TỊNH ĐỘ ĐẠI KINH KHOA CHÚ 2014
(Giảng lần thứ 4)
PHẨM THỨ BA: ĐẠI GIÁO DUYÊN KHỞI
Tập 134
Chủ giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không
Thời gian: Ngày 16 tháng 11 năm 2014
Giảng tại: Hiệp Hội Giáo Dục Phật Đà Hồng Kông
Dịch giả: Sư cô Thích Tâm Thường
Giảo chánh: Thích Thiện Trang.
Kính chào chư vị Pháp sư, quý vị đồng học, mời an tọa. Thỉnh mọi người cùng tôi quy y Tam Bảo:
A-xà-lê tồn niệm, ngã đệ tử Diệu Âm, thỉ tùng kim nhật, nãi chí mạng tồn, quy y Phật-Đà, lưỡng túc trung tôn, quy y Đạt-Ma, ly dục trung tôn, quy y Tăng-Già, chư chúng trung tôn. (3 lần)
Mời xem Đại Kinh Khoa Chú, trang 372, hàng cuối cùng, bắt đầu xem từ câu thứ ba:
(六)解自在。菩薩勝解成就,能示現種種色身,演說妙法,無障無礙也 “(Lục) Giải tự tại. Bồ-tát thắng giải thành tựu, năng thị hiện chủng chủng sắc thân, diễn thuyết diệu pháp, vô chướng vô ngại dã” (Thứ sáu là Giải tự tại. Bồ-tát thành tựu thắng giải, có thể thị hiện đủ loại sắc thân, diễn thuyết diệu pháp, không có chướng ngại), xem từ câu này. Nguyên văn của Kinh này là tự tại đối với pháp, kinh văn là một câu, 於一切法,而得最勝自在故 “ư nhất thiết pháp, nhi đắc tối thắng tự tại cố” (nên đối với tất cả pháp mà được tối thắng tự tại). Chú Giải của Niệm lão hoàn toàn trích dẫn mười loại tự tại trên Kinh Hoa Nghiêm, trong Kinh này thảy đều đầy đủ mười loại tự tại ấy, nên cổ Đại đức có cho rằng: Kinh này chính là Trung bản Hoa Nghiêm. Trước kia, Cư sĩ Mai Quang Hy đã viết một bài Tựa dài cho bản hội tập, viết vô cùng hay, giới thiệu bộ Kinh này. Tổ sư Đại đức xưa nay đều khẳng định, cho rằng cách nói này không sai, Hoa Nghiêm là Đại kinh, nói chi tiết; Kinh này là Trung bản, phân lượng văn tự giảm đi rất nhiều, nhưng nội dung của cả Kinh nói không có khác với Hoa Nghiêm. Ngắn gọn hơn nữa là Kinh Phật Thuyết A Mi Đà, ba bộ Kinh này thật ra là một bộ Kinh, Đại bản, Trung bản, Tiểu bản, Tiểu bản tiện cho việc thọ trì, người bình thường dùng Tiểu bản để làm thời khóa sớm tối.
Vì vậy quá khứ chúng tôi học Hoa Nghiêm, đã dùng thời gian mười mấy năm, giảng toàn bộ Kinh, chúng tôi học Sớ Sao của Đại sư Thanh Lương, cũng tham khảo Hợp Luận của ngài Lý Trưởng giả, học đến Sơ trụ, sau Thập tín là Sơ trụ. Học hết Sơ trụ rồi, thì chúng tôi ngừng lại, tổng cộng đã dùng hơn 4000 giờ. Căn cứ theo tiến độ như lúc đó, mỗi ngày học tập hai giờ, cả Kinh đại khái đã học 1/5, hơn 4000 giờ, ước tính bộ Kinh đó từ đầu đến cuối, giảng toàn bộ sẽ cần 20.000 giờ. Xã hội hiện nay đây, ai có thời gian dài như vậy để nghe một bộ Kinh Hoa Nghiêm? Khó, quá khó rồi. Kinh Vô Lượng Thọ chính là Trung bản Hoa Nghiêm, bộ Kinh này hiện nay chúng ta dùng Tập Chú của Hoàng Niệm lão, nội dung hết sức phong phú. Giảng một lần từ đầu đến cuối, thời gian tiêu chuẩn là 1200 giờ, một ngày giảng bốn giờ, phải giảng hết 300 ngày. Đây là lần thứ tư của chúng ta.
Lần thứ tư này sẽ giảng rất chi tiết, bởi vì chúng ta không vội theo tiến độ. Chúng ta ở trong Tập Chú của toàn Kinh, trong Tập Chú có rất nhiều kinh văn, giống như một đoạn lớn mà chúng ta đọc ở đây vậy, [là] kinh văn của Kinh Hoa Nghiêm, khai thị của Tổ sư Đại đức, đều là những điều tinh hoa nhất, Niệm lão đều sao chép vào đây. Thật không dễ, đọc bộ Tập Chú này, tương đương với đọc: 193 loại kinh luận và chú sớ của Tổ sư. Cổ Đại đức tin rằng không phải là rất xưa, mà cận đại, đã vãng sanh làm Cổ nhân, như Hạ Liên công, Cư sĩ Mai Quang Hy, các ngài ấy nhìn thấy bộ Kinh này, chẳng ai mà không khen ngợi. Gần như đều khẳng định khi pháp của đức Thế Tôn diệt, Pháp vận 12.000 năm của đức Thích Ca Mâu Ni Phật, sau 12.000 năm, chúng ta ở trong 12.000 năm, năm nay là 3.041 năm. Nói cách khác, phía sau vẫn còn 9.000 năm. Sau 9.000 năm, pháp của đức Thích Ca Mâu Ni Phật đã biến mất trên địa cầu, đều không tồn tại nữa, cuối cùng vẫn còn bộ Kinh này, chúng ta tin chính là bộ Kinh, và Chú Giải mà chúng ta dùng hiện nay đây, lưu lại thêm 100 năm. Qua 100 năm sau đó, bộ Kinh này cũng không còn nữa, vào lúc ấy, có thể nghe được bộ Kinh này, có thể niệm một câu Phật hiệu, thật tin, thật mong muốn vãng sanh Thế giới Cực Lạc, thì A Mi Đà Phật đều đến tiếp dẫn, từ bi đến vô cùng.
Nội dung của bộ Kinh này nói những gì? Chính là năm câu khi Đại sư Huệ Năng khai ngộ đã nói ra, bàn về Xứng Tánh, từng chữ từng câu là do Tự Tánh lưu lộ ra. Lúc Đại sư Huệ Năng khai ngộ, cũng là từ trong Tự Tánh lưu lộ ra năm câu. Tự Tánh là như thế nào? Tự Tánh là thanh tịnh, trước giờ chưa từng bị ô nhiễm, 本自清淨 “bổn tự thanh tịnh” (vốn tự thanh tịnh); 不生不滅 “bất sanh bất diệt” (không sanh không diệt), là không có sanh diệt, Tự Tánh là hình dáng thế nào? Đó là Thường Tịch Quang. Tuy là một mảng quang minh, không có gì cả, nhưng chẳng thể nói là không, vì sao vậy? Bởi 本自具足“bổn tự cụ túc” (vốn tự đầy đủ). Đầy đủ điều gì? Đầy đủ cả vũ trụ, không thiếu thứ gì, nếu thiếu một thứ thì sẽ không hiện ra, những thứ có thể hiện ra trong vũ trụ, đều là do Tự Tánh vốn đầy đủ. Nên trên kinh Phật thường nói, ngoài tâm không có pháp, tâm chính là Tự Tánh, ngoài Tự Tánh không có một pháp nào. Về pháp, bất kể là chân hay vọng, là chánh hay tà, là nhiễm hay tịnh, là thiện hay ác, tất cả đều là vốn sẵn đủ trong Tự Tánh. Hiển hiện ra cho chúng ta là Nhất chân Pháp giới, chính là Thế giới Cực Lạc, nên chúng ta có phần Thế giới Cực Lạc, là do Tự Tánh của chính chúng ta biến hiện ra. Tự Tánh là như nhau, tất cả chư Phật không có khác với tất cả chúng sanh, chư Phật mười phương ba đời, đều cùng chung một Pháp thân, chúng ta đều ở trong chư Phật ba đời ấy, ba đời là nói quá khứ, hiện tại, vị lai, tất cả chúng sanh đều là Phật vị lai. Ai biết? Phật biết, Bồ-tát biết. Chúng ta đối với tất cả chúng sanh: có thể không cung kính sao? Kính chúng sanh vốn là kính chính mình, là kính Tánh đức của chính mình. Nên khắp Pháp giới hư không giới với ta là thế nào? Một thể. Điều này thì tất cả tôn giáo, học thuật đều không có nói được rõ ràng, sáng tỏ như Phật pháp Đại thừa.
Mục tiêu cuối cùng của giáo dục Phật pháp là gì? Nhất định phải biết điều này, cuối cùng là trở về Tự Tánh, chính là Đại triệt Đại ngộ, Minh tâm Kiến tánh của bên Thiền tông nói. Pháp môn niệm Phật của chúng ta cũng là lấy điều này làm mục tiêu cuối cùng. Mục tiêu giống nhau, nên Pháp môn bình đẳng, không có cao thấp, 84.000 Pháp môn, tất cả đều có thể giúp quý vị Đại triệt Đại ngộ, Minh tâm Kiến tánh, vô lượng Pháp môn cũng như thế. Có cần học tập kinh giáo không? Không nhất định cần, học tập kinh giáo là một loại trong 84.000 Pháp môn, nói cho người nào? Đối với tầng lớp tri thức mà nói, tầng lớp tri thức thích đọc sách, thích học, nên dùng phương pháp này. Quý vị xem đối với người không biết chữ, người không có duyên phận đến trường đi học, dùng Pháp môn này tốt nhất, là một câu A Mi Đà Phật. Lão Hòa thượng Hải Hiền đã làm tấm gương cho chúng ta, ngài chưa từng đi học, không biết chữ, ngài có Minh tâm Kiến tánh hay không? Có, quý vị xem kỹ đĩa phim của ngài, rất rõ ràng, nhưng ngài không nói. Vì sao không nói? Bởi thời tiết nhân duyên khác nhau. Nếu ngài xuất hiện vào thời của đức Thích Ca Mâu Ni Phật, thì ngài thành Phật, không khác với đức Thích Ca Mâu Ni Phật. Sanh ra trong thời đại của Phật, quý Ngài thông thường đều là dùng thân phận của Đẳng giác để xuất hiện, giống như ngài Văn Thù, Phổ Hiền, Quán Âm, Thế Chí, đó đều là các Đẳng giác Bồ-tát, dùng thân phận này để xuất hiện. Nếu ngài cùng thời đại với Đại sư Huệ Năng, thì ngài cũng xuất hiện là thân phận của Tổ sư. Nhưng sanh vào ngày nay, ngày nay là đời loạn, không được phép. Nên ngài vì chúng ta mà thị hiện lão thật niệm Phật, là tấm gương tốt nhất.
Người bình thường hiện nay, ai mà không muốn khỏe mạnh? Ai mà không mong trường thọ? Ai mà không mong có trí huệ? Ngài thị hiện ra cho chúng ta, niệm Phật có thể được khỏe mạnh, niệm Phật có thể trường thọ, ngài làm cho quý vị thấy. 112 tuổi không cần người chăm sóc, tự chăm sóc chính mình, đôi khi còn chăm sóc cả người khác. Đầu óc minh mẫn, suy nghĩ nhanh nhẹn, tâm địa lương thiện từ bi, không có oán hận, không có ác niệm. Nhìn thấy tấm gương ấy của ngài, rất bần hàn, vô cùng kham khổ, nhưng tự tại vui vẻ. Cuộc sống hoàn toàn dựa vào chính mình, có đất thì có tài sản, đất là của quốc gia, đất hoang chưa ai khai khẩn, ngài đi khai hoang. Thật là tuyệt diệu, ngài đã khai khẩn 14 mảnh đất hoang, với tổng diện tích hơn 100 mẫu. Một mình ngài trồng trọt, trồng lương thực, trồng rau, trồng cây ăn trái, và thu hoạch. Ngài không mang đi bán, ngoài phần ăn của chính mình, tất nhiên vẫn còn dư rất nhiều, thì biếu cho người nghèo, nơi nào không có ăn, không có mặc, ngài đều chiếu cố. Không có gì cả, quý vị xem: đôi tay của ngài tạo ra được của cải, biết cách làm giàu. Có một năm đại khái là việc cứu trợ thiên tai của chính phủ, ngài có hơn 600 kg lương thực dư ra, tặng tất cả cho chính phủ. Chính phủ có lẽ muốn mua lương thực để cứu trợ thiên tai, ngài không cần tiền, quyên góp hoàn toàn. Bố thí tài sản, bố thí pháp, bố thí vô úy, bố thí vô úy thì quý vị xem ngài cứu chó sói, đã cảm hóa chó sói, mọi người đều biết câu chuyện này. Hoàn toàn là Tánh đức, tâm tánh trong Tánh đức là bình đẳng, tất cả chúng sanh bình đẳng, chó sói có thể nhìn ra được, quý vị không có ý niệm ác, không có ác tâm. Quý vị có đạo tâm, khi chúng gặp phải khó khăn sẽ đến cầu quý vị giúp đỡ, còn biết cảm ơn, ngày hôm sau đã tìm mật ong rừng tặng cho ngài. Những câu chuyện này đều rất cảm động mọi người.
Quý vị hỏi ngài vấn đề gì, ngài đều có thể trả lời quý vị, đó là trí huệ, đó là Giải tự tại. Bồ-tát thành tựu thắng giải, thắng là thù thắng, vi diệu thù thắng. Quý vị không hỏi quý ngài, thì quý ngài không biết, bởi vì quý ngài chưa bao giờ nghĩ tới, không khởi tâm, không động niệm, không phân biệt, không chấp trước, đó là Chân Tâm, Chân Tâm khởi tác dụng sanh trí huệ, bất kể quý vị hỏi quý ngài vấn đề gì, quý ngài đều giải đáp được cho quý vị. Tiếp theo, đây là trong Kinh Hoa Nghiêm nói, 能示現種種色身“năng thị hiện chủng chủng sắc thân” (có thể thị hiện tất cả sắc thân), quả thật, nên dùng thân nào được độ, thì quý ngài liền hiện thân ấy. 演說妙法“Diễn thuyết diệu pháp” (Diễn thuyết diệu pháp), diệu ở chỗ nào? Khế cơ khế lý, thật sự có thể giúp quý vị giải quyết vấn đề. Còn quý ngài thì sao? Quý ngài không có chấp tướng, chẳng những không có chấp tướng, mà quý ngài còn không khởi ý niệm. Nếu quý ngài khởi ý niệm, thì quý ngài không phải là Phật, mà là Bồ-tát, Bồ-tát có Khởi tâm Động niệm, không có Phân biệt Chấp trước. Nếu quý ngài là Pháp thân Bồ-tát, giống với Phật, không khởi tâm không động niệm, tùy loại hóa thân, hóa thân gì không phải là ý của chính mình, chính mình không có ý nghĩ, mà [tuỳ theo] tâm của chúng sanh. Trên Kinh Lăng Nghiêm nói: 隨眾生心,應所知量“Tùy chúng sanh tâm, ứng sở tri lượng”, chúng sanh thích thân gì, thì quý ngài tự nhiên hiện thân ấy, thân quý ngài hiện, chúng sanh nhìn thấy nhất định hoan hỷ, chính là thân mà trong tâm của chúng sanh nghĩ đến, liền hiện thân đó; thuyết pháp cho quý vị, khế cơ khế lý, không có chướng ngại.
Thứ bảy là 願自在 “Nguyện tự tại”, nguyện tự tại chính là vừa lòng hợp ý, nguyện của chúng ta không tự tại. 菩薩隨願欲,於諸剎中,應時出現,成等正覺,無障無礙也 “Bồ-tát tùy nguyện dục, ư chư sát trung, ứng thời xuất hiện, thành Đẳng Chánh Giác, vô chướng vô ngại dã” (Bồ-tát tùy theo mong muốn, ở trong các cõi nước, tùy lúc xuất hiện, thành Đẳng Chánh Giác, không có chướng ngại), điều này đưa mong muốn lên mức cao nhất, cao nhất là gì? Thành Phật, tôi thị hiện thành Phật trong cõi Phật này. Có hay không? Có, chẳng những có, mà cơ hội rất nhiều. Đức Thích Ca Mâu Ni Phật ứng hóa ở Thế giới Ta Bà, Thế giới Ta Bà là đại thế giới, trên kinh thường nói Tam thiên Đại thiên thế giới. Một đơn vị thế giới lớn như thế nào? Lần đầu tiên khi tôi đến Bắc Kinh thăm Hoàng Niệm lão, chúng tôi đã nói về vấn đề này. Chúng ta cứ cho rằng khoa học hiện nay phát triển, đơn vị thế giới mà Phật nói là bốn bộ châu lớn, địa cầu thuộc về một trong bốn bộ châu lớn là Nam Thiệm Bộ Châu. Đây là đại biểu, Nam Thiệm Bộ Châu không chỉ một địa cầu. Có phải lấy hệ mặt trời làm trung tâm không? Trên kinh nói rất rõ ràng, hệ mặt trời quay quanh núi Tu Di. Hệ mặt trời của chúng ta quay quanh gì vậy? Là đang quay quanh, quay quanh hệ Ngân Hà; Nói cách khác, phải là trung tâm của hệ Ngân Hà, điểm trung tâm, điểm đó gọi là núi Tu Di. Hiện nay nhà khoa học nói rằng: trong điểm trung tâm trong Ngân Hà là hố đen, hố đen là một loại tinh thể, có sức hút rất lớn, ngay cả ánh sáng cũng bị hố đen hút vào, đó là núi Tu Di.
Bốn phía của hệ Ngân Hà, chắc chắn không chỉ một địa cầu có người, chúng ta tin rằng có rất nhiều người. Nơi này của chúng ta là Nam Thiệm Bộ Châu, giống như một hòn đảo nhỏ, chắc phải là cách nhìn như vậy, mới nói được thông. Một hệ Ngân Hà là một đơn vị Thế giới, cõi nước của Phật là Thế giới Ta Bà, có bao nhiêu hệ Ngân Hà? Một ngàn hệ Ngân Hà đây là một tiểu Thế giới, rồi một ngàn tiểu Thế giới là một Trung thiên Thế giới, một ngàn Trung thiên Thế giới là một đại Thế giới. Tam thiên Đại thiên Thế giới có bao nhiêu hệ Ngân Hà? Một tỷ, 1000 nhân với 1000 lại nhân với 1000, bằng một tỷ hệ Ngân Hà. Đây là một cõi nước của Phật, ở trong các cõi đây là một cõi, một cõi là một tỷ. Nên quý ngài ở nơi đâu, người nơi nào mong muốn thấy Phật, thì quý ngài hiện thân Phật mà thuyết pháp. Cũng giống như đức Thích Ca Mâu Ni Phật, lúc đó đến địa cầu này để thị hiện, người Ấn Độ lúc bấy giờ, người Ấn Độ biết có Phật, có Bồ-tát, mỗi ý niệm của họ đều nghĩ Phật Bồ-tát có thể xuất hiện, giáo hoá chúng sanh, nên đức Thích Ca Mâu Ni Phật đã xuất hiện.
Đức Thích Ca Mâu Ni Phật xuất hiện thế nào? Hiện nay chúng ta đã làm rõ ràng điều này, 當處出生,隨處滅盡 “đương xứ xuất sanh, tùy xứ diệt tận” (ngay nơi đó sanh ra, tuỳ nơi mà diệt mất), bởi vì Pháp thân là có khắp mọi nơi, chẳng nơi nào không có, chẳng lúc nào không có, đó là Thường Tịch Quang. Thường Tịch Quang không sanh không diệt, không có bất kỳ thay đổi nào, không có hiện tượng của sanh diệt, ở ngay trước mặt chúng ta, nên tâm của chúng sanh nghĩ thì ngài hiện. Vậy chúng ta nghĩ Phật, vì sao Phật không hiện? Bởi tâm của chúng ta không thanh tịnh, Phật đã hiện rồi, nhưng chúng ta không nhìn thấy. Chúng ta nghĩ Bồ-tát, Bồ-tát cũng hiện rồi. Nên tâm thanh tịnh là quan trọng, chỉ cần có vài phần tâm thanh tịnh, thì nhìn thấy thôi, muốn thấy Lục đạo, hiện tượng của Lục đạo đều khiến cho quý vị nhìn thấy, toàn bộ ở trước mặt. Pháp nào có thể rời khỏi Thường Tịch Quang? Không có, không có bất kỳ pháp nào rời khỏi Thường Tịch Quang mà có thể tồn tại được, không có đạo lý này. Thường Tịch Quang chẳng nơi nào không có, chẳng lúc nào không có, Thường Tịch Quang quá lớn quá rộng rồi, không cách nào tưởng tượng, nên gọi là bất khả tư nghì. Bất khả tư, là quý vị không cách nào suy nghĩ; bất khả nghì, nghì là lời nói, quý vị nói không ra được. Thường Tịch Quang không có giới hạn, người Trung Hoa nói lớn không có bên ngoài, nhỏ không có bên trong. Làm sao quý ngài nói ra được lời này? Đó là cảnh giới của Phật, Bồ-tát là Bát địa trở lên, Bát địa trở xuống không nói ra được. Vì vậy Trung Hoa, trong lão Tổ tông, cổ Thánh tiên Hiền của chúng ta, có vị nào là Phật Bồ-tát đến thị hiện không? Chúng ta từ trên lý để nói nhất định nói được thông, là Phật Bồ-tát đến thị hiện. Người nước ta thích Thánh nhân, vậy thì nên dùng thân Thánh nhân mà được độ, liền hiện Thánh hiền mà nói pháp cho họ, những điều quý ngài nói là thông với nhau.
Tam Cương trong sách Đại Học, 大學之道,在明明德,在親民,在止於至善“đại học chi đạo, tại minh minh đức, tại thân dân, tại chỉ ư chí thiện”, đây nói điều gì? Tự Tánh. Minh minh đức, trước đây thầy Lý nói với chúng tôi, minh đức là được rồi, vì sao còn có minh minh đức? Minh minh đức, nói rõ đức này chưa sáng tỏ, mê rồi, minh đức chính là Tự Tánh. Nền giáo dục của đức Phật, giáo dục của Thánh hiền là phải khôi phục chữ minh này. Vì vậy minh đức là một danh từ, chữ minh phía trước đó là động từ. Minh đức là thể, là Bản thể của Tự Tánh. Thân dân là tác dụng, thân dân có ý nghĩa gì? Thân dân chính là từ bi, tâm yêu thương. Đức thứ nhất trong Tự Tánh chính là tâm yêu thương, nhà Phật nói đại từ đại bi, người Trung Hoa nói nhân từ, trong tất cả tôn giáo nói là yêu thương. Thần yêu thương nhân loại, Thượng đế yêu thương nhân loại, Thánh Ala yêu thương nhân loại, yêu thương đó chính là thân dân, đại từ đại bi đối với tất cả chúng sanh bình đẳng, không có phân biệt. Phía sau là “chỉ ư chí thiện”, đây là trí huệ, đại viên mãn của từ bi. Minh minh đức chính là trí huệ, minh đức là Bản thể, là Tự Tánh, minh minh đức là trí huệ, trí huệ, từ bi. “Chỉ ư chí thiện”, dùng lời ngày nay để nói chính là hòa, hòa bình, đây là chí thiện, 同體大悲,無緣大慈“đồng thể đại bi, vô duyên đại từ”, sự hài hòa của cả vũ trụ. Trong Phật pháp nói Lục hòa, Lục hòa là chí thiện, chỉ ư chí thiện, gia hòa vạn sự hưng. Phật pháp Đại thừa mang đến: sự hài hòa cho toàn thể vũ trụ, đây là lý niệm cao nhất của nền giáo dục Phật-Đà.
Đệ tử Phật giác ngộ rồi, phải hoàn thành những việc này, chỉ ư chí thiện. Với chính mình, Tam luân Thể không là chỉ ư chí thiện; đối đãi tất cả chúng sanh, giúp họ rời vô tận khổ, được vui rốt ráo là chỉ ư chí thiện, độ chúng sanh mới đạt đến viên mãn. Rời tận cùng khổ, tận cùng khổ là Lục đạo luân hồi, quý vị phải giúp họ rời khỏi Lục đạo luân hồi, thì họ rời khổ thôi; Quý vị giúp họ vãng sanh Thế giới Cực Lạc, thì họ được vui rốt ráo. Do đó, A Mi Đà Phật được tất cả chư Phật khen ngợi là光中極尊,佛中之王“quang trung cực tôn, Phật trung chi vương”, chẳng phải là không có đạo lý, nếu không có A Mi Đà Phật thì chúng ta không có cách nào. Đừng nói chúng ta cảm thấy khó khăn, mà chư Phật Như Lai cũng cảm thấy khó khăn, làm sao đây? May mà Tỳ-kheo Pháp Tạng ở trong chư Phật Như Lai thật sự giác ngộ rồi, thật phát đại nguyện này, đã viên mãn thành tựu chí ư chí thiện.
Chỉ ư chí thiện tới từ đâu? Hợp tình hợp lý, người hiện nay nói rất hợp logic, Ngài đã đến trong cõi nước của tất cả chư Phật để khảo sát. Không phải là do Sư phụ dạy Ngài, cũng không phải là tự mình suy nghĩ lung tung, trên thực tế là đi khảo sát, chọn lấy ưu điểm, bỏ nhược điểm của người khác, đã thành tựu Thế giới Cực Lạc. Chúng ta phải giới thiệu Kinh này, Pháp môn này cho người khác, những điều này được nói rất rõ ràng nói rất tường tận, tại sao chúng ta học bộ Kinh này? Vì sao ngay cả Đại Kinh Đại Luận như Hoa Nghiêm, Pháp Hoa chúng ta đều buông xả, quay đầu lại học Kinh này? Bởi Kinh này thật sự có thể làm được chỉ ư chí thiện. Các kinh luận khác, trên lý luận có thể làm được, nhưng trên sự quá khó rồi, chưa từng nghe nói có người nào hoàn thành được. Đức Thích Ca Mâu Ni Phật thành Phật cũng do niệm A Mi Đà Phật mà thành Phật, Đại sư Ngẫu Ích nói điều này trong Yếu Giải. Đây là một Pháp môn đáng tin nhất, vững chắc nhất, nên có thể thành Đẳng Chánh Giác, đều không có chướng ngại, vậy đương nhiên những điều khác càng không có chướng ngại.
Thứ tám là 神力自在 “Thần lực Tự tại”, thần lực là thần thông, 菩薩神通廣大,威力難量,於世界中,示現變化,無障無礙也 “Bồ-tát thần thông quảng đại, uy lực nan lượng, ư thế giới trung, thị hiện biến hóa, vô chướng vô ngại dã” (Thần thông của Bồ-tát rộng lớn, uy lực khó lường, trong các thế giới, thị hiện biến hóa, không có chướng ngại). Giống như Bồ-tát Văn Thù: biến hóa thành một người ăn xin: để giúp lão Hòa thượng Hư Vân, lão Hòa thượng Hư Vân năm đó 47 tuổi, phát nguyện triều bái Ngũ Đài sơn, ba bước một lạy, từ Phổ Đà lạy đến Ngũ Đài, đã mất thời gian hơn ba năm. Trong ba năm đó chịu không ít khổ, hai lần bị bệnh, đều ở nơi hoang vắng, không có dấu chân người. Lúc đó tính mạng đang nguy hiểm, gặp được một người ăn xin, người ăn xin đó đã cứu ngài, là do Bồ-tát Văn Thù thị hiện. Rất tự nhiên, rất bình thường, người ăn xin đi khắp nơi, không có chỗ ở cố định, gặp được trên đường. Người ăn xin thấy một mình ngài, người xuất gia, vất vả như thế, ba bước một lạy, bị bệnh mà không ai chăm sóc. Người ăn xin đi xin cơm cho ngài ăn, đi tìm một số cây thuốc: chữa bệnh cho ngài, hơn nửa tháng, thì thể lực hồi phục, ngài lạy được lại, người ăn xin đã rời khỏi. Qua hơn một tháng, bệnh lại tái phát, có thể là bệnh của ngài chưa trị tận gốc, lần này phiền phức rồi, không ngờ rằng lại gặp được người ăn xin đó, thật có duyên, người ăn xin điều dưỡng cho ngài, bình phục trở lại rồi.
Không biết là Bồ-tát Văn Thù, ngài hướng đến thưa hỏi cao danh quý tánh, hai lần cứu mạng, là ân nhân cứu mạng, hỏi ông ở đâu? Ông nói tôi là Văn Kiết, Văn trong văn chương, Kiết trong kiết tường, Văn Kiết, ở Ngũ Đài sơn, ông hỏi người của Ngũ Đài sơn đều biết tôi. Ngài nhớ rồi, lạy đến Ngũ Đài hỏi thăm khắp nơi, có ai biết Văn Kiết không? Không ai biết. Vào trong chùa, lạy Bồ-tát Văn Thù xong, lại hỏi đại chúng, có ai biết một người ăn xin tên là Văn Kiết không. Ngài hỏi người đó làm gì? Hai lần trên đường bị bệnh đều là do người đó cứu. Người trong chùa nói với ngài, là Bồ-tát Văn Thù, ngài mới bỗng nhiên hiểu ra. Việc này tuyệt đối không phải là lời giả, nhất định không phải lão Hòa thượng Hư Vân: nói dối để lừa gạt chúng ta, không thể nào. Việc này: được viết trong Niên Phổ Lão Hòa Thượng Hư Vân, là tôi nhìn thấy từ trong Niên Phổ, xem được đoạn chuyện xưa này, thật có, là trong Niên Phổ Lão Hòa Thượng Hư Vân.
Tôi cũng nghe đến một người, Sư mẫu của tôi tức là vợ của Tiên sinh Châu Bang Đạo. Sau khi kháng chiến thắng lợi, trường học của chúng tôi bị giải tán, tất cả học sinh đều trở về quê quán, Hiệu trưởng của chúng tôi là người Giang Tây, về tỉnh Giang Tây đảm nhiệm Trưởng phòng Giáo dục. Ngài có ngôi nhà ở Nam Kinh, tôi đã từng đến ngôi nhà đó, là ba dãy nhà cấp bốn. Bước vào cổng là một mảnh sân rất rộng, rất nhiều cây cối, nhà cấp bốn thứ hai là nơi ngài tiếp đãi khách, nhà thứ ba phía sau là nơi ngài ở. Sư mẫu nói với tôi, một hôm có vị Hòa thượng đến nhà bà để hóa duyên, hỏi ngài từ đâu tới vậy? Ngài nói từ núi Cửu Hoa tới. Ngài tới làm gì ạ? Hóa duyên. Là cần gì ạ? 2,5kg dầu mè. Trong nhà bà có, chẳng phải không có, lúc đó bà hoàn toàn không tin Phật giáo, nên không cho ngài. Không cho ngài, vị Hòa thượng ấy liền rời khỏi. Sau khi đi rồi bà cảm thấy rất ngạc nhiên, bởi vì hai mảnh sân của bà, cánh cửa đó đang đóng, không ai mở cửa, làm sao ngài vào được? Sau khi đi rồi thì không thấy nữa, cửa vẫn đang đóng, làm sao ngài ra ngoài được? Việc này làm bà phiền muộn trong vài năm. Sau khi đến Đài Loan sống ở Đài Trung, thầy Lý thường giảng kinh, hai vợ chồng bà đến nghe kinh, nghe xong vài tháng, theo thầy Lý học Phật, rất khiêm tốn, tự xưng mình là Đệ tử. Báo cáo việc đó với thầy Lý, thầy Lý nói với bà, đó là Hóa thân của Bồ-tát Địa Tạng. Lúc ấy mới hối hận, bởi không cúng dường 2,5kg dầu mè, nên mỗi ngày ở nhà lạy Bồ-tát Địa Tạng, đọc Kinh Địa Tạng, cảm ứng không thể nghĩ bàn. Học Phật thật khó được, khi vãng sanh hỏa táng có hơn 300 viên Xá Lợi, điều này cũng giúp cho rất nhiều người trong đồng học chúng tôi: không tin Phật thì đều tin theo rồi, thật sự không phải là giả.
Thần thông biến hóa, uy lực khó lường, đều là Phật độ người có duyên, lúc đó Bồ-tát Địa Tạng thị hiện cho bà, hai năm sau đến Đài Loan, gặp được thầy Lý, việc đó sáng tỏ rồi, cả đời tu hành vô cùng nghiêm túc. Hai vợ chồng thầy, học sinh chúng tôi, tất cả học sinh, không có ai ngoại lệ, cảm ân đội đức đối với vợ chồng thầy, bởi vợ chồng thầy quan tâm những học sinh lưu vong như chúng tôi, thật sự quan tâm còn chu đáo hơn cha mẹ. Con của chính thầy cô rất nhiều, nhưng đặt ở phía sau, còn học sinh đặt ở phía trước, học sinh là ưu tiên hàng đầu. Khi con của thầy cô buồn, các con buồn điều gì? Đều còn cha mẹ, còn học sinh lưu vong người ta thì không ai chăm sóc, đều chia lìa cha mẹ anh em, các con hạnh phúc biết bao. Có một số vật phẩm cứu trợ được chuyển đến trường học, sẽ chia cho học sinh trước, những thứ còn lại nhiều thì các con sẽ có phần, nếu không còn thì các con không có. Thầy rất công tâm, chúng tôi vô cùng cảm niệm, lúc đó, thầy cô thật sự giống như cha mẹ, các thầy cô quan tâm đối với chúng tôi đều rất dụng tâm, tình cảm của các đồng học còn sâu hơn anh chị em, đồng học lớn quan tâm đồng học nhỏ, thật sự đó là những người bạn đồng cam cộng khổ.
Thứ chín là, 法自在。菩薩得大辯才,於諸法中,廣演說無邊法門,無障無礙也 “Pháp tự tại. Bồ-tát đắc đại biện tài, ư chư pháp trung, quảng diễn thuyết vô biên Pháp môn, vô chướng vô ngại dã” (Pháp tự tại. Bồ-tát được đại biện tài, ở trong các pháp, rộng diễn thuyết vô biên Pháp môn, không có chướng ngại), pháp mà tất cả chư Phật trong mười phương ba đời nói: không pháp nào mà quý vị không thông suốt, vì sao vậy? Bởi tất cả pháp đều là do từ Tự Tánh lưu xuất ra, quý vị đã thấy tánh, thì quý vị không có chướng ngại nữa. Trí huệ, đức năng, tướng hảo tất cả đều là của Tự Tánh vốn sẵn đủ, không thể cầu bên ngoài. Người hiện nay đều hướng ra ngoài để cầu, hướng ngoại cầu thì tạo nghiệp, xem quý vị dùng tâm gì, nếu quý vị dùng tâm thiện, thì tạo nghiệp thiện; dùng tâm không thiện, toàn là tự tư tự lợi, là tạo nghiệp ác. Những tài nguyên này bên ngoài dường như là có, thật ra là giả, sát-na sanh diệt, trọn chẳng thể được. Phàm phu thật sự không biết chân tướng sự thật, nếu biết chân tướng sự thật, thì họ sẽ không làm việc sai trái.
[Đối với] tất cả hiện tượng vật chất, hiện nay nhà Cơ học Lượng tử chứng thực rồi, tất cả là ảo tướng do ý niệm sanh ra, sát-na sanh diệt, trọn không thể được. Tần số sanh diệt cao bao nhiêu? Di Lặc Bồ-tát nói với chúng ta, một giây 2 triệu 100 ngàn tỷ, ở ngay trước mắt, mà chúng ta mù mờ không biết gì, không có chút cảm nhận nào. Ai cảm nhận được? Bồ-tát Minh tâm Kiến tánh: có thể cảm nhận được một chút, nhưng chưa rõ ràng; Thật sự cảm nhận được, trên Kinh Đại thừa Phật thường nói: Bát địa trở lên. Bát địa khoảnh cách rất gần với Phật, ở địa vị cao như vậy, cũng chính là trong Thiền định sâu như thế, quý ngài mới có khả năng nhìn thấy. Bát địa nhìn thấy rồi, cũng giống như những gì nhà khoa học nhìn thấy trong các thiết bị, nếu họ không có thiết bị thì nhìn không ra, Bát địa Bồ-tát không cần thiết bị, quý ngài có thể nhìn thấy bằng mắt, nghe được bằng tai. Hiện tượng vật chất từ đâu tới? Từ ý niệm sanh ra, đã chứng minh, điều này thì nhà khoa học chứng minh rồi, kinh Phật nói không sai, 相由心生,境隨心轉 “tướng do tâm sanh, cảnh tùy tâm chuyển” (tướng do tâm sanh, cảnh thay đổi theo tâm), một khi tâm (ý niệm) của chúng ta thay đổi, thì cảnh giới thay đổi, đó là thật, không phải là giả.
Giữa trưa hôm nay, tôi đã gặp gỡ nói chuyện với Sư cô Thánh Vân, trong đó có một đoạn [nói về] mẹ của cô ấy bị bệnh, bệnh rất nặng, sắp phải chết rồi, lúc đó cô rời khỏi gia đình, cách nhà còn đến hơn 200 dặm đường, thì điện thoại trở về, hình như người trong nhà cô đều nghe lời cô, cô nói với người nhà, nhất định không thể đưa tới bệnh viện, để ở nơi đó, không được đụng tới bà, mọi người niệm A Mi Đà Phật đợi tôi trở về. Sau đó cô về nhà để xử lý việc đó, cô ấy phải thay mẹ cô để biểu pháp, khiến mọi người thấy được thật có Phật Bồ-tát, Phật Bồ-tát thật linh ứng, không có ai cho là chắc chắn, nhưng tâm cô vô cùng kiên định, bảo mọi người quỳ dưới đất, đổi thành niệm Quán Thế Âm Bồ-tát, cầu Bồ-tát bảo hộ mẹ cô, cứu mẹ của cô, mọi người cùng quỳ xuống niệm Quán Thế Âm Bồ-tát, sau 20 phút thì mẹ cô tỉnh lại rồi. Đó là thế nào? Là niệm lực, nguyện lực, nguyện lực vô cùng mạnh mẽ, niệm lực đã chuyển trở lại. Tất cả pháp từ tâm tưởng sanh, là thật sự, không giả một chút nào, quý vị thật tin Bồ-tát Quán Thế Âm, đó là điều mà trong Kinh Vô Lượng Thọ nói: khi gặp phải cấp nạn mà niệm Quán Thế Âm Bồ-tát, thì không có gì mà không được Bồ-tát cứu hộ. Chúng ta lưu thông tấm hình Thiên thủ Thiên nhãn: của Bồ-tát Quán Âm, chúng ta ghi đoạn kinh văn này ở phía sau, nhắc nhở mọi người khi gặp phải nạn gấp, thì buông xuống vạn duyên, nhất tâm chuyên niệm Quán Thế Âm Bồ-tát, Sư cô Thánh Vân có cảm ứng, thì mọi người đều có cảm ứng, chỉ cần tâm quý vị thành, vào lúc nạn khẩn cấp, thì buông xuống tất cả ý niệm, nhất tâm chuyên niệm Quán Thế Âm Bồ-tát, thì sẽ có cảm ứng. Nếu nhiều người thì cảm ứng càng nhanh.
Bồ-tát được vô lượng biện tài, biện tài cũng thuộc về đức năng, tất cả đều là đầy đủ trong Tự Tánh. Đã kiến tánh rồi, tánh là Bản thể của tất cả pháp, tất cả pháp do Tự Tánh sanh, nên người kiến tánh thì đối với tất cả pháp không có đạo lý nào mà không thấu suốt, không cần phải học, mà tự nhiên khai ngộ. Không ai hỏi thì không biết, vừa hỏi liền biết cả rồi, không có chướng ngại. Đây là sự thật, nhưng ngày nay chúng ta nói với người khác, thì họ không tin, làm gì có chuyện không học mà biết chứ? Thiên hạ không có hạng người ấy. Thiên hạ có, nhưng không nhiều, quý vị chưa thấy mà thôi. Trong nhà Phật, người đầu tiên biểu diễn cho chúng ta, là đức Thích Ca Mâu Ni Phật. Chúng ta xem thấy trong kinh điển, 19 tuổi Ngài từ bỏ quyền kế thừa vương vị, buông xả đời sống vinh hoa phú quý trong cung đình, Ngài đi xuất gia, Ngài đi làm vị Tăng khổ hạnh. Đó là biểu diễn, Đại thừa nói về hai chướng, thứ nhất là Phiền não chướng, Ngài buông xuống Phiền não chướng. Ngài đại diện cho số lượng tầng lớp tri thức nhiều nhất trong đại chúng xã hội, học rộng nghe nhiều, Ngài đi tham học. Ấn Độ là đất nước của tôn giáo, là vương quốc của Triết học, vào lúc đó, về trí huệ và tôn giáo, Ấn Độ là số một thế giới. Tôn giáo nào Ngài cũng học qua, học hết 12 năm, nhưng không giải quyết được vấn đề, nên đã buông xuống. Đây là buông xuống gì? Sở tri chướng. Buông xuống hai chướng, buông xuống Sở tri chướng, ngài đến dưới cây Tất-bát-la, ngồi nhập định, ở trong định, đêm nhìn sao sáng, Đại triệt Đại ngộ, khai ngộ rồi.
Sau khi khai ngộ thì Ngài dạy học, cả đời giảng kinh hơn 300 hội, thuyết pháp 49 năm, tất cả pháp được nói trong 49 năm, ngày nay kết tập trở thành kinh tạng, lưu thông một phần nhỏ ở Trung Hoa. Bởi vì lúc đó, kinh lá bối thì dày, phân lượng quá lớn, không có phương tiện giao thông, không mang nổi, truyền đến Trung Hoa không nhiều lắm. Đại sư Huyền Trang là người truyền nhiều nhất, có một đoàn ngựa giúp ngài để chở kinh sách, cũng là chọn lựa kỹ càng, đại khái đã mang đến hơn 1000 quyển, thật không dễ. Những kinh điển này, đức Phật học từ đâu? Không từ ai cả, bất kể là bộ Kinh lớn, bộ Kinh nhỏ, luận điển, giới luật, đều là do từ Ngài thuyết ra, không ai dạy Ngài, thuyết pháp tự tại. Chúng ta cần nhớ tấm gương này, vì sao vậy? Bởi trí huệ, đức năng, kể cả biện tài, đều là vốn có trong Tự Tánh. Nên dạy học của Phật pháp là khai phát Tự Tánh, tìm những điều trong Tự Tánh, dùng không bao giờ hết, bên ngoài Tự Tánh không có. Tự Tánh là gì? Tâm thanh tịnh, tâm bình đẳng. Thanh tịnh là Tiểu thừa, bình đẳng là Đại thừa, còn giác đó chính là trí huệ, Tiểu thừa khai mở trí huệ nhỏ, Đại thừa khai mở trí huệ lớn.
Mục đích của nền giáo dục đức Phật chính là khai ngộ. Cổ nhân Trung Hoa nói 讀書千遍,其義自見“độc thư thiên biến, kỳ nghĩa tự kiến” (đọc sách ngàn lần, tự hiểu nghĩa của sách), coi trọng ở tự hiểu. Có phải là thầy dạy quý vị không? Thầy không cần phải dạy quý vị. Thầy làm gì? Thầy chính là đốc thúc quý vị, đọc qua nhiều lần, đọc đến cuối cùng, sáng tỏ ý nghĩa rồi, quý vị nói cho thầy nghe, thầy gật đầu, đúng rồi, vậy thì tốt nghiệp rồi. Những điều quý vị và thầy thấy là một không phải hai, không sai, tâm càng thanh tịnh hiểu được càng thấu triệt, hiểu được càng rộng càng sâu. Thầy là tấm gương tốt cho học trò, học trò đọc sách, thầy cũng đang đọc sách, đọc sách là tu gì? Tu định. Nên không thể cầu giải ý nghĩa, một khi cầu giải ý nghĩa, thì không có định nữa; Định sanh huệ, không phải là suy nghĩ lung tung thì sanh trí huệ, điều đó không sanh trí huệ. Loại phương pháp này, nhà Phật có, Đại thừa có, lão Tổ tông nước ta có, nên Phật giáo truyền đến nước ta, lão Tổ tông vừa tiếp xúc thì rất hoan hỷ, tại sao vậy? Bởi lý niệm giống nhau. Thâm nhập một môn, huân tu lâu dài, là nhập định; còn phương pháp thì sao? Đọc sách ngàn lần, tự hiểu nghĩa trong đó. Nếu 1000 lần chưa khai ngộ, thì 2000 lần, 2000 lần chưa khai ngộ, thì 3000 lần, định rồi sẽ khai ngộ. Tiểu định Tiểu ngộ, đại định Đại ngộ, hoàn toàn khai ngộ rồi, đó là Đại triệt Đại ngộ. Đại triệt Đại ngộ, đều biết hết cả, không chỉ một bộ Kinh này, mà quý vị đều thông hết tất cả kinh, bất kỳ sách cổ nào, đã học hay chưa từng học, đã đọc hay chưa từng đọc, đều hiểu tất cả, không có chướng ngại gì. Quý vị xem đức Thích Ca Mâu Ni Phật khi còn ở đời, mỗi ngày bao nhiêu người hướng về Ngài thỉnh giáo, Ngài giải đáp cho người khác, đều là chưa bao giờ học. Chúng ta phải biết điều này, tất cả từ Tự Tánh lưu xuất ra, thật tuyệt diệu.
Ở Trung Hoa, trong lịch đại Tổ sư vị có tính tiêu biểu đầy đủ nhất, là Đại sư Huệ Năng của Thiền tông thời nhà Đường, không biết chữ, chưa từng đi học. Xuất thân là tiều phu, thanh niên tuổi trẻ có sức lực, lên núi đốn củi, đây đều là dùng sức lao động kiếm một ít tiền để sinh sống. Bán được củi, lấy tiền đó mua ít gạo, lương thực, để về nhà nuôi dưỡng mẹ già, một ngày không làm thì một ngày không có thu nhập. Bán củi, còn có bán nước, hai hạng người, hai ngành nghề này: hiện nay không còn nữa, thời kháng chiến còn. Thời kỳ kháng chiến tôi sống ở Phúc Kiến, sống ở Kiến Âu, Kiến Âu là một thành phố lớn ở phía bắc, không có nước dùng. Nước, thì có người chuyên môn gánh nước, gánh nước để bán, có người chuyên môn gánh củi, nên củi và nước mỗi ngày đều cần, ngày ngày phải đi mua. Lúc đó tôi nhớ rất rõ, nước và củi lửa của chúng tôi đều khoán cho một người, người ấy giao hàng ngày, chúng tôi cần số lượng bao nhiêu thì mỗi ngày người ấy đem đến, đại khái là một tháng trả tiền một lần. Đại sư Huệ Năng là người làm việc này.
Sau khi ngài khai ngộ, ngài làm thế nào để khai ngộ? Chúng ta chẳng thể không nói đến hiếu đạo, ngài chưa từng học Phật, không biết Phật pháp, hiếu với cha mẹ. Cha đã mất, chỉ còn một mình mẹ, ngài và mẹ sống dựa vào nhau. Đốn củi, sau khi bán hết, lấy tiền đó mua chút ít đồ, vội vàng về nhà giúp đỡ mẹ, đó là người con hiếu, thuần hiếu. Tâm địa thanh tịnh không có ô nhiễm, không có dục vọng, không có tham sân si mạn nghi, bởi vì Phiền não chướng của ngài nhẹ, vừa nghe thì hiểu ngay. Khi bán củi, ngài bán đến một nhà trọ, lúc đó có nhà trọ, không lớn lắm, một nhà trọ rộng nhất cũng chỉ vài phòng, để chiêu đãi khách. Đại khái lúc đó nhà trọ nhỏ, có thể ở 20 người là không tệ rồi, người ở nhà trọ không nhiều. Nghe được bên trong có người đọc kinh, cửa sổ lúc đó không có kính, được che bằng giấy. Che bằng giấy, khi chúng tôi ở dưới quê, sống trong túp lều tranh, cửa sổ đều bằng giấy, bằng giấy nên nghe thấy được âm thanh. Ngài ở bên ngoài nghe, ngài nghe hiểu hết, càng nghe càng có thích thú, nghe đến khi người ấy đọc xong, thì ngài gõ cửa, hướng đến người ấy thưa hỏi, ngài đọc gì vậy? Đọc rất hay! Ngài nói cho người đó nghe những gì ngài nghe được. Người ấy cảm thấy vô cùng kinh ngạc, thật có thể nghe hiểu, liền hỏi ngài, ngài nói ngài là người đốn củi, bán củi. Người đó có thiện căn. Vị Cư sĩ đó cũng rất tuyệt vời, thật sự là một người tu hành, biết nhìn người: người này thật sự có thiện căn, lập tức phát tâm giúp đỡ ngài, mong ngài đến Hoàng Mai để tiếp thu những lời dạy của Ngũ tổ, nhất định ngài sẽ có đại thành tựu. Hiểu rõ hoàn cảnh gia đình của ngài, đưa cho ngài 10 lạng bạc, mười lạng bạc thì một năm ngài cũng không kiếm nổi, không thể được, lúc đó 10 lạng bạc có thể mở một nhà trọ. Tìm một nhóm đồng tu học Phật để chăm sóc mẹ già của ngài, nói với ngài rằng, mẹ già của ngài ở nhà thì chúng tôi sẽ đến chăm sóc, ngài hãy yên tâm đi học đạo, nhất định có thể thành công. Đó là duyên chín muồi.
Ngài ở Hoàng Mai, chúng ta nhìn thấy thật thà, nghe lời, thật làm. Ngũ tổ phân công cho ngài, bởi ngài xuất thân là đốn củi bán củi, con hãy đến trong phòng giã gạo để giã gạo, chẻ củi, là làm nghề cũ. Ở được tám tháng, chúng ta nhìn thấy trong tám tháng, ngài thật thà, nghe lời, ngài không đi quan sát xung quanh. Lúc đó trong chùa có gần 1000 người, là một ngôi chùa rất lớn, ngài không đi các nơi, ngài chỉ ở phòng giã gạo. Vì vậy, bài kệ của ngài Thần Tú được dán ở nơi nào, ngài không biết ở đâu, ngài phải tìm người dẫn ngài đi xem. Đây chính là nói rõ phạm vi của ngài rất nhỏ, tâm của ngài rất định, ngài không nhìn xunh quanh. Nên tâm của ngài là định, đời sống công việc mỗi ngày của ngài: chính là tu định, đó gọi là tham thiền. Ngài không phải ở Thiền đường, người của Thiền đường chưa hẳn thật tham thiền, còn ngài thật tham thiền trong phòng giã gạo. Ai biết? Lão Hòa thượng biết, Ngũ tổ biết, ngài biết, những người khác không biết.
Nên Ngũ tổ ước đoán ngài đã gần như khai ngộ, lúc này mới tuyên bố truyền y bát, bảo mọi người làm kệ. Quý vị xem, mọi người đều coi trọng ngài Thần Tú, cho rằng ngài Thần Tú nhất định là Tổ đời thứ sáu. Ngài là trợ giáo của Ngũ tổ, khi quá nhiều người tìm Ngũ tổ, thì ngài Thần Tú sẽ tiếp đãi, tiếp đón thay cho lão Hòa thượng, giải đáp vấn đề. Do đó không ai dám làm kệ, ba ngày không có tin tức gì. Ngài Thần Tú cũng lo lắng, chính ngài Thần Tú biết: vì sao mọi người không chịu trình kệ, đều là vì ngài, ép ngài chẳng thể không làm kệ. Sau khi làm xong lại không chắc chắn, ngại ngùng, được rồi, thấy không có ai ở đó, liền dán trên tường, nếu Ngũ tổ khen ngợi, thì đứng ra thừa nhận là mình, là do mình làm; nếu Ngũ tổ nói chưa được, vậy thì quên đi, không cần nói gì nữa. Câu chuyện này trong Đàn Kinh được ghi rất rõ ràng. Bài kệ này được lan truyền, Đại sư Huệ Năng nghe thấy rồi, trong tâm rất rõ ràng, vô cùng khiêm tốn, thỉnh cầu mọi người dẫn tôi đến chỗ bài kệ đó, tôi cũng đi lễ lạy, gieo trồng thiện căn. Sau khi lạy xong, ngài nói tôi cũng có bài kệ, người nào trong các vị biết viết chữ thì viết giúp tôi. Sửa lại bài kệ ấy của ngài Thần Tú, thân là cây Bồ-đề sửa thành 菩提本無樹 “Bồ-đề bổn vô thọ” (Bồ-đề vốn không cây), tâm là đài gương sáng, sửa thành 明鏡亦非台 “minh kính diệc phi đài” (gương sáng cũng không đài), 本來無一物,何處惹塵埃 “bổn lai vô nhất vật, hà xứ nhạ trần ai” (xưa nay không một vật, bụi trần bám vào đâu), ngài Thần Tú là thường luôn siêng lau chùi, chớ để bám bụi nhơ, sửa hết rồi. Mọi người hết sức kinh ngạc về điều này, sau khi Ngũ tổ nghe xong vội vàng tìm đến, lấy giày rơm lau đi, chưa khai ngộ, chưa khai ngộ, mọi người mới bình lặng lại.
Ngay buổi chiều hôm đó Ngũ tổ đi tuần liêu, tuần liêu đây là việc của Hòa thượng Phương trượng, đại khái mỗi nửa tháng thì đi xem toàn bộ hoàn cảnh của chùa, kiểm tra xem xét thoáng qua, đó là tuần liêu. Mượn cớ tuần liêu, không để cho ai biết, đến phòng giã gạo, thấy Đại sư Huệ Năng đang giã gạo, hỏi ngài, gạo đã nhuyễn chưa? Hai ngài nói chuyện, người khác không biết ý nghĩa. Đại sư Huệ Năng nói: sớm nhuyễn rồi, sớm đã nhuyễn, mà vẫn chưa có sàng ạ, 猶欠篩在 “do khiếm sư tại” (vẫn còn thiếu sàng), vẫn chưa có sàng, sàng nữa thì viên mãn rồi, sàng ở đây chính là ấn chứng. Sớm đã khai ngộ rồi, mà chưa có ai ấn chứng cho ngài, lúc đó cầu ấn chứng. Lão Hòa thượng lấy gậy gõ lên cối giã gạo ba cái rồi đi, đây là nói với ngài, canh ba đến gặp. Bao nhiêu người nhìn thấy, hoàn toàn không hiểu, chỉ có hai ngài hiểu rõ trong tâm. Canh ba buổi tối đến phòng Phương trượng, đẩy cửa, bên trong không khóa, vừa đẩy đi vào. Đã thấy lão Hòa thượng, lão Hòa thượng vô cùng hoan hỷ, dùng ca-sa vây quanh ngài lại, sợ người khác nhìn thấy. Giảng đại ý của Kinh Kim Cang cho ngài, giảng đến應無所住,而生其心 “ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm”, thì ngài liền nói ra năm câu. Khi nói ra năm câu này, lão Hòa thượng nói được rồi, không cần nói nữa, hãy mau cầm y bát, đi nhanh lên. Chuẩn bị xong thuyền rồi, lão Hòa thượng tiễn ngài lên thuyền. Đi đâu ạ? Đi về phương Nam, con đến từ phương Nam, hãy trở về phương Nam.
Quý vị xem 15 năm, trốn trong đội thợ săn 15 năm, tại sao vậy? Bởi đố kỵ chướng ngại. Lúc đó vào thời Đường, là thời đại hoàng kim của Phật giáo Trung Hoa, cũng đã có những khó khăn lớn như vậy, huống chi hiện nay? Hiện nay nếu không thể tu Nhẫn nhục Ba-la-mật, không thể chịu đựng nỗi khổ này, thì không thành tựu được. Chính mình thành tựu, hoằng pháp lợi sanh: đều phải có tâm kiên nhẫn rất lớn, phải có thiện xảo phương tiện, phải có trí huệ. Tất cả vì chúng sanh, không một ý niệm nào cho chính mình, tâm luôn gìn giữ thanh tịnh, bình đẳng; nói cách khác, tâm thanh tịnh bình đẳng sanh trí huệ, trí huệ có thể giúp quý vị giải quyết tất cả vấn đề.
Từ nay về sau, học Phật thật sự có thể thành tựu, ngoài Pháp môn tín nguyện trì danh này ra, các Pháp môn khác đều khó, tại sao vậy? Bởi phải đoạn Phiền não, còn phải khống chế Tập khí. Lục căn trong cảnh giới lục trần, không khởi tâm không động niệm, không phân biệt không chấp trước, ai có thể làm được? Thật không dễ.
Ngay cả Sư cô Thánh Vân gặp phải nghịch cảnh, cô cũng đã muốn tự sát, là thật, không phải giả. Cô đã uống 100 viên thuốc ngủ, bệnh viện nói với cô rằng: thông thường uống 25 viên thì đều không sống được nữa, cô đã uống 100 viên lại không có nôn mữa ra, mà cô còn sống lại được, là kỳ tích. Cô tìm một Tiên sinh tính số mạng, đại khái là từ khi còn thuở nhỏ, có người đoán số mạng cho cô, có hai nạn lớn vào năm 36 tuổi, và năm 60 tuổi. Chính cô cũng biết tính số mạng, tìm một Tiên sinh đoán số mạng, trước rất nhiều người đang xem ở bên cạnh cô, xem cô là thật, hay là giả. Kết quả sau khi thấy rồi, cô nói đó là sự thật. Thật có thể tính, không phải là giả. Cô ta tìm tới ông ấy, tìm ông ấy, ông ấy thì rất nhanh, khi tính số cho người khác, cũng thời gian rất dài thì ông mới nói ra, nhưng khi tính đoán cho cô thì lập tức có đáp án rồi. Nói cô muốn chết, thật vậy, ông ấy nói trúng rồi. Ông ấy nói cô chết được không? Cô không chết đâu. Tại sao không chết đâu? Bởi cô có thần hộ pháp bảo hộ cô, có Phật Bồ-tát bảo hộ cô, cô còn có nhiệm vụ, cô là người của nhà Phật, cô có nhiệm vụ, cô phải hoằng pháp giúp chúng sanh. Nói được hoàn toàn giống với bổn nguyện của cô. Đó chính là hiểu được, phải hoàn thành nhiệm vụ, quý vị thấy cô ấy không thể đi học, ở trong trường học học một tiết thì bị đau nhức, hết tiết học thì bình thường. Về sau hiểu được, đó đều là do Phật Bồ-tát, thần hộ pháp: chiếu cố cô, không để cô bị ô nhiễm, giúp giữ gìn tâm thanh tịnh của cô. Hễ là cảnh giới không thiện, cô gặp phải đều sẽ đau đầu, xa rời thì khoẻ rồi, không có việc gì. Cho nên cô ấy không có đi học, không có duyên phận với việc đi học, nhưng Phật Bồ-tát gia trì cô ấy, cô ấy có thể thấy ra được, thấy người bị bệnh, bệnh đó là bệnh nghiệp chướng, là họ đang bị ma dựa vào thân, cô ấy có thể thấy ma đó rất rõ ràng, ma đó thì ở trên đầu họ, là một người nữ, đầu tóc chải lên rất cao, mặc bộ đồ màu trắng. Cô ấy thấy rất rõ ràng, cô ở đó khuyên họ, thuyết pháp, khiến họ tiếp nhận, thì họ ra đi rồi, ra đi, thì bệnh của người đó liền khỏi rồi. Thật sự có năng lực ấy, nói rõ cho chúng ta, làm chứng cho chúng ta, báo ứng của thiện ác, nhất định là thật, không phải là giả.
Biện tài vô ngại, nếu chính mình muốn học nhưng chưa hẳn quý vị có thể học được. Nếu quý vị thật sự phát tâm, xả mình vì người, hiện nay người thuyết pháp quá ít rồi, quý vị không sợ vất vả, không sợ gian nan, có thể nhẫn nhục, có thể chịu đựng gian khổ, thì Phật Bồ-tát sẽ gia trì quý vị. Người hoằng pháp ngày càng ít đi, cần người thế nào hoằng pháp? Cần những người ấy. Những người ấy thật sự có thể giúp những chúng sanh khổ nạn, những điều kiện mà Phật Bồ-tát an bài cho họ đều tốt, giống như lão Hòa thượng Hải Hiền, lão Hòa thượng Hải Khánh: đều là do Phật Bồ-tát an bài.
Thứ mười là, 智自在。菩薩智慧具足,於一念中,能現如來之十力無畏,成等正覺,無障無礙也 “Trí tự tại. Bồ-tát trí huệ cụ túc, ư nhất niệm trung, năng hiện Như Lai chi Thập lực Vô úy, thành Đẳng Chánh Giác, vô chướng vô ngại dã” (Trí tự tại. Bồ-tát đầy đủ trí huệ, ở trong một niệm, có thể hiện Mười lực Vô úy của Như Lai, thành Đẳng Chánh Giác, không có chướng ngại). Trí huệ tự tại, trí huệ là vốn sẵn có trong Tự Tánh, trên Kinh Hoa Nghiêm nói rất hay, chúng ta phải tin, 切眾生皆有如來智慧德相 “nhất thiết chúng sanh giai hữu Như Lai trí huệ đức tướng” (tất cả chúng sanh đều có trí huệ đức tướng của Như Lai), đức là đức năng, tướng là tướng hảo, chúng sanh không khác với Phật. Phật dùng A Mi Đà Phật làm đại biểu, A Mi Đà Phật có vô lượng trí huệ, vô lượng công đức, Thế giới Cực Lạc có vô lượng tướng hảo, tất cả đều là do Tự Tánh biến hiện, là vốn có trong Tự Tánh, không có thứ gì là từ bên ngoài. Thế thì chúng ta có được một kết luận chung, tu Phật là tu điều gì? Tu tâm. Nhưng đừng quên, không phải gì khác, mà chính là tâm chân thành, tâm thanh tịnh, tâm bình đẳng, tâm ấy sẽ sanh trí huệ, sanh từ bi, sanh vô lượng thiện xảo phương tiện. Lão Hòa thượng Hải Hiền có câu nói rất hay, chúng ta niệm Phật, lạy Phật, là vì điều gì? Phải lạy ra vị Phật trong Tự Tánh, niệm ra được, vậy thì đúng rồi. Lạy ra vị Phật trong Tự Tánh, chính là Minh tâm Kiến tánh, như vậy thành Phật rồi. Chúng ta có làm được không? Ngài biểu diễn cho chúng ta, là được.
Chúng ta lắng tâm để quan sát đĩa phim của ngài, phải là khi nào ngài được Công phu Thành phiến? Được Công phu Thành phiến thì có điều kiện vãng sanh, ngài sẽ có thể thấy Phật. Bồ-tát Đại Thế Chí nói với chúng ta, trên Kinh Lăng Nghiêm nói, 憶佛念佛,現前當來,必定見佛 “ức Phật niệm Phật, hiện tiền đương lai, tất định kiến Phật” (nhớ Phật niệm Phật, hiện tại tương lai, nhất định thấy Phật), hiện tiền là hiện tại, đương lai là vãng sanh Thế giới Cực Lạc. Chúng ta xem hiện nay, hiện tiền thấy Phật, người được Công phu Thành phiến là có cảm ứng này, Phật sẽ hiện thân cho quý vị. Hoặc trong định, hoặc trong mộng, hoặc ngay tại trước mặt, người khác không nhìn thấy, chỉ quý vị nhìn thấy, người khác nhìn không thấy. Phật đến nói với quý vị: con tu được rất khá, thọ mạng của con vẫn còn bao nhiêu năm, đợi khi thọ mạng của con hết, Ta sẽ đến tiếp dẫn con. Giống như nói đã thọ ký cho quý vị, chính quý vị rất rõ ràng, biết tên của quý vị ở Thế giới Cực Lạc, dường như đã ghi tên rồi. Đó là thế nào? Trên hoa sen có tên của quý vị. Quý vị ở nơi này phát tâm, tin thật nguyện thiết, trong ao bảy báu sẽ có một đóa hóa sen, trên hoa sen có tên của quý vị. Phật đến nói tin tức này với quý vị, đây là lần đầu tiên quý vị gặp. Thường thì lần thứ hai gặp, đều là thọ mạng của quý vị gần hết rồi, Phật đến hẹn thời gian với quý vị, có ba tháng, có một tháng, có một tuần, Ngài sẽ đến thông báo cho quý vị, còn bao nhiêu ngày nữa, để quý vị có thể chuẩn bị, đến lúc đó Ngài thật đến tiếp dẫn quý vị đi. Đó là lần thứ ba, lần thứ ba là dẫn quý vị đến Thế giới Cực Lạc. Nên thông thường người vãng sanh, đều có ba lần gặp. Chúng ta thấy Đại sư Huệ Viễn trong truyện ký, Đại sư Huệ Viễn là bốn lần, nhìn thấy bốn lần.
Về lão Hòa thượng Hải Hiền, ngài là tiếp nhận nhiệm vụ mà A Mi Đà Phật giao cho ngài, nhiệm vụ ấy là biểu pháp. Chúng ta tin rằng lần đầu tiên ngài thấy Phật: chắc là hai mươi mấy tuổi. 20 tuổi ngài xuất gia, Sư phụ dạy Pháp môn này cho ngài, một câu Nam Mô A Mi Đà Phật, cứ niệm liên tục, khi hiểu rõ rồi, cũng không nên nói, không được nói. Ngài nghe lời, cả đời tuân theo. Bản tánh như vậy, đầy đủ điều kiện như vậy, ngài đều có đủ điều kiện này, quý vị xem thật thà, nghe lời, thật làm, đó là bản tánh; chân thành, thanh tịnh, cung kính: đó là đức hạnh của ngài. Có điều kiện như vậy, tôi tin rằng ba năm thì Công phu Thành phiến, thành tựu rồi, có Công phu Thành phiến là có thể vãng sanh. Có rất nhiều người nhìn thấy A Mi Đà Phật, vẫn còn thọ mạng nhưng không cần nữa, bây giờ con sẽ đi theo Ngài, đức Phật rất từ bi, liền dẫn đi rồi. Nên tôi tin tưởng, chắc chắn trước 25 tuổi, ngài đã đạt được Công phu Thành phiến.
Sự nhất tâm Bất loạn: chắc phải trước sau 30 tuổi, Lý nhất tâm Bất loạn có lẽ khoảng 40 tuổi, Lý nhất tâm chính là Minh tâm Kiến tánh của Thiền tông, chúng tôi ước tính phải là lúc 40 tuổi, thì Đại triệt Đại ngộ rồi. Đối với tất cả pháp mà được tối thắng tự tại, Hiền công đạt được rồi. Từ sáng đến tối pháp hỷ sung mãn, vui vẻ vô cùng, cuộc sống của ngài ở đâu? Cuộc sống của ngài ở Thế giới Cực Lạc, Thế giới Cực Lạc ở ngay trước mắt. Vì sao chúng ta trải qua khổ như vậy? Là bởi chúng ta không buông xuống, buông xuống thì tự tại. Buông xuống, đối với tất cả pháp mà được tối thắng tự tại, thì làm sao mà quý vị không vui vẻ? Chẳng có gì mà quý vị không biết, trên cõi trời dưới nhân gian, cõi này phương khác, không có gì mà không biết. 40 tuổi viên mãn thành tựu rồi, phải đợi đến 112 tuổi mới ra đi, vì sao như thế? Bởi hoàn toàn là vì khổ của chúng sanh. Làm thế nào cứu họ? Tấm gương đó của ngài có thể cứu chúng sanh, không dùng lời nói, hoàn toàn bảo quý vị xem, quý vị xem ngài.
Khi chúng tôi thành lập Tịnh Tông Học Hội ở nước Mỹ, tôi đã viết một bài duyên khởi, trong duyên khởi đã đề ra năm môn công khóa, các đồng học Tịnh tông nhất định phải tuân thủ. Trong năm môn, thứ nhất đó là Tịnh Nghiệp Tam Phước, Tịnh Nghiệp Tam Phước có ba điều, là nguyên tắc chỉ đạo cao nhất cho việc học Phật của chúng ta. Điều thứ nhất, 孝養父母,奉事師長,慈心不殺,修十善業 “hiếu dưỡng phụ mẫu, phụng sư sư trưởng, từ tâm bất sát, tu Thập Thiện Nghiệp” (hiếu dưỡng cha mẹ, phụng sự sư trưởng, từ tâm không giết, tu Thập Thiện Nghiệp), điều đầu tiên là phước báo nhân thiên. Phước báo nhân thiên cũng không có, làm sao quý vị thành Phật được, làm sao vãng sanh được? Vãng sanh chính là thành Phật. Nên hai câu đầu tiên của điều này, hiếu dưỡng cha mẹ, phụng sự sư trưởng thì chúng ta thực hiện ở Đệ Tử Quy, làm được Đệ Tử Quy, thì viên mãn hai câu này rồi; từ tâm bất sát thực hiện ở Cảm Ứng Thiên, Thái Thượng Cảm Ứng Thiên; tu Thập Thiện Nghiệp thực hiện trong Kinh Thập Thiện Nghiệp Đạo. Tôi gọi đây là làm ba gốc rễ, gốc của nhà Nho là Đệ Tử Quy, gốc của nhà Đạo là Cảm Ứng Thiên, gốc của nhà Phật là Thập Thiện Nghiệp, nguyên tắc chỉ đạo cao nhất, nếu không có ba gốc này, thì tu thế nào cũng không thành công. Cắm chắc ba gốc rễ này, đi lên tiếp, 受持三皈,具足眾戒,不犯威儀 “thọ trì Tam Quy, cụ túc chúng giới, bất phạm oai nghi” (thọ trì Tam Quy, đầy đủ các giới, không phạm oai nghi), là Tiểu thừa. Chúng giới là: Ngũ giới, Thập thiện, thêm Sa Di Luật Nghi nữa, là đủ rồi. Trước đây thầy Lý dạy bảo chúng tôi, còn có bốn giới nặng, bốn điều giới trọng, chẳng thể không tuân thủ. Trong Kinh Phạm Võng có hai câu, 不作國賊,不謗國主 “bất tác quốc tặc, bất báng quốc chủ” (không làm giặc quốc gia, không hủy báng lãnh đạo đất nước), còn trong Kinh Ưu Bà Tắc Giới có hai câu, 不漏國稅,不犯國制 “bất lậu quốc thuế, bất phạm quốc chế” (không trốn thuế, không phạm pháp luật quốc gia), đầy đủ những giới này thì được rồi. Sau đó là một câu Phật hiệu, Tam học: Giới-Định-Huệ đều ở trong một câu Phật hiệu, đây là nguyên tắc chỉ đạo cao nhất.
Thứ hai là Lục Hòa Kính, gia hòa vạn sự hưng, 見和同解,戒和同修,身和同住,口和無諍,意和同悅,利和同均 “kiến hòa đồng giải, giới hòa đồng tu, thân hòa đồng trụ, khẩu hòa vô tranh, ý hòa đồng duyệt, lợi hòa đồng quân”, kiên trì tuân thủ sáu điều này, thì gia hòa vạn sự hưng. Học tam học, Tam học: Giới-Định-Huệ, một câu Phật hiệu đầy đủ viên mãn rồi, Tam học đều ở trong đó. Lục Ba-la-mật, Lục độ của Bồ-tát: Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định, Bát-nhã, đều ngay trong cuộc sống ngày thường của chúng ta, gặp được cảnh duyên hiện tiền thì làm. Điều phía sau, điều cuối cùng, mười Đại nguyện Vương của Bồ-tát Phổ Hiền, từ Lễ kính Chư Phật, Xưng tán Như Lai, Quảng tu Cúng dường, Sám hối Nghiệp chướng, tu mười Đại nguyện Vương cũng là trong một câu A Mi Đà Phật, thật tuyệt diệu. Pháp môn này vô cùng thù thắng, tất cả đều trong một câu Phật hiệu này. Lục độ, Thập nguyện: gặp được duyên thì phải làm, nếu không có duyên thì không nên đi tìm, tùy duyên chứ không phan duyên. Đặc biệt là hai nguyện đầu tiên trong Thập nguyện, Lễ kính Chư Phật, Xưng tán Như Lai, hai nguyện này quan trọng hơn tất cả. Chư Phật và Như Lai thì ý nghĩa khác nhau, chư Phật là nói từ trên Tướng, nên lễ kính phải bình đẳng, không chấp tướng; Như Lai là từ trên Tánh mà nói, trên Tánh là có thiện có ác, chúng ta xưng tán là thiện hạnh của họ, chúng ta xưng tán thiện tâm thiện hạnh, chứ không xưng tán điều bất thiện, điều này không giống nhau. Còn lễ kính, quý ngài là người xuất gia tốt, hoặc là Cư sĩ tại gia rất tốt, chúng ta xưng tán quý ngài; nếu quý ngài không như pháp, thì không xưng tán, chẳng thể không lễ kính, lễ kính nhưng không khen ngợi. Bồ-tát Phổ Hiền dạy chúng ta chiêu này.
今云最勝自在,應如《法華經》,我為法王,於法自在 “Kim vân tối thắng tự tại, ứng như Pháp Hoa Kinh, Ngã vi Pháp Vương, ư pháp tự tại” (Ở đây nói tối thắng tự tại, đúng như Kinh Pháp Hoa, Ta là Pháp Vương, tự tại với pháp), đây là tự tại rốt ráo viên mãn. 《華嚴》之十自在 “Hoa Nghiêm chi Thập tự tại” (Mười tự tại của Hoa Nghiêm), mười tự tại của Hoa Nghiêm mà chúng ta học ở đây, 故云最勝 “cố vân tối thắng” (nên nói là tối thắng), thù thắng không gì bằng. Phía sau 諦聽為說 “Đế Thính Vị Thuyết” (Lắng Nghe Kỹ [Ta] Sẽ Thuyết Cho):
【阿難諦聽。善思念之。吾當為汝分別解說。】
“A Nan đế thính, thiện tư niệm chi. Ngô đương vị nhữ phân biệt giải thuyết” (A Nan lắng nghe, khéo nghĩ nhớ đó. Ta sẽ vì ông, phân biệt giải thuyết).
Trong Chú Giải, 此下世尊許說,並敕令阿難諦聽 “thử hạ Thế Tôn hứa thuyết, tịnh sắc lệnh A Nan đế thính” (tiếp theo đức Thế Tôn hứa khả sẽ thuyết, đồng thời bảo ngài A Nan hãy lắng nghe), chính là lắng tâm nghe pháp, 善自思維所聞義理 “thiện tự tư duy sở văn nghĩa lý” (khéo tự tư duy nghĩa lý nghe được). Một câu cuối cùng, 吾當為汝分別解說 “Ngô đương vị nhữ phân biệt giải thuyết” (Ta sẽ vì ông, phân biệt giải thuyết). Phần Biệt Tự đến đây viên mãn rồi. Phía sau, Hoàng Niệm lão vô cùng từ bi, còn có khai thị, chúng ta sẽ học tập vào buổi học tiếp theo.
(Hết tập 134 )
Nguyện đem công đức này
Hướng về khắp tất cả
Đệ tử cùng chúng sanh
Đều sanh nước Cực Lạc
Sớm viên thành Phật quả
Rộng độ khắp chúng sanh
Nam Mô A Mi Đà Phật
#HoathuongTinhKhong #tinhdodaikinhkhoachu2014