TỊNH ĐỘ ĐẠI KINH KHOA CHÚ 2014-2017
(Giảng lần thứ 4)
PHẨM 2: ĐỨC TUÂN PHỔ HIỀN:
Tuân Tu Đức Của Phổ Hiền
Tập 107
Hòa thượng Thích Tịnh Không chủ giảng.
Giảng tại: Tịnh Tông Học Viện Australia.
Thời gian: Ngày 12 tháng 09 năm 2014.
Dịch giả: Chân Hạnh Ánh.
Giảo chánh: Thích Thiện Trang.
Ban Biên Dịch Hoa Tạng
Huyền Môn.
Kính
chào chư vị Pháp sư, chư vị đồng học, kính mời ngồi. Mời mọi người cùng tôi quy
y Tam Bảo: “A-xà-lê tồn niệm, ngã Đệ tử Diệu Âm, thỉ tùng kim nhật, nãi chí mạng
tồn, quy y Phật-Đà, lưỡng túc trung tôn, quy y Đạt-Ma, ly dục trung tôn, quy y
Tăng-Già, chư chúng trung tôn” (3 lần).
Mời xem Đại Kinh Khoa Chú: trang thứ
335, trang 335, hàng thứ năm từ trái sang, bắt đầu xem từ câu thứ hai: 又《智度論》曰:從首楞嚴三昧乃至虛空際無所著解脫三昧,又如見一切佛三昧,乃至一切如來解脫修觀師子頻呻等,無量阿僧祇菩薩三昧。
“Hựu Trí Độ
Luận viết: Tùng Thủ Lăng Nghiêm Tam-muội nãi chí Hư Không Tế Vô Sở Trước Giải
Thoát Tam-muội, hựu như kiến nhất thiết Phật Tam-muội, nãi chí nhất thiết Như
Lai giải thoát tu quán Sư Tử Tần Thân đẳng, vô lượng A-tăng-kỳ Bồ-tát Tam-muội” (Và trong Trí Độ Luận có
ghi: Từ Thủ Lăng Nghiêm Tam-muội cho đến Hư Không Tế Vô Sở Trước Giải Thoát
Tam-muội, lại như thấy Tam-muội của tất cả Phật, cho đến tất cả Như Lai giải
thoát tu quán Sư Tử Tần Thân, vân vân, vô lượng A-tăng-kỳ Tam-muội của Bồ-tát).
Đây là đoạn nói trong Đại Trí Độ Luận. Một đoạn lớn tập chú của Niệm lão, đều
là giảng đến Hoa Nghiêm Tam-muội, trăm ngàn Tam-muội. Tam-muội là tiếng Phạn, dịch
thành ý nghĩa nước ta là Chánh thọ, Đẳng trì, rất nhiều tên gọi, phía trước
chúng ta đều học tập qua, giải thích tỉ mỉ: đều có ở trong tài liệu tham khảo của
chúng ta, tra cứu vô cùng thuận tiện, giúp chúng ta tiết kiệm không ít thời
gian. Chánh thọ, thực tế giảng chính là Thiền định, Thiền định chính là hưởng thụ
bình thường. Hưởng thụ bình thường chính là không có tạp niệm, không có Vọng tưởng,
không có Phân biệt Chấp trước, đó là bình thường. Có Khởi tâm động niệm, có
Phân biệt Chấp trước thì không bình thường. Hoặc như ngày nay chúng ta nói, hưởng
thụ của thân thể, thân thể là hiện tượng vật chất; hưởng thụ của tâm lý, hưởng
thụ của tâm lý chính là Tam-muội. Tâm lý của chúng ta ngày nay, không đạt được
hưởng thụ tốt, hưởng thụ thực sự, trước giờ chưa từng đạt được. Hưởng thụ của
chúng ta luôn luôn không rời khỏi: Khởi tâm động niệm, Phân biệt chấp trước, Khởi
tâm động niệm ở Phật pháp xưng là: Vô thỉ Vô minh phiền não, Khởi tâm động niệm,
Phân biệt là Trần sa phiền não, Chấp trước là Kiến tư phiền não, hưởng thụ của
chúng ta, hưởng thụ tinh thần, luôn không rời khỏi ba loại này. Ba loại phiền
não này, trên kinh luận nói rõ ràng với chúng ta, sáu đường luân hồi từ đâu mà
đến? Từ Phân biệt Chấp trước mà đến. Phân biệt Chấp trước, Chấp trước chính là
Kiến tư Phiền não, nếu đã đoạn Kiến tư phiền não, thì không còn luân hồi nữa.
Luân hồi là giả, giống như nằm mộng vậy, mộng huyễn bào ảnh, chư vị thực sự
không Chấp trước, thì tâm thanh tịnh hiện ra. Chấp trước là ô nhiễm, tâm thanh
tịnh hiện ra thì tỉnh ngộ lại rồi, không thấy sáu đường luân hồi nữa, như chúng
ta nằm mộng tỉnh dậy. Nhưng mà, tuy không còn sáu đường nữa, đã đoạn Kiến tư
phiền não, mà chưa đoạn Trần sa, chưa đoạn Vô minh, họ tỉnh lại là tình hình thế
nào? Hiện tượng tỉnh lại là mười Pháp giới; Pháp giới Thanh văn, Pháp giới
Duyên giác, Pháp giới Bồ-tát, Pháp giới Phật, gọi là Tứ Thánh Pháp giới, thêm
sáu đường, là Tứ Thánh Lục Phàm.
Hiện nay chúng ta rất bất hạnh, đọa
trong Lục phàm, quá khó quá khó để ra khỏi luân hồi, đời đời kiếp kiếp vô lượng
kiếp đến nay đều chưa thể thoát khỏi. Ngay ở trong đời này, chúng ta gặp được
cơ hội hy hữu khó gặp, chính là Phật pháp. Phật pháp có 84 ngàn Pháp môn, có vô
lượng Pháp môn, môn nào cũng phải đoạn phiền não chứng Bồ-đề. Đoạn phiền não
nào? Đoạn Kiến tư phiền não, chứng quả A-la-hán, vượt khỏi sáu đường luân hồi;
Đoạn Trần sa phiền não, đoạn Vô minh phiền não, thì minh Tâm kiến Tánh. Đoạn Trần
sa chưa kiến Tánh, chư vị chưa ra khỏi mười Pháp giới, chư vị tu hành trong mười
Pháp giới. Tu đến quả vị Phật ấy, Phật của mười Pháp giới, là Tương Tự Tức Phật
trong Lục Tức Phật: mà Đại sư Thiên Thai đã nói, dạng rất giống Phật, mà không
phải Phật thật, chính là Phật của mười Pháp giới. Thế nào mới gọi là Phật thật?
Chân vọng của Đại thừa là dùng tâm để biện biệt, bậc dùng Chân Tâm chính là
Chân Phật, bậc dùng Vọng Tâm chính là Tương Tự Tức Phật. Tu Giới Định Huệ cũng
khá, rất giống hình dáng của Phật, nhưng chưa chuyển thức thành trí, vẫn là
dùng 8 thức 51 tâm sở như xưa, đó gọi là Tương Tự Tức Phật, tu hành ở Tứ Thánh
Pháp giới trong mười Pháp giới, tu đến thành Phật. Đức Phật tu thế nào? Đức Phật
đoạn Vô minh. Vô minh chính là Khởi tâm động niệm, vô cùng vi tế, chúng ta
không có cách nào phát hiện được.
Chúng ta thấy được trên kinh điển: Bồ-tát
Di Lặc đối thoại với đức Thế Tôn, đức Thế Tôn hỏi Bồ-tát Di Lặc, thực ra đều là
vì chúng ta mà chỉ dạy, hỏi Bồ-tát rằng: 心有所念 “tâm hữu sở niệm” (ý niệm có bởi tâm), phàm
phu, phàm phu sáu đường khởi ý niệm, trong tâm có ý niệm, đức Phật hỏi trong ý
niệm ấy, 幾念幾相識耶? “kỷ niệm kỷ tướng thức da?” (có mấy niệm mấy tướng thức?) Mấy
niệm chính là ý niệm vi tế, chúng ta không biết, bao nhiêu ý niệm vi tế: tạo
thành một ý niệm thô lớn rõ ràng, để chúng ta có thể phát hiện được. Bồ-tát Di
Lặc trả lời rằng: 一彈指有三十二億百千念 “Nhất đàn chỉ hữu tam thập nhị ức bá
thiên niệm” (Một gảy ngón tay có 32 ức
trăm ngàn niệm), ý niệm
vi tế. Thời gian một gảy ngón tay này, có bao nhiêu ý niệm vi tế? 32 ức trăm
ngàn niệm. Trăm ngàn là 10 vạn, 32 ức nhân với 10 vạn, cũng chính là 320 ngàn tỷ.
Một gảy ngón tay có 320 ngàn tỷ ý niệm vi tế: tạo thành một ý niệm thô, chúng
ta có thể cảm nhận được niệm thô này, mà không cảm giác được niệm vi tế. Hình
thành thế nào? A-lại-da là tâm sanh diệt, tốc độ sanh diệt là nhanh như vậy,
trong khoảng một gảy ngón tay, niệm trước diệt niệm sau sanh, niệm trước diệt
niệm sau sanh, tổng cộng niệm trước diệt bao nhiêu lần, niệm sau sanh bao nhiêu
lần? 320 ngàn tỷ lần, đơn vị là ngàn tỷ, chúng ta không cách nào tưởng tượng được.
Đó là gì? Đó là chân tướng sự thật, Thật tướng các pháp đã nói trên kinh Đại thừa,
đó là Khoa học được giảng trên kinh Phật.
20 năm gần đây, nhà Khoa học mới phát
hiện neutrino, neutrino là gì? Chính là một niệm giảng trên kinh Phật, được nhà
Khoa học phát hiện rồi. Thiết bị Khoa học hiện đại: thực sự vô cùng tiến bộ, có
thể nắm bắt đến một phần 100 ngàn tỷ giây, có thể nắm bắt được. Căn cứ theo
cách nói này của Bồ-tát Di Lặc, một gảy ngón tay có 32 ức trăm ngàn niệm, chính
là 320 ngàn tỷ, một giây có thể gảy mấy lần? Có người nói với tôi có thể gảy bảy
lần, vậy nhân bảy, nhân bảy chính là một giây có: hơn 2 triệu 100 ngàn tỷ. 3
nhân 7 là 21, hơn 2 triệu 100 ngàn tỷ sanh diệt, được nhà Cơ học lượng tử hiện
đại nhìn thấy rồi. Tôi thấy được báo cáo Khoa học: là báo cáo của ngài Tiến sĩ
Max Planck nước Đức, Tiến sĩ Max Planck là thầy của ông Einstein, là nhà Khoa học
lớn nổi tiếng trên thế giới, ông đã qua đời rồi. Kết luận của ông nói với chúng
ta, căn cứ theo kết quả nghiên cứu trong thời gian cả đời của ông, mà đưa ra
báo cáo, thì trên thế giới này căn bản là không có: những thứ vật chất tồn tại,
đó là tổng kết luận mà ông đạt được. Vật chất là giả, là ảo tướng sanh ra ngay
trong sát-na sanh diệt, bao gồm thân thể của chính chúng ta, hoàn cảnh cuộc sống
của chúng ta, toàn bộ là giả tướng, cho nên hoàn toàn tương ưng với lời đã nói
trên Kinh Kim Cang: 凡所有相皆是虛妄 “Phàm sở hữu tướng, giai thị hư vọng” (Những gì có tướng, đều
là hư vọng), kết quả nghiên cứu của ông Max Planck chứng minh: câu này
trong Kinh Kim Cang: là thật sự, không phải giả.
Đức Phật
dùng tỉ dụ để nói: 一切有為法,如夢幻泡影 “Nhất thiết hữu vi pháp, như mộng
huyễn bào ảnh”. (Tất cả pháp hữu
vi, như mộng huyễn bọt ảnh). Pháp hữu vi chính là có sanh có diệt, hễ là pháp có sanh
có diệt: thì là mộng huyễn bọt ảnh, thực sự không thể được. Không thể được, mà
chúng ta nhất định muốn được, đó là làm khó người, không đạt được! Đó là Vọng
tưởng, không phải sự thật. Cho nên sáng tỏ đạo lý này, hiểu rõ chân tướng sự thật
này, thì Phật Bồ-tát dạy chúng ta buông xuống, chúng ta mới thực sự cam tâm
tình nguyện buông xuống, vì sao vậy? Bởi không thể được. Không thể được, mà chư
vị muốn được, đó là hư ảo, không phải sự thật. Nhất định phải đem sự việc này:
làm rõ ràng, làm sáng tỏ. Vật chất từ đâu mà đến? Trong kinh Đại thừa thường
nói: 相由心生 “tướng do tâm sanh”, tướng chính là hiện tượng vật chất;
色由心生 “Sắc do tâm sanh”, sắc cũng là hiện tượng vật chất, sắc
thọ tưởng hành thức, sáu trần dùng sắc làm đại biểu. Cho nên hiện tượng vật chất
từ đâu mà đến? Do ý niệm sanh ra. Nhà Khoa học thấy được điều ấy rồi, họ phá vỡ
neutrino, sau khi phá vỡ thì không còn hiện tượng vật chất nữa. Neutrino ấy:
chính là Cực vi chi vi được giảng trên kinh Phật, Cực vi sắc, cũng gọi là Lân
hư trần, hạt ấy rất gần với hư không, chư vị vừa phá vỡ hạt ấy thì hư không hiện
ra, không thấy hiện tượng vật chất nữa. Không thấy nữa, thì thấy điều gì? Nhìn
thấy tần số của sóng ý niệm, sinh ra hiện tượng vật chất, thời gian tồn tại, mà
y theo cách nói của nhà Khoa học, thời gian tồn tại thực sự của hiện tượng vật
chất là: một phần 2 triệu 100 ngàn tỷ của giây, trong một giây đã sanh diệt: 2
triệu 100 ngàn tỷ lần, quá nhanh rồi.
Ngày nay chúng ta xem ti-vi, hình ảnh
của ti-vi ngày nay là do sanh diệt, sanh diệt bao nhiêu lần? 100 lần, [trong] một
giây, 1% giây. Trên thực tế chúng ta nhìn thấy hoàn cảnh đời sống: là một phần
2 triệu 100 ngàn tỷ giây, chính là một giây: sanh diệt 2 triệu 100 ngàn tỷ lần.
Hình ảnh của ti-vi chúng ta trong một giây: sanh diệt là 100 lần, không thể so
sánh, chúng ta ngộ nhận cho là thật. Sáu đường như vậy, mười Pháp giới cũng như
vậy, không có điều gì là ngoại lệ. Cho nên nhất định phải buông xuống Chấp trước,
buông xuống Kiến tư phiền não, buông xuống Trần sa phiền não, Trần sa là Phân
biệt. Buông Chấp trước, Phân biệt xuống, đó là Bồ-tát, chưa thấy Tánh. Sau
cùng, ở Pháp giới Tứ Thánh, trên quả vị của Pháp giới Phật, thực sự buông xuống
Khởi tâm động niệm. Khởi tâm động niệm là Căn bản Vô minh, trên kinh Đại thừa
nói là nhất niệm bất giác. Một niệm bất giác chính là A-lại-da, chính là Vô thỉ
Vô minh, cũng chính là Khởi tâm động niệm mà chúng ta giảng, quá vi tế rồi,
chúng ta căn bản là không có cách nào lãnh hội được. Không những chúng ta không
lãnh hội được, mà A-la-hán, Bích-chi-phật cũng không lãnh hội được. Bậc nào có
thể lãnh hội được? Minh Tâm kiến Tánh. Minh Tâm kiến Tánh, ở Viên giáo là Sơ trụ
Bồ-tát, Biệt giáo là Sơ địa Bồ-tát, lúc đó chuyển tám thức thành bốn trí, thì
không còn hiện tượng sanh diệt nữa, cũng chính là không còn hiện tượng sóng dao
động nữa, Đại thừa giáo xưng cảnh giới ấy là Nhất chân Pháp giới, cảnh ấy là thật,
chỉ có một, mãi mãi là một, nên gọi là Nhất chân.
Trong Nhất chân không có pháp sanh diệt,
có tướng hay không? Có tướng, có thể hiện tướng, Thật Báo Trang Nghiêm độ chính
là Nhất chân Pháp giới, Thật là chân thật, chân thật là nói về tướng được hiện
của Chân Tánh, Chân Tâm. Trên Kinh Hoa Nghiêm có nói: tâm hiện là thật, Nhất
chân Pháp giới, thức biến là mười Pháp giới. Biến Nhất chân Pháp giới thành mười
Pháp giới, đó chính là Vô minh, Vô minh sẽ biến, Y chánh trang nghiêm của mười
Pháp giới chính là tâm hiện thức biến. Chuyển thức thành trí, không còn bộ phận
của thức biến nữa, đó chính là không còn mười Pháp giới nữa, bổn lai diện mục
hiện ra, bổn lai diện mục chính là Nhất chân Pháp giới. Ở trong cõi nước của đức
Phật Thích Ca Mâu Ni: là thế giới Hoa Tạng, thế giới Hoa Tạng: là Báo độ của đức
Phật Thích Ca Mâu Ni, Thật Báo Trang Nghiêm độ. Thế giới Cực Lạc cũng có, thế
giới Cực Lạc cũng có Thật Báo độ, nói cách khác, cõi Phương Tiện, cõi Đồng Cư vẫn
chưa thấy Tánh. Nhưng Tịnh Độ của đức Di Đà thù thắng nhất, không những chúng
ta không thể nghĩ bàn, mà chư Phật Bồ-tát cũng không thể nghĩ bàn, đó chính là
bốn cõi của Cực Lạc: đều là tâm hiện, không có thức biến. Đó là nguyên nhân gì?
Bởi công đức nguyện lực 48 nguyện: của đức A Di Đà Phật đã thành tựu, do đại
nguyện thành tựu. Đại nguyện ấy không thể thành tựu: thì Ngài không thành Phật,
thề không thành Phật. Ngày nay Ngài đã thành Phật mười kiếp, nói cách khác, 48
nguyện ấy nguyện nào cũng thành tựu, đều thực hiện rồi.
Sanh đến thế giới Cực Lạc, chúng ta
mang theo nghiệp vãng sanh, sanh Phàm Thánh Đồng Cư độ, nơi thấp nhất của Phàm
Thánh Đồng Cư độ: là Hạ hạ phẩm, cho dù là vãng sanh nơi ấy, sanh đến thế giới
Cực Lạc. Được oai thần bổn nguyện của A Di Đà Phật gia trì, 皆作阿惟越致菩薩
“giai tác
A-duy-việt-trí Bồ-tát” (đều làm A-duy-việt-trí Bồ-tát). Chúng ta phải ghi nhớ Kinh văn này. A-duy-việt-trí là bậc
nào? Chứng viên mãn ba loại không thoái chuyển. Ba loại không thoái chuyển ấy
là Vị bất thoái, A-la-hán chứng được; Hạnh bất thoái, Bồ-tát chứng được; Niệm bất
thoái, Bồ-tát minh Tâm kiến Tánh chứng được, cõi Thật Báo. Cõi Thật Báo là Niệm
bất thoái, cõi Phương Tiện là Hạnh bất thoái, cõi Đồng Cư là Vị bất thoái. Đó
là mười phương thế giới không tìm thấy nơi thứ hai, chỉ có thế giới Tây Phương
Cực Lạc: của A Di Đà Phật đặc biệt. Cho nên chư Phật Như Lai tán thán đức Di Đà
là: 光中極尊,佛中之王 “Quang trung cực tôn, Phật trung chi Vương” (Ánh sáng tôn quý nhất
trong các ánh sáng, Vua trong chư Phật). Chúng ta phải ghi nhớ, A Di Đà Phật:
là do mười phương chư Phật Như Lai tán thán. Nếu chúng ta không cung kính đối với
A Di Đà Phật, thậm chí còn nói: năng lực của A Di Đà Phật vẫn là có hạn, còn có
thể cao siêu hơn A Di Đà Phật, đó cũng là không cung kính đối với A Di Đà Phật,
thì chúng ta đã trái ngược với lễ kính chư Phật rồi. Chúng ta cần phải học tập
chư Phật, chư Phật tán thán, chúng ta tán thán; Chư Phật không khen ngợi, thì
chúng ta không khen ngợi; Noi theo chư Phật, học tập theo chư Phật. Hơn nữa
ngay trong đời này, thực sự phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ, thì công phu của
chúng ta: thành tựu viên mãn ngay trong đời này, thật không thể nghĩ bàn.
Bất kỳ tu hành Pháp môn nào, chư vị là
Tiểu thừa, chứng đắc Sơ quả, Sơ quả muốn chứng A-la-hán, thì bảy lần qua lại
trên trời nhân gian. Bậc Tu-đà-hoàn, hết thọ mạng ở nhân gian rồi thì ngài sanh
cõi trời, ngài nhất định không đọa ba đường ác, cũng sẽ không đến đường Tu-la,
ngài nhất định ở hai đường nhân gian và trên trời, có giới hạn. Hết thọ mạng
trên trời rồi thì đến nhân gian, hết thọ mạng nhân gian rồi thì sanh lên trời,
bảy lần qua lại thì chứng quả A-la-hán, vượt khỏi sáu đường luân hồi, khó biết
bao! Thọ mạng của nhân gian ngắn, thọ mạng trên trời dài, trời Đao Lợi không
cao, tầng thứ hai, một ngày của trời Đao Lợi là 100 năm ở nhân gian, thọ mạng
1000 tuổi. 1000 năm của trời Đao Lợi, cũng là tính một năm [có] 365 ngày, chư vị
nói thọ mạng của họ dài bao nhiêu, đó là quả báo, phước báo. Sống hết 100 tuổi ở
thế gian này của chúng ta, với người trời Đao Lợi, là sáng sanh chiều chết, chỉ
một ngày. Trời Dạ Ma thêm gấp đôi, một ngày của trời Dạ Ma là 200 năm của nhân
gian. Trời Đâu Suất lại tăng gấp đôi, Đâu Suất có Nội viện, có Ngoại viện, Ngoại
viện là Phàm phu thiên, Nội viện là Đạo tràng của Bồ-tát Di Lặc, một ngày là
400 năm của nhân gian, chư vị nghĩ xem thọ mạng 4000 tuổi. Bồ-tát Di Lặc hết thọ
mạng ở trời Đâu Suất rồi, mới hạ sanh đến nhân gian này của chúng ta, thị hiện
tám tướng thành đạo, ba hội Long Hoa. Khi nào thì đến? Trời Đâu Suất: thọ mạng
4000 tuổi hết rồi ngài mới đến, đổi theo thế gian này của chúng ta: là 56 ức 7
ngàn vạn năm.
Có không ít người tu Di Lặc Tịnh Độ,
lão Hòa thượng Hư Vân thật sự đến rồi, không phải giả, ngài ở Nội viện Đâu Suất.
Ngoài ra tôi cũng từng thấy mấy người, vậy chưa được, chưa rời khỏi luân hồi,
chưa lìa khỏi, không dễ dàng! Dễ thành tựu nhất chính là Di Đà Tịnh Độ, thù thắng
không gì bằng, chỉ cần thật tin, không có mảy may nghi ngờ, thật bằng lòng đến,
thật muốn đến, phương pháp đến chính là: nhất tâm chuyên niệm A Di Đà Phật. Lão
Hòa thượng Hải Hiền: làm ra tấm gương tốt nhất cho chúng ta, vậy thì chúng ta
có thể làm được. Đoạn phiền não, chúng ta muốn chứng Sơ quả của Tiểu thừa,
chúng ta không nắm chắc, không làm được, phải đoạn tận 88 phẩm Kiến hoặc của
Tam giới, quá khó rồi! Thân kiến, Biên kiến, Kiến thủ, Giới thủ, Tà kiến, năm
loại kiến giải sai lầm lớn này: thảy đều đoạn hết, sau khi đã đoạn gọi là Chánh
tri Chánh kiến. Đã đoạn Kiến hoặc, mà vẫn chưa đoạn Tư hoặc, thì lại qua lại
trên trời nhân gian bảy lần, để đoạn tận 81 Kiến tư. Tư hoặc là gì? Năm loại lớn:
tham sân si mạn nghi, mới có thể thoát khỏi sáu đường luân hồi, mới có thể vượt
khỏi sanh tử của Tam giới, khó biết bao.
Lúc trẻ tuổi, chính chúng tôi rất tự
phụ, bảo tôi thật thà niệm Phật, thì không cam tâm, đó là dạy cho bà lão, nên
không coi trọng. Đã học 60 năm mới biết, quá khứ hoàn toàn sai rồi, chưa chăm
chỉ học. Phải chăm chỉ học, thì thành tựu giống như lão Hòa thượng Hải Hiền,
chúng ta đều có thể đạt được, người nào cũng có thể đạt được, chỉ cần chuyên nhất.
Cho nên lãnh hội sâu sắc được, lý niệm dạy học của cổ Thánh tiên Hiền: 一門深入,長時薰修
“Nhất môn
thâm nhập, trường thời huân tu” (Thâm nhập một môn, huân tu lâu dài); Phương pháp
dạy học: 讀書千遍,其義自見 “Độc thư thiên biến, kỳ nghĩa tự kiến” (Đọc sách ngàn lần, tự
thấy nghĩa của sách). Tự thấy chính là đại triệt đại ngộ, minh Tâm kiến Tánh,
điều gì cũng biết. Tự thấy dựa vào điều gì? Dựa vào Thiền định, dựa vào Tam-muội.
Dùng phương pháp niệm Phật để tu thành Tam-muội, gọi là niệm Phật Tam-muội.
Tam-muội đắc được là như nhau. Vậy công phu của chư vị sâu cạn khác nhau, thì
Tam-muội cũng sâu cạn khác nhau. Phương pháp chư vị dùng không giống nhau, thì
danh xưng của Tam-muội cũng không giống nhau, kỳ thực là như nhau. Nhân giới đắc
định, định chính là Tam-muội; Nhân định khai huệ, khai huệ chính là đại triệt đại
ngộ, minh Tâm kiến Tánh. Phải không ngừng nâng cao lên trên, cần nắm chắc vô lượng
môn Đà-la-ni: đã giảng ở trên Kinh, chính là nắm chắc tổng cương lĩnh của tu học,
Đà-la-ni chính là tổng cương lĩnh, tổng tất cả pháp, trì tất cả nghĩa, là pháp
môn tổng trì, một câu A Di Đà Phật tổng tất cả pháp, 84 ngàn Pháp môn: đều cô đặc
ngay trong một môn, vô lượng Pháp môn cũng cô đặc ngay trong môn này, A Di Đà
Phật. Trong A Di Đà Phật có vô lượng nghĩa, vô lượng Pháp môn, vô lượng nghĩa:
đều ở ngay trong câu danh hiệu này.
Pháp sư
Quán Đảnh thời tiền Thanh, ngài Từ Vân Quán Đảnh cũng là Đại đức tài giỏi, chú
giải của ngài vô cùng phong phú, trong Vạn Tục Tạng của Nhật Bản: sưu tập có
hơn 20 loại. Ngài nói với chúng ta, quá khứ tôi giảng Kinh Quán Vô Lượng Thọ,
tham khảo chú giải của Đại sư Quán Đảnh, trong ấy có một câu nói: đặc biệt khắc
sâu với tôi. Ngài nói người có tội nghiệp cực nặng, tất cả kinh, sám pháp: đều
đã mất hiệu lực, không linh với họ, tội nghiệp của họ rất nặng, sau cùng còn có
một cách có thể cứu họ, cách đó là gì? Chính là nhất tâm chuyên niệm A Di Đà Phật.
Lời đó là thật, không phải giả, không phải lừa gạt người. Cho nên trên kinh còn
nói, xưng niệm một tiếng A Di Đà Phật, diệt 80 ức kiếp trọng tội trong sanh tử,
một niệm. Chúng ta làm luân hồi ở thế gian này, vô lượng kiếp lại vô lượng kiếp,
không chỉ 80 ức kiếp, 80 ức kiếp quá ít rồi, mới biết nghiệp chướng của chính
mình sâu nặng. Pháp sư Quán Đảnh nói với chúng ta, phương pháp niệm Phật này,
tín nguyện trì danh, vãng sanh Tịnh Độ, thì nghiệp tiêu mất. Đến thế giới Cực Lạc
của A Di Đà Phật: thì ngang với minh Tâm kiến Tánh, đại triệt đại ngộ, địa vị Bồ-tát
Sơ trụ của Viên giáo, Sơ địa của Biệt giáo: chư vị liền đạt được, thực sự là một
bước lên trời. Tuyệt đối không thể làm mất cơ hội này.
Thế gian thứ gì cũng là giả, Phật pháp
cũng không phải thật. Trên Kinh Kim Cang nói rõ ràng với chúng ta: 法尚應捨,何況非法
“Pháp thượng
ưng xả, hà huống phi pháp” (Pháp còn phải xả, huống hồ chẳng phải pháp), phi
pháp là chỉ pháp thế gian, pháp là chỉ Phật pháp. Phật pháp sanh bởi duyên, nên
cũng có sanh diệt, không sanh không diệt mới là thật. Không sanh không diệt,
không lập một pháp trong Tự Tánh, không có một pháp, lúc khởi tác dụng thì có
thể hiện tất cả pháp, lúc không khởi tác dụng thì một pháp cũng không có, cho
nên gọi là Chân không. Chân không bất không, đó không phải vô, nếu gặp được
duyên thì có thể hiện. Nếu chúng ta đã khai ngộ, đại triệt đại ngộ, minh Tâm kiến
Tánh, chúng ta liền thấy được Nhất chân Pháp giới. Không tu Tịnh Độ thì thấy thế
giới Hoa Tạng, Thật Báo độ của đức Phật Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn, là thế giới
Hoa Tạng; Niệm A Di Đà Phật, sanh Thật Báo độ của thế giới Cực Lạc. Cơ hội này
không phải ngàn năm khó gặp, mà là vô lượng kiếp lại vô lượng kiếp, quá khó gặp
được rồi! Đời này gặp được phải quý trọng, ngàn vạn lần đừng bỏ lỡ cơ hội này,
điều gì cũng có thể buông xuống, nhưng không thể buông xuống A Di Đà Phật. Ngay
khi chúng ta niệm đến công phu Thành phiến, A Di Đà Phật nhất định đến ứng,
chúng ta có cảm, Phật liền có ứng. Phật có ứng, thì tâm của chư vị an tâm. Tôi
thấy được A Di Đà Phật, tôi vẫn có thể không tin sao? Tôi nhìn thấy thế giới Cực
Lạc, tôi vẫn có thể không đến sao? Chúng ta dùng: phương pháp niệm một câu A Di
Đà Phật này: để tu Tam-muội, đó gọi là Niệm Phật Tam-muội.
Chúng ta xem tiếp phần tiếp theo: 如是等諸三昧無不具足,故云具足成就百千三昧
“Như thị đẳng
chư Tam-muội vô bất cụ túc, cố vân cụ túc thành tựu bá thiên Tam-muội” (Các Tam-muội như vậy
không gì chẳng đầy đủ, nên nói thành tựu đầy đủ trăm ngàn Tam-muội). 論中 “Luận trung” (trong Luận) lại
nói, đây là lời trong Đại Trí Độ Luận: 復云:於一一三昧中得無量陀羅尼
“Phục vân: ư
nhất nhất Tam-muội trung đắc vô lượng Đà-la-ni” (Lại nói rằng: ở trong mỗi một Tam-muội
đắc vô lượng Đà-la-ni), 陀羅尼即是總持,是故經云:具足總持百千三昧。 “Đà-la-ni tức thị Tổng trì, thị cố
kinh vân: cụ túc Tổng trì bá thiên Tam-muội”. (Đà-la-ni chính là Tổng trì, cho
nên kinh nói rằng: đầy đủ Tổng trì trăm ngàn Tam-muội). Thế nào mới có thể
làm được? Người tín nguyện trì danh có thể làm được.
Chúng ta xem tiếp phần sau, đoạn kinh
văn: 從體起用 “tùng thể khởi dụng” (từ thể khởi dụng) này. Chia
làm hai khoa: 壬一、定睹諸佛,壬二、遍遊佛土 “Nhâm nhất, định đổ chư Phật, Nhâm
nhị, biến du Phật độ” (I1. Trong định thấy chư Phật, I2. Dạo khắp cõi Phật), không thể
nghĩ bàn, nguyện vọng duy nhất của người học Phật: chính là hy vọng thấy Phật.
Kinh văn chỉ có hai câu:
【住深禪定。悉睹無量諸佛。】“Trụ thâm
Thiền định, tất đổ vô lượng chư Phật” (Trụ Thiền định
sâu, đều thấy vô lượng chư Phật).
Thiền định sâu, mấu chốt là chữ ‘sâu’
này. Nếu không được oai thần của đức Di Đà gia trì, bởi Thiền định của chúng ta
không đủ sâu. Đã gặp mặt A Di Đà Phật, thì Thiền định dần dần sâu hơn. Hiện tượng
của sâu là gì? Không những chư vị thấy được thế giới Cực Lạc, thấy đầu tiên ở
thế giới Cực Lạc, là thấy A Di Đà Phật trước tiên, sau đó thì chư vị có thể thấy
được: khắp Pháp giới hư không giới quá khứ hiện tại vị lai: vô lượng vô biên
chư Phật Như Lai, vô lượng vô biên cõi nước của chư Phật, đều thấy được tất cả,
vậy thì có thể không vãng sanh sao? Chúng ta xem Chú Giải của Niệm lão: 『住深禪定,悉睹無量諸佛』“Trụ thâm Thiền định, tất đổ
vô lượng chư Phật” (Trụ Thiền định sâu, đều thấy vô lượng chư Phật). 住深禪定者,安住於深妙之禪定
“Trụ thâm
Thiền định giả, an trụ ư thâm diệu chi Thiền định” (Trụ Thiền định sâu là, an trụ
nơi Thiền định sâu mầu). Thiền định sâu mầu là thế nào? Đức Thế Tôn đã từng
giảng trên Kinh Đại Tập, một câu A Di Đà Phật này chính là Thâm diệu thiền. Vậy
phải thực hiện thế nào? Niệm Phật chính là tu Thâm diệu thiền, có thể nói Tịnh
[Độ] không có liên hệ với Thiền sao? Liên hệ vô cùng mật thiết. Nhưng người niệm
Phật không biết, còn muốn học Thiền tông, đi tĩnh tọa, đi tham Thiền, để giúp
cho công phu niệm Phật, làm sai rồi. Thực sự hiểu được, lão Hòa thượng Hải Hiền.
Chư vị xem, ngài từ sáng sớm thức dậy, vừa thức dậy liền đề khởi Phật hiệu,
ngài không quên mất. Bất luận làm công việc gì, thì Phật hiệu trong tâm đều
không gián đoạn, công việc vẫn làm. Ngài ở trong Đạo tràng vô cùng chịu khó,
sáng sớm thức dậy nấu cơm, làm bữa sáng cúng dường đại chúng, mà niệm Phật
không gián đoạn. Nấu cơm, chẻ củi, ở dưới quê ngài đốt bếp lò, đều không để lỡ
niệm Phật. Đến làm việc trong vườn, cũng không để lỡ niệm Phật. Xử việc đối người
tiếp vật, trong tâm đều không gián đoạn Phật hiệu.
Tôi từng thấy một người, cũng là thầy
của tôi, Đại sư Chương Gia. Ngài là trì Chú, bất luận ở lúc nào, chư vị thấy
ngài, miệng ngài đang động, không có âm thanh, là Kim cang trì. Nói chuyện với
chúng tôi, thì ngài buông Chú xuống, để nói chuyện với chúng tôi; Sau khi nói
xong, thì miệng của ngài lại tiếp tục niệm, không có chút trở ngại nào. Tâm
không rời Phật, miệng không rời xưng hiệu, xưng danh hiệu Phật, đó gọi là gì?
Đó gọi là an trụ Thiền định sâu mầu, thực sự là ở trong định. Ngài tu được, đó
là Pháp môn đại Tổng trì, viên mãn Tam học Giới Định Huệ, đó là điều chúng ta cần
học. Chúng ta học mà không học được, nguyên nhân không học được ở đâu? Chưa
buông xuống. Tại sao chưa buông xuống? Bởi chưa nhìn thấu, nhìn thấu tự nhiên
buông xuống, chưa nhìn thấu chính là chưa thật làm rõ ràng, chưa thật làm sáng
tỏ. Thế gian này là giả, chư vị có thể tin hay không? Tôi có thể tin, mà vẫn
chưa buông xuống, Đại sư Chương Gia không thừa nhận sự tin này. Tiêu chuẩn của
Đại sư, thực sự buông xuống thì chư vị mới thật tin tưởng, chư vị chưa buông xuống,
thì chư vị không tin tưởng. Đó là ngài nói với chúng ta, đừng tự cho là đã tin
rồi, tại sao vậy? Bởi công phu của chư vị không thể nâng lên, chư vị chỉ dừng lại
ở cảnh giới ấy. Chính mình hiểu được, biết rằng ta vẫn chưa đủ, ta vẫn chưa thực
sự hiểu rõ, chư vị mới thực sự cầu giải. Thực đã giải rồi, thì hoàn toàn khế nhập
Thật tướng, không có gì không buông xuống. Cho nên giải hành là một việc, không
phải hai việc. Có phải thật giải hay không? Chư vị chưa làm được, chưa làm được
thì không phải thật giải. Không phải thật giải, đương nhiên chư vị không làm được,
cùng một đạo lý. Chúng ta có thể nắm chắc, dù tiến bộ rất chậm, nắm chắc là thế
nào? Không có thoái chuyển, đó là nguyên nhân nào? Ngày ngày đọc Kinh. Ba tháng
không đọc Kinh đảm bảo thoái chuyển, bất tri bất giác đang lui rồi.
Về buông xuống, thông thường Tổ sư Đại
đức: đều nhắc nhở chúng ta bốn chữ: tài, sắc, danh, lợi. Trong Phật môn giảng: 財色名食睡,地獄五條根
“Tài sắc
danh thực thùy, địa ngục ngũ điều căn” (Tài sắc danh ăn ngủ, là năm điều
gốc của địa ngục). Có một điều thì chư vị cũng không rời khỏi địa ngục, có
đủ cả năm điều, vậy trong lòng chư vị rõ ràng rồi. Lời này không phải hù dọa
người, hoàn toàn nói lời thật, hết sức chân thật nói với chư vị, chân tướng sự
thật chính là như vậy. Phải luyện, phải buông xuống, đừng đặt điều gì ở trong
tâm, trong tâm chỉ có A Di Đà Phật. Bây giờ A Di Đà Phật bảo ta đi thì ta liền
đi, không có vướng bận, vậy mới được. Vẫn còn vướng bận, ta vẫn phải xử lý điều
này, phải dặn dò điều kia, lỡ qua cơ hội rồi, thì chư vị lại lưu lại thế gian
này, lại đi theo những oán thân trái chủ: làm oan oan tương báo, đặc biệt sai lầm
rồi. Cho nên thời thời khắc khắc nhớ kỹ là giả. Lão Hòa thượng Hiền công có câu
châm ngôn: chăm chỉ niệm Phật, thành Phật là thật, những thứ khác đều là giả.
Ngày nào ngài cũng dùng câu nói này dạy người, nhắc nhở mọi người. Chúng ta thực
sự giác ngộ từ trong câu nói này, triệt để buông xuống. Buông xuống trên tâm,
trong tâm liền thanh tịnh, trong tâm chỉ có A Di Đà Phật, A Di Đà Phật thành tựu
tín tâm của chúng ta, tăng trưởng nguyện tâm của chúng ta, thì chúng ta niệm Phật
nắm chắc vãng sanh rồi.
Chúng ta
không phải người Thượng thượng căn, huống hồ người Thượng thượng căn lợi hại
hơn chúng ta, họ từ sáng đến đêm: nhất định không rời khỏi một câu Phật hiệu,
là người Thượng thượng căn. Người Hạ hạ căn, chúng ta nhìn thấy là ông lão bà
lão, lão thái bà không có tri thức, người dưới quê. Năm xưa thầy Lý tại thế: từng
nói với tôi mấy lần, thầy nói: thầy muốn học ngu, học những ông lão bà lão,
nhưng đã học nhiều năm cũng học không giống, cảm thấy không dễ dàng. Chúng ta
nhìn thấy những người ấy: phải cung kính, phải lễ bái, đó thực sự là tấm gương
tốt nhất cho người niệm Phật. Chư vị nói chuyện với họ, họ cười mỉm với chư vị,
trong miệng A Di Đà Phật, A Di Đà Phật mãi mãi không gián đoạn; Chư vị hỏi họ
điều gì, họ trả lời chư vị đều là A Di Đà Phật, dường như là ngu ngu ngơ ngơ,
mà công phu của người ấy đắc lực, những người ấy nhất định vãng sanh Tịnh Độ.
Có một thời kỳ Pháp sư Khai Lợi đến thăm tôi, tôi liền hỏi ngài, xung quanh
Chùa của quý thầy, có bà lão như vậy hay không? Ngài nói có, có bốn, năm vị.
Tôi nói đó là của báu, đó là thật niệm Phật, trong chùa có những vị ấy thì phải
cung kính, phải đối xử tốt với họ, trọng đãi họ. Tại sao vậy? Bởi họ bảo hộ khu
vực của chư vị bình an, hóa giải tai nạn. Năng lực của chúng ta không bằng họ,
năng lực của họ lớn, chúng ta cung kính cúng dường họ, là được nhờ ánh sáng của
họ. Thầy Lý nhất định không hề vọng ngữ, câu nào nói với chúng tôi cũng là lời
thật, khuyên tôi niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ. Xem qua kinh luận, chúng tôi không
đủ những điều kiện ấy, học mấy bộ thì không được rồi. Kinh giáo của tôi đều do
học dưới hội của thầy, đại khái có 60-70 loại kinh luận Đại Tiểu thừa, cũng xem
là rất nhiều rất tạp, nhưng có thể xả, tuổi tác lớn tính cảnh giác cao, thầy đã
luôn ân cần dạy bảo, thường xuyên nghĩ đến lời dạy của thầy, phải tinh chuyên.
Lại thấy ngài Liên Trì, thấy ngài Ngẫu Ích, các ngài đến cuối đời chỉ là một
câu Phật hiệu, đều xả toàn bộ rồi, đều đã buông xuống. Lão Cư sĩ Hoàng Niệm Tổ
làm cho tôi xem, sau khi hoàn thành Chú giải của Kinh Vô Lượng Thọ, ngài mỗi
ngày là 140 ngàn tiếng Phật hiệu, niệm được nửa năm thì vãng sanh rồi. Trên đường
đến suối vàng già trẻ không thiếu, tính cảnh giác phải cao, chúng ta mới sẽ:
không làm mất đi cơ hội lần này.
Sách《會疏》 “Hội Sớ” nói được hay, 深定者,所住三昧微妙幽玄,非二乘(阿羅漢、辟支佛)及初心(初發心的菩薩)所能為
“Thâm định
giả, sở trụ Tam-muội vi diệu u huyền, phi Nhị thừa (A-la-hán, Bích-chi-phật) cập
Sơ tâm (Sơ phát tâm đích Bồ-tát) sở năng vi” (Định sâu là: trụ nơi Tam-muội
vi diệu sâu mầu, chẳng phải là hàng Nhị thừa (A-la-hán và Bích-chi-phật) và bậc
Sơ tâm (Bồ-tát Sơ phát tâm) có thể làm được), không làm được, không đạt được
cảnh giới này. 唐譯云:一切種甚深禪定 “Đường Dịch vân: nhất thiết chủng thậm
thâm Thiền định” (Bản Đường Dịch nói rằng: tất cả loại thiền định rất sâu), tiếp
theo đây có chú giải: 一切種者,謂一切種智。全理之事,故云甚深
“Nhất thiết chủng
giả, vị Nhất thiết Chủng trí. Toàn lí chi sự,
cố vân thậm thâm”. (Tất cả loại: là
Nhất thiết Chủng trí. Toàn sự của lý, nên nói rất sâu). Cách nói “rất sâu”
là thế nào? Sự rất dễ hiểu, lý lại rất sâu, lý thông thẳng đến Pháp tánh. Bậc
nào có thể thấy được? Pháp thân Bồ-tát, không phải điều mà người phàm có thể thấy
được, Nhị thừa không thấy được, Quyền giáo Bồ-tát không thấy được. 故知深定,實是理定,非僅事定 “Cố tri thâm định, thật thị Lý định, phi cận Sự định” (Nên biết định sâu, thực sự là định của lý, chứ không
chỉ là định của sự). Định của sự thì dễ dàng tu, định của lý thì khó. Người
học Tịnh tông trong tâm chỉ có một câu Phật hiệu, ngoài Phật hiệu ra thì buông
xuống tất cả, một câu Phật hiệu chính là định của lý. Chư vị xem họ trì danh,
niệm tiếng A Di Đà Phật, A Di Đà Phật, A Di Đà Phật này, tiếp tục niệm, đó là sự,
lý rất sâu, lý là Tự Tánh viên mãn.
又《淨影疏》曰:住深定門,起行所依。無心往來,直以三昧法門力起,故須住定。
“Hựu Tịnh Ảnh Sớ viết: trụ thâm định
môn, khởi hạnh sở y. Vô tâm vãng lai, trực dĩ Tam-muội Pháp môn lực khởi, cố tu
trụ định” (Và Tịnh Ảnh Sớ ghi rằng:
trụ sâu định môn, nơi nương dựa của khởi hạnh. Vô tâm qua lại, thẳng lấy sức của
Pháp môn Tam-muội để khởi, nên phải trụ định). Dụng công, mà không hiểu đạo
lý này, thì công phu không đắc lực; Sáng tỏ đạo lý này rồi, thì đâu có đạo lý
công phu không đắc lực! Cổ Thánh tiên Hiền dạy chúng ta, thâm nhập một môn,
huân tu lâu dài, chính là trụ sâu Định môn. Bất luận là Phật pháp, thế pháp, chỉ
cần tâm chuyên nhất, thì không gì không thành tựu. Học pháp thế gian, có thể trở
thành đại Thánh, đại Hiền của thế gian; Học Phật pháp, có thể trở thành
A-la-hán, Bồ-tát. Một chính là trụ, không thể làm nhiều, thâm nhập một môn, chính
là Định môn sâu. Nơi khởi hạnh y cứ, chúng ta niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ, cần
phải nương vào điều này. Nương vào đâu để vãng sanh? Nương vào đâu thành tựu?
Chính là dựa vào điều này, thâm nhập một môn. Vô tâm qua lại, tâm này là Vọng
tâm, khởi tâm động niệm, buông xuống điều này, thẳng lấy lực của Pháp môn
Tam-muội để khởi, vậy mới cần trụ định. Chúng ta ở trong đây từ từ luyện, luyện
điều gì? Luyện chuyển thức thành trí. Trí, Tam-muội khởi dụng chính là trí huệ.
Trí là khởi lên một cách vô cùng tự nhiên, Bát-nhã vô tri, không gì chẳng biết.
Lúc không có ai hỏi chư vị, chư vị thực sự là: trong tâm chỉ có một câu Phật hiệu,
những thứ khác thì đều không có thứ gì. Ngay khi người khác có vấn đề: đề xuất
đến hỏi chư vị, chư vị đều thông tất cả, đều có thể giải đáp tất cả, chư vị
cũng không cần chuẩn bị. Đó là gì? Đó là trí huệ chân thật, trí huệ Bát-nhã
trong Tự Tánh khởi dụng, là vốn có, không phải đến từ bên ngoài. 下明起行 “Hạ minh khởi hạnh”
(Dưới làm sáng tỏ về khởi hạnh), khởi hạnh, 悉睹現在無量諸佛,攝行寬廣
“tất đổ hiện tại vô lượng chư Phật,
nhiếp hành khoan quảng” (đều thấy vô
lượng chư Phật ở hiện tại, nhiếp hành rộng lớn).
Chúng
ta xem giải thích tiếp theo: 淨影師之意 “Tịnh Ảnh Sư chi ý” (Ý của Sư Tịnh Ảnh). Tịnh Ảnh là Đại sư Huệ Viễn,
tiểu Huệ Viễn, không phải Viễn công ở Lư sơn của chúng ta, danh xưng của các
ngài hoàn toàn tương đồng, mà vào triều Tùy. Viễn công nói rằng: 悉睹諸佛是行門,起此行門,依深禪定。不待起心動念,直從三昧法門之力起行
“Tất đổ chư Phật
thị hành môn, khởi thử hành môn, y thâm Thiền định. Bất đãi khởi tâm động niệm,
trực tùng Tam-muội Pháp môn chi lực khởi hạnh” (Đều thấy chư Phật là hành
môn, khởi hành môn ấy, nương Thiền định sâu. Không dựa vào Khởi tâm động niệm, mà khởi hạnh thẳng từ lực
của Pháp môn Tam-muội). Đó là thấy Phật,
tôi cũng không có khởi ý niệm, nếu tôi muốn thấy chư Phật, chưa khởi ý niệm
này, thì cảnh giới của chư Phật đã hiện ra. Đó là gì? Đó là sức của Tam-muội.
Tam-muội là gì? Tam-muội là có thể cảm, chư Phật liền ứng, cảm ứng đạo giao
không thể nghĩ bàn. Nếu chúng ta muốn thế này muốn thế kia, đó là cầu Phật, đó
cũng là cảm, vậy ứng hay không? Hoàn toàn xem tâm thanh tịnh của chính mình.
Tâm càng thanh tịnh, ứng càng hiển rõ, càng nhanh chóng; Lúc tâm không thanh tịnh,
chính là vẫn rất nhiều vọng niệm, tạp niệm, dù cho cầu cũng không có cảm ứng.
Vì sao vậy? Bởi cảm ấy thì các ngài không thể ứng, nhất định phải là cảm của
Tam-muội, thì tự nhiên ứng, không phải chúng ta có tâm cầu, là tự nhiên ứng.
若依本經則定中見佛,正是彌陀第四十五定中供佛大願 “Nhược
y bổn Kinh tắc ‘Định trung kiến Phật’, chánh thị Di Đà đệ tứ thập ngũ ‘Định
trung cúng Phật’ đại nguyện” (Nếu y
theo Kinh này thì ‘Trong định thấy Phật’, chính là đại nguyện ‘Trong định cúng
Phật’ thứ 45 của đức Di Đà). Lại trở về Kinh này, 48 nguyện của A Di Đà Phật,
trong nguyện thứ 45 đại nguyện cúng Phật. 願文 “Nguyện văn”, tiếp
theo trích nguyên văn ở đây, 十方佛剎諸菩薩眾,聞我名已,皆悉逮得清淨、解脫、普等三昧,諸深總持,住三摩地,至於成佛。定中常供無量無邊一切諸佛,不失定意。
“thập phương Phật sát chư Bồ-tát
chúng, văn ngã danh dĩ, giai tất đãi đắc: Thanh tịnh, Giải thoát, Phổ đẳng
Tam-muội, chư thâm tổng trì, trụ tam-ma-địa, chí ư thành Phật. Định trung thường
cúng vô lượng vô biên nhất thiết chư Phật, bất thất định ý” (Các chúng Bồ-tát trong cõi Phật ở mười phương, nghe
danh con rồi, đều lập tức đạt được Tam-muội: Thanh tịnh, Giải thoát, Phổ đẳng,
và các môn Tổng trì sâu, trụ tam-ma-địa, cho đến khi thành Phật. Trong định thường
cúng dường vô lượng vô biên tất cả chư Phật, mà không mất định ý). Không hề
khởi ý niệm, mất đi định ý ấy rồi là đã động ý niệm, động ý niệm thì định ý mất
đi, [nên] không động. Phải biết Tam-muội là do Tự Tánh vốn có, Đại sư Huệ Năng
khai ngộ đã nói năm câu, câu nói thứ tư là: 何期自性,本無動搖 “Hà kỳ Tự Tánh, bổn vô động dao” (Nào ngờ Tự Tánh, vốn không dao động). Câu ấy nói
với chúng ta điều gì? Nói với chúng ta Tự Tánh vốn định. Cho nên tu định là rất
quan trọng, tu định là tương ưng với Chân Tâm, với Tự Tánh. Tâm là động, thì
không tương ưng với Tự Tánh, không tương ưng với Tự Tánh: chính là không tương
ưng với: trí huệ Bát-nhã vốn có trong Tự Tánh, không tương ưng với Tự Tánh vốn
định, đương nhiên sẽ có khoảng cách với công đức của Tự Tánh.
Đoạn
Kinh văn này nói được rất rõ ràng, chư Bồ-tát chúng của mười phương cõi Phật,
bao gồm chúng ta ở trong, nghe danh hiệu con, ‘con’ là A Di Đà Phật tự xưng, phải
thế nào? Nghe danh hiệu. Vậy phải làm sao? Chuyên tâm. Lão Hòa thượng có giảng:
世間無難事,只怕心不專
“Thế gian vô nan sự, chỉ phạ tâm bất
chuyên” (Thế gian không việc khó, chỉ
sợ tâm chẳng chuyên), phải chuyên nhất. Chuyên là thế nào? Không có tạp niệm,
không có vọng tưởng, đó gọi là chuyên. Lúc chuyên ấy, chư vị được thanh tịnh,
đã đạt được清淨 “Thanh Tịnh” trên
đề Kinh của Kinh này rồi. Được thanh tịnh thì giải thoát, giải thoát điều gì?
Giải thoát phiền não ô nhiễm, chính là Kiến tư phiền não, đắc Phổ đẳng Tam-muội,
đắc các Tổng trì sâu, trụ Tam-ma-địa, mãi cho đến thành Phật. Trụ Tam-ma-địa
chính là trụ Tam-muội. Chúng ta trụ niệm Phật Tam-muội, cách trụ thế nào? Lão
Hòa thượng Hải Hiền làm ra tấm gương tốt nhất. Phương pháp ấy thật hữu hiệu! Lời
trên kinh nói, lời do Tổ sư nói, câu nào cũng là lời thật, tất cả là do chính
chúng ta vốn có, không phải do từ bên ngoài đến. Do bên ngoài đến thì không dễ
dàng, khó! Do chính mình vốn có, chỉ cần trừ đi chướng ngại. Chướng ngại chính
là ba loại phiền não lớn: Vô minh phiền não, Trần sa phiền não, Kiến tư phiền
não, mà mọi người đều biết. Giảm một phần ba loại phiền não này, thì hiển lộ một
phần trí huệ đức năng trong Tự Tánh, giảm mười phần thì hiển lộ mười phần, giảm
100 phần thì hiển lộ 100 phần, tự nhiên hiển lộ ra ngoài.
Cho
nên tôi học Phật, thân cận người xuất gia, ngày đầu tiên tôi biết Đại sư Chương
Gia: (quen biết người xuất gia, lần đầu tiên), tôi liền thỉnh giáo với ngài,
làm thế nào để nâng cao cảnh giới của chính mình? Ngài nói với tôi là: 看破、放下 “khán phá, phóng hạ”
(nhìn thấu, buông xuống). Buông xuống, nhìn thấu: chính là hai pháp này
bổ trợ cho nhau, nhìn thấu giúp chư vị buông xuống, buông xuống giúp chư vị lại
nhìn thấu, nhìn thấu tiếp giúp chư vị buông xuống tiếp, phương pháp này chính
là Chỉ Quán. Lúc đó tôi mới học, giảng Chỉ Quán thì tôi không hiểu. Cho nên lão
Hòa thượng dùng phương tiện khéo léo, ngài dùng danh từ ấy thì tôi có khái niệm,
nhìn thấu được, buông xuống được. Tôi tiếp tục thỉnh giáo với ngài, bắt đầu làm
từ đâu? Ngài nói với tôi là bố thí, nói với tôi bố thí tài, bố thí pháp, bố thí
vô úy, phải thật có tâm bố thí, tùy duyên tùy phận tùy lực mà tu, bố thí tài được
tài phú, bố thí pháp được thông minh trí huệ, bố thí vô úy được khỏe mạnh sống
lâu. Tôi không có cả ba điều ấy, trong mạng không có tài phú, cũng không có thọ
mạng: (những người lớn tuổi trong quá khứ đều biết điều này, người già vừa nhìn
liền sáng tỏ), có một chút trí huệ, có lẽ bởi quá khứ ưa thích bố thí pháp giúp
người, không dùng bố thí tài, cũng không có bố thí vô úy.
Cả
đời người, người xưa có một câu nói, là ngạn ngữ: 一生皆是命,半點不由人 “Nhất sanh giai thị mệnh, bán điểm bất do nhân” (Cả đời đều là mệnh, nửa điểm chẳng do người). Câu
nói này là thật, không giả một chút nào, nhưng Phật pháp có thể cải tạo vận mạng.
Tiên sinh Viên Liễu Phàm vào triều Minh, gặp được Thiền sư Vân Cốc, dạy ông
phương pháp sửa đổi, đoạn ác tu thiện, tích lũy công đức, tự nhiên liền thay đổi.
Vậy chúng ta phải hiểu được, thế nào là ác, thế nào là thiện, trước cần có năng
lực nhận biết, có năng lực biện biệt. Thế nào là thiện nhỏ, thế nào là thiện lớn?
Lợi ích tất cả chúng sanh, giúp tất cả chúng sanh: phá mê khai ngộ, lìa khổ được
vui, thiện ấy là thiện lớn. Xem chư vị làm việc thiện ấy, diện ảnh hưởng lớn
bao nhiêu, thời gian ảnh hưởng dài bao nhiêu, nhân quả là nhận định từ chỗ này.
Nếu hạnh thiện, việc thiện ấy, diện ảnh hưởng rất lớn, thời gian ảnh hưởng rất
dài, đó là đại thiện. Cho nên đĩa phim về lão Hòa thượng Hải Hiền, quyển sách
nhỏ ấy rất đơn giản, rất dễ hiểu, mọi người đều xem hiểu được, thấy được thọ dụng
thực sự, phổ biến tuyên dương giới thiệu những thứ ấy, càng nhiều người học được,
diện càng lớn, thời gian vĩnh viễn truyền xuống, đó chính là đại thiện, đại thiện
không thể nghĩ bàn. Đối với chúng ta mà nói, giúp chúng ta tiêu nghiệp chướng
tăng phước huệ, là chắc chắn. Thời kỳ Mạt pháp, đây là Pháp môn thù thắng không
gì bằng, Pháp môn nhất định được độ, không mảy may nghi ngờ, tấm gương đã làm
quá tốt rồi. Chúng ta trụ tâm trong đây, nhất định không dao động, đó chính là
định sâu.
Định sâu ấy, Tam-muội ấy, là do đại
trí đại nguyện của đức Di Đà mà thành, sâu không có đáy, rộng không biên, biên
là giới hạn, không có biên giới, sâu không đáy, dùng điều ấy để hình dung, đó gọi
là Thiền định sâu. Thiền định như vậy vô cùng tự nhiên cảm được: Pháp thân Như
Lai ở trong Thường Tịch Quang, cho nên chư vị tự nhiên có thể nhìn thấy: tất cả
cõi nước chư Phật ở mười phương, đó chính là định khởi dụng. Trên đĩa của Hiền
công có, ngài có một ngày thắp cả 12 cây hương, đều cắm đầy lư hương, có người
thấy đến hỏi ngài, sao thầy thắp nhiều như vậy? Ngài không muốn nói, sau cùng vẫn
là đã nói ra, ngài nói chư vị không biết, hôm nay tôi nhìn thấy trong phòng
ngoài phòng: đều là A Di Đà Phật, lại nhìn thấy trên giường dưới giường đều là
chúng sanh: đang nghe tôi niệm Phật. Đó là cảm ứng, đó không phải nằm mộng, vô
lượng vô biên A Di Đà Phật. Tất cả chúng sanh vốn là Phật, tất cả chúng sanh
tương lai thành Phật: đều là A Di Đà Phật. Chúng ta liền giác ngộ từ chỗ này rồi,
chúng ta dùng tâm nào, chúng ta dùng thái độ nào để nhìn tất cả chúng sanh? Họ
là A Di Đà Phật, thì tự nhiên sanh khởi lên tâm cung kính. Tâm cung kính, tâm
hiếu thuận, đó là Tánh đức, đức đầu tiên trong Tự Tánh, đó là Chân Tâm, dùng
tâm ấy để cảm ứng đạo giao với Phật Bồ-tát. Không thể dùng A-lại-da, A-lại-da
là nghĩ ngợi lung tung, vọng tưởng tạp niệm, vậy thì không được, cảm ứng ấy là
yêu ma quỷ quái.
Tả
Khâu Minh nói rằng: 人棄常則妖興 “Nhân khí Thường tắc
yêu hưng” (Người bỏ đạo Thường thì
yêu ma hưng thịnh), Thường là gì? Là Ngũ thường. Ngũ thường chính là Ngũ giới,
nội dung tương đồng với Ngũ giới. Bất Nhân, Nhân là yêu thương người, tâm chân
thành yêu thương người là Phật Bồ-tát, không yêu thương người, hại người, đó
chính là không bình thường. Xã hội này hiện nay, thực sự, không còn năm chữ ấy
nữa, bất Nhân, bất Nghĩa, vô Lễ, vô Trí, vô Tín, Nhân Nghĩa Lễ Trí Tín đều
không còn nữa. Tả Khâu Minh nói rằng: xã hội đến loại hình thái ấy thì sanh yêu
ma, người đó đều biến thành yêu ma quỷ quái. Phải cứu lại văn hóa truyền thống nước
ta, bắt đầu làm từ đâu? Bắt đầu làm từ năm chữ ấy, bắt đầu từ đó. Năm chữ ấy là
Tánh đức, trong Tự Tánh vốn có, không phải do từ ngoài đến, chúng ta bị cảnh giới
bên ngoài mê hoặc rồi, đã làm mất đi năm Đức mà chính mình vốn có. Năm Đức ấy
là nền tảng, cơ sở: làm người, làm Bồ-tát, nếu chúng ta muốn thành Thánh thành
Hiền, thành Bồ-tát thành Phật, nếu muốn đến thế giới Cực Lạc, mà không có năm
điều này thì sao được? Nhân, là không sát sanh; Nghĩa, không trộm cắp; Lễ,
không tà dâm; Trí, không uống rượu; Tín, không nói dối, hoàn toàn tương ưng với
Ngũ giới của Phật. Ngũ giới ấy là giới căn bản, bất luận tại gia xuất gia thảy
đều phải học, phải giữ vững. Tuy rất đơn giản, nhưng cảnh giới bên trong thì rộng
vô lượng vô biên. Viên mãn Ngũ giới ấy thì thành Phật, trong Ngũ giới bao gồm
Thập thiện, viên mãn Thập thiện thì thành Phật. Không thể không làm rõ ràng Ngũ
giới, Thập thiện, là đơn giản nhất, cũng là rốt ráo nhất. Trì giới, niệm niệm
không quên Ngũ giới, Thập thiện, thì đã cắm vững nền móng thành Phật làm Tổ rồi.
84 ngàn Pháp môn chính là Thập thiện khai triển. 84 ngàn Pháp môn của Đại thừa
Bồ-tát, cô đặc chính là Thập thiện nghiệp đạo; Tiểu thừa triển khai 3000 oai
nghi, quy nạp cũng là mười điều. Chúng ta thấy hình Phật, có những hình Phật được
vẽ, ở trên vòng hào quang của Phật có ba chữ, có viết bằng Phạn văn, cũng có viết
bằng Tạng văn, cũng có viết bằng Trung văn, phát âm đều như nhau: 唵、阿、吽 “Án, A, Hồng”. Án
là thân nghiệp, A là khẩu nghiệp, Hồng là ý nghiệp, ba nghiệp thanh tịnh viên
mãn thì thành Phật. Dụng ý của Phật dạy người rất sâu, chúng ta cần lãnh hội được.
Nhập môn từ đâu? Nhập môn từ đây.
Đây
là một đoạn: nói về nghiệp dụng ở trong sách Chân Giải. Chúng ta xem Chú Giải của Niệm
lão: 由願文可見,會中諸菩薩皆蒙彌陀智願之力,因得聞彌陀名號,皆得普等三昧等甚深禪定,故蒙願力加持,定中供無量諸佛。既往供佛,必定見佛,故云悉睹無量諸佛。
“Do nguyện văn
khả kiến, hội trung chư Bồ-tát giai mông Di Đà trí nguyện chi lực, nhân đắc văn
Di Đà danh hiệu, giai đắc Phổ đẳng Tam-muội đẳng thậm thâm Thiền định, cố mông
nguyện lực gia trì, định trung cúng vô lượng chư Phật. Ký vãng cúng Phật, tất định kiến Phật, cố vân tất đổ vô
lượng chư Phật” (Từ nguyện văn có thể
thấy, chư Bồ-tát trong hội đều được nhờ sức trí nguyện của đức Di Đà, bởi được
nghe danh hiệu đức Di Đà, đều đắc Thiền định rất sâu như Phổ đẳng Tam-muội vân
vân, nên nhờ nguyện lực gia trì, mà trong định cúng vô lượng chư Phật. Đã đi
cúng Phật, thì chắc chắn thấy Phật, nên nói là đều thấy vô lượng chư Phật).
Đây là nói công đức của niệm Phật không thể nghĩ bàn, chư vị nhất định được A
Di Đà Phật gia trì, chư vị bất tri bất giác đắc được Phổ đẳng Tam-muội. Phổ là
rộng khắp, đẳng là bình đẳng, Pháp thân Bồ-tát chứng được, đó không phải là Thiền
định phổ thông, mà là Thiền định rất sâu. Tác dụng đó chính là: 定中供佛願 “Định trung cúng Phật nguyện” (Nguyện trong định cúng Phật): ở trong 48 nguyện,
trong định cúng vô lượng chư Phật, không thiếu sót một đức Phật nào. Đã nói
cúng Phật, cúng Phật là tu phước, nhất định thấy Phật, thấy Phật nghe pháp là
tu huệ, phước huệ song tu. Có thể đều thấy vô lượng chư Phật, không sót một đức
Phật nào, vậy thì không dễ dàng, nếu dựa vào Pháp môn tự lực của chúng ta để
tu, tu đến minh Tâm kiến Tánh, phá Vô minh, chứng Pháp thân, chư vị mới có năng
lực ấy. Phiền não tập khí của chúng ta rất nặng, không có năng lực ấy, nhưng gặp
được A Di Đà Phật, thật là như được của báu quý nhất, không còn điều gì thù thắng
hơn nữa rồi. Thực sự không nghi ngờ, nhất tâm hướng về, một hướng chuyên niệm,
thì lợi ích công đức đã nói trên kinh: tất cả đều đạt được. Tôi thường khuyên
người, xử việc đối người tiếp vật phải dùng Chân Tâm, dùng tâm chân thành, dùng
tâm thanh tịnh, dùng tâm cung kính đối người tiếp vật, nhất định có lợi ích,
công đức chúng ta tu tích sẽ không rò rỉ mất, đó là pháp Vô lậu. Hư giả không
thành thật, tâm địa ô nhiễm không thanh tịnh, không có tâm cung kính, thì công
đức mà chư vị tu đều bị rò rỉ hết. Rò rỉ như thế nào? Là rò rỉ mất từ đó, mà
chính chư vị không biết, không hay không biết đều rò rỉ mất hết, đáng tiếc biết
bao.
又《般舟經》云:是菩薩不持天眼徹視,不持天耳徹聽,不持神足到其佛剎 “Hựu Bát Nhã Kinh vân: Thị Bồ-tát bất trì Thiên nhãn triệt
thị, bất trì Thiên nhĩ triệt thính, bất trì Thần túc đáo kỳ Phật sát” (Và Kinh Bát Nhã nói rằng: Bồ-tát ấy không giữ Thiên
nhãn mà nhìn thông suốt, không giữ Thiên nhĩ mà nghe thấu suốt, không giữ Thần
túc mà đến cõi Phật khác), chư vị xem không nương vào những thứ ấy, không
giữ là không nương vào, không cần dùng Thiên nhãn, không cần dùng Thiên nhĩ,
không cần dùng Thần túc, mà các ngài tự nhiên liền hiện ra. 不於此間終生彼間 “Bất ư thử gian chung sanh bỉ gian” (Không ra đi ở cõi này mà sanh cõi kia), không ra
đi ở cõi này, chết đi ở thế gian này, vãng sanh đến thế giới Cực Lạc, không phải
như vậy, 便於此坐見之
“tiện ư thử tòa kiến chi” (liền ở tòa ấy mà thấy được), ngài liền hiện ra,
mười phương cõi nước hiện ra, mười phương chư Phật hiện ra, chúng ta đều có thể
cúng dường. Tiếp theo: 佛言 “Phật ngôn” (đức Phật nói rằng), đức Phật đây là do đức Phật
Thích Ca Mâu Ni nói: 菩薩於此間國土,念阿彌陀佛,專念故得見之 “Bồ-tát
ư thử gian quốc độ, niệm A Di Đà Phật, chuyên niệm cố đắc kiến chi”. (Bồ-tát ở trong cõi nước này, niệm A Di Đà Phật,
chuyên niệm nên được thấy). Lời ấy của Thế Tôn, chư vị có thể thấy hay
không, mấu chốt ở chuyên niệm. Cho nên tôi nói, tôi rất thận trọng nói rằng:
Pháp sư Hải Hiền gặp được A Di Đà Phật: và thế giới Cực Lạc: sẽ không ít hơn mười
lần, là cách nói thận trọng nhất. Ngài thực sự thường xuyên thấy Phật, đó chính
là Phật lực gia trì ngài, Phật muốn ngài biểu pháp, làm tấm gương tốt cho Đệ tử
Phật môn xem, cho người niệm Phật xem. Ngài tự tại như vậy, chư vị xem lúc ngài
vãng sanh: (đó là hai ngày trước), nói với những người Hộ pháp bên cạnh, thường
xuyên ở cùng ngài, nói với họ: tôi gần đây sắp vãng sanh rồi. Những người ấy
quá khứ nghe ngài từng nói, A Di Đà Phật giữ ngài làm biểu pháp, vẫn cần giữ
hai năm. Tại sao hiện nay thầy đã phải đi? Ngài nói: chư vị không biết, mấy hôm
nay A Di Đà Phật lại đến nói với tôi, cần tôi mấy ngày đó thì nên đi. Người
khác hỏi ngài: lúc nào ra đi? Mọi người chúng tôi niệm Phật trợ niệm vãng sanh
cho thầy. Ngài nói: trợ niệm đó là không tin tưởng, không đủ tín tâm, tôi không
cần trợ niệm, tôi tự mình vãng sanh. Nói được vô cùng nắm chắc. Phật đến tiếp dẫn,
thời gian ước định: không sai lệch một phút một giây, đến lúc ấy chư vị nhìn thấy
Phật, chư vị nhìn thấy hoa sen, chư vị nhìn thấy thế giới Cực Lạc. Chúng ta phải
tin lời của Phật: 專念故得見 “Chuyên niệm cố đắc kiến” (Chuyên niệm nên được thấy), chúng ta giản lược
thành bốn chữ, càng đơn giản càng tốt, chuyên niệm được thấy. Tiếp theo: 即問:持何法得生此國?阿彌陀佛報言:欲來生者當念我名。
“Tức vấn: trì hà pháp đắc sanh thử quốc?
A Di Đà Phật báo ngôn: dục lai sanh giả đương niệm Ngã danh”. (Liền hỏi: giữ pháp nào mà được vãng sanh cõi ấy? A
Di Đà Phật đáp lời: người mong vãng sanh nên niệm danh của Ta). Tín nguyện
trì danh.
是以念佛三昧,稱為寶王三昧 “Thị dĩ niệm Phật Tam-muội, xưng vi Bảo Vương Tam-muội” (Cho nên niệm Phật Tam-muội, xưng là Bảo Vương Tam-muội),
đó là tán thán, niệm Phật Tam-muội, là vua trong Tam-muội, xưng là Bảo Vương
Tam-muội. 故甚深禪定 “Cố thậm thâm Thiền
định” (Cho nên Thiền định rất sâu),
ở trong Kinh Đại Tập, đức Phật nói rằng: 悉睹諸佛,都消歸念佛三昧也 “Tất đổ chư Phật, đô tiêu quy niệm Phật Tam-muội dã”. (Đều thấy chư Phật, cũng cần quay về niệm Phật Tam-muội).
Vô lượng vô biên chư Bồ-tát, Tam-muội mà các ngài tu đến sau cùng: đều quay
về niệm Phật Tam-muội. Vì sao vậy? Bởi đều là dùng điều kiện ấy, Tam-muội chính
là điều kiện được sanh. Tam-muội là Chánh thọ, là hưởng thụ bình thường; Tam-muội
là Chánh định, không có bất kỳ xen tạp nào, không có Vọng niệm, không có tạp niệm,
chính là năm chữ nói trên đề Kinh: 清淨平等覺 “Thanh
Tịnh Bình Đẳng Giác”. Năm chữ ấy chính
là niệm Phật Tam-muội. 故知持名功德不可思議,一乘願海不可思議。 “Cố tri
trì danh công đức bất khả tư nghì, Nhất thừa nguyện hải bất khả tư nghì” (Nên biết công đức của trì danh không thể nghĩ bàn,
biển nguyện Nhất thừa không thể nghĩ bàn). Câu phía trước ấy là chính chúng
ta, chúng ta thực sự có thể buông xuống vạn duyên, giống như lão Hòa thượng Hải
Hiền, đời này chỉ một câu Phật hiệu, chúng ta thêm một bộ Kinh, những điều khác
đều buông xuống. Chính là bộ bản hội tập này, chính là bộ Tập Chú này, một câu
Phật hiệu, những thứ khác đều buông xuống, không cần đặt ở trong tâm nữa, đặt ở
trong tâm thì sai rồi. Những bản kinh ấy, kinh sách nhiều như vậy phải làm sao?
Để tùy thuận! Tự nhiên có người thu thập, tự nhiên có người bảo quản, không hỏi
nữa, tuyệt đối không hỏi xử lý thế nào, đó là thật buông xuống. Tôi vẫn cần an
bài thế nào, vậy thì dùng tâm sai rồi, làm sao lại có tạp niệm khởi lên, lại có
Vọng tưởng khởi lên? Chắc chắn phải gột rửa tâm vô cùng trong sạch, thì Thanh tịnh
Bình đẳng Giác hiện ra. Biển nguyện Nhất thừa là tán thán đức Phật không thể
nghĩ bàn, nguyện lực của Phật không thể nghĩ bàn, công đức của Phật không thể
nghĩ bàn, cảm ứng thấy cõi Phật, thấy tất cả đức Phật, không sót một chút nào.
Khoa tiếp
theo đây: 遍遊佛土 “Biến du Phật độ” (Dạo khắp cõi Phật), đắc đại tự tại.
【於一念頃。遍遊一切佛土。】“Ư nhất niệm khoảnh, biến du nhất thiết Phật độ” (Trong khoảng một niệm, dạo khắp tất cả cõi Phật).
Đắc được thế nào?
Chúng ta sẽ liên tưởng đến A Di Đà Phật: niệm niệm đều hiện vô lượng vô biên
thân, Ngài hiện thân để làm gì? Tiếp dẫn chúng sanh niệm Phật vãng sanh thế giới
Cực Lạc: ở khắp Pháp giới hư không giới, Ngài phát nguyện thì ngài sẽ tiếp dẫn.
Ngài tiếp dẫn là do Phân thân đi, do Hóa thân đi, số lượng Phân thân, Hóa thân
không có giới hạn, không thể tưởng tượng, quá nhiều quá nhiều. Mỗi cõi nước Phật
trong mười phương Pháp giới, vị Phật ở đó cũng khuyên dạy đại chúng: niệm Phật
vãng sanh thế giới Cực Lạc, một đời thành tựu, nhiều người tin Pháp môn này,
nhiều người vãng sanh, Phật đều sẽ đến tiếp dẫn. Báo thân của Phật ở Giảng đường
lớn của thế giới Cực Lạc: giảng kinh thuyết pháp không gián đoạn. Chúng ta vãng
sanh sang bên đó, Báo thân của chúng ta: giống như Báo thân của A Di Đà Phật,
trên 48 nguyện ấy có. Chúng ta nghe kinh ở Giảng đường ấy cũng không động, đức
Phật phân thân đi tiếp dẫn, chúng ta cũng phân thân. Đạt được sự gia trì từ oai
thần bổn nguyện của A Di Đà Phật, thì trí huệ, đạo lực, thần thông của chúng
ta, gần như là bình đẳng với A Di Đà Phật, điều Phật có thể làm thì chúng ta cũng
có thể làm. Thật khó được, đến đâu để tìm thế giới như vậy? Năm ấy thầy Lý
khuyên tôi, không nói chi tiết, nếu nói được chi tiết giống như tôi nói vậy,
thì tôi sớm đã tin rồi, sớm đã buông xuống rồi. Tôi giảng được rõ ràng, giảng
được chi tiết hơn thầy, cho nên tín tâm đầy đủ.
Chúng
ta đi để làm gì? Chúng ta đi cúng Phật, phía trước đã giảng, cúng Phật tu phước;
chúng ta đi nghe pháp, tất cả chư Phật đều đang giảng kinh, chúng ta phân thân
đi, phân thân thật hữu hiệu, không phải không hữu hiệu. Cho nên, một lần chúng
ta được nghe pháp, được tu tích công đức, ở thế gian này của chúng ta: vô lượng
kiếp cũng không tu được, các ngài một lần là hoàn thành. Huống hồ ngày nào cũng
đi, thời thời khắc khắc đi không gián đoạn! Ở thế giới ấy thành đạo Vô thượng,
duyên phận tốt như vậy có thể không thành tựu sao? Là ai cũng thành tựu, người
người thành tựu. Hôm nay chúng ta quay đầu lại, người bên cạnh chúng ta, có người
nhà quyến thuộc, quan tâm chúng ta, yêu thương che chở chúng ta, cũng có oan
gia trái chủ, đố kị chúng ta, chướng ngại chúng ta, thậm chí còn hãm hại chúng
ta, chúng ta dùng tâm thái nào đối đãi họ? Thanh tịnh Bình đẳng Giác. Chỉ cần họ
có những liên hệ ấy với chúng ta, đó gọi là có duyên với chúng ta, duyên có thiện
duyên có ác duyên, có duyên ô nhiễm duyên thanh tịnh, nói chung là có duyên. Những
chúng sanh ấy có duyên với ta, thì chúng ta ngày ngày niệm Phật đều hồi hướng
cho họ, hy vọng ngay trong đời này: họ tiêu tai miễn nạn, phước huệ tăng trưởng,
tương lai nhất định có một ngày: gặp được Pháp môn Tịnh tông, nghiêm túc tu học,
cùng sanh nước Cực Lạc. Chúng ta ở thế giới Cực Lạc đợi họ, hoan nghênh họ. Oán
thân bình đẳng, không bình đẳng thì ô nhiễm rồi, phải bình đẳng. Hơn nữa đều
không đặt ở trên tâm, trên tâm chỉ có A Di Đà Phật, nhất định không thể có chút
xen tạp ở trong.
Có
thể đặt đức Phật Thích Ca Mâu Ni [vào tâm] hay không? Không thể. Có người nói,
đức Phật Thích Ca Mâu Ni là Bổn Sư. Bổn Sư dạy ta làm thế nào, thì ta nghe lời,
Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật sẽ vui mừng; Ta không nghe lời, muốn đặt ngài ở
trong [tâm] ta, ở cùng với A Di Đà Phật, chư vị xem, liền biến thành nhiễu loạn,
hai tâm thì không phải nhất tâm, cho nên chúng ta niệm A Di Đà Phật, nhất tâm
nhất hướng chuyên niệm: chính là tôn kính nhất với đức Phật Thích Ca Mâu Ni,
Ngài dạy tôi làm như vậy, tôi không làm trái. Đều làm rõ ràng, làm sáng tỏ những
đạo lý ấy, thì tiêu trừ sạch chướng ngại của chính mình, sẽ làm được như lý như
pháp. Cách làm như vậy, nguyện vọng lớn nhất của đức Thế Tôn, là hy vọng chúng
ta mau chóng thành Phật. Chư vị mất đi Pháp môn mau chóng thành Phật này, chư vị
không cần, chư vị muốn đi làm việc khác, chư vị nói xem trong lòng Phật buồn biết
bao, đau lòng biết bao. Chúng ta phải làm cho đức Phật Thích Ca Mâu Ni vui mừng,
chính là thâm nhập một môn, tín nguyện trì danh, một hướng chuyên niệm, nhất định
vãng sanh. Phật vui mừng, hoan hỉ, chúng ta không thể không biết điều này. Đó
là chúng ta hiếu thuận với đức Phật Thích Ca Mâu Ni, khiến cho đức Phật Thích
Ca Mâu Ni sanh tâm hoan hỉ, đừng vì chúng ta mà lo lắng, đừng vì chúng ta mà nhọc
lòng. Bộ Kinh này thực sự được độ, những kinh khác đức Phật còn phải nhọc lòng,
làm sao chuyển họ sang bên này, tu tất cả Tam-muội: làm sao chuyển thành niệm
Phật Tam-muội. Người đã tu niệm Phật Tam-muội, Phật vui mừng, đức Phật không cần
quản họ nữa, họ chắc chắn thành tựu. Lý sự đều cần hiểu, làm rõ ràng, làm sáng
tỏ.
『於一念頃,遍遊一切佛土』“Ư nhất niệm khoảnh,
biến du nhất thiết Phật độ” (Trong
khoảng một niệm, dạo khắp tất cả cõi Phật). 一念,指極短促之時刻,但其時限,諸說不一 “Nhất niệm, chỉ cực đoản xúc chi thời khắc, đãn kỳ thời hạn,
chư thuyết bất nhất” (Một niệm, chỉ
thời khắc rất ngắn ngủi, nhưng thời hạn ấy, các thuyết khác nhau). Một niệm
này rốt cuộc là dài bao nhiêu? Chúng ta hiện nay xem thấy trên kinh Phật: Bồ-tát
Di Lặc đã nói, lại cùng với nhà Cơ học lượng tử: kết hợp cùng báo cáo Khoa học
của họ để xem, khái niệm thì rất rõ ràng, cũng có sức thuyết phục. Đó chính là:
一彈指三十二億百千念,念念成形,形皆有識
“Nhất đàn chỉ tam thập nhị ức bá thiên niệm,
niệm niệm thành hình, hình giai hữu thức”
(Một gảy ngón tay có 32 ức trăm ngàn niệm, niệm niệm thành hình, hình đều có
thức), Bồ-tát Di Lặc nói được hay. Chúng ta đổi thành một giây, nếu một
giây gảy ngón tay bảy lần, 7 lần của 320 ngàn tỷ, trong một giây, một niệm đó
chính là một niệm giảng ở đây, một giây có bao nhiêu lần một niệm? Có 2 triệu
100 ngàn tỷ lần một niệm, thật là thời gian cực ngắn. Tiếp theo dẫn trên Kinh
Nhân Vương: 九十剎那為一念 “Cửu thập sát-na vi nhất
niệm” (90 sát-na là một niệm), một
niệm chính là 90 sát-na, 一念中一剎那經九百生滅 “nhất niệm trung nhất sát-na kinh cửu bá sanh diệt” (một sát-na trong một niệm trải qua 900 lần sanh diệt),
đó là một sát-na. 《往生論註上》以百一生滅名一剎那,六十剎那名為一念。兩者均以一念中具多剎那也。但《智度論》以一彈指頃有六十念。《華嚴探玄記十八》謂:剎那者此云念頃,一彈指頃有六十剎那。兩者均謂一念即一剎那
“Vãng Sanh Luận
Chú Thượng dĩ bá nhất sanh diệt danh nhất sát-na, lục thập sát-na danh vi nhất
niệm. Lưỡng giả quân dĩ nhất niệm trung cụ
túc đa sát-na dã. Đãn Trí Độ Luận dĩ nhất đàn chỉ khoảnh hữu lục thập niệm. Hoa
Nghiêm Thám Huyền Ký Thập Bát vị: sát-na giả thử vân niệm khoảnh, nhất đàn chỉ
khoảnh hữu lục thập sát-na. Lưỡng giả quân vị nhất niệm tức nhất sát-na” (Quyển thượng của Vãng Sanh Luận Chú lấy 1% sanh diệt
gọi là một sát-na, 60 sát-na gọi là một niệm. Cả hai đều lấy đủ nhiều sát-na
trong một niệm. Nhưng Trí Độ Luận lấy một gảy ngón tay có 60 niệm. Quyển 18 bộ
Hoa Nghiêm Thám Huyền Ký cho rằng: sát-na là nơi này gọi là niệm khoảnh, một gảy
ngón tay có 60 sát-na. Cả hai đều gọi là một niệm tức là một sát-na). Niệm
lão đã dùng phương tiện ở đây, 茲為簡單易記,故從後者 “tư vi giản đơn dị kí, cố tùng hậu giả” (đây là đơn giản dễ dàng mà viết, nên theo cách ở
sau). Một gảy ngón tay có 60 sát-na, một sát-na chính là một niệm. Hiện nay
chúng ta dùng càng tinh vi, còn có chứng minh của Khoa học. Cách nói ấy hay! Đó
chính là một giây: 2 triệu 100 ngàn tỷ lần sanh diệt, một sanh diệt đó chính là
một niệm. Trong một giây có bao nhiêu lần một niệm? Có 2 triệu 100 ngàn tỷ lần
một niệm, chúng ta không cách nào phát hiện được, ngay ở trước mặt. Thân thể của
chúng ta, ý niệm của chúng ta, khởi tâm động niệm, cho đến với tất cả vạn vật,
đều là ảo tướng được sanh ra: dưới tần số ấy. Chúng ta phải thường xuyên nghĩ đến
vấn đề này, thường quán sát như vậy, tại vì sao? Bởi giúp chúng ta buông xuống.
Chúng ta không buông xuống là nguyên nhân nào? Do đều xem đó là thật, đâu biết
đó là giả. Biết là giả, thì tất cả hết thảy ý niệm của chúng ta đều tan vỡ, đó
là thật sự.
Hôm
nay thời gian hết rồi, chúng ta học tập đến đây thôi. 遍遊佛土 “Biến du Phật độ” (Dạo
khắp cõi Phật), buổi tiếp theo chúng ta đến học hoàn hảo, đó là thực sự được
đại tự tại. Cho nên hiện nay chúng ta: không có thời gian đi đâu du lịch, hiện
nay cần chăm chỉ niệm Phật, đi đến thế giới Cực Lạc, dạo khắp tất cả cõi nước
chư Phật, đến lúc ấy hãy dạo, hiện nay phải đóng cửa để chăm chỉ dụng công. Tốt
rồi, cảm ơn mọi người.
(Hết tập 107)
Nguyện đem công đức này
Hướng về khắp tất cả
Đệ tử cùng chúng sanh
Đều sanh nước Cực Lạc
Sớm viên thành Phật quả
Rộng độ khắp chúng sanh.
Nam Mô A Di Đà Phật.