TỊNH ĐỘ ĐẠI KINH KHOA CHÚ 2014-2017
(Giảng lần thứ 4)
PHẨM THỨ 2: ĐỨC TUÂN PHỔ HIỀN:
Tuân Tu Đức Của Phổ Hiền
Tập 118
Hòa thượng Thích Tịnh Không chủ giảng.
Giảng tại: Tịnh Tông Học Viện Australia.
Thời gian: Ngày 15 tháng 10 năm 2014.
Dịch giả: Bình Như.
Giảo chánh: Thích Thiện Trang.
Kính chào chư vị Pháp sư, chư vị đồng
học, kính mời ngồi, mời ngồi. Thỉnh mọi người cùng tôi quy y Tam Bảo: A-xà-lê
tồn niệm, ngã Đệ tử Diệu Âm, thỉ tùng kim nhật, nãi chí mạng tồn, quy y Phật
Đà, lưỡng túc trung tôn, quy y Đạt Ma, ly dục trung tôn, quy y Tăng Già, chư
chúng trung tôn. (3 lần)
Mời
xem Đại Kinh Khoa Chú, trang 346 sáu, hàng thứ ba từ trái qua, bắt đầu xem từ
chữ thứ hai.
法眼者,乃菩薩為度眾生照見一切法門之智慧“Pháp nhãn giả,
nãi Bồ-tát vị độ chúng sanh chiếu kiến nhất thiết Pháp môn chi trí huệ”(Pháp
nhãn: Là trí huệ chiếu kiến tất cả Pháp môn vì độ chúng sanh của Bồ-tát).
Kinh văn “diễn từ biện, thọ Pháp nhãn”, không được xem câu này một cách
lơ là, [vì] ý nghĩa rất sâu. Thế nào gọi là Pháp nhãn? Trí huệ chiếu kiến tất cả Pháp môn để độ chúng
sanh của Bồ-tát, gọi là Pháp nhãn. Chúng ta hình dung ra, độ chúng sanh không
phải là một việc dễ dàng, không có trí huệ này mà đi độ chúng sanh, chỉ sợ
không có độ được chúng sanh, ngược lại còn dẫn chúng sanh tới thiên kiến tà đạo.
Đó là gì? Tổ tổ tương truyền đều phải nói tới, hoằng pháp lợi sanh không dễ
dàng. Thầy dạy cho chúng ta, nhất định phải thông đạt pháp thế gian và xuất thế
gian, chư vị mới có năng lực này. Đại biểu cho pháp xuất thế gian: chính là Đại
Tạng Kinh, đời này của chúng ta, bộ Đại Tạng này có thể thông đạt không? Không
thể. Tôi không dám nói người khác không thể, tôi nói trước với mọi người, tôi
thú nhận chính tôi không thể. Về pháp thế gian, thầy Lý thường nói, điều khác
không bàn tới, chúng ta chỉ bàn một bộ sách: Tứ Khố Toàn Thư, có thể thông đạt
không? Đó là pháp thế gian. Thông đạt pháp thế gian, [mới] khế cơ độ chúng
sanh, thông đạt Đại Tạng Kinh, [mới] khế lý độ chúng sanh. Kinh được gọi là khế
kinh, trên thì khế với Lý mà chư Phật đã thuyết, dưới thì khế với căn cơ của
chúng sanh có thể độ, vậy mới đủ điều kiện độ chúng sanh. Cho nên Pháp sư để độ
chúng sanh, nhất định phải khai mở Pháp nhãn rồi. Vậy hỏi chúng ta, Pháp nhãn của
chúng ta đã mở chưa? Chưa mở. Chưa mở chính là lấy mù mà dẫn mù, tự mình là kẻ
mù, lại dắt theo một đám người đều là mù, vấn đề này rất nghiêm trọng. Trái lại
không bằng ông già bà lão ở chùa nhỏ tại nông thôn, một câu Phật hiệu niệm tới
cùng, họ thật là độ chúng sanh rồi, tự độ độ tha, họ niệm Phật có thể vãng
sanh, ai học theo họ đều có thể vãng sanh. Chư vị hỏi họ kinh giáo, họ không
thông, chư vị hỏi họ pháp thế gian, họ cũng không thông, vậy thì họ thành tựu
vì điều gì? Họ tìm thấy trong kinh Phật: Pháp môn đệ nhất để rộng độ chúng
sanh.
Pháp
môn này chỉ cần tín nguyện, tín nguyện chính là Bồ-đề tâm, chư vị cũng phải rõ
ràng sự việc này. Chúng ta hình như không có nói chi tiết về Bồ-đề tâm, trên
kinh nói rất rõ rằng “phát Bồ-đề tâm, nhất hướng chuyên niệm”, vậy mới đầy
đủ điều kiện vãng sanh. Đại sư Ngẫu Ích trong sách Yếu Giải đã nói với chúng
ta, tin sâu nguyện thiết chính là đại Bồ-đề tâm. Câu nói này đã giải mở sự nghi
ngờ của chúng ta ra rồi, hoá ra tin sâu Tịnh Độ, phương tây thật có thế giới Cực
Lạc, thế giới Cực Lạc thật có A Mi Đà Phật. A Mi Đà Phật đích thật phát 48 nguyện
tiếp dẫn chúng sanh khổ nạn, chuyên vì tôi mà phát nguyện, chuyên vì để độ tôi
mà kiến lập ra Pháp môn thù thắng vi diệu này, chúng ta chân thật cảm tạ ân đức
này, tín nguyện trì danh, cầu sanh Tịnh Độ, một đời thành tựu viên mãn, vậy mới
có thể báo Phật ân, báo ân tiếp dẫn của đức Thế Tôn, báo ân thành tựu của A Mi
Đà Phật. Chúng ta độ chúng sanh học Pháp môn, tất cả đều tới thế giới Cực Lạc
đã rồi mới nói, tới thế giới Cực Lạc gặp được A Mi Đà Phật, đắc được sự gia trì
bởi bổn nguyện uy thần của A Mi Đà Phật, chúng ta cũng giống như Pháp thân Bồ-tát,
đầy đủ Ngũ nhãn, phía trước đã giảng về Ngũ nhãn, mới thật có thể độ chúng
sanh. Không có năng lực này, độ chúng sanh, việc này là cấp bách cần thiết, lúc
lão Cư sĩ Lý Bỉnh Nam còn tại thế, động viên những học trò chúng tôi: phải phát
tâm nối tiếp huệ mạng của Phật, tại sao vậy? Bởi không có ai học nữa, tìm không
ra người truyền pháp nữa, bất đắc dĩ phải dùng biện pháp kế tiếp, điều kiện của
chúng tôi là kế tiếp.
Tôi
đã nói qua với chư vị, tôi tìm đến Tên sinh Phương Đông Mỹ, ngài chịu dạy tôi,
đặc biệt trích ra một khung thời gian, tận dụng ngày chủ nhật hai người chúng
tôi đều nghỉ, ngày chủ nhật buổi sáng, từ 9 giờ rưỡi tới 11 giờ rưỡi, giảng cho
tôi hai giờ đồng hồ, tại nhà của ngài, học trò chỉ có một mình tôi. Vì sao ngài
làm vậy? Tôi cũng phải mười mấy năm sau, mới hiểu được rõ ràng lý do, học vấn của
Thánh hiền, học trò bắt buộc phải hội đủ điều kiện: là chân thành, thanh tịnh,
cung kính, đây chính là điều kiện bắt buộc phải có khi học tập, bản chất là
chân thật, hiếu học, thật làm. Tôi có hội đủ điều kiện này không? Có một chút,
nhưng không đủ. Tôi nói qua mấy lần với học trò của mình, chính là điều kiện
này, tôi tự cho điểm chính mình, tôi chỉ có 30 điểm. Ba mươi điểm là không đạt,
cũng có thể nói, tôi so với những người trên tôi một đời, tôi không thể so bì,
không đủ điểm đậu. Nhưng so với người hiện nay, chư vị xem tôi chỉ có 30 điểm,
những học sinh trong những trường học, họ được mấy điểm? Đại khái là ba điểm,
năm điểm, thì 30 điểm của tôi thật đáng quý rồi. Thật vậy, chỉ có ba phần tâm
cung kính, gặp thầy gật đầu chào một cái cũng không tệ rồi, có người
gặp thầy giống như gặp người xa lạ vậy, không quan tâm đến rồi đi
lướt qua luôn, tôi nhìn thấy nhiều rồi. Lúc học tập thì không chú
tâm, trong đầu toàn là vọng tưởng, mắt nhìn ra ngoài cửa sổ. Cho nên
chúng ta phải chân chính phát tâm muốn học, thầy vì chúng ta mở một
lớp đặc biệt, một người cũng dạy. Trong Phật giáo Đại thừa đã nói “không
bỏ một người”, họ chịu học, họ hội đủ điều kiện đó, mặc dù
điều kiện còn thiếu, so với trên không đủ, so với với dưới thì dư,
cũng không được bỏ. Vị thầy ấy có phong thái của người xưa, chúng ta
mang ân đội đức, ngài thay đổi cả đời tôi, nếu không có sự giáo huấn
này của thầy Phương, thì chúng tôi không có sự hiểu biết đối với cổ
Thánh tiên Hiền, đối với Phật pháp càng vô tri, làm sao có thể tiếp
xúc tới? Cho dù có tiếp xúc, cũng không có cách nào học được, tại
sao vậy? Bởi không có người chịu dạy, ai mà chịu dạy cho chư vị? Tôi
gặp được thầy Phương chịu dạy, thầy Lý cũng chịu dạy tôi, thật không
dễ dàng, mãi cũng không thể tìm được người thầy như vậy nữa, những
vị thầy ấy có Pháp nhãn. Sau những vị thầy ấy, giống như chúng ta
thì không có Pháp nhãn, không có Pháp nhãn thì giống với thầy thuốc,
chẩn đoán sai, điều trị sai, bệnh tình của bệnh nhân không nặng hơn
coi như là tốt rồi, rất là may mắn rồi, không thể trị hết cho người
ta, đây là sự thật, không giả một chút nào.
Chúng
ta hãy nhìn xã hội trước mắt, buổi trưa hôm nay, hai mươi mấy gần 30
vị, những vị lãnh đạo tôn giáo tại địa phương này, không theo nghi
thức mà đến chỗ chúng ta dùng bữa trưa, chúng tôi nói chuyện, cảm
nhận sâu sắc được, tôn giáo giáo hóa chúng sanh rất khó! Chúng sanh
trong xã hội đối với tôn giáo có sự hiểu lầm rất nhiều rất nhiều,
tôi có thể hiểu điều này. Những gì họ đề ra để nói với tôi, tôi
hiểu rất rõ, không những vậy mà còn hiểu rất là sâu. Trước khi tôi theo
thầy Phương, có một sự hiểu sai về tôn giáo rất là nghiêm trọng, cho
rằng tôn giáo là mê tín, cho rằng tôn giáo không đáng để học tập,
lãng phí tinh thần, lãng phí thời gian, không biết rằng khi mở kinh
điển ra, bên trong có học vấn lớn. Nhân sĩ tôn giáo hiện nay hơn phân
nửa chỉ là tụng kinh, chứ không hiểu ý nghĩa trong kinh điển, họ không
thể giảng, giảng không rõ ràng, giảng không thấu triệt, dẫn đến hiểu
lầm của người thông thường. Tại sao có tình trạng này? Chư vị xuất gia
rồi, Sư phụ không giảng cho chư vị. Chư vị bước vào Viện Phật học,
trường học tôn giáo rất nhiều, bước vào rồi, cũng chỉ là dạy chư vị
đọc. Không chú trọng vào nghiên cứu chuyên sâu, vấn đề này nghiêm trọng
rồi. Cho nên khi nào thì chư vị mới khai Pháp nhãn, cũng là nói khi
nào chư vị đủ nhận thức được tập khí phiền não của chúng sanh, nhận
thức được bệnh của họ, chư vị có thể trong kinh điển mà tìm ra một
Pháp môn để đối trị, thì thật có Pháp nhãn. Không có năng lực này,
chư vị lại không chịu chân thật, chúng tôi không có năng lực này, chân
thật chính là tín nguyện trì danh, niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ, môn
này bất luận là ai, đều rộng nhiếp ba căn thượng trung hạ, thu cả lợi
căn và độn căn, thảy đều có hiệu quả. Uống thuốc này có trăm lợi chứ
không có một chút hại, tất cả chúng sanh bất luận là bệnh gì, đều
có thể chữa khỏi. Chúng ta gặp Pháp môn như thế, Pháp môn này là do
thầy truyền lại, Đại sư Ấn Quang truyền cho thầy Lý (lão Cư sĩ Lý
Bỉnh Nam), thầy Lý truyền cho tôi. Kinh Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng
Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác, thầy giảng qua một lần,
có chú giải đơn giản, viết chú giải ở trên quyển kinh, đã đưa quyển
kinh đó cho tôi rồi. Bạn học của tôi không ít, nhưng ngài chỉ truyền
thọ lại cho tôi, không truyền cho người khác, vì tôi thật thà nghe lời
hơn. Sau khi thầy viên tịch, tôi liền đem quyển kinh ấy in ra thành 10 ngàn
quyển, công đức in kinh hồi hướng cho thầy được tăng cao phẩm vị, tôi
liền bắt đầu giảng bộ kinh này.
Tôi
còn nhớ lần đầu giảng, là ở Vancouver Canada; giảng lần thứ hai là
ở tại San Jose, California nước Mỹ, lúc đó giảng trước sau tất cả là 10
lần, hình như giảng ở Đài Loan thì giảng qua ba, bốn lần. 85 tuổi
buông xuống Kinh Hoa Nghiêm, phát tâm học tập Chú Giải của lão Cư sĩ
Hoàng Niệm Tổ, lần này là lần thứ tư của chúng ta, mỗi lần không
giống nhau, thậm chí sự tâm đắc khi mỗi ngày học tập cũng không
giống nhau, pháp hỷ sung mãn. Cho nên tôi khuyên các đồng học, phải học
Đại thừa, phải học Kinh Vô Lượng Thọ, trước tiên phải tự mình cắm cho
chắc gốc rễ, bởi vì chư vị không có nền tảng này, thì chư vị học không
được, giống như xây nhà mà không có làm móng, xây lầu lên thì liền đổ
xuống, đây là chân tướng sự thật mà chúng ta nhìn thấy trước mắt. Nền
tảng là gì? Tam học Giới Định Huệ. Chư vị học giới học ra rất nhiều
vấn đề về biên kiến, tôi học thì tại sao không xuất hiện vấn đề?
Giới Định Huệ mà tôi học, chính là giúp tôi niệm Phật vãng sanh. Nguyên
nhân này là gì? Chư vị học giới mà giải không có viên mãn, bên trong có
Phân biệt, có Chấp trước, thậm chí là phân biệt niệm Phật không bằng
trì giới, niệm Phật không thể tiêu tội nghiệp, trì giới [thì] được, có
chính xác không? Chính xác. Vì trì giới tiêu tội nghiệp rất rõ ràng,
tội nhỏ thì liền thấy hiệu quả, nhưng trị ngọn chứ không trị gốc. Công
đức của niệm Phật là trị gốc cũng vừa trị ngọn, trị gốc tốt rồi thì
ngọn tự nhiên không còn nữa, chư vị thật được thọ dụng. Trong Đại thừa
giáo tán thán Đại khai Viên giải, giải phải viên đó là trí huệ, chư vị
thiên lệch cũng không được thì làm sao mà có thể viên? Viên giải là thật
sự được thọ dụng.
Bữa
cơm trưa hôm nay, ngồi cùng bàn với tôi, là người của tôn giáo bản
địa, đều là cấp Trưởng lão, cùng bàn về tôn giới với tôi, trong ngôn
luận đôi bên, đều cảm thấy rằng tôn giáo của mình là đệ nhất, tốt
hơn tôn giáo khác, khuyến tín người khác phải từ bỏ tôn giáo, để đến
với tôn giáo của tôi. Trong lúc chúng tôi ăn cơm, tôi nói với mọi
người, tôn giáo nào cũng tốt, tôn giáo nào cũng là đệ nhất, không
nhất thiết phải đổi tôn giáo, chư vị nghiêm túc tiếp tục tu, thảy đều
thành tựu. Họ có thể tới Thế giới Cực Lạc không? Được, chư vị đem công
đức tu học của chư vị hồi hướng vãng sanh Thế giới Cực Lạc, lâm chung
một niệm mười niệm đều có thể vãng sanh, chúng ta có căn cứ trên kinh
điển. Không cần phải đổi, đổi thì sai rồi. Trong Kinh Kim Cang có
giảng “Pháp môn bình đẳng, không phân cao thấp”, không những Pháp
môn trong nhà Phật đều bình đẳng, mà Pháp môn của mỗi một tôn giáo
khác cùng với chúng ta hợp lại cũng là bình đẳng, là thật không
phải giả. Đạo Cơ Đốc, giới luật căn bản mà đức chúa trời giảng,
tương đồng với chúng ta giảng, chỉ có một-hai điều không đồng. Cho nên
“viên nhân thuyết pháp, vô pháp bất viên”, người viên mãn dạy
học, dạy gì cũng viên, có năng lực này mới được, không có năng lực
này, thì chư vị phải quyết trọn một lòng chân thật niệm Phật, niệm tới
Lý nhất tâm Bất loạn thì viên mãn thôi. Chư vị vẫn chưa viên mãn, công
phu của chư vị vẫn chưa đủ, phải công phu Thành phiến, chư vị vẫn chưa
viên mãn, một môn thâm nhập, không đi học gì khác, Sự nhất tâm Bất
loạn vẫn chưa được, Lý nhất tâm Bất loạn là được rồi, chư vị cũng có
thể xem bất cứ pháp nào, đều viên mãn tất cả pháp thế gian và thế
xuất gian. Phật pháp viên mãn rồi, vậy pháp thế gian thì sao? Pháp
thế gian cũng viên mãn rồi, đây mới là tâm khai ý giải, Pháp nhãn
liền xuất hiện, chư vị chỉ đường chúng sanh thì sẽ không chỉ sai
đường.
Có
thể đắc được Ngũ nhãn, Ngũ nhãn là Tự Tánh của chúng ta vốn tự đầy
đủ, không phải đến từ bên ngoài. Chúng ta hiện nay chỉ có khai mở
Nhục nhãn thôi, còn Thiên nhãn, Huệ nhãn, Pháp nhãn, Phật nhãn đều
đóng rồi, đều không khởi tác dụng. Chỉ dùng một pháp niệm Phật không
cần dùng phương pháp khác, một pháp này ổn định vững vàng, giúp chư vị
khai Thiên nhãn, khai Huệ nhãn, khai Pháp nhãn. Khai mở Thiên nhãn thì
chư vị vẫn chưa ra khỏi cõi nhân thiên, công phu tu hành của chư vị có
thể sanh cõi trời, chư vị sẽ không đọa tam đồ, chư vị cũng không ở nhân
gian, chư vị là người trời. Nếu khai Huệ nhãn rồi, thì chư vị là Thánh
nhân, Tiểu thánh, Thanh văn Duyên giác, khai Pháp nhãn rồi, thì chư vị
là Bồ-tát, khai Phật nhãn rồi, thì chư vị là Pháp thân Đại sĩ. Trong
Thật Báo độ, 41 địa vị Pháp thân Đại sĩ, các ngài thảy đều là Ngũ
nhãn đầy đủ sáng tỏ, thật đáng để chúng ta ngưỡng mộ, chúng ta nếu
dựa vào tự lực của đời này thì không thể làm được. Chỉ có nhờ vào
Phật lực, buông xuống vạn duyên, nhất tâm niệm Phật, học theo lão Hòa
thượng Hải Hiền thì sẽ không sai. Chuyên công một bộ, một bộ kinh, một
bộ luận đều tốt, quý ở chuyên, lão Hòa thượng Hải Hiền cũng nói
với chúng ta: 天下無難事,只怕心不專“Thiên hạ
vô nan sự, chỉ phạ tâm bất chuyên”(Thiên hạ không việc khó, chỉ sợ tâm không chuyên). Tôi đời này,
tôi y theo Ấn Quang Đại Sư Văn Sao có thể thành tựu không? Nói với chư
vị rằng được, có thể thành Vô thượng đạo. Tại sao vậy? Bởi những gì
ngài giảng đều là những gì mà kinh luận đã thuyết, là chánh pháp,
không thiên không tà. Tu Tịnh Độ, ngũ kinh nhất luận, một luận đó là
Vãng Sanh Luận. Ấn Quang Đại Sư Văn Sao cũng tính là luận, Tập Chú
Giải của Cư sĩ Hoàng Niệm Tổ cũng được tính là luận. Một bộ kinh,
một bộ luận, một câu Phật hiệu là đủ rồi, không [làm] chính mình bỏ lỡ,
cũng không dẫn sai đường người khác, đích thật là Chánh tri Chánh kiến.
Tiếp
theo trích dẫn Hội Sớ, 《會疏》曰:佛道正見,名為法眼。“Hội Sớ
viết: Phật đạo Chánh kiến, danh vi Pháp nhãn”(trong Sách Hội Sớ ghi:
Chánh kiến của Phật đạo, gọi là Pháp nhãn). Có thể thấy Pháp nhãn đó chính là
Chánh tri Chánh kiến của người học Phật. Chánh tri Chánh kiến, thì những
gì chư vị nghĩ, những gì chư vị thấy, tương ưng với sự khai thị của
kinh giáo và Tổ sư, không có trái ngược, đó gọi là Pháp nhãn. Tịnh
Ảnh Sớ nói, 智能照法“trí năng chiếu pháp”(trí huệ có thể soi chiếu pháp), mặc dù rất đơn giản, chỉ có bốn
chữ, trí huệ có thể soi chiếu Chánh pháp, có năng lực phân biệt tà
chánh, đó là Pháp nhãn. Không có năng lực phân biệt tà chánh thì rất
phiền phức, thỉnh thoảng thì dùng đúng, đại đa số đều dùng sai,
dùng sai rồi thì mình sai và người khác sai, tội này tất là nặng. 由上可見,法眼者,了達眾生種種根器“Do thượng khả kiến, Pháp nhãn giả,
liễu đạt chúng sanh chủng chủng căn khí”(Từ trên có thể thấy, Pháp nhãn: là liễu
đạt tất cả căn khí của chúng sanh), đây là Tục đế, nhận biết được người
khác. 善知一切救度之法“Thiện tri nhất thiết cứu độ chi
pháp”(Khéo biết tất cả pháp để cứu độ), chư vị dạy họ đích thật
là có thể giúp họ, họ cũng hoan hỷ tiếp nhận, đó là Pháp nhãn,
nhận thức pháp, dùng phương pháp gì để giúp đỡ chúng sanh. Chúng ta
hiện nay không có mở Pháp nhãn, nhưng Pháp môn mà chính chúng ta học đây,
tương đương với mở Pháp nhãn, tuân thủ theo đó lâu dài, dùng chuyên, tín
nguyện trì danh, tín nguyện chính là tâm Bồ-đề, trì danh chính là
nhất hướng chuyên niệm, trong kinh giáo là tám chữ, Đại sư Ngẫu Ích
giản lược thành bốn chữ, “tín nguyện trì danh”, thì có thể tự độ độ
tha. Chúng ta thọ nhận lợi ích sâu xa với câu này, tín tâm đầy đủ,
chúng ta giới thiệu cho người khác, nhất định không có sai. 應機施與,而度脫之“Ứng cơ thí dữ, nhi độ thoát chi”(Ứng cơ mà ban cho [pháp], để độ thoát họ),
thật sự là tự độ độ tha. 如上之智慧,即名法眼。淨影又曰:教法生解,名授法眼“Như thượng chi
trí huệ, tức danh Pháp nhãn. Tịnh Ảnh hựu viết: giáo pháp sanh giải,
danh thọ Pháp nhãn”(Trí huệ như trên, thì gọi là Pháp nhãn. Ngài
Tịnh Ảnh nói thêm: Sanh hiểu rõ giáo pháp, gọi là thọ Pháp nhãn). Thầy dạy chúng ta, chúng ta hiểu rồi,
chúng ta khai ngộ rồi, đây là thầy cho chúng ta Pháp nhãn. 蓋教導眾生,於佛法生正解,如同以法眼授與眾生也“Cái giáo đạo chúng sanh, ư Phật pháp
sanh chánh giải, như đồng dĩ Pháp nhãn thọ dữ chúng sanh dã”(Bởi vì dạy dỗ chúng sanh, sanh sự hiểu
chính xác đối với Phật pháp, là đồng như lấy Pháp nhãn truyền cho chúng sanh vậy).
Pháp mà tất cả chúng ta có được ngày hôm nay, là pháp đệ nhất hiếm
có trong thế gian và xuất thế gian, thuần tịnh thuần chánh, chính là
câu Phật hiệu này. Trong câu Phật hiệu này, phải có tín, phải có
nguyện ở trong đó, mỗi tiếng Phật hiệu đều đầy đủ chân tín thiết
nguyện, tôi niệm câu Phật hiệu này để làm gì? Vì điều gì? Chính là
cầu sanh Tịnh Độ, chính là vì thân cận đức Mi Đà, không có nguyện
thứ hai. Đó là mỗi niệm đầy đủ đại Bồ-đề tâm, tâm Bồ-đề chính là
điều kiện đầu tiên để vãng sanh, phát Bồ-đề tâm, nhất tâm chuyên
niệm, một niệm mười niệm, đây là nói lúc lâm chung, nhất định vãng
sanh. Chúng ta phải ghi nhớ, lúc lâm chung một niệm cuối cùng có phải
là A Mi Đà Phật không, quyết định chư vị có thể vãng sanh hay không. Ai
có thể nắm chắc rằng niệm cuối cùng lúc lâm chung là niệm Phật? Người
thế nào có thể nắm chắc? Chúng ta đã nhìn thấy rồi, mẹ của ngài
Hải Hiền có nắm chắc, Pháp sư Hải Khánh có nắm chắc, Hòa thượng Hải
Hiền vãng sanh năm ngoái, cũng có nắm chắc, không cần người trợ niệm,
biết được mấy giờ mất phút A Mi Đà Phật tới tiếp dẫn, ngài đã làm
chứng minh cho chúng ta, là thật không phải giả.
Hôm
nay còn có một vị: cùng ăn cơm trưa, ông ấy cũng là Trưởng lão của
một tôn giáo, ông ấy rất thẳng thắn, nói với tôi, ông ấy là nhân sĩ
tôn giáo, truyền giáo nhiều năm như vậy, nhưng đối với việc Thượng đế
có thật hay không, ông ấy vẫn còn hoài nghi. Sự việc này có hiếm lạ
không? Không hiếm lạ. Tại sao vậy? Chúng ta học Phật học một đời rồi,
học mười mấy năm rồi, mà đối với việc có A Mi Đà Phật hay không, có Phật
Bồ-tát hay không, vẫn còn nghi ngờ, rất nhiều, không phải là chuyện
hiếm lạ. Vậy là nguyên nhân ở đâu? Chúng ta là một người ngoan đạo,
nhưng như trước đây Trưởng lão Wahid nói với tôi, ông là Tổng thống
Indonesia, ông là tín đồ của Hồi Giáo, ông ấy nói rằng rất nhiều
người Hồi Giáo chúng tôi có thể đọc thuộc lòng Kinh Koran và Kinh Koran
bằng tiếng Ả Rập, có thể đọc thuộc lòng từ đầu tới cuối không sai
một chữ, nhưng chư vị hỏi họ ý nghĩa là gì thì họ không biết. Có
thể thấy họ một môn thâm nhập, học, một môn thâm nhập Kinh Koran, kinh
đều thuộc lòng, không có đắc định. Chúng ta biết rằng, người xưa dạy
chư vị đọc kinh, đọc sách ngàn lần, đó là gì? Để cho chư vị đắc định,
lúc chư vị đọc kinh, trong khoảng từ đầu tới cuối đó, không khởi một
tạp niệm, dùng tâm thanh tịnh để đọc, thì đúng rồi. Họ một mặt đọc
kinh một mặt vẫn còn vọng niệm, một mặt vẫn còn nghĩ đến sự việc, vậy
là không được, chư vị hủy hoại hết công phu của chư vị rồi, tương đương
như không có đọc. Nếu muốn đọc kinh, đọc kinh là một phương pháp tu
định, tám vạn bốn ngàn Pháp môn thảy đều là tu định, vô lượng Pháp
môn cũng là phương pháp tu định, nhiều lắm. Trong Đại thừa thông thường
là dùng đọc tụng, đạo hồi đọc Kinh Koran, cũng là phương pháp đó, ý
nghĩa cũng tương đồng, nhưng mà nhất định phải hiểu được đó là dùng
để tu định, không được có tạp niệm, không được có vọng tưởng, tu tâm
thanh tịnh. Niệm một ngàn lần, hai ngàn lần, ba ngàn lần, niệm ra tâm
thanh tịnh, đó chính là công đức. Tại sao vậy? Vì sanh trí huệ. Trí
huệ hiện tiền, đương nhiên là điều thứ nhất, chư vị đối với thần liền
sinh lòng tin, chư vị liền hiểu rõ. Tâm thanh tịnh là định của Tiểu
thừa, tiếp tục nỗ lực thăng tiến về phía trước, sẽ xuất hiện tâm
bình đẳng, đó chính là định của Bồ-tát, Tam thừa Bồ-tát, chính là
Thập trụ, Thập hạnh, Thập hồi hướng mà Biệt giáo Thiên Thai đã
giảng. Cho nên phải hiểu, không hiểu không được. Đó có phải là cứu
cánh không? Không phải. Trong mười pháp giới giúp chư vị thăng tiến tới
cấp bậc cao nhất, là pháp giới Phật, không phải chân thật, Đại sư Thiên
Thai phán là Tương tự Tức Phật, bởi vì chư vị vẫn còn dùng Vọng tâm, chư
vị chưa dùng Chân tâm. Vọng tâm chính là A-lại-da, nói cách khác, chư vị
vẫn chưa có thể chuyển tám thức thành bốn trí, chư vị vẫn chưa làm
được điều đó. Bắt buộc phải tiếp tục thăng tiến về phía trước, đoạn
tận Vô minh, Vô minh là gì? Là Khởi tâm Động niệm.
Chúng
ta học gì ngay trong cuộc sống thường ngày, mắt nhìn thấy sắc, trong
sắc trần không có Phân biệt Chấp trước, đây là tu định của Tiểu thừa,
trong sắc trần không khởi tâm không động niệm, là đại định của Pháp
thân Bồ-tát. Nhìn thấy rất rõ ràng là trí huệ, như như bất động là
thiền định, định huệ đều học, tu ở đâu? Ở trên thấy sắc mà tu, mắt ở
trên nhìn sắc mà tu, tai ở trên nghe tiếng mà tu, mũi ở trên ngửi mùi mà
tu, lưỡi ở trên nếm vị mà tu, thân ở trên tiếp xúc mà tu, ý ở trên ý niệm
mà tu, [là] thật tu hành. Tu điều gì? Tu rất rõ ràng, [là] huệ, như như
bất động là định, chư vị dùng phương pháp này chính là Giới luật,
một lần là hoàn thành Tam học Giới-Định-Huệ, đây chính là sự tu
hành chân thật. Từ A-la-hán trở lêm, công phu này đã đắc lực, hiệu
quả có thể cảm nhận được rồi. Chúng ta ngày ngày tu hành, lục căn
ở ngay trong cảnh giới lục trần, đương nhiên khởi tâm động niệm, đây
là phàm phu, không khởi tâm động niệm thì liền thành Phật rồi, nhất
định là Khởi tâm động niệm. Bên trong sự Khởi tâm Động niệm có Phân
biệt, có Chấp trước không? Nếu như có Phân biệt có Chấp trước, thì
chư vị ở nguyên ngay chỗ địa vị phàm phu, không có một chút tiến bộ. Phải
làm sao? Khởi tâm Động niệm năm sau phải nhẹ hơn năm trước, tháng sau
phải nhẹ hơn tháng trước, người hiện nay nói một tuần, một tuần,
tuần sau phải nhẹ hơn tuần trước, [là] công phu Thượng thượng thừa, thì có
lý nào mà chư vị không thành Vô thượng đạo. Cho nên phải hiểu, sự phân
biệt chấp trước làm hại chư vị thê thảm, tu mười mấy năm công phu cũng
không đắc lực, sau khi hiểu rõ rồi thì buông xuống sự Phân biệt Chấp
trước, chư vị không phân biệt không chấp trước, tại sao vậy? Bởi là
giả. Chư vị xem lão Hòa thượng Hải Hiền nói lời hay biết bao: “Chăm
chỉ niệm Phật, tất cả đều là giả hết”, tất cả đều là giả thì
nên buông xuống, tất cả đều phải buông xuống, chỉ nắm chắc câu Phật
hiệu này, đó là gì? Đó là người niệm Phật. Pháp môn này thiết thật nhất,
đơn giản nhất, dễ dàng nhất, không những vậy mà còn thù thắng, thành
tựu cao, không cách nào tưởng tượng.
Chúng
ta tự học Pháp môn này, giới thiệu Pháp môn này cho người khác, đó
chính là thọ Pháp nhãn. Thầy của chúng ta truyền Pháp nhãn cho
chúng ta, chúng ta đắc được thọ dụng rồi, chúng ta cũng đem Pháp nhãn
này truyền cho người khác. Có Pháp nhãn rồi, câu tiếp theo đây nói về
hiệu quả của Pháp nhãn. “Đỗ ác thú, khai thiện môn”, đoạn tất
cả ác, tu tất cả thiện, rất là tự nhiên, không có một chút miễn
cưỡng. Chữ “đỗ” nghĩa là ngăn chặn, “ác thú” chính là ba đường ác: súc
sanh, ngạ quỷ, địa ngục. Dùng súc sanh, ngạ quỷ, địa ngục mà nói,
là từ sự tướng mà giảng, từ trên quả mà nói, nhân là gì? Nhân là
tham sân si. Ngu si đọa đường súc sanh; tham dục, đọa đường ngạ quỷ; sân
hận, đọa đường địa ngục. Cho nên phải ghi nhớ lời của lão Hòa thượng
Hải Hiền, chư vị xem ngài vì chúng ta mà giảng giải nói với chúng ta,
cả đời của lão Hòa thượng, không có giận qua một ai, không có nổi
nóng qua một lần, đó là gì? Ngài chắc chắn không đọa địa ngục. Ngài
không có tâm tham, một giọt nhỏ nhoi cũng là để cúng dường chúng sanh,
cúng dường người khác, cuộc sống của chính mình thì vô cùng tiết kiệm,
[nên] ngài không đọa đường ngạ quỷ. Ngài có trí huệ, tâm ngài rất rõ
ràng, hiểu rất rõ ràng, sanh trí huệ không sanh phiền não, cho nên mặc
dù cuộc sống kham khổ, nhưng thường sanh tâm hoan hỷ, [nên] không đọa đường
súc sanh. Chư vị xem ngài mỗi ngày từ sáng tới tối, hoan hoan hỷ hỷ,
rất hạnh phúc, trong tâm không có tham sân si, vậy sanh điều gì? Chỉ
sanh Giới Định Huệ. Mặt trái của tham sân si chính là Giới Định Huệ,
sanh Giới Định Huệ không sanh tham sân si, [thì] ngăn chặn đường ác rồi. Chúng
ta tiếp tục đọc câu tiếp theo, 惡趣極苦,欲令出離,教人離惡,則閉塞通往惡趣之道“ác thú cực khổ, dục linh xuất ly,
giáo nhân ly ác, tắc bế tắc thông vãng ác thú chi đạo”(đường ác rất khổ, muốn cho ra khỏi,
[thì] dạy người lìa ác, là đóng ngăn con đường thông đến đường ác), đó
chính là đỗ ác thú, thật sự đoạn mất tham sân si rồi. Dùng gì để đoạn?
Một câu A Mi Đà Phật. Tín nguyện trì danh, công phu tốt, thì tự nhiên không
thấy tham sân si nữa, chư vị trở thành người như thế nào? Pháp hỷ sung
mãn, thường sanh tâm hoan hỷ, đối với tất cả mọi người đều tốt, chắc
chắn không phê bình người khác, không xem thường người khác; tôn trọng,
cung kính đối với mọi người, đối người đối vật đối sự chân thành
cung kính, đây gọi là tu hành. Hành chính là hành vi, hành vi của ba
nghiệp thân khẩu ý, hành vi sai rồi, sửa đổi lại cho đúng, tùy thuận
tham sân si là sai rồi, ngăn chặn tham sân si là đúng rồi, dùng phương
pháp gì? Một câu Phật hiệu. Ý niệm tham khởi lên, A Mi Đà Phật, đem niệm
tham bỏ đi; sân giận sanh khởi, thì A Mi Đà Phật, dừng bỏ tâm sân giận đi;
ngu si khởi lên, một câu A Mi Đà Phật, chuyển ngu si thành trí huệ, một
câu Phật hiệu giúp chúng ta: đoạn tham sân si, thành Giới Định Huệ. Tự
mình tu hành như vậy, cũng dùng phương pháp này giúp đỡ người khác,
là đóng ngăn con đường thông với ác thú.
今經彌陀大願曰:來生我剎,不復更墮惡趣。是真實之杜惡趣也“Kim Kinh Mi Đà
đại nguyện viết: lai sanh ngã sát, bất phục cánh đọa ác thú. Thị
chân thật chi đỗ ác thú dã”(Đại nguyện của đức Mi Đà trong Kinh này nói:
Sanh đến cõi con, không đoạ trở lại đường ác nữa. Đó là thật sự đỗ ác thú).
Nói cách khác, vãng sanh tới Thế giới Cực
Lạc, thì không đọa lại tam ác đạo nữa. Thế giới Tây Phương Cực Lạc không
có ba đường ác, ở đó có Phàm Thánh Đồng Cư độ, Phàm Thánh Đồng Cư
độ chỉ có hai đường là: cõi người, cõi trời. Thế giới này của chúng
ta, ngoài hai con đường đó ra, có Tu-la, có súc sanh, ngạ quỷ, địa
ngục, Thế giới Cực Lạc không có bốn con đường này, cho nên vãng sanh Thế
giới Cực Lạc, vĩnh viễn thoát ly tam ác đạo, chân thật ngăn chặn đường
ác.
又開善門者,《會疏》曰:大慈德“Hựu khai thiện môn giả, Hội Sớ viết,
đại từ đức”(Thêm nữa
về khai thiện môn, trong Hội Sớ ghi: đức đại từ), giúp chúng ta lìa khổ là đại bi, làm
cho chúng ta được vui là đại từ, 善門則菩提涅槃之門也“thiện môn tắc Bồ-đề Niết-Bàn chi môn dã”(Thiện môn là cửa của Bồ-đề Niết-Bàn),
đó là thiện môn. Bồ-đề ở chỗ này, chúng ta phải ghi nhớ câu nói này
của Đại sư Ngẫu Ích, chân tín chân nguyện, nhất định phải tin tưởng
thật có Thế giới Cực Lạc, thật có A Mi Đà Phật. Chúng ta nhìn thấy
trong truyện ký, Sơ tổ Đại sư Huệ Viễn thời Đông Tấn, là Tổ sư khai sơn
Tịnh Độ tông của chúng ta, ngài một đời bốn lần nhìn thấy Thế giới Cực
Lạc, trong định mà nhìn thấy, trong lúc chỉ tĩnh niệm Phật tới nhập
định rồi, không phải là giả, mặc dù ngài nhìn thấy, nhưng từ trước
tới nay không có nói cho ai nghe. Tới lần cuối cùng là lúc vãng sanh,
Thế giới Cực Lạc hiện tiền, ngài nói với mọi người, đã tới lúc tôi
vãng sanh rồi, Phật tới tiếp dẫn tôi, nhìn thấy đồng tu trong Liên Xã,
người vãng sanh sớm hơn ngài, ở bên cạnh A Mi Đà Phật đến đón tiếp
ngài, hoan nghênh ngài tới Thế giới Cực Lạc. Lão Hòa thượng Hải Hiền làm
chứng minh cho chúng ta, ngài tự nói, tuyệt không vọng ngữ, ngài nói
ngài rất nhiều lần thấy được A Mi Đà Phật, ngài đều cầu Phật dẫn ngài
tới Thế giới Cực Lạc, A Mi Đà Phật không dẫn ngài đi, ngài nói rất nhiều
lần, vậy là không chỉ một lần. A Mi Đà Phật tán thán ngài, nói ngài
tu hành rất tốt, ở lại thế gian làm tấm gương cho người niệm Phật,
cho nên ngài vì có nhiệm vụ mà đến.
Hai
ngày trước khi ngài vãng sanh, ngài nói với đồng tu bên cạnh ngài,
ngài nói ngài sắp phải đi rồi, người khác đến hỏi ngài, họ nói chính
thầy tự nói, A Mi Đà Phật kêu thầy ở thêm hai năm, biểu pháp cho mọi
người xem, tại sao thầy nói là phải đi? Ngài nói chư vị không biết, hai
ngày nay A Mi Đà Phật lại đến tìm tôi, nói với tôi phải đi gấp, đi
vãng sanh. Từ thông tin này thì chư vị biết rằng, ngài với A Mi Đà Phật
rất thân thiết, trong tâm niệm Phật, Phật liền hiện tiền. Phật bảo ngài
biểu pháp, biểu pháp cuối cùng là gì? Chính là quyển sách Tăng Khen
Tăng này, con nhìn thấy quyển sách này, công đức biểu pháp của con
viên mãn rồi, A Mi Đà Phật liền đến tiếp dẫn con. Quả nhiên Sách đã
được ngài nhìn thấy, chủ động bảo người ta chụp hình cho ngài, lão
Hòa thượng một đời từ trước tới nay không bao giờ chủ động kêu người
khác chụp hình, đều là người khác yêu cầu chụp cho ngài, ngài rất
tùy thuận theo. Lần này chủ động yêu cầu, mọi người chụp cho ngài
tấm hình đó, ngày thứ ba thì đi rồi, biểu pháp viên mãn. Tiếp theo chư
vị phải biết, tiếp theo, người niệm Phật chúng ta phải tiếp tục sự biểu
pháp của ngài, biểu pháp chính là làm tấm gương cho người niệm Phật
xem, làm cho tất cả người niệm Phật sanh khởi tín tâm, đó là phải
chân thật làm. Làm điều gì? Tín nguyện trì danh, buông xuống vạn
duyên, nhất hướng chuyên niệm. Đối với thế gian này không có một chút
mảy may lưu luyến, buông xuống tuyệt đối, việc thế gian có phải quản
không? Đương nhiên phải quản, quản như thế nào? Chúng ta làm tấm gương
cho họ xem. Làm tấm gương như thế nào? Họ điều gì cũng muốn có, không
buông xuống, tôi làm tấm gương tất cả đều buông xuống, chính là bày tỏ
tấm gương này cho mọi người xem. Buông xuống rất tự tại, buông xuống rất
vui vẻ, có ai biết, chư vị buông xuống thì chư vị mới biết. Chư vị nói tôi
buông xuống rồi, tôi không vui vẻ, chư vị không có thật sự buông xuống, chư
vị là rất miễn cưỡng buông xuống, thật tế là mỗi niệm đều mang trong
tâm, cho nên tâm không có hạnh phúc. Triệt để buông xuống, liền xuất
hiện tâm hạnh phúc, thanh tịnh, tâm bình đẳng liền xuất hiện, công phu
tiếp tục thăng tiến về phía trước, Đại triệt Đại ngộ, Minh tâm Kiến
tánh, giống như lão Hòa thượng Hải Hiền.
Sau
khi Kiến tánh rồi thì như thế nào? Không nói, Sư phụ dặn ngài vậy. Sư
phụ ngài không phải người thường, Sư phụ ngài biết ngài là một bậc pháp
khí, truyền thọ phương pháp này thì ngài thành Phật rất nhanh. Bản
tính của ngài, thái độ của ngài, viên mãn đầy đủ điều kiện để
niệm Phật, cho nên tôi ước đoán về ngài, ngài 20 tuổi bắt đầu nhất
hướng chuyên niệm, tín nguyện trì danh, nhất hướng chuyên niệm, công
phu Thành phiến không quá ba năm, 23-24 tuổi thì ngài đắc được rồi. Công
phu Thành phiến chính là nói, trong tâm chỉ có A Mi Đà Phật, ngoài A Mi
Đà Phật ra, điều gì cũng không có, đó là Thành phiến, chưa đoạn tập
khí phiền não, nhưng nén chặt rồi, hoàn toàn bị Phật hiệu nén chặt
rồi, Phật hiệu khởi tác dụng, có công phu vậy thì có thể vãng sanh,
có công phu vậy thì thấy Phật. A Mi Đà Phật nhất định hiện thân, nói
với ngài, con còn thọ mạng bao lâu, tới khi thọ mạng con hết thì Ta tới
tiếp dẫn con, nhất định thông báo cho ngài. Tâm ngài liền ổn định,
quyết trọn một lòng, tương đương với được thọ ký rồi, mặt dù người
chưa tới Thế giới Cực Lạc, nhưng Thế giới Cực Lạc đã ghi danh, có chư vị
rồi. Công phu như vậy tiếp tục không gián đoạn, thêm ba năm, năm năm, thì
đắc được Sự nhất tâm Bất loạn rồi, tôi ước đoán ngài đắc Sự Nhất
tâm, vào trước 30 tuổi. Lại tiến lên, Lý nhất tâm, Minh tâm Kiến tánh,
tôi cho rằng là trong khoảng thời gian 30 tới 40 tuổi, nhiều nhất là
sau 40. Đắc Lý nhất tâm Bất loạn, vãng sanh Thế giới Cực Lạc sanh vào Thật
Báo Trang Nghiêm độ, [làm] Pháp thân Đại sĩ, không khó! Khó ở chỗ
buông xuống không được, phải hiểu đạo lý này, không chịu buông xuống
thì thiệt thòi rất lớn. Ngài thật làm ra tấm gương tốt nhất biểu
diễn cho chúng ta, tấm gương của người học Phật. Tấm gương của người
tu Tịnh Độ.
Cuối
cùng lại vì chúng ta làm ra tấm gương “tăng khen tăng“ này, là sự từ
bi vô tận của đức Mi Đà, nhìn thấy chúng ta ở trong xã hội này, chỗ
này, mà học Phật, người xuất gia cùng với người xuất gia bất hoà, tóm
lại không ngoài đố kị chướng ngại, khen mình chê người, phạm trọng giới
đó, tự khen mình hủy báng người khác, là tội nghiệp cực trọng. Khen
mình chê người là điều đầu tiên trong Du Già Giới Bổn, trong Kinh Phạm
Võng Giới, đại khái là trong điều thứ mười mấy, là điều thứ nhất
trong Du Già Giới Bổn, rất là nặng. Cho nên người xưa nói rằng若要佛法興,唯有僧讚僧“nhược yếu Phật pháp hung, duy hữu tăng
tán tăng”(nếu muốn Phật
pháp hưng, chỉ có tăng khen tăng), chúng ta tuyệt đối phải ghi nhớ câu
nói này, ngàn vạn lần không được hủy báng người xuất gia. Tại sao
vậy? Đó là phá hòa hợp Tăng, phá hòa hợp Tăng tội này chính là
địa ngục Vô Gián, nhất định không được làm, người khác có thể hủy
báng tôi, họ tạo nghiệp, tôi tuyệt đối không thể hủy báng họ. Tôi không
những không hủy báng họ, tôi còn cảm ơn họ, tại sao vậy? Bởi họ hủy
báng tôi nhưng tôi có thể nhẫn, đây chính là sự khảo nghiệm của tôi,
không có dạng người đó, tôi làm sao biết được tôi có sự nhẫn nhục. Tôi
có thể nhẫn, không có tâm oán hận, không có ý niệm vui mừng, đây là
mấu chốt, thấy được công phu. Nhẫn nhục tiên nhân bị vua Ca Lợi cắt
thân thể, một chút oán hận cũng không có, ngài thành Phật rồi, vua Ca
Lợi giúp ngài sớm thành Phật, đây là sự cảm ơn của ngài. Ngài nói
với vua Ca Lợi rằng, tôi thành Phật người đầu tiên độ là ông, đức
Thích Ca Mâu Ni Phật thành Phật rồi, người đầu tiên được độ chính là
Tôn giả Kiều Trần Như, ngài Kiều Trần Như chính là vua Ca Lợi khi xưa,
đây đều là tấm gương của chúng ta, chúng ta nên học tập.
Mấy
câu nói khó nghe cũng phải khó chịu mấy ngày, vậy làm sao được? Vậy
không thể vãng sanh. Người ta đến để khảo mình, thi đậu thông qua rồi
thì chư vị liền được thăng cấp; thi trượt rồi thì đọa lạc xuống
dưới, tới sau này mới biết, thì ra thuận cảnh nghịch cảnh cũng đều
là cảnh giới tốt. Thuận cảnh không sanh tham luyến, trong thuận cảnh
có tham luyến, chư vị bị phá hoại công phu của chư vị rồi, lại kéo chư
vị xuống phía dưới. Phải biết rằng thuận cảnh lợi hại vạn lần so
với nghịch cảnh, bởi vì chư vị không có cảnh giác, hoan hoan hỷ hỷ
cùng đọa lạc với người ta, nghịch cảnh thì chư vị có tâm cảnh giác,
chư vị sanh tức giận. Cho nên nghịch cảnh không sanh oán hận, thuận
cảnh không sanh tham luyến, công phu của chúng ta liên tục tiến về phía
trước, cảm nhận của chư vị có được chính là pháp hỷ sung mãn,
thường sanh hoan hỷ tâm. Thọ mạng của người xuất gia dài, thân thể
của người xuất gia tốt, nguyên nhân ở đâu? Bởi họ thật làm. Làm điều
gì? Nhẫn nhục Ba-la-mật. Thuận cảnh không sanh tham luyến là nhẫn
nhục, nghịch cảnh không sanh sân hận cũng là nhẫn nhục, đều là nhẫn
nhục, người nhẫn tâm an, tâm an như vậy, đó là sự hưởng thụ lớn biết bao.
Tâm người thế gian hiện nay không an, sống trong sự hoang mang, họ không
an, tâm khí xốc nổi. Chư vị tâm an lý đắc, đắc đại tự tại, đây chính
là thọ dụng hiện tiền, đây chính là cửa của Bồ-đề Niết-Bàn.
本經《壽樂無極品》曰:必得超絕去,往生無量清淨阿彌陀佛國。是為真實之開善門也“Bổn Kinh Thọ Lạc Vô Cực phẩm
viết: tất đắc siêu tuyệt khứ, vãng sanh vô lượng thọ thanh tịnh A Mi
Đà Phật quốc. Thị vi chân thật chi khai thiện môn dã”(Trong phẩm Thọ Lạc Vô Cực của
Kinh này nói: Chắc chắn được siêu vượt, vãng sanh cõi nước Vô Lượng Thanh Tịnh
A Mi Đà Phật. Đó là mở cửa lành chân thật). Chư vị có
thể tu hành như vậy, chắc chắn siêu việt, siêu vượt lục đạo luân hồi,
siêu vượt mười pháp giới, chư vị đi tới đâu? Tới Thế giới Cực Lạc. Tất
đắc, ngữ khí này là khẳng định không gì bằng, không có một chút nghi
ngờ, đây chính là chân thật khai thiện môn, cứu cánh của khai thiện
môn, đưa chúng ta về Thế giới Cực Lạc.
Tiếp tục xem
câu sau đây 『於諸眾生,視若自己』 “ư chư chúng sanh, thị nhược tự kỷ”(Đối với chúng sanh, xem như chính mình). 「表同體之悲」“Biểu đồng
thể chi bi”(Biểu thị tâm đại bi của cùng một
thể), câu này rất là quan trọng. Chúng sanh trong tâm mắt chư Phật Bồ-tát,
đều xem họ như chính mình, không phải là anh chị em của mình, mà là
chính mình, [là] đồng thể đại bi. Chúng ta phải học theo Phật Bồ-tát,
học Phật Bồ-tát chính là học từ chỗ này, chính là bắt đầu học từ
chỗ này. Họ là ai? Họ chính là mình, họ gặp nạn chính là mình
gặp nạn, họ không bình thường chính là mình không bình thường. Chư vị
phải làm sao để giúp họ, tâm niệm niệm không quên giúp họ, việc giúp đỡ
họ: phải có trí huệ quán sát họ có thể tiếp thụ được bao nhiêu,
không nên để họ sanh phiền não. Họ có thể tiếp nhận một phần thì
giúp họ một phần, có thể tiếp nhận mười phần thì giúp họ mười
phần, đây gọi là gì? Đây gọi là ứng cơ. Họ có thể tiếp nhận ba
phần, chư vị giúp họ hai phần, là có lỗi với họ, họ vẫn có thể
tiếp nhận thêm một phần; chư vị giúp họ bốn phần, vượt quá rồi, do
có một phần họ không thể tiếp nhận. Tâm thái này tốt, đây là tấm
lòng của Bồ-tát, Bồ-tát nhìn cả vũ trụ là một thể. Đại sư Huệ Năng
nói rất hay, “nào ngờ Tự Tánh, năng sanh vạn pháp”, vạn pháp
chính là cả vũ trụ, cả vụ trụ từ đâu mà đến? Từ Tự Tánh lưu xuất
ra. Tự Tánh là một thể, cho nên biến pháp giới hư không giới tất cả
pháp, người vật sự việc. Hiện nay nói tất cả động vật, thực vật,
khoáng vật, hư không pháp giới, đều là một thể của chính mình.
Phật trong kinh
thường dùng ví dụ là nằm mơ, bởi vì mỗi người đều có kinh nghiệm
nằm mơ. Cảnh giới trong mơ từ đâu mà đến? Do tâm chúng ta hiện. Khi
tỉnh giấc trở lại, có bao giờ thử nghĩ, cảnh của giấc mơ vừa rồi
là do tâm ta biến hiện ra, giống với lời khi khai ngộ của Lục tổ, cảnh
giới của ngộ hoàn toàn tương đồng. Cho nên trong Kinh Kim Cang, bài kệ
cuối cùng là: 一切有為法,如夢幻泡影“Nhất thiết hữu vi pháp, như mộng huyễn bào ảnh”(Tất cả pháp hữu vi, như mộng ảo bọt bóng), mặc dù lấy
bốn chữ này làm ví dụ, nhưng thật tế thì giấc mộng là chủ yếu,
những thứ khác chỉ là bổ trợ mà thôi, một giấc mơ. Mặc dù là một
giấc mơ, nhưng hi vọng chư vị mơ giấc mộng đẹp, không mơ giấc mộng xấu,
chư vị xem Bồ-tát từ bi biết bao, từ trong ác mộng đem chư vị chuyển
biến trở lại, chuyển ác mộng thành mộng đẹp. Trong mộng làm Phật
sự, Bồ-tát làm việc này, có để trong tâm không? Không có. Tại sao không
để ở trong tâm? Bởi không thể đắc, đạo lý nằm ở chỗ này. Không thể đắc mà chư vị
nhất định muốn có được, thì chư vị bị ô nhiễm rồi, tâm chư vị liền không thanh
tịnh. Cho nên nhất định phải biết, bất luận là việc gì, đoạn ác tu thiện đều
không được chấp trước, đây chính là Đại thừa, đây chính là tương ưng Tánh đức.
Hễ chấp tướng là hư rồi, chấp tướng thì như thế nào? Chấp tướng chính là phàm
phu, chư vị là chúng sanh của lục đạo, chư vị không thể ra khỏi lục đạo, không
chấp tướng nữa, đó là Tiểu thừa, có thể siêu việt lục đạo.
Trong phần trước
Kinh Kim Cang nói tới phá bốn tướng, 無我相、無人相、無眾生相、無壽者相“vô Ngã tướng, vô Nhân tướng,
vô Chúng sanh tướng, vô Thọ giả tướng”, đây là cảnh giới
của Thanh văn, Duyên giác, để thoát ly lục đạo luân hồi. Muốn thoát ly mười
pháp giới phải phá bốn kiến, không những không chấp tướng, mà ý niệm cũng không
còn, 無我見、無人見、無眾生見、無壽者見“vô Ngã kiến, vô Nhân kiến, vô Chúng sanh kiến, vô Thọ giả kiến”, kiến là ý niệm, cũng không còn ý niệm nữa, tâm bình đẳng liền
hiện tiền, siêu việt mười pháp giới. Pháp môn thông thường, 84 ngàn Pháp môn,
vô lượng Pháp môn, đều là từ từng bậc từng bậc mà ra theo chiều đứng, thời gian
rất dài. Tịnh Độ đem tất cả quy về một câu Phật hiệu, câu Phật hiệu này đều hội
đủ tất cả Tam thừa, là viên mãn, cho nên một đời thành tựu viên mãn, là đạo lý
này. Nếu chư vị không làm cho rõ đạo lý này, thì chư vị sẽ dao động, nhìn thấy
Pháp môn khác, Pháp môn này rất hay, tôi muốn học tập, nghiêm túc tu học. Thật
tình không biết, Pháp môn đó không hề rời khỏi Phật hiệu, trong câu Phật hiệu
này có Pháp môn đó, không phải không có, một câu Phật hiệu là cứu cánh viên
mãn. Cho nên gọi là Pháp môn đại tổng trì, tổng tất cả pháp, trì tất cả nghĩa,
vô lượng Pháp môn không có pháp nào mà không nằm trong đó. Đáng tiếc không có
người biết công đức của Phật hiệu, không có người tin tưởng, họ học môn này rồi
mà vẫn đi học thứ khác, đó chính là không có buông xuống, đều không buông xuống
Vọng tưởng Phân biệt Chấp trước.
Ngài Thiện Tài học
gì? Đây là tu hành của Kinh Hoa Nghiêm, ngài Thiện Tài làm tấm gương, làm biểu
pháp, ngài biểu pháp gì? Biểu thị tu Pháp môn niệm Phật này là chính. Chủ yếu
nhìn từ đâu? Lấy sự tiên nhập làm chủ, vị Thiện tri thức đầu tiên dạy ngài pháp
gì, đó là chủ. Vị thiện tri thức đầu tiên trong 53 tham vấn, là Tỳ-kheo Đức
Vân, trong Hoa Nghiêm 40 gọi là Tỳ-kheo Kiết Tường Vân, tu Pháp môn gì? Bát Chu
Tam Muội, chuyên tu Pháp môn trì danh niệm Phật. Bát Chu Tam Muội lấy 90 ngày
là một kỳ, trong 90 ngày không được ngồi xuống, không được nằm xuống, chỉ có thể
đứng, chỉ có thể di chuyển, gọi là Phật Lập Tam Muội, chuyên niệm A Mi Đà Phật.
Có người nghe tới Pháp môn này thì muốn học, họ có thể học thành công không? Học
không thành công. Tại sao vậy? Bởi họ theo đuổi cao xa, cho rằng tôi có thể tu
Pháp môn đó, chư vị đều không thể, tôi cao hơn chư vị, có suy nghĩ vậy là tiêu
rồi, đó là tâm phàm phu, sai rồi, tự không biết lượng sức. Chúng ta xem xem, Đồng
tử Thiện Tài học Pháp môn này là địa vị thế nào? Ngài ở trong hội của Bồ-tát
Văn Thù đắc Căn bản trí, Căn bản trí chính là chúng ta đã nói: Đại triệt Đại ngộ,
Minh tâm Kiến tánh. Bồ-tát Văn Thù bảo ngài đi tham học, tham học chính là
thành tựu Hậu đắc trí của ngài, không gì chẳng biết, Bát-nhã vô tri chính là đắc
được trong hội của ngài Văn Thù, 53 tham vấn chính là học vô sở bất tri, ngài vừa
nhìn vừa nghe, thì hoàn toàn hiểu hết. Đó là biểu pháp, đem Pháp môn Niệm Phật
để lên thứ nhất.
Cuối cùng, vị thứ
53 chính là sự biểu pháp của Bồ-tát Phổ Hiền, Bồ-tát Phổ Hiền biểu chính là Thập
đại Nguyện vương dẫn về Cực Lạc. Ý nghĩa này là gì? Từ đầu tới cuối, suốt đầu
suốt cuối, ngài Thiện Tài tu gì? Chính là tu niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ. Ngay
trong những Pháp môn đó, chư vị thấy ngài đi tham vấn, Thiện tri thức nói với
ngài rồi, ngài đã hoàn toàn hiểu, sau cùng là lễ từ. Lễ là cảm ân, tôi đến chỗ
này của chư vị, tôi đều học được tất cả rồi, từ là gì? Từ là không tu, tôi
không học Pháp môn này, tôi vẫn là chân thật niệm Phật. Đem tất cả Pháp môn, tất
cả là một, đa tức là nhất trong Kinh Hoa Nghiêm, trong 53 tham vấn quy về
một môn, một môn chính là Pháp môn niệm Phật, tuyệt diệu! Chính là một câu A Mi
Đà Phật từ đầu đến cuối không gián đoạn, thống nhiếp tất cả Pháp môn, 53 đại biểu
vô lượng Pháp môn, đại biểu 84 ngàn Pháp môn, là ý nghĩa này. Ngài Thiện Tài học
tất cả những gì trong tham vấn, giống như những gì trong Thiền tông đã nói: 百花叢裡過,片葉不沾身“Bá hoa tùng lý qua, phiến diệp bất triêm thân”(Đi qua trăm lùm hoa, thân chẳng dính mảnh lá), chư vị phải
biết nhìn. Người biết nhìn thì đọc qua 53 tham vấn, một lòng một dạ chân thật
niệm Phật. Người hiện nay còn làm được không? Nhìn thứ này thì muốn học, nhìn thứ
kia cũng muốn học, xem 53 tham vấn rồi, thảy đều học 53 tham vấn, vậy là tiêu rồi,
học tạp rồi, học loạn rồi, tâm không thanh tịnh, ý niệm cũng điên đảo rồi, chư
vị đã sai tất cả rồi. Chư vị nhìn mọi thứ đều rõ ràng, đều ở ngay trong một câu Phật hiệu này,
họ có học không? Họ học thật, không có gì là họ không học, họ cũng không sót mất
một thứ nào. Làm sao có thể so với người niệm Phật? Người niệm Phật không bỏ
sót tất cả thứ gì. Chư vị học vô lượng Pháp môn, mọi thứ đều rất là phiền phức,
người ta một câu Phật hiệu thống nhiếp tất cả rồi, không thể nào so được với
người ta. Ngài Thiện Tài là người đầu tiên mở ra ví dụ này cho chúng ta, biểu
pháp cho chúng ta xem. Học Hoa Nghiêm [mà] không hiểu, tôi học Hoa Nghiêm lần
thứ nhất không hiểu. Lần thứ hai, lần thứ hai tuyên giảng Hoa Nghiêm là ở
Singapore. Lần thứ nhất là ở Đài Loan, tôi nhớ năm đó là Dân Quốc năm thứ 60, lần
thứ nhất giảng Hoa Nghiêm, tôi không có nhìn ra, trong chú giải không có giảng
rõ. Chú giải của cổ nhân tại sao không có giảng, có phải vì họ không nhìn thấy
không? Không phải vậy, trình độ cổ nhân rất cao, chỉ điểm đến đó, họ cũng có thể
nhìn hiểu. Căn tánh của chúng ta không bằng người xưa, cho nên chúng ta xem
không hiểu, chúng ta ngày hôm nay phải nói cho rõ ràng, giảng cho rõ ràng, giảng
sáng tỏ chúng ta mới hiểu, thậm chí nói tới chi tiết, nghe rồi vẫn còn chưa hiểu,
cách rất xa so với cổ nhân.
Cho
nên câu này, chư vị chân chính muốn vãng sanh thế giới Tây Phương Cực Lạc, thì
không được quên, 於諸眾生,視若自己“ư chư
chúng sanh, thị nhược tự kỷ“(đối với chúng sanh, xem như chính mình), tại sao vậy? Bởi vũ trụ
chân thật là một thể. Trong đạo Bahá’í có tư tưởng này, một thể, vạn vật là một
thể; trong Kinh Koran cũng có ý nghĩa này. Biểu thị sự từ bi của cùng một thể,
người có đủ ý niệm này, có loại nhận biết này, họ rất tự nhiên liền có cảm giác
sứ mạng. Trong cảm giác sứ mạng đó, nhất định có nguyện độ vô biên chúng sanh,
tại sao vậy? Bởi vô biên chúng sanh là cùng một thể với tôi, họ chịu khổ chính
là tôi chịu khổ, họ có nạn chính là tôi có nạn, họ có bệnh chính là trên thân
tôi xuất hiện bệnh. Tôi phải làm thế nào để trị tốt bệnh của tôi, bệnh của tôi
trị tốt rồi, thì bệnh của họ liền khỏi. Giống như Tiến sĩ Hew Len ở Mỹ đã nói,
là thật, không phải là giả. Ông dùng gì để trị bệnh? Dùng đồng thể đại bi để trị
bệnh. Ông đến thăm tôi, nói với tôi sự việc này, mạng sống của cả vũ trũ này là
cùng chung một thể. Cho nên trị bệnh không nhất thiết phải gặp mặt bệnh nhân,
ông chỉ cần bốn tài liệu, thứ nhất là tên của người bệnh, thứ hai là ngày tháng
năm sinh của người bệnh, thứ ba là người bệnh hiện tại đang ở nơi đâu, thứ tư
là bệnh án, bệnh án kiểm tra của bệnh viện gửi cho ông, không cần gặp mặt, cách
mấy ngàn cây số cũng không quan trọng. Bệnh nhân ở nước Mỹ, ông ở Hồng Kông, có
thể trị cho họ không? Có thể, thời hạn trị hết là một tháng. Phương pháp trị là
gì, căn cứ vào lý luận gì, tôi đều hỏi rất rõ ràng. Căn cứ vào lý luận là đồng
thể đại bi, chính là niệm lực. Phương pháp chính là quán tưởng, mỗi ngày phải
tu một lần, một lần nửa tiếng. Trong nửa tiếng này buông xuống vạn duyên, trong
tâm thật là sạch sẽ, tâm thanh tịnh hiện tiền, đem thân thể người bệnh cùng với
thân thể của chính mình, trong quán tưởng hợp thành một, mình và họ là một
không phải hai. Sau đó thì mới tiếp tục quán sát bệnh của họ ở chỗ nào, tế bào
mang vi rút bệnh, thời gian nửa tiếng đó của ông, dùng tâm thanh tịnh: khiến tế
bào bị bệnh hồi phục lại bình thường. Một ngày làm một lần, một lần nửa tiếng,
liên tục 30 ngày, tế bào mang bệnh trên thân ông, hoàn toàn hồi phục bình thường,
bệnh trên thân thể người đó liền khỏi, hoàn toàn khỏi rồi, hết bệnh rồi, không
cần phải gặp mặt, hoàn toàn dùng ý niệm.
Lúc
đó tôi nói với ông, phương pháp này tốt, đặc biệt là lúc có tai họa, không có bệnh
viện, không có thuốc men, phải làm sao? Phương pháp này có thể trị bệnh. Với
phương pháp này, tôi nhớ trong quá khứ thổ dân Úc có khả năng này, họ hoàn toàn
dùng ý niệm, dùng chú ngữ. Tiến sĩ Hew Len có lời cầu nguyện giống vậy không,
có vậy không? Có, bốn câu. Câu thứ nhất “Xin lỗi”, tôi không có quan tâm tốt đến
tế bào trong thân thể, để cho bạn bị nhiễm virút, tôi xin lỗi bạn, “ xin tha thứ”,
“cám ơn bạn”, cuối cùng là “tôi yêu bạn”, chính là bốn câu nói này. Bốn câu nói
này chính là chú ngữ của ông, ông là niệm bốn câu này, trong tâm chỉ có niệm
theo vòng bốn câu này, niệm trong nửa tiếng, dùng tâm thanh tịnh, không có vọng
niệm, không có tạp niệm, 30 ngày bệnh nhân liền có thể được trị khỏi, không
khó. Tôi nói chư vị căn cứ vào đạo lý gì? Tâm thanh tịnh. Ngày nay chúng ta niệm
bốn câu này mà tâm không thanh tịnh, cho nên không có linh nghiệm. Tâm thanh tịnh
của chúng ta phải giống với ông ấy, thật tế mà nói chính là tâm thanh tịnh của
niệm Phật, thì sức mạnh đó càng lớn, chúng ta có câu Phật hiệu, ông ấy không
có, có Phật hiệu chính là có gia trì của A Mi Đà Phật, nhất định hiệu quả hơn
ông ấy. Việc này nếu thật làm, chân thật, nghe lời, người thật làm có thể học
được. Bệnh gì cũng đều trị khỏi, không cần dùng thuốc, không cần tiêm thuốc, thậm
chí ngay cả không cần gặp mặt bệnh nhân, một tháng liền có thể giúp họ hồi phục
lại bình thường, bảo họ đi kiểm tra thì bệnh đã hết. Tiến sĩ Hew Len trong những
năm gần đây, trị qua mấy ngàn bệnh lý, kết quả đều rất tốt, là thật không phải
giả, đó là tâm thanh tịnh.
Thật
sự, giống như Tiến sĩ Braden ở Mỹ đã nói, đây là các nhà Cơ học Lượng tử,
nghiên cứu sức mạnh của tâm trí, và bí mật của sức mạnh tâm trí, do những người
này nghiên cứu ra. Sức mạnh của tâm trí có thể thay đổi vật chất, thân thể
chúng ta chính là hiện tượng vật chất, vật chất này từ đâu mà ra? Từ trong ý niệm
mà xuất hiện, trong tâm trí có sức mạnh biến đổi hiện tượng vật chất, lý này là
chân lý. Cho nên người niệm Phật, công phu niệm của Sư phụ Pháp sư Hải Hiền rất
tốt, chư vị có thể nhìn thấy trong báo cáo, ngài từng ở chùa Quảng Tế, ở chùa
Quảng Tế tại Bắc Kinh trụ 12 năm, trong 12 năm, không có ra khỏi cửa của Thiền
đường, chư vị nói xem tâm ngài chuyên biết bao. Rời khỏi chùa Quảng Tế thì trở
về chùa Lai Phật, trị bệnh giúp người, bất luận là bệnh gì, ngài chỉ cần bốc một
ít cỏ, lấy một ít cỏ, chư vị kêu họ đem về ăn, bệnh của họ liền khỏi, bất luận
là bệnh gì cũng khỏi, dùng gì để trị? Sức mạnh tâm trí. Cỏ đó là chất dẫn, dẫn
thứ gì? Dẫn người bệnh chuyên nhất ý niệm, chuyên chú, không nên để suy nghĩ
lung tung, dùng đó làm chất dẫn. Trên thực tế, thật sự là sức mạnh của tâm trí,
hoàn toàn tương đồng với Tiến sĩ Hew Len, ngài chính là dùng câu A Mi Đà Phật,
Tiến sĩ Hew Len dùng bốn câu, ngài chỉ dùng một câu. Tất cả đều là chân tướng sự
thật bày ra trước mắt chúng ta, chính chúng ta phải tin tưởng.
Ý niệm có thể thay đổi tất cả, nhỏ là đối với
thân thể, lớn là đối với hoàn cảnh cư ngụ của chúng ta. Hoàn cảnh cư ngụ có tai
họa, tai họa từ đâu mà đến? Là do ý niệm bất thiện của cư dân địa phương này mà
tạo thành. Chúng ta dùng thiện niệm có thể hóa giải giúp họ, hóa giải không được,
tại sao vậy? Bởi người của họ quá đông, sức mạnh đó rất lớn. Chúng ta có chánh
niệm, tà không thắng chánh, sức mạnh của năng lượng chánh phải lớn hơn nhiều lần
năng lượng tà, cho nên dù rằng không thể đủ sức hóa giải, nhưng đích thật là có
thể giúp cho giảm nhẹ xuống. Chúng ta đối với lý này nếu không tin tưởng triệt
để, làm cho rõ ràng, thì chúng ta mang hoài nghi, mang nghi vấn, hiệu quả liền
giảm xuống, thậm chí là giảm tới con số không, đó không phải là không linh nghiệm,
mà là chính chúng ta có vấn đề, không tương ưng với lý với pháp, [chứ] không phải
không linh. Cho nên sự từ bi đồng thể rất là quan trọng.
人所寶愛,莫過自身;今視眾生,如同自己,故能救度群生,心不暫捨“Nhân sở bảo ái, mạc quá tự thân; kim thị
chúng sanh, như đồng tự kỷ, cố năng cứu độ quần sanh, tâm bất tạm xả”(Những gì người ta yêu quý, không gì hơn
chính mình; Nay xem chúng sanh, giống như chính mình, nên có thể cứu độ quần
sanh, tâm không chút nào rời bỏ), mấy câu này là do ngài Hoàng Niệm lão
nói. Trong mấy câu này có hai câu là quan trọng nhất, một câu [là] nay xem
chúng sanh, giống như chính mình, câu thứ hai [là] cứu độ quần sanh, tâm không
chút nào rời bỏ. Đây là Bồ-tát thật sự, đây là người chân chính học Phật. Dùng
phương pháp gì để giúp đỡ những chúng sanh tội khổ? Chư vị có tâm này thì tự
nhiên liền sanh trí huệ. Người không tin tôn giáo nhiều, ở thành phố Toowoomba,
25 phần trăm, bằng một phần tư, trong bốn người, có một người là vô thần luận,
không tin tôn giáo. Thành phố này nhỏ chỉ 120 ngàn người, một phần tư, là 30
ngàn người. Bất luận là tin hay không, chúng ta đều phải giúp đỡ họ. Bắt đầu từ
đâu? Dạy từ Đệ Tử Quy. Nhất định phải nhớ là từ gốc này, không có gốc là giả,
không phải không linh, mà chư vị có vấn đề nhưng không biết. Làm không được Đệ
Tử Quy, chính là không có gốc, điều gì cũng không thể thành tựu, đời sau cao nhất
là không mất thân người, vẫn có thể được thân người thì tính là không tệ, tuyệt
đại đa số đều là đi xuống dưới, không được thân người, không thể không biết,
không thể không cảnh giác. Đời sau làm thế nào, đây chính là vấn đề, không phải
giả. Có nghĩ qua vấn đề này chưa? Thật mà nghĩ thông rồi, đời sau phải đọa tam
đồ, thì chư vị liền sợ rồi, chúng ta vẫn có thể được cứu, tín nguyện trì danh,
nhất hướng chuyên niệm A Mi Đà Phật cầu sanh Tịnh Độ, chư vị chắc chắn được độ.
Chúng
ta chân thật tu hành, chính là giáo hóa chúng sanh, chúng ta làm ra tấm gương tốt
nhất cho mọi người xem, tương lai có thể vãng sanh tại nơi này, vài người biết
trước lúc đi, nói với mọi người tôi đi đây, lập tức đi rồi, người thấy được như
vậy, đều sẽ tin thôi, họ chính là thật làm, chúng sanh một vùng này đã được độ
rồi. Mẫu thân của Hà Thế Lễ ở Hồng Kông, cả gia đình họ đều tin Cơ Đốc giáo,
người mẹ niệm Phật, cả nhà rất là tiến bộ, không phản đối, cho nên trong nhà
làm cho người mẹ một Phật đường. Không có sự mâu thuẫn của hai tôn giáo, cả gia
đình họ, phu nhân của Hà Thế Lễ cùng với cháu nhỏ, ngày chủ nhật họ đều đi Giáo
đường, còn người mẹ ở nhà niệm Phật. Lúc người mẹ vãng sanh thì mở đại hội vãng
sanh, có vài nhà báo đến phỏng vấn, bà không có bệnh, tất cả rất bình thường,
sau khi thời gian tới, thì nói với mọi người, tôi đi đây, thật sự đi rồi. Tin tức
này lập tức lan truyền cả Hồng Kông, niệm Phật có hiệu quả như vậy, nói đi là
đi, không có bệnh. Cho nên Hà Thế Lễ thấy mẹ mình ra đi như vậy, cả gia đình liền
học Phật, cả gia đình đều niệm Phật rồi. Chư vị thấy sự từ bi của mẹ họ, dùng
phương pháp này độ cả nhà, bình thường cũng không nói một câu, lâm chung chỉ cần
biểu diễn cho chư vị xem. Cho nên Đạo tràng Đông Liên Giác Uyển ở Hồng Kông,
ngôi nhà đó chính là nhà của họ, họ vãng sanh thì quyên tặng để làm Đạo tràng.
Chúng
ta phải độ người Toowoomba, phải độ người Úc, cũng có một hai chỗ biểu diễn một
chút như vậy, mọi người đều tin thôi, tất cả nghi ngờ đều không còn nữa. Tuyệt
đối không được khuyên người khác thay đổi tôn giáo, nhưng nói với họ, chư vị muốn
tới Thế giới Cực Lạc, thì chư vị đem công đức tu hành của chư vị, hồi hướng cầu
sanh Thế giới Tây Phương Cực Lạc, tín nguyện trì danh, chỉ cần lúc lâm chung một
hơi không gián đoạn, phát nguyện của chư vị liền thành công. Nói với tất cả tôn
giáo rằng công đức là bình đẳng, có thể vãng sanh hay không chính là một niệm
cuối cùng, một niệm cuối cùng là niệm A Mi Đà Phật cầu sanh Tịnh Độ, thì ai
cũng thành tựu, ai cũng viên mãn. Do đó phải biết, các vị thần không giống nhau
trong tất cả tôn giáo, các ngài ở trong đó hòa hợp một thể, cũng chính là cùng
đồng một thể, sự từ bi của cùng một thể. Chư thần đồng thể, chúng ta cũng đồng
thể, chúng ta với chư thần cũng đồng một thể. Cho nên chúng ta phải tôn kính tất
cả thần minh, chúng ta không được phê bình, chúng ta càng không được hủy báng,
[vì] một thể, một thể rất là quan trọng, khái niệm này là thật, không phải giả.
Thời gian hôm nay hết rồi, chúng ta học tập tới đây thôi.
(Hết tập
118)
Nguyện đem
công đức này
Hướng về
khắp tất cả
Đệ tử cùng
chúng sanh
Đều sanh
nước Cực Lạc
Sớm viên
thành Phật quả
Rộng độ khắp
chúng sanh.
Nam Mô A Mi
Đà Phật.