tiếc của bị quả báo bần cùng; Tiếc pháp bị quả báo ngu si, Bố thí pháp; Bố thí vô úy, thì quả báo mạnh khỏe sống lâu. Nếu nói không muốn tu Bố thí vô úy, thì người đó nhất định sức khỏe không tốt, thể lực kém, nhiều bệnh. Nhân quả báo ứng là đến như vậy, chúng tôi liền sáng tỏ rồi.

          Từ đó về sau thì biết Bố thí rồi, sau nửa năm, quả nhiên nguồn thu nhập đã nhiều hơn một ít, nhiều thì chúng tôi Bố thí nhiều. Cuộc sống của chính mình vô cùng tiết kiệm, ở trong thời gian đó, lúc tôi còn trẻ, khoảng trước 30 tuổi, phí sinh hoạt mỗi tháng của tôi, chính tôi chi tiêu: đại khái không vượt qua 20 đồng, là tiền Đài Loan lúc đó. Một tháng ít nhất, tiết kiệm tới lui, đại khái chỉ là trả tiền cắt tóc, tôi nhớ rằng đã dùng 8 đồng tiền, một tháng ít nhất, nhiều nhất sẽ không vượt hơn 20 đồng. Tiền tiết kiệm đó của tôi để làm gì? Đều đã mua sách hết sạch. Vì thế bạn bè đồng nghiệp của tôi nói với tôi, tiền của anh đều bị nhà sách lừa hết rồi. Ưa thích đọc sách, sau khi đọc xong sách rồi, lúc bấy giờ vẫn tiếc pháp, tôi rất quý báu sách, tôi sẽ không cho người khác mượn xem. Cho người khác xem, họ làm dơ sách của tôi rồi, họ không biết trân trọng sách, cho nên tôi đều không bằng lòng cho người khác mượn sách, mượn thứ khác thì không vấn đề. Đến sau này từ từ học được, sách cũng có thể cho người khác mượn, hư hỏng rồi, cũng dần dần hiểu được không tính toán nữa. Đây là luyện công phu, đây là tu hành, tu hành là sửa đổi hành vi sai lầm. Tu ở chỗ nào? Phải ở trong cuộc sống thực tế đối người tiếp vật, tu ở những chỗ này. Nếu không có hoạt động thực tế này, giúp chư vị thật sự vận dụng, thì rất khó, không những không đạt được thọ dụng về kinh điển đã đọc, mà cũng sẽ sinh ra sai lầm đối với lý giải kinh điển. Do đó nhất định phải thực hành kinh điển này, trong Luận Ngữ có nói, 學而時習之 “Học nhi thời tập chi” (Học mà thường rèn tập những điều đã học), tập chính là làm, sau khi học rồi, phải vận dụng vào cuộc sống, vận dụng vào công việc, vận dụng vào đối người tiếp vật, học rồi có hiệu quả, thì sanh ra pháp hỷ, 不亦說乎 “bất diệc duyệt hồ” (chẳng phải vui lắm sao), Phật pháp nói thường sanh tâm hoan hỷ. Chỗ này chúng ta nói đến 慳惜 “xan tích” (keo kiệt tiếc của), đây là học tập ba loại Bố thí, lợi ích người khác, thì tự mình mới có thể đạt lợi ích chân thật.

     中悔 “Trung hối” (giữa chừng hối hận), là hối hận, 信仰不堅,先信後疑,故曰中悔 “tín ngưỡng bất kiên, tiên tín hậu nghi, cố viết trung hối” (tín ngưỡng không vững, trước tin sau nghi, nên nói là giữa chừng hối hận). Giữa chừng hối hận thì công đức không viên mãn. Tại sao giữa chừng lại hối hận? Chỗ này nói được rất hay, bởi nghi ngờ. Trước thì tin tưởng, đã làm, sau khi làm xong thì hối hận, có phải bị mắc lừa hay không? Có phải đã bị người khác gạt? Ngày nay dạng người kiểu này nhiều lắm, người nào trong một đời: chưa từng hối hận giữa chừng? Người không hề hối hận giữa chừng, là người đó có trí huệ, họ có chừng mực, họ có tiêu chuẩn, có trí huệ, có năng lực, đoạn ác tu thiện, họ đạt được niềm vui thật sự. Nghi ngờ, 狐疑 “hồ nghi” (ngờ vực), trong động vật thì tính tình của hồ ly là đa nghi, cho nên nói đến nghi ngờ thì nghĩ đến hồ ly. Do dự không quyết đó là nghi. 疑念害善根。譬如毒刺 “Nghi niệm hại thiện căn, thí như độc thứ” (Niệm nghi hại thiện căn, ví như gai độc), trên kinh Phật dùng từ này để làm ví von. Nghi ngờ đã đoạn thiện căn, đặc biệt là trong Phật pháp, nếu nghi ngờ đối với Phật pháp, trước thì học, học được một khoảng thời gian, dường như không có hiệu quả thù thắng nào, hay có báo ứng thiện, thì nghi ngờ rồi, không học nữa, đi học Đạo, đi học Thần tiên, rất nhiều; Nghi ngờ Kinh giáo đã học, rồi đi học Mật chú, đi niệm chú. Cho nên kiểu tình hình này: chúng ta cũng nhìn thấy rất nhiều rất nhiều, với một người học tập điều gì, thì nghi thật sự là chướng ngại lớn nhất. Cổ nhân Trung Hoa dạy người, bất luận thế pháp, Phật pháp, Nho Thích Đạo đều là dạy người như vầy: 一門深入,長時薰修 “nhất môn thâm nhập, trường thời huân tu” (thâm nhập một môn, huân tu lâu dài), 讀書千遍,其義自見 “độc thư thiên biến, kỳ nghĩa tự kiến” (đọc sách ngàn lần, tự thấy nghĩa của sách). Ngày nay ở thời đại này, thật sự ưa thích dạy, những vị thầy ấy không tìm được học trò; Học trò thật vui thích học không tìm được thầy, đây là duyên, duyên không đủ.

          Đời này của tôi, sống vào thời kỳ chiến tranh. Mấy ngày trước, các đồng học mở phim cho tôi xem, về thế chiến thứ hai, những thước phim tài liệu đã quay trong đại chiến lần thứ hai, đó chính là hoàn cảnh sống lúc nhỏ: của người thời đại chúng tôi. Người Nhật Bản phát động chiến tranh với Trung Hoa: là năm Dân Quốc thứ 26, lúc tôi 11 tuổi, tôi sanh ra là năm Dân Quốc thứ 16, 11 tuổi đã trải qua cuộc sống kiểu đó rồi. Kháng chiến tám năm, tám năm sống cuộc đời lưu lạc, một nhà bốn người chia ra ở bốn nơi, một năm hiếm được có một lần đoàn tụ, quả thật rất tội nghiệp. Chiến tranh là tai nạn, không biết chết bao nhiêu người, đó là tội ác lớn nhất của nhân loại. Về sau chúng tôi học Phật thì hoàn toàn sáng tỏ rồi, chiến tranh có lợi ích hay không? Người chết hai bên chiến trường, ở đâu? Đều ở địa ngục. Tại sao vậy? Bởi sân hận đọa địa ngục. Đối tượng sân hận của chiến tranh: chính là kẻ địch, là đối phương: nghĩ mọi cách muốn giết sạch họ, chư vị giết họ, họ giết chư vị. Người phát động chiến tranh, người chỉ huy chiến tranh, người tham dự chiến tranh, tất cả đều đã tạo: tội nghiệp của địa ngục Vô Gián. Ở trên kinh Phật đã nói với chúng ta, hễ đọa ba đường là 5000 kiếp, khi nào họ rời khỏi địa ngục? Không phải luận tính theo năm, mà luận tính theo kiếp số. Bao nhiêu kiếp số? 5000 kiếp. Có thể làm việc đó không? Không thể làm. Phật nói rất rõ ràng, nói rất sáng tỏ.

          Tham gia chiến tranh cũng có: không ít người từng học Phật, người từng đọc kinh Phật, tại sao vẫn đi làm? Bởi nghi ngờ, lời của Phật nói có thật không? Thật nghiêm trọng như thế không? Không tin. Đợi đến lúc tin tưởng, thì quá muộn rồi, không kịp rồi. Sau khi chết, chư vị bị tiểu quỷ bắt mang đi, lúc đó hối hận không kịp nữa. Tiểu quỷ bắt chư vị đi đến nơi nào? Đưa chư vị đến địa ngục. Đặc biệt là oan oan tương báo, không có kết thúc, đời đời kiếp kiếp. Vì vậy chúng ta biết, thật có không ít người, không ít chúng sanh, vô lượng kiếp đến nay đều chịu tội ở địa ngục, không có cách nào ra được, không có duyên phận trở ra. Họ ngày ngày mong nhớ: người thân quyến thuộc có thể thay họ siêu độ, tuy rằng siêu độ không thể trở ra, nhưng giảm nhẹ nỗi đau đớn của họ. Được mấy người thân bạn bè chịu làm thay họ? Thật khó. Đặc biệt là trong thời đại này, thời đại này tín ngưỡng dường như đã sụp đổ, mấy người tin Phật? Mấy người tin tưởng nhân quả báo ứng? Thiện có thiện báo, ác có ác báo, không phải không báo, mà thời cơ chưa đến. Cho nên, trên kinh Phật, ví nghi ngờ là gai độc. 故《萬善同歸集》云:堅信根而拔疑刺。 “Cố Vạn Thiện Đồng Quy Tập vân: Kiên tín căn nhi bạt nghi thứ.” (Nên trong Vạn Thiện Đồng Quy Tập nói rằng: gốc tin vững thì nhổ [được] gai nghi). Câu tiếp theo đây, 要當孝順 “yếu đương hiếu thuận” (cần phải hiếu thuận), đây chính là điều đã nói: trong Kinh Quán Vô Lượng Thọ, 孝養父母 “Hiếu dưỡng phụ mẫu” (Hiếu dưỡng cha mẹ). 見於彼經三福之首 “Kiến ư bỉ kinh Tam phước chi thủ” (thấy ở đầu tiên trong Tam Phước của Kinh ấy), phía trước chúng ta đọc qua, điều thứ nhất của Tịnh nghiệp Tam phước chính là: 孝養父母,奉事師長,慈心不殺,修十善業 “Hiếu dưỡng phụ mẫu, phụng sự sư trưởng, từ tâm bất sát, tu Thập thiện nghiệp” (Hiếu dưỡng cha mẹ, phụng sự sư trưởng, từ tâm bất sát, tu Thập thiện nghiệp), điều đầu tiên tổng cộng là bốn câu, bốn sự việc.

          Ngày nay dạy học đều khó khăn, tại sao khó khăn? Bởi gốc văn hóa truyền thống 5000 năm của Trung Hoa: bị nhổ mất rồi. Do ai nhổ mất? Nhiều người truy cứu nguyên nhân này, truy được nguyên nhân là ai? Nguyên nhân là Thái hậu Từ Hy. Thái hậu Từ Hy thực ra chẳng hề: thật sự phá hoại gốc rễ văn hóa truyền thống, không làm sự việc này, thế nhưng bà sơ suất rồi, bà không xem trọng việc này. Xã hội của Trung Hoa: đều tôn trọng trưởng bối và người già, không ai không nghe lời người già nói, tại sao vậy? Bởi kinh nghiệm của họ phong phú. Nhân dân đều tôn trọng người lãnh đạo quốc gia, Thái hậu Từ Hy chấp chính, mọi người đều noi theo bà, bà không xem trọng văn hóa truyền thống Trung Hoa, thế là lòng tin của dân gian: đối với văn hóa truyền thống đã hạ nhiệt, hạ đến Mãn Thanh mất nước, thì nghi ngờ đã khá nghiêm trọng. Trong thời kỳ Dân Quốc, năm đầu Dân Quốc, kháng chiến, cũng chính là nói 30 năm đầu của Dân Quốc, chúng tôi vẫn có thể nhìn thấy, hiếu dưỡng phụ mẫu, tôn sư trọng đạo, đoạn ác tu thiện, tu Thập thiện nghiệp vẫn còn, dù không nhiều nữa. Trong xã hội có, hơn nữa thường xuyên có thể nhìn thấy, không phổ biến như những năm đầu Dân Quốc. Mà thời kỳ những năm đầu Dân Quốc, lại không bằng thời kỳ cuối triều Thanh: là rễ sâu vững chắc. Thời đại sau không bằng thời đại trước, là trượt dốc. Đến khi kháng chiến thắng lợi, sau khi người Nhật Bản đầu hàng, chiến tranh đã thắng rồi, thì tất cả truyền thống văn hóa hạ nhiệt, rất nhiều người đều đã vứt bỏ, không học nữa, trong trường học không dạy. Tư thục, là từ trước kháng chiến, dường như tôi nhớ là: đã bãi bỏ từ trước kháng chiến một năm hoặc là hai năm rồi, nhà nước không thừa nhận tư thục, cho nên tư thục đã không còn nữa. Sau khi kháng chiến thắng lợi, xã hội một vùng hỗn loạn, nhân dân quả thật rất thống khổ. Nội chiến Trung Quốc, Đảng cộng sản thống nhất Trung Quốc, đối với truyền thống văn hóa, đặc biệt là đại cách mạng văn hóa, làm nhân dân toàn quốc: mất lòng tin đối với văn hóa truyền thống, không có ai tin tưởng nữa. Do đó ngày nay muốn phục hưng văn hóa truyền thống Trung Hoa: có khó khăn nhất định. Phục hưng văn hóa truyền thống Trung Hoa: là mấy năm gần đây, mới có một nhóm người: nhìn thấy sự hỗn loạn của xã hội, làm thế nào? Làm sao cứu? Nếu như không cứu, thì đất nước này còn tồn tại được không?

          Tôi có một chút ấn tượng về thời kỳ này, không sâu đậm. Đó là lúc tôi bảy, tám tuổi, chúng tôi vẫn chưa rời khỏi quê nhà, sống ở nông thôn quê nhà, chúng tôi là những trẻ nhỏ lớn lên trong nông thôn, nhưng nông thôn có tư thục, đã từng thấy tư thục, nhìn thấy Từ đường, từng tham gia tế Tổ, mỗi năm Thanh Minh, Đông Chí tế Tổ, trẻ nhỏ chúng tôi đều phải đi bái Tổ tông, có một chút khái niệm như vậy. Biết được lúc đó lòng người hiền hậu, giữa người với người có lòng yêu thương, vẫn có diện mạo luân lý đạo đức, vẫn chẳng hề hoàn toàn mất đi, đại chúng xã hội vẫn coi trọng: Nhân Nghĩa Lễ Trí Tín. Đặc biệt là nông thôn, người nông thôn thuần phác, nên thời gian bảo tồn lâu một chút; Còn người đô thị: không hiền hậu bằng người nông thôn.

          Vì thế Tam phước này là nhập môn của Phật pháp. Tại sao ngày nay khó như vậy? Bởi thầy tìm học trò, không còn học trò hiếu thân tôn sư nữa. Tại sao cần học trò hiếu thân tôn sư? Bởi chỉ có hiếu thân tôn sư, thì họ mới có thể học vào được, họ thật học. Bất hiếu cha mẹ, bất kính thầy, thầy giảng cho họ thì họ không lưu ý, không đặt lời dạy vào trong tâm, cho nên đi vào tai bên phải, thì đi ra tai bên trái rồi. Vậy là thầy không tìm được học trò. Đợi đến học trò muốn học, thì thầy đi xa rồi.

          Trung Hoa trước đây, phong trào Ngũ Tứ coi trọng văn hóa mới, Tây hóa toàn diện, muốn học người nước ngoài, đều không dùng những thứ thuộc của Trung Hoa. Đại cách mạng văn hóa triệt để xóa sạch, không cần những thứ của Trung Hoa, học theo phương Tây. Đến ngày nay, phương Tây có vấn đề rồi, phương Tây đã phát sinh vấn đề, người phương Tây ngày nay tích cực đang truy cầu phương Đông, phương Đông thì Trung Hoa là chính. Do đó tôi xem thấy trong tin tức, người nước Anh dẫn đầu, từ Tiểu học, Trung học, Đại học, tất cả học sinh: đều phải học văn tự của Trung Hoa, học Trung văn. Có người hỏi họ: vì sao quý vị làm như vậy? Bởi thế giới của tương lai là của Trung Hoa, văn tự Trung Hoa ở tương lai: sẽ giống như Anh văn ngày nay, là văn tự thông dụng của thế giới. Ngày nay họ thật làm, không những họ thật làm, Trường học thật làm, mà họ còn học Phật, chọn lọc kinh Phật đưa vào trong sách giáo khoa, sách học Tiểu học, sách học Trung học, sách học Đại học, trong sách học văn Trung Hoa có kinh Phật. Ngày nay chúng ta làm thế nào? Hiện nay có người đã có tâm cảnh giác này, vẫn có một nhóm người không có, đó là khả năng nhìn xa: hơi chậm chạp một chút, vẫn không nhìn thấy. Tôi tin tưởng sau ba năm nữa, người Trung Hoa sẽ tìm lão Tổ Tông, tại sao vậy? Bởi người toàn thế giới đều bái lão Tổ Tông của chúng ta, chúng ta cần đi tìm lão Tổ Tông hay không? Học theo người nước ngoài, người nước ngoài cần lão Tổ Tông chúng ta. Lão Tổ Tông chúng ta có năng lực, có trí huệ: để hóa giải vấn đề của xã hội thế giới hiện nay, là thật không phải giả. Người nước ngoài học tập, thật làm, nhiệt tâm hơn chúng ta, nghiêm túc hơn chúng ta.

          Hai năm nay tôi thường xuyên nghĩ, sau 10 năm, 20 năm, Đại học không có giảng viên rồi. Tại sao không có giảng viên nữa? Bởi học trò không muốn học. Vấn đề này 60 năm trước, đã phát sinh rồi, là từ thời đại của chúng tôi. Năm tôi 26 tuổi, học Triết học với Tiên sinh Phương Đông Mỹ, nguyện vọng của chúng tôi: chỉ muốn có được sự đồng ý của thầy, lúc thầy lên lớp, chúng tôi đến trường học để dự thính, không dám nghĩ việc khác. Thầy viết thư cho tôi, hẹn tôi đến nhà thầy gặp mặt, đó là thầy trả lời thư của tôi. Không ai giới thiệu tôi cho thầy, đây là do tự mình giới thiệu, đã viết một lá thư, đã viết một bài văn gửi đến thầy xem. Sau một tuần, thầy viết  thư hẹn tôi đến gặp ở nhà thầy. Gặp mặt thì nói đến, thầy hỏi quá trình học của tôi, tôi nói tôi tốt nghiệp Sơ trung, thời gian kháng chiến nghỉ học ba năm, ba năm không đi học, ngày ngày chạy nạn, đều là vừa chạy nạn vừa học, tám năm kháng chiến, tôi đã đi được 10 tỉnh, mấy chục ngàn dặm đường, không có cơ hội đi học, không có nơi cư trú an định. Thầy hỏi tôi, anh có gạt tôi hay không? Tôi nói không dám gạt thầy, hoàn toàn là thật. Thầy nói, thư của anh viết, bài văn này: sinh viên Đại học Đài Loan chúng ta không viết được, cho nên thầy nghi ngờ. Tôi nói tuy rằng con thất học, nhưng ưa thích đọc sách, không ở trường học, nhưng con không rời khỏi sách vở, ưa thích đọc sách. Thầy tiếp tục liền nói, thầy nói trường học bây giờ: (trường học thời kỳ đó là 65 năm trước), thầy không ra thầy, học trò không giống học trò, anh muốn đến trường học để nghe giảng, anh sẽ bị thất vọng lớn. Tôi cho rằng thầy từ chối hoàn toàn rồi, nghe xong câu nói đó, trong lòng rất buồn, ước vọng ấy tiêu tan rồi, không thể thực hiện được. Dừng lại khoảng bảy, tám phút, tôi nhìn thầy, thầy nhìn tôi. Sau cùng thầy nói, anh thật sự muốn học, thì anh đến nhà tôi. Chúng tôi hẹn mỗi ngày chủ nhật, buổi sáng từ 9:30 đến 11:30, hai giờ đó dành cho tôi, đây là việc tôi có nằm mơ cũng nghĩ không ra. Nguyên nhân gì? Vừa rồi tôi đã nói, gặp được một học trò muốn học, tôi gặp được vị thầy muốn dạy, thầy muốn dạy mà không có học trò, tôi muốn học mà không có thầy, lúc chúng tôi thật sự gặp được, thì rất may mắn, liền vô cùng hoan hỷ, lớp của chúng tôi đã học như vậy. Một tuần có hai giờ, tôi cũng không cần phải xin nghỉ, vì chủ nhật nghỉ, không phải đi làm. Đã giảng cho tôi bộ Triết học Khái Luận, chia làm bốn bài mục, bài mục sau cùng là Triết học Kinh Phật. Chúng tôi lên lớp không có sách giáo khoa, hoàn toàn nghe thầy đọc miệng, tôi đã mang một quyển sổ ghi chép nhỏ, đã lên lớp học như vậy.

          Về bài mục sau cùng ấy, tôi đã rất hiếu kỳ, tôi thỉnh giáo thầy, tôi nói Phật giáo là Tôn giáo, Tôn giáo là mê tín, đặc biệt là Phật giáo, trong Tôn giáo chúng con nghe nói: Tôn giáo cao cấp chỉ có một vị Thần, Chủ tể của vũ trụ là thần sáng tạo vạn vật, Tôn giáo cấp thấp là đa Thần giáo, thờ đủ thứ, chúng con xem Phật giáo là Tôn giáo cấp thấp, xem như đa Thần giáo, phiếm Thần giáo. Thầy liền nói cho tôi biết, thầy nói con còn trẻ, con không hiểu. Thật ra, cả đời đến lúc đó, chúng tôi chưa từng nghe nói đến, nghe người ta nói qua: kinh Phật là Triết học, chưa từng nghe qua. Thầy giới thiệu cho tôi, đức Thích Ca Mâu Ni, thầy không nói đức Phật Thích Ca Mâu Ni, mà nói đức Thích Ca Mâu Ni, là nhà Triết học vĩ đại nhất trên thế giới. Thế chúng ta học Triết học phải tìm ai? Đương nhiên phải tìm nhà Triết học vĩ đại nhất, Triết học Kinh Phật: là đỉnh cao nhất của Triết học toàn Thế giới, học Phật là sự hưởng thụ cao nhất của đời người. Chư vị xem, mấy câu nói mở đầu: đã thuyết phục tôi rồi, điều này không được học ở trường học, trong trường học không có Triết học Kinh Phật, không dạy bài này. Cuối đời của thầy Phương, dạy ở trường học là Triết học Kinh Phật, tôi nhớ rằng thầy giảng Phật học đời Ngụy Tấn, Phật học Tùy Đường, Phật học Đại thừa, sau cùng cuối đời, nghỉ hưu ở Đại học Đài Loan, đến lớp Tiến sĩ trường Đại học Phụ Nhân: mở Triết học Hoa Nghiêm. Lúc thầy giảng Triết học Hoa Nghiêm, tôi cũng đi nghe qua mấy lần. Lúc đó mới làm rõ ràng.

          Sau khi quen biết Đại sư Chương Gia, thì chuyên tâm học khóa trình này. Đại sư Chương Gia rất từ bi, giống như thầy Phương vậy, mỗi tuần dành cho tôi hai giờ, chí ít là một giờ, ngài có khách sẽ cho tôi một giờ, nếu không có khách thì cho tôi hai giờ. Tôi theo ngài ba năm, nền tảng kinh Phật này của tôi: là do ngài đã đặt cho, không có nền tảng này, thì tôi theo thầy Lý 10 năm, cũng sẽ không có thành tựu tốt như vậy. Ba năm nền tảng đó tốt, sau ba năm ngài qua đời rồi, tôi tìm đến thầy Lý, tôi theo thầy 10 năm. Đồng học dưới hội của thầy Lý rất nhiều, họ không có nền tảng ba năm từ Đại sư Chương Gia, tôi đã xây nền móng ba năm ở đó, đến Đài Trung 10 năm, thì hữu hiệu rồi. Tuy rằng vào thời đó, tôi tốt nghiệp Sơ trung, nhưng chăm chỉ học Phật 13 năm, cũng có thể giảng hai-ba chục bộ kinh, không có học vị, vẫn là tốt nghiệp Sơ trung. Thế nhưng có duyên phận, một người thầy đã giới thiệu cho tôi, ở Học viện Văn Hóa, là Đại học Văn Hóa sau này, vào thời đó là Học viện, ở trong khoa Triết học của Học viện Văn Hóa, mở lớp Triết học Kinh Phật, tôi đã giảng bốn năm. Bốn năm này đã có được: thân phận giảng viên Đại học, sau này đến nước Mỹ, đến Canada hoằng pháp, có được tác dụng rất lớn. Người Mỹ tôn trọng học thuật, nhìn thấy tôi có giấy chứng nhận đó, thư mời bốn năm của trường học đó, và những tư liệu giảng kinh, cho nên làm thủ tục thị thực: thì hết sức dễ dàng, vô cùng thuận lợi, đãi ngộ dành cho tôi cũng rất ưu đãi. Do đó ngày nay ở thời đại này, quá trình học tập, lý lịch rất quan trọng, chư vị không có quá trình học tập, dù có năng lực tốt hơn: họ cũng không tin, họ nghi ngờ chư vị.

          Những gì thật sự học được, hiện tại không học được ở trường nữa. Sau khi thầy Phương nói qua với tôi, bao nhiêu năm nay, ở trong nước, ở nước ngoài, tôi đến trường học để tham quan, để khảo sát, thật sự không phải giả, hơn nữa xu thế suy yếu trên phạm vi lớn. Từ nay về sau làm thế nào? Nguyên nhân là gì? Học trò không hiếu học, không có hứng thú với việc học tập, không muốn học, chỉ cần văn bằng. Nên thầy không cách nào dạy, không dạy học thì họ không cách nào sống, nguồn sống của họ: chỉ dựa vào một ít đồng lương đó, chỉ dựa vào tiền của vài giờ dạy học. Kế tiếp đến, họ phải có khả năng chịu khó trước tác, xuất bản mấy bộ sách có thể cầm được một chút tiền, cuộc sống không sung túc, miễn cưỡng có thể sống qua ngày. Cho nên ngày nay trường học thật có vấn đề, đây là giáo dục có vấn đề. Tại sao xã hội biến thành như vậy? Tóm lại một câu nói, do giáo dục tạo ra. Việc đó có tính toàn cầu, không phải mang tính mỗi khu vực, vấn đề này rất nghiêm trọng. Trên Quốc tế có một số nhà Hán học, họ đối với Hán học: thực sự có trình độ rất sâu, đối với văn tự Trung Hoa, đối với Văn ngôn văn của Trung Hoa: bội phục đến năm vóc sát đất, tuyên truyền ở phương Tây, khuyên bảo người phương Tây, đòi hỏi trí huệ chân thật, nhất định phải đến phương Đông để học Hán học. Cho nên hiện tại hình thành: cơn sốt Hán học trên Quốc tế, một hai năm nay, thảo luận về Hán học càng ngày càng nhiều, là hiện tượng tốt.

          Về Tam phước của Quán Kinh, nhân chính của Tịnh nghiệp, chánh nhân vãng sanh trong đoạn kinh văn này của chúng ta, chính là chánh nhân của Tịnh nghiệp. 至誠忠信 “Chí thành trung tín” (hết lòng thành kính, trung tín). Thành, 誠者 “thành giả” (thành là), chú được hay, thế nào là thành? 真心,真實無偽也 “Chân Tâm, chân thật vô ngụy dã” (Chân Tâm, là chân thật không dối trá), giải thích được hay. Ngay trong đời này, tôi thường xuyên khuyên người dùng Chân Tâm, đừng lừa gạt chính mình, đừng lừa gạt người khác, chúng ta tâm an lý đắc, cuộc sống bình thường, giấc ngủ an ổn, trong tâm không loạn, không có tạp niệm, không có vọng tưởng. Đó chính là lời thầy Phương đã nói, là sự hưởng thụ cao nhất của đời người, trong Phật pháp nói là pháp hỷ sung mãn, Khổng tử đã nói: 學而時習之,不亦說乎 “Học nhi thời tập chi, bất diệc duyệt hồ” (Học mà thường rèn tập những điều đã học, chẳng phải vui lắm sao), đây đều là sự hưởng thụ cao nhất của đời người. Chúng ta trong xã hội: không có địa vị, không giàu có, không có thứ gì cả, nhưng đạt được sự hưởng thụ này rồi, thì vui vẻ không gì bằng, không có vướng bận, không có ưu phiền. Chúng ta thấy hiện tượng xã hội, hiện tượng của vũ trụ, có thể thấy được mấy phần chân thật, đạo lý chính ở chỗ này. Dùng Chân Tâm không dùng Vọng Tâm, nếu chư vị muốn trong đời này: thật sự trải qua sự hưởng thụ cao nhất của đời người, thì dùng Chân Tâm đừng dùng Vọng Tâm sẽ đạt được, hơn nữa rất nhanh có thể đạt được. Chí thành trung tín, chân thật không giả dối. Chí, 至者,登峰造極也。誠之極,故云至誠 “chí giả, đăng phong tạo cực dã. Thành chi cực, cố vân chí thành” (Chí là lên đến tột cùng. Tận cùng của thành, thì gọi là chí thành). Đỉnh cao của thành, vậy thì khó rồi, bậc nào làm được đỉnh cao của thành? Nói với chư vị, chư Phật Như Lai. Đẳng giác Bồ-tát vẫn kém một cấp bậc, chứng đến quả Phật rốt ráo thì đỉnh cao của chí thành rồi. Đỉnh cao của thành ở nơi đó, thành Phật rồi; Chân thành mà chưa đạt đến cực điểm là Bồ-tát. Tâm chân thành, thật sự ngay trong cuộc sống hằng ngày, có thể làm chủ được: là A-la-hán. A-la-hán, Bích-chi-phật dùng tâm chân thành, so với bên trên, các ngài là phần nhỏ, nhưng so với sáu đường luân hồi, thì các ngài vượt qua rồi. Sáu đường luân hồi hoàn toàn dùng Vọng Tâm, không biết dùng Chân Tâm. Bậc biết dùng Chân Tâm, là A-la-hán, Bích-chi-phật. Cho nên gọi là chí thành.

          忠者,盡心竭力 “Trung giả, tận tâm kiệt lực” (Trung là tận tâm hết sức), bất luận là học tập, là làm việc, là đối người, là tiếp vật, đều phải tận tâm, ta có bao nhiêu lòng yêu thương, có bao nhiêu Chân Tâm, phải đem ra viên mãn, ta có bao nhiêu năng lực, không hề giữ lại, hoàn toàn cống hiến, 忠於國家 “trung ư quốc gia” (trung với quốc gia). 忠孝二字,為世間美德之本 “Trung Hiếu nhị tự, vi thế gian mỹ đức chi bổn” (Hai chữ Trung Hiếu, là gốc của mỹ đức thế gian), trong sáu đường luân hồi, nói đến đức hạnh, nói đạo đức, hai chữ Trung Hiếu là căn bản, trời Dục giới, trời Sắc giới, trời Vô Sắc giới, với pháp thế gian này, hai chữ đó vô cùng quan trọng. Chữ Trung này chính là tâm của chư vị đoan chánh, không lệch không tà, không có tâm thiên vị, không có tà niệm, vậy là trung. Trước hết phải trung với chính mình, tự mình cũng không làm được trung đối với chính mình, thì làm sao có thể đối với người? Không có đạo lý này. Ý nghĩa của hiếu là một thể, đời trước là một thể với ta, đời sau cũng là một thể với ta; Mở rộng thêm nữa, trọn cả nhân loại là một thể; Mở rộng thêm, trọn cả vũ trụ là một thể. Đại sư Huệ Năng trong Đàn Kinh nói được hay, tại sao là một thể? Lúc Đại sư Huệ Năng khai ngộ, báo cáo của ngài là năm câu nói, câu sau cùng ngài nói: 何期自性,能生萬法 “Hà kỳ Tự Tánh, năng sanh vạn pháp” (Nào ngờ Tự Tánh, có thể sanh ra vạn pháp), vạn pháp chỉ điều gì? Chỉ trọn cả vũ trụ, gọi là vạn pháp. Trọn cả vũ trụ từ đâu mà đến? Là do Tự Tánh biến hiện ra, Tự Tánh năng biến, vạn pháp là sở biến, vạn pháp là nhiều loại, vô lượng vô biên, Tự Tánh là một. Do đó thật sự phải biết rằng, trọn cả vũ trụ là một thể với chính mình. Chúng ta nói chư Phật Bồ-tát là một thể với chúng ta, không sai, là một thể; 28 tầng trời cũng là một thể với chúng ta; Nhìn xuống dưới, sáu đường luân hồi cũng là một thể với ta, ba đường ác là một thể, ba đường thiện cũng là một thể, thật sự không phải giả. Vì thế trọn cả vũ trụ từ đâu mà đến? Từ ý niệm sinh ra. Trong kinh Đại thừa nói, tất cả pháp từ tâm tưởng sanh, chư vị nghĩ thứ gì thì hiện ra thứ đó, nghĩ điều gì thì biến thành điều đó, tại sao không nghĩ Thế giới Cực Lạc? Tại sao không nghĩ A Di Đà Phật, mà nghĩ ngợi lung tung? Suy nghĩ lung tung, tâm loạn, tâm tạp rồi, kết quả tự mình không làm chủ được, theo nghiệp mà thọ sanh, vậy thì khổ nói không nên lời.

          Mục tiêu sau cùng của người học Phật: chính là quay về Tự Tánh, chính là viên mãn thành Phật. Phải bắt đầu làm từ đâu? Ngày đầu tiên tôi gặp Đại sư Chương Gia, đã hỏi câu hỏi này. Tôi nói với Đại sư Chương Gia, lợi ích của Phật pháp: thầy Phương Đông Mỹ đã nói với con rồi, nói cho con nghe rồi, con đã biết rồi. Con thỉnh giáo ngài, có cách nào: thật nhanh chóng để con có thể khế nhập cảnh giới hay không? Con muốn biết phương pháp này. Vấn đề của tôi nêu ra, ngài nhìn tôi, tôi cũng nhìn ngài. Tôi nhìn ngài, đợi ngài dạy bảo. Ngài nhìn tôi, tôi không biết tại sao, ngài không nói chuyện. Nhìn bao lâu? Đã nhìn hơn nửa giờ, hơn nửa giờ đã nói một chữ: có. Có, tinh thần của tôi lập tức hăng hái lại, tôi đã đợi nửa tiếng rồi, có. Có, rồi ngài lại không nói tiếp, lại nhìn tôi, nhìn tôi chăm chú, đại khái đã nhìn 10 phút, nói với tôi sáu chữ, 看得破,放得下 “khán đắc phá, phóng đắc hạ” (nhìn thấu được, buông xuống được), nói đơn giản một chút, chính là bốn chữ: nhìn thấu, buông xuống. Tại sao nhìn lâu như vậy? Mãi mấy chục năm sau tôi mới ngộ ra, tôi trẻ tuổi, tâm tính nóng nảy, tùy tiện mở miệng đã hỏi câu này, câu này quá quan trọng! Hỏi câu này, ngài không trả lời tôi, ngài phải đợi tôi, đợi điều gì? Đợi tánh khí nông nổi của tôi: hoàn toàn tiêu hết mới nói với tôi. Nửa giờ, tôi cũng nửa giờ giống như nhập định vậy, nhất tâm nhất ý đợi ngài khai thị, nửa giờ. Một chữ “có” đó của ngài, thì tâm này của tôi lại nổi lên ngay rồi. Cho nên không thể nói, lại phải đợi 10 phút, lần thứ hai lại định xuống, thì nói với tôi sáu chữ: nhìn thấu được, buông xuống được. Ngày ấy tôi rời xa ngài, ngài đưa tôi đến cổng lớn, nói với tôi: Hôm nay ta nói với con sáu chữ, con về nghiêm túc làm sáu năm. Tôi thật làm!

          Nhìn thấu là gì? Làm sáng tỏ chân tướng sự thật, đó là nhìn thấu, tuyệt không hàm hồ qua loa, phải làm rõ ràng chân tướng sự thật. Buông xuống, đừng đặt trong tâm, bất luận là sự việc gì, việc tốt, việc xấu đều đừng để trong tâm, tại sao vậy? Bởi toàn là giả. Đọc Kinh Kim Cang rồi bỗng nhiên đại ngộ, 凡所有相,皆是虛妄 “phàm sở hữu tướng, giai thị hư vọng” (những gì có tướng, đều là hư vọng), vũ trụ này là giả, không phải thật. Để vào trong tâm thì chư vị thiệt thòi rồi, tại sao vậy? Bởi chư vị bị cảnh giới mê mất, chư vị đã không thấy được chân tướng. Nhìn thấy chân tướng thì buông xuống rồi, buông xuống thì thấy được chân tướng. Buông xuống là thế nào? Buông xuống ở trong tâm. Ngày nay chúng ta niệm Phật, trong tâm chỉ có A Di Đà Phật, ngoài A Di Đà Phật ra thì không có thứ gì, bất luận việc tốt, việc xấu, Phật pháp hay pháp thế gian, đều không đặt vào trong tâm. Tại sao cả Phật pháp cũng không đặt vào? Bởi Phật pháp không phải thật, Phật pháp từ đâu đến? Chân Như Tự Tánh trong tâm thanh tịnh không lập một pháp, không có một pháp, pháp từ đâu đến? Do vì có thế pháp, cho nên mới có Phật pháp, Phật pháp là do nhân duyên mà sanh. Trong Tự Tánh không có sanh diệt, không sanh không diệt, không có hiện tướng, Tự Tánh có thể hiện tướng, không có hiện tướng năng hiện tướng, tướng của năng hiện cũng không thể được. Có thể hiện điều gì? Cõi nước của chư Phật, chỗ ở của Báo thân Phật: là do Tự Tánh sở hiện, chỗ ở của Báo thân, Tự Tánh gọi là Pháp thân, Pháp thân không có hình tướng, đây nói sự thật cho chúng ta. Vì thế bất kể là thật, hay là vọng, đều không thể được, đều không thể đặt ở trong tâm, vậy mới có thể vào cửa Phật.

          Phật môn ngày nay khó rồi, hiện tại thế nào? Không có thầy. Chúng ta đến đâu học? Có, không có thầy, thì nơi nơi đều là thầy, học trên màn hình ti vi. Nghe giảng kinh trên màn hình ti vi, từ đầu đến cuối, chư vị nghe bộ Kinh này 1000 lần, xem thử khai ngộ hay chưa, rất có thể đã khai ngộ; Lại đọc thêm 1000 lần, thì đại ngộ rồi; Lại đọc 1000 lần nữa, thì đã đại triệt đại ngộ. Có người làm thực nghiệm hay không? Có, trước mắt chúng ta thì có hai người, hai người đó đều khai ngộ rồi. Làm sao biết đã khai ngộ? Kinh mà chưa từng học, kinh chưa có xem qua, chư vị lấy đưa họ xem, chư vị đọc cho họ nghe, thì họ giảng cho chư vị nghe, thông hết, thông một kinh thì thông tất cả kinh. Tại sao vậy? Bởi trí huệ viên mãn trong Tự Tánh, chỉ cần thấy Tự Tánh, thì trí huệ hiện tiền, trí huệ này: không hai không khác với chư Phật Như Lai, cho nên đều thông hết.

          Chúng ta nên suy nghĩ xem, đức Phật Thích Ca Mâu Ni: giảng kinh thuyết pháp 49 năm, là học với ai? Ai là thầy của Phật? Không có, không thầy mà tự thông. Làm thế nào mà thông? Đã làm nhìn thấu buông xuống đến tột cùng, thì thông rồi. Tại sao chúng ta không thông? Chính là không có nhìn thấu, không có buông xuống. Chưa buông xuống, thì tắc nghẽn rồi; Chưa nhìn thấu, thì nghi ngờ, vấn đề ở chỗ này. Do đó Đại sư Huệ Năng không có ai dạy ngài, mà ngài đại triệt đại ngộ, đều thông hết tất cả, thứ nào cũng thông, chưa từng đi học. Tiếp đó quay đầu lại xem, chúng ta xem thêm Khổng tử của Trung Hoa, Khổng tử là Thánh nhân. Nếu Khổng tử ra đời tại Ấn Độ, thì mọi người xưng ngài là đức Phật, nếu đức Phật Thích Ca Mâu Ni ra đời ở Trung Hoa, thì người Trung Hoa gọi Ngài là Thánh nhân, Thánh nhân của Trung Hoa: là tương đồng với cảnh giới của đức Phật, địa vị là bình đẳng, chính là Phật. Lão tử, Trang tử, Mạnh tử, là đại Bồ-tát, Lão tử, Khổng tử, Văn Vũ Chu Công đều là đức Phật, đều là vô sư tự thông.

          Vì thế chư vị thật sự muốn học, không phải không thể học, chỉ cần chư vị thật nghe lời, mấu chốt là nghe lời, thật thà, thật làm, có ba điều kiện này thì chư vị sẽ thành công. Chúng ta tìm một bộ đĩa CD học tại nhà. Tôi vừa mới nói có hai người, người đầu tiên, là Cư sĩ Lưu Tố Vân ở Đông Bắc, cô ấy mỗi ngày, tôi ước đoán: cô ấy đọc Kinh Vô Lượng Thọ 10 giờ, 20 năm không gián đoạn, cô ấy thành công rồi, không thầy tự thông rồi, kinh nào cô cũng thông rồi. Còn có Cư sĩ Hồ Tiểu Lâm, làm doanh nghiệp ở Bắc Kinh, sáu năm gần đây, ông ấy chuyên công một bộ sách: Đại thừa Khởi Tín Luận, Liệt Võng Sớ: là Chú Giải của Đại sư Ngẫu Ích, vừa Luận kèm Chú Giải: đã đọc 3000 lần, thì thông rồi. Đến nơi đây thăm tôi, tôi nói ông giảng cho tôi nghe thử, tôi đã ghi hình [bài của] ông ấy lại. Ông ấy nói với tôi, hai câu nói này của cổ nhân không sai chút nào, không phải lừa người, 一門深入,長時薰修 “nhất môn thâm nhập, trường thời huân tu” (thâm nhập một môn, huân tu lâu dài), 讀書千遍,其義自見 “Độc thư thiên biến, kỳ nghĩa tự kiến” (Đọc sách ngàn lần, tự thấy nghĩa của sách), 1000 lần tiểu ngộ, 2000 lần đại ngộ, 3000 lần đại triệt đại ngộ, không khó. Đây là Chánh Pháp, đây là Phật Bồ-tát: đã mở cho chúng ta cửa lớn, cửa ngộ, chư vị phải giác ngộ.

          Sau khi giác ngộ, thì học vị không vấn đề. Tôi nói với chư vị, đời tôi đây tốt nghiệp Trung học, sớm đã đánh mất Bằng tốt nghiệp rồi, ngày nay tôi có bốn Chức danh Tiến sĩ, do những trường học đưa đến, không phải do tôi tìm họ yêu cầu, mà do họ chủ động đưa đến, bốn Học vị đều là như vậy, đều là do trường học chủ động đưa đến. Vì sao đưa đến? Bởi những Hiệu trưởng đó nói chuyện với tôi, càng nói càng có hứng thú, càng nói càng không nỡ rời đi, nhiều lần nói chuyện thì họ đưa đến rồi. Cho nên chúng ta phải hiểu đạo lý này, chúng tôi không cầu, người ta đưa đến, chúng tôi cũng không khước từ, từ chối thì có lỗi với người, là ý tốt, họ không phải ý ác. Người thế gian thừa nhận chư vị có thực chất của Tiến sĩ, có thực chất sẽ có thanh danh, học vị đưa đến cho chư vị, đối với đại chúng xã hội cũng là một dạng khích lệ. Không có năng lực, không ai hộ trì chư vị, thì chư vị không có cách nào vào Đại học, nhưng chính mình chịu dụng công, chịu học tập, trường Đại học vẫn quan tâm chư vị, cũng chiếu cố chư vị như thế. Tương lai tầng lớp tri thức càng lúc càng nhiều, trường học càng lúc càng nhiều, người học tập càng lúc càng nhiều, cho nên hiện tại trường học không có văn bằng: thì người bình thường không dám đi học, sau khi học xong, tuy học được kiến thức, nhưng không ai dùng chư vị, xã hội ngày nay dùng người: không phải xem năng lực của chư vị, mà xem văn bằng. Chúng ta biết rõ đạo lý này.

          Vì vậy hai chữ Trung Hiếu này: quá quan trọng! Tận trung đối với ai? Với chính mình. Chính mình dùng tâm, tâm không lệch, không có tà niệm, không lệch không tà, đây chính là trung. 信,此處指世法,謂真實不欺也。“Tín, thử xứ chỉ thế pháp, vị chân thật bất khi dã.” (Về tín, nơi đây là chỉ Pháp thế gian, gọi là chân thật không lừa dối). Không lừa dối chính mình, không lừa gạt người khác, không lừa dối chính mình gọi là thành, không lừa gạt chúng sanh gọi là tín. Bắt tay đoạn ác tu thiện từ chỗ này, bắt đầu làm từ chỗ này. Chúng ta xem thêm đoạn tiếp theo, 深信因果 “thâm tín nhân quả” (tin sâu nhân quả), nhân quả là thật không phải giả.

          【當信佛經語深。當信作善得福。奉持如是等法。不得虧失。】“Đương tín Phật kinh ngữ thâm, đương tín tác thiện đắc phước. Phụng trì như thị đẳng pháp, bất đắc khuy thất.” (Phải tin sâu lời của kinh Phật, phải tin làm thiện được phước. Phụng trì những pháp như vậy, không được thiếu khuyết quên mất).

          Hai câu bên trên dạy chư vị tin, tin điều gì? Phật không gạt người, lời của Phật chân thật nhất. Cho nên người Thánh Hiền, chúng ta nói là Phật và Pháp thân Bồ-tát, đại Bồ-tát, đức Văn Thù, đức Phổ Hiền, đức Di Lặc, đức Địa Tạng, đức Quán Âm, các ngài đều là Đẳng Giác Bồ-tát, giống như Phật vậy, nhất định không có một chữ vọng ngữ, vì vậy đọc kinh của các ngài phải tin tưởng. Phần đầu tiên: của Tứ Khố Toàn Thư là kinh, kinh là gì? Là lời Thánh nhân nói. Chúng ta đã xem trong văn hóa cổ, nói là cũng có cặn bã, cũng có tinh hoa. Trong kinh toàn là tinh hoa, không cặn bã, giống trong như Sử, trong Tử Thư, trong Văn Tập có thể có. Thế nhưng phải biết, Tứ Khố Toàn Thư, Vua Càn Long năm xưa đã phái: hơn 300 học giả chuyên gia nổi tiếng của Trung Hoa, để làm gì? Chọn lọc. Nếu là cặn bã, xem không có điểm hay, lãng phí thời gian: thì bỏ đi. Có thể được đưa vào Tứ Khố: đều là sách hay, đều là tinh hoa, không có cặn bã, phải biết điều này. Chư vị nếu muốn nhận biết quyển sách này: đáng để đọc hay không, thì tra trong mục lục của Tứ Khố có hay không, nếu có thì đáng, tại sao vậy? Bởi không giá trị thì đều quét đi rồi. Sách vở được sưu tập lúc đó, có thể vào Tứ Khố là một phần, phần lựa ra ngoài: phân lượng còn nhiều hơn Tứ Khố. Chúng ta vẫn tỏ vẻ nghi ngờ sao? Thêm nữa, chúng ta có trí huệ để nghi ngờ không? Chúng ta không có năng lực này. Cho nên cũng có người hỏi tôi, người hỏi là có ý, tôi cũng hiểu, hỏi tôi trong kinh sách có cặn bã hay không? Tôi đã đáp một câu nói đùa, tôi nói có. Họ rất kinh ngạc, sao lại có được? Tôi nói xem không hiểu không phải là cặn bã sao? Thế là mọi người đồng loạt cười. Chư vị xem không hiểu, chư vị liền cho rằng đó là cặn bã, vấn đề đó không xuất phát ở kinh sách, vấn đề ở trình độ của chính họ.

          Cho nên kinh Phật, chư vị xem Chú Giải này, ở Chú Giải này: ngài Hoàng Niệm Tổ đã trích dẫn: 83 loại kinh luận (kinh điển), 110 loại Chú sớ của Tổ sư Đại đức, những Tổ sư Đại đức ấy: đều là đại triệt đại ngộ, minh Tâm kiến Tánh, cho nên bản hội tập và Chú Giải này: phải đối đãi xem như là kinh, mỗi câu đều chân thật, trí huệ chân thật, công đức chân thật, do đó chân thật không dối gạt. Dưới đây là, 深信因果 “thâm tín nhân quả” (tin sâu nhân quả), dạy chúng ta niệm Phật trong lúc bận rộn, đây là tin sâu. Phải tin sâu kinh Phật, đoạn ác tu thiện phải tin sâu. Chữ tín ở chỗ này, 指出世法 “chỉ Xuất thế pháp” (chỉ pháp Xuất thế). 謂於諸法之實體,三寶之淨德,與世出世之善根,深為信樂,使心澄淨,是為信。 “Vị ư chư pháp chi thật thể, Tam Bảo chi tịnh đức, dữ thế xuất thế chi thiện căn, thâm vi tín nhạo, sử tâm trừng tịnh, thị vi tín.” (Nói rằng với thực thể của các pháp, tịnh đức của Tam Bảo, cùng thiện căn của thế xuất thế, tin ưa sâu sắc, khiến tâm trong sạch, ấy là tín). Ý nghĩa của tín như vậy: nói được rất rộng, nói được rất sâu, chỉ ý nghĩa gì? Toàn bộ bao gồm pháp thế gian và xuất thế ở trong. Bởi vì thực thể của tất cả pháp là Tự Tánh, thực thể của tất cả pháp cũng gọi là Chân Tâm. Chân Tâm, lời trong Kinh Hoa Nghiêm, tất cả cõi nước chư Phật trong mười phương ba đời: khắp Pháp giới hư không giới, từ đâu mà đến? Chỉ do tâm hiện, tâm đó chính là Chân Tâm; Chỉ do thức biến, thức là Vọng Tâm. Chân Tâm, mê rồi thì Chân Tâm biến thành Vọng Tâm. Pháp giới do Chân Tâm hiện ra là Thế giới Cực Lạc, là cõi nước của chư Phật; Pháp giới từ Vọng Tâm hiện là mười Pháp giới, là sáu đường luân hồi, do Vọng Tâm hiện. Vọng Tâm là gì? Là ý niệm, vọng niệm.

          Chư vị phải biết, Chân Tâm không có ý niệm. Không có ý niệm mà có thể hiện, bởi duyên, tuy không có ý niệm, nhưng gặp được duyên thì Chân Tâm hiện. Nhiều nhất, phức tạp nhất ở trong duyên: là quan hệ, quan hệ giữa người và người, quan hệ giữa người và súc sanh, quan hệ giữa người và sông núi đất đai, quan hệ giữa người và cây cối hoa cỏ, quan hệ với vạn vật. Vậy thì duyên kết vào lúc nào? Vô lượng kiếp đến nay, không phải là một kiếp một đời này, mà vô lượng kiếp, quá khứ vô thỉ, vô lượng kiếp lại vô lượng kiếp, không tìm thấy mở đầu, vị lai không tìm thấy kết thúc. Hàm nghĩa ở đây rất sâu, sâu đến mức độ nào? Thật sự nhận ra chân tướng thì sáng tỏ rồi, không có mở đầu, không có kết thúc. Không có mở đầu chính là không có sanh, không có kết thúc chính là không có diệt, Pháp thân bất sanh bất diệt, có thể hiện tất cả tướng. Tướng đều là do duyên sanh, đã là do duyên sanh, thì đều không phải thật, không những tướng do tám thức hiện ra là giả, mà ngay cả y chánh trang nghiêm của mười Pháp giới, cũng là giả. Tướng của Tự Tánh hiện ra: cũng là giả, cũng không phải thật, tại sao vậy? Bởi tướng ấy không có sanh diệt. Một đằng có sanh diệt, có sanh diệt là giả, không có sanh diệt cũng là giả. Chỗ này rất thú vị, chư vị từ từ quan sát được rồi, thì chư vị buông xuống tất cả một cách tự nhiên, không phiền phức thêm nữa, không thêm một chút gánh nặng nào cho chính mình nữa. Gánh nặng ngày nay thì giống như, chúng ta trên đường nhìn thấy rất nhiều người: vác cái bao, đó chính là gánh vác. Phật Bồ-tát đều xả bỏ hết những chiếc bao này, nhìn thấu rồi, buông xuống rồi. Thế những thứ chư vị cần, thì ứng niệm mà sanh, tâm tưởng sự thành, tưởng gì có đó, chư vị vẫn muốn vác trên người làm gì, không có việc cần thiết này. Chư vị thật làm rõ ràng, làm sáng tỏ rồi, vẫn là Thế giới Cực Lạc tốt, đáng phải nên đến.

          Chúng ta phải tu Tam Bảo Tịnh đức, tất cả thiện căn trong Pháp thế gian và xuất thế, đều tin ưa sâu sắc. Đó [là] thiện căn, thiện căn của pháp thế gian là gì? Hiếu thân tôn sư, hiếu dưỡng phụ mẫu, phụng sự sư trưởng, là thiện căn của pháp thế gian. Hiện nay điều phiền phức là: mất đi hiếu đạo rồi, cũng đã mất cả sư đạo, cho nên không còn người hiếu kính nữa, không có ai từng dạy họ, họ cũng không nhìn thấy tấm gương của hiếu kính. Tôi cũng nhìn thấy một chút. Dạy thế nào? Ở giảng đường, phòng ghi hình của chúng tôi, tôi đều treo hình ảnh của thầy, hình ảnh của cha mẹ, không quên gốc. Thầy, cha mẹ còn, chúng ta tận hiếu, chúng ta quan tâm, chúng ta chăm sóc, đặc biệt là cuối đời. Con của thầy: giống như anh em ruột chúng ta vậy, có khó khăn phải giúp đỡ. Đó là gốc rễ của thiện căn.

          Chúng ta đối với những điều lão Tổ tông truyền xuống, văn hóa truyền thống nước ta là gì? Nói đơn giản 12 chữ: Hiếu Đễ Trung Tín, Lễ Nghĩa Liêm Sỉ, Nhân Ái Hòa Bình, đây chính là văn hóa truyền thống nước ta. Bộ Tứ Khố Toàn Thư, được viết, chính là viết những điều này, không tương ưng với 12 chữ này, thì nhất định sẽ không đặt vào trong Tứ Khố, đều bị lọc bỏ ra. Nói chi tiết, là Tứ khoa, Ngũ luân, Ngũ thường, Tứ duy, Bát đức. Ngũ luân, là liên hệ giữa người và người, liên hệ của tự nhiên, không phải do người nào sáng tạo, không phải do ai đó phát minh: vợ chồng, là liên hệ tự nhiên; cha con, là liên hệ tự nhiên, liên hệ tự nhiên gọi là đạo, liên hệ ấy không thể thay đổi; liên hệ của vua tôi, chính là lãnh đạo và được lãnh đạo; liên hệ lớn nhỏ, liên hệ của bạn bè, đó là thiên đạo. Bất kỳ người nào, chư vị đến nhân gian này, chung sống với người khác, đều không ngoài năm mối liên hệ này. Xử lý năm mối liên hệ này thế nào? Cha con phải hiếu từ; Phải tôn kính thầy; Vợ chồng phải hài hòa; Già trẻ phải có ngôi thứ, phải có trước sau; Bạn bè phải có tín nghĩa, nói Nhân, nói Tín, nói Nghĩa, vậy mới tính là người. Nếu những luân thường này: mà đánh mất tất cả, thế không gọi là người, người sẽ giống như loài vật, sự sai biệt giữa loài vật và người, bởi người có luân thường đạo đức, còn loài vật không có. Chúng ta phải tin điều này, phải hoan hỷ tiếp nhận, đây chính là pháp thế gian. Nếu pháp xuất thế gian, thì thêm vào một câu, khiến tâm trong sạch. Có làm được những điều đó hay không? Làm được rồi. Có đặt vào trong tâm hay không? Không đặt vào trong tâm. Không đặt vào trong tâm, thì tâm thanh tịnh rồi, trong tâm thanh tịnh: đều buông xuống hết hai bên thiện ác, cũng buông xuống cả pháp thế gian và xuất thế.

     Trong Duy Thức Luận giảng: 云何為信?於實德能深忍樂欲。心淨為性。 “Vân hà vi tín? Ư thật đức năng thâm nhẫn nhạo dục. Tâm tịnh vi Tánh.” (Thế nào là tín? Đối với thật đức có thể nhẫn sâu ưa thích. Tâm tịnh là Tánh). Chú trọng vào câu sau cùng này, thật là chân thật, chân thật là Tự Tánh, trong Tự Tánh có vô lượng trí huệ, có vô lượng công đức, có vô lượng tài nghệ, có vô lượng đức năng, nhiều vô cùng tận, dùng cũng không hết, kiến Tánh thì sáng tỏ rồi. Chân thật, Tự Tánh là chân thật, vô lượng công đức, vô lượng khả năng, đều ở trong Tự Tánh. Cho nên điều gì quan trọng nhất? Minh Tâm kiến Tánh quan trọng nhất. Nhẫn sâu với việc này, nhẫn là đồng ý, tán thành, nhạo là ưa thích, dục là chăm chỉ học tập. Tâm tịnh là Tánh, nếu tâm không thanh tịnh, đó là đức, không phải là Tánh, mà gọi là đức, tâm thanh tịnh liền quay về Tự Tánh, vốn dĩ tâm chính là Tự Tánh.

          Và trong Đại thừa Nghĩa Chương có nói: 於三寶等,淨心不疑,名信。 “Ư Tam Bảo đẳng, tịnh tâm bất nghi, danh tín.” (Đối với Tam Bảo vân vân, tâm thanh tịnh không nghi, thì gọi là tín). Tam Bảo là Phật pháp Tăng, ngày nay có thể tâm tịnh không nghi được không? Quá khó rồi. Tại sao vậy? Bởi người hiện tại đã tập thói quen nghi ngờ từ nhỏ. Nên đức tín này rất khó rất khó. Xem kinh Phật thì nghĩ rằng, kinh Phật đó: từ Phạn văn Ấn Độ phiên dịch qua, chẳng lẽ không có sai sót sao? Có dịch sai một câu một chữ nào không? Ngày nay bảo chư vị dịch một bài văn, chắn chắn có sai sót, mỗi người dịch khác nhau, làm sao có thể bảo người ta không nghi ngờ? Kinh này là Phật truyền xuống từng đời một, đã truyền mấy ngàn năm, thật có người như vậy không? Là thật hay là giả, hay là do người xưa ngụy tạo ra lừa chúng ta? Nghi ngờ đủ cả. Nghi ngờ đối với kinh sách, nghi ngờ đối với người xuất gia, sáu căn của người xuất gia thật sự thanh tịnh không? Thật sự đã buông xuống chưa? Cho nên phiền phức lớn rồi, rất khó sanh lòng tin. Khi xưa tại sao: lại dễ dàng có lòng tin như vậy? Bởi bồi dưỡng từ nhỏ. Từ khi họ ra đời, cha mẹ không lừa họ, họ lớn lên rồi, biết nói chuyện, biết đi rồi, người cả nhà họ không gạt họ, đều nói thật với họ; Sau khi lớn lên, nhìn thấy thầy, bạn học, nhìn thấy những người lạ đều chú trọng chữ tín, không có ai không giữ chữ tín, thì họ tin tưởng, họ nhìn thấy rồi. Vì vậy người hiện tại tâm nghi quá nặng.

          Và trong Câu Xá Luận cũng nói, đây là Luận của Tiểu thừa, 信者,令心澄淨 “tín giả, linh tâm trừng tịnh” (tín là: khiến tâm trong sạch). 今聞佛經,並信經語甚深 “Kim văn Phật kinh, tịnh tín kinh ngữ thậm thâm” (Nay nghe Kinh Phật, đồng thời tin thật sâu lời kinh). Bốn chữ này rất quan trọng, tín có thể khiến cho tâm trong sạch. Tâm của chúng ta tịnh không nổi, trong tâm chúng ta có rất nhiều ô nhiễm, rửa không sạch sẽ, chỗ này dạy chúng ta phương pháp, tu tín tâm, thì có thể giúp chư vị tâm tịnh lại. Trừng tịnh, chính là tâm thanh tịnh: giảng trên đề Kinh của chúng ta, tâm thanh tịnh là Chân Tâm, không có ô nhiễm. Tín, là không nghi ngờ, có thể khiến cho tâm chính mình thanh tịnh, lời nói này là thật. Người tâm không thanh tịnh chúng ta, đối với điều gì cũng tin tưởng, đều không nghi ngờ, tâm của họ rất dễ dàng tịnh lại, đây là phương pháp rất tốt.

          《大論》曰:信為能入。 “Đại Luận viết: Tín vi năng nhập.” (Đại Luận nói rằng: Tin thì nhập được). Nhập là gì? Nhập chính là khai ngộ, nhập vào rồi. Ngày nay chúng ta đọc kinh Phật, ngày nay không có cao nhân giảng giải cho chúng ta, chúng ta có thể nhập không? Có thể, tin thì có thể, tin tưởng cổ nhân, thâm nhập một môn. Học chỉ có thể học một bộ, không thể học nhiều, học nhiều thì học tạp, học loạn rồi, không dùng được công lực, có khuyết điểm này. Do đó nhất môn, sau khi học xong một môn lại học một môn nữa, thì có thể, sau khi học xong môn thứ hai thì học môn thứ ba, vậy thì được, học từng thứ một, đều có thể thành tựu. Chưa học thành tựu một môn, tuyệt đối không học môn thứ hai, đây là phương pháp quan trọng trong học tập. Đại Luận, là Đại Trí Độ Luận, đã nói: tín thì vào được, có thể vào Đại thừa. 故能從人乘,而直趨大乘圓門 “Cố năng tùng Nhân thừa, nhi trực xu Đại thừa Viên môn” (Nên có thể từ Nhân thừa, mà mau hướng thẳng đến cửa viên mãn Đại thừa), Đại thừa là viên mãn, 念佛求生也 “niệm Phật cầu sanh dã” (niệm Phật cầu vãng sanh). Đây đã dạy cho chúng ta, ngày nay chúng ta từ cõi người, Nhân thừa, đều không nghi ngờ đối với gì cả. Làm thế nào không nghi ngờ? Chúng ta tin tất cả mọi người: đều là do Tự Tánh của chúng ta biến hiện, chúng ta tin lời của Đại sư Lục tổ Huệ Năng, 何期自性,能生萬法 “hà kỳ Tự Tánh, năng sanh vạn pháp” (nào ngờ Tự Tánh, có thể sanh ra vạn Pháp), người là một loại ở trong vạn pháp, là do Tự Tánh của ta sanh ra, ta không nghi ngờ, ta có thể tin tưởng, ta có thể tin Tánh người vốn thiện. Thế bất thiện thì sao? Bất thiện là tập tánh, là do họ gặp phải duyên không tốt mà học được, bản Tánh của họ là lương thiện. Tin Tánh người vốn thiện, đối với việc sai lầm của người khác: thì tự nhiên có thể tha thứ, Bản Tánh của họ vốn thiện, đáng tiếc không ai dạy họ, họ bị người xấu, bị môi trường xấu dẫn tới hư hỏng, về tình tha thứ, không tính toán nữa, sẽ không trừng phạt họ. Mà giúp họ quay đầu, giúp họ tăng trưởng tín tâm, đây là tin tưởng Phật pháp, tin Phật pháp thì chư vị có thể có được Phật pháp, Phật pháp có thể giúp chúng ta: thoát khỏi sáu đường luân hồi.

          Tiếp theo, 復信因果不虛。故信作善得福而精進向善 “phục tín nhân quả bất hư. Cố tín tác thiện đắc phước nhi tinh tấn hướng thiện” (lại tin nhân quả không hư dối. Nên tin làm thiện được phước mà tinh tấn hướng thiện). Về điều này, lòng tin rất quan trọng. Thí như nếu chư vị thật sự có thể tin: ba loại Bố thí này được ba loại quả báo, thì chư vị sẽ không gạt người, chư vị sẽ không làm người xấu, tại sao vậy? Bởi chư vị sáng tỏ rồi. Tài từ đâu mà đến? Đến từ Bố thí tài, tài của họ nhiều hơn tôi, họ Bố thí nhiều hơn tôi, tôi phải ra sức Bố thí, tôi phải đuổi kịp họ, tôi chắc chắn càng nhiều hơn họ. Là thật, không giả chút nào. Thông minh trí huệ, bởi ưa thích giảng kinh thuyết pháp cho người, vui thích khuyên người làm thiện, giúp người đoạn ác, thì sanh trí huệ. Ưa thích cứu hộ tất cả chúng sanh, được khỏe mạnh sống lâu. Đều là nhân quả, chỉ cần chư vị tin tưởng thật làm, thì quả báo của chư vị nhất định không hư dối. Làm thiện, biết làm thiện được phước, thì chư vị sẽ tinh tấn hướng thiện. 『奉持如是等法』“Phụng trì như thị đẳng pháp” (Phụng trì những pháp như vậy), chỉ tất cả thiện pháp đã nói bên trên, 『不得虧失』“bất đắc khuy thất” (không được thiếu mất), chư vị không được thiếu khuyết, không được đánh mất. Khuy là giảm tổn, không có giảm bớt, không có mất đi. 以上數句經文(從當信至虧失),表從世間人乘,趨向極樂一乘也。 “Dĩ thượng số cú kinh văn (tùng ‘đương tín’ chí ‘khuy thất’), biểu tùng thế gian Nhân thừa, xu hướng Cực Lạc Nhất thừa dã.” (Những câu kinh văn phía trên (từ ‘phải tin’ đến ‘thiếu mất’), tỏ rõ từ Nhân thừa của thế gian, đi nhanh về Nhất thừa của Cực Lạc). Chúng ta phải học, phải xem trọng.

          Đời này chúng ta được thân người là không dễ, thật quá khó! Trên kinh giảng, một khi đọa tam đồ là 5000 kiếp, chư vị liền hiểu được không thể làm việc xấu, không thể lừa gạt người. Lừa gạt người, làm việc xấu, thì 5000 kiếp không lìa khỏi ba đường, luân hồi, luân hồi trong ba đường: địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, khổ không nói nên lời. Không dễ dàng được thân người, mà gặp phải môi trường không tốt, lập tức lại mê rồi, chư vị nói đáng thương biết bao. Làm thế nào bảo đảm chính mình không mê? Không thể mất đi kinh sách. Phải học tập kinh sách ra sao? Phải nghiêm túc học tập, chính là 讀書千遍,其義自見 “độc thư thiên biến, kỳ nghĩa tự kiến” (đọc sách ngàn lần, tự thấy nghĩa của sách), ta đọc xong 1000 lần rồi, ta giảng cho người khác nghe; Đọc xong 2000 lần rồi, ta lại giảng cho người khác nghe, giảng được càng sâu, giảng được càng rộng; Đọc xong 3000 lần rồi, ta lại giảng cho người khác nghe, giảng được càng thấu triệt, khiến người khác sẽ không nghi ngờ nữa. Bố thí pháp được thông minh trí huệ, Bố thí vô úy được mạnh khỏe sống lâu. Về vô úy, ăn chay chính là việc đầu tiên, ta áp dụng việc ăn chay, để không kết ác duyên với chúng sanh thêm nữa, chính mình sống lâu, chính mình mạnh khỏe, quả báo là thật, không phải giả. Lão Hòa thượng Hải Hiền làm thị phạm cho chúng ta, mỗi ngày ngài làm việc là lao động, lao động thân thể, làm đến khi nào? Ngày vãng sanh vẫn còn làm cả ngày, trồng rau trong vườn rau, đã bận cả ngày, ban đêm thì đi rồi. Chư vị xem, cả ngày đó đều không chịu nghỉ ngơi, làm tấm gương cho chúng ta xem. Đó là từ Nhân thừa của thế gian, đi nhanh về Nhất thừa Cực Lạc, chúng ta cần nên phải làm. Thời gian hôm nay hết rồi, chúng ta học tập đến đây thôi.

(Hết tập 334)

Nguyện đem công đức này
Hướng về khắp tất cả
Đệ tử cùng chúng sanh
Đều sanh nước Cực Lạc
Sớm viên thành Phật quả
Rộng độ khắp chúng sanh.

 Nam Mô A Di Đà Phật.

Trả lời 0