VẤN ĐÁP HỌC PHẬT
Tập 6
(Tập 108 Tịnh
Tông)
Chủ giảng: Pháp sư Tịnh Không
Thời gian: 16/01/2009
Địa điểm: Hiệp hội giáo dục Phật-đà Hồng Kông
Quý vị pháp sư, quý vị
đồng tu, mời ngồi! Hôm nay có 40 câu hỏi, trước tiên là câu hỏi của đồng tu ở
Hawaii.
Hỏi: anh ấy hỏi, đệ
tử tham gia ban trợ niệm của địa phương, xin lão pháp sư khai thị, đệ tử có hai
vấn đề muốn hỏi, thứ nhất là trợ niệm cho người vừa trút hơi thở cuối cùng, một
đồng tu khai thị cho người mất, mời người mất thoát ra ngoài từ giữa lông mày, đồng
thời mời một người nam từ xa dùng tay vuốt từ lòng bàn chân lên đến mặt của
người mất, xin hỏi làm vậy có như pháp không?
Đáp: cách làm này có thể là tập tục của các dân tộc
khác nhau, trong Phật pháp không có cách nói này. Phật pháp tiễn người mất, thời
cận đại các vị đại đức đề xướng, đều dựa vào “Sức Chung Tân Lương” làm chuẩn
mực. Quyển sách này do người cuối thời Thanh đầu thời Dân Quốc viết, viết bằng
văn ngôn văn, cho nên người hiện nay đọc khá khó hiểu, nhưng mà đầu thời Dân
Quốc các đại đức phát tâm chuyển thành văn bạch thoại, gọi là “Sức Chung Tu
Tri”, vậy thì dễ dàng hơn nhiều rồi, chúng ta đọc cũng dễ dàng hơn nhiều, hoàn
toàn dùng phương pháp của Tịnh tông. Tôi cảm thấy làm theo chuẩn mực của quyển
sách này khá thỏa đáng, quyển sách này đã được đại sư Ấn Quang, tổ thứ 13 của
Tịnh tông thời cận đại giám định, những năm này chúng tôi tiễn người vãng sanh
đều dựa theo quyển sách này.
Hỏi: vấn đề thứ hai, sau khi người mất trút hơi thở
cuối cùng, đọc tụng Tam Thời Hệ Niệm cho người mất hay là niệm A-di-đà Phật
tương đối phù hợp?
Đáp: đều có thể. Sau khi người mất trút hơi thở cuối
cùng, sau khi trút hơi thở cuối cùng niệm Phật quan trọng, niệm Phật tốt hơn
đọc tụng Tam Thời Hệ Niệm, bởi vì lúc này cần tinh thần ý chí phải tập trung,
nhắc nhở người mất câu Phật hiệu là quyết định được vãng sanh. Phật sự Tam Thời
Hệ Niệm có thể làm trong bảy ngày, làm vào thất đầu, thất hai, thất ba; bảy
ngày thất đầu, mỗi ngày tốt nhất niệm Phật, ngay cả kinh Di-đà cũng không cần
thiết.
Tiếp theo là câu hỏi của đồng tu trên mạng:
Hỏi: câu hỏi đầu tiên, rất nhiều người hiện nay đều
mắc bệnh mất ngủ, xin hỏi có phương pháp gì có thể đối trị?
Đáp: niệm Phật tốt, ngủ không được thì niệm Phật tốt
biết bao. Câu Phật hiệu niệm càng nhiều càng tốt, niệm tới mức tâm địa thanh
tịnh thì rất dễ ngủ. Tôi cảm thấy tốt nhất không nên dùng thuốc, thuốc đều có
tác dụng phụ, tổn hại tới thân thể.
Hỏi: thứ hai, quá trình tu học dễ dàng lười biếng,
phóng dật, xin hỏi có phương pháp gì đối trị những tập khí này?
Đáp: trong 37 phẩm trợ đạo có phương pháp đối trị hôn
trầm, có phương pháp đối trị lười biếng, đều có thể thử xem sao. Nếu như có
hiệu quả, rất tốt, nếu như không có hiệu quả, bạn phải tìm ra nguyên nhân, phải
loại trừ nguyên nhân, hiệu quả sẽ hiện tiền. Thông thường trong Phật pháp
thường giảng, đối trị lười biếng, phóng dật phải dùng tinh tấn. Câu này nói rất
hay, nhưng mà tinh tấn cũng không dễ dàng, không sanh ra được tâm tinh tấn.
Trong kinh nghiệm tu học nhiều năm của chúng ta, chúng ta phải tổng kết được
một tâm đắc, đó là bất kể học tập pháp thế gian hay là pháp xuất thế gian, phải
dùng tâm hoan hỷ học tập thì rất thọ dụng; nếu như học tập rất khổ, không sanh
tâm hoan hỷ, gượng ép học tập, thì dễ dàng lười biếng, cũng dễ dàng thoái tâm.
Nếu như muốn đối với những điều học được có thể đạt được tinh tấn, đương nhiên
nhất định có nhận thức tương đối sâu sắc với những điều bạn đã học, vậy thì tâm
dũng mãnh, tâm tinh tấn mới sanh ra được. Cho nên có liên quan đến nghiên cứu
kinh giáo.
Hỏi: thứ ba, làm thế nào giúp đỡ cha mẹ lớn tuổi sanh
chánh tín đối với Phật giáo, lâm chung có thể gặp được thiện duyên, niệm Phật
vãng sanh thế giới Tây Phương Cực Lạc?
Đáp: câu này hỏi rất hay. Hỏi câu này, chúng ta có
thể thấy được tâm hiếu thảo của bạn dành cho cha mẹ. Có thể đưa cha mẹ tới thế
giới Tây Phương Cực Lạc, đây là đại hiếu, trong hiếu thuận cha mẹ không có điều
nào thù thắng bằng; cha mẹ vãng sanh Tây Phương làm Phật, không chỉ vĩnh viễn
thoát khỏi luân hồi, vĩnh viễn thoát khỏi mười pháp giới. Thật tình mà nói, mỗi
đồng tu niệm Phật đối với cha mẹ đều phải có tâm này, đây là tâm đại hiếu. Vậy
làm thế nào để ảnh hưởng cha mẹ? Bản thân nhất định phải thật làm, bắt đầu làm
từ chính mình, bắt đầu làm từ tâm mình, bắt đầu làm từ thân mình, cảm động cha
mẹ. Đặc biệt nắm lấy cơ hội, cơ duyên, lúc cha mẹ hoan hỷ, hoặc lúc cha mẹ ăn
cơm, lúc nhàn rỗi, phải nói nhiều một chút đạo lý niệm Phật cầu sanh Tịnh độ,
câu chuyện quả báo vãng sanh thù thắng, giống như “Tịnh Độ Thánh Hiền Lục”,
“Vãng Sanh Truyện”, đương nhiên tốt nhất là câu chuyện niệm Phật vãng sanh
tướng lành hiếm có cận đại hay trước mắt, nghe những câu chuyện này rất cảm
động người khác. Nói nhiều một chút những câu chuyện này để cha mẹ nghe, khuyên
cha mẹ nhận thức niệm Phật vãng sanh vô cùng thù thắng, cha mẹ mới có thể buông
xuống vạn duyên, một lòng chuyên niệm, như vậy mới đúng.
Hỏi: câu hỏi tiếp theo, trong kinh Hoa Nghiêm, lão
pháp sư từng nói Âu Dương Cánh Vô và Vương Ân Dương đều là đại đức, nhưng Ấn Tổ
từng nói, Âu Dương Cánh Vô là hạt giống ma ngã mạn, nhân danh hoằng pháp cầu
danh cầu lợi, lại dùng Lăng Nghiêm, Khởi Tín làm kẻ giả mạo, muốn mê mờ những
kẻ vô tri vô thức, muốn biến mình thành Đại Pháp Vương, người này cậy thông đạt
Tướng tông mà ngạo mạn xưa nay. Hoàng Niệm lão cũng từng nói, Vương Ân Dương
cho rằng kinh Hoa Nghiêm là kinh ngụy tạo. Khẩn cần ân sư từ bi khai thị, giúp
đệ tử củng cố tín tâm.
Đáp: từ xưa đến này, chúng ta chưa từng thân cận các
vị tiền bối xưa, chỉ nhìn thấy trong chữ viết. Đức Phật nói với chúng ta một
nguyên tắc, điều này nói trong kinh Hoa Nghiêm, là nguyên tắc gì? Rời hết thảy
vọng tưởng, phân biệt, chấp trước. Kinh Hoa Nghiêm chúng ta đã đọc nhiều lần,
trong kinh đức Phật nói với chúng ta, “hết thảy chúng sanh vốn là Phật”. Tổ
tiên, thánh hiền xưa của Trung Quốc nói với chúng ta, “nhân chi sơ, tánh bổn
thiện”, thiện ở đây không phải là thiện trong từ thiện ác, thiện ở đây nghĩa là
viên mãn, đây là từ tán thán, không phải là tính từ. Giống như trong Vọng Tận
Hoàn Nguyên Quán, quốc sư Hiền Thủ nói với chúng ta, “hiện nhất thể, tự tánh
thanh tịnh viên minh thể”, đó là thiện, là bổn thiện, tìm không thấy chút
khuyết điểm nào, có thể sanh vạn pháp. Hết thảy chúng sanh, từ tánh mà nói đều
tương đồng, là một tánh, cho nên hiện nhất thể, sau đó khởi nhị dụng. Từ giáo
nghĩa này, chúng ta mới hiểu được thế gian này không có Phật cũng không có ma,
Phật và ma là do ý niệm của bản thân chúng ta biến hiện mà ra, tâm địa của
chúng ta thanh tịnh, không ai không phải là Phật; nếu như chúng ta có phân
biệt, chấp trước thì Phật, Bồ-tát cũng là ma, phải hiểu đạo lý này, phải nắm
vững nguyên tắc lớn, phương hướng lớn.
Trong kinh điển đức Phật cũng nói, có yêu ma quỷ
quái cũng sẽ thuyết pháp, có thể giảng Phật pháp, họ nói thật sự là Phật pháp,
có thể giác ngộ chúng sanh. Bạn nói họ là Phật, là ma? Một người nghe họ thuyết
pháp khai ngộ, đối với người đó mà nói đó là Phật; nếu thật sự là Phật, Bồ-tát,
nếu thuyết pháp không khế cơ, chúng sanh nghe xong ngược lại càng mê hoặc, vậy
thì đó là ma thuyết pháp. Cho nên, Phật và ma không ở bên ngoài, mà ở chính
mình. Rời khỏi vọng tưởng phân biệt chấp trước, cũng là lời mà Lục Tổ nói, “xưa
nay không một vật”, làm gì có Phật với ma! Chúng ta phải giữ vững nguyên tắc
này, phải giảm bớt vọng tưởng phân biệt chấp trước của chúng ta. Ma thị hiện
cho chúng ta, cũng có thể dạy chúng ta giác ngộ, chúng sanh bình thường giác
ngộ đều dựa vào duyên bên ngoài, có thiện duyên, có ác duyên, có người khai ngộ
trong thiện duyên, cũng có rất nhiều người khai ngộ trong nghịch cảnh, ác
duyên. Trong 53 lần tham học có một câu chuyện, bạn xem sự ngu si của Thắng
Nhiệt Bà-la-môn, sự sân si của Cam Lộ Hỏa Vương. Cho nên biết, đều là cảnh giới
Phật, không biết, vậy thì đều là cảnh giới ma, không sai chút nào, vấn đề ở chỗ
bản thân chúng ta biết hay không biết. Ở chỗ này chúng ta cảm thấy, tài liệu
giảng dạy chánh diện sẽ khai ngộ, tài liệu giảng dạy phản diện cũng sẽ khai
ngộ; tài liệu giảng dạy phản diện sẽ khiến chúng ta khởi nghi hoặc, tài liệu
giảng dạy chánh diện có lúc cũng sẽ khiến chúng ta khởi nghi hoặc, có thể giúp
đỡ chúng ta đoạn nghi sanh tín, đây là Phật pháp. Từ góc độ này chúng ta thật
sự có thể học được điều gì đó. Hơn nữa trong Đại thừa Giáo thường nói, “giờ nào
cũng là giờ tốt, ngày nào cũng là ngày tốt”, đây gọi là rời phân biệt chấp
trước, thật sự có thể rời phân biệt chấp trước, chúng ta liền biết “ai cũng là
người tốt, chuyện nào cũng là chuyện tốt”.
Chúng ta thấy trong kinh Phật, lúc Thế Tôn tu
Bồ-tát đạo, tu nhẫn nhục ba-la-mật, đức hiệu của ngài gọi là Nhẫn Nhục Tiên
Nhân. Kinh Kim Cang nói, ghi chép chi tiết trong kinh Đại Niết-bàn, bị vua
Ca-lợi cắt xẻo thân thể, bạn nói vua Ca-lợi là ma hay Phật? Ca-lợi là tiếng
Phạn, dịch sang tiếng Trung có nghĩa là tàn bạo, người Trung Quốc chúng ta gọi
là hôn quân vô đạo, hại Nhẫn Nhục Tiên Nhân, Nhẫn Nhục Tiên Nhân bị oan, chúng
ta thấy vua Ca-lợi là ma vương. Nhưng trong ánh mắt của Nhẫn Nhục Tiên Nhân,
vua Ca-lợi là thiện tri thức, tại sao vậy? Thành tựu nhẫn nhục ba-la-mật viên
mãn của ngài. Nhẫn Nhục Tiên Nhân tiếp nhận, không có oán hận, không những
không có oán hận, còn cảm ân, tại sao vậy? Giúp đỡ Nhẫn Nhục Tiên Nhân tu hành
viên mãn, sớm thành Phật. Thích-ca Mâu-ni Phật vốn thành Phật sau Di-lặc Phật,
Di-lặc đáng lẽ là vị Phật thứ tư trong hiền kiếp, Thích-ca là vị Phật thứ năm,
kết quả bởi vì nâng cao mức độ lớn như vậy, Thích-ca Mâu-ni Phật là vị thứ tư
thành Phật, mà Di-lặc đẩy xuống phía sau trở thành vị Phật thứ năm, điều này có
ghi chép trong kinh điển.
Cho nên, tổ sư cũng được, đại đức cũng được,
Phật, Bồ-tát phê bình cũng được, chúng ta có thể nghe, không nên tranh luận,
cũng đừng phân biệt, chúng ta sẽ đạt lợi ích. Thậm chí Lăng Nghiêm, Khởi Tín có
phải là ngụy tạo hay không, kinh Hoa Nghiêm có phải là ngụy tạo hay không? Đó
là tri kiến cá nhân. Ngụy tạo, ai có thể tạo ra được? Người tạo ra được chúng
ta cũng thừa nhận người đó là Phật, không phải là người phàm. Hơn nữa những
kinh điển này đã lưu truyền trăm ngàn năm, bạn nói tìm ra người nào ngụy tạo?
Đích thực khó khăn. Trong sách xưa của Trung Quốc thì càng khó tìm, bởi vì thời
gian có chữ viết không dài, trong lịch sử Trung Quốc có chữ viết, Hoàng Đế phát
minh chữ viết, cách hiện tại chỉ khoảng 4500 năm, trước khi có chữ viết có
thánh nhân hay không? Chắc chắn có thánh nhân. Có Phật, Bồ-tát không? Chắc chắn
có Phật, Bồ-tát. Có lời dạy bảo rất hay được lưu truyền lại, truyền miệng, đời
đời truyền miệng, đây là tổ tiên của rất nhiều đất nước dân tộc trên trái đất
này truyền lại từ ngàn vạn năm trước, truyền miệng. Sau đó có chữ viết, mới có
người ghi chép lại, Khổng tử tự xưng mình là người kết tập, chính là có nghĩa
này. Phu tử rất khiêm tốn, ngài nói “thuật lại mà không sáng tác, tin tưởng mà
thuận theo người xưa”, ngài nói với chúng ta, cả đời ngài không sáng tác, không
phát minh, tức là nói những điều ngài học, những điều ngài tu, những điều ngài
dạy, những điều ngài truyền đều là di giáo của thánh hiền xưa.
Trong Luận Ngữ chúng ta thấy được câu này, không
những thấy được sự khiêm tốn của Khổng tử, chúng ta cảm thấy sự chân thành của
Khổng tử, nói lời thật, gọi là tiếp nối người trước, mở lối cho người sau, điều
này đáng để chúng ta noi theo, đáng để chúng ta học tập. Cho nên, chúng ta đừng
vì lời người khác nói mà khiến tín tâm của chúng ta bị dao động. Âu Dương Cánh
Vô có khuyết điểm này không? Có thể có, chúng ta không để ý tới, chúng ta chỉ
nghe lời ông ấy nói, lời ông ấy giảng, lời ông ấy dạy, tương ưng với kinh giáo
thì chúng ta tiếp nhận, không tương ưng với kinh giáo thì chúng ta không tiếp
nhận. Trong một trăm câu ông ấy giảng, có 90 câu tương ưng, chúng ta tin 90 câu
này, có 10 câu không tương ưng, chúng ta không học 10 câu này, bản thân chúng
ta có quyền, không nhất thiết phải tiếp nhận hết, có thể chọn lọc. Chúng ta xem
câu hỏi tiếp theo:
Hỏi: đệ
tử là người Hán, ở Nam
Thông tỉnh Giang Tô, trong “Hài Hòa Cứu Vãn Nguy Cơ”, nhìn thấy tiểu trấn Thang
Trì, An Huy phổ biến giáo học Nho Gia vô cùng tốt. Nhưng mà trang phục của giáo
viên học sinh có thể đổi thành trang phục người Hán không, đừng dùng kiểu dáng
trang phục của người Bát Kỳ Mãn Châu? Cận đại có rất nhiều người coi trang phục
của người Bát Kỳ là trang phục thời Đường, như vậy không thỏa đáng, trang phục
đại diện của văn hóa dân tộc Hán đã bị người Mãn Thanh đàn áp đẫm máu ép đổi
thành trang phục của người Bát Kỳ, giai đoạn lịch sử đẫm máu này có thể tra cứu
được. Có lẽ hiện tại rất nhiều người Hoa không hiểu lịch sử dân tộc, nhưng
hoằng dương văn hóa truyền thống Trung Quốc với người Hoa trên toàn thế giới,
về phương diện này liệu có cần xem xét kĩ càng hơn?
Đáp: vị đồng tu hỏi câu này nói rất có đạo lý, đích
thực là hiện tại chúng tôi mặc loại trang phục này, trang phục mà tôi mặc bên
trong là trang phục của Mãn Thanh, hiện nay có rất nhiều người gọi đó là trang
phục thời Đường. Thời nhà Đường không có trang phục này, bạn xem Trung Quốc
chúng ta, sách thời Đường rất nhiều, mọi người có thể nhìn thấy trang phục của
người thời Đường ở Đôn Hoàng, ở trong rất nhiều hang động Phật giáo không có
kiểu dáng này, không có loại nút áo này, kiểu dáng này thời nhà Thanh mới có.
Áo khoác dài không tay tôi mặc bên ngoài là trang phục thời nhà Minh, đây là
ống tay rộng, cổ áo rộng, cổ tròn. Lịch sử đã trôi qua rồi, nếu như nói đời đời
đều để những giai đoạn lịch sử đẫm máu của dân tộc ở trong lòng sẽ gây nên thù
hận. Hiện nay chúng ta còn muốn báo thù không? Còn muốn trả thù không? Thực ra
nhà Thanh cũng diệt vong rồi, dân tộc Thanh và dân tộc Hán đều đã trở thành dân
tộc Trung Hoa. Trong đại gia đình của dân tộc Trung Hoa, hiện nay chính phủ
thừa nhận, công bố có 56 dân tộc, hi vọng 56 dân tộc sau này có thể chung sống
hài hòa, đừng nhớ tới thù hận trước kia nữa, thù hận nên hóa giải, đặc biệt là
người học Phật. Trong kinh Hoa Nghiêm, trong Đại thừa giáo nói với chúng ta, cả
vũ trụ là người một nhà, không chỉ là 56 dân tộc. Sao lại là người một nhà? Đều
là “duy tâm sở hiện, duy thức sở biến”, trong Hoàn Nguyên Quán đã giảng rất rõ
ràng.
Trong văn hóa Hán của Trung Quốc, tâm bao dung
của văn hóa truyền thống dân tộc Hán rất lớn. Trong Đệ Tử Quy nói, “phàm là
người, đều yêu thương”, dân tộc Mãn có phải là người không? Chúng ta có cần yêu
thương bảo vệ họ không? Điều này đáng để chúng ta phản tỉnh. Hi vọng tâm lượng của
chúng ta có thể rộng mở, thật sự làm được giống như Phật, Bồ-tát, tâm bao thái
hư, lượng chu sa giới. Những lịch sử không vui trước đây, không sai, là chuyện
đẫm máu, đó là chuyện mà người thời đại đó phân biệt, chấp trước, điên đảo, mê
hoặc tạo thành. Hiện nay không giống trước kia, hiện nay giao thông thuận tiện,
thông tin phát triển, trái đất thu nhỏ lại, trước đây, như vào thời Trịnh Hòa,
bạn xem đi một chuyến rồi quay trở về, thông thường mất thời gian hai năm, sống
trên biển, hiện nay vòng quanh trái đất hết hai ngày. Trái đất thu nhỏ lại,
quan hệ giữa người với người càng mật thiết hơn, nếu như vẫn còn nhớ những thù
hận này, kết cục con người nhất định sẽ tàn sát lẫn nhau mà diệt vong, tôi tin
rằng đây không phải là điều mà tổ tiên của chúng ta muốn nhìn thấy. Hi vọng mọi
người trên thế gian này, dân tộc khác nhau, văn hóa khác nhau, tín ngưỡng khác
nhau đều có thể chung sống hòa hợp, lý tưởng của người Trung Quốc chúng ta, thế
giới Đại Đồng, gọi là tề gia trị quốc bình thiên hạ. Thiên hạ chính là thế giới
mà ngày nay chúng ta nói, hi vọng thế giới có thể trở thành người một nhà, tất
cả mọi người trên thế giới đều có thể tôn trọng nhau, kính yêu nhau, quan tâm
nhau, chăm sóc nhau, hợp tác cùng nhau, xã hội này sẽ hạnh phúc mỹ mãn biết
bao, không còn thù hận nữa.
Còn về vấn đề trang phục, thực sự là mỗi dân tộc
đều có đặc sắc riêng, nên bảo tồn. Trung Quốc thời cổ đại cho đến tận thời Mãn
Thanh, mỗi thời đại đều có trang phục của họ, đều có đặc sắc riêng của họ. Cho
nên sau khi họ giành được chính quyền, trong lịch sử Trung Quốc chúng ta có thể
thấy được, không tới năm năm, đất nước ban hành lễ nhạc, chế định lễ nhạc, xã
hội đi vào quỹ đạo, thiên hạ đại trị. Đại khái cách nhìn thông thường của chúng
ta, nhìn lịch sử Trung Quốc, sau khi ban hành lễ nhạc, sự an định của xã hội
này đại khái sẽ kéo dài khoảng 100 đến 150 năm, xã hội an định. Mỗi người tuân
thủ lễ nhạc, lễ là tiết chế hành vi bên ngoài của chúng ta, nhạc là điều phục
tâm tình của chúng ta, thật sự là quốc thái dân an. Nhưng từ sau khi Mãn Thanh
diệt vong, chuyển sang thời Dân Quốc, từ thời Dân Quốc đến nay không có lễ
nhạc, cho nên trong cuộc sống thường ngày lễ hội cưới hỏi không biết dùng lễ
tiết như thế nào mới đúng, đều loạn rồi, thời loạn!
Chuyện nghiêm trọng nhất trong lễ đó là tế lễ,
đây là lễ tiết lớn nhất, hiện tại không còn nữa, con người lúc qua đời rốt cuộc
mặc trang phục như thế nào, vào thời xưa có quy định, bây giờ không còn nữa,
hiện tại đa phần trong tang lễ dùng trang phục nào? Dùng trang phục Mãn Thanh.
Mãn Thanh nhập quan có thỏa thuận với người Trung Quốc, nam hàng nữ không hàng,
sống hàng chết không hàng. Cho nên người Hán lúc lâm chung, trang phục khâm
liệm là trang phục thời Minh, không phải trang phục dân tộc Mãn, lúc sống mặc
trang phục dân tộc Mãn, lúc lâm chung vẫn mặc trang phục thời Minh. Lúc kết
hôn, người nam mặc trang phục người Mãn Châu, phụ nữ dân tộc Hán vẫn mặc trang
phục thời Minh. Nhưng mà hiện nay loạn rồi, hiện nay kết hôn mặc trang phục của
người phương Tây, bởi vì không còn lễ, đất nước không ban hành lễ nhạc, cho nên
xã hội loạn. Bạn không thể nói họ đúng, cũng không thể nói họ không đúng. Tang
phục, tang phục của người Hán là mặc trang phục thời Minh, nhưng hiện nay có
người mặc màu đen, bạn nói họ đúng hay không đúng? Có người từng hỏi tôi, tôi
nói không thể nói đúng, cũng không thể nói không đúng, phải biết chúng ta sống
trong thời loạn!
Coi trọng trang phục dân tộc cũng rất có đạo lý,
giống như dân tộc thiểu số vùng biên giới của chúng ta, họ vẫn mặc trang phục
truyền thống. Trước đây tôi tới Vân Nam, Vân Nam có 26 dân tộc, mỗi dân tộc đều
có trang phục của họ, rất có đặc sắc riêng. Phải hiểu đạo lý này, không thể
không hiểu. Đề xướng trang phục thời nhà Hán, ý này rất hay, nhưng hiện nay có
thể hay không, đó là một chuyện khác. Hiện tại, phần tử tri thức thông thường
đều mặc trang phục phương Tây, xã hội đa phần đều thịnh hành trang phục phương
Tây, dần dần không còn nhìn thấy trang phục Trung Quốc nữa. Chúng ta xem câu
hỏi tiếp theo.
Hỏi: thời mạt pháp căn tánh chúng sanh cạn cợt, giới
luật không cách nào thanh tịnh. Xin hỏi sau khi thọ tam quy ngũ giới, liệu vẫn
có thần hộ pháp bảo hộ chứ?
Đáp: câu này hỏi rất hay. Kinh điển nói với chúng ta,
thọ trì tam quy có 36 vị thần hộ pháp, thọ trì ngũ giới, mỗi giới có năm vị
thần hộ giới, thọ trì toàn bộ năm giới, bạn sẽ có 25 vị thần hộ giới, 36 vị
thần hộ pháp ngày đêm bảo hộ bạn. Nhưng nếu tam quy ngũ giới bạn thọ trì không
phải là thật, bạn hoàn toàn không làm được, là hữu danh vô thực, vậy thì thần
hộ pháp, thần hộ giới liệu có bảo hộ bạn không? Điều này tôi nghĩ không cần tôi
trả lời, bản thân mọi người cũng biết. Thần hộ pháp đi rồi, cho nên mới có
chuyện oan gia trái chủ, linh quỷ dựa thân. Linh quỷ dựa thân rất nhiều, ở
Trung Quốc, ở nước ngoài chúng ta đều thấy rất nhiều, nếu như có thần hộ pháp,
những oan gia trái chủ này không dám dựa thân, chuyện này có ví dụ minh họa.
Bạn xem Từ Bi Tam Muội Thủy Sám, câu chuyện của quốc sư Ngộ Đạt. Quốc sư Ngộ
Đạt là cao tăng 10 đời, hiếm có, tu hành rất khá, không đọa ba đường ác, mặc dù
không nâng lên, nhưng cũng không đọa ba đường ác, sau khi qua đời, đời sau lại
sanh vào cõi người, hơn nữa lại xuất gia. Đời thứ mười công hạnh của ông nâng
cao tới bậc nhất thế gian, cao tăng đại đức của thế gian, làm thầy của hoàng
đế, quốc sư, đời thứ 10. Hoàng thượng cúng dường ông một chiếc ghế thái sư,
chiếc ghế này được điêu khắc từ trầm hương, rất quý giá. Chúng ta biết mua trầm
hương tính theo lạng, bạn nói xem ghế thái sư này quý giá biết bao! Bảo tọa
trầm hương, hoàng thượng cúng dường cho thầy mình. Sau khi ông tiếp nhận sanh
tâm ngạo mạn, vừa sanh ra ý niệm này, thần hộ pháp của ông liền rời đi, oan gia
trái chủ tìm đến, trên người ông mọc ra mụn ghẻ mặt người, suýt chút nữa mất
mạng. Từ chỗ này thấy được, quy giới của bạn chính là tam quy ngũ giới thanh
tịnh, thật sự có thần hộ pháp, nếu như không thanh tịnh, không có thần hộ pháp,
nhất định phải biết điều này.
Tam quy là gì? Quy y Phật, giác mà không mê, từ
điên đảo mê hoặc chúng ta quay đầu nương tự tánh giác, đây gọi là quy y Phật
thật sự. Đại sư Huệ Năng khai thị tam quy trong Lục Tổ Đàn Kinh, ngài giảng rất
rõ ràng, ngài cách chúng ta hơn 1300 năm, ngài giảng tam quy, ngài không giảng
“quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng”, ngài giảng “quy y Giác, quy y Chánh, quy y
Tịnh”. Chúng ta xem đoạn này có thể liên tưởng tới, vào thời đó, đại khái lúc
thọ trì tam quy có rất nhiều người hiểu sai nghĩa, chấp vào tướng, không biết ý
nghĩa thật sự của tam quy, cho nên ngài đại từ đại bi, thay đổi tam quy này,
Phật pháp tăng đổi thành giác chánh tịnh, sau đó mới giải thích. Ngài nói: “quy
y Giác, quy y Chánh, quy y Tịnh; Giác là Phật, Chánh là Pháp, Tịnh là Tăng”,
ngài giải thích như vậy. Cho nên thật sự giác mà không mê là quy y Phật, chánh
mà không tà là quy y Pháp, tịnh mà không nhiễm là quy y Tăng chúng ta liệu có
thể thường giữ gìn giác chánh tịnh hay không? Đây là phương hướng mục tiêu học
Phật.
Học Phật là học điều gì? Học giác chánh tịnh, từ
mê tà nhiễm quay về giác chánh tịnh, đây gọi là quy y, là ý nghĩa này. Hiện nay
rất ít người hiểu, làm sao có thần hộ pháp tới cho được! Nói tới ngũ giới,
người biết được giới tướng của ngũ giới không nhiều, lời phát nguyện đó rất dễ
đọc, “không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không uống
rượu”, rất dễ đọc, không hiểu ý nghĩa trong đó. Không biết làm thế nào thực
hành trong cuộc sống, không biết làm sao thực hành, nói ra rồi thôi, niệm trước
mặt Phật, Bồ-tát rồi thôi, như vậy không được, làm sao có thần hộ giới tới
được? Cho nên thời xưa thọ tam quy, họ thật sự tiếp nhận, thật sự không quên,
mọi lúc luôn nghĩ tới, khởi tâm động niệm, lời nói hành vi tương ưng với tam
quy ngũ giới, gọi là đệ tử Phật chân chánh. Hiện nay không làm được, hữu danh
vô thực. Chính vì nguyên nhân này, mà những năm gần đây chúng tôi đề xướng giáo
dục cắm gốc rễ, quay đầu lại, chúng ta bắt đầu học từ đâu? Học từ Đệ Tử Quy,
điều này rất quan trọng.
Đệ Tử Quy là gốc rễ đầu tiên, không có Đệ Tử
Quy, không có Cảm Ứng Thiên, không dễ dàng làm được tam quy ngũ giới; nếu như
có nền tảng Đệ Tử Quy, Cảm Ứng Thiên, tam quy ngũ giới không khó nữa. Đây là
điều Thế Tôn nói với chúng ta trong kinh giáo, đệ tử Phật “không học Tiểu thừa
trước, sau đó học Đại thừa, không phải là đệ tử Phật”, nói rất rõ ràng sáng tỏ.
Phật giáo Trung Quốc chúng ta từ giữa thời nhà Đường trở về sau không học Tiểu
thừa nữa, nguyên nhân là gì? Dùng Nho và Đạo thay thế. Hiện nay học Phật, không
học Tiểu thừa, cũng không học Nho và Đạo, không có gốc rễ, không có gốc rễ thì
làm sao có thể học Đại thừa? Vấn đề hiện nay xuất hiện ở chỗ này. Chúng ta đang
gấp rút khắc phục, phải cắm gốc rễ, phải nghiêm túc cắm gốc rễ, không tu từ gốc
rễ, trong Phật pháp chúng ta không có được lợi ích chân thật, muốn có được lợi
ích chân thật nhất định phải tu từ gốc rễ. Nhất định đừng coi thường Đệ Tử Quy,
đừng coi thường Cảm Ứng Thiên.
Hỏi: người này còn một câu hỏi nhỏ nữa, còn một câu
hỏi kèm theo, lúc thọ giới phải hiểu lời pháp sư mới có thể coi là đắc giới hay
không? Làm thế nào mới được coi là hiểu được lời pháp sư?
Đáp: pháp sư là thiện nam tử, thiện nữ nhân truyền
thọ quy giới, tam quy ngũ giới, không phải là lời nói của họ, họ thay mặt Phật
nói. Cho nên chỗ này không phải là hiểu lời pháp sư, mà nên nói là hiểu được
Như Lai chân thật nghĩa, như vậy mới đúng, không phải là lời pháp sư. Hiện nay,
câu từ chúng ta dùng trong nghi thức tam quy là của đại sư Hoằng Nhất đề xướng,
ngài ấy trích ra từ trong Giới Kinh, nói với chúng ta, năm đó khi Thế Tôn còn
tại thế đã dùng những câu từ này, rất đơn giản. Làm thế nào thể hội đúng đắn
Như Lai chân thật nghĩa, điều này quan trọng. Cho nên chúng tôi đều có giảng
giải chi tiết tam quy ngũ giới, vẫn là nên nghe nhiều. Có nên thọ giới không?
Phải thọ, tên gọi thọ cũng được, gieo hạt giống trong a-lại-da thức, kết pháp
duyên với tam bảo, duyên này vô cùng thù thắng. Còn duyên này có thể khởi tác
dụng, vậy thì đó không phải là chuyện thời gian dài ngắn, mà là đời đời kiếp
kiếp, chỉ cần có duyên gặp được Phật pháp thì duyên này sẽ khởi hiện hành,
người thọ giới sẽ nâng cao, cho nên thọ tam quy tốt hơn không thọ. Trước đây
thầy Lý đề xướng, khuyên người thọ tam quy, không khuyên người thọ giới, thầy
có “ba không”: không khuyên người thọ giới, không khuyên người ăn chay, không
khuyên người xuất gia, bởi vì những điều này không dễ gì làm được. Ngài khuyên
họ quy y, cầu thọ tam quy, đây là kết pháp duyên. Dụng ý này rất sâu, rất hiếm
có. Câu hỏi tiếp theo:
Hỏi: hiện nay có rất nhiều người thiện tâm, nhập [nội
dung] Đại Tạng Kinh vào máy tính, đưa lên mạng cúng dường đại chúng, nhưng có
rất nhiều chữ cổ mà trong máy tính không có, một số người dùng chữ tương tự để
thay thế. Xin hỏi sửa đổi kinh điển như vậy có đúng pháp không? Có phải chịu
trách nhiệm nhân quả không?
Đáp: bạn hỏi rất hay, không sai, sửa đổi chữ viết
trong kinh điển phải chịu trách nhiệm nhân quả. Đại đức xưa có nói “chuyển ngữ
sai một chữ quả báo bị đọa làm 500 kiếp hồ ly”, trách nhiệm này không nhỏ? Cho
nên đại đức xưa khuyên chúng ta, cho dù nhìn thấy chữ đó trong kinh điển viết
sai, viết sai rất rõ ràng, cũng không thể sửa, sợ điều gì? Sợ có tiền lệ này, mọi
người có thể tùy tiện sửa, sửa tới sau cùng, quyển kinh này hoàn toàn biến
chất. Nên làm thế nào? Nên chú giải, chú giải ở bên cạnh, chữ này nên là chữ
nào, có thể là chữ nào, làm tham khảo cho người nghiên cứu đọc tụng kinh điển,
không thể sửa, nhất định phải giữ nguyên như cũ. Tại sao trong đó có chữ sai?
Thời xưa kinh điển đều chép tay, khó tránh được chép sai, chuyện này rất có khả
năng, khó tránh được chép sai. Nhưng mà chép sai cũng không thể sửa. Nếu bản
kinh khác, phiên bản không giống, sau khi đối chiếu bản kinh khác đó, bạn phải
ghi chú ở bên cạnh là chữ này trong bản kinh nào là chữ gì? Chú giải rõ ràng,
để mọi người tham khảo, vậy mới đúng, không thể sửa.
Hỏi: người này còn có câu hỏi kèm theo, nếu như chỗ
in sai trong kinh rất nhiều, không tiện để lưu hành, nên xử lý như thế nào?
Đáp: không thể lưu hành. Phương pháp xử lý, đốt trong
lò đốt, có thể làm như vậy. Nếu như không có lò đốt, như hiện nay rất coi trọng
bảo vệ môi trường, bạn có thể đóng gói ngay ngắn rồi chôn xuống đất, tìm một
nơi sạch sẽ đào lên rồi chôn xuống dưới đều được. Câu hỏi tiếp theo:
Hỏi: Du Tịnh Ý Công Ngộ Táo Thần Ký, trong đó tiên
sinh Du Tịnh Ý chỉ có suy nghĩ ác, mà liên tiếp gặp nhiều ác báo lớn, nhưng rất
nhiều người không chuyện ác nào không làm, tại sao ác báo vẫn chưa hiện tiền?
Đáp: vấn đề này, từ xưa đến nay có rất nhiều người
hỏi vấn đề này. Mà đại đức xưa cũng giảng rất rõ ràng cho chúng ta, họ làm ác,
ác báo vẫn chưa hiện tiền, là nhờ phước báo còn lại của họ trong đời quá khứ,
phước họ tu quá lớn, phước của họ bị tổn hại rồi, mà họ vẫn còn phước báo, cho
nên ác báo của họ chưa hiện tiền, là đạo lý này, họ hưởng hết phước báo thì ác
báo liền hiện tiền. Lời này rất có lý. Nói ngược lại, người này là người tu
phước, là người thiện lương, mặc dù cả đời tu phước, họ lại gặp rất nhiều gian
nan khổ cực. Tại sao họ lại không gặp quả báo tốt? Người xưa giải thích cho
chúng ta, ác nghiệp đời quá khứ họ tạo rất nặng, nếu như đời này không tu
phước, khổ nạn mà họ gặp phải càng nặng hơn, đã giảm bớt một phần rồi, vẫn còn
tội nghiệp sót lại, cho nên phước báo không thể hiện tiền, sau khi tội nghiệp
tiêu trừ, phước báo họ tu liền hiện tiền. Đây là thật không phải giả. Thiện có
thiện báo, ác có ác báo, chúng ta có thể nhận thức rõ ràng, chỉ cần bạn nỗ lực
tu thiện, như tiên sinh Du Tịnh Ý gặp được thần Bếp điểm hóa, nghiêm túc sám
hối, sau khi sám hối tiêu trừ nghiệp chướng, phước báo của ông hiện tiền. Từ đó
thấy được, sức nặng của nghiệp đã tạo trong đời quá khứ. So sánh ông với tiên
sinh Liễu Phàm, nghiệp chướng của tiên sinh Liễu Phàm nhẹ hơn, sau khi sám hối
phước báo hiện tiền, không sai chút nào. Cho nên vận mệnh do chính mình tạo,
không phải do người khác đặt ra, không liên quan tới Phật, Bồ-tát, không liên
quan tới Thượng đế, không liên quan tới Diêm vương, bản thân tạo [nghiệp] thiện
và bất thiện trong đời quá khứ, đây mới là chủ tể của vận mệnh. Sau khi biết
được, có thể sửa đổi vận mệnh, tự mình tạo đương nhiên có thể sửa, đoạn hết
thảy ác tu hết thảy thiện liền sửa mệnh. Có quả báo hiện tiền rất nhanh, có lúc
hiện tiền rất chậm, vậy thì bạn phải hiểu được, tội chướng nghiệp lực mình tạo
trong đời quá khứ sâu nặng, chỉ cần bạn có tín tâm kiên định, vĩnh viễn không
thoái chuyển, nghiệp chướng sẽ tiêu trừ, tiêu trừ rồi vận mệnh của bạn sẽ xoay
chuyển. Câu hỏi tiếp theo:
Hỏi: trong kinh Phạm Võng nói, nhìn thấy người khác
buôn bán kinh sách, tượng Phật phải chuộc về. Xin hỏi buôn bán tượng Phật, kinh
sách ở đây có nghĩa là gì? Tinh thần của câu này nên áp dụng trong xã hội hiện
nay như thế nào?
Đáp: buôn bán kinh sách tượng Phật, lúc gặp được, ở
đây nói là chuộc về, hiện nay chúng ta nói gặp được thì nên mua, tại sao vậy?
Lưu thông Phật pháp. Tượng Phật để mọi người cúng dường, kinh Phật để mọi người
đọc tụng, phước báo này lớn! Nhưng mà xã hội hiện nay không giống trước đây, xã
hội trước đây tượng Phật và kinh sách vô cùng hiếm có, kỹ thuật in ấn, chế tác
không phát triển, ví dụ như khắc một bức tượng Phật phải mất thời gian bao lâu?
Một người thợ giỏi một năm có thể khắc bao nhiêu bức tượng? Nếu như nói bức
tượng lớn một chút, tượng Phật điêu khắc cao khoảng một hay hai mét, đại khái
phải mất thời gian nửa năm, không dễ dàng! Tranh màu cũng vô cùng khó khăn.
Hiện nay tạo một cái khuôn, sản xuất số lượng lớn trong thời gian rất ngắn;
tranh vẽ thì hiện nay in ấn, tranh phục chế có lúc còn tinh xảo, còn đẹp hơn
tranh gốc, giá thành lại rẻ, lưu hành số lượng lớn. Đệ tử Phật chúng ta gặp
được, có năng lực thì mua về, kết duyên với đồng tham đạo hữu, chuyện này tốt,
tiếp dẫn người mới học Phật thì càng tốt.
Người tận lực đề xướng công việc này vào thời
cận đại là đại sư Ấn Quang, ngài ấy tiếp nhận cúng dường của tứ chúng đồng tu,
ngài không có chỗ tiêu tiền, đem số tiền này thành lập Hoằng Hóa Xã, Hoằng Hóa
Xã của chùa Báo Quốc Tô Châu, là số tiền mà tứ chúng đệ tử cúng dường ngài, đó
là nơi lưu hành kinh Phật, ở đó cũng khắc tượng Phật, tranh khắc bản, tranh
khắc bản bằng gỗ, cũng in ra để lưu hành, làm vô cùng tinh xảo trang nghiêm.
Ngài dẫn đầu làm, chúng tôi nghe nói qua, chúng tôi từng tới Tô Châu tham quan,
tốt! Chúng tôi hoan hỷ tán thán, cho nên cũng noi theo. Chúng tôi gặp được
tượng Phật tốt, tranh vẽ tượng Phật, chỉ cần không có bản quyền, chúng tôi đều
lưu hành số lượng lớn, nếu có bản quyền chúng tôi không dám xâm phạm quyền tác
giả; kinh sách cũng như vậy, không có bản quyền, chúng tôi đều đang không ngừng
lưu hành. Cho nên trước đây nói buôn bán kinh sách tượng Phật, đó đều là rất
quý giá, rất hiếm có, gặp được thì đó là Phật bảo, tượng Phật là bảo, kinh sách
cũng là bảo. Hiện nay chúng ta gặp được, đương nhiên không giống trước đây, nếu
như gặp được sách cũ đóng chỉ, lúc gặp được nếu có khả năng thì nên mua. Sau
khi mua về, các vị tại gia, xuất gia nào thật sự nghiên cứu, cúng dường họ, họ
cần dùng tới, họ thấy sách này sẽ sanh tâm hoan hỷ. Thậm chí chúng tôi gặp được
những sách này, chúng tôi đều mang đi in lại, bởi vì những sách này không có
bản quyền, sách đóng chỉ không có bản quyền, chúng tôi đều mang đi in lại, lưu
hành, để càng nhiều người có thể đọc được, mang về làm bản thảo gốc, làm bản thảo
gốc để in ấn. Câu hỏi tiếp theo:
Hỏi: có một cách nói, tham gia trợ niệm, nếu không
thể tiễn người mất tới thế giới Tây Phương Cực Lạc, người mất sẽ gây phiền phức
cho cư sĩ, cũng phải gánh nghiệp cho người mất, chuyện này khiến rất nhiều
người không dám trợ niệm cho người mất. Xin lão pháp sư từ bi khai thị.
Đáp: tôi nghĩ người mất sẽ không có tâm báo thù này,
có tâm báo thù này thì có sân hận, họ có sân hận, có báo thù thì họ không thể
sanh vào đường thiện, điều này là chắc chắn. Người khác thực sự tới giúp đỡ, có
thể vãng sanh hay không vẫn do bản thân; nếu họ tiếp nhận sự giúp đỡ, thật sự
liền vãng sanh. Lúc lâm chung, đó là một niệm mấu chốt, quan trọng nhất, một
niệm này nhắc nhở họ, trợ niệm là nhắc nhở họ, buông xuống hết thảy, một câu
A-di-đà Phật, họ liền chắc chắn được vãng sanh; nếu như một niệm cuối cùng
không thể buông xuống thân bằng quyến thuộc, họ sẽ không thể vãng sanh. Không
thể vãng sanh, trợ niệm có lợi ích không? Có, giảm bớt đau khổ của họ. Thường
rơi vào đường ác họ cũng nâng lên, đọa địa ngục giúp đỡ họ nâng lên cõi ngạ
quỷ, đọa ngạ quỷ giúp họ nâng lên cõi súc sanh, đọa súc sanh giúp họ lại tới
cõi người, đây là chuyện tốt. Có rất nhiều chỗ tốt, sao họ lại tới gây phiền
phức? Nếu như tới gây phiền phức, có thể thấy được tâm sân hận của người này
rất nặng, tâm sân hận rất nặng thì đó là nghiệp nhân của địa ngục, họ cũng
không thể tìm được người giúp họ. Cho nên chuyện này là bản thân chúng ta nghĩ
quá nhiều, không nên có những suy nghĩ này, nên thành tâm thành ý giúp đỡ người
mất. Ít nhất nếu họ không thể tiếp nhận, giảm bớt sự đau khổ của họ, có chỗ tốt
đối với họ. Tôi tin rằng thông thường mà nói, họ sẽ cảm ân. Câu hỏi tiếp theo:
Hỏi: đệ tử học tập Phật pháp Đại thừa, thực sự giải
quyết không ít vấn đề, nhưng tín tâm vẫn lúc tăng lúc giảm, xin hỏi làm thế nào
xây dựng tín tâm kiên định không thay đổi?
Đáp: chuyện này nhất định phải hạ công phu từ kinh
giáo, nếu như không có nền tảng kinh giáo sâu dày, rất khó có tín tâm! Cho nên
trong Đại thừa giáo, đức Phật nói “thân người khó được, Phật pháp khó nghe”,
chữ khó này có ý nghĩa rất sâu. Bạn có cơ hội nghe được Phật pháp, nghe không
hiểu, đó cũng là khó; nghe hiểu nhưng hoài nghi, cũng là khó; tín tâm không đủ,
cũng là khó; sau khi tin lại dao động, lại thoái chuyển, vẫn là khó. Cho nên ý
nghĩa của chữ khó này rất sâu, rất rộng. Tới lúc nào tín tâm kiên định? Bạn
hiểu rõ ràng, thấu suốt chân tướng sự thực, bạn chắc chắn sẽ không thoái
chuyển, bạn thật sự hiểu rõ phương hướng mục tiêu trong cuộc đời này, bạn sẽ
một lòng một dạ tinh tấn hướng tới phương hướng này, hướng tới mục tiêu này,
vậy thì bạn nhất định thành tựu. Đây là khó gặp, bá thiên vạn kiếp nan tao ngộ,
bạn thật sự gặp được rồi, đáng để chúc mừng, đây là may mắn, đời này chắc chắn
được giải thoát. Câu hỏi tiếp theo:
Hỏi: mấy người đồng tu xuất gia chí đồng đạo hợp
chúng con, mỗi ngày ở cùng nhau nghe kinh niệm Phật, nhưng có một hai người ưa
thích thoa hương lễ Phật, hoặc cộng tu không chuyên tâm, ảnh hưởng người khác,
xin hỏi nên điều chỉnh như thế nào để mọi người yên tâm tu đạo.
Đáp: đây là tập khí của mỗi đồng tu không giống nhau,
phải khuyên nhủ. Dùng hương thoa lên người, đây là bột thơm, nước hoa mà hiện
nay chúng ta thường nói tới, cũng thuộc về thoa hương, thoa lên trên người. Có
sở thích này đều chướng ngại tu hành, người tu hành đến điều này cũng phải
buông xuống. Mục đích tu hành là tâm thanh tịnh, đây là Tịnh độ tông. Mười đại
tông phái cũng không ngoài giác chánh tịnh, Tịnh tông và Mật tông đều tu tâm
thanh tịnh, Giáo hạ tu chánh tri chánh kiến, Tánh tông, Thiền tông tu đại triệt
đại ngộ, trên thực tế là một mà ba, ba mà một, đều phải rời những vọng tưởng
phân biệt chấp trước này, bạn mới có thể đạt được. Có những sở thích này đều là
chướng ngại, cho nên đồng tu với nhau nên khuyên nhủ. Đặc biệt người xưa nói
rất hay, “thà động nước ngàn sông chứ không động tâm người tu đạo”, đừng
quấy nhiễu người khác tu hành, như vậy là được.
Hỏi: có đồng tu nói, nếu đã thọ Bồ-tát giới, cho dù
đọa địa ngục cũng không phải thọ hình, không thọ nhân quả báo ứng, trong địa
ngục vẫn có thể niệm Phật như thường, xin lão pháp sư khai thị.
Đáp: điều này tôi chưa từng nghe nói, là ai nói ra
lời này vậy, tìm chứng cứ trong kinh điển cho chúng ta thấy thử xem. Chúng ta
nghe đại đức xưa giảng tương phản với điều này, Đại đức xưa thường nói “trước
cửa địa ngục tăng đạo nhiều”, câu này là lời cảnh cáo nghiêm trọng, thọ giới
không thể trì giới, mà phạm giới, phá giới đều là nghiệp nhân đọa địa ngục. Đọa
địa ngục làm sao lại không thọ hình? Làm gì có đạo lý này. Bạn thật sự trì
giới, trì giới rất tốt, chắc chắn không đọa địa ngục; chỉ có phạm giới, phá giới
mới đọa địa ngục, đọa địa ngục chắn chắc thọ khổ báo địa ngục. Đây là chuyện
chúng ta chưa từng nghe nói. Câu hỏi tiếp theo.
Hỏi: Phật là Điều Ngự Trượng Phu, lại nói Phật không
độ người vô duyên, xin hỏi hai điều này có mâu thuẫn không?
Đáp: không mâu thuẫn. Thế nào là vô duyên? Họ không
tiếp nhận, Phật rất vui vẻ giúp đỡ họ, nhưng họ không thể tiếp nhận, đó gọi là
vô duyên. Họ nói “tôi rất muốn tiếp nhận”, rất muốn tiếp nhận, tôi cũng tin
rằng họ có tâm này, nhưng họ có nghiệp chướng, nghiệp chướng chướng ngại họ
không thể tiếp nhận. Nghiệp chướng này là gì? Là tam trọng chướng thường nói
tới trong kinh điển, có tam trọng chướng này thì không còn cách nào, Phật không
độ được họ. Tam trọng chướng là ngạo mạn, đố kị, tham dục, trước đó chúng ta
từng học trong kinh Hoa Nghiêm. Chỉ cần có ba loại chướng này, chư Phật, Bồ-tát
tự mình tới dạy họ cũng không có cách nào, không những không thể giúp đỡ họ
nâng cao cảnh giới, giảng hết thảy kinh, họ nghe không hiểu!
Cho nên trước đây thầy giáo dạy học, đối với mỗi
học trò không giống nhau, thầy giáo dạy học trò, họ nhìn học trò, có học trò có
thể dạy, có học trò không thể dạy, họ nhìn điều gì? Nhìn nghiệp chướng dày mỏng
của người học trò này. Nghiệp chướng mỏng, rất nhẹ thì có thể dạy, dạy nhiều
một chút; nghiệp chướng rất nặng thì không thể dạy, sẽ không dạy nữa, để họ
theo đại chúng cùng tới nghe là được. Lúc chúng tôi còn trẻ theo thầy Lý học
kinh giáo, lớp của tôi là lớp kinh học, học giảng kinh, hai mươi mấy người,
thái độ của thầy đối với mỗi người trong số hai mươi mấy người chúng tôi không
giống nhau, có học trò thì thầy rất nghiêm khắc, có học trò thì thầy lại rất
khách sáo, giống như đối đãi khách vậy. Lúc đó tôi thấy vậy lấy làm lạ, sao
thầy lại đối xử như vậy với học trò? Bị thầy nhìn ra được, một ngày nọ thầy gọi
tôi tới phòng, nói với tôi chuyện này. Thầy nói người thật sự học, thật sự chịu
làm, có thể đánh, có thể mắng, đánh mắng chúng còn cảm ân, học trò này phải dạy
thật tốt, phải dạy nghiêm túc. Người kia không thể dạy, nói được vài câu mặt
liền đỏ, vậy thì hiểu được không thể nói thêm nữa, nói nữa sẽ kết oán, đó là
tùy hỉ công đức, để họ tới dự thính, có thể nghe được bao nhiêu thì bấy nhiêu
là của họ, trồng thiện căn mà thôi, chúng tôi mới hiểu rõ!
Cho nên thầy giáo dạy học trò, nhìn học trò điều
gì? Nhìn sự thành kính của học trò, chúng ta nói là tôn sư trọng đạo. Sự thành
kính đối với thầy chính là sự tôn trọng đạo nghiệp, có tâm thành kính mười
phần, bạn dạy họ chín phần, bạn còn có lỗi với họ, họ có thể tiếp nhận mười
phần, bạn chỉ dạy họ chín phần, thật có lỗi; nếu như họ chỉ có tâm tôn trọng
hai phần, bạn dạy họ ba phần, vậy là bị thừa, họ không thể tiếp nhận một phần
đó. Đây là nguyên tắc thầy giáo dạy học pháp thế gian và xuất thế gian thời
xưa. Cho nên chắc chắn đừng cho rằng ngoài mặt đối với thầy cung kính thì thầy
liền vui vẻ, không phải như vậy. Cung kính là không ngạo mạn, không đố kị,
chướng ngại của họ nhẹ, phải giúp đỡ người học trò này. Không có tâm cung kính,
hay nói cách khác, tam trọng chướng của họ rất nghiêm trọng, bạn dạy họ cũng vô
dụng, họ không thể tiếp thu, không thể tiếp nhận. Không phải thầy giáo phân
biệt nặng nhẹ đối với học trò, không phải vậy, thầy giáo hoàn toàn nhìn vào xem
bạn có thể tiếp nhận được bao nhiêu. Câu hỏi tiếp theo.
Hỏi: xin hỏi tự tánh, Phật tánh, pháp tánh, chân
tánh, ý nghĩa có giống nhau không?
Đáp: là giống nhau
Hỏi: người này hỏi tiếp, duyên sanh vô tánh, duyên
khởi tánh không, chữ tánh ở đây là tự tánh đúng không?
Đáp: là tự tánh
Hỏi: làm thế nào để hiểu được tự tánh, vô tánh, tánh
không?
Đáp: những danh từ này Phật nói rất nhiều, tại sao
nói nhiều như vậy? Ý nghĩa là dạy bạn đừng chấp trước. Nói một danh từ bạn sẽ
luôn chấp trước, nói nhiều vài danh từ, nói thế nào đều được, đều là một
chuyện, chỉ cần bạn hiểu được ý nghĩa của nó, đừng chấp trước vào tướng danh
tự. Mã Minh Bồ-tát trong Khởi Tín Luận dạy chúng ta, người học tập phải nắm
vững ba nguyên tắc, nghe kinh hoặc là nghiên cứu kinh giáo, nghe kinh không
chấp tướng ngôn thuyết. Quyển kinh, chữ viết là ký hiệu của ngôn ngữ, nếu như
dạy chúng ta không chấp tướng ngôn thuyết, thì đừng chấp tướng văn tự, bạn chấp
trước tướng văn tự thì sai rồi, đây là điều đầu tiên. Điều thứ hai là đừng chấp
tướng danh tự, tức là danh từ thuật ngữ, tự tánh, vô tánh, tánh không đều là
thuật ngữ, bạn đừng chấp trước tướng này, bạn mới thật sự có thể hiểu được ý
của ngài. Thứ ba là không thể chấp tướng tâm duyên, tâm duyên là gì? Tôi nhìn
thấy danh từ này, nghĩ tới nó có nghĩa là gì. Ý nghĩa bạn nghĩ không phải là ý
nghĩa Phật nói, là ý của bản thân bạn, bản thân bạn ở đó khởi phân biệt chấp
trước. Lại nói với bạn, Phật có ý nghĩa gì? Nghiêm túc mà nói, Phật không có ý
nghĩa, nếu Phật có ý nghĩa thì Phật là phàm phu, phàm phu mới có ý nghĩa, Phật,
Bồ-tát làm gì có ý nghĩa! Hết thảy pháp vô sở hữu, tất cánh không, bất khả đắc,
đó là ý nghĩa của Phật, chắc chắn không có vọng tưởng, phân biệt, chấp trước.
Sở dĩ tại sao chúng ta học nhưng không thể khế
nhập cảnh giới, đó là do chúng ta không rời được phân biệt, chấp trước, vậy
khởi tâm động niệm thì càng không cần nói tới, cho nên chúng ta vĩnh viễn không
hiểu ý nghĩa lời Như Lai nói. Hôm nay, chúng ta thể hội được ý nghĩa của kinh
Phật, tất cả đều là ý của bản thân, nghe kinh Phật, đọc kinh Phật, ý nghĩa của
bản thân đang phản ánh, không phải tự tánh. Nếu là tự tánh, vậy thì sẽ khế nhập
với tự tánh, đó là minh tâm kiến tánh. Làm thế nào mới có thể minh tâm kiến
tánh? Hiện nay chúng ta chỉ biết được một ít đầu mối, sáu căn trong cảnh giới
sáu trần, bất kể là thế gian pháp hay Phật pháp đều có thể làm được không khởi
tâm, không động niệm, không phân biệt, không chấp trước, bạn nghe kinh, vừa
nghe liền khai ngộ, vừa tiếp xúc liền khai ngộ, giống như đại sư Huệ Năng vậy.
Tại sao ngài ấy vừa nghe, vừa tiếp xúc, đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh?
Ngài ấy không có khởi tâm động niệm. Chỗ khó của chúng ta là gì? Luôn nghĩ
những danh từ, danh tướng này rốt cuộc có nghĩa là gì, làm sao giải thích. Bạn
muốn hỏi, Phật, Bồ-tát cũng giảng cho bạn, giảng điều gì? Giảng ý nghĩa của
bạn, không phải ý nghĩa của Phật, Phật không có ý nghĩa. Cho nên, lúc nào thật
sự hiểu được Phật không có ý nghĩa, Phật không có ý nghĩa có thể sanh vô lượng
ý nghĩa, chúng ta khẳng định một ý nghĩa, vậy được, chấp chặt vào ý nghĩa này,
không thể nào có ý nghĩa thứ hai, không có sự viên dung tự tại như người khác,
câu từ nào cũng vô lượng nghĩa.
Tại sao lại nói là vô lượng nghĩa? Thật hiếm có,
đại sư Hiền Thủ đã giải thích cho chúng ta, vốn là xuất sanh vô tận, ngài giảng
ba loại rộng khắp, “rộng khắp pháp giới, xuất sanh vô tận, bao hàm không hữu”,
bất kể là sắc pháp hoặc là tâm pháp, hiện nay nói là hiện tượng vật chất hoặc
là hiện tượng tinh thần, đều có ba loại rộng khắp. Bất kể lớn nhỏ, lớn thì nói
tới vũ trụ, nhỏ thì nói tới vi trần, trong cơ thể của chúng ta, lớn thì nói tới
toàn thân, nhỏ thì nói tới lỗ chân lông, không gì không là rộng khắp pháp giới,
xuất sanh vô tận, bao hàm không hữu, ba loại rộng khắp này. Phật nói nhiều danh
từ như vậy, Đại đức xưa cũng có giải thích, trong trường hợp nào đó, Phật cảm
thấy dùng danh từ nào thuận tiện, điều này cũng có lý. Tóm lại, Phật, Bồ-tát
giáo hóa chúng sanh là hi vọng bạn có thể mau chóng khế nhập, vừa tiếp xúc bạn
liền thông đạt hiểu rõ, luôn thích hợp với căn tánh của bạn, đây gọi là ứng cơ
thuyết pháp. Bạn có cảm, Phật có ứng, thuyết pháp cũng là ứng. Câu hỏi tiếp
theo.
Hỏi: mang nghiệp vãng sanh, chỉ mang nghiệp cũ, không
mang nghiệp mới, xin hỏi giới hạn của nghiệp cũ và nghiệp mới là gì?
Đáp: trong Tịnh tông giảng, nghiệp cũ là nghiệp trước
đây đã tạo, nghiệp mới là nghiệp hiện nay tạo. Trước đây là lúc nào? Tạo vào
ngày hôm qua cũng là trước đây, sáng nay tạo cũng là trước đây, tạo trước hiện
tại một phút cũng là trước đây, đó đều gọi là nghiệp cũ, đều có thể mang theo.
Không mang theo nghiệp mới là thế nào? Nghiệp hiện nay tạo. Hiện nay là gì? Một
niệm hiện tiền. Cho nên người vãng sanh, một niệm sau cùng lúc lâm chung là
A-di-đà Phật, một niệm trước đó của họ là tham sân si mạn đều không sao, chỉ
cần niệm cuối cùng là A-di-đà Phật là được. Nghe được cách nói này, tạo thêm
chút ác nghiệp cũng chẳng sao, lúc lâm chung chỉ cần tôi nắm chắc niệm cuối
cùng là thành công rồi. Về lý mà nói là như vậy, về sự mà nói, e rằng tới lúc
đó bản thân bạn cũng không nắm chắc được, một niệm sau cùng tham sân si sanh
khởi vậy thì một đời của bạn đều bị hủy hoại hết. Cho nên bình thường giống như
luyện binh vậy, một niệm cuối cùng là đánh trận, luôn phải luyện cho quen
thuộc, thuộc lòng rồi, khởi tâm động niệm đều là A-di-đà Phật vậy thì bạn liền
có nắm chắn; vẫn còn ý nghĩ khác xen tạp trong đó sẽ không nắm chắc, phải hiểu
đạo lý này. Cho nên nghiệp mới, nghiệp cũ là ở hiện tiền, hiện tiền là nghiệp
mới, trước đây đều là nghiệp cũ, phải biết điều này. Chúng ta phải nghiêm túc
nỗ lực, tiếp theo người này hỏi.
Hỏi: mới học Phật, đệ tử chưa thể ngay lập tức làm
được không tạo nghiệp nữa, chỉ có thể từ từ sửa đổi, nếu lại tạo nghiệp mới,
vãng sanh có phải là không có phần của con?
Đáp: thật sự, bạn nghe hiểu những lời tôi vừa nói,
vấn đề của bạn cũng được giải quyết. Cho nên nói tới một niệm cuối cùng, nhất
định phải nghiêm túc nỗ lực, không những không tạo ác nghiệp, tạo thiện nghiệp
cũng không để ở trong lòng thì bạn mới không chướng ngại. Thường nghĩ tới thiện
nghiệp đã tạo, không tốt, vẫn là chướng ngại. Cho nên dạy bạn niệm niệm đều là
niệm A-di-đà Phật, bất kể thiện hay ác đều đổi thành A-di-đà Phật, vậy mới
đúng. Câu hỏi tiếp theo.
Hỏi: một số người trẻ tuổi học Phật, cả ngày chỉ nghĩ
đến chuyện xuất thế gian, không hề để ý chút nào tới những thứ nhỏ nhặt trong
cuộc sống, đọc sách, làm việc đều qua loa, không hòa hợp với đồng tu đại chúng,
vì thế mà phiền não càng nhiều, tâm tư càng loạn, ngược lại muốn từ bỏ học
Phật, xin lão pháp sư chỉ dạy.
Đáp: học Phật như vậy là sai lầm. Cho nên học Phật,
chúng ta thông thường đều là căn tánh trung hạ, không phải người có thượng
thượng căn, cũng không phải người hạ ngu. Thượng thượng căn và hạ ngu ngược lại
dễ dàng, giữa đó có một khúc rất phiền phức, cao không cao, thấp không thấp,
cho nên chư Phật, Bồ-tát hạ nhiều công phu, dùng nhiều thời gian đối với những
chúng sanh này. Thượng thượng căn dễ dạy, giống như đại sư Huệ Năng, dễ dạy; hạ
hạ căn cũng dễ dạy, họ không có vọng niệm, dạy họ niệm A-di-đà Phật, họ liền
thành thật niệm, niệm hai ba năm, họ thật sự vãng sanh; chỉ có khúc ở giữa
phiền phức. Khúc ở giữa, quan trọng nhất là phải dùng giáo lý giúp họ hiểu được
chân tướng sự thật, cho nên dạy là đối với người căn tánh trung hạ mà nói. Tại
sao chúng ta không thành thật, tại sao không thể buông xuống? Vì không hiểu
chân tướng sự thật. Tại sao không thể chung sống với người khác? Đó là vì phân
biệt chấp trước quá nặng. Buông xuống phân biệt chấp trước thì dễ chung sống
rồi!
Cho nên thật sự học Phật, bạn xem đức Phật đưa
ra giới luật quan trọng khi chung sống với đại chúng cho chúng ta đó là Lục hòa
kính; Lục hòa kính, tại gia học Phật dùng trong gia đình, xuất gia học Phật
dùng trong đạo tràng. “Kiến hòa đồng giải”, câu nói này hiện nay chúng ta nói
là xây dựng nhận thức chung, mọi người chung sống cùng nhau có cùng nhận thức,
điều này quan trọng nhất, là một điều kiện quan trọng nhất trong hòa hợp. Tu
Tịnh độ, chúng ta không cách nào nâng cao tới cảnh giới Phật, Bồ-tát, vậy chúng
ta y điều gì? Y giới luật, y kinh giáo. Tư tưởng kiến giải của chúng ta lấy
kinh giáo làm tiêu chuẩn, tương ưng với kinh giáo, chánh tri chánh kiến, làm
trái với kinh giáo, tà tri tà kiến, điều này bản thân phải có thể khẳng định.
Lời nói hành vi của chúng ta lấy giới luật làm tiêu chuẩn, phù hợp giới luật,
chánh hạnh, làm trái giới luật, tà hạnh, đây là quy phạm của cuộc sống chúng
ta.
Cho nên chúng ta thường khuyến khích đồng tu,
học Phật bắt đầu học từ đâu? Bắt đầu học từ chung sống với người khác, cũng tức
là tu Lục hòa kính. Bởi vì con người là động vật xã hội, không thể rời khỏi
quần thể, trong gia đình, cha con anh em cũng là một xã hội nhỏ, đoàn thể nhỏ,
trong Phật pháp bốn người gọi là nhất chúng, là đoàn thể, Phật pháp nói bốn
người. Bốn người chung sống trong một nhà, hiện nay gia đình nhỏ rất nhiều, hai
vợ chồng, hai đứa con thì phải học điều gì? Học Lục hòa kính. Tạo thành thói
quen này, trong bất kì trường hợp nào, đều có thể chung sống hòa hợp với hết
thảy mọi người, điều này quan trọng. Không hòa hợp được với đại chúng, không
hòa hợp được với đồng tu, vậy thì càng sai rồi. Làm thế nào có thể chung sống
hòa hợp với dân tộc khác, với tôn giáo khác? Đây gọi là Phật pháp. Trong Phật
pháp không có xung đột, trong Phật pháp không có giới hạn, tại sao vậy? Phá trừ
biên kiến, biên kiến là giới hạn, không có giới hạn, là viên dung, là vô ngại.
Câu hỏi tiếp theo.
Hỏi: đệ tử sao chép lại rất nhiều sách của Phật giáo
và đĩa giảng kinh của pháp sư sau đó lưu hành số lượng lớn, hi vọng có thể rộng
kết pháp duyên với đại chúng, nhưng bị phê bình là Pháp Luân Công, ảnh hưởng
môi trường làm việc của người nhà, xin lão pháp sư từ bi chỉ bảo.
Đáp: mọi người đều biết Pháp Luân Công không phải là
Phật pháp, nhưng pháp luân là ký hiệu của Phật giáo. Họ dùng pháp luân, dùng
danh từ này, cũng dùng hình ảnh này, khiến rất nhiều người trong xã hội đại
chúng hiểu lầm Pháp Luân là Phật giáo, đệ tử Phật chúng ta nhất định phải rõ
ràng, thấu suốt chuyện này, phải giải thích rõ ràng. Tông phái Phật giáo rất
nhiều, có thể thành lập tông phái mới không? Có thể, tông phái đều là người đời
sau thành lập, nhưng mà bất kì tông phái nào nhất định phải căn cứ theo kinh
giáo mà đức Phật thuyết. Pháp Luân Công không có, họ không căn cứ theo kinh
giáo của đức Phật, mà tự mình viết ra, vậy thì vốn không liên quan tới Phật
giáo. Nhưng mà ký hiệu này trong cửa Phật chúng ta không đăng ký bản quyền,
hiện tại bị người khác lấy đi, chúng ta phải chịu tổn hại rất lớn, chướng ngại
sự lưu hành chánh pháp. Từ nhân quả mà nói, tạo tội này vô cùng nghiêm trọng,
phá hoại hình tượng Phật pháp, tội phá hoại hình tượng Phật pháp này tương
đương với phá hòa hợp tăng, làm thân Phật chảy máy, quả báo là địa ngục A-tỳ,
chuyện này là thật. Nhưng mà tôi tin tưởng, họ không tin tưởng, nếu như họ thật
sự tin tưởng, chắc chắn không dám làm như vậy, họ chắc chắn không tin. Hiện nay
nếu như đã tạo thành chướng ngại lớn như vậy đối với Phật pháp, chúng ta nên
tránh né, bản thân chúng ta phải làm đúng, tu hành theo chánh pháp, đừng để xã
hội đại chúng hiểu lầm chúng ta là tà giáo, điểm này quan trọng.
Hiện nay, Phật giáo trong xã hội này, chúng ta
thường nói có sáu hình thức khác nhau, đây là một loại tà giáo, không phải là
Phật pháp chân chánh. Phật pháp chân chánh ít nhất có năm loại, chúng ta nói là
Phật giáo truyền thống, Thích-ca Mâu-ni Phật là truyền thống, ngài cả đời giảng
kinh dạy học, từ 30 tuổi khai ngộ đến 79 tuổi viên tịch, trong kinh thường nói,
“giảng kinh hơn 300 hội, thuyết pháp 49 năm”, thuyết pháp là dạy học. Cả đời Thế
Tôn chưa từng xây chùa chiền, lúc qua đời dưới cây sa-la song thọ, ở trong
rừng, không phải ở trong phòng, ngài làm ra tấm gương tốt nhất cho chúng ta,
thật sự buông xuống. Ngoài ra còn có Phật giáo tôn giáo, hiện nay Phật giáo tôn
giáo thông thường mà mọi người nhìn thấy, đây là biến chất. Phật giáo không
phải là tôn giáo, nhưng mà biến chất thành tôn giáo, chúng ta cũng không thể
phủ nhận. Có Phật giáo học thuật, hiện nay một số ngành triết học trong đại học
dùng kinh luận của Phật làm khóa học nghiên cứu, Phật giáo biến thành học
thuật. Hiện nay chúng ta thấy ở trong nước, có Phật giáo tham quan du lịch, còn
có Phật giáo doanh nghiệp, chúng ta đều phải nhận thức rõ ràng, bản thân chúng
ta rốt cuộc học loại nào, không thể không rõ ràng. Câu hỏi tiếp theo.
Hỏi: liệu có thể đồng thời tu pháp môn niệm Phật trên
nền tảng tu Mật tông không?
Đáp: có thể. Thiền cũng có thể, Mật cũng có thể, Giáo
cũng có thể, như Hoa Nghiêm, Thiên Thai. Bởi vì trong kinh Vô Lượng Thọ, bạn
xem bản hội tập của lão cư sĩ Hạ Liên Cư, trong phẩm Ba Bậc Vãng Sanh tổng cộng
có bốn đoạn, bốn đoạn kinh văn, phía trước là bậc thượng, bậc trung, bậc hạ,
đoạn cuối cùng là nhất tâm ba bậc, đây là Khoa Phán mà pháp sư Từ Châu dùng. Đó
là gì? Đó là học các tông phái khác nhau, đem công đức tu hành hồi hướng cầu
sanh Tịnh độ, đều có thể vãng sanh. Cho nên Mật tông cũng không ngoại lệ, niệm
Phật đương nhiên có thể vãng sanh. Thời cận đại, lão cư sĩ Hoàng Niệm Tổ là tấm
gương rất tốt, ngài là Kim Cang Thượng Sư của Mật tông, lúc ngài vãng sanh là niệm
A-di-đà Phật cầu sanh Tịnh độ. Tôi nghe nói khoảng thời gian trước khi vãng
sanh, mỗi ngày ngài niệm 140.000 câu Phật hiệu, ngài niệm bốn chữ A-di-đà Phật,
A-di-đà Phật mỗi ngày niệm 140.000 câu vãng sanh, đây là ví dụ điển hình. Câu
hỏi tiếp theo.
Hỏi: ở trời Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ là một trong
tám nạn, tám vạn đại kiếp không nghe Phật pháp, tại sao trong kinh Địa Tạng nói
“cho đến trời Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ. Tất cả Thiên chúng, Long chúng, cùng
các chúng Quỉ, Thần đều đến hội họp”?
Đáp: bất kể là cõi nào đều có Phật, Bồ-tát thị hiện
trong đó, cũng đều có người từng trong đời quá khứ nghe qua Phật, Bồ-tát thuyết
pháp ở nhân gian hoặc ở trời Dục giới, trời Sắc giới, đây là hạt giống Phật
pháp trong a-lại-da thức của họ, người có hạt giống thì có duyên, có thể tham
dự pháp hội Địa Tạng ở cung trời Đao-lợi; nếu như người đó chưa từng tiếp xúc
qua, trong a-lại-da thức không có hạt giống Phật pháp thì họ không thể tới tham
dự. Còn về nạn này, là nạn không nghe Phật pháp. Cho nên cũng có trường hợp đặc
thù, đạo lý này không khó hiểu, có con đường đặc thù, có nhân tố đặc thù, có
điều kiện này, họ có thể tham gia. Chúng ta biết dụng ý Phật giảng tám nạn, hi
vọng chúng ta đừng phát tâm tới những chỗ này, tại vì sao? Phật, Bồ-tát không
tới trời Tứ Không độ hóa chúng sanh. Nguyên nhân là gì? Người cõi này ở trong
thiền định thâm sâu, không thích người khác tới làm phiền họ, đạo lý ở chỗ này.
Cho nên nơi đó không có Phật, Bồ-tát tới giáo hóa, trời Tứ Thiền có, trời Tứ
Không không có. Nói đó là một trong tám nạn, là khuyên chúng ta đừng phát tâm
tới nơi đó, dụng ý ở chỗ này, chúng ta không thể không biết. Câu hỏi tiếp theo.
Hỏi: con của đệ tử năm nay 12 tuổi, thường có thể
nhìn thấy chúng sanh tới tham gia Tam Thời Hệ Niệm, nói chuyện, kể chuyện cười
với họ, xin hỏi đứa trẻ như vậy có bị ảnh hưởng không? Nên làm thế nào mới tốt?
Đáp: đứa trẻ này có linh tánh. Đương nhiên không phải
đứa trẻ nào cũng có, nhưng mà đứa trẻ có năng lực này đích thực không ít, chúng
có thể nhìn thấy những thứ mà người bình thường chúng ta không nhìn thấy, chúng
nhìn thấy được. Nhìn thấy cũng không sao, dần dần trưởng thành, vọng niệm của
chúng nhiều, chúng sẽ không nhìn thấy nữa. Chứng minh rằng lúc nhìn thấy vọng
niệm của chúng ít, tâm địa thanh tịnh chúng mới có thể thấy được.
Hỏi: con trẻ chuyên đọc Đệ Tử Quy, lại thêm kinh
A-di-đà làm thời khóa cố định, xin hỏi như vậy có đúng pháp không?
Đáp: có thể. Tốt nhất, chúng là trẻ nhỏ, đọc Đệ Tử
Quy, đọc Cảm Ứng Thiên, đọc kinh Thập Thiện Nghiệp Đạo, đây là gốc rễ của Nho
Thích Đạo, từ nhỏ cắm gốc rễ này tốt. Kinh Di-đà qua hai năm sau hãy đọc cũng
không sao, trước tiên phải cắm vững gốc rễ.
Hỏi: thứ hai, con trẻ từng hỏi con: mẹ ơi, bây giờ
con niệm Phật có thể vãng sanh không? Nếu như đứa trẻ thật sự có thể vãng sanh,
đối với người xung quanh chưa học Phật liệu có tạo ra ảnh hưởng không tốt
không?
Đáp: có ảnh hưởng tốt, cũng có ảnh hưởng không tốt. Ảnh
hưởng không tốt, sợ là người bình thường họ có con cái, nhìn thấy đứa trẻ niệm
Phật vãng sanh, họ không dám cho con cái học Phật, đây là ảnh hưởng không tốt.
Ảnh hưởng tốt đó là con trẻ niệm Phật đều có thể vãng sanh, người lớn chúng ta
càng nên nỗ lực, lấy chúng làm gương. Cho nên ảnh hưởng này có hai mặt, không
chỉ là một mặt.
Hôm nay đã hết thời gian, chúng ta giải đáp tới
đây thôi.