TỊNH
ĐỘ ĐẠI KINH KHOA CHÚ 2018 (giảng lần thứ 5)
TẬP
1
Hòa thượng
Tịnh Không chủ
giảng.
Giảng tại: Chùa Cực
Lạc, Đài Nam, Đài Loan.
Thời
gian: Ngày 19 tháng 1 năm 2018.
Dịch giả:
Thích Thiện Trang.
Mời mở trang 137, sách Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ
Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh Khoa Chú. Chúng ta bắt đầu xem từ đoạn thứ nhất:
講述因緣:一、蓮社授經,慈光聞法。二、華嚴啟信,決擇行門。三、專修專弘,念佛三要:不懷疑、不夾雜、不間斷。四、流通疏註,廣結勝緣。五、遵師教誨,海外傳燈,化解劫難,唯獨此經。六、感得經解,願海同證,一門深入,長時薰修。
“Giảng
thuật nhân duyên: nhất, Liên Xã thụ kinh, Từ Quang văn pháp. Nhị, Hoa Nghiêm khải
tín, quyết trạch hành môn. Tam, chuyên tu chuyên hoằng, niệm Phật tam yếu: Bất
hoài nghi, bất giáp tạp, bất gián đoạn. Tứ, lưu thông sớ chú, quảng kết thắng
duyên. Ngũ, tuân Sư giáo huấn, hải ngoại truyền đăng, hóa giải kiếp nạn, duy độc
thử kinh. Lục, cảm đắc Kinh giải, nguyện hải đồng đăng, nhất môn thâm nhập, trường
thời huân tu”( Bày tỏ nhân duyên: Một, tôi nhận kinh ở Liên Xã,
nghe pháp tại Từ Quang. Hai, từ Kinh Hoa Nghiêm mở lòng tin, mà quyết chọn hành
môn. Ba, chuyên tu chuyên hoằng, ba trọng yếu của niệm Phật: Không hoài nghi,
không xen tạp, không gián đoạn. Bốn, lưu thông chú sớ giải, để rộng kết thắng
duyên. Năm, tuân lời thầy dạy, truyền đăng khắp chốn, để hóa giải kiếp nạn, chỉ
có mỗi Kinh này. Sáu, cảm được Chú giải Kinh, nguyện cùng lên Biển Giác, một
môn thâm nhập, huân tu lâu dài ).
Kính thưa chư vị Pháp sư,
chư vị đồng học, kính chúc mọi người năm mới tốt lành! Bản hội tập Kinh Vô Lượng
Thọ của Lão Cư sĩ Hạ Liên Cư, chúng ta đã học không ít năm. Ở những lần giảng đầu,
chúng ta không xem được Chú giải của Niệm Công, chúng tôi có được bản Kinh này,
là do Lão Cư sĩ Lý Bỉnh Nam, Ngài tuyên giảng bản kinh này tại Đài Trung. Đây
là bản kinh mà Lão sư trao cho tôi, tôi xem xong thì vô cùng hoan hỷ, lúc đó tôi
liền hướng thầy báo cáo, con muốn nghiên cứu giảng bộ kinh này. Thầy nói với
tôi, hiện nay không được, duyên chưa chín muồi.
Qua hai hay ba năm sau, tôi
mới hiểu rõ vì sao duyên chưa chín muồi. Là vì có những người phản đối bản hội
tập, tạo thành chướng ngại rất lớn đối với bản hội tập. Nếu chúng tôi giảng bộ
kinh này, tất phải biện luận với những người đó, đấy là điều không tốt. Cho
nên, Lão sư dạy tôi cần đợi duyên chín muồi. Khi duyên này chín muồi thì Lão sư
Lý đã vãng sanh rồi. Lúc đó tôi ở tại nước Mỹ, sau khi tin Ngài vãng sanh truyền
đến nước Mỹ, tôi liền mau chóng từ Mỹ trở về, tham gia hoạt động ấy. Đồng thời,
ở tại Mỹ tôi khai giảng bản hội tập này của Liên công, tôi nhớ trước sau tôi đã
giảng 10 lần. Lão sư Lý chú thích rất đơn giản, hoàn toàn dùng bút lông viết lên
bản kinh, là bản trong tay tôi, hiện nay tôi đã giao bản ấy cho Cư sĩ Hồ Tiểu
Lâm bảo quản.
Về sau, tại nước Mỹ, tôi đã gặp được Lão Cư sĩ
Hoàng Niệm Tổ, hoan hỷ vô lượng. Vào thời gian đó, ở hải ngoại, tôi là người
duy nhất giảng bộ kinh này, còn ở trong nước, thì Ngài cũng giảng bộ kinh này, nên
chúng tôi gặp nhau vui mừng vô cùng. Bản chú giải đã ra đời, lúc đó vô cùng
gian nan, bản thảo ban đầu là bản in dầu, đến hiện nay thì không thấy nữa, rất
là lạc hậu rồi. Chữ còn coi như là rõ ràng, tôi từ đầu đến cuối đọc qua một biến.
Tôi hỏi Niệm Lão: sách này của Ngài có bản quyền không? Ngài nói: vì sao thầy hỏi như vậy? Tôi nói: tôi muốn in lại, Ngài có bản quyền, thì tôi tôn trọng
Ngài, nếu Ngài không có bản quyền, thì tôi đưa đến Đài Loan để in lại. Ngài mỉm
cười, nói không có bản quyền. Nên lần đầu tiên chúng tôi ấn bản tại Đài Loan, đã
in một vạn quyển, loại bìa cứng, cũng đem mấy bộ tặng cho Niệm Lão, mọi người
xem thấy vô cùng hoan hỷ. Đó là bản chú giải kinh sớm nhất.
Bản hiện nay tôi dùng, là bản
mà Niệm Lão đã tu sửa, Ngài đã mất không ít thời gian để tu chỉnh lại. Kinh hội
tập được tận thiện tận mỹ, chú giải cũng là hội tập, Ngài đã dùng hơn 190 loại
kinh luận, chú sớ, để làm chú giải. Cho nên, Kinh là bản hội tập, Chú Giải cũng
là bản hội tập, đáng quý khó được! Bản chú giải này tốt ở chỗ nào? Là mỗi một
câu, mỗi một chữ đều có nguồn gốc, đều không phải tùy tiện mà viết. Đây là dạng
tập chú để chú giải cho kinh, đại khái Ngài là người đầu tiên làm việc này, trong
quá khứ thì chúng ta chưa từng thấy qua. Cách làm này, đối với hiện nay và thời
đại sau, có thể nói là thái độ vô cùng có trách nhiệm. Khiến mọi người sau khi
gặp được, cảm thấy rất sâu sắc thân thiết, như mặt đối mặt cùng nói chuyện vậy.
Đã giúp chúng ta tăng trưởng tín tâm, không có hoài nghi.
Sau đó, tôi giảng bộ kinh
này, thì dùng chú giải của Niệm Lão, trước sau giảng qua bốn lần. Hôm nay là lần
giảng thứ năm, lần trước tôi gọi là lần thứ tư, còn đây là lần thứ năm. Tôi
phát nguyện: trong đời này, tôi chuyên tu chuyên hoằng, nương theo bộ kinh, bộ
chú giải này tu học, hoằng dương cũng là bộ kinh này. Giảng kinh dạy học 59
năm, trong lúc tuổi đã lớn này, chính tôi không biết không cảm thấy mình đã già
rồi, năm nay là 92 tuổi. Thể lực, bề ngoài nhìn thấy vẫn tốt không tệ, nhưng
bên trong có thể có vấn đề, tôi cảm thấy vẫn không đến mức nghiêm trọng, nhưng
khí lực không đủ, chư vị đồng tu có thể nhìn thấy rõ ràng như vậy. Vì thế giảng
kinh, tôi thử nghiệm xem mỗi lần giảng một giờ. Nếu giảng hai giờ, thì sau đó trung
khí không đủ, không lên giảng buổi tiếp theo được. Đây là cảnh báo cho tôi, cảnh
báo điều gì? Phải mau mau bồi dưỡng đồng học có thể giảng Kinh Vô Lượng Thọ,
người xuất gia hay tại gia đều tốt. Hy vọng mọi người phát tâm, vì sao vậy? Vì
bộ kinh này quá tốt.
Trong phần nhân duyên này,
tôi đã viết sáu điều, ‘Liên Xã thụ kinh’(nhận
kinh ở Liên Xã), là Phật giáo Liên Xã Đài Trung, Lão
sư Lý chú thích bên lề bản kinh này, tại nơi đó trao cho tôi. ‘Từ Quang Văn Pháp’(nghe pháp tại Từ Quang), là
Từ Quang Đồ Thư Quán Đài Trung, ở đó Lão sư Lý không có giảng bộ kinh này, nghe
pháp đây là tất cả kinh luận Đại Tiểu thừa. Tôi đã ở tại Đài Trung 10 năm, tức
là theo học giảng kinh với Lão sư Lý, cũng tính là có chút thành tựu, tôi vô
cùng cảm ơn. Học kinh giáo, tôi có thể là đệ nhất của Đài Loan, có thành tựu rõ
ràng. Vì có người học thành tựu, có người học không thành tựu.
Khi tôi ở Đài Trung, tôi
cũng mời hai vị đồng học, giới thiệu họ với Lão sư Lý, hy vọng ba người chúng
tôi cùng theo học với Ngài. Nhưng hai người ấy học chưa đến một năm, thì rời khỏi.
Họ nói rằng, tiến độ giảng kinh của Lão sư Lý quá chậm, một tuần chỉ giảng một
lần, đã lãng phí rất nhiều thời gian của chúng tôi. Lời này nói được không sai,
tuy nhiên, nếu như chúng ta đem nhân duyên này bỏ qua, thì ai đồng ý dạy chúng
ta giảng kinh? Đây là vấn đề rất thực tế. Cho nên, những đồng học đó đã ra đi, còn
một mình tôi ở lại Đài Trung, kiên trì đến 10 năm. Đây cũng là khi gặp nhau,
tôi và thầy đã ước định sự việc rồi, tôi nói: con hy vọng theo thầy ít nhất 10
năm, 10 năm con mới rời đi.
Trong 10 năm đó, tôi cũng đã
giảng không ít kinh, tôi nhớ tôi xuất gia ở chùa Lâm Tế, Viên Sơn, Đài Bắc. Hai
hay ba ngày sau, thì Pháp sư Bạch Thánh tìm tôi, Ngài đã lập ra Phật Học viện, tên
là Tam Tạng Học viện, tại chùa Thập Phổ, Ngài muốn tôi đến Tam Tạng Học viện của
Ngài để dạy học. Nên có thể nói, tôi xuất gia hai ngày, thì lên đài giảng kinh.
Giảng kinh dạy học 59 năm, đến năm sau là tròn một giáp, tôi cũng nghĩ đến, tôi
giảng kinh nên đến một giáp là viên mãn rồi. Về sau, tôi hy vọng những đồng học
của tôi đều có khả năng lên đài, giảng càng hay hơn tôi, càng viên mãn và khế cơ
hơn tôi. Đây là nguyện vọng của tôi, mong sự nghiệp giảng kinh dạy học không bị
gián đoạn.
Duyên phận học Phật của tôi,
có mối liên hệ với Giáo thọ Phương Đông Mỹ, tôi biết được Ngài, Ngài là giảng
viên Triết học nổi tiếng của Đài Loan. Lúc ấy, tôi yêu thích Triết học, nên bái
Ngài làm thầy. Khóa học của tôi là tại nhà của Ngài, học sinh chỉ có một mình
tôi, là một thầy một trò, học tại phòng khách nhỏ nhà thầy. Một tuần lễ chỉ học
một buổi, vào sáng chủ nhật từ lúc chín giờ rưỡi đến 11 giờ rưỡi, là hai tiếng
đồng hồ, Ngài đã giảng cho tôi một bộ Triết Học Khái Luận. Sau cùng, Ngài giảng
cho tôi một đề mục là Triết học Phật Kinh, tôi cảm thấy rất là ngạc nhiên, nên tôi
hướng đến thầy thỉnh giáo, tôi nói: Phật giáo là tôn giáo, là mê tín, thì làm
sao mà có Triết học được? Lão sư Phương nói với tôi: Anh tuổi còn trẻ nên không
biết, ‘Thích Ca Mâu Ni Phật là nhà Triết học vĩ đại nhất trên thế giới’. Tôi
chưa bao giờ nghe nói như vậy, đó là lần đầu nghe được những lời này ở nhà của
Ngài, ‘Kinh điển Đại thừa là đỉnh cao nhất của Triết học trên toàn thế giới’.
Trong những Kinh điển Đại thừa, Ngài giới thiệu cho tôi bộ kinh đệ nhất, đó là Đại
Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh. Đây là kinh tôi cũng đã giảng qua, nhưng giảng
chưa xong, đại khái đã giảng được phần đầu là một phần năm của toàn kinh.
Tôi từ Triết học mà nhập
môn, nên đời này của tôi, thường thường ở trong và ngoài nước đều giảng, hoặc thảo
luận đến Phật pháp, tôi đều nói: đấy là nền giáo dục của Đức Phật. Có những lão
bằng hữu nghe được cách nói này của tôi, họ đều đồng ý, không hoài nghi, rất
nghiêm túc chấp nhận. Phật giáo thật sự là giáo dục, cùng một mục tiêu, phương
hướng, thành tựu giống với giáo học của Cổ Thánh Tiên Hiền Trung Hoa, mục đích dạy
học ấy là khai ngộ, không phải là học kiến thức chết cứng. Phật giáo dạy chúng
ta khai ngộ, Nho, Đạo cũng dạy chúng ta khai ngộ, đây là sự khác nhau giữa giáo
học của phương Đông và phương Tây.
Nếu Thích Ca Mâu Ni Phật
sinh tại Trung Hoa, thì người Trung Hoa gọi Ngài là Thánh nhân, cũng giống như Khổng
Tử vậy. Nếu Khổng Tử sinh tại Ấn Độ, thì người Ấn Độ nhất định xưng Ngài là Đức
Phật. Do đó chúng ta biết, Đức Phật và Thánh nhân vốn là địa vị như nhau, là những
người có đại thành tựu. Sự thành tựu lớn đó là minh tâm kiến tánh, kiến tánh
thành Phật. Khổng Tử có minh tâm kiến tánh không? Có. Quý vị thường hay đọc
sách Tứ Thư, thì quý vị biết rõ, Ngài là đại triệt đại ngộ. Phương pháp Ngài dùng,
thành tựu thu được, cùng với Đức Phật là không hai, hoàn toàn tương đồng. Cho
nên chúng ta khẳng định, những Thánh nhân ấy, là người một nhà, vô cùng thân
thiết, phương pháp các Ngài sử dụng cũng hoàn toàn tương đồng.
Từ đâu để nhập môn? Đại sư
Chương Gia đã nói với tôi. Ngài là người thầy thứ hai của tôi, duyên rất thù thắng.
Đại khái sau hai tháng từ khi Lão sư Phương đem Phật pháp giới thiệu cho tôi,
thì tôi biết được Đại sư Chương Gia, Ngài là một nhà Phật học, sách Ngài viết cũng
chất cao bằng người. Đáng tiếc, trước tác của Ngài viết bằng chữ Tây Tạng, vô
cùng phong phú, nhưng khi đến Đài Loan, tình thế lúc đó rất khẩn cấp, nên Ngài
không có thể mang theo. Tất cả tác phẩm Ngài viết vào cuối đời tại Đài Loan, số
lượng ít, phân lượng không nhiều. Lần đầu tôi gặp Ngài, tôi hướng Ngài thỉnh
giáo: Thầy Phương nói với con, Phật pháp là giáo dục, kinh điển là sách giáo
khoa, con có thể tiếp nhận, nhưng không biết nhập môn từ đâu, Đại sư có thể chỉ
cho con phải từ đâu để nhập môn không ạ? Tôi đưa vấn đề ra rồi, thì Ngài nhìn
tôi, tôi cũng nhìn Ngài. Tôi và Ngài đã nhìn nhau nữa giờ, không nói một câu
nào, giống như nhập định vậy. Thật ra yêu cầu của Ngài là nhập định, vì tính
khí quý vị bộp chộp nóng nảy, nên Ngài không giảng nói cho quý vị. Ngài nhìn
vào quý vị, khiến quý vị cũng nhìn Ngài, để hoàn toàn định xuống rồi, thì Ngài
mới nói cho quý vị. Ngày đầu tiên gặp Ngài, tôi nêu lên vấn đề đó, còn Ngài thì
dùng phương pháp ấy để dạy tôi.
Tôi đợi đến nửa tiếng đồng hồ,
Ngài mới mở lời, nói hai câu gồm sáu chữ ‘nhìn được thấu, buông được xuống’.
Hai câu này mới xem dường như không khó hiểu, ý nghĩa cũng rất rõ ràng chính
xác, nhưng chúng ta đều hiểu hai câu ấy nông cạn, xem thường rồi, đây là giáo dục
của Thánh Hiền, Phật Bồ-tát dạy học quan trọng nhất là phương pháp. Tại sao vậy?
Vì quý Ngài muốn chúng ta khai ngộ. Vì sao chúng ta không thể khai ngộ? Bởi quý vị không nhìn thấu, không buông xuống. Không dễ dàng gì
nhìn thấu, buông xuống, nếu quý vị làm được, thì thật sự quý vị có thành tựu rất
nhanh chóng.
Về sau, tôi lại đọc sách
Nho, đọc Tứ Thư, trong đó có sách Đại Học, những đại Thánh đại Hiền thời cổ làm
sao để thành tựu? Chúng ta đối chiếu, vốn giống với Phật, đó là nhìn thấu,
buông xuống. Nhưng quý Ngài không dùng bốn chữ đó, mà quý Ngài dùng là ‘cách vật,
trí tri’. Ý nghĩa cách vật là gì? Đó là buông xuống, quý vị có thể đem sự ham
muốn vật buông xuống, gọi là cách vật. Trí tri là trí huệ, quý vị có thể đem
chân tướng sự thật nhìn thấu, thì người đó liền là Bồ-tát, là Phật. Tiếp theo
đây giảng cho chúng ta làm thế nào? Quý vị làm sao mới có thể nhìn thấu, mới có
thể buông xuống, sách Đại Học nói là thành ý, chánh tâm, bắt đầu từ nhìn thấu,
buông xuống, để chân tâm hiện ra. Nên chúng ta thấy phương pháp của Khổng Tử
dùng, cùng với lời giảng của Thích Ca Mâu Ni Phật hoàn toàn tương đồng. Chúng
ta chỉ thừa nhận Khổng Tử là giáo dục, mà không thừa nhận Thích Ca Mâu Ni Phật
là giáo dục ư?
Học vấn thật sự không đến từ
bên ngoài, bên ngoài không có, mà vốn đầy đủ ở trong Tự-tánh của quý vị. Quý vị
muốn trí huệ, cần đức hạnh, thì quý vị lấy từ trong tâm quý vị ra, đó
là sự thật, học đến từ bên ngoài đó là giả, không phải thật. Cho nên, Phật pháp
gọi là nội học, hướng nội để cầu, không hướng ngoại cầu, không thể không biết
điều này. Hướng bên ngoài để cầu là tri thức, còn hướng nội để khai phát là trí
huệ, trí huệ là vốn có của Tự-tánh, Tự-tánh khởi tác dụng, tức là trí huệ.
Hiện nay chúng ta làm sai
hoàn toàn rồi, đó là không buông xuống. Vì sao không buông xuống? Bởi không
nhìn thấu. Nhìn thấu, liễu giải chân tướng của sự thật, chúng ta không biết
chân tướng sự thật. Ta từ đâu mà đến? Không biết được. Tương lai ta sẽ đi về
đâu? Cũng không biết. Ta sẽ làm gì? không biết. Đời này từ mê mờ mà sanh ra, lần
mò cả cuộc đời, mê mờ đến lúc chết, không có nhìn thấu, quý vị nói có oan uổng
không? Vậy thì
phải làm sao? Không nhìn thấu được, thì làm lục đạo luân
hồi, còn nhìn thấu được, thì siêu việt lục đạo luân hồi, không giống nhau. Vượt
khỏi sáu đường luân hồi, Tiểu thừa là A-la-hán, Đại thừa là Quyền giáo Bồ-tát, quý
vị tu hành đã chứng quả rồi. Nên quý vị thấy nhìn thấu, buông xuống là vô cùng
quan trọng.
Buông xuống điều gì? Buông
xuống tất cả vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, mỗi mỗi đều buông xuống, không
nên để ở trên tâm, thì quý vị mới có thể nhập môn. Nhập môn được như vậy, thì
quý vị mới có thể liễu giải chân tướng sự thật, tức là nhìn thấu. Ngưỡng cửa của
Phật pháp rất cao, bao nhiêu người có thể buông xuống được?
Những điều chứa trong tâm
quý vị toàn là không cần thiết, vì sao vậy? Không phải là Tự-tánh của quý vị biến
ra. Tự-Tánh biến ra là thuộc về chân. Tự-tánh biến ra điều gì? Quý vị đến Thế
Giới Cực Lạc thì biết được. Tư tưởng của Tự-tánh biến ra, là vô lượng trí huệ;
cảnh giới của Tự-tánh biến ra, là nhất Nhất-chân Pháp-giới. Chúng ta nghe đến
danh từ này, ý nghĩa thế nào cũng không hiểu, nếu quý vị niệm Phật vãng sanh,
sanh đến Thế Giới Tây Phương Cực Lạc, thì quý vị hoàn toàn hiểu rõ. Thế Giới Cực
Lạc tốt đẹp, từ đâu mà đến? Là từ Tự-tánh biến ra. Thế giới này của chúng ta thì
thế nào? Là từ tâm tưởng sanh, từ A-lại-da thức biến ra, chứ không phải từ Tự-tánh.
A-lại-da là vọng tâm, còn Tự-tánh là chân tâm.
Chân tâm tốt đẹp! Quý vị xem
câu đầu tiên trong Tam Tự Kinh là: ‘Nhân chi sơ, tánh bổn thiện’, đó chính là
chân tâm, là Tự-tánh, vốn thiện. Nó biến ra tất cả hiện tượng, cũng chí thiện. Vãng
sanh đến Thế Giới Cực Lạc, được thân là vô lượng thọ. Thân thể chúng ta ở thế
giới này, mấy mươi năm thì suy lão rồi, không sử dụng được nữa, làm sao có thể
so sánh với Thế Giới Cực Lạc được? Thế Giới Cực Lạc dùng chân tâm, cảnh giới hiện
là thật, cảnh giới thật tức là Thật-báo-trang-nghiêm-độ, chúng ta nói
Pháp-tánh-thân, Pháp-tánh-độ, đó là thuộc về chân. Ngày nay chúng ta tại địa cầu
này, là Pháp-tướng-thân, là Pháp-tướng-độ, vả lại tướng trong đây là mê hoặc
điên đảo.
Chỉ có Phật biết, Khổng Tử
biết, Khổng Tử và Phật chưa từng gặp mặt, nhưng cảnh giới của quý Ngài là bình
đẳng, những điều quý Ngài nói cũng là tương đồng, chúng ta phải dùng tâm cẩn thận
để quan sát mới phát hiện ra. Khổng Tử vốn là Phật, Phật vốn là Khổng Tử, là một
không phải hai. Lời này giải thích thế nào? Nói theo giáo lý Đại thừa, là minh
tâm kiến tánh, quý vị có thể buông xuống được vô minh phiền não, trần sa phiền
não, kiến tư phiền não, thì quý vị liền chứng được, nhìn thấu được rồi. Nhìn thấu
thì đương nhiên buông xuống, buông xuống giúp quý vị nhìn thấu, nhìn thấu giúp
quý vị buông xuống, đấy gọi là tu hành. Nhìn thấu là trí huệ, buông xuống là
công phu. Công phu của Bồ-tát từ đâu mà rèn luyện? Là sáu căn trong cảnh giới
sáu trần, mắt thấy sắc, thấy được rõ ràng minh bạch, không để ở trên tâm. Phàm
phu nhìn thấy rõ ràng hay không đều để ở trên tâm, tai nghe được cũng để trên
tâm, lục căn tiếp xúc với cảnh giới lục trần, đều đem tất cả để trên tâm. Tâm của
quý vị bị những trần cấu này làm ô nhiễm rồi, vốn là chân tâm, hiện nay biến
thành vọng tâm, là sai rồi.
Chúng ta học tập Kinh Vô Lượng
Thọ lần này là lần thứ năm, tôi nghĩ chúng ta nên đổi cách thức, quá khứ tôi giảng
mọi người nghe, hiện nay chúng ta dựa vào kinh văn để nghiên cứu thảo luận, thì
lợi ích càng lớn hơn. Thí dụ như ngày nay quý vị nói: nhìn thấu, buông xuống rất
quan trọng. Phương pháp này quan trọng như vậy, mà quý vị không chịu làm, thì
quý vị trách ai? Quý vị còn thuận theo nhiễu loạn trong chốn hồng trần, còn làm
lục đạo luân hồi, thì sai rồi!
Nếu chúng ta đều buông xuống,
vì sao phải buông xuống? Bởi là giả, không phải là thật. Trên địa cầu này không
có thứ gì là thật, hiện nay những điều nhà khoa học nói với chúng ta, so với
trong kinh Phật là giống nhau. Kinh Kim
Cang nói với chúng ta: ‘Nhất thiết hữu vi pháp, như mộng huyễn bào ảnh, như lộ
diệc như điện, ưng tác như thị quán’, vậy thì đúng rồi. Ngày nay chúng ta làm
sai rồi. Nhất thiết hữu vi pháp, pháp hữu vi thì có sanh có diệt, tất cả pháp của
thế giới chúng ta đây, bao gồm địa cầu, những ngôi sao, mặt trời, tất cả đều là
pháp sanh diệt, gọi là hữu vi pháp. Phật dùng tỷ dụ này để nói, như mộng huyễn
bào ảnh, không đạt được, toàn là giả thôi. Quý vị lại làm những việc như vậy,
thật đáng thương!
Phật Bồ-tát, Khổng Tử, Mạnh
Tử của Trung Hoa, những chuyên gia học giả của Đạo gia, tuy quý Ngài không như
vô vi pháp trong kinh Phật, nhưng quý Ngài tiếp cận với vô vi pháp, cao hơn học
thuật của phương Tây. Vô cùng đáng tiếc, hiện nay không có người kế thừa. Nhiều
năm qua, mười phương cúng dường cho tôi không nhiều, rất ít, cả đời tôi không hỏi
người để cần tiền, nếu tôi có tiền cũng không có chỗ dùng. Những năm đầu, tiền
cúng dường tôi tích lũy lại để in kinh sách, in Đại Tạng Kinh, in Tứ Khố Toàn
Thư, Tứ Khố Hội Yếu. Tứ Khố Toàn Thư do Báo Thương Mại in, tôi đã mua 112 bộ. Tứ
Khố Hội Yếu là do Nhà Sách Thế Giới in, tôi đã mua hơn 300 bộ. Mua những sách
đó để làm gì? Chính tôi không xem, mà tôi sợ tương lai những bộ sách này sẽ mất
đi. Nếu để mất đi, thì văn hóa 5000 năm của Trung Hoa bị diệt rồi, rất là đáng
tiếc! Cho
nên tôi mới in nhiều, có tiền thì in. In rồi thì làm sao? Tôi tặng cho thư viện
của trường Đại học, thư viện quốc gia các nước ngoài để cất giữ, họ đều yêu
thích. Đấy là thứ gì? Là kho báu, để những bộ sách ấy có thể không bị mất đi
trên địa cầu, dù cho đại tai nạn xảy ra, cũng lưu lại được vài bộ hoàn chỉnh
cho chúng ta. Tôi là dụng tâm như vậy.
Những năm ra nước ngoài, bởi tôi có mối quan hệ với những
trường học, thường hay đến các trường học để xem xét và phỏng vấn, nhìn thấy Tứ
Khố Toàn Thư của chúng ta để trong tủ sách. Tôi hỏi nhân viên quản lý, có người
xem hay không? Không có. Có người đến mượn hay không? Không có. Phiền não của
tôi sanh khởi rồi, bảo tồn thì bảo tồn thôi, nếu như không có người có thể đọc,
thì sách ấy cũng là phế sách, không khởi tác dụng. Phải làm sao đây? Sách cổ
Trung Hoa là viết bằng văn ngôn văn, nên tôi cố gắng khuyên người, khuyên những
người trẻ, phát đại tâm, cứu vớt văn hóa truyền thống. Làm sao để cứu? Là học văn
ngôn văn. Hy vọng quý vị có thể bỏ ra thời gian ba năm, là đủ rồi, thì quý vị
có đủ năng lực đọc văn ngôn văn. Khi đó, quý vị là người kế thừa truyền thống
văn hóa, thì tốt rồi!
Mục
tiêu của tôi thay đổi rồi, tôi không in kinh nữa, hiện nay tiền cúng dường, tôi
đem xây dựng trường học, tại nước Anh, tôi cùng với Đại học Xứ Wales lập ra Viện
Hán Học, đã khai giảng được một năm rồi, năm nay là học kỳ thứ ba, ngoài ra còn
giúp họ mở lớp học Tiến sĩ Hài Hòa, khóa học Tiến sĩ Hài Hòa là học điều gì? Là
Tôn giáo học. Hoàng Tử và Hiệu trưởng, hai người ấy đưa ra ý tưởng này, nói với
tôi, mong muốn mỗi một tôn giáo phái hai học sinh và một Giáo sư, bởi vì chúng
ta không có sở trường chuyên môn, nên không làm sao giảng kinh điển của họ được,
phải đào tạo giảng viên.
Hiện nay các tôn giáo trên thế gian này, người thâm nhập
nghiên cứu thật sự đối với kinh điển không nhiều, đều chỉ là biết đọc kinh, còn
ý nghĩa trong kinh ra sao thì không biết, đó gọi là mê tín. Nên chúng ta phải
giúp tôn giáo quay về giáo dục, khiến mỗi tôn giáo đều có Lão sư rất tốt, đi ra
để dạy học, họ có học vị Tiến sĩ, họ có tư cách của Giáo thọ. Được như vậy, thì
giúp tất cả tôn giáo toàn thế giới khôi phục trở lại, đó là việc tốt. Cho nên,
tôi rất tôn kính đối với hai vị học giả, là Hoàng Tử và Hiệu trưởng, tôi nói với
hai người ấy: quý vị phát tâm làm việc lớn này, thì quý vị sẽ được thần của tất
cả tôn giáo bảo hộ, Thượng Đế của tất cả tôn giáo hộ trì. Tôi nói thọ mạng của
họ sẽ rất dài, phước báo càng ngày càng lớn. Lời tôi nói với họ là chân thật,
không phải là giả.
Nơi đây có mấy tấm ảnh lúc tôi xuất gia, có hai tấm, một là
lúc thế độ, một là lúc thọ giới, trên tấm ảnh có tôi, quý vị nhìn kỹ, xem tướng
tôi có phước báo hay không? Nhìn qua là biết, đó là người không có phước báo,
tuổi thọ lại ngắn. Tôi đều thừa nhận, một chút kiêng kỵ đều không có. Khi còn
nhỏ mẹ tôi đã tính mạng cho tôi, thọ mạng tôi chỉ có 45 tuổi, tôi tin tưởng điều
này. Cha tôi 45 tuổi thì ra đi rồi, bác của tôi cũng 45 tuổi thì mất, ông nội
tôi cũng ra đi lúc 45 tuổi. Nên tôi một tơ hào kiêng kỵ đều không có, thọ mạng
chỉ tính đến 45 tuổi, 45 tuổi thì chết rồi.
Năm 45 tuổi, tôi bị một trận bệnh nặng, cả đời tôi không vào
ở bệnh viện, không bị bệnh nặng, tôi cũng không tìm Bác sĩ, không dùng thuốc, mà
niệm A Di Đà Phật cầu vãng sanh. Vì sao tôi không tìm Bác sĩ? Vì Bác sĩ chỉ có
thể chữa bệnh, không thể chữa mạng, thọ mạng tôi hết rồi, thì Bác sĩ và thuốc
không can thiệp được. Tôi nhất tâm niệm Phật, đã trải qua trạng thái như vậy một
tháng, thì thân thể mạnh khỏe trở lại, lại bắt đầu giảng kinh. Năm sau, tôi gặp
được Phật sống Cam Châu, Ngài cũng là học sinh của Đại sư Chương Gia, chúng tôi
là đồng học, Ngài lớn hơn tôi khoảng 10 tuổi, tôi đối với Ngài rất tôn kính.
Năm sau tôi với Ngài gặp sau, Ngài đặc biệt đón mời tôi ngồi bên cạnh Ngài, Ngài
nói với tôi: thầy đã vượt qua cửa ải rồi. Tôi hỏi: cửa ải gì? Là 45 tuổi, cửa ải năm 45 tuổi đã qua rồi. Tôi
nói: ồ! Vì sao mà vượt qua được? Bởi đến lúc đó tôi đã giảng kinh 12 năm, tôi
xuất gia rồi thì liền lên đài giảng kinh. Năm 33 tuổi, tôi xuất gia, tôi bắt đầu
giảng kinh từ 33 tuổi, đến khi ấy đã giảng 12 năm. Ngài nói, công đức giảng
kinh 12 năm qua của thầy, giúp thầy vượt qua. Tôi vốn không nghĩ đến điều này. Ngài
nói: thọ mạng của thầy rất dài, phước báo của thầy rất lớn. Tôi nói: tôi không
có phước báo, sự thật ngay cả việc ăn uống cũng là vấn đề.
Nên công đức từ đâu mà đến? Là cũng do chính mình tu mà được.
Chính mình vì Phật pháp, vì giúp đỡ đại chúng hiểu rõ Phật pháp, yêu thích học
Phật pháp, y giáo phụng hành. Độ một người thì công đức không thể nghĩ bàn, độ
càng nhiều người thì công đức càng lớn. Chính mình phải biết, phải có nhận thức
như vậy, đó là trí huệ, có thể nhận biết, một khi cơ hội đến thì mau mau nắm lấy,
thường khéo làm nghiêm túc, thì phước báo vô lượng, đó là sự hồi đáp. Nhân quả
thật có, tuyệt đối không phải là giả.
Nên tôi nói với hiệu trưởng: đây là đào tạo giáo viên, giáo
sĩ của những tôn giáo khác nhau, là đại công đức! Quý vị thay cho mỗi tôn giáo
bồi dưỡng người kế vị, thì có đạo lý nào mà thần và Thượng Đế của mỗi một tôn
giáo, không bảo hộ quý vị không? Họ hiểu
rõ rồi. Cho nên tôi nói: lời của tôi là sự thật, không phải giả, chính tôi là
người đã trả qua. Năm nay 92 tuổi, chính tôi không có nghĩ đến, những năm đầu
trong tâm nghĩ cũng không sống được đến quá bảy tám mươi tuổi. Lão sư Lý vãng
sanh năm 97 tuổi, tôi ở với Ngài tại Đài Trung mười năm, tôi nói: tương lai tuổi
thọ của tôi so với Ngài cũng không sai khác nhiều.
Do đó, phải quyết định hành môn, hành môn tức là cửa đạo của
tu hành. Ngày đầu năm nay, đồng tu chúng ta tìm tôi yêu cầu giảng vài câu, tôi
hình như đã giảng ba lần, mỗi lần giảng 15 phút, giảng điều gì? Là giảng ba tư
lương: tín, nguyện, hạnh. Quý vị có thể nắm chắc ba tư lương đó, thì quyết định
quý vị sẽ vãng sanh. Sanh qua Thế Giới Cực Lạc, đây là pháp môn quá tốt, thù thắng
không gì bằng! Mà lại với bất kỳ ai cũng tu được, tam căn phổ bị, lợi độn toàn
thu.
Điều kiện thứ nhất là thật tín, thật sự tin tưởng có Thế Giới
Tây Phương Cực Lạc, Thế Giới Cực Lạc có A Di Đà Phật, tôi phát tâm phải thân gần
Ngài. Nguyện là cầu sanh, tôi nguyện sanh Tịnh độ, tôi mong muốn gặp A Di Đà Phật,
tôi mong muốn đến Thế Giới Tây Phương Cực Lạc để làm Phật, để tu hành, nguyện
như vậy. Hành tức là một câu Phật hiệu, một câu Phật hiệu niệm đến cùng, trong
đầu trống không điều gì cũng đều không có, ngoại trừ Phật hiệu. Vừa mới khởi ý
niệm, niệm thứ nhất là vọng niệm, thì niệm thứ hai là A Di Đà Phật. Vọng tưởng,
phân biệt, chấp trước vừa khởi lên, thì liền niệm Nam Mô A Di Đà Phật, dùng một
câu Phật hiệu để thay thế tất cả, đó là người chân niệm Phật. Như vậy thì lúc
lâm chung, không có chuyện không vãng sanh, một người thật tu, thì một người
vãng sanh, mười người tu, thì mười người vãng sanh, trăm người tu, thì trăm người
vãng sanh. Ghi nhớ, vấn đề then chốt đó là nhìn thấu, buông xuống.
Vì sao quý vị không thể thành công? Bởi quý vị không nhìn
thấu, quý vị không buông xuống. Không nhìn thấu, không buông xuống là oan thân
trái chủ thật sự của chính mình, chỉ cần có những điều này tồn tại, thì công phu
đời này của chúng ta uổng phí rồi, thật đáng tiếc! Nên phải buông xuống.
Thời gian một tiếng đồng hồ hôm nay đã hết rồi, chúng ta học
tập đến đây thôi. Lần giảng thứ năm này, không coi trọng văn kinh, không theo
thứ tự, mà chọn vài câu bất kỳ, để chúng ta dễ dàng thâm nhập nghiên cứu, giúp
chúng ta đến Thế Giới Cực Lạc, đây là điều quan trọng, đó là con đường chúng ta
đi. Vì vậy, mọi người cùng nhau nghiên cứu thảo luận, nếu có vấn đề thì có thể
đưa ra để vấn đáp. Tốt rồi, cảm ơn mọi người!
( Hết tập 1)
Nguyện đem công đức này
Hướng về khắp tất cả
Đệ tử và chúng sanh
Mau thoát biển luân hồi
Sanh qua nước Cực Lạc
Vượt lên ngôi bất thoái
Thành Phật quả viên mãn
Rộng độ khắp chúng sanh.
Nam Mô A Di Đà Phật.