Giảng Ký A Tỳ Đạt Ma Câu Xá Luận (A Tỳ Đàm – Vi Diệu Pháp – Duy Thức Pháp Tướng) – Tạo Luận: Tôn giả Thế Thân – Dịch và Chú Thích: Tam tạng Pháp sư Huyền Trang – Bài 31: Phẩm 1 – Phân Biệt Giới – Buổi 31.
Giảng giải: Thầy Thích Thiện Trang
Giảng ngày: 26.02.2025
Phát trực tiếp trên Kênh YouTube Thích Thiện Trang
https://www.youtube.com/watch?v=dRVtk2PlbpA
mạng xã hội Facebook, Fanpage Thích Thiện Trang:
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật!
Nam Mô A Mi Đà Phật!
Kính chào toàn thể quý vị đồng tu! Hôm nay [là] thứ Tư, chúng ta học về Luận Câu Xá, hôm nay là bài thứ 31. Hôm bữa chúng ta đang học về Tâm sở Niệm. Thông thường vào bài đáng lẽ chúng ta nên bắt đầu vào phần kiến thức đó. Tuy nhiên thông thường quý vị mới đầu do không tập trung được, cho nên Thiện Trang thường giới thiệu một phần khác, phần kinh nào đó nhỏ nhỏ, để chúng ta vừa bổ sung được nền tảng giáo lý, và cũng vừa giúp cho quý vị tập trung được. Chứ không, vào phần kia trước thì quý vị sẽ chưa tập trung được.
Hôm nay chúng ta cũng bổ sung những nền tảng từ Kinh A Hàm và Kinh Nikaya. Tiêu đề ở đây là:
Tiêu Chuẩn Của Người Bạn Tốt
Lời Phật dạy như thế này:
Thành tựu bảy chi phần, này các Tỷ-kheo, là người bạn cần phải thân cận, cần phải giao thiệp, cần phải hầu cận, dầu có bị xua đuổi. Thế nào là bảy? Tức là nếu thành tựu được bảy điều này, thì đó là một người bạn mà mình cần nên thân cận. Thân cận là thân và ở gần; cần phải giao thiệp, thì khỏi cần phải giải thích; cần phải hầu cận là ở bên gần giúp đỡ, hầu người ta; dù có bị xua đuổi (dù hay dầu [đều được], miền Bắc gọi là dù, miền Nam gọi là dầu) đi chăng nữa thì mình cũng không bỏ. Nếu người đó là bạn tốt [thì] hãy như vậy.
Bảy điều là gì?
(1)Khả ái, khả ý; (2) tôn trọng; (3) đáng được bắt chước; (4) nhà thuyết giả; (5) kham nhẫn lời nói; (6) nói lời sâu kín; (7) không có hối thúc những điều không hợp lý.
Chúng ta cũng nên phân tích bảy điều này.
(1) Khả ái, khả ý: Khả ái là đáng yêu, một người bạn thì tất nhiên phải đáng yêu [rồi]. Khả ý là vừa ý, nói chung cũng phải hợp ý với mình. Hợp ý ở đây có nghĩa là hợp theo tiêu chuẩn nào đó [trong] Phật pháp, chứ tiêu chuẩn hợp ý mà nhiều khi tạo ác thì không đúng.
(2) Tôn trọng: tức là người ấy phải là người có tính tôn trọng.
(3) Đáng được bắt chước: người ta có những điều tốt mà mình muốn bắt chước theo.
(4) Nhà thuyết giả: ngôn ngữ của ngài Minh Châu dịch hơi khó hiểu, nhưng thực ra [điều này] chúng ta cũng dễ hiểu thôi. Có nghĩa là một người có khả năng nói được cho mình những điều mình cần nghe, người bạn mình thì phải được như vậy.
(5) Kham nhẫn lời nói: tức là những lời nói khó chịu mà người ta nói cho người bạn đó nghe v.v… nhưng người bạn vẫn có thể nghe được. Hoặc mình nói những lời nói góp ý hay tất cả những vấn đề gì mà người ta [vẫn] nghe được. Đó là kham nhẫn. Chứ còn nhiều khi không kham nhẫn được, tức là nghe xong rồi chịu không nổi. Có những người ở đời này, họ [chỉ] thích được nghe lời ngọt thôi. Họ có thể chửi bới, có thể nói xấu, hoặc góp ý người khác, nhưng lại không chịu tiếp nhận sự góp ý của người khác. Đó là không kham nhẫn được lời nói. Hoặc họ rất dễ giận, v.v… thì đó là không đủ tiêu chuẩn này.
(6) Nói lời sâu kín: thật ra là nói lời sâu xa. Mình có thể hiểu là những lời không phải là những lời bình thường. Người bạn này phải góp ý, nói cho những lời mà có ý sâu một chút, chứ còn nói kiểu tùm lum tùm la thì không được.
(7) Không có hối thúc những điều không hợp lý: Điều này thì đồng tu Tịnh Độ hay phạm. Thiện Trang thấy đồng tu Tịnh Độ hay có tư tưởng này, toàn là hối thúc người ta những điều không hợp lý. Trong khi đó chúng ta đâu biết được mỗi người có một hoàn cảnh, mỗi người có mỗi gia cảnh, mỗi người có mỗi điều kiện, không ai giống ai cả. Mình hiểu người ta thì mình mới góp ý với người ta được. Còn hối thúc những điều không hợp lý thì không được, mình phải hối thúc những điều hợp lý. Điều này cũng khó, phải có trí tuệ.
Cho nên đủ được bảy điều kiện này thì người đó là người bạn của mình. [Với] người bạn đó [thì mình] cần phải cố gắng thân cận, giao thiệp, và cần phải hầu cận, dù có bị xua đuổi đi chăng nữa thì cũng không bỏ đi. Còn chúng ta kệ, [thấy] người tốt hay người không tốt cũng không quan trọng, [miễn] người ta chiều mình là được. Như thế là không được. Còn người tốt, người ta nói thật thì mình chịu không nổi. Đó là bệnh. Cho nên ngay cả trong Kinh A Hàm, Kinh Nikaya có rất nhiều kiến thức căn bản mình cần phải học. Nếu không học những điều này thì thật sự đáng tiếc.
Thành tựu bảy pháp này, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo là người bạn, cần phải thân cận, cần phải giao thiệp, cần phải hầu hạ, dầu có bị xua đuổi. Tóm lại ở đây chúng ta nên cố gắng. Đây là tiêu chuẩn để nhìn người khác, và cũng là tiêu chuẩn để chúng ta thực hành cho chúng ta.
Ở đây đức Phật đúc kết lại bài kệ:
Khả ái và đáng kính,
Ðáng bắt chước, thuyết giả,
Kham nhẫn các lời nói,
Nói những lời thâm sâu,
Không hối thúc ép buộc,
Những điều không hợp lý,
Ai có những pháp này,
Ở đời, người như vậy,
Người ấy là bạn hữu,
Với ai cần bạn hữu,
Người mong muốn lợi ích,
Với lòng từ ai mẫn.
Dầu có bị đuổi xua,
Hãy thân cận bạn ấy.
(Kinh (7.37) Bạn Hữu 2: Mitta 2 – Kinh Tăng Chi Bộ).
Có nghĩa là [nếu] mình gặp được người bạn tốt như vậy, cho dù có bị xua đuổi, thì cũng ráng mà theo. [Đây là] đức Phật nói nha. Chứ còn thời nay, thông thường [chúng ta] thích nghe mật ngọt chết ruồi thôi, cho nên nhiều khi mình bị dụ.
Ví dụ thời gian qua có nhiều vị đồng tu, Thiện Trang cũng thấy có nghe pháp ở đây, nhưng không xác định được ai là người tốt cho Sư Minh Tuệ, hộ trì tốt cho Sư Minh Tuệ hay không. Đó là một điều rất đáng tiếc. Nếu hôm nay quý vị coi một bài phỏng vấn, hỏi câu hỏi trực tiếp về vấn đề của chú Phước Nghiêm và anh Achan Báu. Quý vị thấy Sư Minh Tuệ trả lời rất rõ: Chú Phước Nghiêm thì có thể kham nhẫn được những lời người ta phỉ báng, thế này thế kia, người ta nói xấu nhưng chú không nói xấu lại. Chú Phước Nghiêm được như vậy thì càng ngày càng gần Thầy. Còn người kia (Achan Báu), Sư Minh Tuệ nói nếu để cho người ta như vậy, thì càng ngày người ta càng tham, càng ngày danh đi lên v.v… thì [như vậy] là càng hại họ. Rất rõ ràng đúng không? Quý vị có thể coi video đó để quý vị xác định.
Cho nên mình không biết, gọi là mình thiếu trí, nên mình không nhìn ra được vấn đề. Đó là những điều đáng tiếc! Mình cứ coi thông tin có một chiều. Mình phải coi thông tin hai chiều, nhiều chiều, và mình phải suy xét lại. Nên nhớ, là mình phải coi những lời người ta nói có khớp với những gì người ta làm hay không. Đó là điều quan trọng.
Kinh Tăng Chi giống như Kinh Tăng Nhất A Hàm, cứ tăng lên từng chi từng chi. Ví dụ như chỗ bảy điều thì xếp vào bảy pháp, có năm điều thì xếp vào năm pháp. [Kinh] Tăng Nhất A Hàm cũng vậy. Đây là một cách sắp xếp trong Kinh Nikaya cũng như Kinh A Hàm.
Chúng ta thấy điều này cũng dễ, quý vị hầu như cũng học qua những [điều] này, nên quý vị thấy những điều này còn đầy đủ hơn trong Đệ Tử Quy nữa. Đệ Tử Quy không hay, không sâu bằng [kinh] này đâu. Cho nên Thiện Trang nói mình học A Hàm và Nikaya đủ rồi, không cần học Đệ Tử Quy.
Thiện Trang đưa thêm một pháp giải thoát. Chúng ta thích giải thoát hơn là học những pháp thế gian đúng không?
Lợi Ích Của Chứng Quả Tu-đà-hoàn
Có sáu lợi ích, này các Tỷ-kheo, khi chứng ngộ quả Dự lưu. Thế nào là sáu?
(1) Sự quyết định đối với diệu pháp không có bị thối đọa; (2) không có bị đau khổ; (3) làm các việc bị sanh tử hạn chế; (4) thành tựu trí tuệ; (5) không cùng chia sẻ với các dị sanh; (6) nguyên nhân và các pháp do nhân sanh được khéo thấy.
Có sáu lợi ích này, này các Tỷ-kheo, khi chứng ngộ quả Dự lưu.
Ở đây chúng ta phân tích một chút để quý vị hiểu rõ hơn. Khi chứng quả Tu-đà-hoàn (quả Dự Lưu) thì có sáu điều lợi ích. Đức Phật nói:
(1) Sự quyết định đối với diệu pháp không có bị thối đọa: Điều này thì rõ ràng, chúng ta nghe cũng nhiều rồi. Thiện Trang hay chia sẻ cho quý vị là khi chứng Sơ quả Tu-đà-hoàn (chứng quả Dự Lưu) thì yên tâm, đối với diệu pháp (pháp vi diệu của Như Lai) mình không thoái chuyển nữa. Thậm chí mình cũng không cần nhận ai khác làm thầy, mình chỉ nhận đức Phật làm thầy thôi. Yên tâm! Người đó sẽ không nhận một giáo pháp ngoại đạo nào nữa, và người ta cũng không bao giờ đi trật đường nữa. Đó là các diệu pháp không bị thoái đọa (thối đọa).
(2) Không có bị đau khổ: tức là hết đau khổ. Tất nhiên vẫn còn khổ, nhưng không khổ nhiều nữa, sanh tử có hạn kỳ. Còn mình ở đây [vẫn] chui vô Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sanh, còn rớt vào ba đường ác, cho nên còn khổ.
(3) Làm các việc bị sanh tử hạn chế: tức là mình không tự tại đối với sanh tử, vì việc sanh tử của mình kéo dài. Không biết thế nào, nhưng đối với các vị vào được Dự lưu rồi, thì thời hạn trong vòng sanh tử sắp kết thúc. Giống như Sơ quả Tu-đà-hoàn thì còn tối đa bảy đời ở trong cõi Dục, rồi lên trên thôi. Có khi thì có người nhanh hơn, như Gia gia là hai, ba đời, còn Nhất chủng là một đời thôi.
(4) Thành tựu trí huệ: [thành tựu] trí huệ này thì Chánh tri kiến sẽ xuất hiện. Lúc đó quý vị yên tâm, quý vị biết đâu là đúng, đâu là sai, đối với giáo pháp Như Lai, mà không cần dựa vào người khác, mình có được niềm tin. Điều này là đối với Sơ quả Tu-đà-hoàn.
Thật ra ở đời thì quý vị cũng có thể coi thử mình tu đến đâu. Khi Chánh kiến của mình càng ngày càng chính xác, mình phân biệt được đúng sai, thị phi, chánh tà, ở trong Phật pháp và trong thế gian. Quý vị càng phân biệt được chính xác bao nhiêu, thì chứng tỏ trí huệ này đang lên. Nếu chúng ta không phân biệt được đâu là pháp đúng, đâu là pháp tà, không biết đâu là đúng, đâu là sai, thì xin chia sẻ với quý vị, quý vị còn hơi xa với những địa vị này. Tại vì sự thành tựu không phải là nhất thời đốn ngộ đâu, mà thường là từ từ, tiệm tu, lên theo năm tháng, đa số là như vậy.
Và chúng ta thấy chúng sanh thời nay mê nhiều hơn. Qua sự kiện Sư Minh Tuệ, chúng ta thấy rõ ràng người có Chánh kiến không nhiều. Rất tiếc là như vậy! Bây giờ hiện tại nhiều người quay xe rồi, nhiều người cũng phân biệt được đúng sai rồi. Nhưng rõ ràng là cũng hơi muộn, khi sự thật phơi bày nhiều hơn thì người ta mới phân biệt được. Như vậy rõ ràng là từ đầu mình không nhận định được, đó là trí của mình kém. Điều đó cũng là để kiểm tra, mình phải tu hành tốt hơn, chứ không, mình cứ như vậy [thì không được].
Đối với một vị Thiện tri thức, mà mình không phân biệt được đâu là Thiện tri thức, đâu là tà, [trong khi] người ta phá Thiện tri thức. Kiểu đó là mình rất dễ lạc dòng, lạc khỏi con đường Chánh đạo. Từ đó mình biết tại sao chúng sanh thời nay tu không tới nơi, người tu tới nơi thì rất ít. Vì chính ngay con đường Chánh đạo mà họ không xác định được, Chánh kiến cơ bản thôi mà mình cũng chưa có. Chưa nói đến Chánh kiến đúng Phật pháp, hôm bữa chúng ta học có hai loại Chánh kiến: Chánh kiến thế gian và Chánh kiến xuất thế gian, thì rõ ràng là không đạt được. Chúng ta cũng chưa đạt được Chánh kiến xuất thế gian, chứ nếu đạt được Chánh kiến xuất thế gian thì thành công rồi.
(5) Không cùng chia sẻ với các dị sanh: do không có Chú Giải, nhưng Thiện Trang đọc nhiều thì Thiện Trang nghĩ ‘dị sanh’ này chính là các chúng sanh luân hồi. Ở đây tóm lại là mình không còn đi theo dòng của chúng sanh luân hồi nữa.
(6) Nguyên nhân và các pháp do nhân sanh được khéo thấy: nếu chứng được Tu-đà-hoàn rồi, [thì mình] khéo thấy được nguyên nhân và các pháp do nhân duyên gì sanh ra rõ ràng. Tức là mình ngộ được pháp. Điều này thì cũng phải có tu tập.
Thực ra chúng ta tu tập theo thời gian, thì chúng ta sẽ có được những sự ngộ nhất định. Ví dụ quý vị đang ngồi ăn cơm, nhiều khi mình ngộ ra đời là giả, đời là vô thường, thân thể này không phải là ta. Hóa ra mình ăn bữa cơm này, chẳng qua là mình nạp năng lượng cho thân thể này thôi, chứ thực tế mình không có nhu cầu này thực sự. Vì thân thể ở cõi Dục nên mình phải ăn, chứ nếu mình ở cõi Sắc thì mình không cần ăn. Và những thức ăn này không phải là thức ăn cố định. Tuy rằng ta [đang] ngồi ăn, nhưng giờ này ở một nơi khác, thì người khác ăn món ăn khác với sở thích khác. Hoặc ở Việt Nam sẽ khác, ở Thái Lan hay ở một vùng nào đó [sẽ khác], mọi vấn đề ăn uống sẽ không giống nhau.
Cho nên dù là trong bữa ăn, quý vị ăn mà quý vị cũng tự nhiên ngộ ra những điều như vậy, là: Thế gian này phân biệt dữ lắm, khác biệt lắm, và muôn ngàn sai biệt như vậy. Chính điều đó là tư duy pháp. Mà trong kinh Phật, Thiện Trang hay nói, những điều đó giúp cho mình ngộ rất nhiều. Mình ngộ rất nhiều thì bữa ăn đó không phải là bữa ăn tham ăn, mà chỉ là ăn để sống, ăn để tu Phạm hạnh. Theo lời kinh Phật thì là ăn để tu Phạm hạnh mà thôi, chứ không phải mình ăn vì tham.
Vì sao? Ví dụ như quý vị là người Việt Nam, quý vị thích những món như mắm, phở, v.v… những món của Việt Nam. Nhưng người nước ngoài thì người ta ăn món khác, người Thái Lan thích ăn kiểu khác, hay người Nhật, người Hàn, thích ăn kiểu khác. Cho nên chẳng qua là do duyên sanh, duyên là mình sanh vào thời đại đó, vào nước đó, vào nơi đó, vào xứ sở đó, vào bộ lạc đó, vào dân tộc đó. Vì những lý do như vậy, từ nhỏ ta được huấn luyện cho ăn những món đó, cho nên lớn lên ta thích món ăn đó và ta chấp món ăn đó. Nếu quý vị sống ở nơi khác, với một môi trường khác, từ nhỏ được người ta huấn luyện cho ăn một món khác, thì lớn lên mình sẽ ăn những món ăn khác.
Cho nên các pháp do nhân duyên sanh, và điều đó không có thật. Mình hiểu được như vậy thì mình kêu: “À! Không quan trọng nữa, người ta thích ăn gì thì là chuyện của người ta, mình thích ăn gì thì đó là chuyện của mình. Đều là tham cả”. Chính ngay bữa ăn đó là mình cũng ngộ được pháp. Những điều này không ai dạy mình hết, tự nhiên ngồi ăn mình cũng ngộ, rồi uống ly nước mình cũng ngộ, dần dần ngộ nhiều như vậy thì mình sống ở trong đó, gọi là sống trong tư duy pháp hay sống trong pháp. Mình sống trong đó lâu sẽ giúp mình đắc đạo, vì mình sẽ thấy các pháp do duyên sanh, đều là Khổ – Không, Vô thường, Vô ngã. Ai mà sống được như vậy, luôn luôn Chánh niệm được như vậy, thì đó là mình trụ được trong Chánh niệm. Trụ lâu trong Chánh niệm thì sẽ có Chánh định, từ đó mới sanh ra Huệ, Chánh giải thoát, Chánh tri kiến. Tất cả các chánh xuất hiện, Bát chánh đạo đầy đủ thì mình đắc đạo thôi.
Giả sử quý vị tu bất cứ Pháp môn nào, mà tâm quý vị luôn luôn thường hằng niệm pháp như vậy, gọi là Tam Bảo hiện tiền, thì quý vị lo gì trôi lăn trong vòng sanh tử nữa. Quý vị yên tâm, sẽ chấm dứt dòng sanh tử thôi. Cho nên điều quan trọng là học pháp đủ, khi vốn đủ rồi thì nó toát ra.
Giống như một người được luyện môn nào đó, như luyện thi Đại học hồi xưa, luyện hoài sẽ giỏi, tới khi mang bài nào ra thì cũng làm được hết. Cũng vậy đó, bí quyết là vậy thôi! Mình học để có duyên nạp vào, giống như nạp năng lượng vào, rồi khi đủ duyên bên ngoài thì nó bung ra. Lúc đó mình thấy hoàn toàn những cảnh đó là cảnh pháp, và mình biết các pháp do nhân gì, duyên gì. Như thế ta sống một cách an lạc, và ngay lúc đó mình thấy vui vẻ hoan hỉ rồi, chứ còn đâu nữa. Cho nên pháp có lợi ích như vậy.
Có sáu lợi ích này, này các Tỷ-kheo, khi chứng ngộ quả Dự lưu.
(Kinh (6.97) Các Lợi Ích: Ānisaṃsa – Kinh Tăng Chi Bộ).
Tiếp theo Thiện Trang giới thiệu, cũng là về pháp tu, đó là:
Nếu Không Đoạn 5 Pháp Thì Không Thể Chứng Được Từ Nhị Thiền Đến Tứ Thiền, Không Chứng Được Sơ Quả Cho Đến Tứ Quả A-la-hán
Điều này quan trọng, nếu không đoạn 5 pháp này thì không thể nào chứng được từ Nhị thiền đến Tứ thiền, không chứng được Sơ quả cho đến Tứ quả A-la-hán. Cho nên ai muốn giải thoát sanh tử thì cố gắng coi điều này.
Do không đoạn tận năm pháp này, này các Tỷ-kheo, không thể chứng đạt và an trú Thiền thứ hai (Dutiyajjhāna); không thể chứng đạt và an trú Thiền thứ ba (Tatiyajjhāna); không thể chứng đạt và an trú Thiền thứ tư (Catutthajjhina); không thể có giác ngộ Dự lưu quả (Sotāpattiphala); không thể có giác ngộ Nhất lai quả (Sakadāgāmiphala); không thể có giác ngộ Bất lai quả (Anāgāmiphala); không thể có giác ngộ A-la-hán quả (Arahattaphala). Thế nào là năm?
Đoạn này chúng ta thấy đức Phật nói: nếu không đoạn tận (tức là đoạn hết) năm pháp này, thì không thể chứng đạt được và trú vào Thiền thứ hai (tức là Nhị thiền); Sơ thiền thì chắc được; rồi Thiền thứ ba (Tam thiền), Thiền thứ tư (Tứ thiền). Cũng không chứng được ngộ quả Dự lưu (Sơ quả), Nhị quả (Nhất lai), Tam quả (Bất lai) và Tứ quả A-la-hán. Nhất lai là một đời còn ở trong cõi Dục, Bất lai tức là không bao giờ sanh vào cõi Dục. Người chứng Tam quả thì sanh vào từ Sơ thiền cho đến Tứ thiền Sắc giới. Thậm chí có bộ Luận nói là có thể sanh đến Tứ thiền Vô sắc giới (hình như ở trong bộ Luận Đại Tỳ Bà Sa thì phải). Theo đó thì chúng ta thấy không được, vậy thì năm điều đó là gì? Năm pháp này quan trọng.
(1) Xan tham trú xứ: Xan là keo kiệt, tham là tham lam. Xan là không muốn cho người ta; còn tham là muốn lấy vô. Trú xứ tức là chỗ ở, là nhà cửa đó. Vậy mình có tham hay không? Có không quý vị? Quý vị còn coi nhà của quý vị quan trọng không? Điều này cũng khó lắm! Thiện Trang cũng ngộ ra được một chút, thật sự chúng sanh khó lắm. Đừng nói bỏ thân, bỏ cái nhà thôi cũng bỏ không được. Tại vì mình quá quen rồi.
Bây giờ quý vị nghĩ đi. Từ nhỏ đến lớn mình sống dựa vào đâu? Dựa vào ngôi nhà. Rồi gia đình làm ăn dành dụm, trừ những người giàu sang ra thôi, còn những người nghèo là phải dành dụm bao nhiêu năm mới mua được căn nhà. Cho nên xem căn nhà giống như thân thứ hai của chính mình, đúng không ạ? Cho nên đi đâu, về đâu cũng nghĩ tới nhà. Và người nào mà mất nhà, cháy nhà, sập nhà, thì quý vị thấy họ rất đau khổ. Cho nên làm sao mà không xan tham trú xứ! Nghĩ tới nghĩ lui cũng có nhà. Nhà là vật ngoài thân mà mình còn không [buông] được, huống chi [là bên] trong. Cho nên là xan tham trú xứ.
Ở đây không phải nói là bỏ, nhưng đừng có tham, và đừng có xan. Xan có nghĩa đừng có keo kiệt. [Mình] có nhà, có chỗ ở, thì cũng sẵn sàng chia sẻ cho người khác, không có giành giật, chỉ lấy [phần] của mình thôi. Còn [không] tham là không có ham lấy vô. Đó là về chỗ ở.
(2) Xan tham gia đình: Điều này còn khó hơn nữa. [Xan tham] gia đình là sao? Điều này Thiện Trang thấy là đa số đồng tu tại gia, đặc biệt là người nữ, là rớt hết. Suốt ngày mở miệng ra: Thưa thầy, gia đình con có chuyện này, gia đình con có chuyện kia. Người này có chuyện này, người kia có chuyện kia, phải lo làm sao v.v… Quý vị thấy không? Đó chính là biểu hiện của tham gia đình. Cho nên khó lắm!
Nói đạo giải thoát là phải xả được. [Nhưng] mình mong con mình học giỏi, mong con mình khỏe mạnh, mình mong cha mẹ, anh em v.v… Đời là vô thường, mà mình cứ mong là thường không à! Đó là tham [chứ] gì nữa! Làm gì có ai có thể mong được những điều đó, khi mình không có phước báu. Cho nên khó.
Nếu quý vị muốn ra khỏi sanh tử là mình phải xả. Nói chung, đứng giữa hai lựa chọn: Phật pháp và Thế gian, thì chúng ta chọn bên nào? Điều này, ai học Đệ Tử Quy rồi thì chìm ở trong đó sâu lắm, ra không nổi. Thật sự khó! Xan tham gia đình rất lớn. Suốt ngày con của con, tu hành một hồi rồi cũng khoe con, tu hành một hồi cũng lo cho con, lo cho chồng, lo gì đó v.v… Toàn những mong muốn dẫn đến xan tham.
Sáng nay quý vị thấy Sư Minh Tuệ, Thiện Trang cũng tranh thủ coi, có một đoạn có người hỏi: [họ] lấy lý do vì gia đình cho nên phải làm công việc thế này thế kia. Sư Minh Tuệ nói giữa sự hai lựa chọn, thì [chọn] một trong hai thôi. Mình đã chọn ra khỏi sanh tử thì phải chấp nhận hy sinh thôi. Muốn hai cái cùng lúc thì không được.
Cho nên có xan tham này thì không thể chứng quả, không đắc được từ Nhị thiền đến Tứ thiền, không thể đắc quả vị nào từ Sơ quả đến Tứ quả. Cho nên xan tham gia đình thì không được. Điều này là lời Phật nói mà. Tất cả lời mà Sư Minh Tuệ nói đó quý vị, thật ra là Sư Minh Tuệ học rất kỹ.
Như hôm bữa Thiện Trang có trích dẫn trong Kinh Nikaya, là hàng phàm phu thì không biết ai là phàm phu, cũng không biết ai là Thánh nhân, không có trường hợp đó. Thánh nhân thì có thể biết được ai là Thánh nhân, ai là phàm phu, nhưng đoạn đó hơi dài. Còn một đoạn kinh khác, cũng trong Kinh Nikaya, đức Phật nói rất rõ (như lời Sư Minh Tuệ nói), tức là bậc Thánh nhân có thể biết phàm phu, mà phàm phu không thể biết Thánh nhân, nên nhớ vậy. Cho nên quý vị yên tâm, Sư Minh Tuệ nói điều nào cũng có trong kinh, không có sai đâu. Quý vị coi, ngài học hết bao nhiêu kinh rồi ngài mới tu, chứ không phải là kiểu tu chơi chơi đâu. Không phải! Mình không học nên mình không biết thôi.
Cho nên ở đây là nói xan tham gia đình. Quý vị đứng giữa hai lựa chọn: xuất thế gian và thế gian, quý vị chọn bên nào? Thông thường Thiện Trang giảng thì đôi khi cũng thấy tội người ta quá. Có người thì Thiện Trang nói thẳng luôn là: Sao mà tham quá! Tu bao lâu nay rồi mà không buông được gia đình xuống, không biết các pháp ở đời là Khổ, Không, Vô thường, Vô ngã. Muốn cũng có được đâu. Quý vị ham rồi có được không?
Quý vị ham con mình học giỏi, nhưng con mình không có phước thì nó cũng không học được. Nó không có trí thì cũng không học được. Rồi muốn cho nó làm ăn giàu có v.v… mà nó không có phước thì làm sao được. Mà quý vị không mơ ước, không mong cầu, [nhưng] nó có trí tuệ thì nó cũng sẽ học giỏi, nó có phước báo thì tự nhiên sẽ giàu.
Rồi bệnh tật cũng vậy. Trong đời ai mà chẳng bị bệnh. Còn mình lo người này bệnh, người kia không bệnh v.v… Quý vị lo hay không lo thì cũng bệnh thôi. Các pháp là như vậy. Trong kinh đức Phật nói: “Cho dù có hay không có Như Lai xuất hiện ở đời, thì các pháp vẫn thường hằng như vậy”.Có nghĩa là [các pháp] vẫn diễn biến như vậy thôi. Có Phật giáo hay không có Phật giáo ra đời, quý vị tu hay không tu, thì quý vị cũng sẽ già, sẽ bệnh, sẽ chết. Gia đình quý vị cũng vậy thôi. Tu thì chuyển nghiệp, chuyển nghiệp là bớt nghiệp, duyên này chỉ bớt thôi, chứ không thể thay đổi hoàn toàn.
Quý vị đem vọng, đem sự mong cầu không thể có, mà mong cho có, đó là điều không nên. Vừa khổ tâm, vừa khổ trí. Mà khi tham, ở đây là xan tham, chúng ta học Tâm sở Tham ở trong bộ này, chúng ta biết nó thuộc về Triền cái. Triền cái thì che mờ trí tuệ. Triền là quấn, cái là che, ngăn che. Như vậy nó vừa cột mình, vừa che để trí tuệ mình không sanh. Cho nên những ai tu hành, quý vị biết thật sự họ có trí tuệ là do họ bớt những xan tham này. Xan tham về chỗ ở, xan tham về gia đình. Đặc biệt là gia đình, [nhiều] đồng tu tại gia bị vướng lắm, rất là tội!
Thấy có cô Phật tử hỏi rằng: “Con là thân nữ, con tu hành khó quá!” Quý vị thấy thực tế có phải vậy không? Thiện Trang thấy thật sự tội cho cô đó, bởi vì cô đó chưa hiểu pháp. Thực tế tu hành khó hay không, thì đâu phải [do] thân nữ với thân nam. Thân nữ thì quý vị cũng tu được, thân nam cũng tu được. Đời này có Phật pháp lưu truyền, thế gian đầy đủ Phật pháp, mình chỉ cần nghe theo, mình hành [là] được thôi.
Và chẳng qua là do người nữ chấp quá nặng, lo cho con, lo cho chồng, lo gì đâu… lo nhiều quá nên không tu được. Được điều này thì mất điều kia. Tổng năng lượng là một hằng số không thay đổi, mình xài cho việc này nhiều thì việc kia yếu thôi, đúng không? Ví dụ nhà quý vị một tháng có 15 triệu đồng để chi tiêu, quý vị xài cho điện thoại hết 5 triệu, thì chỉ còn 10 triệu thôi. Quý vị xài cho việc nào nhiều hơn thì việc kia bị hụt thôi.
Tổng phước báo ở thế gian, tổng năng lượng, tổng khả năng về trí tuệ của mình, tổng thời gian của mình là một hằng số không đổi. Một tháng chỉ có 30 ngày, một ngày chỉ có 24 giờ, mình dùng thời gian cho việc này nhiều thì việc kia bị hụt thôi. Muốn tu hành thì phải chấp nhận, được điều này thì mất điều kia. Cho nên là phải chấp nhận thôi.
Nếu ai muốn ra khỏi sanh tử, thì phải thấy thế gian này là giả, là Khổ, Không, Vô thường, Vô ngã, và các pháp diễn biến như vậy. Chứ còn mình ôm chấp, quý vị nói là được gia đình hạnh phúc hả? Không! Đến ngày nào đó thì gia đình cũng sẽ không còn. Cuộc đời này rồi cũng có ngày chấm dứt, rồi mọi người cũng lần lượt ra đi, không bao giờ có thể còn tồn tại mãi mãi. Nếu mình hiểu như vậy, thì tại sao mình không tranh thủ khi còn khỏe mạnh, còn tốt đẹp mà ráng tu hành đúng không ạ? Cho nên Thiện Trang nói yếu tố thứ hai. Có năm điều này mà quý vị không bỏ hết được thì không chứng quả đó nha.
(3) Xan tham lợi dưỡng: Điều này mà người có điều kiện thì sẽ xan tham ngay. Bình thường mình không có điều kiện [thì] không có, chứ qua thử thách một chút [là biết]. Ví dụ như lợi dưỡng làm YouTuber, kiếm tiền dễ quá là ráng chạy theo, chẳng hạn như vậy rất nhiều.
(4) Xan tham tán thán: tức là thích được tán thán, thích người ta tán thán mình, khen ngợi mình. Cho nên [bị] điều này thì cũng rớt, không đắc quả đâu.
(5) Xan tham pháp: Xan tham pháp thì cũng không được. Cho nên là không tham được gì hết. Nói chung là không có xan (là keo kiệt), mà cũng không tham được.
Do không đoạn tận năm pháp này, này các Tỷ-kheo, không có thể chứng ngộ A-la-hán quả. Cho nên không chứng ngộ được.
Do đoạn tận năm pháp này, này các Tỷ-kheo, có thể chứng đạt và an trú Thiền thứ hai… Thiền thứ ba… Thiền thứ tư… có thể chứng ngộ Dự lưu quả… Nhất lai quả… Bất lai quả… A-la-hán quả. Thế nào là năm?
Xan tham trú xứ, xan tham gia đình, xan tham lợi dưỡng, xan tham tán thán, xan tham pháp.
Do đoạn tận năm pháp này, này các Tỷ-kheo, có thể chứng ngộ A-la-hán quả.
(Kinh (5.257-263) Thiền và Thánh Quả – Kinh Tăng Chi Bộ).
Cho nên khó! Học thì cứ nghe nói vô Sơ quả dễ lắm, nhưng học một hồi sao thấy khó quá. Thật ra thì cũng vậy thôi, giống nhau. Quý vị được bốn niềm tin bất hoại, thì tự nhiên quý vị không có tham nữa. Còn mình, tại sao mình tham? Tại vì mình còn chưa có niềm tin bất hoại đối với Phật, Pháp, Tăng. Tức là Phật nói vậy thôi, chứ con thấy gia đình con thật mà thầy, con thấy chỗ ở của con thật mà, con thấy thích được lợi dưỡng mà, con thích được khen ngợi mà v.v… Con tham điều này điều kia, tham pháp. Nhưng ngày nào đó có chuyện gì xảy ra, quý vị thấy vô thường. Ví dụ như một cơn động đất xảy ra, hay một tai nạn lũ lụt xảy ra, thì quý vị thấy những điều mà Phật nói trong kinh là hoàn toàn chính xác. Chúng ta không làm chủ được điều gì cả, tất cả đều đi theo nghiệp. Lúc đó biết ra, nhớ Phật pháp thì còn đỡ, còn không nhớ Phật pháp là thua luôn, đau khổ vô cùng. Cho nên đây là điều đáng tiếc. Quý vị thấy rõ ràng là rất khó!
Hôm nay Thiện Trang sẽ chia sẻ cho quý vị về Tâm sở. Quý vị có nhớ chúng ta đã học qua các Tâm sở nào rồi không? Hôm bữa mình đang ở Tâm sở Niệm. Bữa nay Thiện Trang sẽ tiếp tục giới thiệu cho quý vị 52 món Tâm sở bên A Tỳ Đàm (không phải bên Luận Câu Xá), Luận Câu Xá thì ít [Tâm sở] hơn.
Chúng ta đã học 13 Tâm sở Tợ tha, gồm có: 7 Tâm sở Biến hành Tợ tha và 6 Tâm sở Biệt cảnh Tợ tha. Thiện Trang cứ nhắc lại [để quý vị nhớ]. 7 Tâm sở Biến hành gồm: Xúc, Thọ, Tưởng, Tư, Nhất hành, Mạng quyền, Tác ý. 6 Tâm sở Biệt cảnh gồm: Tầm, Tứ, Thắng giải, Cần, Hỷ, Dục. Mình phải học rõ [6 Tâm sở] này. 14 Tâm sở Bất thiện, gồm: 4 Tâm sở Bất thiện Biến hành, tức là trong tất cả Tâm Bất thiện thì lúc nào cũng có 4 [Tâm sở] này: Si, Vô Tàm, Vô úy, Trạo cử; và 10 Tâm sở Bất thiện Biệt cảnh, tức là có những [Tâm] Bất thiện mà lúc có lúc không, như: Tham, Tà kiến, Ngã mạn, Sân, Tật, Lận, Hối, Hôn trầm, Thụy miên, Nghi.
Chúng ta đang học ở 25 Tâm sở Tịnh hảo (tức là tốt đẹp), gồm có: 19 Tâm sở Tịnh hảo Biến hành; 3 Tâm sở Tịnh hảo Giới phần; 2 Tâm sở Tịnh hảo Vô lượng phần; 1 Tâm sở Tịnh hảo Trí quyền.
Thật ra, điều quan trọng nhất là mình học 19 Tâm sở Tịnh hảo Biến hành này. Hôm bữa mình đã học về [Tâm sở] Tín (là niềm tin). Thứ hai là Tâm sở Niệm thì đang [học] giữa chừng. Hôm nay chúng ta sẽ học tiếp Tâm sở Niệm, Tâm sở Tàm, Tâm sở Uý. Còn những Tâm sở khác thì chúng ta sẽ học vào bữa khác.
Thiện Trang xin nhắc lại về Tâm sở Niệm. Niệm ở đây không phải là ghi nhớ không [thôi], mà mình phải nhớ được, nhớ điều gì? Tại vì Niệm này quan trọng lắm. Quý vị nhớ trong Ngũ quyền (Tín, Tấn, Định, Niệm, Huệ) cũng có Tâm sở Niệm. Rồi Ngũ lực cũng có Niệm. Bảy giác chi cũng có, và Bát chánh đạo cũng có. Cho nên Niệm cực kì quan trọng. Và nếu chúng ta không hiểu Niệm, thì coi như chúng ta tu sai hết.
[Vậy] Niệm là gì? Niệm không phải là nhớ những điều gì trong quá khứ không [thôi], mà Niệm là mình nhớ biết, ghi nhận được, tỉnh táo được, theo dõi được các pháp, các hiện tượng, các vấn đề gì đang diễn ra. Mình theo dõi được, mình thấy rất rõ, không để nó trôi đi qua mà mình không biết được. Đó mới là Niệm. Do chữ Niệm khiến cho mình nghĩ Niệm là quá khứ thôi. Cho nên không học kinh, không học A Tỳ Đàm, thì gọi là ‘y văn giải nghĩa’ thì sai.
Thiện Trang thấy rất buồn, vì hiện tượng này hiện nay rất nhiều, vì người ta không học. Người không học thì nhiều, nhưng [lại] đi giảng nhiều. Do không học mà giảng, không học thì mình cứ giảng theo ý mình. Mình thấy chữ Niệm, mình nghĩ là Niệm là ghi nhớ. Ví dụ như niệm Phật, niệm Phật là sao? Chữ Niệm [念] là ‘kim tâm’, may là có chữ kim. Chữ kim là hiện tại, tức là tâm hiện tại phải nhớ Phật. Mình nói như vậy thì cũng đúng. Nhưng thực tế nếu quý vị học hết kinh, thì quý vị thấy ngoài tâm niệm nhớ Phật ra thì còn gì nữa? Là biết, lúc đó phải giác biết, tỉnh giác. Bởi vì chữ Phật, ở trong ngôn ngữ chữ Hán thì không rõ, nhưng nếu quý vị tra bên Pali hay Sanskrit, thì Phật nghĩa là tỉnh thức. Một sự tỉnh thức, một sự giác biết.
Cho nên chữ ‘niệm Phật’ có nghĩa là gì? Có nghĩa là quý vị phải biết tất cả những gì đang diễn ra, đang diễn biến thế nào. Tâm ta như thế nào, chúng sanh như thế nào v.v… Biết cả về quá khứ, biết cả về hiện tại, biết lẫn về tương lai. Một người biết [tất cả], các trí đó hiện tiền đầy đủ thì đó là Phật. Cho nên là học, mỗi một ngôn ngữ bổ sung [cho mình] rất nhiều.
Chữ Phật trong [tiếng] Pali có 8 nghĩa, còn chữ Phật trong chữ Hán chỉ mượn âm, nên không có 8 nghĩa. Đó là khác nhau rất lớn. Cho nên là có những ngôn ngữ hay, đẹp, nhưng mình học nhiều ngôn ngữ thì mình mới hiểu được. Thiện Trang nói hèn chi trong kinh nói nhớ sáng suốt cũng là niệm Phật mà. Cho nên là sao cũng được.
Ở đây chúng ta đang nói về Niệm. Niệm là phải lưu tâm, tức là ghi nhớ được, ghi nhớ và tỉnh táo, theo dõi được các pháp đang diễn biến thế nào. Nói các pháp thì nói khó hiểu quá, [mình nói] là tất cả hoàn cảnh tâm lý, tất cả mọi thứ đang diễn biến thế nào thì mình đều theo dõi được và không để nó trôi qua, tức là mình bắt được cảnh. Đó gọi là Niệm. Tâm sở như thế là Niệm.
Cho nên Niệm là pháp tỉnh thức của đời. Người có Niệm thì luôn luôn tiến tới phía trước (tiến hóa đó). Người có Niệm là người luôn được hưởng an vui. Còn người không an vui là do người ta thất niệm. Thất niệm là do mình chạy theo quá khứ, mình không nắm bắt được các pháp hiện tại. Mình nhớ chuyện ngày hôm qua buồn v.v… rồi mình buồn. Người [có] Niệm thì ngày nào cũng ngày đặc biệt, hằng ngày đặc biệt. Cho nên Niệm này cực kỳ quan trọng. Nhờ Niệm này mới có Định.
Quý vị nhớ: nhờ có Niệm nhiều, niệm hoài, cho nên mới có Định. Có Định thì bắt đầu mới có Tuệ được, Niệm – Định – Tuệ. Cho nên điều nào cũng quan trọng. Tất nhiên ở đây Niệm quan trọng là bởi vì sao? Bởi vì trong năm quyền gọi là Ngũ căn, Ngũ lực, Thất Bồ-đề phần và Bát chánh Đạo phần đều có Niệm. Quý vị nghĩ coi, trong 37 Phẩm trợ đạo trừ Tứ niệm xứ, Tứ chánh cần, Tứ như Ý túc, 8 điều gần đầu là không có Niệm. Nhưng là không có chữ Niệm thôi, chứ thực tế thì quý vị phải nhớ được hết. Không có Niệm là coi như tu không được, cho nên là phải luyện, phải tu.
Bây giờ, điều quan trọng nhất ở trong Tâm sở Niệm là gì? Là chúng ta phải nhớ được 17 yếu tố để phát sanh được Tâm sở Niệm này. Tức là làm sao để mình có Tâm sở Niệm này thường xuyên. Tại vì nếu không có Tâm sở Niệm thường xuyên thì mình bị trật ngay. Tu cũng vậy, xác định sai đối tượng, xác định sai Chánh pháp, xác định sai người v.v… [thì] bị dụ, bị lừa.
Ví dụ như Việt Nam bây giờ có hiện tượng, là chúng ta hay [bị] gọi lừa qua điện thoại, gọi video call v.v… một hồi rồi họ lừa. Tại sao [bị] lừa? Tại vì mình thất niệm. Nếu lúc đó mình có Niệm, mình theo dõi được các pháp đang diễn ra, biết người đó nói xạo chứ không thật. Thứ nhất công an làm việc, hù dọa mình phải không? Nhưng không bao giờ có việc công an làm việc trên điện thoại kiểu đó. Công an, cảnh sát làm việc là luôn phải tới từng nơi, thậm chí tới từng nơi rõ ràng. Tới từng nơi cũng chưa chắc, phải mời mình lên trụ sở để làm việc. Tại vì không làm việc tại trụ sở, thì làm sao mình biết họ là công an thật hay giả. Người ta có thể xuất trình giấy tờ giả v.v… người ta lừa mình thì sao. Cho nên phải đưa đến trụ sở đó, để đảm bảo ai cũng biết trụ sở đó, thì mới chính xác. Cho nên những người giả dạng công an [để] lừa, thì [họ] biết mình [có] điểm yếu, mình đang kinh doanh nên mình có tiền, chắc mình trốn thuế, họ hù một hồi là mình sợ.
Tại sao mình sợ vậy? Tại vì mình có những điểm yếu. Và mình không có Tâm sở Niệm, nên mình không phát hiện được điều bất hợp lý ở trong đó, cho nên mình bị lừa. Tóm lại nếu có Tâm sở Niệm thì tu tốt. Vì vậy chúng ta có:
17 yếu tố để phát sanh Tâm sở Niệm.
1. Niệm phát sanh do hiểu biết: là những sự vật, nghĩa lý đã từng quen khi gặp, lúc cần dùng thì những cách hiểu biết ấy phát hiện nơi tâm rất dễ.
Cho nên điều này là mình phải học, đầu tiên là quý vị phải học. Có những tình huống tương tự như vậy, ví dụ ra đường mình nhớ Niệm là gì? Mình thấy bảng hiệu (bảng giao thông), hoặc là mình thấy đèn đỏ, mình nhớ: ‘À, đèn đỏ thì không được chạy qua, mà phải dừng lại’. Đó là do sự hiểu biết, những sự vật quen thuộc được luyện, được học rồi. Hoặc khi có một sự kiện gì đó, ví dụ như ở trong nhà, điện bị chập, làm cháy bóng đèn, dây [điện] bị cháy xẹt xẹt. Vậy đầu tiên [mình cần] hiểu biết là gì? Là đi cúp cầu dao đúng không? Cúp cầu dao xuống để cho không cháy nữa. Đó là Niệm phát sanh do sự hiểu biết. Mình đã học qua những kiến thức đó, mình đã từng quen thuộc rồi, từng dùng [rồi], thì khi cần dùng tới thì nhớ ra, xài được. Cho nên đó là được học.
Cũng vậy, trong Phật pháp chúng ta cũng phải học để thuần thục. Ví dụ như chúng ta học để chúng ta biết, biết rồi thì khi ngồi Thiền định v.v… có vấn đề gì là mình biết liền. Nếu không biết thì chịu thua.
Giống như có đồng tu hỏi về tu Thiền định: “Sao con tu Thiền định không đắc lực?” Sư Minh Tuệ nói luôn là do không giữ giới thứ 5, còn uống rượu thì không đắc lực thôi. Có người hỏi giùm cho đồng tu khác đó. Chúng ta thấy rõ ràng, tại vì mình không giữ được Ngũ giới, Bát quan Trai giới (8 giới), thì mình tu Thiền định không đắc thôi. Đơn giản vậy thôi. Rồi mình còn tham, Triền cái mình chưa bỏ hết. Trong 5 loại Triền cái như Tham, Sân, Nghi… mình không bỏ được thì làm sao tu đắc được Sơ thiền trở lên. Đâu có được! Mấy chi thiền mình học hết rồi. Cho nên thật ra là mình học qua rồi, mình biết rồi thì mình vận dụng.
2. Niệm phát sanh do gom góp: là những vật gom góp để vào một chỗ, thì tâm được chú ý nhiều lần, nên khi cần đến, nhớ ngay lại liền nơi ấy. Hay như tiền dồn hết trong túi, khi dùng [thì] thò bàn tay vào túi lấy ra là có liền.
Có nghĩa là Niệm này muốn phát sanh thì phải gom góp, giống như mình đem nhiều đồ vật bỏ vô một chỗ. Mình bỏ vô chỗ đó, nên khi cần cái gì là vô trong phòng đó lấy ra. Cũng vậy, tiền mình bỏ vô túi, cho nên khi cần tiền thì mình móc trong túi ra là xong, đưa tay vô lấy ra.
Cũng vậy, Niệm này là do gom góp, có nghĩa là sao? Quý vị muốn nhớ pháp, bây giờ ai cũng muốn nhớ pháp, ai cũng muốn niệm Phật đúng không? Do mình gom góp hằng ngày, có nghĩa là mình cứ luyện, mình nghe hoài, nghe giáo pháp Khổ – Không, Vô thường, Vô ngã chẳng hạn. Rồi ai tu Tịnh Độ thì nhớ Phật, nhớ Tây Phương Cực Lạc, tụng kinh miết, đọc miết. Cho nên nó gom góp, ngôn ngữ theo Bắc truyền thì gọi là huân tập, còn ngôn ngữ đơn giản thì gọi là gom góp. Mình cứ luyện qua luyện lại, tức là mình tiếp xúc với đó nhiều quá cho nên nhớ, tới khi gặp chuyện gì là hiện ra ngay. Đó là do gom góp. Cho nên muốn được có trí tuệ tu tập thì phải có điều này, phải thường xuyên tiếp xúc với vấn đề đó.
Còn ở đời, do mình tiếp xúc với đời nhiều quá, cho nên gặp chuyện là chuyện đời xảy ra trước. Giống như có người tu hành, đang đi một hồi thì gặp một con chuột chạy ngang qua. Thay vì người ta nhớ Phật, nhớ Pháp, nhớ Tăng, Chánh niệm hiện tiền, nhưng do gom góp ở đời họ quen rồi, nên họ la “á á”, hét lên kiểu vậy đó. Hay là phát lên những câu nói gì đó vô thức, đó là do mất niệm, do họ không được gom góp. Gom góp thế nào? Là gom góp Phật pháp thì yếu, mà gom góp thế gian thì mạnh, không có Niệm, không có Định.
[Vì vậy] mình phải niệm nhiều, gom góp nhiều, thì mới là Niệm. Niệm hoài [thành] quen. Ví dụ như lần đầu tiên thấy vậy thì có sợ chút, [nhưng] thời gian sau thì nhớ. Mới đầu giật mình, nhưng rồi nhớ ra: ‘Có con chuột thôi, làm gì dữ vậy! Các pháp là do duyên sanh v.v… cùng lắm là bị nó cắn vào chân thôi’. Gặp con rắn cũng vậy, bình tĩnh! Nó cắn cũng chưa [chắc] chết đâu mà, cứ bình tĩnh.
Nếu mình gom góp nhiều tâm như vậy, mình suy nghĩ thường ngày như vậy, thì [khi] gặp [chuyện] mình cũng không sợ. Tức là mình cũng giác được liền, chứ mình không sợ. Còn do không có gom góp, không có chuẩn bị tình huống đó, cho nên gặp con rắn bò ngang, đụng vô cái chân [là] sợ quá, hoảng hồn, xỉu luôn chẳng hạn. Đó là do không có gom góp.
3. Niệm phát sanh do Thức thô: là do tâm hoạt động thô như nóng giận, buồn nhớ, hay thất tình: Hỷ, nộ, ái, ố, ai, lạc, cụ rất mạnh, nhớ lại cái gì đã qua hoặc hiện tại. Nhưng cũng có khi nhớ đến sự này sự nọ, như giận này, nhớ đến oán thù khi xưa.
Có nghĩa Niệm này là do mấy Thức thô, điển hình như nóng giận. Ví dụ quý vị đang chơi với bạn đó, [nhưng] mình nóng, mình giận, mình tức bạn đó, mình nhớ hồi xưa là người đó có tính xấu gì đó, họ lừa mình gì đó. Hồi xưa họ đã xấu như vậy rồi, xấu thế này, xấu thế kia v.v… Bình thường thì không nhớ, nhưng khi tức lên là nhớ, đó là nóng giận, đó là Thức thô, những tâm hoạt động thô.
Hoặc là bình thường thì quý vị vui vẻ, không nhớ chuyện gì hết, giống như ở đây nói thất tình (thất tình là mất tình), thì lúc đó cũng nhớ ra là hồi xưa mình quen người đó như thế nào v.v… thế này thế kia. Vì do những trạng thái: Hỷ, nộ, ái, ố, ai, lạc, dục mạnh quá, khi xảy ra [chuyện] là bắt đầu nhớ lại những gì đã qua hoặc hiện tại, là do những kiến thức đó mà mình nhớ.
[Đối] với điều này, nếu mình biết tu thì mình chuyển lại. Tức là khi gặp những chuyện đó, mà có [những trạng thái] như vui quá, buồn quá, hay là lo lắng hay thế nào. Thay vì tâm thô hoạt động nên nhớ chuyện thế gian vậy đó, thì bây giờ mình đổi lại, mình nhớ Phật pháp: Các pháp đều là Khổ – Không, Vô thường, Vô ngã. Cho nên đang nóng giận người ta, nhưng mình nhớ pháp là Khổ – Không, Vô thường, Vô ngã. Người cũng là giả, không nên giận họ. Rồi ví dụ như thất tình đi, thì nhớ: Thế gian là nghiệp báo, nghiệp chướng, người là nhân duyên, v.v…
Cứ đem mấy pháp đó ra áp liền. Thay vì khi mình phát sanh những niệm xấu từ Thức thô (tức là những sự biết thô) mà tâm mình đang chuyển biến không tốt, thì mình chuyển lại thành Chánh niệm liền. Đó là cách tu hành. Cho nên người biết tu hành là mình đổi lại. Điều này quan trọng nha quý vị. Nhiều người không có năng lực này.
Có một số Phật tử nhắn tin cho Thiện Trang, than thở quá trời, nào là gia đình, nào là này kia. Thiện Trang chỉ nhắn lại: Thôi, thế gian vô thường đó mà. Đời là khổ v.v… Nhưng người ta không nghe câu đó, người ta tiếp tục than: Thầy ơi, thầy không hiểu đâu, con thế này thế kia. Thầy không ở trong hoàn cảnh của con, thầy không hiểu đâu…
Đó là kiểu nào? Tức là người ta không có Phật pháp hiện tiền. Nhắc một cái thì phải nhớ chứ, phải [nhận ra]: Đúng là đời Khổ, Không, Vô thường, Vô ngã. Bây giờ nó hiện ra rõ ràng đấy thôi. Đời là khổ. [Thấy] khổ chưa? Đang khổ đó. Đời là vô thường. Thấy Vô thường chưa? Không thấy! [Chỉ] thấy thật và thấy khổ thôi. Cho nên trí giác của người đó kém, vì vậy họ tu không đắc lực.
Thông thường thì mình mê một chút thôi quý vị, có người nhắc là mình tỉnh. Còn nếu khi người ta nhắc mà mình cũng không chấp nhận luôn, thì đó là Phật pháp của mình không hiện tiền. Và mình học bao nhiêu lâu qua nhưng công phu không đắc lực. Vậy thì thôi, không đắc lực thì cứ từ từ tu. Đời này không thành tựu thì đời sau, mỗi đời tu một chút. Tu bao giờ thành tựu được, buông được, chuyển được những Thức thô, những Phiền não thế gian thành Phật pháp thì quý vị thành công, ra khỏi sanh tử. Không thì cứ từ từ ở trong đó, rồi đến đời nào đó cũng thành tựu. Chứ bây giờ đâu có cách nào. Tại vì mình không tin Phật pháp mà. Đó là mình không tin, không tin thế gian là Khổ – Không, Vô thường, là nghiệp báo, là oan gia gặp nhau, v.v… Mình không tin, mình thấy thật à. [Mình] thấy con là con, chồng là chồng, vợ là vợ, tất cả hoàn cảnh đều như vậy. Cho nên là hết cách, không có cách nào. Thôi đời này học để kết chút duyên, từ từ, bao giờ mạnh hơn thì buông được.
4. Niệm phát sanh do vật chạm thức, như khi ta bị đánh và ta đau [thì] ta biết đau, hoặc khi gặp cảm xúc thích hợp, sướng thân thì ta biết sướng, hay nhớ lại sự sướng, sự đau như thế nào.
Có nghĩa là điều này là do chạm. Ví dụ như bây giờ mình bị chạm [vào] thì mới thấy đau. Sự đau này sẽ nhớ đến sự đau khác, đúng không quý vị? Ví dụ như mình tông vô cái cây, mình thấy đau quá, thì mình nhớ tới hồi xưa bị té xe thấy đau hơn, thế này thế kia, nhớ lại như vậy. Rồi sướng, ví dụ ăn món ăn ngon quá, mình nhớ hồi xưa được ăn món ăn ngon hơn, mình nhớ ra thế này thế kia. Đó là những niệm nhớ luân hồi.
Còn mình tu thì mình đổi lại, mình dùng Tâm sở Niệm để đổi lại. Tức là khi đau thì ta biết ta đau. Nhưng ta biết sự đau này là do thân thể này đau, cho nên khổ, mình mong muốn giải thoát, mình không muốn thân này nữa. Thân cõi Trời sướng hơn, không có đau, không có bệnh, rồi mình thấy Tây Phương Cực Lạc chẳng hạn, không có đau. Hoặc mình nghĩ là sau này mình sẽ được giải thoát giác ngộ, nhập Niết-Bàn, là hết đau v.v…
Rồi khi thấy sướng, mình cảm thấy việc sướng này cũng khổ thôi, [chỉ là] sướng tạm thời. Giống như ví dụ trong Luận Câu Xá đưa ra, là hơ cùi, ghẻ lở trên lửa nóng cho dễ chịu thôi, chứ thực tế là nó đau, đau nhưng tại mình vui một chút đó. Trong thế gian này, mình thấy những xúc chạm, đối với sướng hay khổ, hay đau đớn gì đó, mình chỉ cần đổi lại là tất cả đều vô thường, không tồn tại lâu dài. Mình cứ cảm nhận như vậy. Nếu khổ thì mình thấy thế gian là khổ, thật sự khổ, ta đang trải nghiệm được sự khổ đó, cho nên ta cứ tiếp tục, không sao hết. Đó là điều thứ tư.
5. Niệm phát sanh do không vật chạm thức, như là khi tới vật này vật nọ, chứ khỏi lo thân đụng chạm chi cả.
Có nghĩa là có những thứ mình cũng chẳng xúc chạm gì hết, nhưng tự nhiên tâm mình nhớ tới, nào là kỷ niệm xưa, nào là lúc trẻ đi lội mưa, rồi nhớ tới điều này điều kia, mặc dù mình chẳng tiếp xúc với gì hết. Đó là niệm phát sanh. Nhưng những niệm đó vẫn là niệm sanh tử, niệm luân hồi. Chúng ta phải đổi lại, từ những niệm phát sanh đó, thì chúng ta nhớ hồi xưa vô thường. Cách đây mười mấy, hai chục năm, ta còn nhỏ, nên ta đi tắm mưa, đi đạp xe ngoài đường, đi học trời mưa, trời gió v.v… Mình chuyển như vậy, mình thấy thế gian vô thường, hồi xưa là như vậy, còn bây giờ thế nào. Hoặc là hồi xưa đi trong cơn mưa bị ướt, còn bây giờ không bị mưa ướt nữa, bây giờ có ô tô đi rồi.
Cho nên trên mạng có chế hình, gọi là ‘vật chất quyết định ý thức’, chắc quý vị cũng thấy. Họ vẽ ra cặp tình nhân, hai người đi với nhau, cô đó ngồi sau người yêu, kêu: “Mưa gì mà mưa lắm thế, ướt hết người, nhức cả đầu”. Tại vì cổ được anh chàng đó chở đi bằng xe máy. Còn cặp kia ngồi trên ô tô, cô kia nói: “Ôi, mưa đẹp quá, em yêu mưa”. Cho nên vật chất quyết định ý thức.
Thực ra, nếu quý vị coi câu chuyện đó mà thấy hài là bình thường, còn nếu mình là người tu học Phật pháp, thì mình sẽ thấy ra những điều hay hơn. Hay hơn ở chỗ nào? Thứ nhất, cùng một hiện tượng, nhưng chúng sanh nhìn theo góc độ khác nhau. Và sự nhìn đó là chúng sanh bị cảnh chuyển, quý vị hiểu không? Còn người giác ngộ thì chuyển lại cảnh. Tức là mình thấy vậy, thì mình nói là thế gian vô thường, đâu có thật, cùng cảnh mưa thôi, nhưng bên này nói khổ, còn bên kia nói vui, tại vì sao? Do một bên đi ô tô, một bên đi xe máy, một bên thì đang thế này, [một bên thì thế] kia. Nên có những điều, cùng một hoàn cảnh đó, nhưng tâm [mỗi người] khác nhau.
Vậy ta là người học Phật pháp, ta phải không để tâm chạy theo những hoàn cảnh như vậy, mà ta luôn giác biết được chúng sanh là mê. Họ mê nên họ mượn cảnh để suy nghĩ theo hướng của họ, chứ không phải như vậy. Thật ra cũng bình thường thôi, đi mưa về ướt thì chắc ai cũng khó chịu. Nhưng cơn mưa cũng làm sạch con đường đi, cơn mưa cũng giúp cho những cây cối được tốt tươi v.v… Nên thế gian không có mưa cũng khổ lắm. Mà trời làm sao không thể không mưa, phải có lúc cần mưa. Nên mưa cũng là hiện tượng trong thế gian mà thôi, và chúng ta hãy chấp nhận nó. Trời muốn mưa thì mưa, muốn nắng thì nắng, mình cũng giác ngộ được, không có kiểu chạy theo nó. Mà mình mượn cảnh nắng để giác ngộ, thế gian có những ngày nắng, và sẽ có những ngày mưa, khi có nắng thì sẽ có mưa, nó đối lập như vậy.
Dần dần như thế, thì mình sống trong giác ngộ. Rồi nếu ai tu Tây Phương Tịnh Độ, thì nhớ ở trên đó không có mưa, mình nhìn cảnh đó mà mình liên hệ Tây Phương Cực Lạc không có mưa chẳng hạn.
Cho nên đó là dựa vào những điều không chạm thức. Những điều gì mà mình biết, mình tiếp xúc hoặc không tiếp xúc, mình đều đẩy tâm niệm của mình về giải thoát giác ngộ hết, thì mình thành công. Bí quyết tu hành là thế thôi, đừng để cảnh lôi kéo đi vào tâm niệm sanh tử. Mà hãy đem Tâm sở Niệm này, niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm Bố thí, niệm Trì giới, niệm Thiên, niệm Ba-la-mật, niệm Chỉ tức, niệm An-ban… thập niệm đó. Chúng ta nhớ những niệm đó, thì chúng ta sẽ giác ngộ.
Cho nên Thiện Trang giảng Tâm sở Niệm này hơi dài là vậy, bởi vì đó là pháp tu của chúng ta. Tất cả các pháp, quý vị muốn tu định thì quý vị cũng phải niệm. Ví dụ tu Thiền chỉ hay Thiền quán gì, thì quý vị cũng phải có niệm chứ. Quý vị ngồi đó mà quý vị quên mất, tâm mình chạy đi đâu, mình không nhớ, không biết, không bắt được cảnh hiện tiền, thì làm sao tu Thiền chỉ, làm sao tu Thiền quán. Cho nên Niệm này cực kỳ quan trọng.
6. Niệm phát sanh do đồng ấn chứng, như gặp nhân vật tương tự, như nhân vật đã gặp, thì nhớ đến nhân vật thường quen.
Điều này gọi là đồng ấn chứng, tức là có một cảnh giống giống tương tự như vậy. Ví dụ quý vị đi ra đường, gặp một người nào đó thấy giống ba mình (bố mình), thì mình nghĩ đến ba mình ở nhà thế này thế kia, mặc dù mình biết ở xứ sở này không có ba của mình. Mình đã lên Sài Gòn rồi, còn ba mình ở dưới quê, không có chuyện đó, nhưng mình cứ liên tưởng tương tự.
Thiện Trang thấy tất cả pháp đều do tâm tưởng sanh. Ví dụ hồi xưa Thiện Trang lên núi tu, trên đỉnh núi có một cái cây, có lá cây, chùm cây, ngọn cây thế nào đó. Có một chú nhìn và nói: “Quý thầy có thấy không? Con thấy cây đó giống người quá”. Vị thầy kia nói: “Tôi thấy giống Quán Thế Âm Bồ-tát”. Một vị thầy khác nói: “Tôi thấy giống Địa Tạng Vương Bồ-tát”.
Có nghĩa là do tâm mình, thấy một cảnh nào giống giống tương tự như vậy, thì mình liên hệ ngay. Và điều đó [giúp] mình đánh giá được ngay, là tâm của thầy này quý mến ngài Quán Thế Âm hơn, tâm của thầy kia thì nhớ đến [ngài] Địa Tạng Bồ-tát hơn, còn tâm của ông kia chỉ nhớ đến người thôi. Khi những cảnh gợi nhớ đến ấn tượng nào, thì từ đó mình biết tâm mình đang đặt ở đâu. Ví dụ đi ra đường mà quý vị gặp một vị Sư, một vị thầy tu, thì quý vị nhớ đến ai? Nếu quý vị thấy giống giống thầy Thiện Trang, thì quý vị đang ấn tượng về thầy Thiện Trang mạnh. Quý vị thấy: À, vị Sư này có lẽ giống với Sư Minh Tuệ v.v… Thế là mình nghĩ tới Sư Minh Tuệ. Đó là do ấn tượng của mình mạnh.
Vậy thì bây giờ quý vị hãy đổi tất cả những hiện tượng đồng ấn chứng đó, những hiện tượng tương tự đó, mình quy về Phật, Pháp, Tăng, quy về Tam Bảo, thì mình tu dễ dàng. Còn quý vị ra đường gặp một người nào, mà kêu người này giống người yêu cũ của tôi, giống ông chồng của tôi, là thôi rồi đó, toàn niệm luân hồi. Điều đó cũng đơn giản lắm, chỉ là pháp vậy thôi.
Cho nên với Tâm sở Niệm này mà mình học cho kỹ thì mình tu được. Còn học không kỹ thì mình tu trật. Mặc dù quý vị tu bất cứ Pháp môn nào, thì quý vị cũng phải không rời khỏi đời sống, cũng phải gặp cảnh. Bất cứ cảnh gì đó, mình thấy hiện tượng tương tự, thì mình đẩy hết về Phật, Pháp, Tăng (Tam Bảo), Mười niệm hoặc Lục niệm, chúng ta nắm được điều đó là được.
7. Niệm phát sanh do ly ấn chứng, như là sự vật ta đã thường quen, dù cách xa trải qua bao lâu, có khi khỏi gặp sự vật tương tự, mà cũng nhớ lại.
Điều này thì bình thường. Tức là sự việc đó quá quen rồi, nên dù cách xa bao lâu v.v… thì mình cũng tự nhớ, mà chẳng cần phải có hiện tượng tương tự. Ví dụ như quý vị ngồi một hồi ở trong nhà, [tự nhiên] quý vị nhớ ở dưới quê, bây giờ tối rồi, chắc ba mẹ sắp lên giường đi ngủ rồi. Giờ này mình nghe pháp, nhưng dưới đó [ba, mẹ đi ngủ rồi]. Quý vị nhớ hiện tượng đó là do mình quá quen thuộc. Mình sống với bố mẹ mình lâu quá, nên mình nhớ ra như vậy. Đó là niệm thế gian.
Còn bây giờ mình nhớ niệm Phật, là mình nhớ: À, thời xưa bao nhiêu ngàn năm trước, nếu vào ban đêm giờ này, thì đức Phật Thích Ca cũng đang tọa thiền, hoặc là Ngài giảng kinh cho các vị Tỳ-kheo nghe v.v… Mình cũng đang được nghe pháp đây. Tức là mình đổi, thay vì bị vọng tưởng lung tung, thì mình vọng trong Phật pháp, đó là tốt.
8. Niệm phát sanh do hứa, như là đã có hứa hẹn, lúc đến giờ dễ nhớ lại ngay.
Điều này là hứa [với] người ta. Ví dụ hứa là ngày mai tôi sẽ tới, tôi tặng cho quý vị một bộ Kinh A Hàm [chẳng hạn], xong rồi sẽ dẫn quý vị đi ăn trưa. Mình hứa như vậy rồi. Cho nên ngày mai, mình nói chín giờ tới, thì gần tới giờ đó là mình nhớ: À, hôm nay mình có lời hứa đó. Có nghĩa là Niệm này là do hứa. Do hứa như vậy, nên trong nhà Phật mới dùng cách nào quý vị biết không? Dùng phát thệ nguyện, là áp dụng cho Tâm sở này. Tại sao người ta có thể nhớ Phật pháp nhiều? Là do người ta phát nguyện nhiều. Ví dụ như mình toàn phát nguyện suốt nên mình nhớ. Quý vị đâu cần gặp [cảnh] gì đâu, mà quý vị cũng nhớ.
Giống như có nhiều người phát nguyện: là từ nay cho đến suốt cuộc đời này, con nguyện tu Phạm hạnh, tức là không có dâm dục. Cho nên một hồi mình cũng nhớ là mình không dâm dục, không được có người yêu, không được lấy chồng v.v… thế này thế kia, đủ các kiểu. Đó là do nhớ lại. Đó là Niệm. Niệm này là mình phải có lời hứa, hứa với ai? Mình lên phát nguyện, hứa với Tam Bảo, hoặc là ngay cả thọ giới, thọ Bát quan trai, con hứa phát nguyện một ngày một đêm, hoặc hứa thọ Ngũ giới v.v… là do hứa.
Cho nên điều đó cũng quan trọng, mà nhà Phật ứng dụng vào trong việc thọ giới, thọ Tam quy v.v… và phát những lời nguyện. Nên đây là đều ứng dụng trong A Tỳ Đàm, [ứng dụng] Tâm sở. Quý vị thấy rất hay đúng không? Cho nên mình không học Phật pháp, thì mình không hiểu tại sao Phật lại dạy như vậy. Thật ra là các ngài áp dụng ở trong này.
9. Niệm phát sanh do nêu, tức là làm dấu, sau khi gặp liền nhớ.
Điều này là ứng dụng. Ở thế gian, ai mà học giỏi thì cũng biết một phần cách áp dụng này. Thay vì mình vô học kiểu công thức máy móc, học đoạn dài ghê gớm, thì mình chỉ cần làm mấy dấu hiệu, dấu này thế này, dấu kia thế kia. Ví dụ như dùng bản đồ Atlat Địa lý, môn đó là rõ ràng nhất. Còn không thì mình dùng dấu, như có người tới công ty làm, họ niệm Phật nên họ để chữ Amitābha (là Phật A Mi Đà, Buddha đó), nhưng họ viết tắt thôi, để chữ A, chữ M, hoặc chữ B chẳng hạn, cho ấn tượng. Họ làm dấu đó, để mỗi khi thấy chữ đó thì nhớ đến Phật.
Rồi mình cũng vậy, mình đeo thứ gì cũng là mình làm dấu, người ta đeo chuỗi cũng là [để] nhớ. Như Thiện Trang đắp y này lên là cũng nhớ, thấy y này mới nhớ đến Phật, Pháp, Tăng, nhớ đang thọ Tỳ-kheo, tự nhiên nhớ. Cho nên tại sao quý vị phải có bộ áo Cư sĩ, áo này áo kia, rồi chuỗi hạt v.v… đủ các kiểu? Mục tiêu là làm dấu hiệu, để khi gặp thì mình nhớ ra Phật, Pháp, Tăng. Rõ ràng khi quý vị mặc áo Cư sĩ vô thì quý vị nhớ: Tôi là Cư sĩ nên tôi tu hành. Còn quý vị không mặc thì quý vị không nhớ. Đó là cách áp dụng Tâm sở Niệm.
Cho nên ai biết tu hành cũng vậy, quý vị làm ra những dấu hiệu gì đó. Ví dụ như quý vị làm dấu gì lên con chuột, không viết chữ A Mi Đà Phật, hoặc chữ Phật, Pháp, Tăng, nhưng làm một dấu hiệu trên đó. Mỗi khi quý vị cầm con chuột máy tính lên là quý vị thấy: À, đây là Phật này v.v… Mình chuyển hết về tu hành là vậy. Cho nên có rất nhiều cách tu để nhớ. Nhớ càng nhiều thì Niệm nhiều, Niệm nhiều thì càng tốt.
10. Niệm phát sanh nhờ nhắc nhở, như là sự vật đã qua ta không nhớ được, nhờ người khác nhắc giùm liền nhớ lại được.
Điều này thì rõ ràng đúng không quý vị? Có nhiều điều mình quên, cho nên có người khác nhắc cho mình. Giống như Thiện Trang hay nhắc các đồng tu nào [hay] than thở [về] gia đình, suốt ngày gia đình con [có] chuyện này, chuyện kia v.v… Thiện Trang nói đời là vô thường, nhớ giùm Vô thường đi, Phật Pháp là do nhân duyên sanh. Thiện Trang nhắc như vậy mà quý vị không nhớ, thì Niệm của quý vị yếu quá.
Thật ra nếu quý vị luôn luôn [có] Tam Bảo thường trực hiện tiền trong đầu, thì những hiện tượng xảy ra là nhắc [nhở] ta. Tức là thấy cảnh thì mình đều nhớ: À! Đời là vô thường, đời là khổ. Không cần phải có người ta nhắc, nhưng để người ta nhắc là mình đã yếu rồi. Và khi người ta nhắc mà mình cũng không chấp nhận luôn, thì mình quá yếu. Cho nên công phu không đắc lực. Nhớ vậy nha!
11. Niệm phát sanh do đầu đề, như là ta thấy đầu đề nhớ được cả bài.
Điều này là rõ ràng. Thường ai học, thì chúng ta chỉ nhớ đầu đề thôi đúng không? Giống như sơ đồ mà Thiện Trang vẽ ở đây, quý vị thấy không? Đây là những đầu đề này, mình nói Tâm sở Tợ tha là quý vị nhớ Tợ tha là gì đúng không? Quý vị nhớ Xúc, Thọ, Tưởng, Tư… đó toàn là đầu đề. Nhưng nhờ đầu đề này thôi, là mình nhớ ra được toàn bộ nội dung. Khi đi học, mình viết đầu đề rất nhiều đúng không? Ví dụ mình nói Tâm sở Niệm, hay 24 Duyên hệ v.v… đó là toàn đặt tiêu đề đấy chứ. Cho nên Phật pháp là toàn đầu đề thôi. Một cuốn sách [được] viết mà không có tựa đề, thì coi như là không có đầu đề, thì mình không nhớ được. Cho nên là phải có những tựa đề.
12. Niệm phát sanh do đếm tính, như là những sự vật mà ta không nhớ được ngay đó, nhờ đếm đi tính lại mới nhớ ra.
Có những điều mà phải nhớ đếm. Ví dụ như hôm qua có người hỏi Sư Minh Tuệ về 12 bộ kinh là gì? Sư Minh Tuệ không nhớ, [ngài] nhớ mỗi Khế kinh thôi, tại vì ngài không chuyên về Bắc truyền. 12 bộ kinh đó thuộc về Bắc truyền, ngài thì chuyên [về] Kinh A Hàm, Kinh Nikaya thôi. 12 bộ kinh có bài kệ mà chúng ta hay đọc là:
Trường hàng, Trùng tụng, tinh Cô khởi,
Thí dụ, Nhân duyên, dữ Tự thuyết
[Phương quảng, Luận nghị, cập Ký biệt]
Bổn sanh, Bổn sự, Vị tằng hữu.
Tức là bốn câu kệ, mỗi câu nói ba thể loại kinh, như là Trường hàng, Trùng tụng và Cô khởi (tinh là và; và Cô khởi); Thí dụ, Nhân duyên, dữ Tự thuyết. Thí dụ là thí dụ, Nhân duyên, và Tự thuyết là tự nói. Tiếp theo là Phương quảng, Luận nghị, cập Ký biệt; rồi mới tới Bổn sanh, Bổn sự, Vị tằng hữu…. 12 [thể loại] kinh, nhưng tựa đề là như vậy.
[Khi] người ta hỏi thì nhất thời ngài không nhớ ra. Thiện Trang đôi khi cũng không nhớ ra, điều đó là bình thường. Trừ khi chúng ta thành Phật thì mới [nhớ] được, còn chưa thành Phật thì việc không nhớ là chuyện bình thường. Khi mình không nhớ thì phải đếm. Ví như vừa rồi Thiện Trang đếm số chữ đó, Trường hàng là một thể loại, #Trường hàng là văn xuôi. #Trùng tụng là những bài kệ lặp lại nội dung đằng trước. #Cô khởi có nghĩa là những bài kệ mà riêng thôi, không có liên quan đến nội dung trước hay là sau. #Thí dụ là đưa ra những ví dụ. #Nhân duyên là đưa ra nói những việc do nhân làm sao, duyên làm sao. Dữ là và; #Tự thuyết là tự nói, không ai hỏi thì đức Phật tự nói luôn. #Phương quảng là những vấn đề nói rộng, ví dụ Thế giới này thường hằng hay không thường hằng, còn hay mất, v.v… #Luận nghị tức là bắt đầu đưa ra, chia chẻ hoặc là tranh luận, luận bàn những vấn đề mà ngoại đạo đưa ra. Giống như trong kinh, có đưa ra những lập luận. Đưa ra thì đức Phật trả lời A cũng không xong, mà B cũng không xong. Họ gài đức Phật như vậy. Nhưng đức Phật có thể trả lời được hết, Ngài trả lời khác, không A cũng không B, thì người ta thua. Hoặc là vừa A vừa B, hoặc A hoặc B, kiểu nào thì Ngài cũng trả lời được. Tùy tình huống mà Ngài trả lời, thế nào cũng gỡ được điều đó hết.
Đó là do tính đếm, mình có thể đếm, mình thấy chưa đủ thì mình đếm tiếp. Đếm chưa đủ 12 [thì mình nghĩ]: Có bốn câu kệ, 12 [thể loại], mà sao [từ] nãy [đến] giờ mình đọc mới ba câu. Đó là đếm, do đếm mà ra. Hoặc là mình đếm theo số: Một là gì, hai là gì, ba là gì, bốn là gì, năm là gì, sáu là gì. Ví dụ bây giờ nói Lục đạo Luân hồi đi, mình nói sáu con đường luân hồi. Vậy mình đếm: Trời, Người, A-tu-la, Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sanh, đủ sáu rồi đó, kiểu đếm như vậy đó.
Hoặc là đếm các tầng Trời gồm có: 1. Tứ Thiên Vương, 2. Đao Lợi, 3. Tu Diệm Ma, 4. Đâu Suất Đà, 5. Trời Hóa Lạc, 6. Trời Tha Hóa Tự Tại, rồi 7,8,9 là ba tầng trời Sơ thiền: [Trời] Phạm Chúng, [trời] Phạm Phụ, trời Đại Phạm. [Rồi] Nhị thiền [gồm]: trời Thiểu Quang, trời Vô Lượng Quang, trời Quang Âm. Tam thiền gồm: Trời Thiểu Tịnh, trời Biến Tịnh, trời Vô Lượng Tịnh. Rồi Tứ thiền gồm: Trời Phước Sanh, trời Phước Ái, trời Quảng Quả. Có khi nói là trời Vô Vân hoặc là nói trời Quả Thật v.v… nói chung là cách đó.
Một hồi đếm tới trời Thiện Kiến, trời Thiện Hiện, trời Vô Phiền, trời Vô Nhiệt, trời Sắc Cứu Cánh, trời Ma Hê Thủ La v.v… Một hồi [đếm đến] bốn [tầng] trời [Vô sắc giới]: Không Vô Biên Xứ, Thức Vô Biên Xứ, Vô Sở Hữu Xứ, Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ.
Cách nói như vậy thì mình đếm một hồi, đếm đủ là được, đó là do đếm để nhớ được. Hoặc là để nhớ hiện tiền thì mình đếm hơi thở đó quý vị, mình đếm tới đếm lui. Hoặc là để niệm Pháp, để tâm mình hiện tiền thì mình đếm. Đó là cách đếm.
13. Niệm phát sanh do thuộc lòng những gì ta đã thuộc nhuần nhuyễn, nhớ đâu được đó.
Điều này thì rõ ràng đúng không? [Mình] học thuộc lòng đi thì mình nhớ ra liền. Học thuộc về giáo pháp, học thuộc về Phật v.v… Phật là giác ngộ, Phật là tỉnh thức v.v… Mình cứ gặp chuyện gì thì mình [nhớ] Phật là giác ngộ, Phật là tỉnh thức. Rồi từ sự giác ngộ, sự tỉnh thức đó mà mình tu được. Đó cũng là cách phát sanh Tâm sở Niệm do thuộc lòng.
14. Niệm phát sanh do tu tiến, tức là hành Tứ niệm xứ rất chuyên môn thì có trớn, cảnh đến niệm liền.
Tức là mình phải tu Tứ niệm xứ: Thân, Thọ, Tâm, Pháp. Thật ra quý vị thấy chữ Niệm đó, là trong Tứ niệm xứ rồi, đúng chưa? Niệm Thân, niệm Thọ, niệm Tâm, niệm Pháp, bốn điều đều là niệm hết. Cho nên chữ niệm này, ngay trong Tứ niệm xứ cũng phải niệm, người không có niệm thì làm sao tu Tứ niệm xứ đây. Nên ai mà lúc nào tâm cũng lơ đãng, này kia, thì phải ráng tu Tứ niệm xứ cho giỏi hơn, để có trớn rồi, thì cảnh đến là mình nhớ liền.
15. Niệm phát sanh do coi bổn, tức là nhờ coi sách mà được nhớ tới những gì ngoài sách ấy có liên quan tới.
Điều này thì giống như mình học kinh, học để mình nhớ, liên quan đến những điều gì đó, mình mở sách ra coi thì nhớ được.
16. Niệm phát sanh do cất để, là những vật cất có trật tự, khi muốn lấy rất dễ.
Điều này thì ai mà hay quên, để đồ lung tung,không nhớ, thì quý vị làm một cái kho, hộp, đồ nào để chỗ nào, tới lúccần thì lấy dễ lắm. Cũng vậy, nếu mình không học theo thứ tự, mà học lung tung, lang tang, thì một hồi mình không nhớ được gì. Giống như Thiện Trang có nóivớicác vị đồng tu, là cố gắng làm Mục lục cho các bài này. Làm hai cái: một cáilà về những chuyên đề. Ví dụ như người ta muốn tìm 24 Duyên hệ, thì người tacoi bài nào giảng Duyên hệ, ở phút bao nhiêu đến bao nhiêu. Hoặc lên [mạng] tải file đó về, kiếm là ra liền, 24 Duyên như Tiền sanh duyên, Hậusanh duyên, Câu sanh duyên ở bài nào. Bài số mấy có Tiền sanh duyên, bài số mấy có Hậusanh duyên đó v.v… Đó là Mục lục theo đề tài Duyên hệ.
Rồi đề tài về 52 món Tâm sở thì cũng vậy. Bài nào Thiện Trang giảng Tâm sở nào… quý vị lập như vậy thì người ta sẽ tìm rất dễ. Mai mốt Thiện Trang sẽ lấy file đó đưa lên trang web cho quý vị, để quý vị dò cho nhanh. Ngoài ra, ví dụ tu Thiền chỉ, tổng lược về tu Thiền chỉ, các bước tu Thiền chỉ. Rồi tu đề mục Biến xứ: Biến xứ Lửa, Biến xứ Gió v.v… ở bài nào, bài nào. Có Mục lục như vậy thì mới dễ tìm. Như [Thiện Trang] giảng về những đề mục khác nữa, ví dụ như các quả vị Thánh, thì [có] 33 quả vị Thánh, những quả vị đó ở bài nào v.v… như vậy mọi người học rất dễ.
Đó là một Mục lục mà Thiện Trang nghĩ là có đồng tu đã phát tâm rồi. Còn đồng tu nào muốn phát tâm nữa thì Thiện Trang chỉ cho làm bảng Mục lục thứ hai, là [làm] mục lục theo bài. Tức là trong bài đó thầy Thiện Trang chia sẻ những vấn đề gì. Bài 1, bài 2, bài 3, bài 4, bài 5, bài 6, đến bữa nay là bài 31. Quý vị làm như vậy thì mọi người có hai bảng Mục lục để tra cứu. Thứ nhất là Mục lục theo bài, và thứ hai là Mục lục theo chủ đề. Người nào học theo bài thì người ta cũng tìm được, mà học theo chủ đề thì cũng tìm được, cũng dễ tìm. Mình làm hai bảng Mục lục đó cho bộ này.
Nếu ai có điều kiện phát tâm in sách chẳng hạn, thì mình in Mục lục đó kèm đằng sau, thì mọi người tra cứu rất dễ dàng. Sau này có duyên [thì quý vị] làm. Còn Thiện Trang thì không bao giờ in sách của Thiện Trang. Thiện Trang in sách người khác, chứ không in sách của Thiện Trang. Hoặc sách của Thiện Trang dịch thì Thiện Trang in, còn sách Thiện Trang giảng thì không bao giờ in. Nếu ai muốn in thì tự in, Thiện Trang không bao giờ lấy tiền để tự in sách của mình giảng.
Đó là theo kiểu của Trung Hoa, các chư Tổ Trung Hoa dạy như vậy. Tất nhiên Phật cũng không dạy điều đó, nhưng thôi, mình cũng tuân thủ. Không biết sau này mình tu, mình ngộ rồi, thì mình có đổi ý hay không, chứ hiện tại mình giữ Kiến thủ kiến, Giới cấm thủ đó, tạm thời là vậy để người ta khỏi nói là mình tự bán, tự khoe, thì không nên. Cho nên là thôi kệ. Mà biết đâu ngày nào đó giác ngộ rồi thì thấy không quan trọng điều đó, thiên hạ có chê thì kệ họ, họ chửi thì cũng kệ, mình làm lợi ích cho chúng sanh, mình thấy bộ đó đáng, có lợi ích thì mình cứ in. Có thể là một ngày nào đó như thế, còn bây giờ thì chưa làm. Với lại tiền Thiện Trang ấn tống vào những kinh sách khác, vẫn chưa có thời gian để in.
17. Niệm phát sanh do thường quen, là những sự vật đã thường làm và gặp rất nhiều lần, thì lúc hoặc gặp trường hợp vẫn nhớ vật thường quen rất dễ.
Ví dụ như chúng ta thấy có câu là: ‘Thế gian vô nan sự, đô lai tâm bất chuyên’. Nghĩa là thế gian không có việc gì khó, đều bởi vì do tâm không chuyên. Đây là sách Trung Hoa nói, nếu tâm mình chuyên là được. Nghĩa là trên đời đâu có gì khó đâu, quý vị đối với việc gì [miễn] tâm chuyên là được. Chuyên là điều gì mình cũng quen thuộc. Cũng vậy, mình học Phật pháp thì cũng phải học tới nhuần nhuyễn, quen thuộc, không thể học kiểu mơ mơ màng màng mà có thể xài được Phật pháp, dùng Phật pháp tốt được.
Quý vị thấy Thiện Trang là một trong những người gọi là siêng học, rất siêng. Khi biết Phật pháp từ năm cuối năm 2009 và bắt đầu 2010, thì Thiện Trang học Phật pháp không biết mệt mỏi. Nói chung có thời gian là coi sách, học, nghe giảng v.v… tìm tòi nghiên cứu, rồi học và thực hành theo những gì có thể. Vậy mà bây giờ đến năm 2025, coi như 16 năm, thì rõ ràng là mới có một trình độ tạm tạm chút, ổn ổn chút, để mình hiểu được. Còn quý vị học ít quá, mà quý vị muốn hiểu tất cả mọi thứ thì không thể.
Tuy nhiên Thiện Trang nói, thật ra mình cũng không cần [học] nhiều như vậy, mình chỉ cần biết những gì mình cần thôi. Mỗi giai đoạn quý vị biết mỗi vấn đề của quý vị. Ví dụ bây giờ mục tiêu chúng ta là gì? Thiện Trang giảng cho quý vị nào là Sơ quả, Nhị quả, Tam quả, Tứ quả A-la-hán, rồi Tùy tín hành, Tùy pháp hành, Kiến đáo, Gia gia, Nhất chủng v.v… đủ kiểu, 33 quả vị, tính cả bốn địa vị trước (là Tứ gia hạnh). Nếu như quý vị học hết không nổi, thì quý vị học ít thôi. Bây giờ quý vị nhắm đến Tứ gia hạnh, rồi Tùy tín Hành, Tùy pháp hành v.v… Mình học mấy quả vị dưới đi, còn A-la-hán cao quá thì thôi.
Rồi Thiền chỉ chẳng hạn, bây giờ mình học tới 40 đề mục tu Thiền chỉ. Mình coi đề mục nào tu trước thì mình tu, còn [đề mục] nào [chưa cần] thì mình coi lướt qua rồi mình quên đi. Hãy chấp nhận quên đi, mình chỉ học những gì mình cần xài. Giai đoạn này ta cần điều này, giai đoạn khác ta cần điều khác. Ta biết là trong đó có, lúc nào đó cần thì sẽ xem lại, quý vị hiểu không? Đó là cách học. Chứ một lúc mà quý vị đua theo Thiện Trang, quý vị học hết tất cả những điều này thì làm sao được. Thiện Trang giảng là giảng cho nhiều đối tượng, nhiều căn cơ, và nhiều yêu cầu khác nhau.
Cho nên Thiện Trang giảng hết, còn quý vị lọc lại, tạm thời giai đoạn này con chỉ học điều này đã, con hành điều này cho xong, còn điều kia thì con biết được rồi. Còn không thì ghi nhớ sâu xa, để tâm mình thực hành thế nào đó cho hiệu quả. Nhưng mình vẫn nghe nha, chứ không phải nói con chỉ cần điều này thôi, còn điều kia con không cần quan tâm, thì sẽ bị thiếu kiến thức, tu không được. Mình phải biết kiến thức đủ. Nhưng mình hành điều nào là mình chú tâm vào điều đó, để làm điều đó. Và giai đoạn này thôi, tới giai đoạn khác thì sẽ khác. Cho nên [quý vị] phải biết điều này.
Mười bảy yếu tố sanh Niệm ở trên, là tùy trường hợp và đủ hạng chúng sanh. Còn về phần bậc tu cao, thì nên tìm cách thực hành.
Tức là bình thường thôi, có đủ hạng chúng sanh. Còn mình tu cao hơn thì thực hành như thế nào? Mình thực hành về Nhân trợ, tức là mình tu nhân bổ trợ để sanh Niệm giác chi (Niệm giác chi trong Bát chánh đạo), thì có bốn nhân như thế này:
1. Phải tu Niệm lương tri, dịch nghĩa ra là Chánh niệm Tỉnh giác (là Chánh niệm và Tỉnh giác). Vậy mình niệm thế nào? Thay vì mình niệm tà, thì bây giờ mình niệm chánh. Niệm chánh là gì? Là luôn luôn nhớ về Chánh tri kiến (Chánh kiến). Có hai loại Chánh kiến: Chánh kiến thế gian và Chánh kiến xuất thế gian. Đó là quý vị tin nhân quả luân hồi, tin có nghiệp báo, tin có đời này đời sau, tin có cha có mẹ, có bát quan trai, có loài hóa sanh, có bậc A-la-hán, có người tu chứng quả. Đó là Chánh kiến của thế gian.
Tiếp theo quý vị hãy nhớ giùm Chánh kiến của xuất thế gian, là biết như thật về Khổ, về Tập, về Diệt đế và Đạo đế. Tức là quý vị nhớ giùm Bốn đế (Tứ đế). Quý vị phải có điều đó, quý vị không có điều đó là thôi, không có tu gì thì làm sao mà niệm được.
Và Tỉnh giác là gì? Là mình phải luyện, luôn luôn sáng suốt trong mọi hoàn cảnh, không bị cảnh làm mê. Ví dụ quý vị bị người ta chửi, thì quý vị phải nhớ ra ngay: Đừng mê! Đừng mê! Đừng nghe lời chửi đó, họ chửi kệ họ. Công thức mà người ta hay nói là ‘mackeno’ là ‘mặc kệ nó’. Câu Thần chú ‘mackeno’ là kệ nó đi, không quan tâm. Họ chửi đúng hay chửi sai gì thì cũng kệ họ. Mình phải bình tỉnh, là tỉnh giác. Còn nếu mình bị cuốn theo câu chửi đó là mình bị chạy theo. Người ta nói xấu mình, thì mình phải tỉnh giác, coi họ nói có đúng hay không. Nếu họ nói đúng thì mình sửa. Nếu họ nói sai thì thôi kệ họ, thông cảm cho họ, họ hiểu sai hoặc là vì mục đích gì đó, họ cố tình nói. Chứ còn mình nổi sân lên là không được.
Rồi nói xấu thầy mình, nói xấu bạn mình. Ví dụ như nhiều đồng tu đợt này mất công phu là vì sao? Vì chạy theo sự kiện Sư Minh Tuệ. Thấy bức xúc quá, thấy có nhiều người tốt, thấy thầy như vậy mà họ chửi thế này thế kia. Khi quý vị bức xúc là quý vị mê rồi, quý vị không có tỉnh giác, không có Chánh niệm được, mất Chánh niệm.
Quý vị phải biết chúng sanh ở đời là như thế, họ nương vào nghiệp báo nặng nề như thế, họ nói thì thôi kệ họ. Sự thật mãi mãi là sự thật, chân lý mãi mãi là chân lý, trước sau gì cũng được phơi bày. Nên nhớ vậy! Và mình phải đứng ở ngoài cuộc, mình coi đó là một bộ phim để mình coi, giống như phim thời đức Phật. Hồi xưa mình coi hết Đại tạng kinh thì mới coi được bộ phim thời đức Phật, mình dựng lại thành phim để mình coi. Nhưng coi phim đó cũng không hấp dẫn, bởi vì mình coi phim đó, mình biết kết quả rồi. Còn đợt này là quý vị coi bộ phim này là hành trình về Ấn Độ, không biết trước kết quả, không biết tình hình thế nào nữa đúng không? Các sự kiện cứ liên tục xảy ra phức tạp, hết chuyện này đến chuyện kia, mà mình cảm thấy nhiều lúc thua cuộc rồi.
Giống như hôm bữa gia hạn Visa, nhiều đồng tu kêu: ‘Chết rồi! Bây giờ không đi được thì làm sao?’ Thiện Trang chỉ cười thôi, Thiện Trang nói có hai lý do để Thiện Trang tin là việc gia hạn Visa thành tựu. Thứ nhất là Sư Minh Tuệ có phước báo, nói theo mình nói là tin tưởng vào Phật pháp. Thứ hai, nói theo thế gian, là mình phải tin rằng Thái Lan là một đất nước du lịch. Và không phải Thái Lan, mà các nước khác cũng vậy thôi, người ta cũng muốn có khách du lịch. Quý vị thấy mỗi ngày có biết bao nhiêu người Việt, từ trong nước cho đến hải ngoại, và từ các nước khác bay đến Thái Lan, nên [ngành] du lịch được [đi] lên. Mình bay tới Thái Lan thì mình phải trả tiền cho hãng Thái Lan, trả tiền cho khách sạn Thái Lan đúng không? Rồi mình mua đồ Thái Lan, mình mang tiền tới cho họ, thì tội gì họ không gia hạn cho thêm ngày. Có đoàn Sư Minh Tuệ, mới có bao nhiêu khách du lịch.
[Ngoài ra] đây là cơ hội để họ quảng bá hình ảnh đất nước Thái Lan lên toàn thế giới, có biết bao nhiêu người đang theo dõi. Vậy tại sao họ không không gia hạn, tại sao họ không giúp đỡ? Thậm chí họ còn muốn đoàn đó ở càng lâu càng tốt, quý vị hiểu không? Họ mong ở càng lâu càng tốt. Chứ mình hút được bao nhiêu tiền, bao nhiêu khách, [thì việc gia hạn] có là gì đâu. Rồi họ còn muốn bảo vệ [đoàn] nữa, bởi vì họ muốn quảng bá một hình ảnh, là những người đến Thái Lan được cảnh sát Thái Lan bảo vệ, giữ an ninh trật tự rất tốt đẹp. Họ cung kính như việc ra chào các Sư v.v… Cảnh sát Thái Lan thân thiện, quảng bá hình ảnh đó đến toàn thế giới, khách du lịch đến nườm nượp. Người ta biết điều đó nên người ta cho thôi. Đó là mình nói theo thế gian, là mình nhìn thấy được rồi, chứ chưa nói đến xuất thế gian. Xuất thế gian là mình tin vào Phật pháp nhiệm màu v.v… đúng không ạ?
Tại vì quý vị không nhìn thấy, nên quý vị cảm giác thấy khó khăn. Chứ Thiện Trang nói có gì đâu, mai mốt Sư Minh Tuệ đi khắp thế giới được. Vì sao? Với hai lý do trên, là ngài đi khắp thế giới được. Bởi vì nước nào cũng muốn quảng bá hình ảnh của mình hết. Mình chưa nói đến tâm linh, nhưng nói việc hình ảnh của mình tốt đẹp, đất nước mình tốt đẹp, và bao nhiêu tiền đổ vào [nước của họ]. Quý vị thấy bao nhiêu người tới Thái Lan thì phải xài tiền Thái Lan, xài tiền ở nước đó. Quý vị trả bao nhiêu tiền khách sạn, thì dân họ đỡ hơn đúng không? Quý vị mua nước, mua đồ cúng dường, v.v… là quý vị lấy tiền Việt Nam, tiền Euro, tiền nước Mỹ, tiền nước này nước kia đúng không? Và bao nhiêu kênh YouTube, bao nhiêu đài truyền hình, truyền thanh gì đó đưa tin, thì tự nhiên quảng bá hình ảnh của Thái lan. Quý vị thấy sướng không! Tội gì không làm! Cho nên họ nhìn ra được, không cần nói. Mà đất nước Thái Lan lại càng đúng nữa, vì [đất nước] Phật giáo mà. Qua các nước khác cũng vậy thôi, không có nước nào dại hết.
Rồi qua Myanmar, nhiều đồng tu sợ qua đó bị họ bắn chết. Xin lỗi! Bắn chết ai? Người ta thừa biết Sư Minh Tuệ nổi tiếng, [đâu] có ai dại mà bắn. Đầu tiên Myanmar là đất nước Phật giáo, họ rất mến mộ những người tu hành, làm sao họ dám bắn một vị chân tu đúng không? Đó là điều không thể. Điều thứ hai là Myanmar cũng muốn những phiến quân, hay chúng ta nói những phe cánh nào đó đang đấu tranh, đều muốn sự ủng hộ của quốc tế. Nếu người ta làm mất đi một người có sức ảnh hưởng đến toàn thế giới, [bởi vì] toàn thế giới đang chú ý, ảnh hưởng đến người đó, thì người ta cũng mất sự ủng hộ.
Cho nên qua đó là chắc chắn được ủng hộ thôi, quý vị yên tâm đi! Quý vị nhìn thấy thế thôi, mình nói đó là phước của ngài, mình nói là Phật pháp nhiệm màu, nhưng thật ra nếu mình có trí tuệ một chút thì mình sẽ nhìn ra ngay. Cho nên chỉ có những người ngu mới không ủng hộ Sư Minh Tuệ. Chỉ có những người ngu mới không tận dụng được hình ảnh của ngài, cho nên rất là đáng tiếc. Thiện Trang nói rất đáng tiếc.
Chứ còn chỉ cần đi theo ngài, giả bộ cho mấy người gọi là ham danh một chút, đi quay YouTube, cứ quay rồi đưa những hình ảnh đẹp lên, toàn là hình ảnh đẹp, thì càng đẹp bao nhiêu sẽ càng thu hút được nhiều người bấy nhiêu. Nhưng chúng sanh dại quá, họ toàn đi phá để mau tiêu phước. Nhưng không sao, Thiện Trang nghĩ càng như vậy càng tốt, càng kịch tính, thì bộ phim đó càng hay, càng gay cấn, càng hấp dẫn. Các vị đó bị hù lên hù xuống, rồi coi các Sư tu thế nào. Phải luyện chứ, phải ra thử thách chứ, càng như vậy thì mình càng thấy đạo hạnh và khả năng nhẫn nhục, kham nhẫn, và trí tuệ [của các ngài] v.v… mình thấy càng tốt. Cứ như vậy mà qua được thì chúng sanh càng thương hơn phải không? Cho nên càng làm thì càng sáng thôi, không có vấn đề gì hết.
Cho nên để tu nhân sanh Niệm này, để cho giúp cho Niệm giác chi, thì đầu tiên là phải Chánh niệm, và thứ hai là Tỉnh giác. Đó là mục đầu tiên.
2. Điều thứ hai là tránh người lẫn và người hay quên. Nghĩa là quý vị đừng thân cận những người lẫn và người hay quên, [vì] họ thất niệm. Người lẫn, người hay quên thì quý vị biết rồi đúng không? Mấy người hay quên khổ lắm, họ gây phiền phức cho mình, nên mình cũng quên luôn. Tại vì người ta đâu có nhớ, người ta thường gây phiền phức. Người lẫn thì khỏi nói, họ bệnh rồi nhưng nhiều khi cứ quên hoài.
Ở đây nói để tu được Niệm giác chi, thì quý vị tránh những người đó. Cho nên trong Kinh A Hàm, Kinh Nikaya (nói chung pháp tu nguyên thủy đó), thì chúng ta thấy toàn là hãy tránh duyên đi, mấy người Phiền não quá thì nên tránh đi; mấy người sân si quá thì hãy tránh đi v.v… tránh, tránh, tránh. Bởi vì mình tu chưa thành. Còn khi quý vị tu thành rồi, thì gặp mấy người đó để luyện thêm một tầng nữa. Chứ còn chưa gì hết, quý vị tu chưa thành, mà ra gặp mấy người đó thì quý vị bị phiền não trước.
Người hay quên, suốt ngày họ phiền não, rồi họ không nhớ. Đáng lẽ mình làm A, mà một hồi họ quên mất, họ nghĩ mình làm B. Rồi có những người mơ mộng, quý vị biết trí nhớ của họ kém, họ suy nghĩ hoặc là họ nằm mơ thế nào đó, bắt đầu họ nhớ ra. Bữa sau họ lại quên, họ tưởng đó là sự thật, bắt đầu họ nói sao bữa trước làm tôi như vậy, nói xấu tôi như vậy v.v… Mình ngỡ ngàng, kêu: Ủa, ở đâu ra! Đó là do họ mơ hoặc họ tưởng thôi, nhưng vì họ quên, trí nhớ của họ không tốt, họ lẫn rồi, cho nên họ cho đó là thật.
Và hiện tượng này, ai sống với người già thì biết, mấy người lẫn lẫn là hay có hiện tượng này. Tức là sẽ có những chuyện, tự nhiên họ tưởng tượng cho mình những tội lỗi từ đâu ra. Mình cũng không biết từ đâu ra luôn. Họ tưởng ở trong tâm rồi gán cho mình luôn. Họ quên mà, họ quên cho nên họ nghĩ đó là sự thật.
3. Điều thứ ba là hãy thân cận với người có niệm vững vàng. Cho nên phải thân cận với những người có niệm vững vàng, thì người ta sẽ giúp mình có Chánh niệm hơn, có Niệm giác chi. Tại vì sao? [Vì] người có niệm vững vàng thì người ta sẽ nhắc mình, và mình ở bên cạnh họ thì giống như từ điển sống, v.v… mọi thứ. Rồi lúc nào người ta cũng tỉnh giác, cho nên mình cũng tỉnh giác theo. Còn người hay quên, họ lẫn lẫn, thì mình cũng quên theo.
4. Điều thứ tư là hãy chăm chú với thân tâm, với hành động của thân tâm. Có nghĩa là với những việc gì của tâm và của thân, thì quý vị phải quan sát cho kỹ vô. Đây là thuộc về tu Tứ niệm xứ. Có nghĩa là tâm sân thì quý vị phải biết sân, tâm tham thì phải biết tham, tâm đang hoài nghi thì biết đang hoài nghi, tâm ta đang keo kiệt thì biết đang keo kiệt. Rồi hành động, khi ta làm thì biết hành động này sai rồi, hành động kia sai rồi v.v… Người sáng suốt như vậy. Đó là bốn yếu tố giúp cho mình tạo ra được Niệm giác chi.
Cuối cùng Tâm sở Niệm là một trong 19 Tâm sở Tịnh hảo Biến hành, phối hợp với tất cả Tâm sở Tịnh hảo, là 24 tâm Dục giới Tịnh hảo, 15 tâm Sắc giới, 12 tâm Vô sắc giới và 40 tâm Siêu thế. Ở đây có đồng tu thắc mắc là sự kết hợp như thế nào để tạo ra tâm? Thật ra tâm là một khái niệm khác, nó kết hợp từ Tâm sở mà ra tâm, nhưng tâm là khái niệm khác. Ví dụ như Dục giới có 24 tâm Dục giới Tịnh hảo, thì chúng ta sẽ học 24 tâm đó là thế nào. Thật ra là nó chia theo kiểu khác. Rồi 15 tâm Sắc giới, Sắc giới thì tất nhiên là tốt đẹp rồi, là Tịnh hảo rồi; và 12 tâm Sô sắc giới.
Tại sao lại có những tâm đó, thì sau này mình sẽ học, ở trong đó có những Tâm sở nào thì mới ra bao nhiêu tâm đó. Rồi có 40 tâm Siêu thế. 40 tâm Siêu thế đây thật ra là gồm có bốn đạo; bốn đạo tức là Sơ quả, Nhị quả, Tam quả, Tứ quả; rồi bốn hướng nữa là tám. Mỗi cái có 5 tâm, thì 8 x 5= 40. Mai mốt mình học vô điều này thì mình mới hiểu, chứ bây giờ nói sơ sơ thì quý vị không hiểu đâu. Tại vì nó không phải là kết hợp giống kiểu như chúng ta đếm, không phải lấy 52 Tâm sở này, rồi tâm này kết hợp tâm kia thì ra tâm đó. Rồi tại sao tâm Dục giới có nhiều vậy, tâm Sắc giới có nhiều vậy? Không phải! Đó là một cách chia khác nữa. Cho nên từ từ, chưa học tới thì đừng [vội] thắc mắc, mình cứ từ từ nha.
Bây giờ Thiện Trang chia sẻ tiếp một Tâm sở nữa, đó là Tâm sở Tàm. Bữa trước mình học [Tâm sở] Vô tàm rồi đúng không quý vị? Chúng ta thấy học [Tâm sở] Vô tàm rồi, thì bữa nay mình học [Tâm sở] Tàm thôi. Tâm sở này hôm bữa mình học ở đâu rồi, quý vị còn nhớ không? Mình chỉ cần nhớ đối ngược lại với [Tâm sở] Vô tàm thì thành [Tâm sở] Tàm thôi, đối ngược với Tâm sở Vô úy thì thành Tâm sở Úy thôi. Có khó gì đâu! Cho nên là dễ rồi đó. Rồi có [Tâm sở] Tham, thật ra ngược lại với Tham là Vô tham, ngược lại với Sân là Vô sân. Cho nên tưởng là 52 món Tâm sở nhiều lắm, nhưng thực tế mình chỉ học có bao nhiêu đó thôi. Và nó có những điều ngược lại, cho nên dễ. Cho nên Thiện Trang giới thiệu [Tâm sở] Tàm này nhanh qua thôi.
Tàm là gì? Định nghĩa Tàm là làm cho chúng sanh chùn lại, hay thoái thất, vì thấy hổ thẹn trước những ác hạnh hay là ác nghiệp. Có nghĩa là bây giờ mình thấy hổ thẹn, mình chùn bước lại, mình không làm nữa đối với những ác hạnh và ác nghiệp. Ví dụ như chúng ta học hoài thì chúng ta biết Ngũ giới rồi: Không sát sanh, không trộm cướp, không tà dâm, không nói dối, không uống rượu. [Biết là không nói dối], nhưng mình cứ thích nói dối hoài. Nhưng mỗi lần nói dối, mình kêu: nói dối là tạo ác nghiệp, nói dối là phạm giới v.v… mình nghe hoài thì mình cũng thấy hổ thẹn chứ. Thế là mình chùn bước lại. Tức là mình thấy tội lỗi quá, cho nên hồi xưa nói dối 10 câu, dần dần nói 9 câu, nói 8 câu, rồi 7 câu, dần dần nói 1 câu cũng thấy hổ thẹn nữa, rồi không nói nữa. Đó là Giới.
Giới là gì? Thật ra định nghĩa Giới trong chữ Hán, mình ôm cuốn từ điển Hán Việt ra tra, thì Giới có nghĩa là sự ngăn cấm, sự ngăn che v.v… Nhưng thật ra nếu quý tra từ điển tiếng Pali với từ điển Sanskrit thì không phải. Theo từ điển Pali với từ điển Sanskrit, ngôn ngữ trong kinh nói Giới gọi là ‘học giới’, tức là giới là điều mà tôi đang phấn đấu để đi tới. Định nghĩa đơn giản vậy đó. Tức là giả dụ tôi có giới gọi là không vọng ngữ (không nói dối), nghĩa là tôi phấn đấu để tôi đạt đến việc là không vọng ngữ (không nói dối).
Cho nên 250 giới của Tỳ-kheo (theo Bắc truyền) hay là 227 giới Tỳ-kheo (theo Nam truyền), nghĩa là học giới của Tỳ-kheo. Ngôn ngữ trong kinh đúng nghĩa là Học giới Tỳ-kheo. Học có nghĩa là tôi học làm sao để tôi hoàn thành giới đó là xong. Mà xong giới đó thì gọi là Cận viên, là gần viên mãn, gần địa vị A-la-hán. Cho nên tôi giữ được giới thì tôi thành A-la-hán thôi. Mà giờ tôi chưa làm được, cho nên tôi chưa làm A-la-hán. Năm giới (Ngũ giới), Bát giới (Bát quan trai) là nhân, phải nói là học giới của một người vào Tu-đà-hoàn. Có nghĩa là nếu quý vị là Tu-đà-hoàn thì quý vị sẽ làm được tám giới Bát quan trai, quý vị hiểu không? Vậy thôi, chứ có gì đâu. Giới là Học giới. Còn hồi xưa mình học, giới là ngăn cấm, ngăn che, tại vì mình theo chữ Hán. Sau này do Thiện Trang biết thêm chữ Pali, Sanskrit, biết chút chút thôi chứ không biết nhiều, nói chung là biết căn bản để mình coi, để mình đối chiếu: Ủa! Điều này dễ mà.
Cho nên thay vì đức Phật đưa ra để cho mình học tập, để dần dần mình hoàn thiện. Thì mình đưa ra một khái niệm là ngăn cấm, bắt người ta không làm. Chính vì ngăn cấm bắt người ta không làm, cho nên đạo Phật thành đạo hơi bắt buộc người khác, điều sai là ở chỗ đó.
Cho nên đôi khi ngôn ngữ làm mình hiểu lầm. Thật ra thì không có hiểu lầm, là do mình không học thôi. Ngay trong Hán tạng, cũng là chữ “học giới”. Còn mình đọc giới thứ nhất, giới thứ hai, giới thứ ba, rồi mình vô tra chữ Hán coi Giới là gì? Bắt đầu thấy Giới là ngăn cấm, ngăn che. Tổ sư nào phát minh ra, quất cho một phát. Không phải Tổ sư, mà người nào giảng đó, thế là một mớ người bắt đầu giảng theo. Quý vị hiểu không? Sau này Thiện Trang nói: Ngôn ngữ này không diễn tả được, nhưng ngôn ngữ khác thì diễn tả được. Sau này Thiện Trang hiểu rồi, nên bữa nay [Thiện Trang giảng] về Giới để quý vị hiểu.
Cho nên Giới là gì? Đơn giản tức là yêu cầu quý vị làm theo, hãy làm theo đi. Học giới tức là hãy học để làm được. Cho nên quý vị thấy Sư Minh Tuệ và những vị Sư tu theo Sư Minh Tuệ, là tu đúng đó. Tập học, còn đang tập học, bao giờ thành tựu là thành công. Vậy thôi! Cho nên điều khó là quý vị không muốn học, không học thì suốt đời quý vị nói thọ Ngũ giới, Thập giới, thọ giới Tỳ-kheo, thọ giới gì đó mà quý vị không làm, thì quý vị vẫn dậm chân tại chỗ.
Cho nên nói ‘đắc giới thể’ ghê gớm gì đâu, thật ra điều đó không quan trọng. Mà quan trọng là mình phải có chí cầu giới đó. Tôi muốn làm hoàn thành giới đó, để tôi được mục tiêu là chuyển phàm phu thành Thánh nhân. Và giữ được một giới thì gọi là giải thoát được một giới, an vui được một giới đó, và cứ giữ được nhiều [giới] thì càng an vui bấy nhiêu. Bây giờ ngược lại, nhờ việc giữ giới đó, tôi muốn học điều đó, cho nên tôi có sự sám hối (hổ thẹn) đối với những điều tôi chưa làm được (những ác hành, ác nghiệp). Điều hổ thẹn này chính là Tâm sở Tàm.
Tâm sở Tàm là gì? Là hổ thẹn trước các tội lỗi. Tâm sở này giúp ta biết mắc cỡ, khi mình hay người có những nghiệp bất thiện ở ba nghiệp thân, khẩu, ý. Có nghĩa là mình sẽ mắc cỡ, mình thấy mình làm sai rồi, bữa nay mình tham quá, mình sân quá. Tuy mình không biểu hiện ra, nhưng mình thấy bữa nay mình sân quá, mình thấy mình không xứng đáng với hạnh tu, với người và với mình. Hoặc mình thấy mình làm những việc không tốt… [Tâm sở Tàm] là như vậy. Đó là trong Vô Tỷ Pháp Tập Yếu nói vậy.
Tâm sở Tàm không nói đến khái niệm đạo đức, mà chỉ nói đến đặc tính đơn thuần là một thuộc tánh của Tâm sở Tịnh hảo. Tức là Tâm sở này giống như chất miễn nhiễm điều xấu của Tâm sở Tịnh hảo. Có nghĩa là nếu quý vị có Tâm sở này, thì không nói gì về đạo đức, tự nhiên quý vị miễn nhiễm được với các điều xấu. Bởi vì quý vị thấy làm điều này xấu quá, làm điều này không tốt v.v… mình không được như vậy, thì tự nhiên nó có tính ngăn trở.
Giống như có người hỏi: ‘Tại sao con thấy uống rượu thì bất an’. Thì đúng rồi! Tại vì điều đó là một vấn đề không tốt, cho nên tu Thiền định làm sao được. Khi tâm mình bất an, thì tu Thiền định làm sao đắc. Quý vị hiểu không? Quý vị có một vấn đề gì lấn cấn, là quý vị cảm thấy xấu hổ, hổ thẹn, mặc dù có thể là không ai biết hết, nhưng quý vị biết. Tại vì quý vị biết, nên Tâm sở này giác được rồi, thì quý vị bất an, tu không đắc Định, không đắc Thiền.
Cho nên tại sao người phạm giới tu không đắc? Tại vì chính họ [bị] những vấn đề đó, tâm họ cứ ray rứt [nghĩ]: Tôi làm không đúng rồi, tôi đã phạm giới của Phật chế rồi v.v…. Mình muốn làm Thánh nhân mà sao mình phàm phu quá. Cứ nghĩ vậy đó nên tâm mình bất an. Bao giờ quý vị làm Bồ-tát, thì các ngài làm khác, còn phàm phu chúng ta thì không như vậy. Cho nên chính những điều này khiến cho mình như vậy.
Mà điều này [Tâm sở Tàm] trong Phật pháp thì cao hơn đạo đức. Còn Tàm trong thế gian là đối với khái niệm đạo đức thôi. Cho nên phải cẩn thận.
Bốn ý nghĩa quan trọng là:
Tàm có tướng trạng là gớm các điều ác (gớm là sợ), có nhiệm vụ là không làm điều ác, bởi vì do có sự hổ thẹn. Có biểu hiện là chối bỏ những điều ác, và nhân gần nhất đó là lòng tự trọng.
Những người nào có Tâm sở Tàm này, thì tự nhiên sẽ thoái thác trước những ác pháp. Giống như quý vị lông gà bỏ vô lửa thì co rút lại. Bây giờ chắc không ai thấy lông gà đâu, nhưng mình cứ tưởng tượng có một thứ gì đó bỏ vô lửa thì nó co rút lại. Cũng vậy, một người có Tâm sở Tàm thì họ sẽ dừng lại trước những ác pháp. Nên những người làm các việc ác mà không dừng lại, thì họ không có Tâm sở Tàm. Cho nên họ thành diện người ác. Đối với Tàm là Vô tàm. Mà người Vô tàm thì họ sẵn sàng làm phạm những điều này, mà không hề ăn năn, hối hận.
Như vậy [Thiện Trang giới thiệu xong Tâm sở Tàm]. Thiện Trang giới thiệu thêm Tâm sở Úy. Tàm, Úy thì hôm trước [chúng ta đã] học Vô tàm, Vô uý rồi, nên bữa nay mình ôn lại thôi. Một người tu hành thì phải có Tàm, có Úy. Bởi không có Tàm, Uý thì chẳng tu được.
Tâm sở Úy: Úy là ghê sợ hành theo ác pháp, bởi vì ý thức được sự đa dạng của những ác quả. #Úy tức là sợ. Sợ điều gì? Sợ làm theo việc ác này thì mai mốt nó sẽ trổ ra những quả ác. Mình sẽ nhận lấy những quả ác, cho nên mình sợ.
Ví dụ nghe nói phạm giới Tỳ-kheo, trong bốn giới Ba-la-di, thì sẽ đọa Địa ngục bằng tuổi thọ bằng trời Tha Hóa Tự Tại. Nghe vậy sợ quá nên thôi không làm. Rồi nghe nói hàng Cư sĩ, nếu phạm một giới nào đó trong bốn giới trọng của giới Thanh văn, thì cũng đọa Địa ngục bằng tuổi thọ của tầng trời Tứ Thiên Vương. Mình nghe vậy sợ quá, nên mình không dám phạm. Bởi vì không dám làm theo ác pháp đó.
Giống như quý vị là [Cư sĩ] tại gia, quý vị không dám hành tà dâm. Tại sao? Vì quý vị nghe thầy Thiện Trang giảng giới tà dâm trong Giới luật là: Nếu Cư sĩ tại gia phạm giới nặng nhất thì cũng đọa Địa ngục bằng tuổi thọ của tầng trời Tứ Thiên Vương. Mình nghe nói vậy mình sợ quá. [Thực ra] đó chỉ là Đột-kiết-la thôi. Nhưng mình sợ quá nên mình cũng không dám làm. Hoặc là nghe nói người phạm giới tà dâm mà phạm giới trọng thì mai mốt thần thức hôn mê, trong Kinh Địa Tạng nói phạm giới đó thì mai mốt làm chim sẻ, bồ câu, uyên ương, v.v…. Những tội đó mình nghe [ghê] quá.
Còn có một số vị giảng nữa là mai mốt đọa vào Địa ngục Cột Đồng. Thiện Trang không biết đọa Địa ngục Cột Đồng là theo kinh nào, Thiện Trang chưa tìm thấy. Quý vị nào thấy tội tà dâm bị đọa Địa ngục cột đồng theo kinh nào, thì quý vị chịu khó gửi cho Thiện Trang, để Thiện Trang giảng cho chính xác. Còn không, mình cứ nghe nói rồi mình nói lại hoài, mình truyền nhiều khi đúng, nhiều khi không biết từ đâu, và có nhiều khi sai nữa.
Bây giờ Thiện Trang kinh nghiệm lắm. Thiện Trang không vội tin những điều tuyên truyền, dù nghe thấy hợp lý. Nhưng mình không thấy điều đó có trong kinh, thì mình phải suy xét lại, phải coi lại, chứ không phải cứ cắm đầu [nghe] như hồi xưa. Bởi vì [Thiện Trang] phát hiện ra nhiều điều được truyền một hồi, nhưng thấy không có trong kinh gì hết, mà truyền từ thế hệ này qua thế hệ kia. Tóm lại không thấy trong kinh, thậm chí trái trong kinh nữa, mà trái trong kinh là không được rồi. Nếu không thấy trong kinh thì còn chấp nhận được. Còn bây giờ nếu mình thấy trái với kinh thì Thiện Trang kêu nhất định không truyền. Mình không biết thì thôi, chứ biết rồi thì làm sao dám truyền.
Nên ở trên [Tâm sở Tàm] là hổ thẹn, còn đây [Tâm sở Úy] là sợ. Sợ điều gì? Sợ ác quả, tức là sợ quả báo ác đến.
Tâm sở Tàm là khác với sự nhút nhát thông thường. Úy là khác với sự sợ hãi thông thường của chúng sanh. Một Phật tử không phải sợ hãi bất cứ cá thể nào, cho dù là một vị trời. Phật giáo không dựa trên sự sợ hãi của Vô minh.
Có nghĩa là nếu quý vị là Phật tử thì đừng sợ gì hết, không sợ gì hết, không sợ cá thể nào. Nhưng mình sợ điều gì quý vị? Mình sợ quả báo chứ không phải sợ người. Nên thường mình sợ là sợ sai, sợ đối tượng này, sợ đối tượng kia. Thật ra không phải! Phật giáo là dạy cho mình sợ quả của mình. Mình sợ quả thì đừng có trồng nhân xấu. Tâm sở Úy này thật ra cũng là một trong những Tâm sở Tịnh hảo thôi.
Đơn thuần là tính chất làm cho các pháp đồng sanh (tức là các Tâm sở khác, hoặc làm vấn đề khác đồng sanh ra), miễn nhiễm được điều xấu. Nên Tàm với Úy là giúp cho mình tránh được điều xấu.
Tâm sở Úy cũng không được luận bày bốn ý thật tướng. Mà chỉ mượn bốn ý thiện pháp của bề trên. Cũng tương tự như vậy, Úy có tướng trạng là sợ điều ác. Nhiệm vụ là không làm các điều ác (do mình sợ mà). Biểu hiện là chối bỏ các điều ác (cũng là do mình sợ), và nhân thân cận là tôn trọng người khác. Quý vị biết khác ở trên [Tâm sở Tàm] là tôn trọng mình, còn đây [Tâm sở Úy] là trọng người khác.
Người có Úy thì ra sao? Điều kiện có Tâm sở Úy ra sao? Pháp nào mà ghê sợ, sự vật đáng ghê sợ bằng lối phải đến tội ác. Ghê sợ như thế là điều kiện Úy. Có nghĩa là bây giờ mình biết sự vật đó, sự việc đó ghê sợ, vì nó dẫn mình đi về lối tội ác, mình biết nên mình sợ. Như vậy, sợ này là mình phải có học pháp. Nhiều người ở thế gian do họ không học pháp, không học thì họ đâu có biết. Ví dụ như sát sanh, thì cứ sát sanh thôi, thấy bình thường mà. Nhưng [khi] học rồi [pháp] thì mình thấy sợ, [nên] mình tránh. Nhiều người nghĩ trộm cắp thì trộm cắp thôi, v.v…. Nhưng học Phật pháp thì dần dần mình sợ, cho nên cũng phải có nhận thức.
Như vậy cả hai Tâm sở Tàm và Úy này gọi chung là giềng mối của thế gian, giúp cho thiên hạ tránh được những vấn đề, như để thiên hạ không giống như các loài thú, tránh được nạn như loạn luân, hay không khát máu. Quý vị thấy Tàm, Úy có giềng mối với thiên hạ, dù cho thế giới văn minh hay không văn minh, quý vị cũng thấy không có những chuyện loạn luân. Trong A Tỳ Đàm ghi là cha không được có chuyện quan hệ với con gái, mẹ không có quan hệ với con trai, v.v…. thì đó là loạn luân. Đó là do những Tâm sở này sanh ra. Tránh những nạn như khát máu, giết người ghê gớm, đó là do những Tâm sở này. Nên [Tâm sở] này giữ được giềng mối cho thế gian được ổn định.
Còn nói theo trong kinh tạng thì Úy gồm có bốn trường hợp:
Thứ nhất là sợ lương tâm cắn rứt. Úy này là Tâm sở sợ, sợ lương tâm mình cắn rứt. Ví dụ như mình làm việc ác thì tự nhiên lương tâm mình cắn rứt thôi. Mình thấy sợ điều đó, mình sợ đời bất an vì tâm mình cắn rứt. Thứ hai là sợ tiếng đời dị nghị. Tức là mình làm việc gì đó xấu thì mình sợ người đời nói. Thứ ba là sợ pháp luật trừng trị. Có nghĩa là mình làm việc xấu thì sợ bị pháp luật trừng trị. Thứ tư là sợ sa đọa cảnh khổ. Nghĩa là sợ nhân quả. Mình làm việc không tốt, việc xấu, thì tự nhiên mai mốt đọa đường ác thôi. Hoặc [vào] đường thiện thì khổ báo tới.
Đó là bốn điều sợ mà nói theo kinh tạng. Như vậy Tâm sở Úy này là sợ. Thứ nhất là sợ lương tâm cắn rứt. Thứ hai là sợ tiếng đời dị nghị. Thứ ba là sợ pháp luật trừng trị. Và thứ tư là sợ sa đọa vào cảnh khổ. Cho nên Tâm sở Úy này quan trọng. Còn ngược lại [với Úy] là Vô úy là bất thiện, thì chúng ta đã học ở trên. Do đó điều quan trọng nhất là Tâm sở Tàm và Tâm [sở] Úy này là pháp để hộ trì thế gian.
Như vậy chúng ta [đã] học sơ qua các Tâm sở rồi. Bữa nay mình học được bốn [Tâm sở] nữa rồi. Bên này 13 [Tâm sở Tợ tha], và 14 [Tâm sở Bất thiện], là 27 [Tâm sở] rồi. Mình học thêm bốn [Tâm sở] nữa là 31 [Tâm sở]. 52 [Tâm sở] mà cũng [học] được 31 [Tâm sở] rồi. Như vậy còn có 21 Tâm sở nữa thôi, thì cũng không khó lắm, mình cứ học từ từ.
Hôm nay Thiện Trang xin giới thiệu một đoạn về Luận Câu Xá, chứ không, mình học nhiều [về A Tỳ Đàm] quá, mà từ bữa giờ [mình] không học về Luận Câu Xá. Lâu lâu học một đoạn thôi, bây giờ [chúng ta] học nhiều hơn rồi đó. Những phần quan trọng thì Thiện Trang đã giới thiệu, và đưa trước cũng gần hết rồi, [nên] từ từ mình học Luận Câu Xá. Khi có nền tảng rồi thì mình chạy một mạch cho nhanh.
若 不 爾 者,餘 心 所 法 及 不 相 應,非 蘊 攝 故 應 非 苦 集,則 不 可 為 應 知 應 斷。如 世 尊 說:若 於 一 法 未 達 未 知,我 說 不 能 作 苦 邊 際。未 斷 未 滅 說 亦 如 是。是 故 定 應 許 除 四 蘊 餘 有 為 行 皆 行 蘊 攝。即 此 所 說 受、想、行 蘊,及 無 表 色、三 種 無 為,如 是 七 法 於 處 門 中 立 為 法 處,於 界 門 中 立 為 法 界。
Nhược bất nhĩ giả, dư tâm sở pháp cập bất tương ưng, phi uẩn nhiếp cố ưng phi Khổ Tập, tắc bất khả vi ưng tri ưng đoạn. Như Thế Tôn thuyết: Nhược ư nhất pháp vị đạt vị tri, Ngã thuyết bất năng tác khổ biên tế. Vị đoạn vị diệt thuyết như thị. Thị cố định ưng hứa trừ tứ uẩn dư Hữu vi hành giai Hành uẩn nhiếp. Tức thủ sở thuyết Thọ, Tưởng, Hành uẩn, cập Vô biểu sắc, tam chủng Vô vi, như thị thất pháp ư Xứ môn trung lập vi Pháp xứ, ư Giới môn trung lập vi Pháp giới.
Giải:
#Nhược bất nhĩ giả, dư tâm sở pháp cập bất tương ưng: tức là nếu không như vậy, thì các Tâm sở khác và Bất tương ưng (là Bất tương ưng Hành pháp).
#Phi uẩn nhiếp cố ưng phi Khổ Tập, tắc bất khả vi ưng tri ưng đoạn: có nghĩa là nếu không như vậy, thì các Tâm sở pháp khác và Bất tương ưng Hành pháp, không phải do tích chứa, duy trì, cho nên nó không phải là nguyên nhân của khổ, thì không thể; #bất khả là không thể; là nên cần biết phải đoạn trừ.
Ở [đoạn] này là do mình [học] lâu quá nên mình quên rồi, Thiện Trang cũng quên luôn. Đoạn này đang nói về: Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức. Mình cứ từ từ học. Mình hiểu là: Nếu không phải như vậy, tức là ở đây đưa ra một giả thuyết, lý luận thôi. Bây giờ đọc lại đoạn đó thì hơi mất công, quý vị cứ hiểu rằng đoạn này là giả thuyết thôi. Ngài Huyền Trang, ngài Thế Thân đưa ra lập luận: là nếu không phải theo lập luận đó, thì các Tâm sở pháp khác và Bất tương ưng Hành pháp, không phải do tích chứa, duy trì, thì không phải là nguyên nhân của khổ. Tức là nó không đúng, nên không cần biết để đoạn trừ, không đoạn trừ được, tại vì mình phải có căn cứ.
Ví dụ bây giờ mình đang học Tâm sở Bất thiện, thì mình phải biết là các Tâm sở Bất thiện này như thế, do những Tâm sở này là nguyên nhân của khổ, gây ra khổ. Bây giờ mình biết thì mình mới đoạn được Tâm sở Bất thiện, để mình không gây ra nguyên nhân của khổ, đơn giản là vậy. [Thiện Trang] không nhắc lại [nữa, [vì] dài quá.
#Như Thế Tôn thuyết: là như đức Phật nói, đức Thế Tôn nói.
#Nhược ư nhất pháp vị đạt vị tri, Ngã thuyết bất năng tác khổ biên tế: tức là như đức Phật nói: Nếu đối với một pháp mà chưa đạt được, chưa biết, thì Ta nói không thể làm bờ mé của khổ được; #vị là chưa, là phó từ; #biên tế là bờ mé.
Tức là bây giờ đối với một pháp mà quý vị không biết, chưa đạt được, thì đức Phật nói đó không thể nào làm nguyên nhân của khổ được. Ở đây nói nguyên nhân của khổ, là do gốc gác từ Tâm sở. Mình phải nói là từ Tâm sở [mà] gây khổ.
Cho nên nguyên nhân khổ (hay Tập đế) là gì? Chúng ta biết khổ là do từ đâu ra không? Bây giờ học một hồi, mình nói khổ từ đâu ra? Bắt đầu người ta nói khổ là do đời khổ, do hoàn cảnh khổ v.v… Thực ra nói một hồi [nhưng] không rốt ráo. Nhà Phật nói khổ là do Phiền não, có Phiền não cho nên có khổ. Quý vị hết Phiền não, gọi là ‘ái tận tức Niết-Bàn’. Khi quý vị hết Phiền não thì quý vị không sanh vào luân hồi nữa, thì quý vị hết khổ. Còn [ở] trong vòng luân hồi thì như vậy.
Giống như quý vị muốn hết khổ mà quý vị cứ chui vô, biết chỗ đó lạnh mà cứ vô trong đó ở thì lạnh thôi. Muốn hết lạnh thì đi ra khỏi nhà băng đá đó, biết chỗ đó nóng thì đừng chui vô. Bây giờ chúng ta biết ‘Tam giới không an, giống như nhà lửa’, mà cứ chui vô thì khổ thôi. Muốn đừng chui vô, thì phải diệt trừ Phiền não đi, hết mười Kiết sử Phiền não thì không vô Tam giới nữa, thì hết khổ. Còn trong Tam giới thì còn khổ.
Cho nên mình không biết được nguyên nhân, thì mình làm sao nói [được] khổ đó rốt ráo từ đâu. Bây giờ mình phải biết nguyên nhân, còn không biết nguyên nhân thì mình cứ đổ lỗi cho chúng sanh: Tôi khổ quá vì ông chồng tôi chửi, tôi khổ quá vì mẹ chồng ăn hiếp tôi v.v… Thật ra đó không phải nguyên nhân của khổ, đó chỉ là một nguyên nhân gần thôi, là biểu hiện của nghiệp, biểu hiện của những vấn đề. Bây giờ nếu quý vị lên cõi Trời là quý vị hết khổ, bớt một phần khổ. Lên cõi Sắc giới thì đỡ khổ. Còn ra khỏi sanh tử thì quý vị hết khổ.
Quý vị lên đến cõi Trời, cho dù làm mấy cung nữ, [thì cũng đỡ khổ]. Ở cõi Trời có 500 cung nữ (tất nhiên 500 là con số tượng trưng thôi), thì cung nữ ở cõi Trời cũng sướng hơn cung nữ ở cõi Người. Cứ nửa tháng, từ ngày mùng 8, ngày 15 thì họ được thả đi chơi. Ăn uống dọn dẹp trên cõi Trời cũng không phải dọn dẹp rửa bát gì đâu, nên sướng. Còn ở dưới này khổ, mình sanh ra ở cõi này là khổ rồi.
Mà tại sao mình sanh vào cõi này? Vì ta có những ham muốn Dục giới, vì do tâm Dục giới của chúng ta mạnh, nên sanh xuống ở cõi Dục giới. Mình không biết điều đó, mà cứ đổ lỗi cho bà đó, ông đó, người đó, gia đình đó, đất nước đó làm cho mình khổ. Đúng rồi! Nhưng đó là nghiệp của mình nữa, nhân như thế, duyên như thế, thì quả như thế. Tất nhiên trong đó có những sự oan, không phải do nghiệp đời trước [không thôi], nhưng do duyên mình sanh vào đó thì phải chịu thôi.
Ví dụ, quý vị không chịu đầu thai vô nước giàu có, mà đầu thai vào nước nghèo khổ thì quý vị nghèo thôi. Đó do duyên như thế thì quả như thế. Nhân, duyên, quả phức tạp vô cùng. Cho nên không phải điều nào cũng đổ thừa cho nghiệp hết, có những điều là do duyên đẩy mình vô.
Giống như mình đi ra đường, mình chưa có duyên với người đó, nhưng bữa nay mình gặp người đó thì thành ra có duyên. Hoặc thời gian đó có những nghiệp vận chuyển không nói, nhưng có những sự vô tình. [Ví dụ] bữa đó vô tình, xui xui mình chạy [xe] tông [vào] người ta, mà người ta nghiệp số hết, thì tự nhiên như vậy. [Họ] cũng không có nợ với mình, nhưng nghiệp số người ta hết nên người ta chết. Rồi tự nhiên mình bị bắt đi tù, bị đền bù thiệt hại v.v… trong khi đó mình cũng không có nợ nần người ta. Người ta thì có nghiệp bị xe đâm, nhưng mình không có nghiệp đó mà mình gây nghiệp.
Cho nên không phải điều nào cũng đổ do nghiệp. Mình phải hiểu nhân, duyên, quả, báo, và phải học cho kỹ, không phải điều nào cũng đổ cho nghiệp. Điều này quý vị coi trong Kinh Nikaya (Tiểu Bộ Kinh), quý vị thấy những câu chuyện lặp đi lặp lại, đời trước như vậy, đời sau cũng tiếp tục như vậy, chứ đâu phải đời trước vay, rồi đời sau trả. Có những câu chuyện đời trước vay đời sau trả, nhưng có những câu chuyện đời trước vay, rồi đời say vay tiếp. Ví dụ như Đề Bà Đạt Đa với đức Phật, đời nào Đề Bà Đạt Đa ra đời cũng phá đức Phật, phá hoài, đời nào gặp nhau cũng phá. Nhưng tiền thân [của đức Phật] đâu có phá.
Ví dụ như câu chuyện thần cây, ở đó có con hổ, con voi, hay con gì đó… ở trong rừng. Ông thần cây đó ghét quá, muốn đuổi [con] hổ đi. Lúc đó đức Phật cũng là một vị thần, nói với vị thần [cây] đó: Đừng có đuổi đi, hai con này sống với nhau không được tuy không hợp [nhau], không thích [nhau], nhưng không xa lìa được đâu. Nhưng [ông thần cây] không chịu, ông thần cây đó hù nên hai con thú [bỏ] đi. Dân thấy không có dấu chân thú, cho nên lên phá rừng, phá một phần cánh rừng. Ông thần [cây] nghĩ: Chết rồi! Họ phá một hồi là mình không còn chỗ ở, cho nên tìm đến vị tiền thân của đức Phật Thích Ca là vị Bồ-tát. [Vị Bồ-tát] nói: “Tôi nói ông rồi, tuy ông ghét hai con thú đó, nhưng hai con thú đó ở thì dân mới sợ, họ mới không lên phá rừng. Bây giờ ông hiện thân, ông hù hai con vật đó chạy sang cánh rừng khác, thì cánh rừng này bị dân phá ráng chịu. Bây giờ ông qua thỉnh mời lại đi”. [Lúc đó] ông thần cây qua thỉnh con hổ với con gì đó quay trở lại. Khi [hai con thú đó] quay trở lại [thì cánh rừng được] bảo vệ.
Chuyện đó là chuyện quá khứ. Còn đời nay cũng vậy, người này với người kia chẳng hợp nhau, nhưng không thể tách rời nhau, phải cần có nhau. Sống thì không ưa, nhưng nếu không có thì không được. Đời trước cũng vậy, mà đời này cũng vậy, những câu chuyện lặp đi lặp lại như vậy. Tức là có những nghiệp thế nào đó, khiến không ưa nhau nhưng phải gặp nhau, phải hợp tác với nhau, nếu rời nhau thì sống không được. Cho nên mình [phải] hiểu được nguyên nhân.
#Vị đoạn vị diệt thuyết như thị: tức là chưa đoạn chưa diệt thì cũng nói là như vậy.
#Thị cố định ưng hứa trừ tứ uẩn dư Hữu vi hành giai Hành uẩn nhiếp: có nghĩa là vì thế hay là cho nên chắc chắn; #định là chắc chắn; cần phải xác định bốn uẩn khác với các pháp Hữu vi khác đều biến đổi tích tập duy trì.
Ngôn ngữ này hơi khó hiểu, mà chúng ta đang vô vòng giữa giữa. Nói chung đoạn này Thiện Trang nói những giả thuyết này mình học lướt qua. Quan trọng là mình hiểu được bản chất ở trong, là đang giới thiệu về Ngũ uẩn (Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức). Muốn giải thích mấy [uẩn] này rõ, thì phải lùi lại đoạn trên, mà [chúng ta] học lâu quá rồi, nên [nếu] giải thích thì mất thời gian quá. Phần này không quan trọng lắm, nên Thiện Trang giảng lướt qua, mong quý vị thông cảm.
#Tức thủ sở thuyết Thọ, Tưởng, Hành uẩn, cập Vô biểu sắc, tam chủng Vô vi, như thị thất pháp ư Xứ môn trung lập vi Pháp xứ, ư Giới môn trung lập vi Pháp giới (quan trọng là nhớ đoạn này): tức là những điều được nói ở đây gồm ba uẩn: Thọ, Tưởng, Hành, và Vô biểu sắc (chúng ta học rồi), ba loại Vô vi (trong Luận Câu Xá học ba loại Vô vi thôi, chúng ta cũng học rồi). Như vậy bảy pháp này gồm: Thọ, Tưởng, Hành, Vô biểu sắc, và ba loại Vô vi. Bảy pháp này đối với môn Xứ thì gọi là Pháp xứ, đối với môn Giới thì gọi tên là Pháp giới.
Ví dụ như mình gọi là Xứ, [nhưng] trong Ngũ đình Tâm quán thì có pháp gọi là quán Phân biệt giới, thì tùy theo môn. Giới là chia theo nhóm, ví dụ trong Kinh A Hàm, trong Kinh Nikaya có bài kinh đức Phật nói là chúng sanh theo nhóm, theo giới. Chúng sanh nhóm nào thì đi theo nhóm đó, giới nào thì đi theo giới đó.
Ví dụ: ‘Này các ông có thấy Đề Bà Đạt Đa không? Đề Bà Đạt Đa dẫn đầu nhóm người kia đi kinh hành đó, nhóm đó toàn những người ác, làm việc ác. Rồi [các ông] có thấy ngài Ma Ha Ca Diếp dẫn bao nhiêu vị Tỳ-kheo đi kinh hành gần đó không? Đó toàn là người tu hạnh Đầu đà, giới tu hạnh Đầu đà. Còn nhóm ngài A Nan dẫn bao nhiêu người gần đó, đi theo hướng đó, đó toàn là những người Tỳ-kheo đa văn’.
Cho nên gọi là chúng sanh tụ theo giới. Giới là nhóm. Ở đây mình hiểu có khi là chia theo nhóm, hay theo pháp nào đó, thì gọi là Pháp giới. Hoặc có cách chia nhóm [khác] gọi là Xứ, Xứ cũng giống như nhóm vậy thôi, gọi là Pháp xứ. Tóm lại là cách chia thôi. Có khi gọi là Xứ, có khi gọi là Giới, ngôn ngữ thì tùy nơi thôi.
Tạm dịch: Nếu không như vậy, thì các Tâm sở pháp khác và Bất tương ưng [Hành pháp], không phải do tích chứa duy trì nên không phải nguyên nhân của khổ, thì không có thể là nên cần biết phải đoạn trừ (nghĩa là mình không biết nguyên nhân của khổ, thì làm sao mình biết để loại trừ). Như đức Thế Tôn nói: Nếu đối với một pháp mà chưa đạt, chưa biết, thì Ta nói không có thể làm bờ mé của khổ được. Về Chưa đoạn chưa diệt thì cũng nói như vậy. Cho nên chắc chắn cần phải xác định bốn Uẩn khác, các pháp Hữu vi khác đều biến đổi tích tập duy trì. Tức là Thọ uẩn, Tưởng uẩn, Hành uẩn được nói ở đây, và Vô biểu sắc, ba loại Vô vi, bảy pháp như thế ở trong môn Xứ thì lập tên gọi là Pháp xứ, ở trong môn Giới thì lập tên gọi là Pháp giới.
Tóm lại là tùy theo môn thôi, có môn gọi là Pháp xứ, có môn gọi là Pháp giới, hay là lúc thì nói Giới, lúc thì nói Xứ, quý vị cũng không [cần phải] quan trọng, chỉ cần hiểu là được. Ở đây ngài Huyền Trang với ngài Thế Thân chia chẻ phân tích kỹ quá, mình mới học nên mơ mơ màng màng luôn, thì thôi, mình học sơ sơ qua để biết vậy.
Hôm nay thời gian cũng hết rồi, hẹn quý vị học vào bữa khác. Phần đầu Thiện Trang bổ sung phần kinh tạng, giới thiệu dần dần sẽ hết. Những phần sau thì chúng ta đi Luận Câu Xá nhiều hơn, vì thực ra chúng ta học Luận Câu Xá. Luận Câu Xá và A Tỳ Đàm cũng tương tự nhau thôi, mấy bữa [vừa] rồi Thiện Trang ít giảng Câu Xá. Thực ra phần sau của Luận Câu Xá có nhiều điều hay lắm quý vị. Phần đầu là giới thiệu, lẽ ra giới thiệu thì giới thiệu cạn cạn thôi, đằng này ngài Thế Thân đẩy vô cao quá, phân tích làm mình rối. Chứ học giới thiệu qua thế nào là Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức, rồi mấy giới thì không khó. Nhưng tại vì phân tích ra, đưa giả thuyết, chia chẻ ra cho thuyết phục [với] những người cao siêu. Chứ còn chúng ta mới học, mà đem mấy phân tích như đoạn vừa rồi thì thấy mơ mơ màng màng thêm. Lẽ ra chúng ta học xong rồi, chúng ta học lại đoạn này thì dễ, còn bây giờ chưa vô mà mình học trước nên khó.
Cho nên chính ngài Tuệ Sỹ nói: “Tôi không phải giỏi hơn quý vị đâu, nhưng nhờ tôi học hết đoạn sau rồi, nên tôi đọc lại đoạn trước thì tôi hiểu. Còn quý vị mới học tới đó, nên quý vị không hiểu gì hết”. Kiểu vậy đó!
Giống như Thiện Trang học Duy Thức, tại sao Thiện Trang hiểu hơn quý vị. Vì Thiện Trang học nhiều rồi, cho nên đọc tới đâu là biết điều này nằm ở đâu, hiểu khái niệm thuật ngữ này. Còn quý vị chưa học qua, mà bây giờ cấp cho quý vị một trời thứ. Chính vì vậy Thiện Trang mới nghĩ ra cách giảng bộ Luận Câu Xá, thay vì giảng theo trình tự này, thì mình đem thêm A Tỳ Đàm, đem kinh tạng ra, đưa vô trước, để quý vị có nền nhẹ nhàng, rồi vô tới đâu thì mình chạy cho suông. Chứ còn học theo trình tự này thì khó.
Cho nên [môn] Duy Thức cần phải có thầy là vậy, tự học rất khó, vì tự học mới vô quá nhiều thứ nên mình thấy rối. Mình không biết điều nào quan trọng, điều nào không quan trọng. Có những thứ không quan trọng lắm, thì từ từ học sau cũng được. Không có bộ Luận Duy Thức nào có thể giúp cho người mới học hết, ngay cả Bách Pháp Môn Luận là dành cho người học Duy Thức Nhập Môn, nhưng thật ra học vô cũng không được, không có bộ nào hết. Cho nên Thiện Trang nói có thể sau này Thiện Trang sẽ lọc lại, viết lại một bộ gọi là Duy Thức Nhập Môn. Tức là mình chỉ cung cấp kiến thức căn bản nhất, thế nào là cái này, thế nào là cái kia v.v… nhẹ nhàng, sắp lại thành thứ tự gọn. Sau khi quý vị đọc [hết] được quyển một, rồi chuyển qua quyển hai, quyển ba. Từ đó quý vị vô bất cứ bộ luận nào, quý vị coi cũng hiểu được.
Bây giờ vô trật tự sắp xếp này khó quá. Luận Câu Xá tưởng dễ mà không dễ. Quý vị học ở trường Phật học là Luận Câu Xá xếp vào giáo trình Cao đẳng. Cao đẳng là phải học xong bốn năm Trung cấp rồi mới học tiếp ba năm Cao đẳng, sau đó mới học Luận Câu Xá. Chứ mới vô mà mình học Luận Câu Xá là mình siêu rồi, tương đương với chương trình nghiên cứu Thạc sĩ chứ không phải chương trình của Đại học. Học Đại học xong rồi, mới học Luận Câu Xá. Còn đây mình quất vô học luôn là mình giỏi. Cho nên quý vị học ở đây là quý vị giỏi lắm đó, tại vì có quá nhiều kiến thức. Cho nên đừng nói tại sao khó. Cứ từ từ nha, hôm sau chúng ta sẽ học tiếp.
Hôm nay chúng ta dừng ở đây. Kính mời quý vị chúng ta cùng hồi hướng.
“Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ
Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn
Pháp môn vô lượng thệ nguyện học
Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành”.
“Nguyện đem công đức này
Hướng về khắp tất cả
Đệ tử cùng chúng sanh
Đều trọn thành Phật đạo”.
Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật!
Nam mô A Mi Đà Phật!
#luancauxa #thaythichthientrang