TỊNH ĐỘ ĐẠI KINH KHOA CHÚ 2014-2017
(Giảng lần thứ 4)
PHẨM 2: ĐỨC TUÂN PHỔ HIỀN:
Tuân Tu Đức Của Phổ Hiền
Tập 109
Hòa thượng Thích Tịnh Không chủ giảng.
Giảng tại: Tịnh Tông Học Viện Australia.
Thời gian: Ngày 22 tháng 09 năm 2014.
Dịch giả: Chân Hạnh Ánh.
Giảo chánh: Thích Thiện Trang.
Kính chào
chư vị Pháp sư, chư vị đồng học, kính mời ngồi. Mời mọi người cùng tôi quy y
Tam Bảo: “A-xà-lê tồn niệm, ngã Đệ tử Diệu Âm, thỉ tùng kim nhật, nãi chí mạng
tồn, quy y Phật-Đà, lưỡng túc trung tôn, quy y Đạt-Ma, ly dục trung tôn, quy y
Tăng-Già, chư chúng trung tôn” (3 lần).
Mời xem Đại
Kinh Khoa Chú: trang thứ 338, hàng sau cùng, khoa đề: 庚二、利他德 “Canh nhị,
lợi tha đức” (G2: đức Lợi tha), chia làm bốn, đoạn thứ nhất tiếp
đây: 妙行顯實 “Diệu hạnh
hiển thật” (Hạnh vi diệu hiển bày chân thật).
Hàng sau
cùng của đoạn phía trước, có hai câu nói vô cùng quan trọng, đó chính là những
Bồ-tát vãng sanh đến thế giới Cực Lạc, được oai thần bổn nguyện của A Di Đà Phật
(chính là 48 nguyện) gia trì, xuất hiện thần thông diệu dụng không thể nghĩ
bàn, với khoảng một niệm dạo khắp cõi Phật, câu này rất quan trọng. Chúng ta biết
cảnh giới ấy, cấp bậc thấp nhất: là Sơ trụ của Viên giáo, Sơ địa của Biệt giáo,
những ngài ấy thực sự là: Đại triệt Đại ngộ, Minh tâm Kiến tánh. Đức Thế Tôn
khi 30 tuổi, ở dưới cây Bồ-đề: vì chúng ta mà thị hiện: là cảnh giới ấy; Ở
Trung Hoa mọi người đều biết, Lục tổ Đại sư Huệ Năng của Thiền tông: cũng là cảnh
giới ấy. Chúng ta rất may mắn, thực sự thiện căn phước đức nhân duyên trong đời
quá khứ, cũng là không thể nghĩ bàn, có thể ở thời đại trước mắt đây: thấy được
lão Hòa thượng Hải Hiền, một câu Phật hiệu của lão Hòa thượng Hải Hiền: cũng là
cảnh giới ấy, ở Tịnh Độ tông gọi là Lý Nhất tâm Bất loạn, chính là Đại khai
Viên giải của Giáo hạ, Minh tâm Kiến tánh của Tông môn, dùng thuật ngữ khác
nhau, mà cảnh giới là bằng nhau, hoàn toàn tương đồng.
Tuy chúng
ta không đích thân nhìn thấy: lão Hòa thượng Hải Hiền, ngài vãng sanh vào đầu
năm ngoái, tháng 1 năm 2013, cách chúng ta rất gần, nhưng chúng ta biết đó
không phải giả, là thật, 112 tuổi. Chúng ta nhìn thấy Vĩnh Tư Tập của ngài, xem
được đĩa CD của ngài, ngài đến làm chứng cho chúng ta, chứng minh điều gì? Điều
thứ nhất, chứng minh thật có thế giới Cực Lạc, thật có A Di Đà Phật. Ngài thường
xuyên gặp mặt A Di Đà Phật, tiếp nhận lời căn dặn của A Di Đà Phật, để ngài lưu
ở thế gian làm biểu pháp; Nói cách khác, nếu ngài không phải vì biểu pháp, thì
ngài sớm đã vãng sanh rồi. Biểu pháp ấy: chính là kiên định tín tâm của chúng
ta, làm kiên cố nguyện tâm của chúng ta, tín nguyện của chúng ta không còn nghi
ngờ thêm nữa, thị hiện cho chúng ta công đức của câu Phật hiệu này: là không thể
nghĩ bàn, không cách nào tưởng tượng. Chúng ta biết Quốc sư Hiền Thủ,: có một
bài văn chương, gọi là: Tu Hoa Nghiêm Áo Chỉ Vọng Tận Hoàn Nguyên Quán,
quá khứ chúng ta đã học hai lần, dùng Sáu môn trong Hoàn Nguyên Quán: Nhất thể,
Nhị dụng, Tam biến, Tứ đức, Ngũ chỉ, Lục quán, để xem 92 năm tu học: của lão
Hòa thượng Hải Hiền, thì tương ưng, câu nào cũng tương ưng. Công đức của trụ thế
biểu pháp ấy là vô lượng, khiến bao nhiêu [người] còn có nghi ngờ: đối với kinh
giáo, với học tập: (nghi ngờ là chướng ngại lớn nhất), nhìn thấy phẩm hạnh đạo
nghĩa cả đời của ngài, thì chúng ta trừ bỏ nghi hoặc rồi.
Phần trước
đã nói về đức Tự lợi, hôm nay chúng ta sắp học về đức Lợi tha. Trong đức Lợi
tha chia làm bốn khoa, khoa thứ nhất: Diệu hạnh hiển thật, chú trọng ở chữ 實 “thật” này, là
chân thật. Chúng ta xem Kinh văn:
【得佛辯才。住普賢行。善能分別眾生語言。開化顯示真實之際。超過世間諸所有法。】“Đắc
Phật biện tài, trụ Phổ Hiền hạnh. Thiện năng phân biệt chúng sanh ngữ ngôn,
khai hóa hiển thị Chân thật chi tế. Siêu quá thế gian chư sở hữu pháp.” (Được biện tài của Phật, trụ
hạnh của Phổ Hiền. Giỏi có thể phân biệt ngôn ngữ của chúng sanh, khai thị giáo
hóa hiển thị bờ mé chân thật. Vượt qua tất cả các pháp của thế gian).
Ở trong đoạn Kinh văn này, Niệm lão đã
khai thị tường tận cho chúng ta, chính là Chú Giải, chúng ta xem Chú Giải của
ngài. 『得佛辯才』“Đắc
Phật biện tài” (Được
biện tài của Phật). 辯才者,善巧宣說法義之才能 “Biện tài giả, thiện xảo tuyên thuyết pháp nghĩa chi
tài năng” (Biện tài
là: tài năng khéo léo tuyên nói nghĩa của pháp). Quan trọng nhất ở trong
đây chính là ‘thiện xảo’, đặc biệt là ‘thiện’, ‘thiện’ này chính là từ tán
thán, không phải thiện của thiện ác, khen ngợi các ngài, tán thán các ngài về
năng lực thuyết pháp lợi sanh ấy. Phật pháp, ở trong Đại thừa đức Thế Tôn nhắc
nhở chúng ta, có Liễu nghĩa, có Bất liễu nghĩa. Thế nào là Liễu nghĩa? Tất cả
pháp mà đức Phật nói đều không có dự tính, hoàn toàn là từ trong Tự Tánh, chúng
sanh có cảm, Phật Tánh có ứng. Phật Tánh chính là Tự Tánh, chính là Pháp thân.
Tự Tánh đầy đủ viên mãn vô lượng trí huệ, cho nên trí huệ không phải đến từ bên
ngoài, bên ngoài không có trí huệ, trí huệ là lưu xuất từ trong Tự Tánh. Câu thứ
ba của Đại sư Huệ Năng: nói lúc khai ngộ là: 何期自性,本自具足 “Hà kỳ Tự Tánh, bổn tự cụ túc” (Nào ngờ Tự Tánh, vốn tự đầy
đủ), đầy đủ điều gì? Ở trên Kinh Hoa Nghiêm đức Thế Tôn nói với chúng ta: 一切眾生皆有如來智慧德相 “Nhất thiết chúng sanh giai hữu Như Lai trí huệ đức tướng” (Tất cả chúng sanh đều có
trí huệ đức tướng của Như Lai), đầy đủ mà Đại sư Huệ Năng đã nói chính là
câu ấy, đầy đủ hoàn toàn giống như A Di Đà Phật, trí huệ, đức năng (năng lực đạo
đức), tướng hảo bình đẳng, đều là rốt ráo viên mãn, trí huệ rốt ráo viên mãn, đức
hạnh rốt ráo viên mãn, năng lực rốt ráo viên mãn, tướng hảo rốt ráo viên mãn.
Tướng hảo đến trình độ nào? Giống như trên Quán Kinh: đức Thế Tôn giới thiệu
cho chúng ta Báo thân của đức Di Đà, thân có 84 ngàn tướng: (không phải 32 tướng,
là 84 ngàn tướng), mỗi tướng có 84 ngàn Tùy hình hảo, mỗi một Tuỳ hình hảo:
phóng ra 84 ngàn ánh sáng, trong mỗi ánh sáng có chư Phật Như Lai, chư Đại Bồ-tát
ở trong đó làm Phật sự, Phật sự chính là giảng kinh dạy học. Không cách nào tưởng
tượng, là Báo thân, trong Báo thân hiện toàn bộ vũ trụ. Dùng thuật ngữ của Phật
pháp để nói, thì khắp Pháp giới hư không giới ở đâu? Ở một phần của tướng hảo
trong Báo thân, trong ấy hoàn toàn hiển thị ra. Việc ấy: đến thế giới Cực Lạc
thì được chứng minh rồi, vì sao vậy? Bởi đã hoàn toàn hưởng thụ được, chư vị đạt
được rồi.
Vãng sanh đến thế giới Cực Lạc, Pháp
môn này ở trong 84 ngàn Pháp môn, ở ngay trong vô lượng Pháp môn, là Pháp môn đặc
biệt nhất, Pháp này rất dễ dàng giúp chư vị chứng đắc Vô thượng Bồ-đề, vô cùng
dễ dàng. Nhưng Pháp này rất khó để người tin tưởng, vì sao vậy? Bởi không Pháp
môn nào là ngoại lệ, vì sao chư vị lại ngoại lệ? 84 ngàn Pháp môn, môn nào cũng
cần đoạn phiền não chứng Bồ-đề, không đoạn phiền não, thì chư vị chắc chắn
không thể nâng lên. Từ bậc cửa thứ nhất, là Sơ quả của Tiểu thừa, Sơ tín vị Bồ-tát
trong Thập tín vị của Đại thừa, nhất định phải đoạn: Kiến phiền não trong Kiến
tư phiền não. 88 phẩm Kiến hoặc, đức Thế Tôn để dạy học thuận lợi: mà đem Kiến
hoặc quy nạp thành năm loại lớn, nói ra là đã thuận tiện rồi. 88 phẩm Kiến hoặc
chia thành năm loại lớn: đầu tiên là Thân kiến, chấp trước thân là ta; Thứ hai
là Biên kiến, hai bên đối lập, không biết vạn pháp là một thể, nên sanh ra Biên
kiến; Thứ ba là Kiến thủ và Giới thủ, người Trung Hoa chúng ta gọi là Thành kiến,
Thành kiến của người nào đó rất sâu, Thành kiến nói hai loại, một là Thành kiến
ở trên quả, là Kiến thủ kiến, hai là Thành kiến ở trên nhân, là Giới thủ kiến;
Loại thứ năm: không thuộc về bốn loại lớn ở phía trước, cho nên tất cả cách
nhìn sai lầm: toàn bộ quy về một loại, gọi là Tà kiến, không phải Chánh tri
Chánh kiến. Đoạn hết năm loại Kiến hoặc này rồi, chính là điều đã nói ở nửa bộ
trước của Kinh Kim Cang: 無我相、無人相、無眾生相、無壽者相 “Vô
ngã tướng, Vô nhân tướng, Vô chúng sanh tướng, Vô thọ giả tướng” (Không Tướng ta, không Tướng
người, không Tướng chúng sanh, không Tướng thọ giả), thực sự vào cửa Phật,
tuy là quả rất nhỏ, Sơ quả, Sơ tín vị, nhưng các ngài là Thánh nhân, các ngài
không phải người phàm. Mặc dù ở trong sáu đường như xưa, chưa ra khỏi sáu đường,
nhưng các ngài ở trong sáu đường là có kỳ hạn, chính là bảy lần sanh tử ở trên
trời và nhân gian, hết thọ mạng ở nhân gian thì sanh thiên, sanh thiên tiếp tục
tu hành, hết thọ mạng ở trên trời lại sanh đến nhân gian, các ngài sẽ không đọa
ba đường ác, các ngài cũng sẽ không biến thành A-tu-la.
Thọ mạng của nhân gian ngắn, thọ mạng
trên trời dài, bảy lần qua lại cần thời gian dài bao lâu, chúng ta không dám tưởng
tượng, quá dài rồi. Trời thì xét trời Đao Lợi, không lên trên thêm nữa, một
ngày của trời Đao Lợi là 100 năm của nhân gian, họ cũng là một năm có 365 ngày,
thọ mạng của họ là 1000 tuổi. Lịch sử 5000 năm của Trung Hoa, chẳng qua là hơn
một tháng ở trời Đao Lợi, 50 ngày, một ngày của họ là 100 năm ở nhân gian chúng
ta, 5000 năm lịch sử, là 50 ngày của trời Đao Lợi. Chúng ta cũng cần có khái niệm
về những điều này, vì sao vậy? Bởi có thể giúp chúng ta: hạ quyết định tâm tu Tịnh
Độ, tu Tịnh Độ thành công rồi, ở ngay trong đời này: thì giải quyết xong vấn đề
ấy. A-la-hán không giải quyết nổi vấn đề ấy, Bích-chi-phật cũng không giải quyết
xong, nhất định là hai tầng cao nhất: của Pháp giới Tứ Thánh là: Phật, Bồ-tát.
Thực sự giải quyết là Phật, Phật của mười Pháp giới, Ở trong Lục tức Phật, Đại
sư Thiên Thai: xưng các ngài là Tương tự Tức Phật, các ngài không phải Phật thực
sự, vì sao vậy? Bởi các ngài vẫn dùng A-lại-da. Theo tiêu chuẩn của Đại thừa, bậc
dùng Chân Tâm là Phật; bậc dùng Vọng tâm, cao nhất chính là Tương tự Tức Phật.
Lý tức Phật trong Lục tức Phật, từ
trên Lý nói rằng tất cả chúng sanh vốn là Phật, đó là thật, không thể biện luận.
Nhưng chúng sanh đã mê, mê này sinh ra chướng ngại, thì Tánh đức của Tự Tánh
chư vị không thể hiện tiền, chư vị có trí huệ đức năng tướng hảo: giống như Như
Lai, thảy đều không thể hiện tiền, chư vị hiện đang bị trải qua: là ngày tháng
sanh tử luân hồi trong sáu đường. Trên Lý là bình đẳng, nhưng trên thực tế
không bình đẳng, là phàm phu sáu đường. Cho nên chắc chắn phải tu đức, chúng ta
mới có thể dần dần nâng cao lên trên, phải chân tu. Tu là tu sửa, tu sửa điều
gì? Tu sửa lỗi lầm, tư tưởng sai lầm, kiến giải sai lầm, ngôn luận sai lầm,
hành vi sai lầm. Sai đến quá xa chuẩn mực rồi, mà chính chúng ta hoàn toàn
không biết, đều cho rằng điều chính mình nghĩ là chính xác, việc làm là chính
xác, nếu không phải là đức Phật xuất thế, đức Phật nói rõ ràng tường tận điều ấy
cho chúng ta, giảng giải thấu triệt, để chúng ta dần dần giác ngộ được, quay đầu
lại xem chính mình, sai thực sự rồi, không phải sai giả.
Quay đầu lại từ lỗi lầm, đó gọi là tu
hành, tu sửa tư tưởng, lời nói, hành vi sai lầm. Tam học Giới Định Huệ, chính
là ba sự việc ấy, Giới tu sửa hành vi của thân chúng ta, Định tu sửa hành vi của
ý chúng ta, Giáo tu sửa hành vi của ngôn luận chúng ta. Ba chữ này đều không thể
nghĩ bàn, ba chữ rộng lớn không có biên giới, sâu không có đáy, bởi vì là xứng
Tánh, hoàn toàn là Tánh đức, nhiệm mầu của Phật pháp chính là diệu ở đây. Cho
nên kinh giáo mà Phật nói: không có ý nghĩa, cả đời đức Phật chưa từng nói câu
nào, nếu ai nói đức Phật giảng kinh thuyết pháp đó là báng Phật, ấy là do chính
đức Phật Thích Ca Mâu Ni nói, ấy là lời thật không phải lời giả. Vì sao đức Phật
có thể xuất hiện ở đời? Đức Phật không xuất hiện ở đời, là chư vị có cảm, Ngài
tự nhiên có ứng. Chư vị có hỏi, Ngài tự nhiên có đáp; Hành vi của chúng ta làm
không đúng, thì Ngài tự nhiên hiện tướng trì Giới, để giúp chúng ta sửa chữa. Cảm
ứng đạo giao không thể nghĩ bàn. Cho nên mỗi câu mỗi chữ trên kinh Phật đều
không có ý nghĩa, Nếu chư vị học tập, vậy sẽ hiện vô lượng ý nghĩa, hoàn toàn
tương ưng với Tánh đức.
Khi Tánh đức không khởi tác dụng: thì
chẳng có thứ gì, cho nên Chân Tâm: thường dùng chữ空 “không”: để hình dung. Chân Không chẳng không, Chân Không là giảng về
Tâm, Tâm Tánh. Vì sao chẳng không? Vì có thể hiện, có thể hiện muôn pháp. Câu
nói sau cùng của Đại sư Huệ Năng là: 何期自性,能生萬法 “Hà kỳ Tự Tánh, năng sanh vạn pháp” (Nào ngờ Tự Tánh, có thể
sanh ra vạn pháp), nó có thể sanh, nó có thể hiện; Không có duyên thì nó
không sanh, nó không hiện, đó chính là Không. Không, chẳng thể nói nó không, hiện
không thể nói nó có, nó có thể hiện vạn pháp, vạn pháp được hiện [với] sát-na
không ngừng, giống như liên tục. Trong Kinh Lăng Già đã nói: 自心現量,不斷之無 “Tự tâm hiện lượng, bất đoạn chi vô”(Từ tâm hiện lượng, không của
chẳng dứt), không dứt là
tướng liên tục. Vì sao không nói nó liên tục? Bởi vì tướng phía trước đó không
phải hoàn toàn tương đồng: với tướng phía sau, hoàn toàn tương đồng mới có thể
nói là liên tục, không tương đồng, niệm nào cũng khác nhau.
Thời gian một ý niệm tồn tại là bao
lâu? Bồ-tát Di Lặc nói với chúng ta, một phần 2 triệu 100 ngàn tỷ của giây,
cũng chính là nói trong một giây, số lần sanh diệt là 2 triệu 100 ngàn tỷ.
Chính ở trước mắt chúng ta, từ sáng đến tối đều không rời khỏi một phút giây
nào, chúng ta hoàn toàn bất giác, hoàn toàn không biết, mê ở trong ấy. Nếu đã
hiểu rõ thì thế nào? Hiểu rõ chư vị liền giác ngộ rồi. Vì sao vậy? Bởi chư vị
không chấp trước nữa, chư vị hiểu được tướng là giả, tướng sanh diệt trong
sát-na. Sát-na ấy là 2 triệu 100 ngàn tỷ lần: trong một giây, đó là Thật tướng
của các pháp. Bất luận là ý niệm (Khởi tâm động niệm), là Phân biệt, là Chấp
trước, đây là hiện tượng tâm lý, bên ngoài là ảo tướng của vật chất, sắc thanh
hương vị xúc pháp, đó là Lục trần, Lục căn, Lục trần, Lục thức, thảy đều được
sinh ra từ: sóng dưới tần số cao, cho nên “diệu hữu phi hữu”; diệu hữu, là
trong ‘không’ sanh ‘có’, ‘không’ ấy là Tự Tánh.
Thực sự nhận thức Chân tướng, thì tâm
thanh tịnh rồi, vì sao vậy? Bởi đã buông xuống. Cho nên Đại đức xưa dạy chúng
ta cứ buông xuống, buông xuống là được: chỉ cần chư vị chịu buông xuống, sau
khi buông xuống, buông xuống hư ảo thì dùng Chân Tâm. Chân Tâm ở đâu? Buông xuống
Vọng tâm, Chân Tâm liền hiện tiền. Chân Tâm không sanh không diệt, Chân Tâm mãi
mãi không mất đi, giống như màn hình của chúng ta vậy, mãi mãi không mất đi. Vọng
Tâm là hình tượng trên màn hình, do A-lại-da biến ra, tướng được biến là sanh
diệt trong sát-na. Hiện nay chúng ta xem ti-vi, Đây là tiên tiến nhất, kỹ thuật
số, một giây sanh diệt bao nhiêu lần? 100 lần, chúng ta xem ti-vi mỗi ngày, một
giây sanh diệt 100 lần. Vậy hoàn cảnh hiện thực của chúng ta, sanh diệt bao
nhiêu lần trong một giây? Là 2 triệu 100 ngàn tỷ lần sanh diệt. Đó là Chân tướng,
thường quán sát như vậy, thì người ấy cũng có thể khai ngộ. Sáu căn ở trên cảnh
giới sáu trần, nhìn thấy là giả, nghe được giả, ngửi được, tiếp xúc được toàn
là giả cả; năng tiếp xúc, [là] căn thân của chúng ta; sở tiếp xúc [là] sáu trần
ở bên ngoài, không một thứ nào là thật. Chân thật là không sanh không diệt, Tự
Tánh là chân thật, Tự Tánh không sanh không diệt, cùng với ảo tướng hiện tại của
chúng ta: nhu hợp lại với nhau. Liền giống như chúng ta vừa mở màn hình ti-vi,
chúng ta đang xem ti-vi, chân vọng đều hiện ra, màn hình là chân, sắc tướng là
giả, giả không che lấp chân, chân cũng không trở ngại giả, cùng lúc khởi tác dụng.
Chân thì mãi mãi không biến đổi, giả thì biến đổi [trong] từng sát-na, nhất định
không có cách nào nắm giữ được. Từ đây chúng ta dần dần thể hiện Tánh đức, thực
sự là huyền diệu không thể nghĩ bàn.
Về Lợi tha, ba nghiệp thân khẩu ý,
trong tâm thường xuyên nghĩ đến chúng sanh khổ nạn, ở trong sáu đường mê hoặc
điên đảo, vô lượng kiếp đến nay không thể vượt qua, khổ không nói hết. Nhìn người
khác, sau đó quay lại nhìn chính mình, hồi quang phản chiếu, chính mình cũng
như vậy. Vì sao nhìn người khác trước nhìn chính mình sau? Bởi vì dễ nhìn thấy
khuyết điểm của người khác, mà không dễ thấy khuyết điểm của chính mình. Cho
nên nhìn người khác, mà quay lại soi chiếu chính mình, liền có thể đem vấn đề của
chính mình: thảy đều phát hiện ra, rốt cuộc là đã xảy ra khuyết điểm ở đâu: liền
biết được. Nhìn Phật Bồ-tát, nhìn Thanh văn Duyên giác, nhìn chư Thiên, nhìn
người thiện, nhìn người ác, nhìn súc sanh, nhìn ngạ quỷ, nhìn địa ngục, chính
mình sẽ khai ngộ; không khai ngộ nổi, là đã mê quá sâu, cũng chính là Vọng tưởng
Phân biệt Chấp trước quá nghiêm trọng, rất khó quay đầu.
Thực sự có thể buông xuống, dùng tâm tỉ
mỉ mà quán chiếu, trên Hoàn Nguyên Quán, đó là lời được nói trên Kinh
Hoa Nghiêm, bài văn chương Hoàn Nguyên Quán đó: là phương pháp tu của
Kinh Hoa Nghiêm, văn tự không nhiều, vô cùng vắn tắt, căn cứ theo phương
pháp ấy mà tu hành: thì có thể đắc Hoa Nghiêm Tam-muội, sau khi tu thành công,
là thế giới Hoa Tạng. Thực sự cần thời gian vô cùng dài, không thuận tiện như
thế giới Cực Lạc, vì sao vậy? Bởi không ai gia trì chư vị. Thế giới Cực Lạc:
hoàn toàn cần nương nhờ A Di Đà Phật, đều dựa vào Phật lực, phải biết điều này.
Đối với A Di Đà Phật là cảm ân đến vô cùng, thực sự là Ngài đến cứu ta, trừ Ngài
ra thì không ai cứu. Đức Thích Ca từ bi, giới thiệu A Di Đà Phật cho chúng ta,
chúng ta nhận biết A Di Đà Phật; Mười phương chư Phật Như Lai từ bi, khác miệng
đồng âm: cũng giới thiệu thế giới Cực Lạc cho chúng ta, chư Phật Như Lai xưng
tán đức Di Đà là: 光中極尊,佛中之王 “Quang
trung cực tôn, Phật trung chi vương” (Tôn quý nhất trong các ánh sáng, là vua trong chư Phật),
tán thán đến tận cùng. Đức Phật không có tâm tư lợi, đều là muốn đem điều tốt
nhất cho chúng ta, nhưng chư vị không tin, không tin thì mở thêm Pháp môn khác
để dẫn dắt chư vị, mở 84 ngàn Pháp môn, mở vô lượng Pháp môn để tiếp dẫn chư vị.
Đến lúc nào căn tánh chín muồi rồi, thế nào gọi là căn tánh chín muồi? Là chư vị
đối với Tịnh tông, đối với thế giới Cực Lạc có thể tin, có thể phát nguyện, muốn
cầu vãng sanh, đó gọi là chúng sanh căn tánh chín muồi, căn tánh chín muồi thì
đức Phật chỉ dạy chư vị Pháp môn này. Chư vị xem Hòa thượng Hải Hiền [là] căn
tánh chín muồi, Sư phụ ngài thực sự tuyệt vời, điều gì cũng không dạy, chỉ dạy
một câu Nam Mô A Di Đà Phật, cứ tiếp tục niệm mãi. Ngài thật thà, nghe lời,
vâng lời đã niệm 92 năm không chuyển hướng, chưa từng nghi ngờ, nên ngài thành
công rồi, hơn nữa thành công vô cùng nhanh.
Sư phụ dặn dò ngài, sáng tỏ rồi, không
được nói lung tung, không được nói, ngài cũng làm được rồi. Sự biểu pháp ấy:
chính là nói với người hiện đại chúng ta, khai ngộ rồi nếu chư vị nói, người
khác sẽ bảo chư vị nói lời bịa đặt, lời tà mê hoặc đại chúng, không những không
nghe chư vị, mà có thể sẽ còn muốn hại chư vị, còn muốn phán tội, chư vị nói lời
tà mê hoặc đại chúng, quấy nhiễu trị an của xã hội, có thể phán tù tội. Vậy nên
lão Hòa thượng nói: không thể nói, không nên nói, vô cùng thật thà làm việc bổn
phận của chư vị. Bổn phận của lão Hòa thượng Hải Hiền, là làm ruộng, từ nhỏ:
ngài chính là lớn lên ở trong đồng ruộng, cho nên đối với trồng trọt, ngài là
chuyên gia, tuy ngài chưa từng đi học Nông nghiệp, chỉ học với người lớn, mà
không điều gì ngài không biết. Đặc biệt là ở thời đại ấy, trồng trọt tốt, có thể
giúp rất nhiều người khổ nạn, không có thức ăn, không có đồ mặc, cứu tế những
người ấy, là việc tốt. Đó là thời đại ấy, bất luận đi đến nơi nào, mọi người đều
hoan nghênh chư vị, đều yêu mến chư vị, bởi chư vị mang đến cho họ: lợi ích
chân thật trước mắt. Cho nên biểu pháp 92 năm của ngài: truyền đạt điều gì? Loại
phương tiện khéo léo ấy, [dùng] tâm tỉ mỉ để quan sát, để học tập, thì lợi ích
vô lượng vô biên, Hiền công có đắc được biện tài của Phật hay không? Có; Có trụ
hạnh Phổ Hiền hay không? Có. Thỉnh thoảng lộ một chút, mọi người cũng không
nghi ngờ, chư vị hỏi nhiều thì ngài chỉ cười, cười mà không đáp. Cho nên tài
năng khéo léo tuyên nói pháp nghĩa, lão Hòa thượng có thiện xảo, thực sự, hơn nữa
dùng thân thể, cử chỉ, động tác, thị hiện từ những nơi ấy, phải biết xem, biết
nghe.
此則《淨影疏》所謂,言能辯了 “Thử tắc Tịnh Ảnh Sớ sở vị, ngôn năng biện liễu” (Đây là Tịnh Ảnh Sớ đã nói,
có thể biện liễu ngôn từ), biện là có thể nói, liễu là hiểu rõ, có thể hiểu
rõ được ngôn từ , 語能才巧 “ngữ
năng tài xảo” (có
thể tài khéo ngôn ngữ), ‘ngôn’ là một chữ, ‘ngữ’ là một câu nói, nói được
vô cùng thỏa đáng, đơn giản sáng tỏ. 又《嘉祥法華疏》曰:速疾應機名辯,言含文采曰才 “Hựu Gia Tường Pháp Hoa Sớ viết: tốc tật ứng cơ danh biện,
ngôn hàm văn thái viết tài”
(Thêm nữa Gia Tường Pháp Hoa Sớ nói rằng: mau chóng ứng cơ gọi là biện, lời
nói hàm chứa văn chương gọi là tài). Về biện, chúng ta hiện nay gọi là phản
ứng, hiện nay thông thường nói là phản ứng rất nhanh, đó là ý nghĩa của biện. Lời
nói có thể ứng cơ, nhanh chóng ứng cơ, rất nhanh có thể ứng cơ, đó gọi là biện
tài. Trong Hội Sớ nói: 言音開惑 “Ngôn
âm khai hoặc” (Âm
thanh của lời nói khai hoặc), khai là khai thị, hoặc là mê hoặc, vừa nghe
liền đã sáng tỏ, giác ngộ rồi, đó là ý nghĩa của biện, 隨機巧妙為才 “tùy cơ xảo diệu vi tài” (tùy cơ khéo léo là tài).
Cho nên lời nói không có nguyên tắc nhất định, hoàn toàn hằng thuận chúng sanh,
tùy hỉ công đức, 無不皆出於聖智 “vô
bất giai xuất ư Thánh trí”
(chẳng gì không phải đều hiện ra từ Thánh trí). 三疏之中,此說為上 “Tam sớ chi trung, thử thuyết vi thượng” (Ở trong ba sớ, thuyết này
là hay nhất), thuyết ấy là Hội Sớ, cách nói của Tịnh Ảnh Sớ, Gia Tường Sớ:
không nói được hay như Hội Sớ, Hội Sớ là do Tổ sư của Tịnh tông Nhật Bản nói.
Đó là giải thích ý nghĩa: của hai chữ 辯才 “biện tài”.
Tiếp theo lại trích dẫn Tịnh Ảnh Sớ: 謂如來得四無礙智。如來由無礙之智,興無礙之四辯 “Vị
Như Lai đắc Tứ vô Ngại trí. Như Lai do vô ngại chi trí, hưng vô ngại chi Tứ biện” (Nói rằng Như Lai đắc Tứ vô
Ngại trí. Bởi Như Lai thuận theo Trí vô ngại, mà khởi sự Tứ biện vô ngại).
Đây là danh từ Phật học, Tứ biện, Tứ vô Ngại trí, đều tra được ở Tự điển Phật
pháp. Rất khó được, Niệm lão trích dẫn Tứ vô ngại biện ở đây. Thứ nhất là: 義無礙辯 “Nghĩa vô Ngại biện”, ‘nghĩa’ là nghĩa lý. 謂了知一切諸法義理,通達無滯 “Vị
liễu tri nhất thiết chư pháp nghĩa lý, thông đạt vô trệ” (Là liễu tri nghĩa lý của tất
cả các pháp, thông đạt không trở ngại), liễu là hiểu rõ, tri là giác biết,
tất cả các pháp, tất cả pháp thế gian và xuất thế gian, đều thông đạt sáng tỏ
nghĩa lý. Vậy thì chúng ta liền hiểu được, chúng ta thoạt nhìn, có người nói
không làm được điều ấy, tất cả pháp thế gian và xuất thế gian: đều có thể thông
đạt hiểu rõ. Nhà Khoa học ngày nay, trên thế giới này đều cho rằng: đó là người
thông minh nhất, có thể đem bí mật sâu xa của vũ trụ, họ có thể khai thác ra.
Những nhà Cơ học lượng tử hiện nay: đều được gọi là người thông minh bậc nhất của
thế gian, họ phát hiện vấn đề từ Toán học cao sâu, sau đó dùng thêm kỹ thuật của
Khoa học: để giải đáp, để chứng thực. Cho nên đầu tiên của Khoa học là cần nghi
ngờ, không nghi ngờ thì không thể khai thác vấn đề. Nhà Khoa học đề xuất câu hỏi,
vật chất rốt cuộc là thứ gì? Đó là nghi ngờ, vật chất rốt cuộc là gì? Sau đó lại
đi khai thác chúng, dùng thiết bị Khoa học để quan sát, để chứng minh. Suốt 400
năm, vấn đề ấy: đời sau tiếp nối đời trước để lần theo dấu vết nghiên cứu, đến
20 năm gần đây: mới làm rõ ràng, làm sáng tỏ điều ấy, sau khi sáng tỏ, kết luận
nói với chúng ta là gì? Vật chất là giả, không phải thật. Nói lời thật, ở trên
thế giới này: chắc chắn không có sự tồn tại của vật chất. Vật chất là gì? Vật
chất là ảo tướng sinh ra từ sóng của ý niệm. Tương ưng cùng Phật pháp rồi, Phật
pháp nói sắc do tâm sanh, tướng do tâm sanh, cảnh chuyển theo tâm, toàn bộ đều
chứng minh rồi. Họ phí sức lực lớn như thế, đời sau nối đời trước, đã làm 400
năm mới làm rõ ràng, đức Phật Thích Ca Mâu Ni từ 3000 năm trước, đã giảng rõ
ràng, giảng sáng tỏ rồi, còn nói được rõ ràng hơn họ, nên nhà Khoa học bội phục
kinh Phật Đại thừa.
Làm sao đức Phật biết được? Đức Phật
không dùng phương pháp Khoa học, không dùng Toán học, cũng không dùng bất kỳ
thiết bị nào, đức Phật dùng Thiền định, nội công. Chỉ có dụng công hướng vào
trong, không cần hướng ngoại, hướng ngoại chính là Khoa học, chính là Triết học,
hướng nội đó là Phật học, Thần học, đều hướng nội. Hướng nội quan trọng nhất là
lòng tin, nhất định không cho phép nghi ngờ, hướng nội là tìm Tự Tánh, đức Phật
dạy học cùng với Văn hóa Truyền thống Trung Hoa, mục đích là gì? Minh tâm Kiến
tánh. Câu đầu tiên trong sách Đại Học: 大學之道,在明明德 “Đại học chi đạo, tại minh minh đức” (Đạo của Đại học, là làm
sáng tỏ Đức sáng), câu thứ nhất đã nói ra tông chỉ rồi, đạo học của Đại học
là gì? Là làm sáng tỏ Đức sáng. Minh đức là danh từ, chính là Bổn Tánh, Chân
Tâm, Pháp Tánh, danh từ của Phật giáo rất nhiều, người xưa của Trung Hoa nói
‘Minh đức’. Đức sáng hiện nay không sáng nữa, chúng ta mê rồi, chúng ta phải học,
học thế nào để tìm trở về đức sáng của mình, cho nên làm sáng tỏ Đức sáng, chữ
‘minh’ phía trước là động từ. Chỉ cần minh đức rồi, là Minh tâm Kiến tánh, thì
gần gũi dân chúng, dừng nơi Chí thiện: đó là việc tự nhiên, pháp vốn như vậy.
“Thân dân” là gì? Chính là đại từ đại bi mà nhà Phật giảng. Dùng tâm đại từ bi,
Vô duyên đại từ, Đồng thể đại bi đối đãi nhân dân, đó chính là Phật Bồ-tát, Khởi
tâm động niệm, lời nói việc làm của chư vị đều dừng nơi thiện tột cùng, là
phương tiện khéo léo đã nói trên Kinh Phật. Cho nên Phật giáo truyền đến Trung
Hoa, là đã nâng cao Văn hóa vốn có của nước ta.
Minh đức là thể, bản thể của Tự Tánh,
trong đó vốn là đầy đủ: vô lượng trí huệ đức tướng, ‘thân dân’ cùng với dừng
nơi chí thiện ở phía sau, đó là dụng, từ thể khởi dụng, ‘chí thiện’, là Vô ngại
biện tài nói ở nơi đây. Cho nên các ngài biết rõ nghĩa lý của tất cả các pháp,
vậy chính là Đại triệt Đại ngộ, Minh tâm Kiến tánh. Cho nên Trung Hoa dạy học
nói cầu ngộ, rất ít người Triệt ngộ, nhưng đã không ít người Đại ngộ, Đại ngộ
thì rất hữu hiệu rồi. Tiểu ngộ, chưa Đại ngộ, chỉ Tiểu ngộ, Tiểu ngộ có thể
nói, chính mình ngay trong đời này: sống được vô cùng hạnh phúc, tự tại, nhất định
đạt được, Tự lợi viên mãn, mà Lợi tha còn chút chưa làm được, nhưng Tự lợi là
viên mãn. Họ sẽ viên mãn thế nào? Họ đã nhìn thấu, họ buông xuống rồi. Giống
như Sơ quả Tu-đà-hoàn, Sơ tín vị Bồ-tát của Đại thừa, được nói trong Phật pháp,
các ngài đã buông xuống thân tâm thế giới rồi, đã phá Thân kiến, buông ngã xuống
rồi; Đã phá Biên kiến, hết thảy tất cả đối lập: đều không còn nữa, không còn tồn
tại, toàn bộ vũ trụ là một thể với chính mình, các ngài có khái niệm ấy. Nên đời
sống của các ngài rất hạnh phúc, rất tự tại, chúng ta thường nói là nhìn thấu
được, buông xuống được, các ngài sẽ không tự tìm phiền não, nên được thọ dụng
chân thật.
Cho nên người Trung Hoa đều muốn đọc
sách, vì sao vậy? Bởi loại thanh tịnh, hạnh phúc, tự tại, mỗi người đều muốn đạt
được. Điều ấy không phân chia giàu nghèo sang hèn, thảy đều có thể đạt được. Sau
khi đạt được, thì trong mạng chư vị [có] giàu sang, chư vị sẽ an với giàu sang,
trong mạng nghèo thì họ cũng an với nghèo. An này rất quan trọng, an phận giữ
mình. Tâm thanh tịnh hiện ra, thì ngay trong cuộc sống thường ngày, họ không có
trí huệ lớn cũng có trí huệ nhỏ, nói cách khác, họ không tạo nghiệp, họ hiểu được
tích công lũy đức, họ biết đoạn ác tu thiện. Ngạn ngữ có nói rằng: đời trước tu
không tốt, ta đã biết, thì chăm chỉ tu đời này, thì đời sau sẽ tốt thôi. Người
không phải một đời, quá khứ không bắt đầu, vị lai không kết thúc, họ sáng tỏ đạo
lý ấy. Nhân quả báo ứng tơ hào không sai, tuyệt đối không thể nói không có nhân,
mà họ đạt được quả báo giàu sang, không có đạo lý ấy. Sáng tỏ đạo lý ấy, thì tu
nhân của chính mình, mệnh của chính mình không tốt có thể sửa. Giống như Tiên
sinh Liễu Phàm, mệnh của ông là không ra gì, nhưng gặp được Thiền sư Vân Cốc, dạy
ông đoạn ác tu thiện, tích lũy công đức, vận mệnh đã sửa rồi, thọ mạng cũng đã
kéo dài. Ông không cầu trường thọ, thọ mạng trong mệnh của ông là 53 tuổi, mà
74 tuổi ông mới đi, kéo dài 20 năm. Trong mạng không có con trai, mà được con
trai ngoan, đời thứ ba tốt, con trai ông sanh ra sáu người con, cho nên lập tức
liền đã biến thành gia đình lớn, rất náo nhiệt. Cả đời của chính ông, làm quan
lớn ra sao? Là một Tri huyện, là Huyện trưởng, huyện rất nhỏ của Tứ Xuyên, ông
làm Huyện trưởng ở đó. Không có công danh, công danh giống như Học vị hiện nay
vậy, ông chỉ có Tú tài, không có Cử nhân, không có Tiến sĩ, là do trong mạng
không có. Đoạn ác tu thiện cầu công danh, kết quả thi đỗ Cử nhân, thi đỗ Tiến
sĩ, đều không có trong mạng. Không có con, mà có con rồi, thế hệ cháu thì có
sáu người. Ông làm quan, làm Tri huyện của Bảo Trì, Bảo Trì thuộc vùng do Hoàng
thượng quản trực tiếp, nên địa vị ấy cao rồi, giống như Thị trưởng thành phố trực
thuộc Trung ương ngày nay. Đây đều là nói rõ: người thực sự sáng tỏ đạo lý, hễ
mê chỉ cần đoạn ác tu thiện, tích lũy công đức thì được rồi, sau đó xem hồi hướng
của chư vị, xem nguyện vọng của chư vị, chư vị muốn làm nghề nào, thì nhất định
rất thuận lợi. Chư vị không tu công đức, thiện căn phước đức nhân duyên giảng
trong Phật pháp: nếu chư vị không tu tích, thì làm sự việc gì cũng không làm
thành, việc tốt không làm thành, việc xấu cũng không làm thành. Việc xấu cũng
là do đời trước tu, đời trước không tu, thì trong mạng chư vị không có. Ví như
làm quan tham ô, của cải mà chư vị tham được là do trong mạng chư vị có, nếu vượt
qua, vượt qua sẽ xảy ra vấn đề, tai họa liền đến rồi. Trong mạng của chư vị có
bao nhiêu của cải, người xưa tin điều này, hiện nay không tin, hiện nay cho rằng
đều là bản lãnh của ta, không tin nhân quả, không tin tích đức, cho rằng công
danh đó là do tranh được, cạnh tranh, đấu tranh, là như vậy mà được. Cạnh
tranh, đấu tranh vẫn là có trong mạng, trong mạng không có, chư vị đấu không lại
người khác, chư vị tranh không vượt qua người khác. Đó là chân tướng sự thật,
chân tướng sự thật của thế gian.
Nghĩa vô Ngại biện nhất định là Minh
tâm Kiến tánh, các ngài hoàn toàn đều đã hiểu rõ tất cả các pháp, vì sao vậy? Bởi
thấy Tánh rồi. Tất cả pháp không rời khỏi Tự Tánh, tất cả pháp đều được sanh được
hiện từ Tự Tánh, chư vị đã thấy Tánh, thì không thể không biết về tất cả pháp,
Tánh tướng, sự lý, nhân quả của tất cả pháp: đều đã thông đạt. Hòa thượng Hải
Hiền là: do Sư phụ dặn dò không được nói, nếu Sư phụ nói với ngài là: sáng tỏ rồi
thì có thể nói, vậy ngài sẽ là Đại sư thực sự của thời đại, ngài thuyết pháp giống
như đức Phật thuyết, ngài không có chướng ngại. Giống như Đại sư Huệ Năng vậy,
bất luận là kinh luận nào, chư vị thỉnh giáo với ngài, ngài đều giảng cho chư vị
nghe, chư vị niệm cho ngài nghe, ngài giảng cho chư vị nghe. Đây là chúng ta hiểu
được hoàn cảnh khác nhau, lúc đức Phật Thích Ca Mâu Ni xuất thế ấy, hoàn cảnh của
Ấn Độ: cho phép Ngài dùng thân Phật để xuất hiện ở thế gian. Đại sư Huệ Năng xuất
hiện ở triều nhà Đường lúc thịnh thế, sau khi Ngũ tổ ấn chứng cho ngài, hoàn cảnh
xã hội lúc bấy giờ, ngài không có địa vị, không có bối cảnh, cho nên Ngũ tổ Hòa
thượng Hoằng Nhẫn bảo ngài đi lánh nạn. Ngài đến trong nhóm thợ săn, ở trong ấy
ẩn thân 15 năm, thay thợ săn trông coi thú săn, phục vụ cho thợ săn. 15 năm, mọi
người dần dần quên lãng sự việc ấy rồi, ngài mới đi ra, [giúp] hưng vượng lại Thiền
tông, là thời Tượng pháp của đức Thế Tôn, nối Huệ mạng của Phật. Hiện nay chúng
ta cách Đại sư Huệ Năng: hơn 1000 năm, quan niệm của người trong xã hội hiện
nay: hoàn toàn đã khác với trước kia, trước đây có cơ sở, biết bao người đều có
giáo dục cắm gốc, có giáo dục luân lý đạo đức nhân quả Thánh Hiền, hiện nay đều
không còn nữa, nếu muốn hưng vượng lên lại, thì chư vị biết rất khó khăn. Dùng
điều gì để hưng khởi được? Nhất định phải được Tổ tông phù hộ, Tam Bảo gia trì.
Làm sao có thể đạt được? Thật tu thật làm. Giả thì có thể lừa người, nhưng
không gạt được quỷ thần, không gạt được Phật Bồ-tát, Đạo lý ấy: nhất định phải
rất rõ ràng, rất sáng tỏ. Phát tâm Bồ-đề thực sự, chính là Chân thành, Thanh tịnh,
Bình đẳng, Chánh giác, Từ bi, đó là tâm Bồ-đề. Lấy chân thành để xử việc đối
người tiếp vật, người khác lừa gạt tôi không để trong tâm, tôi không lừa gạt
người, chư vị mới có thể cảm hóa người khác, mới có thể kiến lập Đạo tràng. Đạo
tràng không phải hình thức, mà là đức hạnh của chính mình, là trí huệ của chính
mình, là biện tài của chính mình.
Thứ nhất: nghĩa lý, đó là gốc của Vô
ngại Biện tài. Thứ hai: 法無礙辯。謂達一切諸法名字,分別無滯 “Pháp
vô Ngại biện: vị đạt nhất thiết chư pháp danh tự, phân biệt vô trệ” (Pháp
vô Ngại biện: là thông suốt tên gọi của tất cả các pháp, phân biệt không trở ngại).
Vậy nếu là đọc sách, người Triệt
ngộ đều thông hết, đạt được một loại thì đạt được cả bốn loại. Không dễ dàng
Triệt ngộ. Tiểu ngộ, Đại ngộ thì cần phải đọc tụng, học rộng nghe nhiều. Học rộng
nghe nhiều có nguyên tắc, người xưa nói được rất hay, không thể tự độ mà muốn độ
người, thì vô hữu thị xứ, [tức là] không có đạo lý ấy. Cho nên nhất định
cầu tự độ trước, có năng lực tự độ: thì có phương tiện khéo léo độ người. Tự độ
cần thâm nhập một môn, huân tu lâu dài, đi con đường Giới Định Huệ này, con đường
này là con đường mà tất cả chư Phật: trong mười phương ba đời cùng đi chung,
không có ngoại lệ nào. Chúng ta phải ghi nhớ, đi đường cũ, đường người trước từng
đi, thì sẽ không có sai lầm; Không đi đường của người trước, tự mình mở một con
đường mới, không biết đã đi đến đâu nữa, đó chính là đặc biệt sai lầm rồi. Nói
về Tịnh Độ tông, thực sự niệm đến chính mình có nắm chắc vãng sanh, chư vị lại
độ hóa chúng sanh thì yên tâm, vì sao vậy? Bởi tôi có nơi đến của tôi rồi, cảnh
giới bên ngoài sẽ không chướng ngại tôi nữa.
Trong Kinh Hoa Nghiêm, Quốc sư
Hiền Thủ dạy chúng ta Ngũ chỉ Lục quán, đó chính là Giới. Điều đầu tiên trong
Ngũ chỉ là lìa duyên. Cảnh giới là duyên, không thể phan duyên; tùy duyên không
phan duyên, phan duyên là đã lập nên duyên ấy rồi, thứ ấy là quả báo của sáu đường
luân hồi, thiện duyên sanh ba đường thiện; ác duyên sanh ba đường ác. Cần lìa
duyên, thì không bị cảnh giới ảnh hưởng, nếu bị cảnh giới ảnh hưởng thì mau
chóng ra đi. Thứ hai là Tuyệt dục, tuyệt là đoạn tuyệt, dục chính là Ngũ dục,
tài sắc danh ăn ngủ, Phải đoạn dứt Thất tình Ngũ dục. Thứ ba là, dùng lời hiện
tại để nói, lão Hòa thượng Hải Hiền thường nói tự nhiên đúng là tốt, đừng tìm cầu
thứ gì cảm ứng hiếm lạ, lìa khỏi thật xa, tất cả đều là tự nhiên thì tốt, pháp
vốn như vậy. Thứ tư là Vô niệm. Thứ năm là chẳng phải tướng, biết những gì có
tướng đều là hư vọng. Về Vô niệm, trong tâm người niệm Phật: chỉ có một niệm A
Di Đà Phật, trừ A Di Đà Phật ra: thì không có ý niệm nào cả. Sáu căn tiếp xúc cảnh
giới sáu trần, chư vị nhìn thấy, nghe thấy: đều không cần đặt ở trong tâm, thì
tâm của chư vị không bị ô nhiễm, tâm của chư vị không có chướng ngại, tâm của
chư vị thanh tịnh, tâm của chư vị bình đẳng, thanh tịnh bình đẳng liền chiếu kiến,
đó là cảnh giới giống như Phật Bồ-tát, chiếu kiến. Hiện nay chúng ta không phải
chiếu kiến, hiện nay chúng ta bị dính rồi, mắt thấy sắc, mắt dính vào sắc rồi,
tâm liền bị ô nhiễm; Tai nghe tiếng, bị dính vào âm thanh rồi. Sáu căn không
thoát khỏi sáu trần, bị sáu trần làm ô nhiễm, bị sáu trần chướng ngại, đời đời
kiếp kiếp làm sáu đường luân hồi, sức mạnh của thiện nghiệp lớn, thì thọ báo ở
ba đường thiện; sức mạnh của ác lớn, thì thọ báo ở ba đường ác, cứ làm việc ấy.
Cho nên Ngũ chỉ này là Giới.
Lục quán là cách nhìn, đức Phật nhìn
thế giới này thế nào, Bồ-tát nhìn thế giới này thế nào. Bồ-tát nhìn thế giới
này, vạn pháp đều không, Chân không quán, quán ấy quan trọng hơn bất kỳ điều
gì, quán ấy có thể thấy Tánh. Chân không chẳng không, gặp được duyên thì hiện
tướng, hiện điều gì? Hiện vạn hữu, có thể sanh ra vạn pháp, vạn pháp là diệu hữu.
Diệu hữu là thế nào? Có mà chẳng có, không phải là thật. Trong diệu hữu bao gồm
Phật pháp, Phật pháp cũng là tướng, Phật pháp cũng là diệu hữu, cho nên Phật dạy
chúng ta, chúng ta dùng Phật pháp, trên tâm đừng bị Phật pháp làm ô nhiễm, nếu
chư vị có Chấp trước, thì Phật pháp ô nhiễm chư vị; Nếu chư vị có Phân biệt,
thì Phật pháp sẽ chướng ngại chư vị. Cho nên Bồ-tát Mã Minh: trong Luận Khởi
Tín dạy chúng ta rằng: cần học Phật như thế nào? Đừng chấp trước tướng Ngôn
thuyết, xem kinh văn đừng chấp trước tướng Văn tự. Chữ viết là ký hiệu của ngôn
ngữ, nếu chúng ta dùng, thì không bị hại, nhưng Chấp trước thì đã bị hại, Phân
biệt cũng bị hại rồi, phải dùng tâm bình thường để đối đãi, “bình” là tâm bình
đẳng, “thường” là tâm thanh tịnh, để học Phật. Đừng chấp trước tướng Danh tự,
danh tự là Phật vì phương tiện dạy học: mà giả lập ra, chính là như Lão tử đã
nói: 名可名,非常名 “Danh khả danh, phi thường
danh” (Tên [mà]
có thể gọi là tên, thì không phải là tên thường), danh tự không phải thật,
là do người đặt tên cho chúng. Không chấp trước tướng Tâm duyên, Tâm duyên, sau
khi chư vị đã nghe, sau khi chư vị đã đọc, nghĩ đến điều ấy có ý nghĩa gì, điều
đó không có ý nghĩa. Chúng ta đều có khuyết điểm, đọc xong sẽ nghĩ đến ý nghĩa,
không phải ý nghĩa của điều ấy, là ý nghĩa của chúng ta, đã bị dẫn dắt rồi, vậy
thì là phàm phu. Trong tâm Phật Bồ-tát là không, như như bất động, dẫn thế nào
cũng dẫn không ra. Chúng ta thì người khác vừa lôi kéo, chư vị thấy hoan hỉ, lập
tức liền cười rồi; Không vui mừng, thì khí sắc trên mặt lại nổi lên lo lắng rồi.
Đây là gì? Đây là chư vị chuyển theo cảnh giới bên ngoài, đều không thể được.
Cho nên đọc kinh, mục đích của đọc kinh ở đâu? Là đọc cho mất Vọng tưởng. Không
đọc kinh thì Vọng tưởng; Đọc kinh, tâm chuyên chú ở trên kinh văn, thì Vọng tưởng
dần dần đã rời khỏi, dụng ý ở chỗ này, chúng ta đi nghiên cứu ý nghĩa ở trong
kinh: thì không phải lại nghĩ Vọng tưởng rồi sao? Cho nên Phật nói với chúng ta:
kinh không có ý nghĩa, nếu chư vị dùng lời ấy, thì kinh có vô lượng nghĩa. Vậy
thì chúng ta hiểu rõ, chư vị xem một bộ kinh từ xưa đến nay, mà người xưa làm
chú giải, đại khái chú giải của Kinh Kim Cang là nhiều nhất, có mấy trăm loại
chú giải, đó chính là mấy trăm loại ý nghĩa. Chúng ta đều có thể tham khảo,
nhưng đều không thể chấp trước, chấp trước thì đã mắc lừa, liền sai rồi.
Ba phương pháp trong Khởi Tín Luận tuyệt
diệu, lìa tướng Ngôn thuyết, bao gồm lìa tướng Văn tự; Lìa tướng Danh tự, danh
từ thuật ngữ; Lìa tướng Tâm duyên, chỉ cần đọc thôi, căn bản không cần nghĩ là
có ý nghĩa gì. Có lúc ý nghĩa là chính mình nghĩ ra, vậy thì có thể, đó là cảm ứng,
cũng không cần ghi ý đó xuống, không cần. Tâm càng thanh tịnh, thì hiện tượng ấy
càng nhiều, tâm thanh tịnh sanh trí huệ, kinh Phật sẽ dẫn phát trí huệ của chư
vị ra. Phàm phu sáu đường, sẽ dẫn phiền não của chư vị ra. Có thể thấy được,
cùng đọc một bộ sách, một bộ luận giống nhau, nhưng cảm thụ của mỗi người khác
nhau, đây là thật không phải giả, tùy theo trình độ tâm thanh tịnh, tâm bình đẳng
của chư vị mà phản ứng khác nhau. Kinh có vô lượng nghĩa, cho nên càng đọc càng
hoan hỉ, ngày ngày có chỗ ngộ, ngày ngày xem thấy khác nhau, như vậy chư vị mới
sẽ đối với kinh điển: bội phục đến năm vóc sát đất. [Điều mà] sách vở thế gian
không làm được, thì Phật pháp có thể làm được, kinh điển Đại Tiểu thừa đều là
như vậy, vi diệu không thể nói. Cho nên Pháp vô ngại.
Thứ ba là: 辭無礙辯 “Từ vô ngại biện”, ‘từ’ là ngôn từ, 於諸法名字義理,隨順一切眾生殊方異語,為其演說,能令各各得解故 “ư chư pháp danh tự nghĩa lý, tùy thuận nhất thiết
chúng sanh thù phương dị ngữ, vị kỳ diễn thuyết, năng linh các các đắc giải cố” (với tên gọi nghĩa lý của
các pháp, tùy thuận theo nơi chốn ngôn ngữ khác biệt của tất cả chúng sanh, mà
diễn nói cho họ, nên có thể khiến mỗi mỗi đều hiểu được). Trong giảng đường
Phật pháp, diễn giảng như vậy, ngày trước thầy Lý thường nói gọi đó là Đại giảng
đường. Chữ大 “đại” ở đây là ý nghĩa gì? Khác với
trường học thông thường, thính chúng của giảng đường trường học, trình độ của học
trò ngang nhau, giảng đường Tiểu học, giảng đường Trung học, Đại học, là đồng đều,
chư vị dễ giảng. Đại giảng đường là gì? Trình độ của thính chúng trong ấy không
ngang nhau, có Tiểu học, có Trung học, có Đại học, chư vị cần giảng đến người
nào cũng nghe hiểu, người nào cũng hoan hỉ, đó thật là không phải việc dễ dàng.
Với Tiểu học cần nói cạn, với những người thực sự đang công phu phải nói sâu,
cho nên sâu cạn phối hợp được vô cùng khéo léo, chỗ sâu có cạn, chỗ cạn có sâu,
vậy thì không dễ dàng, Cao tăng Đại đức Phật môn đều có khuôn khổ ấy. Có phải
do các ngài học được không? Không phải, học không được, học chỉ có thể học một
một phạm vi, không thể học đến khéo léo vi diệu, khéo léo vi diệu là Tánh đức của
chư vị, Tánh đức là do tâm chân thành lưu xuất ra, chân thành cảm ứng với Tánh
đức; Không có chân thành, thì không cảm ứng với Tánh đức, mà cảm ứng với A-lại-da.
Đây là như Phật pháp nói về: tán thán Như Lai thuyết pháp, có thể khiến mỗi một
chúng sanh đều lý giải được, đều có thể sanh tâm hoan hỉ, đều đắc được thọ dụng
chân thật, chúng ta giảng là cảm ứng của tâm linh.
Thứ tư là: 樂說 “Nhạo thuyết”, ‘nhạo’ là ưa thích, yêu chuộng, ưa thích vì người diễn nói. Diễn
là biểu diễn, làm ra cho người xem, đó là diễn. Sau khi họ xem xong, họ có nghi
vấn đến thỉnh giáo với chư vị, chư vị mới đem ra giảng rất rõ ràng, rất sáng tỏ,
khiến họ thực sự nghe hiểu rồi, họ đã có cảm nhận, thì họ muốn học rồi, đó gọi
là “nhạo thuyết”. 謂隨順一切眾生根性所樂聞法而為說之,圓融無滯 “Vị tùy thuận nhất thiết chúng sanh căn tánh sở nhạo
văn pháp nhi vị thuyết chi, viên dung vô trệ” (Là tùy thuận theo căn tánh yêu thích nghe pháp của
tất cả chúng sanh mà nói cho họ, viên dung không ngăn ngại). Căn Tánh khác
nhau, thuyết pháp thực sự không phải là việc dễ dàng. Chúng tôi đã giảng cả đời,
trước nay không dám nói vì người diễn nói, không dám. Là tâm thái thế nào? Tâm
thái làm học trò, thính chúng phía dưới đều là Giám học của tôi, đều là thầy của
tôi, tôi ở đây làm báo cáo tâm đắc học tập, giữ loại tâm thái ấy. Vì sao vậy? Bởi
chiếu theo tiêu chuẩn của người xưa, ngày nay chúng tôi không lên nổi Giảng
đài, Tiêu chuẩn của người xưa: là phải Đại triệt Đại ngộ, Minh tâm Kiến tánh,
chư vị mới có thể lên tòa giảng kinh, chư vị mới có thể trước tác kinh luận, đó
đều là điều chúng ta không làm được. Tôi ở Đài Trung học Phật với thầy Lý, nghe
thầy giảng kinh, trước nay chưa có ý niệm, tôi muốn lên Giảng đài. Tôi từ Am
tranh của Pháp sư Sám Vân ở Phố Lý, sau khi rời khỏi đến Đài Trung thân cận thầy,
thầy đã thu nhận và giúp đỡ. Vừa đúng lúc Liên xã Đài Trung: thành lập một lớp
Kinh học, bồi dưỡng nhân tài giảng kinh hoằng pháp, mở lớp dạy học mới một
tháng. Lớp ở Đài Trung, một tuần học một lần, trong ba giờ, mỗi tuần học một buổi,
cho nên một tháng: đại khái tôi là chưa được nghe bốn buổi, bốn buổi phía trước.
Lúc buổi thứ năm, thầy liền bảo tôi đi xem thử, tôi không dám, thầy nói con đi
thử xem, tôi nói vâng, [rồi] tôi đi xem cùng thầy. Lúc lên lớp tôi ngồi ở hàng
sau cùng, tôi thấy thầy dạy học. Tôi nhìn thấy một bà lão, là lão Cư sĩ Lâm
Khán Trị, tôi nhớ rằng năm ấy tôi 31 tuổi, Cư sĩ Lâm Khán Trị đại khái ngoài
60, cháu gái của bà đều đang làm giáo viên ở Tiểu học. Bà Lâm Khán Trị hơn 60
tuổi, là lớn tuổi nhất trong số đồng học chúng tôi, trình độ là tốt nghiệp Tiểu
học, tôi nhìn thấy tình hình của bà, lòng can đảm của tôi liền lớn lên rồi, lại
quan sát tiếp, ngay trong đồng học hơn một nửa đều tốt nghiệp Tiểu học, có vài
vị tốt nghiệp Trung học, không nhiều, không có ai tốt nghiệp Đại học, chỉ có Cư
sĩ Chu Phi, ông từng học Đại học, học được một năm thì đã thôi học, lớp Kinh học
của thầy Lý, trình độ chính là trình độ như vậy.
Phương pháp dùng là phương pháp rất
không linh hoạt, chính là giảng lại, thầy giảng thế nào, chư vị lên đài thì y
theo dáng vẻ của thầy mà giảng, không cho phép tăng thêm, không cho phép chèn
vào ý nghĩ của chính mình, bỏ sót thì không sao, nhưng không thể tăng thêm, tốt
nhất là có thể làm đến không tăng không giảm, dùng phương pháp ấy. Thầy nói với
tôi, phương pháp ấy là từ xưa đến nay: do bao đời thế hệ truyền tiếp. Thời xưa
không có mở lớp dạy học, làm sao bồi dưỡng ra Pháp sư giảng kinh? Là nghe kinh,
giảng lại. Pháp sư học giảng kinh, đều ngồi ở ngay giữa hàng thứ nhất của Giảng
đường, đối diện với thầy. Chư vị nghe một buổi kinh, đến ngày hôm sau, chư vị
đem buổi giảng: trong một tiếng ấy của thầy, giảng ra giống y hệt thầy. Huân tu
thời gian lâu thì được rồi, họ liền có thể lên đài giảng. Phương thức phúc giảng
như vậy, trong tâm chúng ta rất thật thà, sẽ không giảng sai kinh, sai là gì?
Là thầy giảng sai, thầy chịu trách nhiệm, chúng ta không chịu trách nhiệm;
chúng ta không căn cứ theo phương pháp của thầy để giảng, giảng sai rồi thì
chính chúng ta phải chịu trách nhiệm. Phương pháp rất không linh hoạt, nhưng hiệu
quả vô cùng rõ ràng. Tôi ở lớp ấy tôi là học trò dự thính, bởi vì tôi đến sau
cùng, thứ tự sắp xếp là theo trước sau, nên tên của tôi ở sau cùng, lúc mà xếp
đến tôi: đại khái phải đợi hai năm, sau hai, ba năm mới xếp đến tôi, cho nên
tôi là học trò dự thính. Ưu điểm của tôi là sức ghi nhớ tốt, tôi nghe thầy giảng
một lần, nội trong một tuần, tôi lên đài giảng có thể giảng đến chín phần, sẽ
không thấp hơn chín phần. Đó là vốn quý thuận lợi của học giảng kinh, sức ghi
nhớ tốt, sức lí giải tốt, điều thầy giảng tôi đều có thể nghe hiểu. Thầy gọi học
trò, bảo họ lên đài giảng kinh, một lần là hai người, trên thực tế hai người đều
là giảng lại, trên bề ngoài thì thấy một người giảng Quốc ngữ, một người giảng
tiếng Đài, giống như có phiên dịch, kỳ thực bản thảo của họ: là hoàn toàn giống
nhau. Tôi ở trên lớp tôi có điểm mạnh ấy, chính là sức ghi nhớ tốt, sức lý giải
tốt, thầy dạy một, tôi ở bên cạnh đều đã học hiểu, tôi lên đài chắc chắn giảng
hay hơn họ, tín tâm đầy đủ.
Trước khi chưa xuất gia, 15 tháng tôi
đã học 13 bộ kinh, 13 bộ kinh tôi đều có thể giảng, hơn nữa đều giảng được rất
hay. Cho nên tôi vừa xuất gia liền dạy ở Phật học viện, Pháp sư Bạch Thánh,
ngài ở chùa Thập Phổ: đã mở Học viện Tam Tạng, tôi dạy một môn ở đấy. 13 bộ
kinh mà tôi học ở Đài Trung, ở trong Học viện Tam Tạng, một học kì chỉ có thể dạy
một bộ, ba năm họ tốt nghiệp, sáu học kì tôi đã dạy sáu bộ kinh, vẫn còn bảy bộ
chưa dùng đến. Trong tâm này của tôi đối với Phật học viện: thì thực sự rất xúc
động, tôi ở Đài Trung một tháng học một bộ, chư vị xem 15 tháng: tôi học 13 bộ
như vậy, ở Phật học viện: ba năm, sáu năm đều không học được. Cho nên Pháp sư
Tinh Vân mời tôi đến dạy học, Phật Quang Sơn vừa mới sáng lập, đã mở một Học viện
Đông Phương Phật giáo, mời tôi đến làm giáo vụ chủ nhiệm, tôi đã ở đó mười
tháng, ý kiến không hợp với họ, tôi không tán thành Phật Học viện, tôi nói việc
ấy hao tài tốn của, mà không dạy ra. Lúc ấy họ cũng có sáu vị thầy, ba người xuất
gia chúng tôi, còn có ba Cư sĩ tại gia, Cư sĩ Đường Nhất Huyền, Cư sĩ Phương
Luân, còn có một vị dạy tiếng Phạn, cũng là một vị Cư sĩ tại gia, một vị xuất
gia, hai là tôi, [và] Pháp sư Hội Tánh, ba người chúng tôi. Lúc ấy tôi kiến nghị
với họ, học trò của họ có hơn 130 người, ba người một nhóm, có thể chia thành:
xấp xỉ có 40 tổ như vậy, mỗi nhóm chuyên công một bộ kinh, kì hạn 10 năm, sau
mười năm, hơn 40 nhóm nhỏ ấy nếu khấu hao, thì vẫn ra được hơn 20 vị Pháp sư, họ
giảng kinh tuyệt đối không kém hơn tôi, mười năm sau, những Pháp sư giảng kinh
do Phật Quang Sơn mà ra, thì Phật quang rộng chiếu toàn cầu. Họ không đáp ứng,
không thể tiếp nhận, họ nói như vậy không giống trường học. Tôi nói trường học
không bồi dưỡng nổi học trò, Tư thục có thể bồi dưỡng học trò. Họ không thể tiếp
nhận [ý kiến của] tôi, tôi cũng không bằng lòng tiếp nhận của họ, nên tôi đã rời
khỏi. Năm nay, vào hai tháng trước, tôi đã ở Đài Nam mấy ngày, có người bạn nói
với tôi, Pháp sư Tinh Vân bây giờ cảm thấy hối hận. Vừa đúng lúc ấy, 44 năm trước,
hai chúng tôi bằng tuổi, lúc ấy 44 tuổi, hiện nay 88 tuổi, nghĩ lại 44 năm trước,
lúc ấy nếu chúng tôi hợp tác mật thiết, thầy ấy giữ chắc tôi, cả đời tôi dạy học
ở Phật Quang Sơn, thì đã bồi dưỡng không ít Pháp sư giảng kinh. Duyên không
chín muồi, vô cùng đáng tiếc.
Duyên phận lần thứ hai thì ở
Singapore, chúng tôi mở lớp thực nghiệm ngắn hạn, đã mở năm khóa, mỗi khóa ba
tháng, chuyên học một bộ kinh, làm được rất thành công, một khóa chỉ học một bộ
kinh, học trò ai nấy đều có thể giảng. Lúc ấy chúng tôi hi vọng: lần này làm
thành công, nên chúng tôi có lòng tin, thì chúng ta chính thức thành lập một Phật
Học viện. Cũng là duyên không chín muồi, tôi cũng rời khỏi Singapore sang đến
bên này. Sang đến bên này rồi tôi khuyên mọi người, chúng tôi lưu truyền rất
nhiều đĩa CD, nếu các đồng học mỗi người chuyên học một bộ, thì mười năm nhất định
có thành tựu, mười năm ấy đi qua. Vấn đề xảy ra ở đâu? Xảy ra ở tham nhiều nhai
không nát, không thể chuyên công, muốn học thứ này, cũng muốn học thứ kia, vậy
thì không được. Nhất định phải phát tâm làm chuyên gia, đừng làm thông gia, học
ngài Quán Thế Âm thì học Phẩm Phổ Môn, cả đời tôi chỉ chuyên giảng Phẩm Phổ
Môn. Trung Quốc Đại Lục có mấy ngàn huyện thị, mỗi huyện thị giảng một lần, giảng
một vòng quay lại người đều đã già, hơn 100 tuổi rồi. Người giảng Phẩm Phổ Môn
chính là Bồ-tát Quán Thế Âm; người giảng Kinh Di Đà chính là A Di Đà Phật. Giảng
kinh ở một nơi đừng vượt hơn một tháng, giảng xong lại đổi sang nơi khác, giảng
từng nơi từng nơi một, chính mình chắc chắn vãng sanh Tịnh Độ. Bất luận là thâm
nhập một môn với bộ kinh nào, chính mình đều đem quay về Tịnh Độ. Pháp môn Tịnh
Độ rộng lớn, chư vị xem đoạn sau cùng của三輩往生 “Tam bối vãng sanh” (Ba bậc vãng sanh), Đại sư Từ Châu phán là Nhất
tâm Tam bối, đó là gì? Là người học Đại thừa, thậm chí với người học Tôn giáo
khác cũng được, chỉ cần công phu của chư vị thành phiến, có năng lực này mà hồi
hướng: cầu sanh thế giới Tây Phương Cực Lạc, thì một niệm, mười niệm lúc lâm
chung đều được vãng sanh.
Các đồng học nhất định phải hiểu được,
tôi học kinh ở Đài Trung là thâm nhập một môn, cùng lúc học hai bộ kinh là thầy
không đồng ý. Tổng cộng hơn 30 bộ kinh nhỏ của tôi, là do tôi nghe thầy giảng,
tôi vừa nghe liền hiểu. Thế nhưng chủ tu của tôi là Lăng Nghiêm, thầy giảng một
lần, tôi cũng giảng một lần, thứ tư thầy giảng, tối thứ năm tôi giảng lại.
Thính chúng của tôi có sáu người, ba năm như một ngày, tôi cắm gốc ở đó, cắm gốc
Lăng Nghiêm.
Tôi nghe một quyển Hoa Nghiêm, nghe thầy giảng một quyển, quyển thứ nhất, sau
khi nghe xong quyển thứ nhất, sau đó tôi đều có thể giảng tiếp được, cho nên
thông một kinh thì thông tất cả kinh. Chuyên quá quan trọng rồi! Lúc tôi học
Lăng Nghiêm, ba năm ấy chuyên ở trên Lăng Nghiêm. Không chuyên không được, nhất
định phải chuyên.
Tiếp theo đây nói viên dung không chướng
ngại, tiếp tục xem phần sau: 上表諸大士契於聖智 “Thượng
biểu chư Đại sĩ khế ư Thánh trí” (Phía trước thể hiện các Đại sĩ khế hợp với Thánh trí), đây
là gốc, Thánh trí chính là trí huệ vốn có trong Tự Tánh, 得無礙之辯才,善應根機,廣宣妙辯,故曰:得佛辯才 “đắc vô ngại chi biện tài, thiện ứng căn cơ, quảng
tuyên diệu biện, cố viết: đắc Phật biện tài” (được biện tài không ngăn ngại, khéo ứng căn cơ, rộng
tuyên diệu biện, nên nói rằng: đắc được biện tài của Phật). Tiếp
theo:《甄解》復進一解曰:若依根本教,但說一字,亦為得佛辯才,傳如來如實言故。不但此菩薩爾,凡夫說亦同諸佛辯才,讚揚佛慧功德,開化十方有緣而已 “Chấn
Giải phục tiến nhất giải viết: nhược y Căn bổn giáo, đãn thuyết nhất tự, diệc
vi đắc Phật biện tài, truyền Như Lai như thật ngôn cố. Bất đãn thử Bồ-tát nhĩ, phàm
phu thuyết diệc đồng chư Phật biện tài, tán dương Phật huệ công đức, khai hóa
thập phương hữu duyên nhi dĩ” (Sách Chấn Giải lại đề cử một cách giải rằng: nếu y theo Căn
bản giáo, thì chỉ nói một chữ, cũng là đắc biện tài của Phật, bởi truyền lời
như thật của Như Lai. Không chỉ Bồ-tát ấy như vậy, mà phàm phu nói cũng đồng với
biện tài của chư Phật, tán dương công đức trí huệ của Phật, khai thị giáo hóa hạng
hữu duyên ở mười phương mà thôi), đoạn trong sách Chấn Giải này: ý nghĩa rất
sâu. Bây giờ thời gian đã hết, đúng lúc nói đến đây, nói một chữ cũng có thể được
biện tài của Phật, cũng có thể Đại triệt Đại ngộ. Ngài Hải Hiền đã làm ra tấm
gương tốt nhất cho chúng ta, thực sự là vô cùng khó được, ngài chỉ một câu A Di
Đà Phật, chỉ trong một câu Phật hiệu này. Thầy có Pháp nhãn, có Huệ nhãn, nhận
biết được người. Người như thế nào là đương cơ? Thật thà, nghe lời, thật làm, dạng
người ấy chính là người đương cơ, nếu họ gặp được cao nhân truyền pháp cho họ,
chắc chắn không quá mấy năm, họ sẽ thành tựu. Người chưa thành thục thì tâm họ
là động, họ thích thú nhiều phương diện, họ không biết đức hạnh căn bản: đã được
cắm gốc ở đây, hễ mê muốn học rộng nghe nhiều, vậy thì đã biến thành chướng ngại,
không thể không biết đạo lý này.
Thực sự thâm nhập một môn, thì bộ kinh
nhỏ rất dễ dàng, chính mình vừa xem liền hiểu rồi, đó là do tiếp dẫn đại chúng,
ưa thích bộ nào thì tôi giảng cho chư vị bộ ấy, có nền tảng của mười mấy, hai
mươi bộ, thì bộ nhỏ ấy không có chướng ngại nữa. Nhưng kinh lớn là gốc rễ, nhất
định phải hạ công phu trên kinh lớn, sau đó mới có thể thông suốt. Phải giải hạnh
tương ưng, học rồi phải đem thực hành trong đời sống, thực hành ở công việc,
chính mình thực sự được thọ dụng, thì dạy người người ta mới tin, mọi người sẽ
không nghi ngờ, thời gian hôm nay hết rồi, chúng ta học tập đến đây thôi.
(Hết tập
109)
Nguyện đem
công đức này
Hướng về
khắp tất cả
Đệ tử cùng
chúng sanh
Đều sanh
nước Cực Lạc
Sớm viên
thành Phật quả
Rộng độ khắp
chúng sanh.
Nam Mô A
Di Đà Phật.