Responsive Menu
Add more content here...

Tập 133 – Tịnh Độ Đại Kinh Khoa Chú 2014

Tnh Độ Đại Kinh Khoa Chú 2014

(Giảng lần thứ 4)

PHẨM THỨ BA: ĐẠI GIÁO DUYÊN KHỞI

Tập 133

Chủ giảng: Hòa Thượng Thích Tịnh Không

Ngày giảng: 14/11/2014

Địa điểm: Hiệp Hội Giáo Dục Phật Đà Hồng Kông

Dịch giả: Sư cô Thích Tâm Thường

Giảo chánh: Thích Thiện Trang.

Kính chào chư vị Pháp sư, quý vị đồng học, mời an tọa. Thỉnh mọi người cùng tôi quy y Tam Bảo:

 A-xà-lê tồn niệm, ngã Đệ tử Diệu Âm, thỉ tùng kim nhật, nãi chí mạng tồn, quy y Phật-Đà, lưỡng túc trung tôn, quy y Đạt-Ma, ly dục trung tôn, quy y Tăng-Già, chư chúng trung tôn. (3 lần)

Mời xem Đại Kinh Khoa Chú, trang 370, đếm ngược đến hàng thứ ba, khoa đề 德用圓融 “Đức Dụng Viên Dung”, diệu dụng của Tam đức, chia thành ba khoa, khoa thứ nhất: 念劫圓融 “Niệm Kiếp Viên Dung”. Mời xem kinh văn:

【能於念頃。住無量億劫。身及諸根。無有增減。】

“Năng ư niệm khoảnh, trụ vô lượng ức kiếp, thân cập chư căn, vô hữu tăng giảm” (Có thể trong khoảng một niệm, trụ vô lượng ức kiếp, thân và các căn, không có tăng giảm).

Bốn câu kinh văn này hoàn toàn đã nói về: Thật tướng các pháp, chân tướng của tất cả pháp, là nói về thời gian. Người vãng sanh đến Thế giới Cực Lạc có mối quan hệ với chúng ta, chúng ta niệm niệm cầu sanh Tịnh Độ, vì sao cầu sanh Tịnh Độ? Niệm bộ Kinh này 1000 lần thì sáng tỏ thôi, đó là nơi mà niệm niệm của chúng ta mong cầu, khắp Pháp giới hư không giới thì nơi nào tốt nhất? Chính là nơi đó. Quý vị xem người nơi đó, Báo thân của các ngài, 能於念頃,住無量億劫 “năng ư niệm khoảnh, trụ vô lượng ức kiếp” (có thể trong một niệm, trụ vô lượng ức kiếp), câu này nói điều gì? Là nói không có thời gian, niệm kiếp viên dung, một niệm chính là vô lượng kiếp, vô lượng kiếp chính là một niệm. Niệm khoảnh là thời gian rất ngắn, ngắn đến mức độ nào? Bồ-tát Di Lặc nói với chúng ta, một búng tay có 32 ức trăm ngàn niệm, một búng tay này có ý niệm nhiều như thế. Chúng ta chuyển đổi, hiện nay chúng ta dùng giây làm đơn vị, một giây có bao nhiêu ý niệm vi tế (tức là niệm khoảnh)? Một giây có thể búng bảy lần, 32 ức trăm ngàn niệm lại nhân cho 7, có thể đổi ra thành 2 triệu 100 ngàn tỷ lần, là một giây. Trong một giây có 2 triệu 100 ngàn tỷ niệm khoảnh, đây là ý niệm vi tế, tần số của loại ý niệm vi tế này quá cao rồi, chúng ta không có khái niệm. Nó ở đâu? Ở ngay trước mắt, tất cả hiện tượng vật chất, hiện tượng tinh thần đều là được sanh ra ở dưới tần số cao này.

Tần số này, danh từ trên kinh Phật gọi là Nghiệp tướng. Nghiệp chính là động, không động thì không có nghiệp nữa. Một khi tâm của chúng ta động là ý nghiệp, ý đang tạo nghiệp; miệng động là lời nói, miệng đang tạo nghiệp; thân động là thân thể đang tạo nghiệp, ba nghiệp: thân ngữ ý. Chúng ta tạo nghiệp chưa bao giờ ngừng lại, trong khoảng một niệm cũng chưa ngừng lại, niệm niệm đều đang tạo nghiệp, ba nghiệp đều có cả. Sau khi chúng ta đã mê mất Tự Tánh thì đọa lạc trong luân hồi, ở trong luân hồi bao lâu? Đã ở vô lượng kiếp, chưa từng đi ra khỏi. Sau khi đi ra, các ngài sẽ không trở lại nữa, đó là giả không phải thật, giống như nằm mộng, cảnh giới trong mộng sau khi quý vị tỉnh rồi sẽ không thể trở lại trong giấc mộng cũ nữa. Đêm qua nằm mộng, đã tỉnh lại, làm thế nào cũng không trở lại được trong mộng đêm qua, không trở lại được, có thể nằm mộng mới, mộng đó cũng là giấc mộng này nối tiếp giấc mộng kia, không ngừng được. Nên trong Kinh Kim Cang, Phật nói lời thật với chúng ta, 一切有為法如夢幻泡影 “nhất thiết Hữu vi pháp như mộng huyễn bào ảnh” (tất cả pháp Hữu vi như mộng ảo bọt bóng), Hữu vi chính là có sanh có diệt, niệm niệm không ngừng, đây chính là chân tướng Y Chánh trang nghiêm của mười Pháp giới.

Trong Chú Giải, đầu tiên đã nói rõ xuất xứ của kinh văn. 能於念頃,住無量億劫 “Năng ư niệm khoảnh, trụ vô lượng ức kiếp” (Có thể trong một niệm, trụ vô lượng ức kiếp), 身及諸根,無有增減 “thân cập chư căn, vô hữu tăng giảm” (thân và các căn, không có tăng giảm). 上四句見《唐譯》 “Thượng tứ cú kiến Đường Dịch” (Bốn câu trên thấy trong bản Đường Dịch), kinh văn ở trong Như Lai Hội của Kinh Đại Bảo Tích, 顯本地法身之德 “hiển Bổn địa Pháp thân chi đức” (hiển thị đức của Bổn địa Pháp thân). Pháp thân không có tướng, tướng của Ngài hiện trong Thật Báo Trang Nghiêm độ, trên kinh gọi là Báo thân, Pháp thân chính là Báo thân, Báo thân chính là Pháp thân. Vì vậy, Ngài hiển thị Bổn địa Pháp thân, bổn là gốc rễ, chính là Chân Như Tự Tánh, Chân Như Tự Tánh ở Thường Tịch Quang Tịnh độ của Thế giới Cực Lạc: được xưng là Pháp thân. Thân có tướng hay không? Không có, quang chính là tướng của Ngài. Quang ở đâu? Chẳng lúc nào không có, chẳng nơi nào không có. Thời gian và nơi chốn đều có sanh diệt, Thường Tịch Quang không có sanh diệt, chẳng những không có sanh diệt, mà Thường Tịch Quang còn là bản thể hiện ra vạn pháp. Thường Tịch Quang tùy theo duyên có thể hiện vạn pháp, chính là có thể hiện hư không Pháp giới, có thể hiện không có tâm (không có khởi tâm động niệm), những gì hiện ra cũng không có khởi tâm động niệm, là tự nhiên, danh từ trên kinh Phật là 法爾如是 “pháp nhĩ như thị” (pháp vốn như vậy), pháp xưa nay chính là như vậy. Vì sao Ngài hiện được? Bởi bên ngoài có cảm, cảm của Phật Bồ-tát, cảm của Thanh văn Duyên giác, cảm của chúng sanh lục đạo, chỉ cần có cảm, thì quý Ngài sẽ có ứng, cảm ứng đạo giao, không sai chút nào.

Hiện nay mỗi ngày chúng ta khởi tâm động niệm, có cảm Phật hay không? Có. Vì sao Phật không có hiện tướng cho chúng ta? Phật có hiện tướng, nhưng chúng ta nhìn không thấy. Vì sao không nhìn thấy? Bởi chúng ta có nghiệp chướng, nghiệp chướng của chúng ta cản trở sáu căn của chính chúng ta, đối với Pháp thân, Báo thân ngay cả Ứng hóa thân của Phật đều không khởi tác dụng. Không khởi tác dụng chẳng phải là không có, phải biết điều này; khởi tác dụng cũng không thể là thật có, quý vị nói có, nói không có, thì đã rơi vào phân biệt chấp trước rồi, phân biệt chấp trước chính là chướng ngại. Người thật sự có công phu, cảm ứng đạo giao với chư Phật Bồ-tát, Tam thân của chư Phật hiện ở trước mặt, rất rõ ràng, rất sáng tỏ, có khởi tâm động niệm hay không? Không có. Vì sao không có? Bởi hiểu rõ chân tướng sự thật, năng sở nhất như, năng sở không hai, Ngài ở trong cảnh giới được hiện ra có thể quan sát được toàn thể, toàn thể chính là khắp pháp giới hư không giới, Ngài không có chướng ngại. Tại sao vậy? Hai câu tiếp theo nói ra rồi.

身及諸根,無有增減 “Thân cập chư căn, vô hữu tăng giảm” (Thân và các căn, không có tăng giảm). Thân là nói chung, các căn là phân biệt mà nói. Các căn tức là chỉ sáu căn: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý, ý là Thức thứ sáu, căn của Thức thứ sáu là Thức thứ bảy, A-lại-da là tổng căn bản của sáu thức, sáu thức đều là do A-lại-da biến hiện ra. Không có tăng giảm, tu hành chứng được quả vị của Phật Bồ-tát, không tăng; dù đọa lạc trong ba đường ác, nó cũng không giảm, nói rõ điều gì? Căn tánh của sáu căn, tác dụng của sáu căn thì chúng sanh và Phật là bình đẳng, chúng sanh lục đạo và Pháp thân Như Lai là bình đẳng, đây là chân tướng sự thật. Kinh văn này quan trọng hơn tất cả! Tại sao vậy? Bởi sau khi quý vị sáng tỏ, thì quý vị có cầu tất ứng. Tôi cầu điều gì? Tôi cầu thông minh trí huệ viên mãn, đại đức đại năng viên mãn, tướng hảo viên mãn, trong tâm của chúng ta theo đuổi những điều này. Có hay không? Có. Ở đâu? Vốn tự đầy đủ trong Tự Tánh. Phật chính là dạy chúng ta, hướng ra bên ngoài cầu sẽ cầu không được, bên ngoài không có, ngoài tâm không có pháp. Cầu ở đâu? Hướng vào trong mà cầu. Nên Phật pháp gọi là nội điển, kinh điển gọi là 內典 “nội điển”, Phật học gọi là 內學 “nội học”, tất cả đều là hướng vào trong. Bồ-tát Quán Âm thành Phật rồi, dùng phương pháp gì? Phản văn văn Tự Tánh, hướng vào trong, ngài dùng nhĩ căn. Chúng ta dùng nhãn căn có được không? Được, nhãn căn cũng phải hướng vào trong để nhìn, không nên hướng ra bên ngoài nhìn, hướng vào bên trong là kiến tánh rồi, tai, mũi, lưỡi, thân, ý cũng lại như thế, tất cả phải hướng vào trong. Hướng vào trong là Tự Tánh, tìm thấy gốc rễ rồi; hướng bên ngoài là cành lá, cành lá là vạn pháp, vô lượng vô biên.

Cách phản văn này của Bồ-tát Quán Thế Âm rất đáng được chúng ta suy nghĩ sâu xa, cách phản văn như thế nào? Thật ra mà nói, thật có một số người biết dụng công, thì ở ngay trước mắt. Pháp môn này của Tịnh tông, Bồ-tát Quán Thế Âm tu, cách tu thế nào? Trong tâm nghe âm thanh niệm Phật. Miệng của chúng ta không niệm Phật, mà trong tâm niệm Phật, không phải là Kim Cang trì, Kim Cang trì thì miệng động, miệng không động, niệm thầm, niệm thầm người bên ngoài hoàn toàn không phát hiện được, tai chính mình nghe, nghe âm thanh niệm Phật trong tâm của chúng ta. Có hay không? Có, người khác không nghe thấy, chính mình nghe thấy. Quý vị không nên nghe âm thanh bên ngoài, mà chuyên nghe âm thanh niệm Phật trong tâm của chính mình, đó là phản văn. Nghe đến công phu như thế nào? Không bị âm thanh bên ngoài quấy nhiễu, bên ngoài bất kể đó là âm thanh gì, cũng không nghe thấy, chỉ nghe thấy âm thanh niệm Phật. Được không? Được. Trong kinh Phật có câu chuyện, đức Thế Tôn đã từng theo vua, bảo vua làm thực nghiệm, trong những hoạt động thật náo nhiệt ấy, hãy tìm một tử tù để làm thực nghiệm, bảo tử tù đó đội một chậu nước lên trên đầu, nói với ông ta rằng từ đầu đường này đến cuối đường, có thể không làm rơi ra một giọt nước nào thì sẽ đặc xá ông vô tội, và thả ông ra; Nếu rơi một giọt xuống, thì thi hành chém đầu ngay. Sau khi tù nhân đó nghe xong, thật sự chậu nước này từ đầu đường đến cuối đường không rơi một giọt. Vua hỏi ông ta: Những người ca hát nhảy múa đó, ông có nhìn thấy không? Không thấy; Có nghe thấy không? Không nghe thấy. Vì sao không nghe thấy? Tâm của tôi chỉ nghĩ đến nước: không thể rơi xuống một giọt. Tâm của ông ta chỉ nghĩ ở nước, còn cảnh giới bên ngoài thì nhìn mà không thấy, nghe mà không nghe. Vua tin tưởng rồi. Nên lão Hòa thượng Hải Hiền thường nói: 天下無難事,就怕心不專 “Thiên hạ vô nan sự, tựu phạ tâm bất chuyên” (Thiên hạ không có việc gì khó, chỉ sợ tâm không chuyên), tâm này phải chuyên nhất, tâm thật sự chuyên nhất được thì có thể kiến tánh, 反聞聞自性,性成無上道 “phản văn văn Tự Tánh, tánh thành Vô thượng đạo” (xoay nghe lại để nghe Tự Tánh, tánh trở thành Vô thượng đạo), chuyên chú.

Công phu của chúng ta chưa đắc lực, nguyên nhân ở đâu? Không có chuyên chú, chúng ta là dùng tâm tán loạn khi niệm Phật, tâm tán loạn khi nghe pháp, tâm không ngưng tụ trở thành một tâm được. Trong kinh văn nói đến phương pháp tu hành, chỉ có tám chữ, 發菩提心,一向專念 “phát Bồ-đề tâm, nhất hướng chuyên niệm”, là được rồi. Tịnh tông dạy chúng ta chuyên niệm A Mi Đà Phật, từ trên lý mà nói, chuyên niệm bất kỳ Pháp môn nào cũng thành tựu, đều có thể tánh thành Vô thượng đạo, vì sao niệm A Mi Đà Phật? Bởi niệm A Mi Đà Phật dù tâm không chuyên thì cũng được lợi ích, điều này thật tuyệt vời, chỉ cần có thể phục phiền não là chắc chắn vãng sanh. Lúc mạng sắp hết tâm chuyên, niệm một câu, niệm mười câu: đều có thể cảm ứng A Mi Đà Phật đến đón quý vị vãng sanh, điều này thì trong vô lượng Pháp môn không có, đây chính là nói rõ: vì sao dạy chúng ta niệm A Mi Đà Phật. Nếu niệm thứ khác, thật sự là niệm đến Nhất tâm, chuyên chú là Nhất tâm, nhất định không có tạp niệm, không có vọng tưởng, ca hát nhảy múa ở trước mắt của quý vị cũng không nhìn thấy, không nghe thấy, chuyên đến mức độ đó, vậy thì có tác dụng lớn. Không được đến trình độ đó, vẫn có thể nghe âm thanh bên ngoài, vẫn có thể nhìn sắc tướng bên ngoài, nhưng trong tâm câu Phật hiệu này không gián đoạn, đó là đới nghiệp vãng sanh. Đới nghiệp vãng sanh chỉ có một môn của Tịnh tông, tìm không thấy trong 84 ngàn Pháp môn, cũng tìm không ra trong vô lượng Pháp môn, chúng ta phải biết đạo lý này.

Tiếp theo Niệm lão trích ra, phẩm Thọ Lượng của Kinh Tối Thắng Vương, bài kệ trong Kinh đó, có một bài kệ, 若人住億劫 “nhược nhân trụ ức kiếp” (nếu người trụ ức kiếp), đây là tỷ dụ, 盡力常算數,亦復不能知,世尊之壽量 “tận lực thường tính số, diệc phục bất năng tri, Thế Tôn chi thọ lượng” (hết sức luôn tính toán, cũng lại không biết được, tuổi thọ của Thế Tôn). Thế Tôn ở đây là đức Thích Ca Mâu Ni Phật. Đức Thích Ca Mâu Ni Phật thị hiện ở thế gian này của chúng ta là Ứng thân, Ứng thân trụ thế 80 năm, còn Báo thân của Ngài, Pháp thân của Ngài là vô lượng thọ, thật vô lượng chứ không phải giả vô lượng. 今經云能於一念,住無量劫,此即《華嚴》事事無礙法界十玄門中之十世隔法異成門 “Kim Kinh vân năng ư nhất niệm, trụ vô lượng kiếp, thử tức Hoa Nghiêm Sự Sự Vô Ngại Pháp giới Thập Huyền Môn trung chi Thập Thế Cách Pháp Dị Thành môn” (Kinh này nói rằng có thể ở trong khoảng một niệm, trụ vô lượng kiếp, đây chính là môn Thập Thế Cách Pháp Dị Thành trong Mười Huyền Môn Sự Sự Vô Ngại Pháp giới của Kinh Hoa Nghiêm). Thập Thế là nói về thời gian, ba đời của quá khứ, ba đời của hiện tại, ba đời của vị lai, đây là chín đời, thêm vào một đời gốc, là mười đời. Thập Thế Cách Pháp là ảo giác sanh ra từ trong vọng tưởng phân biệt của chúng sanh. Nếu không có khởi tâm động niệm, thì đều ở trong cuộc sống thường ngày, nhất định chúng ta phải biết điều này, thế nào là công phu? Không khởi tâm không động niệm, là công phu của Phật; có Khởi tâm Động niệm, không có Phân biệt Chấp trước, là công phu của Bồ-tát; có Khởi tâm Động niệm, có Phân biệt, không có Chấp trước, là công phu của A-la-hán. Không có chấp trước chính là tâm thanh tịnh hiện tiền; không có phân biệt, thì tâm bình đẳng hiện tiền; không khởi tâm không động niệm, đó chính là Đại triệt Đại ngộ, Minh tâm Kiến tánh, trên Kinh dùng một chữ “giác”, đều ở trên đề Kinh.

Học từ đâu? Học từ không chấp trước. Nếu muốn không chấp trước, đầu tiên phải hiểu rõ chân tướng sự thật, chân tướng là gì? Đó là giả không phải thật, thế và xuất thế gian bao gồm cả Phật pháp đều không phải là thật. Những pháp này do đâu mà có? Nhân duyên sanh pháp. Trên Luận Trung Quán nói rất hay: 因緣所生法,我說即是空 “Nhân duyên sở sanh pháp, Ngã thuyết tức thị không” (Nhân duyên sanh ra pháp, Ta nói tức là Không). Chữ “Ngã” này là Phật, lời của Phật, đó là không. Tại sao vậy? Bởi duyên tụ giống như là có, duyên tan thì không có. Người thông minh không cần chờ đợi duyên tan, khi duyên tụ đã biết được là không có gì cả, nên họ có thể ở trong tất cả pháp mà không khởi tâm không động niệm. Trong Tự Tánh, trong Tự Tánh không có một pháp, là Thường Tịch Quang, nên các ngài không khởi tâm không động niệm. Trong Thật Báo độ, đây gọi là Nhất chân Pháp giới, vì sao? Bởi trong đó hiện tất cả tướng, có thể sanh vạn pháp, những vạn pháp này đều là không sanh không diệt, nên xưng là Nhất chân. So với Thập pháp giới, tướng của Thập pháp giới là có sanh có diệt, sát-na sanh diệt. Trong Thật Báo độ, niệm kiếp viên dung, nên không có hiện tượng sanh diệt, nhưng không thể rời khỏi cách nói trên Kinh Kim Cang 凡所有相皆是虛妄 “phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng” (những gì có tướng đều là hư vọng), chỉ vì trong hư vọng này không có tướng sanh diệt, không giống Thập pháp giới, tướng của Thập pháp giới có tướng hư vọng, rất dễ nhìn ra sanh diệt. Trong đó không có sanh diệt, không có sanh diệt, nó là hư vọng, không phải là chân thật, nó có ẩn hiện, khi có duyên thì hiện tướng, khi không có duyên thì không hiện tướng, ẩn hiện khác nhau, khi ẩn không thể nói nó không có, khi hiện không thể nói là thật có, đây là Thật Báo độ, vi diệu không gì bằng.

Đây là khái niệm quan trọng của Phật pháp Đại thừa, trong tất cả kinh thường hay nhắc nhở: đó là hư vọng. Hư vọng cũng không thể chấp trước, từ từ học điều gì? Không khởi tâm không động niệm, thì không tạo nghiệp nữa. Khởi tâm động niệm là tạo nghiệp, đó là nghiệp gì? Nghiệp của Vô thỉ Vô minh. Cũng không tệ, không có Phân biệt Chấp trước, đó chính là hiện Thật Báo Trang Nghiêm độ; nếu có Phân biệt, thì đó là Tứ thánh Pháp giới; có Chấp trước, chính là lục đạo luân hồi, lục đạo luân hồi là do trong chấp trước sanh ra, là phiền não nghiêm trọng nhất. Đặc biệt không biết đều là giả, Tự Tánh và những gì Tự Tánh hiện tất cả đều là giả, không có thứ gì là chân thật, quý vị có thể thọ dụng, nhưng quý vị không được chấp trước, thì đúng rồi. Chúng ta nói một lời rất rõ ràng, lời dễ hiểu, tất cả pháp này bất luận là pháp thế gian, hay Phật pháp: đều không nên để trong tâm, có thể thọ dụng, cũng giống như nằm mộng, trong mộng có thể thọ dụng, nhưng không thể để trong tâm, để trong tâm thì sai rồi, đó là tạo nghiệp rồi, nghiệp tập luân hồi, nghiệp là trở thành luân hồi, vậy thì phiền phức lớn rồi. Nên học Phật là học điều gì? Lục căn trong cảnh giới Lục trần: không khởi tâm, không động niệm, không phân biệt, không chấp trước, [là] thật tu hành, thật công phu. Rời khỏi cảnh giới, mắt không thấy, tai không nghe, có được không? Không được. Quý vị được tâm thanh tịnh, được tâm bình đẳng, nhưng vừa tiếp xúc hiện tượng lập tức loạn rồi, đó là giả không phải thật, nên phải chịu nổi thử thách. Những thứ này chính là căn tiếp xúc với trần, quý vị có phải tâm thanh tịnh không? Tâm thanh tịnh không có ô nhiễm, Chấp trước là ô nhiễm. Còn tâm bình đẳng thì sao? Tâm bình đẳng không động, không có Khởi tâm Động niệm, là bình đẳng, khởi tâm động niệm là không bình đẳng rồi. Vì vậy không khởi tâm không động niệm đây là định công, cảnh giới của Bồ-tát. Pháp thân Bồ-tát, định của quý ngài sắp đến Tự Tánh vốn định, tiếp cận rất gần rồi, vào lúc ấy, không nhất định duyên phận nào vừa chạm vào, thì quý ngài liền khai ngộ, kiến tánh rồi.

Đại sư Huệ Năng nói rõ với chúng ta: Tự Tánh là như thế nào? Câu thứ tư ngài nói: 本無動搖 “Bổn vô động dao” (Vốn không dao dộng), xưa nay không có dao động, không có lay động, đó là gì? Tự Tánh vốn định. Trở về đến Tự Tánh vốn định, định công đạt đến rốt ráo, đạt đến viên mãn. Lúc đó Tự Tánh khởi tác dụng, đó chính là chiếu suốt mười phương ba đời, soi thấy, đối với khắp Pháp giới hư không giới, lớn, là toàn vũ trụ, nhỏ đến một sợi lông một hạt bụi, quý vị hoàn toàn thông suốt sáng tỏ, hơn nữa là toàn vũ trụ, tuyệt không thể tả. Một hạt bụi một sợi lông, lông là đầu sợi lông, đầu của sợi lông, bên trong có gì? Trong đó có cả vũ trụ, thật không thể nghĩ bàn, vũ trụ không có thu nhỏ lại, vũ trụ ở trong Vi trần không có to ra, hoạt động bên ngoài nhưng bên trong có. Trên Kinh Hoa Nghiêm nói với chúng ta, Bồ-tát Phổ Hiền có thần thông: có thể vào thế giới ở trong Vi trần, thế giới đó hoàn toàn giống với thế giới bên ngoài, trong cõi nước chư Phật mà cúng Phật, nghe kinh nghe pháp. Thân thể này của chúng ta bao nhiêu Vi trần! Hiện nay nói Neutrino, Neutrino trong một tế bào thì nói không hết. Tế bào lớn hơn nguyên tử, nguyên tử thì chúng ta nhìn không thấy, còn một tế bào chúng ta nhìn thấy. Một nguyên tử so với Neutrino, bao nhiêu Neutrino tập hợp với nhau thì thể tích bằng một nguyên tử? Nhà khoa học nói với chúng ta 10 tỷ, 10 tỷ Neutrino cùng tập hợp, thì thể tích bằng với một nguyên tử. Mắt thường của chúng ta không nhìn thấy nguyên tử, Thiên nhãn của A-la-hán có thể nhìn thấy.

Không có lớn nhỏ, phải đột phá khái niệm này, không có cao thấp, không có trước sau, trước sau là thời gian, chính là không có quá khứ hiện tại vị lai, không có bốn phương bốn góc trên dưới, tất cả đều là khái niệm sanh ra từ nhận thức sai lầm của chúng sanh, khái niệm này không phải là thật, trong Bách Pháp gọi đó là pháp Bất tương Ưng hành, Bất tương ưng chính là giả, giả ngay trong giả. Phải nhìn thấu điều này, nhìn thấu là đã giác ngộ, nhìn thấu là đã quay đầu, quay đầu chính là thấy tánh, trở về Tự Tánh rồi. Trở về Tự Tánh, tôi tin rằng: các ngài đều đến Thế giới Cực Lạc, không có người nào mà không đi. Dù học tông nào, học Pháp môn nào, học tôn giáo nào, chỉ cần thấy được Tự Tánh vốn định, trở về Tự Tánh, tôi tin là: đều đến Thế giới Cực Lạc của A Mi Đà Phật. Thế giới Cực Lạc của A Mi Đà Phật lớn đến cỡ nào? Lớn vô cùng, trong Thế giới đó không có thời gian, không có mười đời xưa nay, không có bốn phương bốn góc trên dưới, toàn thể Tự Tánh khởi dụng. Người của Thế giới Cực Lạc, dù là người Hạ hạ phẩm của Đồng Cư độ, cũng làm A-duy-Việt-trí Bồ-tát, đó chính là được oai thần bản nguyện của A Mi Đà Phật gia trì, gia trì bình đẳng, gia trì từ bi đến rốt ráo viên mãn, giúp chúng ta đều trụ ở Thật Báo độ của Thế giới Tây Phương Cực Lạc, đây là thật chứ không phải giả, hiển thị ra đại đức đại năng, đại từ đại bi, đại trí đại huệ của Tự Tánh, ở Thế giới Cực Lạc thấy được viên mãn rồi.

Tiếp theo nói, 如《晉譯華嚴》曰 “như Tấn Dịch Hoa Nghiêm viết” (như bản dịch của Hoa Nghiêm thời Tấn nói), bản dịch thời Tấn là Hoa Nghiêm 60 quyển, Lục Thập Hoa Nghiêm nói: 知無量劫是一念,知一念即無量劫 “Tri vô lượng kiếp thị nhất niệm, tri nhất niệm tức vô lượng kiếp” (Biết vô lượng kiếp là một niệm, biết một niệm chính là vô lượng kiếp). 延促同時,正與今經一味 “Diên xúc đồng thời, chánh dữ kim Kinh nhất vị” (Dài và ngắn cùng lúc, thật sự cùng một ý nghĩa với Kinh này), Kinh Hoa Nghiêm cùng một tầng ý nghĩa với Kinh Vô Lượng Thọ. 足證今經無異《華嚴》 “Túc chứng kim Kinh vô dị Hoa Nghiêm” (Đủ chứng tỏ Kinh này không có khác Kinh Hoa Nghiêm), Kinh Vô Lượng Thọ thật sự chính là Hoa Nghiêm, đức Thích Ca Mâu Ni Phật chính là Tỳ Lô Giá Na. Tỳ Lô Giá Na là Pháp thân Phật, danh hiệu được dịch sang ý nghĩa của Trung Hoa là biến nhất thiết xứ. Trên thực tế ở khắp mọi lúc, ở khắp mọi nơi, không lúc nào không nơi nào mà không có, gọi là Pháp thân, đó là Bản thể của tất cả vạn sự vạn vật. Chúng ta thường dùng màn hình TV để làm ví dụ so sánh. Pháp thân, phía trên không có hình tướng gì, là một vùng ánh sáng; nó hiện tướng, hiện Y chánh trang nghiêm của mười Pháp giới, tướng được hiện ra vô lượng vô biên, không có cùng tận, tùy chúng sanh tâm, ứng sở tri lượng.

Vì vậy phải ghi nhớ, 一切法從心想生 “nhất thiết pháp tùng tâm tưởng sanh” (tất cả các pháp từ tâm tưởng sanh), câu này cực kỳ quan trọng, cả đời của chúng ta ở thế gian này gặp phải thuận cảnh hay nghịch cảnh, có khổ có vui, tất cả đều là do ý niệm của chính mình biến hiện ra. Nếu không có ý niệm, đó chính là một mảng quang minh, một mảng quang minh là thành Phật. Khi thành Phật, hằng thuận chúng sanh hiện tướng; còn chưa thành Phật, hoàn toàn là vọng tưởng tạp niệm của chính mình đang hiện tướng, chẳng có thứ gì mà không phải là tự làm tự chịu, luôn phải làm rõ ràng, làm sáng tỏ. Bản thân chúng ta không tạo tác nữa, không tạo tác thì chính mình sẽ không chịu. Chư Phật Như Lai không tạo tác, quý vị xem quý Ngài hiện tướng, đức Thích Ca Mâu Ni Phật đến trên trái đất, cũng hiện nhập thai, tọa thai, xuất thai, từ trẻ sơ sinh dần dần lớn lên, thiếu niên, thanh niên, trung niên, lão niên, đức Thích Ca Mâu Ni Phật 80 tuổi viên tịch. Tướng mà Ngài thị hiện có tạo nghiệp không? Không tạo nghiệp. Vì sao không tạo nghiệp? Bởi 80 năm đó của Ngài, từ nhập thai đến nhập diệt, Ngài không có Khởi tâm Động niệm, đó là Phật. Khởi tâm động niệm, không có Phân biệt Chấp trước, đó là Bồ-tát. Có Khởi tâm Động niệm Phân biệt, không có Chấp trước, quý ngài là A-la-hán. Nói cách khác, Khởi tâm Động niệm Phân biệt Chấp trước thảy đều có, người ấy là phàm phu trong lục đạo.

Chúng ta tu hành, hành là hành vi, khởi tâm động niệm là hành vi của ý; ngôn ngữ, là hành vi của miệng; động tác, là hành vi của thân, gọi là tam nghiệp thân khẩu ý. Trong những hành vi này đều có Khởi tâm Động niệm, đều có Phân biệt Chấp trước, nên tạo nghiệp luân hồi. Khi nào lục căn của chúng ta tiếp xúc với cảnh giới lục trần rất rõ ràng, rất sáng tỏ, có vọng tưởng, vọng tưởng chính là Khởi tâm Động niệm, có, bởi vì chúng ta không biết, vọng tưởng quá vi tế, Phật nói rằng Bát địa mới biết, trước Bát địa trở xuống không biết. Sơ trụ của Viên giáo trở lên biết, đó là nghe lời của Phật thuyết, chứ chính mình không chứng được, còn Bát địa đã chứng được. Chúng ta rèn luyện công phu trong điều này, học không phân biệt không chấp trước, không khởi tâm không động niệm học không được, thì chúng ta chỉ học không phân biệt không chấp trước. Thật sự làm được không phân biệt không chấp trước, chúng ta vãng sanh Thế giới Cực Lạc sanh Phương Tiện Hữu Dư độ, rất gần với Thật Báo độ. Tuy là Phương Tiện độ, thậm chí chúng sanh lục đạo đới nghiệp vãng sanh, người đới nghiệp vãng sanh: mức độ thấp nhất phải phục Kiến tư hoặc, ý nghĩa này là nói khởi tâm động niệm đều là A Mi Đà Phật, ngoài A Mi Đà Phật đều không để trong tâm, trong tâm không có, đó là tâm thanh tịnh hiện tiền, nhất định đạt được Thế giới Tây Phương Cực Lạc, quý vị có nắm chắc, quý vị tương ưng với A Mi Đà Phật rồi.

Người bình thường có thể làm được cảnh giới đó, đó là chế tâm một chỗ, biến tâm của chúng ta thành A Mi Đà Phật. Người có công phu cạn, thì phục xuống, quả thật không sanh khởi phiền não nữa, người có công phu sâu, phiền não bị tiêu diệt rồi, nhất định sẽ không khởi năm loại Kiến hoặc, năm loại Tư hoặc, tư là tham sân si mạn nghi, đạt được điều kiện vãng sanh Thế giới Tây Phương Cực Lạc rồi. Lời của Bồ-tát Đại Thế Chí đã được thực hiện, ngài nói 憶佛念佛,現前當來,必定見佛 “ức Phật niệm Phật, hiện tiền đương lai, tất định kiến Phật” (nhớ Phật niệm Phật, hiện tại tương lai, nhất định thấy Phật), ở trong công phu ấy, A Mi Đà Phật sẽ thị hiện cho quý vị thấy. A Mi Đà Phật sẽ nói cho quý vị biết, sẽ khích lệ quý vị, nhất định nói cho quý vị biết, con vẫn còn thọ mạng dài bao nhiêu, chờ khi thọ mạng của con hết thì Ta đến tiếp dẫn con. Tâm của quý vị định rồi, giống như nói Thế giới Cực Lạc đã ghi tên, trên đó có tên của quý vị, quý vị nhất định sanh Tịnh Độ, chỉ cần quý vị không thoái chuyển, quý vị cứ luyện liên tục công phu. Lúc đó ở Thế giới Ta Bà này, vậy thì rất có ý nghĩa, vì sao? Bởi Thế giới Cực Lạc không có duyên thoái chuyển, nghịch duyên của thế giới này rất nhiều, sẽ làm cho quý vị sanh tham sân si mạn nghi, Thế giới Cực Lạc không có duyên đó, nên Thế giới Cực Lạc tiến bộ rất chậm, nơi này tiến bộ rất nhanh, quý vị ở trong công phu này không ngừng tiến lên, chúng tôi tin 10 năm đến 20 năm thì quý vị Minh tâm Kiến tánh, Đại triệt Đại ngộ, lúc đó vãng sanh Thế giới Cực Lạc, sanh Thật Báo Trang Nghiêm độ. Gọi là tu hành một ngày ở Thế giới Ta Bà bằng với tu hành 100 năm ở Thế giới Cực Lạc, là đối với hạng người ấy mà nói, không phải là nói cho phàm phu chúng ta, đây chính là nói, ở nơi này thì tốc độ tăng nhanh, sự và lý đều phải làm rõ ràng, đều phải làm tường tận.

釋尊即是毘盧,我土應身教主 “Thích Tôn tức thị Tỳ Lô, ngã độ Ứng thân Giáo chủ” (Đức Thích Ca Thế Tôn chính là đức Tỳ Lô, Ứng thân Giáo chủ ở cõi chúng ta), cõi chúng ta là nơi của chúng ta cư trú, chính là địa cầu. 3000 năm trước đức Thích Ca Mâu Ni Phật xuất hiện trên địa cầu, đó là Ứng thân, Ngài vì chúng ta mà xây dựng nền giáo dục Phật-Đà, chúng ta xưng Ngài là Giáo chủ. 亦即是法身無量壽佛 “Diệc tức thị Pháp thân Vô Lượng Thọ Phật” (Cũng tức là Pháp thân Vô Lượng Thọ Phật), Ngài không mê, Ứng thân của Ngài chính là Pháp thân. Tại sao vậy? Bởi cả đời của Ngài, vừa mới nói, từ xuất sanh đến viên tịch, là 80 năm không có Khởi tâm, không có Động niệm. Nói cách khác, tuy hiện thân, nhưng trên thực tế Ngài trụ ở đâu? Ngài trụ Thường Tịch Quang. Pháp thân Phật, chúng ta nhìn thấy Ứng thân của Ngài, nhưng chúng ta không biết Ngài trụ trong Pháp thân, trụ trong Thường Tịch Quang. Vì vậy, đức Thích Ca cùng đức Tỳ Lô Giá Na, và đức A Mi Đà Phật không phải một cũng không phải khác. Một tức là nhiều, nhiều tức là một, đây là chân tướng của vũ trụ. Hiện nay chúng ta có thể lãnh hội được, một sợi lông trên người, một hạt Neutrino trên người, bên trong đều bao gồm cả Pháp giới viên mãn. Khắp Pháp giới hư không giới ở đâu? Trong một sợi lông, trong một Vi trần. Đức Như Lai, Pháp thân Bồ-tát chẳng nơi nào không thấy, chẳng lúc nào không thấy, làm sao chúng ta lừa gạt được người khác? Không thể được. Tạo tác tất cả nghiệp, bất kể là thiện nghiệp, hay là ác nghiệp, chính mình không để trong tâm, nhưng chư Phật Bồ-tát kể cả các vị A-la-hán ấy đều thấy rất rõ ràng, rất sáng tỏ; chẳng những thấy rất rõ ràng, mà thấy những hiện tượng của quý vị tạo nghiệp chịu quả báo, quý Ngài nhìn thấy tất cả. Nói cách khác, quý Ngài có thể nhìn thấy quá khứ, nhìn thấy hiện tại, nhìn thấy vị lai. Chúng ta nói quý Ngài có thần thông, quý Ngài có bản năng, ngày nay bởi chúng ta có nghiệp chướng, nên bản năng không thể hiện tiền, còn quý Ngài có thể hiện ra.

Tiếp theo hai câu cuối cùng, 身及諸根,無有增減,表佛身殊妙。由於住本地法身,示現之應身即具圓滿報身德 “thân cập chư căn, vô hữu tăng giảm, biểu Phật thân thù diệu. Do ư trụ Bổn địa Pháp thân, thị hiện chi Ứng thân tức cụ viên mãn Báo thân đức” (thân và các căn, không có tăng giảm, biểu thị thân Phật thù thắng vi diệu. Bởi vì trụ vào Bổn địa Pháp thân, thị hiện chính là Ứng thân thì đầy đủ viên mãn Báo thân đức). Chúng ta đã nhìn thấy việc này, vào 3000 năm trước đức Thích Ca Mâu Ni Phật thị hiện ở Ấn Độ, những gì trong kinh điển ghi chép: nhất định không phải là giả dối. Nhà Phật cấm vọng ngữ, nên từng chữ từng câu trong kinh điển đều là sự việc chân thật, đều là lời trung thực, người có thể tin theo, có thể tiếp nhận, có thể lý giải là có phước. Đức lớn của viên mãn Báo thân, đó chính là rộng độ tất cả chúng sanh, Ứng hóa thân của Phật đầy đủ tất cả. Chúng ta xem kinh văn tiếp theo:

 【所以者何。】 “Sở dĩ giả hà” (Tại sao như thế).

Vì sao vậy? Phía trước nói ra niệm kiếp viên dung, đây là đức tướng của Báo thân Như Lai, “sở dĩ giả hà”, vì sao vậy? Tiếp theo giải thích:

 【如來定慧。究暢無極。】 “Như Lai định huệ, cứu sướng vô cực” (Định huệ của Như Lai, thông suốt vô cùng).

Trong đây nói với chúng ta, một là định, một là huệ, định huệ đều là vốn đầy đủ trong Tự Tánh. Khi Đại sư Huệ Năng Minh tâm Kiến tánh nói với chúng ta, ngài đã nói năm câu, câu thứ ba 本自具足 “bổn tự cụ túc” (vốn tự đầy đủ), đây là huệ, vốn tự đầy đủ là trí huệ; câu thứ tư nói 本無動搖 “bổn vô động dao” (vốn không dao động), đó là định, Tự Tánh vốn định. Tất cả đều là có trong Tự Tánh, chỉ cần trong tâm của chúng ta không động, ý niệm không dao động, dao động là hoài nghi, chúng ta không động, không hoài nghi, thì trí huệ Bát-nhã vốn có của Tự Tánh sẽ lưu xuất ra, liền khởi tác dụng.

Chúng ta xem tiếp Chú Giải, 如來定慧,究暢無極 “Như Lai định huệ, cứu sướng vô cực” (định huệ của Như Lai, thông suốt vô cùng). 定者,禪定 “Định giả, Thiền định” (Định: là Thiền định). Thế nào là Thiền định? Thiền là được phiên dịch sang từ tiếng Phạn, tiếng Phạn gọi là Thiền-na, người Trung Hoa thích đơn giản, nên bỏ đi âm cuối, chỉ dịch thành chữ 禪 “Thiền” này, giải thích là tĩnh lự. Tĩnh là tâm thanh tịnh, thanh tịnh là định, không phải là định cứng nhắc, mà là linh hoạt. Lự thì rất khó giảng, lự là có suy nghĩ, nhưng lại không phải thật có suy nghĩ, thật có suy nghĩ là có vọng niệm rồi. Đã hàng phục khởi tâm động niệm, không khởi tâm không động niệm, đó là Thiền định, đó là Thiền định của Như Lai; không phân biệt không chấp trước là Thiền định của Bồ-tát; chỉ có không chấp trước, đó là Thiền định của A-la-hán. Đẳng cấp của Thiền định rất nhiều, phần lớn chia thành ba đẳng cấp này, điều chứng đắc của Thanh văn, điều chứng đắc của Bồ-tát, điều chứng đắc của Phật, chính là thanh tịnh bình đẳng giác trên đề Kinh.

Chúng ta ấn định công phu của chính chúng ta đến trình độ nào, từ đâu để kiểm tra chính mình? Là một câu này: 清淨平等覺 “thanh tịnh bình đẳng giác”, đây là tiêu chuẩn tuyệt đối. Quý vị nói công phu của tôi tu tốt đến đâu, mà tâm tôi không thanh tịnh, thì quý vị cũng không thành tựu thứ gì, quý vị vẫn là phàm phu. Điều đạt được của quý vị, điều tốt của quý vị, là phước báo nhân thiên; nếu nói không tốt, đã tu không ít phước báo nhân thiên, thậm chí giảng kinh thuyết pháp, nhưng trong tâm hạnh: thật sự chưa buông xuống tham sân si mạn, chưa viên mãn từ bi hỷ xả, vậy thì rất có khả năng sanh đến cõi trời, hoặc sanh vào Tu-la, La-sát. Tại sao? Nếu quý vị vẫn còn tâm đố kỵ, tâm trả thù mãnh liệt, phước báo hoằng pháp lợi sanh của quý vị rất lớn, thì làm A-tu-la vương, La-sát vương, khi hưởng hết phước rồi, quả báo trong tam đồ. Đều phải làm rõ ràng, đều phải làm sáng tỏ. Sau khi làm rõ ràng, làm sáng tỏ, khởi tâm động niệm rất tự nhiên đều là A Mi Đà Phật, tại sao vậy? Bởi chỉ có A Mi Đà Phật có thể giúp tôi: vĩnh viễn thoát khỏi lục đạo luân hồi. Cũng giống như Đại sư Ngẫu Ích nói, cho dù là vãng sanh Hạ hạ phẩm, tôi cũng vô cùng hoan hỷ, vô cùng thích thú. Vì sao? Bởi rời tận cùng khổ, được vui đến rốt ráo. Còn gì hơn được nữa!

Do đó 戒定慧 “Giới Định Huệ”, giới là tâm thanh tịnh, giới viên mãn rồi, định là tâm bình đẳng, huệ là Đại triệt Đại ngộ, Minh tâm Kiến tánh, 稱為三無漏學 “xưng vi Tam Vô Lậu Học” (gọi là Tam Vô Lậu Học). Lậu là danh từ thay cho phiền não, ba loại này có thể giúp quý vị mãi rời khỏi phiền não, đoạn phiền não chứng Bồ-đề. A-la-hán chỉ là thành tựu giới, còn định thì vẫn chưa tới nơi, tâm thanh tịnh hiện tiền, chứng quả A-la-hán. Tiểu thừa có tám thứ bậc: là Tứ hướng Tứ quả; Về Đại thừa là từ Sơ tín đến Thất tín trong Thập tín vị, công phu đoạn chứng bằng với A-la-hán, nhưng trí huệ nhạy bén hơn người Tiểu thừa.

Hội Sớ viết: 究謂究竟,暢謂通暢,簡異因位所得 “Cứu vị cứu cánh, sướng vị thông sướng, giản dị Nhân vị sở đắc” (Cứu là rốt ráo, sướng là thông suốt, đạt được các Nhân vị khác nhau), giản dị, giản là phân biệt, dị là khác nhau, chính là sự bất đồng mà hiện nay nói, đạt được các Nhân vị khác nhau. A-la-hán là Nhân vị, Bồ-tát là Nhân vị, Pháp thân Bồ-tát cũng là Nhân vị, chỉ có Diệu Giác là Quả vị. A Mi Đà Phật thành Phật rồi, nên xưng là 無極 “vô cực” (vô cùng), thông suốt vô cùng, bất luận là trí huệ, đức năng, tướng hảo: đều là rốt ráo viên mãn, thông suốt không có chướng ngại đạt đến tột cùng rồi. 故經義為 “Cố kinh nghĩa vi” (Nên nghĩa Kinh là), ý nghĩa của Kinh là cách nói như vậy, 佛之禪定智慧,究竟通暢,非一切在因位之大士所能得 “Phật chi Thiền định trí huệ, cứu cánh thông sướng, phi nhất thiết tại Nhân vị chi Đại sĩ sở năng đắc” (Thiền định trí huệ của Phật, rốt ráo thông suốt, không phải là điều mà tất cả Đại sĩ trong Nhân vị có thể đạt được), bao gồm cả Đẳng giác Bồ-tát, Nhân vị của Đẳng giác Bồ-tát là đỉnh cao nhất, đi lên nữa là thành Phật rồi, gọi là Diệu Giác Như Lai.

Tiếp theo, khoa tiếp theo, 於法自在(解脫德) “Ư Pháp Tự Tại (Giải Thoát Đức)” (Tự Tại Với Pháp (Giải Thoát Đức)). Phía trước nói Bát-nhã đức, còn đây là Giải thoát đức.

【於一切法。而得最勝自在故。】 “Ư nhất thiết pháp, nhi đắc tối thắng tự tại cố” (nên đối với tất cả pháp, thì được tối thắng tự tại).

Lúc đó mới có thể dạy người. Thế thì chúng ta sáng tỏ rồi, cổ Đại đức giảng kinh dạy học: nhất định là có tu có chứng, chứng địa vị không cao cũng không sao, quý ngài có chứng, hoặc là Thập tín vị, hoặc là Thập trụ vị, Thập trụ của Biệt giáo, hoặc là Thập hạnh vị, Thập hồi hướng vị, có thể thuyết pháp cho tất cả chúng sanh. Ở đây là khen ngợi A Mi Đà Phật, mọi người đều biết A Mi Đà Phật, chư Phật khen ngợi đối với Ngài là 光中極尊,佛中之王 “quang trung cực tôn, Phật trung chi vương” (quang minh tôn quý nhất, là vua trong chư Phật), nên Ngài đối với các pháp thì được tối thắng tự tại. Chúng ta đến Thế giới Cực Lạc, ở trong hội lớn của A Mi Đà Phật, cũng đạt được cấp bậc này, mới rời khỏi Thế giới Cực Lạc, nếu chưa đạt được cấp bậc này, thì sẽ không rời khỏi Thế giới Cực Lạc, đây chính là chứng được Phật quả rốt ráo viên mãn, nhất định là ở Thế giới Cực Lạc. 最勝二字,自《唐譯》 “Tối thắng nhị tự, tự Đường Dịch” (Hai chữ “tối thắng”, trích từ bản Đường Dịch). Đây là Niệm lão từ bi, đều nói ra cho chúng ta câu chữ quan trọng, trích ra trong bản dịch gốc là của trong bộ Kinh nào, nói rõ từng chữ từng câu đều là có lai lịch, không phải chính mình tùy tiện dùng một chữ, không thể được.

心離煩惱之繫縛,通達無礙,謂之自在 “Tâm ly phiền não chi hệ phược, thông đạt vô ngại, vị chi tự tại” (Tâm rời khỏi sự trói buộc của phiền não, thông đạt vô ngại, gọi đó là tự tại). Đối với chân tướng của tất cả pháp: hoàn toàn thông suốt hiểu rõ, được đại tự tại, như vậy mới có khả năng giáo hóa hết thảy chúng sanh. Cũng có Bồ-tát, bởi vì quý ngài ở Thế giới Cực Lạc, ở Thế giới Cực Lạc có lợi ích gì? Vãng sanh đến Thế giới Cực Lạc, nhìn thấy A Mi Đà Phật, thì A Mi Đà Phật dùng oai thần tự tại, trí huệ tối thắng của 48 nguyện gia trì quý vị, quý vị cũng là trong một niệm tiếp nhận sự gia trì của đức Mi Đà, trí huệ thần thông đạo lực của quý vị cũng gần giống với A Mi Đà Phật, có lợi ích thù thắng như vậy. Nếu tâm đại bi, tâm từ bi của quý vị khẩn thiết, tôi có khả năng này rồi, nhìn thấy chúng sanh trong Thập pháp giới lục đạo luân hồi khổ, thì quý vị không đành lòng, liền đi xuống ngay. Sau khi đi xuống, nên hiện thân gì độ được liền hiện thân ấy, hoàn toàn cảm ứng đạo giao với chúng sanh, chúng sanh có cảm, quý vị liền có ứng. Quý vị có Khởi tâm Động niệm không? Không có, nếu quý vị khởi tâm động niệm, thì thoái chuyển rồi. Oai thần bản nguyện của A Mi Đà Phật có sức mạnh to lớn như vậy, tất cả người vãng sanh Thế giới Cực Lạc: đều được Phật gia trì, nên là tối thắng tự tại.

Tiếp theo, 又不謀而運 “hựu bất mưu chi vận” (lại nữa, không nghĩ ngợi mà vận hành), vì sao vậy? Bởi không suy nghĩ, chữ “vận” là vận hành thao tác, ngày nay nói là vận tác. 一切無礙,謂之自在。如《華嚴經》中之十自在 “Nhất thiết vô ngại, vị chi tự tại. Như Hoa Nghiêm Kinh trung chi Thập tự tại” (Tất cả vô ngại, gọi đó là tự tại. Như Thập tự tại trong Kinh Hoa Nghiêm). Chỗ này nêu ra tất cả rồi, đây là thị hiện trong Lục đạo Thập pháp giới: được mười loại tự tại. Thứ nhất là 命自在,菩薩得長壽慧命,經無量阿僧祇劫住持世間,無有障礙也 “Mạng tự tại, Bồ-tát đắc trường thọ huệ mạng, kinh vô lượng a-tăng-kỳ kiếp trụ trì thế gian, vô hữu chướng ngại dã” (Mạng tự tại, Bồ-tát được huệ mạng trường thọ, trải qua vô lượng a-tăng-kỳ kiếp trụ trì thế gian, không có chướng ngại). Người chứng quả có thể làm được, người vãng sanh Thế giới Cực Lạc có thể làm được. Sanh đến Thế giới Cực Lạc, chưa chứng quả bằng với chứng quả, đây là sự gia trì của đức Mi Đà, bằng với chứng quả. Giáo hoá chúng sanh trong mười phương thế giới, có duyên đều được độ hết, thì Phật Bồ-tát không trụ thế nữa, quý Ngài liền nhập Niết-Bàn thôi; Còn có một người hữu duyên vẫn chưa độ thoát, thì quý Ngài vẫn trụ ở thế gian này, phải giúp đỡ người ấy giác ngộ, nên thọ mạng của quý Ngài dài ngắn tự tại. Duyên của mỗi người với chúng sanh khác nhau, vì thế kết duyên với tất cả chúng sanh: đây cũng là điều cần thiết của người học Phật. Quý vị không kết duyên với họ, tương lai họ chịu khổ chịu nạn, quý vị không thể độ họ, Phật không độ người không có duyên, nhất định có duyên với Phật. Phải thường có tâm kết duyên, phải thường làm những việc kết duyên này, nếu không có quà để kết duyên, thì tôi tươi cười chào hỏi mọi người, đây chính là kết duyên, giống như gương mặt tươi cười của Bồ-tát Di Lặc, khiến tất cả chúng sanh nhìn thấy sanh tâm hoan hỷ, đây chính là kết pháp duyên.

Thứ hai là, 心自在,菩薩智慧方便,調伏自心,能入無量之大三昧,遊戲神通,而無障礙 “Tâm tự tại, Bồ-tát trí huệ phương tiện, điều phục tự tâm, năng nhập vô lượng chi đại Tam-muội, du hý thần thông, nhi vô chướng ngại” (Tâm tự tại, trí huệ phương tiện của Bồ-tát, điều phục tâm mình, có thể nhập vào vô lượng đại Tam-muội, du hý thần thông, mà không có chướng ngại). Bồ-tát có trí huệ, vì sao vậy? Bởi trí huệ soi chiếu tất cả pháp Không. 凡所有相皆是虛妄 “Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng” (Những gì có tướng đều là hư vọng), là do trí huệ chiếu kiến, 一切有為法如夢幻泡影 “nhất thiết Hữu vi pháp như mộng huyễn bào ảnh” (tất cả pháp Hữu vi như mộng ảo bọt bóng), là trí huệ soi thấy. Bởi vì quý vị biết chân tướng của tất cả pháp, nên quý vị tự nhiên có thể điều phục được tâm mình. Điều là điều chỉnh, phục là phục dừng, thuận cảnh không khởi tham luyến, nghịch cảnh không sanh phiền não, hoản cảnh thuận hay nghịch đều tự tại. Người và việc, thiện hay ác cũng tự tại, đối với người thiện, đối với người ác luôn luôn là tâm bình đẳng như nhau, tâm từ bi đối đãi tất cả chúng sanh, giúp đỡ tất cả chúng sanh, giáo hóa tất cả chúng sanh. Có thể nhập vào vô lượng đại Tam-muội, Tam-muội tức là Thiền định, đại Tam-muội chính là đại định. Đại định ở đâu? Ở ngay trong cuộc sống thường ngày, mắt thấy sắc được đại Thiền định, không bị sắc tướng bên ngoài làm dao động, nhìn thấy tướng rất rõ ràng, rất thấu suốt là trí huệ, trong tâm như như bất động. Đó chính là đại Tam-muội, vận dụng định huệ ngang bằng, cùng lúc khởi tác dụng, trong định có huệ, trong huệ có định. Du hý thần thông, có thể giúp tất cả chúng sanh sanh tâm hoan hỷ, không có chướng ngại. Phàm phu không được, thuận cảnh khởi tâm tham luyến, nghịch cảnh khởi tâm sân giận, như vậy là tạo nghiệp rồi. Phật Bồ-tát không tạo nghiệp, ngay cả A-la-hán cũng không tạo nghiệp. Đó chính là thực hành Tam học: Giới Định Huệ ngay trong đời sống thường ngày, Giới Định Huệ đại biểu tất cả pháp, tất cả pháp của chư Phật không ra ngoài Tam học: Giới Định Huệ, ở nơi nào cũng làm tấm gương tốt cho chúng sanh, ở nơi nào cũng giúp chúng sanh tỉnh ngộ.

Phật pháp là linh hoạt, không phải cứng nhắc, khi học Phật pháp thì pháp hỷ sung mãn. Tiên sinh Phương Đông Mỹ đã nói: “Học Phật là sự hưởng thụ cao nhất của đời người”. Quý vị hưởng thụ điều gì? Giác ngộ rồi thì có được hưởng thụ cao nhất, họ không động tâm, không khởi tâm không động niệm, trải qua việc sẽ rèn luyện tâm. Không trải qua rèn luyện trong cuộc sống thực tế, quý vị làm sao biết quý vị có Giới Định Huệ? Chỉ có lục căn tiếp xúc với cảnh giới lục trần, thì quý vị mới phát hiện quý vị có giới hay không, có định hay không, có huệ hay không. Mục đích trì giới là được định, mục đích được định là khai trí huệ, khi trí huệ khai mở rồi, thì độ chính mình, độ chúng sanh, tự tha lưỡng lợi. Du hý thần thông, mà không có chướng ngại, đây được đại tự tại, Bồ-tát Di Lặc chính là làm đại biểu này cho chúng ta. Bồ-tát thật từ bi, vào thời nhà Tống thị hiện làm Hòa thượng Bố Đại. Ngày nay chúng ta tạo tượng, tạo Bồ-tát Di Lặc đều là dùng tượng của Hòa thượng Bố Đại. Nhìn thấy bất kỳ ai cũng nét mặt tươi cười, từ bi vô tận, nên trong nhà Phật xưng ngài là Hoan Hỷ Phật, tâm địa thanh tịnh, không nhiễm một trần.

Thứ ba là, 資具自在 “Tư cụ tự tại”. Tư cụ là gì? Vật dụng trong cuộc sống, chính là những thứ cần trong đời sống hàng ngày của chúng ta như: quần áo, đồ ăn uống, thuốc men, nhà ở, phương tiện giao thông, đều là những thứ chúng ta nhất định phải có trong cuộc sống, đây là tư cụ, được tự tại. 菩薩能以無量珍寶,種種資具,嚴飾一切世界,清淨無礙 “Bồ-tát năng dĩ vô lượng trân bảo, chủng chủng tư cụ, nghiêm sức nhất thiết thế giới, thanh tịnh vô ngại” (Bồ-tát có thể dùng vô lượng châu báu, các thứ vật dụng, để trang nghiêm tất cả thế giới, thanh tịnh vô ngại). Vì sao vậy? Bởi tâm thanh tịnh, khi tâm thanh tịnh thì chẳng có pháp nào mà không thanh tịnh. Bồ-tát dùng vô lượng châu báu, châu báu từ đâu mà có? Từ trí huệ mà có, từ tu phước mà đến, phước huệ song tu, có phước mới có thể trang nghiêm thế giới, các thứ vật dụng trang nghiêm làm đẹp tất cả thế giới, hiện ra tướng của thế giới thanh tịnh. Điều này thật sự phải dựa vào nền giáo dục trí huệ chân thật mới có thể làm được. Thế giới ấy thanh tịnh không nhiễm, tâm địa mỗi người thanh tịnh, thế gian có, đến Tứ thánh Pháp giới là làm được rồi, Tứ thánh Pháp giới trong Thập pháp giới là thanh tịnh vô ngại.

Thứ tư là, 業自在 “Nghiệp tự tại”. Nghiệp là tạo tác, tất cả tạo tác lợi người lợi mình, không để trong tâm thì tự tại rồi. Nếu những gì đã tạo mà để trong tâm, thì không tự tại, là trở thành nghiệp rồi. Nghiệp này không tự tại thì thế nào? Cảm quả báo, thiện nghiệp cảm ba đường thiện, ác nghiệp cảm ba đường ác, không ra khỏi lục đạo luân hồi. Tự tại là thế nào? Tuy tạo các nghiệp, thứ gì cũng tạo, nhưng không để gì trong tâm, nên tâm địa thanh tịnh không nhiễm, quý ngài liền được tự tại. Việc tốt việc xấu đều không nên để trong tâm, nhất định phải ghi nhớ, việc tốt để trong tâm là ba đường thiện, việc xấu để trong tâm là ba đường ác, quý vị không ra khỏi lục đạo luân hồi, quý vị không thể vãng sanh Thế giới Cực Lạc. Việc tốt việc xấu, dứt tất cả ác, tu tất cả thiện, lìa tất cả tướng, tức tất cả pháp. Lìa thì không chấp trước, không để trong tâm, tức tất cả pháp đó chính là nghiệp tự tại. Nên 菩薩能隨諸業 “Bồ-tát năng tùy chư nghiệp” (Bồ-tát có thể tùy theo các nghiệp), quý ngài hằng thuận chúng sanh, thuận cảnh hay nghịch cảnh, thiện duyên hay ác duyên chẳng gì không tự tại, có thể tùy thuận tất cả. 應時示現,受諸果報,無障無礙 “Ưng thời thị hiện, thọ chư quả báo, vô chướng vô ngại” (Lúc nào nên thị hiện, chịu các quả bảo, không có chướng ngại). Phàm phu chúng ta nhìn thấy Bồ-tát cũng đang tạo nghiệp, đoạn ác tu thiện, tiếp nhận sự cung kính cúng dường khen ngợi của trời người. Bồ-tát, Thanh văn đều đang hưởng thụ những điều này, làm thế nào? Không để trong tâm, đều trở thành biểu pháp. Sự cung kính cúng dường của nhân thiên cho người xem, cho người khác thấy, làm tấm gương tốt, dạy chúng sanh hiếu thuận cha mẹ, tôn sư trọng đạo, dạy chúng sanh buông xuống vạn duyên, một lòng hướng đạo. Thị hiện cho người đời thấy: không làm giặc quốc gia, không phạm pháp luật nhà nước, không nói xấu lãnh đạo đất nước, không trốn thuế, đó là gì? Đó là yêu quốc gia, yêu xã hội, làm tấm gương tốt cho đại chúng xã hội, cho nhân dân. Khi được đại chúng khen ngợi, nhưng không có loại ý niệm vui mừng đắc ý đó, dường như không có việc gì; bị oan ức, bị hủy báng, hoặc bị tổn thương, nhất định không phục thù, không oán hận, cũng là như không có việc gì, thành tựu Nhẫn nhục Ba-la-mật của chính mình. Tất cả việc thiện không để trong tâm, thành tựu Trí huệ Ba-la-mật (Bát-nhã Ba-la-mật) của chính mình, Bát-nhã không chấp tướng, nếu chấp tướng, thì Bát-nhã không còn nữa.

Thứ năm là, 受生自在,菩薩隨其心念,能於諸世界中示現受生,無障無礙也 “Thọ sanh tự tại, Bồ-tát tùy kỳ tâm niệm, năng ư chư thế giới trung thị hiện thọ sanh, vô chướng vô ngại dã” (Thọ sanh tự tại, Bồ-tát tùy theo tâm niệm, có thể ở trong các thế giới thị hiện thọ sanh, không có chướng ngại). Đây chính là sanh tử tự tại. Quý ngài có Khởi tâm Động niệm hay không? Không có. Chúng sanh có cảm, chúng sanh có cầu Bồ-tát trụ thế, thì Bồ-tát trụ thế; chúng sanh không bằng lòng học tập pháp này, thì Bồ-tát ra đi, không thấy nữa. Thật sự gọi là 佛氏門中,不捨一人 “Phật thị môn trung, bất xả nhất nhân” (trong hàng Đệ tử Phật, không bỏ một ai), đôi khi có Bồ-tát thị hiện, nơi này chúng sanh rất khổ, không có Phật pháp, Bồ-tát thị hiện học Phật, thật tâm muốn cầu, thì Phật đến thị hiện, Phật vì một mình họ, một mình họ là đương cơ, những người khác thì sao? Những người khác cũng là tùy hỷ, tất cả đều được lợi ích. Giống như đức Thích Ca Mâu Ni Phật xuất hiện ở đời, nên dùng thân Phật được độ liền hiện thân Phật vì chúng sanh mà thuyết pháp, 1255 Đệ tử bên cạnh đức Phật Thích Ca, trong những Đệ tử đó rất nhiều vị là cổ Phật tái lai, rất nhiều vị là Đẳng giác Bồ-tát, quý Ngài tới làm gì? Đến cổ vũ, đến trang nghiêm đạo tràng, giúp pháp hội này làm được viên mãn, giúp chúng sanh nhìn thấy sanh tâm hoan hỷ. Đây là gì? Ảnh hưởng chúng, một Phật ra đời, ngàn Phật ủng hộ. Điều này nói rõ gia hòa vạn sự hưng, Phật có chướng ngại, đố kỵ hay không? Không có. Loài chúng sanh này, một số chúng sanh có duyên với đức Phật Thích Ca, Ngài thị hiện thân Phật để độ họ, chúng ta đến cổ vũ, đóng vai phụ, để trang nghiêm đạo tràng, đều đến cả rồi, gia hòa vạn sự hưng.

Giáo hoá chúng sanh không thể quá nhiều, quá nhiều thì làm họ trở nên hồ đồ rồi, chỉ có thể theo một vị thầy, chỉ có thể học tập một Pháp môn. Pháp môn vô lượng thệ nguyện học là khi nào? Sau khi khai ngộ. Trước khi chưa khai ngộ phải cầu định, sau khi khai ngộ thì cầu huệ, nhất định là Tam học: Giới Định Huệ. Đầu tiên trì giới, trì giới chính là giữ quy củ, không giữ quy củ thì sao thành tựu được? Trong quy củ điều quan trọng nhất, tôi luôn nói: một là hiếu, hai là kính, đây là gốc, đây là gốc của giới luật. Nếu không có hiếu kính, thì học gì cũng không thành. Đại sư Ấn Quang thường nói, 一分誠敬得一分利益,十分誠敬得十分利益 “nhất phần thành kính đắc nhất phần lợi ích, thập phần thành kính đắc thập phần lợi ích” (một phần thành kính được một phần lợi ích, mười phần thành kính được mười phần lợi ích). Quý vị có thể học được bao nhiêu, hoàn toàn ở tâm thành kính của quý vị, chẳng thể không biết điều này. Thành kính biểu hiện trong việc đối người tiếp vật là Nhân, trong Ngũ thường của Trung Hoa nói Nhân Nghĩa Lễ Trí Tín, là Nhân. Chính nhân Quân tử, thương người, dùng tâm hiếu kính cha mẹ, kính trọng thầy để đối với tất cả chúng sanh. Trong Ngũ giới của Phật pháp, không sát sanh, thì làm sao họ có thể tổn hại người được? Điều đó không thể nào. Thứ hai là Nghĩa, Nghĩa chính là khởi tâm động niệm, lời nói việc làm: đều có thể tuân theo lý. Lý chính là giới luật, rất tự nhiên sẽ không vi phạm giới luật, làm được tốt như vậy, làm cho người khác xem, là thân giáo, giới luật là thân giáo không phải ngôn giáo, phải làm ra được. Lễ đối chiếu với Ngũ giới là không tà dâm. Trí đối chiếu với Ngũ giới là không uống rượu, trí này là Quyền trí, ngày nay chúng ta nói là lý trí, mặt trái là xử lý theo tình cảm, không phải là xử lý theo tình cảm, mà hoàn toàn dùng lý trí. Sau là Tín, Tín là không vọng ngữ. Nhân Nghĩa Lễ Trí Tín, đó là Ngũ giới. Chúng ta kết hợp Ngũ giới Thập thiện với Ngũ luân Ngũ thường để xem thì hiểu rõ rồi, chúng ta nên phải làm người như thế nào, làm sao để làm một người đạt tiêu chuẩn. Người đạt tiêu chuẩn là gì? Đời sau không mất thân người; làm tốt, thì sanh cõi trời. Nên Ngũ luân, Ngũ thường, Tứ duy, Bát đức của Trung Hoa có thể giữ được thân người, có thể sanh trời Dục giới, sáu tầng trời Dục giới, quả báo ở nơi đó, điều này tốt. Đây là thị hiện thọ sanh không có chướng ngại. Thời gian hôm nay hết rồi, chúng ta học tập đến đây thôi.

                                           (Hết tập 133)

Nguyện đem công đức này

Hướng về khắp tất cả

Đệ tử cùng chúng sanh

Đều sanh nước Cực Lạc

Sớm viên thành Phật quả

Rộng độ khắp chúng sanh

Nam Mô A Mi Đà Phật.