TỊNH
ĐỘ ĐẠI KINH KHOA CHÚ 2014
(Giảng
lần thứ 4)
PHẨM
2: ĐỨC TUÂN PHỔ HIỀN:
Tuân
Tu Đức Của Phổ Hiền
Tập
116
Hòa
thượng Thích Tịnh Không chủ giảng.
Giảng
tại: Tịnh Tông Học Viện Australia.
Thời
gian: Ngày 09 tháng 10 năm 2014.
Dịch
giả: Bình Như.
Giảo
chánh: Thích Thiện Trang.
Kính
chào chư vị Pháp sư, chư vị đồng học, kính mời ngồi. Thỉnh mọi người cùng tôi
quy y Tam Bảo: A-xà-lê tồn niệm, ngã Đệ tử Diệu Âm, thỉ tùng kim nhật, nãi chí mạng tồn,
quy y Phật Đà, lưỡng túc trung tôn, quy y Đạt Ma, ly dục trung tôn, quy y Tăng
Già, chư chúng trung tôn. (3 lần)
Mời
xem Đại Kinh Khoa Chú, trang 345, hàng thứ sáu đếm từ trái qua, bắt đầu xem từ chính
giữa: 據《會疏》義,以菩提心與稱佛名號為佛種性。足證本經以發菩提心、一向專念為宗,正是護佛種性常使不絕也 “Cứ Hội Sớ nghĩa, dĩ Bồ-đề tâm dữ xưng Phật danh hiệu vi Phật chủng
tánh. Túc chứng bổn Kinh dĩ phát Bồ-đề tâm, nhất hướng
chuyên niệm vi tông, chánh thị hộ Phật chủng tánh thường sử bất tuyệt dã” (Căn cứ vào sách Hội Sớ, dùng tâm Bồ-đề và xưng danh hiệu Phật
làm Phật chủng tánh. Cũng đủ để chứng minh Kinh này dùng phát tâm Bồ-đề, nhất hướng
chuyên niệm làm tông, chính là hộ Phật chủng tánh khiến cho không dứt).
Phía trên đều là giảng
về Phật chủng tánh, Niệm lão trích dẫn kinh điển, ngài dẫn sách Thám Huyền Ký,
là chú giải Kinh Hoa Nghiêm của Quốc sư Hiền Thủ, dẫn Tịnh Ảnh Sớ, Hội Sớ của
Nhật Bản, cũng dẫn Kinh Hoa Thủ, Kinh Bảo Vân, chứng minh Phật chủng tánh của cổ
Đại đức và cách nói trong kinh luận. Những cách nói này đều thuyết rất hay, đều
đáng để làm tham khảo. Chỗ này tương tự như nói ra làm một nút tổng kết nhỏ,
căn cứ vào ý nghĩa mà Hội Sớ nói, tâm Bồ-đề và xưng danh hiệu Phật: chính là
phát Bồ-đề tâm nhất hướng chuyên niệm, đó chính là tông chỉ mà tông này đã nói,
tông chỉ là nguyên tắc chỉ đạo cao nhất của tu học, Niệm lão cũng khẳng định
cách nói này trong kinh văn, cũng chính là ý nghĩa của hộ Phật chủng tánh khiến
cho luôn không gián đoạn.
Kinh Phật thường
dùng thực vật để làm ví dụ, giống như trồng cây nhất định phải có hạt giống,
chúng sanh học Phật đương nhiên là có hạt giống, không có hạt giống Phật thì
chư vị làm sao có thể thành Phật? Phật chủng tánh là gì? Thật ra mà nói, đơn giản
gọi là Phật tánh, chỗ này giảng chủng tánh của Phật, chủng tánh Phật chính là
Chân Như Tự Tánh, tất cả chúng sanh vốn có. Vậy tại sao chủng tánh Phật không
còn? Không phải không còn, mà là chúng ta đã mê mất Tự Tánh, [nên] chủng tánh
Phật không thể hiện tiền. Sự hiện tiền, sự khởi tác dụng là gì? Là Ngã kiến,
Ngã ái, Ngã mạn, Ngã si, đây chính là khởi tâm động niệm, tứ đại phiền não thường
đi theo. Nó không gián đoạn, niệm trước là ô nhiễm, niệm sau cũng là ô nhiễm, mặc
dù có ô nhiễm nặng nhẹ không đồng, nhưng đều là bốn loại phiền não hỗn tạp trộn
vào nhau, phàm phu không biết, đem nó cho là mình. Điều đầu tiên là Ngã kiến,
trên thực tế căn bản không có tồn tại chữ tôi, hoàn toàn là một dạng hiểu sai. Có
cái tôi thật hay không? Có Thật tôi, trong ba đức Niết-Bàn đều thuộc về mình,
đó là tôi chân thật, đó không phải là giả, Pháp thân có tôi, Bát-nhã có tôi, Giải
thoát có tôi. Thường, lạc, ngã, tịnh: là bốn đức này, trong Tự Tánh vốn dĩ đã
có những điều này. Tôi là ý nghĩa gì? Ý nghĩa của sự tự chủ, tự mình có thể làm
chủ được rồi, thì mới có thể gọi là tôi, là ý nghĩa của sự tự tại. Chúng ta hôm
nay chấp vào Ngã kiến, không thể làm chủ, họ không có được tự tại, phiền não của
họ làm bạn đồng hành, gặp sự việc, phiền não làm chủ, họ không thể làm chủ
chính mình. Chúng ta hôm nay học Phật, phải rời xa Vọng tâm, tìm lại Chân Tâm,
Chân Tâm chính là Phật tánh, chính là chủng tánh Phật, phải bảo vệ cẩn thận,
không để cho gặp phải chướng ngại nữa. Ý nghĩa chủ yếu của đoạn văn này nằm ở
chỗ nơi đây. Những gì Hội Sớ giảng: căn bản đều hoàn toàn tương ưng với tông chỉ
của bản kinh này, là lấy Phát tâm Bồ-đề cùng với xưng danh hiệu Phật, chính là
nhất hướng chuyên niệm, đủ chứng minh Kinh này lấy phát tâm Bồ-đề nhất hướng
chuyên niệm làm tông chỉ, hoàn toàn tương ưng , chính là hộ Phật chủng tánh thường
sử bất tuyệt.
常使不絕“Thường sử bất tuyệt”(Luôn khiến cho không dứt), Niệm lão cũng trích dẫn khai thị
của cổ Đại đức vì chúng ta mà nói rõ. Trong Gia Tường Sớ có nói, 欲使如來法種不斷故也。“dục sử Như Lai pháp chủng bất đoạn cố dã” (Bởi muốn cho dòng pháp của Như Lai không đoạn dứt). Như
Lai là chư Phật Như Lai, dòng pháp của Như Lai vĩnh viễn không đoạn, đây gọi là
thường sử bất tuyệt. Thêm nữa sách Chân Giải trích dẫn lời nói trong Đại Trí Độ
Luận, 於無佛處,讚歎三寶音。“Ư vô Phật xứ, tán thán Tam Bảo âm” (Ở nơi không có Phật, ngợi ca âm thanh của Tam Bảo). Nơi
không có Phật giáo, khen ngợi Tam Bảo, làm cho đại chúng nơi ấy có thể nghe tới
danh hiệu của Phật, có thể nghe được khai thị của Phật, giới thiệu Tam Bảo, đây
cũng là ý nghĩa của thường sử bất tuyệt.
Tiếp theo nói, 三寶音者,即受持宣說佛法藏也 “Tam Bảo âm giả, tức thọ trì tuyên thuyết
Phật pháp tạng dã” (Tam Bảo âm: tức là thọ trì tuyên
thuyết Pháp tạng của Phật), chính là việc giảng kinh dạy học mà ngày nay
chúng ta nói. Chỗ quan trọng nhất ở đây chính là học, mục đích của giảng kinh
chính là dạy họ học Phật, nhất định phải hiểu được y giáo phụng hành, đem những
gì nghe được, hiểu được, phải thực hành trong cuộc sống, thực hành trong công
việc, thực hành trong việc xử sự đối người, tiếp vật. Sự biểu diễn của lão Hòa
thượng Hải Hiền là hay nhất, chúng ta xem đĩa CD ấy, xem những văn tự của Vĩnh
Tư Tập, chư vị tinh tế mà thể hội, đó gọi là chân chánh học Phật. Cũng giống
như những gì mà Đại sư Chương Gia đã nói “Phật pháp trọng thực chất không trọng
hình thức”, lão Hòa thượng Hải Hiền đã hoàn toàn thực hiện rồi, làm ra cho
chúng ta xem, chúng ta cần phải hướng về lão nhân gia ngài mà học tập. Ngài đem
một bộ Kinh Vô Lượng Thọ, Phật bảo ngài biểu pháp, ngài biểu pháp sống rồi, hoạt
bát sống động, từ sáng tới tối đối với tất cả mọi người sự vật, đó chính là
Kinh Vô Lượng Thọ sống, trong kinh điển giảng về Tánh – Tướng, Lý – Sự, Nhân –
Quả, thảy đều làm ra cho chúng ta xem rồi. Cho nên xem đĩa CD này một trăm lần,
xem một ngàn lần đều không chán, càng xem càng hoan hỉ, xem tới nơi thì chư vị
sẽ khai ngộ. Cho nên chúng ta phải đem xem thành Kinh Vô Lượng Thọ mà coi. Tham
vấn cuối cùng thứ 53 trong Kinh Hoa Nghiêm, Thập đại Nguyện vương của Bồ-tát Phổ
Hiền dẫn về Cực Lạc, trong kinh này của chúng ta, lão Hòa thượng Hải Hiền đã biểu
pháp 92 năm, tương đồng với 53 tham vấn trong Kinh Hoa Nghiêm, làm cho chúng ta
xem. Thế nào gọi là tín nguyện trì danh, ngài làm đến thật tinh tế, chúng ta
tinh ý mà quan sát, càng xem càng thấm, càng xem càng hoan hỷ.
Tán thán Tam Bảo,
câu phía dưới này nói rất rõ rồi, Tam Bảo âm: tức là thọ trì tuyên thuyết
Pháp tạng của Phật. Giảng kinh dạy học, đến cả việc chúng ta y theo kinh điển,
chiếu theo khai thị của Tổ sư Đại đức, hoàn toàn thực hiện trong cuộc sống hàng
ngày, trong việc xử sự, đối người tiếp vật, chúng ta học dùng sống động, để cho
đại chúng xem thấy, Phật pháp không phải là khẩu thuyết, Phật pháp là thân hành
ngôn giáo. Quan trọng nhất chính là thân hành, chúng ta làm được Tam quy, làm
được Ngũ giới, làm được Thập thiện, làm được Luật nghi. Tiến thêm một bước nữa,
làm được Tứ hoằng Thệ nguyện, làm được Mười nguyện Phổ Hiền, làm được 48 nguyện
của A Di Đà Phật, nguyện của đức Di Đà chính là nguyện của tôi, nguyện của tôi
hoàn toàn tương đồng với nguyện của đức Di Đà, như vậy là tâm đồng với tâm Phật.
Đây là tất cả chúng sanh đều như vậy, chủng tánh Phật, người nào không có? Tất
cả đều có, chỉ là người mê thì đã mê mất Tự Tánh, mặc dù có chủng tánh Phật,
nhưng không khởi tác dụng, có cũng như không. Hiện nay chúng ta dùng cương lĩnh
của bộ kinh này, “phát Bồ-đề tâm, nhất hướng chuyên niệm”, phát Bồ-đề tâm, tôi
nói thì rõ ràng hơn một chút, tôi dùng năm chữ trên đề Kinh Vô Lượng Thọ, để
nói rõ ràng thâm tâm. Bồ-đề tâm là thể, chân thành, chính là chân tâm, chân tâm
với chính mình, là tâm thanh tịnh, tâm bình đẳng, tâm giác chứ không mê, cho
nên trên đề kinh có thanh tịnh bình đẳng giác, đây là nhân, từ bi đối với người
khác, tất cả hợp thành lại là, mười chữ “chân thành, thanh tịnh, bình đẳng,
chánh giác, từ bi”. Chúng ta khởi tâm động niệm có tương ưng với mười chữ này
không? Tương ưng chính là phát Bồ-đề tâm. Niệm niệm tương ưng, niệm niệm đều là
Bồ-đề tâm, lại thêm vào nhất hướng chuyên niệm A Di Đà Phật, chính là chủng tử
thành Phật, chủng tử này của chư vị chân thật cực kỳ kiên cố, niệm niệm không rời,
mọi hành động đều không xa lìa, làm gì mà có đạo lý không thành Phật.
Ngày hôm nay chúng
ta học Phật, tình trạng thực tế là gì? Bồ-đề tâm thì phát rồi, nhưng thường
xuyên quên mất. Đây chính là nói tập khí chín mùi rồi, vô lượng kiếp đến nay
huân tu phiền não, thuần thục rồi, phát Bồ-đề tâm này rất mới lạ, thường thường
quên mất, thỉnh thoảng thì nhớ tới, không thể liên tục, khuyết điểm nằm ở chỗ
này. Dùng phương pháp gì để tâm đó liên tục, phương pháp đích thị là có, chúng
ta không có thật sự dùng đến, phương pháp này chính là nhất hướng chuyên niệm,
dùng nhất hướng chuyên niệm gọi Bồ-đề tâm trở lại, mỗi một tiếng Phật hiệu gọi
chân thành, thanh tịnh, bình đẳng, chánh giác từ bi trở về. Nếu chúng ta muốn
truy cứu căn nguyên, tại sao chúng ta trở thành như vậy? Quả là không thể so bì
với người xưa, nguyên nhân là gì? Đó chính là điều mà tôi thường nói, người xưa
tu hành có rễ, có gốc, chúng ta hiện nay không có gốc rễ. Người xưa đích thực
là nảy mầm từ hạt giống này, sinh trưởng thành cây lớn. Chúng ta hôm nay dùng
điều gì? Dùng phương pháp giâm cành, giâm cành cũng có thể sống, nhưng thật sự
không thể bằng việc sinh trưởng từ hạt giống. Hạt giống đó là gì? Tịnh nghiệp
Tam phước, là giống, là rễ, là gốc. Hiếu dưỡng cha mẹ, phụng sự sư trưởng, có
làm được không? Không được. Trong tâm trí không có cha mẹ, không có sư trưởng,
chỉ có cái tôi độc tôn, ngày nay đều là tâm thái này, không thể hợp tác, không
thể đoàn kết, đây là lý do vì sao Phật môn lại suy thoái, tại sao xã hội lại loạn,
nguyên nhân nằm ở chỗ này.
Mở lại lịch sử Trung
Hoa, mấy ngàn năm đã đi qua, mọi người làm sao tồn tại ở thế gian này? Giáo dục
đích thật nằm ở gia đình, Trung Hoa từ xưa đến nay là đại gia đình. Lịch sử của
Trung Hoa, ghi lại danh hiệu của hoàng đế, ghi lại danh hiệu của những đại thần
đó, thời phong kiến xưa, dưới hoàng đế có vương, công, hầu, bá, tử, nam, có nhiều
cấp bậc như vậy, đó gọi là gia. Chư vị xem trong Sử Ký xưng là thế gia. Gia đó
là đại gia đình, tối thiểu có năm đời, sáu đời đồng đường, sáu, bảy đời thì người
nhiều rồi, lại phân chia ra tiếp. Cho nên một gia đình đó, tình trạng chung đều
là khoảng ba trăm người, đó là một xã hội hành vi, không phải cá nhân. Xã hội
hành vi, có nhiều người cùng sinh sống với nhau, nếu không có chế độ, không có
quy tắc, vậy liền loạn. Trung Hoa có thể quản lý một gia đình, thì có thể quản
lý một đất nước, cho nên tề gia thì có thể trị quốc. Có thể trị quốc thì có thể
bình thiên hạ, chữ bình này chính là công bình, có thể bình đẳng đối tiếp, đối
xử hài hòa với các nước khác trên thế giới, đây mới có thể gọi là tạo thành sự
thịnh thế cho thế giới. Sự thịnh thế của một khu vực, một đất nước, khu vực đó
không lớn, nguyên một thế giới thì lớn rồi, được gọi là thiên hạ, dùng bình đẳng,
hài hòa, cho nên bình được thiên hạ. Bình, bình đẳng, hòa thiên hạ. Tốt! Hòa
bình, hòa là quả, bình là nhân, người Trung Quốc có thói quen đem quả để ra
phía trước. Làm sao hòa như vậy? Bởi vì bình đẳng thì liền hòa, bình đẳng đối
tiếp. Người Nhật Bản, họ không gọi là hòa bình, họ gọi là bình hòa, bình đẳng
là nhân, hài hòa là quả, cũng dùng rất là tốt. Chữ, ý nghĩa hoàn toàn tương đồng,
đổi ngược một chữ, trong văn tự Trung Nhật có sự đổi ngược, đây chính là văn
hóa Trung Hoa được truyền bá tại hải ngoại. Ông Toynbee nói rằng, sự lưu truyền
chủ đạo của văn hóa Đông Á là Trung Quốc, văn hóa vệ tinh có Hàn Quốc, có Nhật
Bản, có Việt Nam, đây là đồng một thể. Những đất nước chung quanh này qua lại với
Trung Quốc, tiếp xúc với Trung Quốc hơn 2000 năm, chân thật là đất nước anh em.
Văn tự mà họ sử dụng, Nhật Bản cùng với Hàn Quốc và Việt Nam, quá khứ đều dùng
chữ Hán, dùng văn ngôn văn, đích thật là cùng một văn hóa này. Hiện nay họ đều
có văn tự riêng của chính mình, nhưng chữ Hán vẫn còn được xem trọng.
Trí huệ, lý niệm,
phương pháp, hiệu quả, kinh nghiệm của cổ Thánh tiên Hiền, hoàn toàn đều là
dùng chữ Hán văn ngôn văn ghi lại, chính là ngày hôm nay mọi người đều biết đến
đó là Tứ Khố Toàn Thư, tất cả đều ở trong bộ sách ấy. Phân lượng lớn như vậy,
1500 quyển, kệ sách bên trái trong giảng đường của chúng ta đều là bộ đó, ai có
thể xem cho hết? Theo như Tổng giám đốc của Nhà sách Thương Vụ nói với tôi, ông
đưa ra ví dụ, một đứa trẻ vừa sanh ra liền có năng lực xem Tứ Khố Toàn Thư, một
ngày xem tám tiếng đồng hồ, sống tới 100 tuổi cũng xem chưa hết. Bộ sách của
Trung Hoa này là báu vật của nhân loại, là văn hóa của lão tổ tông nhân loại
truyền xuống, dùng chữ Hán văn ngôn văn mà viết ra. Nếu chư vị hiểu chữ Hán, hiểu
được văn ngôn văn, thì những truyền thống của lão tổ tông đều nằm trong tay của
chư vị. Phân lượng quả thật là rất lớn, làm thế nào? Chúng ta nhất định phải
nghĩ đến tinh lọc những tinh hoa bên trong đó, chiết xuất những tinh hoa cấp
thiết giáo dục của xã hội xưa. Người làm việc này sớm nhất là: Đường Thái Tông.
Đường Thái Tông hạ lệnh này, để Nguỵ Trưng, vị này là đại thần, triệu tập mấy
người thành lập một nhóm nhỏ, thay ông làm chuyện này. Những điều ông cần: là
những trí huệ đó, những kinh nghiệm đó, những gì ông cần, tất cả thảy đều viết
ra cho ông, tổng cộng đã chép ra 500.000 chữ, [thành] một bộ sách. Cả bộ Tứ Khố
biến thành một bộ sách, Đường Thái Tông tay không rời sách, dặn dò văn võ bá
quan thảy đều phải đọc, sự thịnh thế của triều Đường đến từ đây. Tất cả những
gì ông trích là từ Tam Hoàng Ngũ Đế tới triều Tấn, trước triều Đường là triều Tấn,
quá khứ 2000 năm. Sau thời Đường cũng xuất hiện không ít Thánh hiền Quân tử, những
tác phẩm của họ cũng đều được thu thập vào Tứ Khố, những điều đó không có trong
Quần Thư Trị Yếu, không có trong đó. Cho nên Quần Thư Trị Yếu là tinh hoa của Tứ
Khố Toàn Thư, chỉ có nửa bộ đầu, không có nửa bộ sau. Ngày nay, chúng ta đặc biệt
hi vọng quốc gia có thể làm được việc này, cũng thành lập một nhóm nhỏ, biên tập
tục biên của Quần Thư Trị Yếu, để cho văn hóa truyền thống Trung Hoa có một bản
tinh hoa hoàn thiện, giá trị này rất là cao, dùng thời gian 10 năm không tính
là dài.
Những thứ này đối với
một người mà nói có thể tu thân, thân tâm tráng kiện, tự tại hạnh phúc, những
thứ này có thể giúp chúng ta đạt được, giúp đỡ gia đình hòa hợp, gia hòa vạn sự
hưng, làm doanh nghiệp, có thể giúp cho doanh nghiệp của chư vị tăng trưởng. Trong
nước có vài doanh nghiệp đang làm rồi, Hồ Tiểu Lâm làm rất thành công, Ngô Niệm
Bác cũng làm rất thành công, Tạ Dịch Huy ở phương nam, tất cả đều dùng phương
pháp này quản lý doanh nghiệp, chỉ đạo doanh nghiệp, doanh nghiệp tiếp thu giáo
huấn của cổ Thánh tiên Hiền, phát triển bền vững. Mở rộng thêm có thể trị quốc,
có thể bình thiên hạ, bình thiên hạ đa phần chúng ta nói là thống nhất toàn thế
giới. Thống nhất này không phải là chính trị, không phải quân sự, không phải
kinh tế thương mại, mà là văn hóa. Giống như Hạ Thương Chu của Trung Hoa cổ đại,
Hạ Thương Chu ba đời 1800 năm, là sự thống nhất văn hóa. Không phải thống nhất
chính trị, không phải thống nhất quân sự, mà thống nhất văn hóa. Tiến sĩ
Toynbee cho rằng, địa cầu chúng ta ngày hôm nay phải học nhà Hạ Thương Chu, các
nước muốn thống nhất, thống nhất ở chỗ văn hóa truyền thống. Văn hóa truyền thống
ưu tú nhất, được bảo tồn tốt nhất, hoàn thiện nhất: chính là Trung Hoa, nhánh
đó. Công cụ đó rất tốt, công cụ chính là chữ Hán thể văn cổ, có thể vượt qua thời
gian và không gian, chư vị học hiểu chữ Hán thể văn cổ, thì đối với những điển
tích 3000 năm trước của cổ nhân đó, chư vị có thể xem hiểu, không hiểu sai ý
nghĩa, điều này thật khó được.
Phát minh ra chữ Hán
thể văn ngôn là phát minh vĩ đại nhất trong lịch sử nhân loại, điều đó siêu vượt
không gian, siêu vượt thời gian, siêu vượt không gian, mỗi một quốc gia dân tộc
đều dùng được, cổ đại dùng được, hiện tại dùng được, tương lai vẫn là dùng được,
siêu vượt mười phương ba đời, độc nhất vô nhị trên thế giới.
Chúng ta hi vọng
toàn thế giới có thể xuất hiện 1000 năm thịnh thế, nguyên lý nguyên tắc chỉ đạo
cao nhất của 1000 năm thịnh thế: chính là bộ sách này. Tôi hi vọng có những đồng
học trẻ tuổi, có nhận thức đối với việc này, vả lại nhận thức phải rất sâu,
không được nông cạn, nhận thức cho thật sâu, hướng về mục tiêu này mà nỗ lực. Truyền
bá văn hóa truyền thống, đây cũng chính là chỗ này “hộ Phật chủng tánh, thường
sử bất tuyệt”, cũng chính là ý nghĩa này. Hi vọng cư dân trên địa cầu này đời đời
kiếp kiếp hạnh phúc vui vẻ, xã hội không có động loạn, địa cầu không có tai nạn,
có thể làm được, không phải không làm được, thực hiện Quần Thư Trị Yếu thì có
thể làm được. Trong Đại Trí Độ Luận đã nói, dạy cho chúng ta chúng ta phải ghi
nhớ, thọ trì, tuyên thuyết, thọ trì là làm, thân hành, tôi phải làm được, làm
được rồi sau đó mới tuyên truyền, vì mọi người mà nói rõ ràng. Trong Phật pháp
tạng cũng bao hàm Tứ Khố Toàn Thư, bao hàm tất cả tôn giáo, văn hóa của cổ
Thánh tiên Hiền tất cả quốc gia dân tộc.
眾生由之植善發智 “Chúng sanh do chi thực thiện
phát trí”(Chúng sanh do là trồng thiện mà phát trí), trồng thiện
chính là hành thiện, biết trồng thiện căn, biết tu thiện hạnh, phát trí chính
là khai ngộ, trí huệ hiện tiền. 成德契理
“Thành đức khế lý” (thành tựu đức khế hợp lý), thành
tựu đức hạnh của chính mình, đức là đạo đức. Luân thường chính là đạo đức, luân
là luân lý. Luân lý nói điều gì? Mối quan hệ giữa người với người, nhất định phải
nhận rõ. Người Trung Hoa xưa đã thể hội được, hiểu rõ rồi, dạy tính mọi người vốn
thiện, nhất định phải có khái niệm này. Có người nói tính người vốn ác, đó là
sai lầm. Nhân tính vốn thiện là thật, [chỉ] tập tánh bất thiện. Tập tánh có thiện,
có không thiện, xem chư vị dạy như thế nào. Nếu dùng văn hóa truyền thống Trung
Hoa mà dạy, bổn tánh vốn thiện, tập tánh cũng thiện, cho nên họ có thể thành
Thánh, thành Hiền, thành Quân tử. Tối hôm qua trong hội này, buổi thuyết giảng ở
Đại học Southern Queensland, thời gian quá ngắn, chỉ có một tiếng đồng hồ, tôi
đã chuẩn bị một bộ tài liệu mà cũng không giảng tới, bởi thời gian quá ngắn. Họ
đưa cho tôi một đề mục “giáo dục cấp cao là gì”. Tôi hồi đáp lại, giáo dục cấp cao là giáo dục Thánh hiền, dạy người
ta thành Thánh, thành Hiền, thành Quân tử, đây mới gọi đích thật là giáo dục cấp
cao. Hiện nay không còn trường học nữa, hiện nay học điều gì? Học khoa học, học
kỹ thuật, hoàn toàn không hiểu luân lý đạo đức. Ngũ luân, mối quan hệ giữa người
với người, không có ai dạy, cho nên xã hội sẽ loạn. Ngũ luân là đạo, Ngũ thường
là đức, năm chữ này, nhân lễ nghĩa trí tín, chính là Ngũ giới của nhà Phật. Nhân,
không sát sanh; Nghĩa, không trộm cướp; Lễ, không tà dâm; Trí, không uống rượu;
Tín, không vọng ngữ, hoàn toàn tương đồng, đó là đức. Đây là điều kiện căn bản
để làm người, hiểu được mối quan hệ giữa người với người, có thể làm được năm
loại đức hạnh này, đây được gọi là nhân.
Xã hội hiện nay bất
nhân, bất nghĩa, vô lễ, vô trí, vô tín, năm chữ này không còn nữa, vậy rất đáng
sợ. Năm chữ này đều không còn nữa, vậy thì như thế nào? Như Tiên sinh Tả Khâu
Minh, người cùng thời đại với Khổng Tử nói rất hay, Tả Truyện chính là tác phẩm
của ông. Truyện là chú giải, chú cực kỳ chân thật, một chút cũng không có sai,
được gọi là truyện, vĩnh viễn có thể truyền xuống, có ý nghĩa như vậy. Cho nên
về sau người ta viết sách lập thuyết không dám dùng chữ truyện, dùng chữ truyện
thì phải là cực kỳ khẳng định, một chữ, một câu cũng không được sửa, y như vậy
mà truyền xuống. Người sau không dám, không có sự chắc chắn này, tác phẩm của
tôi một chữ cũng không sai, không dám nói, cho nên dùng chú, dùng sớ, dùng giải,
dùng những danh xưng như vậy. Điều này chính là nói, tác phẩm này của tôi có thể
cung cấp cho chư vị tham khảo, chỗ không đúng thì mời chư vị chỉnh sửa cho tôi.
Truyện thì không được chỉnh sửa, tác phẩm của tôi là chính xác, một chữ cũng
không được thay đổi. Ông Tả Khâu Minh có một câu nói: 人棄常則妖興。“Nhân khí thường tắc
yêu hưng”. Người không cần Ngũ thường nhân lễ nghĩa trí tín
nữa, đem vứt bỏ đi, người đó biến thành gì? Người biến thành yêu quái. Xã hội của
ngày nay, hoàn toàn tương ưng với câu nói này của Tả Khâu Minh rồi. Thời xưa đọc
tới câu này, chính là để nhắc nhở chúng ta, cảnh cáo chúng ta, người ai ai cũng
đề cao nhân lễ nghĩa trí tín, chỉ có là làm được nhiều ít không giống nhau, có
thể làm được tròn điểm, [là] Thánh nhân; Có thể làm được tám mươi, chín mươi phần
trăm là Hiền nhân; Có thể làm hơn một nửa trở lên, [là] Quân tử; Từ một nửa trở
xuống, gọi là Tiểu nhân. Xã hội có sự luân thường, trị an lâu dài, thái bình thịnh
thế. Chúng ta mở lại lịch sử, xem thấy sự thịnh thế của thời cổ đại, ngưỡng mộ
vô hạn. Chúng ta hiện nay và sau này có thể làm được như vậy không? Có thể được,
chỉ cần giống như Đường Thái Tông, dùng Quần Thư Trị Yếu để tu thân, tề gia, trị
quốc, bình thiên hạ, thì trên địa cầu sẽ xuất hiện sự thái bình thịnh thế.
Cổ nhân có một câu
ngạn ngữ: 三人同心,其利斷金。“Tam nhân đồng tâm, kỳ lợi đoạn kim” (Ba người đồng tâm, sự sắc bén đó có
thể cắt đứt kim loại). Đưa ra ví dụ này, sự bén nhọn đó
có thể cắt đứt sắt thép, kim loại, có năng lực lớn như vậy. Chúng ta nhìn thấy
trong lịch sử, thời đại Tam quốc, [có] Lưu Bị, Quan Vũ, Trương Phi [là] ba người
đồng tâm, họ có thể kiến lập chính quyền trong mười mấy năm. Học Phật, giác ngộ
rồi, dạng như thế mặc dù có thành tựu, thuận theo thời đại biến mất rồi, chỉ
còn lưu lại truyền thuyết mà thôi. Chúng ta hôm nay đọc sách Thánh hiền, học Phật
pháp hiểu rõ rồi, đạt được sự thành tựu chân chính, sự thành tựu vĩnh hằng
chính là văn hóa. Đường Thái Tông làm ra bản tinh hoa chính là sự thành tựu
vĩnh hằng, cao minh hơn sự thịnh thế của đại Đường rất nhiều, sự thịnh thế của Đại
Đường không còn nữa, 300 năm đã hết rồi, thiện hạnh đó của ông ấy ngàn năm vạn
đời cũng không thể diệt mất, chư vị xem điều này có nghĩa biết bao. Tôi không
có cơ hội được gặp Chủ tịch Tập, nếu tôi có cơ hội gặp ông, thì tôi nhất định sẽ
nói với ông ấy, tại thời ông ấy đương nhiệm làm ra một đại nghiệp huy hoàng
ngàn năm, đó chính là tiếp tục biên tập Quần Thư Trị Yếu, từ thời nhà Tấn trở xuống
cho tới cuối thời nhà Thanh. Cuối thời nhà Thanh vẫn có một người là Tăng Quốc
Phiên, không thể gọi là Thánh, đó là đại hiền, tác phẩm của ông không ít, những
tác phẩm tốt rất nhiều, khoảng cách với người hiện nay rất gần. Công lao đó cao
hơn rất nhiều so với kiến lập một quốc gia, thống nhất toàn thế giới. Đó mới gọi
là công đức mà thiên thu vạn thế không bị phai mờ. Điều gì là quan trọng nhất?
Giáo dục quan trọng nhất. Xem trọng giáo dục, xem trọng giáo dục của Thánh hiền,
thực hiện giáo dục của Thánh hiền vào trong gia đình, vào trong trường học, vào
trong xã hội, vào trong tôn giáo, thì tất cả những vấn đề mâu thuẫn của xã hội
này hoàn toàn được hóa giải, [nên] phải dạy.
Sự nghiệp vĩ đại nhất
của Phật giáo là gì? Dạy học nghĩa vụ. Tiên sinh Phương Đông Mỹ từ sớm đã dạy
tôi, 200 năm trước, thành thị, nông thôn của Trung Quốc, chùa chiền am thất lớn
nhỏ, tất cả đều giảng kinh, tất cả đều dạy học. Pháp hội bên trong chùa chiền
chính là giảng kinh dạy học, thời gian nào là hưng thịnh nhất? Mỗi năm chính là
mùa đông, bởi vì Trung Quốc là xã hội nông nghiệp, thu hoạch vụ thu xong chính
là lúc nghỉ ngơi, tới mùa xuân mới tiếp tục làm, cho nên thời gian này, chùa miếu
rất là náo nhiệt, người thích đọc sách đều đi đến chùa miếu, thỉnh Pháp sư giảng
kinh. Cho nên gọi là Thảo kinh đơn, ở trong chùa miếu, ăn, sinh hoạt đều trong
chùa miếu, đem theo một chút vật phẩm cúng dường, những người học, đem gạo, đem
lương thực. Mỗi năm có ba tháng, thời gian này người nhiều nhất, bình thường có
người, nhưng ít người. Đọc sách đi đến đâu đọc sách? Tới chùa miếu đọc sách. Người
xuất gia trong chùa miếu không những đối với Phật pháp thông hiểu, mà đối với
Nho, đối với Đạo cũng thông hiểu, cho nên tất cả họ đều là thầy tốt, chư vị
theo họ học tập, không cần phải trả học phí, tất cả họ đều là dạy học nghĩa vụ.
Trung Quốc thái bình thịnh thế là từ mầm mống đó, từ chỗ đó mà sinh trưởng.
Người không thể
không học, không học thì suy nghĩ lung tung, sẽ tạo thành sự động loạn cho xã hội.
Người cần phải học tập mỗi ngày, họ thật sự là tỉnh thức, tâm họ thật sự là yên
bình, là thanh tịnh bình đẳng, họ sẽ không làm loạn, cho dù bị chèn áp cũng có
thể nhẫn, điềm nhiên như không, bình yên đi qua thời đại khổ nạn này. Giảng dạy
không gián đoạn, tạo thành sự ảnh hưởng, có thể ảnh hưởng đến người khác. Người
tốt đức hạnh tốt, càng nhiều người hiếu thiện hiếu đức, từ từ gieo xuống hạt giống
thái bình thịnh thế của thế kỷ này. Chúng ta đang ở giai đoạn gầy dựng, sau 30
năm, 50 năm, người hiếu thiện hiếu đức càng ngày càng nhiều, đó chính là càng
ngày càng cần thầy tốt để dạy học. Thầy tốt không phải trong một thời gian ngắn
mà có thể hình thành được, phải cần hai-ba mươi năm, họ chuyên dụng công một
môn, khổ học, đắc tam-muội, khai ngộ, đó là thầy tốt thật sự. Một vị thầy tốt
truyền dạy cho hai-ba người là việc khó được rồi. Tổ sư Đạt Ma tới Trung Hoa, đời
thứ sáu mới xuất hiện một ngài Huệ Năng, duyên chín mùi rồi, Thiền tông trở nên
hưng thịnh, năm đời phía trước đều là đơn truyền, bởi duyên không chín muồi. Không
để đoạn tuyệt dòng dõi Phật, muốn tiếp tục lưu truyền xuống, hoàn cảnh không
cho phép, duyên không chín muồi, thì huân thành hạt giống, chúng ta liền trở
thành Phật chủng, một người truyền một người, truyền hai người, truyền ba người,
là đủ rồi. Khi nào thì khởi tác dụng? Đời sau, lại đời kế tiếp, không phải đời
chúng ta đây, hi vọng 50 năm sau, 100 năm sau.
Nếu như kỹ thuật cao
không bị hủy diệt, thì với truyền thông, thật sự có người lãnh đạo quốc gia, họ
giác ngộ rồi, lợi dụng công cụ này mà giáo hóa chúng sanh, giáo hóa nhân dân cả
nước, giáo hóa người dân của toàn thế giới, họ chỉ cần có mười người, hay tám
người thầy giỏi, để những người ấy ngày ngày sử dụng internet, dùng truyền hình
vệ tinh để dạy học, hiệu quả rất nhanh. Do đó chúng ta có lý do để tin tưởng,
nhiều nhất mười năm, thì thiên hạ thái bình, thái bình thịnh thế liền xuất hiện
thôi. Bởi vì sự lan truyền của truyền thông, đối với xã hội nhân thế ảnh hưởng
rất là lớn. Ngày hôm nay họ truyền điều gì? Đều là giết trộm dâm dối, khiến xã
hội này loạn rồi. Nếu họ có thể thay đổi chính sách, đem tất cả những mặt trái
của những tin tức này đóng kín lại, từ bỏ đi, mà truyền giảng Luân thường đạo đức,
truyền giảng giáo dục Thánh hiền, thì tôi tin rằng một năm liền có thể thu được
hiệu quả, chư vị liền thấy được tâm người thay đổi, xã hội thay đổi rồi, tai nạn
không còn nữa, năm năm, mười năm, sẽ xuất hiện thái bình thịnh thế. Người lãnh
đạo quốc gia cần có sự nhận thức đó, có tri thức như vậy, có quyết đoán như thế,
thay đổi trở lại. Mời họp mặt những người có trách nhiệm về truyền thông, nói
cho họ nghe nghiệp nhân quả báo, chư vị truyền những mặt trái, làm xã hội nhiễu
loạn, quả báo tương lai ở địa ngục, chư vị có thể chuyển trở lại, tuyên truyền
phát huy giáo huấn Thánh hiền, Luân lý đạo đức, thật tướng của nhân quả báo ứng,
ai cũng đều quay đầu. Công đức đó thật khó được, đó là loại đại phước báo, thiện
quả thiện báo của đời sau là không thể nghĩ bàn. Không được làm ác, nhất định
phải hành thiện. Tích công lũy đức, không có tốc độ gì nhanh bằng truyền thông,
tạo ác cũng nhanh, hành thiện cũng nhanh, quả báo cũng nhanh.
Cho nên chúng ta đọc
tới đoạn kinh văn này, cảm thọ rất sâu, chúng ta có chủng tánh Phật, ai ai cũng
có, tất cả chúng sanh đều có, làm thế nào để cho không gián đoạn? Đó chính là
thọ trì thậm thâm pháp tạng, phải tiếp nhận giáo dục chính diện, giáo dục của tổ
tông, giáo dục của Thánh hiền, giáo dục của tôn giáo, có thể cứu thế. Tuổi tôi
quá lớn rồi, 88 rồi, nên đi thôi, tôi mỗi ngày lạy Phật, niệm Phật, nhiễu quanh
Phật chỉ là một ý niệm này: cầu sanh Tịnh Độ. Điều tôi có thể nhìn thấy được,
tôi tận lực nói cho mọi người nghe, hi vọng mọi người ghi nhớ, chư vị còn trẻ,
thời gian của chư vị còn rất dài, phải nghiêm túc nỗ lực, tích đại công đức,
thành tựu của đại phước báo trong tương lai, giúp đỡ tất cả chúng sanh khổ nạn
lìa cứu cánh khổ, đắc cứu cánh lạc. Tiếp theo Tam Bảo âm, chính là thọ trì
tuyên thuyết Phật pháp tạng, 眾生由之植善發智,成德契理,故三寶種子,傳傳相繼,常使不絕。“Chúng sanh do chi thực thiện phát trí,
thành đức khế Lý, cố Tam Bảo chủng tử, truyền truyền tương kế, thường sử bất
tuyệt” (Chúng sanh do đó
[mà] trồng thiện phát trí, thành đức khế Lý, nên chủng tử của Tam Bảo, truyền
tiếp liên tục, thường khiến chẳng dứt). Ba cách nói ở trên, Niệm
lão hi vọng chúng ta tất cả đều nghiêm túc tham khảo học tập.
Khoa mục tiếp theo
đây, 悲演濟度 “Bi diễn tế độ” (Thương xót diễn thuyết cứu độ).
Tế chính là cứu tế, độ chính là hóa độ chúng sanh, chính là giáo hóa chúng
sanh, từ tâm đại bi phát xuất ra. Chúng sanh quá khổ rồi, hôm nay sanh ra ở thế
giới này, gặp phải kiếp nạn chưa từng có, lịch sử trong quá khứ chưa có, chúng
ta gặp phải rồi. Bồ-tát có tâm từ bi, bi, [là] cứu khổ; Từ, là ban vui. Diễn,
diễn là biểu diễn, cũng bao gồm là diễn giải, có biễu diễn, giảng diễn, biểu diễn
là lấy thân làm mẫu, lão Hòa thượng Hải Hiền một đời biểu diễn, còn tôi một đời
này là diễn thuyết, đều là làm cùng một việc: cứu độ tất cả chúng sanh khổ nạn.
Duyên rất quan trọng, ngoại duyên chính là hộ pháp, không có ai hộ trì, thì chư
vị không gặp được cơ hội. Cơ hội và chính mình tu trì có mối liên quan, phước đức
của chính mình và phước đức của chúng sanh nhân duyên có mối liên quan, điều
này rất phức tạp, không phải đơn giản. Phật Bồ-tát rất từ bi, các ngài âm thầm
mà an bài, các ngài vì chúng ta mà trải đường, chúng ta vĩnh viễn cảm ân Phật Bồ-tát,
và còn cảm ân tổ tông.
Tôi một đời này cảm
nhận rất sâu sắc, đều là do Phật Bồ-tát an bài, tổ tông an bài. Năm xưa Đại sư
Chương Gia dạy cho tôi, chỉ cần chúng ta chân chính phát tâm, không vì chính
mình, mà vì chúng sanh khổ nạn, vì chánh pháp cửu trụ, thì sẽ được sự tổ tông bảo
hộ, Tam Bảo gia trì, một đời đều là do Phật Bồ-tát đến an bài. Tôi tin lời thầy
dạy tôi, ngài không gạt tôi. Đại sư Chương Gia lớn hơn tôi 39 tuổi, là bậc cha
ông, tôi theo ngài năm đó, lão nhân gia 65 tuổi, 68 tuổi thì ra đi, tôi theo
ngài ba năm, ba năm cuối đời của ngài. Nền tảng Phật pháp của tôi, do ngài gầy
dựng cho tôi, tôi đều tuân thủ những gì tôi được dạy. Khái niệm căn bản, nhìn
thấu, buông xuống. Đặc biệt huấn luyện, đó là tiếp thọ Phật pháp nhất định phải
chân thành, phải dùng tâm thanh tịnh, phải dùng tâm cung kính. Tâm khí bao
chao, thì ngài không nói chuyện. Chúng tôi còn trẻ, sự tu dưỡng chưa tốt, thông
thường mà nói thì vẫn còn được, so với những người đồng tuổi trong thế gian,
chúng tôi thanh tịnh hơn, [nếu] so với người xưa, thì không có tư cách, so sánh
không tới. Ngài vẫn rất từ bi để dạy. Chúng tôi hướng về ngài đề ra câu hỏi,
khi tâm tính chưa có bình lặng xuống, ngài không đáp lời. Cho nên tâm phải
thanh tịnh, phải định xuống, đem vọng tưởng, tạp niệm tạm thời buông xuống, điều
gì cũng không nghĩ tới, ngài mới giảng giải cho chư vị. Trong lúc đang giảng,
chúng tôi có lúc hưng phấn, cao hứng lên, tập khí xốc nổi lại xuất hiện; ngài rất
là thú vị, ngài lại không giảng nữa, mắt nhìn chư vị, không nói chuyện, khuôn mặt
hiện ra rất từ bi. Chúng tôi tự nhiên liền nhận ra rằng, có vọng tưởng khởi
lên, mau mau đem vọng tưởng buông xuống, ngài lại giảng tiếp. Cho nên dạy học
không dễ dàng, học trò lại càng khó, mấy người đem được suy nghĩ thu dọn cho sạch
sẽ, để mà tiếp thu giáo huấn của ngài? Vẫn còn vọng niệm, thì ngài không nói
chuyện, ngài cũng không trách chư vị, chỉ là nhìn chư vị. Cho nên tự mình phải
giác ngộ, tự mình phải thật sự buông xuống, tự mình phải nghĩ tới bổn nguyện của
mình đã phát.
Đoạn phía dưới này “Bi
diễn tế độ”, chúng ta xem kinh văn:
【興大悲。】“Hưng đại bi” (Hưng khởi lòng đại bi).
Nhất định là phải ở phía trước, không có đại bi thì không có động lực, chư Phật
Bồ-tát giáo hóa chúng sanh không sợ cực khổ đó chính là tâm bi.
【愍有情。】“Mẫn hữu tình”(thương xót hữu tình), [là]
thương xót chúng sanh.
Tiếp theo giảng phương pháp: 【演慈辯。授法眼。】“Diễn từ biện, thọ
Pháp nhãn” (Diễn từ biện, truyền Pháp nhãn).
“Diễn từ biện” là
phương pháp, phải vì họ mà biểu diễn, phải vì họ mà diễn thuyết, phải giải đáp
sự nghi hoặc của họ. Đem “Pháp nhãn” truyền thọ cho họ, “Pháp nhãn” là trí huệ,
làm cho họ có trí huệ để quan sát, để học tập.
【杜惡趣。開善門。於諸眾生。視若自己。拯濟負荷。皆度彼岸。】“Đỗ ác thú, khai thiện môn. Ư chư chúng
sanh, thị nhược tự kỷ, chẩn tế phụ hạ, giai độ bỉ ngạn” (Đóng đường ác, mở cửa lành. Đối với chúng sanh, xem như chính mình, gánh vác nhiệm vụ cứu vớt,
đều độ sang bờ kia”. Xem như chính mình, rất là quan trọng,
điều này là gì? Phá hết Biên kiến rồi. Chúng sanh ai cũng có Biên kiến, Biên kiến
là hai bên đối lập nhau. Hóa giải Biên kiến rồi, thì chính là hòa hợp, biết được
trời đất vạn vật là một thể với mình, đây là chân tướng sự thật.
Chúng ta xem chú giải
của Niệm lão, câu “hưng đại bi” này, từ câu này tới câu “giai độ bỉ ngạn”, mười
câu này, 表諸大士同體大悲、無緣大慈之德行 “biểu chư Đại sĩ Đồng thể Đại bi, Vô duyên Đại từ chi đức hạnh” (Biểu thị đức hạnh Đồng thể Đại bi, Vô duyên Đại từ của chư vị
Đại sĩ). Đây là mười câu nói tổng quát, văn tự vốn không dài, hiển thị cho
chúng ta thấy sự đại từ đại bi của Phật Bồ-tát, đây là thuộc về Tánh đức, từ Tu
đức mà khai phát Tánh đức, Tánh đức tự nhiên lưu lộ. Niệm lão vẫn là giải thích
cho chúng ta từng câu từng câu, “hưng đại bi mẫn hữu tình”, 愍者,哀念也。菩薩悲憫眾生 “mẫn giả, ai niệm dã. Bồ-tát bi mẫn chúng sanh” (Mẫn: là thương xót. Bồ-tát thương xót
chúng sanh), bi là thương cảm, mẫn là thương xót. Tất cả chúng sanh đây mê hoặc điên đảo, vẫn tự cho mình là đúng, đọa
lạc ở trong lục đạo, tạo đủ mọi nghiệp bất thiện, quả báo đời sau đều là tam đồ.
Phật Bồ-tát nhìn thấy rất rõ, phải làm sao đây? Dùng phương pháp gì giúp đỡ họ lìa
khỏi lục đạo luân hồi. Thoát khổ là rời khỏi sáu đường luân hồi, chưa ra khỏi
sáu đường luân hồi, thì chưa hết khổ. Chư vị độ họ đời sau [được] phước báo
nhân thiên, hưởng hết phước báo rồi thì làm sao? Lại đọa lạc tiếp. Chắn chắc là
thời gian đọa lạc trong ác đạo dài, thời gian ở trong tam thiện đạo thì ngắn tạm.
Tại sao vậy? Chư vị tự suy xét thì hiểu rõ. Chúng ta khởi tâm động niệm, từ
sáng tới tối thì ác niệm nhiều, hay là thiện niệm nhiều? Suy nghĩ vì chúng sanh
nhiều, hay là suy nghĩ vì chính mình nhiều? Chư vị suy nghĩ cho sâu xa, đó là
gì? Đó là nhân, nhân có thể cảm quả. Chúng ta suy nghĩ vì chính mình quá nhiều,
nghĩ vì chúng sanh thì quá ít; suy nghĩ pháp thế gian quá nhiều, suy nghĩ về Phật
pháp quá ít. Cho nên bất luận là tu thế nào, phản ánh hiện ra chính là ba đường
ác, đây là chân tướng sự thật không thể không biết. Nếu chư vị biết rồi, liền
xuất hiện tính cảnh giác. Cảnh giác điều gì? Tôi chết rồi sau đó là vào tam đồ,
vào địa ngục, làm sao đây? Đây mới là chân tướng sự thật. Nếu chư vị sợ khổ của
địa ngục, thì hiện nay có một phương pháp, chí mạng niệm Phật, một giây cũng phải
tranh thủ, tại sao vậy? Tôi phải thoát khỏi nỗi khổ địa ngục. Vãng sanh tới thế
giới Cực Lạc, thật sự thoát khỏi địa ngục. Cho nên người vãng sanh rời cứu cánh
khổ, được cứu cánh vui. Thế giới Cực Lạc không có khổ, đắc cứu cánh vui. Vô lượng
Pháp môn, tám vạn bốn ngàn Pháp môn, độc nhất Pháp môn này [là] chúng ta có thể
làm được, tại sao vậy? Bởi đới nghiệp vãng sanh.
Mọi người học Giới Luật
rồi, trong Giới Luật lại nói với chư vị, chư vị trong đời này đắc được quả vị
thấp nhất, Tu-đà-hoàn (sơ quả Tiểu thừa), quả vị thấp nhất của Đại thừa là Sơ
tín Bồ-tát, trong kinh điển nói với chúng ta phải đoạn năm loại Kiến hoặc, chư
vị có thể đoạn được không? Thứ nhất là Thân kiến, thứ hai là Biên kiến, thứ ba
là Kiến thủ kiến, Giới thủ kiến, Tà kiến, năm loại đó, đoạn hết tất cả, chư vị
mới có thể chứng đắc quả Tu-đà-hoàn. Chư vị thử xét xem, chư vị đời này có thể
chứng quả không? Chứng đắc, hai hiện tượng sẽ sanh ra hiển thị rất rõ ràng, đây
là bản năng, thần thông là bản năng, ai ai cũng có, chỉ là phiền não che lấp rồi.
Nói cách khác, đoạn hết năm loại Kiến hoặc, phiền não liền nhẹ, trong lục thông
của chúng ta, thứ nhất là Thiên nhãn thông, thứ hai là Thiên nhĩ thông liền xuất
hiện. Cho nên chứng Sơ quả đắc được hai loại thần thông, đây là không phải là
giả. Chứng đắc Nhị quả thì liền tăng thêm hai loại thần thông: Túc mạng thông,
Tha tâm thông. Túc mạng thông là gì? Biết được chuyện quá khứ đời đời kiếp kiếp
của chính mình, đại khái là có thể biết được mười mấy đời, hai mươi mấy đời, ba
mươi mấy đời, đó là nhị quả. Tha tâm thông là gì? Chư vị biết được khởi tâm động
niệm của người khác. Chứng đắc Tam quả lại được thêm một loại thần thông: Thần
túc thông. Thần túc thông chính là biến hóa, chư vị có khả năng phân thân, chư
vị có khả năng biến hóa, chư vị đi tới đâu không cần ngồi máy bay, chư vị nghĩ
chỗ nào, thân thể liền tới [chỗ đó] rồi, là có năng lực như vậy, gọi là Thần
túc. Tất cả pháp đích thật là từ tâm tưởng sanh, Tam quả A-na-hàm ở tại đây mà
nghĩ tới nước Mỹ, động ý niệm đó, thân ở chỗ này liền không thấy nữa, liền xuất
hiện bên nước Mỹ. Tứ quả A-la-hán, A-la-hán đắc Lậu tận thông. Lậu tận thông là
gì? Chính là đoạn hết Kiến tư phiền não, siêu việt lục đạo luân hồi. Lục đạo
luân hồi không thấy nữa, giống như từ trong giấc mơ tỉnh dậy, tỉnh dậy thì nhìn
thấy gì? Tỉnh lại thì nhìn thấy Pháp giới Tứ thánh: Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát,
Phật, nhìn thấy thế giới này, các ngài sống trong đó. Vẫn còn phải từ từ hướng
lên phía trước, thời gian dài lắm – chúng ta không thể tưởng tượng được, chư vị
phải biết điều này, không phải giả đâu.
Pháp môn để thành tựu
một đời chính là tín nguyện trì danh. Tín là thành thật tin, một chút tơ hoài
hoài nghi cũng không có, đây rất là khó. Chúng ta dựa vào đâu để tin? Hoàn toàn
dựa vào kinh giáo. Tôi học kinh giáo 63 năm, giảng kinh dạy học 56 năm chưa hề
gián đoạn, từ trong kinh giáo mà khẳng định, nhận thức được: Pháp môn này thù
thắng đặc biệt. Trong lịch sử từ xưa tới nay trong nước ngoài nước, bao nhiêu
người tu Pháp môn này đều vãng sanh, xem Vãng Sanh Truyện, xem Tịnh Độ Thánh Hiền
Lục, nhìn thấy trước mắt chúng ta những bậc đại thành tựu tu Pháp môn này, như
ba vị Đại đức ở Lai Phật Tự (bao gồm lão mẫu thân của lão Hòa thượng Hải Hiền),
một đời thành tựu chỉ là một câu Phật hiệu, ngoài ra thì điều gì cũng không biết,
vãng sanh tự tại biết bao, biết được ra đi lúc nào, một phút một giây cũng
không sai. Trước khi đi không có một chút bệnh tật, tất cả đều bình thường, nói
đi là đi. Lão mẫu thân của ngài Hải Hiền, hình như ngài là tám-chín năm sau
nghĩ tới việc cải táng mẫu thân, mở phần mộ ra, mở quan tài ra, không thấy người
nữa, bên trong quan tài chỉ còn mấy chiếc đinh tán, người không còn nữa. Tới
hôm nay không ai biết, không phải người thường, người thường không thể làm được.
Ngài Hải Khánh, ngài Hải Hiền đều đi tự tại biết bao, không cần người trợ niệm,
ngài hiểu rất rõ ràng, Phật có hẹn với ngài, quyết định không có vọng ngữ, nói
với ngài khi nào đến tiếp dẫn ngài, mấy giờ mấy phút mấy giây, một giây cũng
không sai, tới giờ Phật xuất hiện, theo Phật rồi. Chúng ta đối diện với kinh điển,
chính là đối với khai thị từ bi của chư Phật Bồ-tát đại Thiện tri thức, giống
như các ngài đang ở trước mặt chúng ta, chỉ có chân thành cung kính chúng ta mới
có thể sản sinh cảm ứng, chư vị mới có thể nghe được 弦外之音“huyền ngoại chi
âm” (ý ở ngoài lời), chư vị mới có thể ở trong văn tự mà nhìn thấy cửa
đạo, bắt đầu từ đâu, phải lựa chọn con đường đạo nào, chư vị tự nhiên đều lãnh
hội được.
Cho nên Bồ-tát bi mẫn
chúng sanh, 普令出苦 “phổ linh xuất khổ” (rộng khiến ra khỏi nỗi khổ). Có mối liên quan mật thiết với
tôi, cha mẹ, anh chị em, bạn học, bằng hữu, chúng ta phải giúp đỡ, phải thương
xót họ; Chưa hết, cũng có người có duyên, oan thân trái chủ, người hủy báng
tôi, chướng ngại tôi, hãm hại tôi, họ cũng là chúng sanh đáng thương, không
giúp họ tới thế giới Cực Lạc, thì khẳng định họ sẽ ở địa ngục. Nghĩ tới người
thân cũng nghĩ tới oan gia trái chủ, bình đẳng độ cho ra khỏi khổ, đó là Bồ-tát.
Nếu như nói tôi thích thì tôi đi độ họ, tôi không thích, ghét họ thì kệ họ, họ
đọa địa ngục không liên quan gì đến tôi, đó không phải Bồ-tát. Không phải Bồ-tát
thì như thế nào? Phía dưới có một câu, 二乘凡夫愛見之悲 “Nhị thừa phàm phu ái kiến chi bi” (Sự từ bi bởi ái kiến của hàng Nhị thừa và phàm phu), đây
là chúng sanh trong sáu đường, chưa đoạn tình chấp. Thật sự buông xuống tình chấp,
từ bi là sự bình đẳng, họ sát hại tôi, họ diệt bộ tộc này của tôi, tôi vẫn phải
giúp đỡ họ, tại sao vậy? Bởi tôi biết, còn họ không biết, tôi biết khắp pháp giới
hư không giới tất cả chúng sanh cùng là một thể với tôi, do một Tự Tánh biến hiện
ra. Câu nói cuối cùng của Đại sư Huệ Năng là “nào ngờ Tự Tánh, có thể sanh vạn
pháp”, tuyệt không thể quên. Chư Phật Bồ-tát [thì] oán thân bình đẳng, đều là
có nhân duyên, Phật không độ người không có duyên, [người] thân phải được độ,
[kẻ] oán cũng phải độ, nhất định không có tâm thiên vị, đó là sự đại từ đại bi
của Phật Bồ-tát, làm cho người tôn kính, phàm phu làm không được. Phật Bồ-tát ngày
ngày đang làm, từ trước tới giờ từng phút từng giây không gián đoạn, đối tượng
là chúng sanh trong sáu đường mười giới ở tất cả cõi nước chư Phật trong khắp
pháp giới hư không giới. Trong đời quá khứ có duyên với chúng ta, bất luận là
thiện duyên hay ác duyên, gặp lại rồi, tất cả đều phải độ, rộng khiến cho ra khỏi
khổ. Nhất định không phải Nhị thừa, sự từ bi của Nhị thừa là Thanh văn, Duyên
giác, trên thực tế tâm từ bi của họ chưa có phát ra, điều mà họ thật sự thích,
họ thích thì họ độ, họ không thích, thì họ không quan tâm. Đại bi của Bồ-tát
thì không giống vậy, không giống với họ.
又《會疏》曰:拔苦為悲 “Hựu Hội Sớ viết: Bạt
khổ vi bi” (Thêm nữa sách Hội Sớ ghi: Nhổ trừ sự khổ là bi).
Nhìn thấy chúng sanh khổ, hiện nay thế giới này chúng sanh khổ rất nhiều, dùng
điều gì độ được? Dùng luân lý, dùng đạo đức, dùng nhân quả, dùng giáo huấn của
thần Thánh có thể nhổ trừ nỗi khổ của họ, ngoài phương pháp này ra không còn biện
pháp nào làm được. Làm như thế nào? Là thực hiện trong giáo dục của gia đình,
giáo dục của trường học, giáo dục xã hội, giáo dục của Thánh hiền, đây là
phương pháp. Lãnh đạo một quốc gia, lãnh đạo toàn thế giới, giáo dục làm tốt rồi,
đều giải quyết toàn bộ vấn đề rồi. Mỗi một tôn giáo đều tốt, đều tán thán,
không có sai biệt. Giáo này cao, giáo kia thấp, không phải giáo có cao thấp, mà
căn tánh của người có cao thấp, thiện căn phước đức không tương đồng, chư vị
thích hợp Pháp môn nào, thì chư vị đi học Pháp môn đó, không có vấn đề gì. Pháp
môn của chúng ta có rất nhiều ví dụ, học Giáo, học Thiền, học Mật, học Giới Luật,
tới cuối cùng như thế nào? Cuối cùng đều là tu Tịnh Độ, tất cả đều từ bỏ môn
đó, tu Tịnh Độ. Tại sao vậy? Bởi thật làm rõ ràng, thật làm sáng tỏ, thì thật sự
tin tưởng: [với] Tịnh Độ thì chúng ta một đời nắm chắc được thành tựu, Pháp môn
khác phải dùng thời gian rất rất dài, cho nên họ từ bỏ. Mọi tôn giáo cũng đều
như nhau, học thuật thế gian xuất thế gian đều không có ngoại lệ; tâm chánh,
thì pháp nào cũng là chánh; tâm viên, pháp nào cũng viên, chân thật không có
cao thấp. Vì thích ứng với căn tánh khác nhau, nên Phật mới dùng nhiều Pháp môn
như vậy để giúp đỡ tất cả chúng sanh khổ nạn, phải tùy thuận họ, không được tùy
thuận mình. Tùy thuận chính mình, không phải ai ai cũng đều thành tựu sao? Họ
không thể chấp nhận, phải tùy thuận họ, phải làm cho hoan hỉ, làm cho họ tiếp
thu. Sự việc này không được miễn cưỡng, vậy nên người chủ trì giáo hóa rất quan
trọng.
Tôi di dân tới Hồng
Kông, lần thứ nhất gặp mặt với Chủ tịch Đài truyền hình Phượng Hoàng là Tiên
sinh Lưu Trường Lạc, văn phòng của ông trưng đầy Phật Di Lặc, lớn lớn nhỏ nhỏ
có bốn-năm chục tượng Bồ-tát Di Lặc. Tôi nói với ông ấy, ngày hôm nay cứu vãn
thế giới này cùng với hủy hoại thế giới này: có hai người, ông ấy nói hai người
nào? Tôi nói thứ nhất là người lãnh đạo đất nước, người thứ hai chính là người
trong ngành nghề này như ông. Điều này nằm chắc trong tay ông, truyền hình của
ông nếu phát mặt tốt, phát luân thường đạo lý, thì ông đã cứu người trong thiên
hạ, nếu ông phát sắc tình, sát đạo dâm vọng, thì ông đã hủy diệt thế giới này. Ngày
hôm nay quyền điều khiển này nằm trong tay chư vị, chư vị phát tâm cứu thế giới
này? Hay là phát tâm hủy diệt thế giới này? Sau này chúng tôi thường xuyên gặp
mặt, cũng là bạn tốt. Ông ấy vì điều gì? Quảng cáo. Thương gia Quảng cáo họ muốn
làm giết trộm dâm dối, hình như vậy mới thu hút người xem, nịnh nọt người xem.
Người xem không phải thích những thứ này sao? Chưa chắc. Đài truyền hình Vệ
Tinh Hoa Tạng của chúng ta, là do bà Cư sĩ Trần Thái Quỳnh làm, nội dung bên
trong là chuyên môn phát đĩa CD mà tôi giảng. Chi phí của đài truyền hình rất
cao, chúng ta không dám tưởng tượng. Tết nguyên đán năm 2003, đài truyền hình của
bà bắt đầu phát sóng, trước một tuần phát sóng mới nói với tôi. Tôi nói tốt,
tôi xem bà, xem bà có thể tồn tại trong một tuần không, chi phí quá lớn, xem bà
có thể làm tiếp tục không? Một tuần trôi qua. Tôi nói tôi xem nửa tháng, tôi
xem một tháng, xem ba tháng, xem nửa năm, xem tới bây giờ vẫn chưa đóng cửa, vẫn
rất hưng thịnh. Tiền từ đâu mà tới? Sau khi phát việc giảng kinh, trên màn hình
có để một tài khoản ngân hàng, có người gửi tiền cho bà, mặc dù không nhiều,
nhưng có rất nhiều người, đều có người ở các nơi trên toàn thế giới, bà ấy đủ để
chi phí. Tôi nói với ông Lưu Trường Lạc, đài truyền hình không có làm quảng
cáo, cũng không có tìm người tài trợ, chỉ dùng phương pháp này thì có thể tự
cung tự cấp, tới ngày hôm nay chưa có gián đoạn. Điều này có thể hiểu, người
thích mặt tốt không ít, tại sao không phát luân lý đạo đức, tại sao không làm sự
nghiệp cứu chúng sanh? Điều này đáng để mọi người làm tham khảo, cũng đáng để
chúng ta suy nghĩ sâu xa. Cứu khổ cứu nạn là đại đức, dù không vãng sanh, thì nhất
định là sanh cõi trời, phước báu của người trời rất lớn.
Trong Hội Sớ có giảng,
拔苦為悲,乃至悲是真實平等之悲,故謂大悲。“Bạt khổ vi bi, nãi chí bi thị chân thật bình đẳng chi bi, cố vị đại
bi” (Nhổ trừ khổ là bi, cho đến bi là bi của chân thật bình đẳng,
nên gọi là đại bi). Chân thật bình đẳng, bình đẳng chính là không có phân
biệt, không có chấp trước, chỉ cần nhìn thấy người chịu khổ thì liền ra tay
giúp đỡ họ. Hôm nay chúng ta dùng phương pháp này chính là truyền hình vệ tinh,
là dùng internet, chúng tôi đã dùng mười mấy năm. Bắt đầu từ tết nguyên đán năm
2003, năm nay là năm 2014, mười hai năm, mười hai năm nay sinh ra ảnh hưởng rất
lớn. Trong 12 năm nay chúng ta nhìn thấy một sự thật, hi vọng người sau nghiêm
túc suy nghĩ. Sự thật này là gì? Người biết tôi quá nhiều, tôi không biết họ, họ
thì biết tôi. Tại sao phải nói tới vấn đề này? Bởi đây không phải là việc tốt. Phải
nên làm thế nào? Nếu khi ở thời điểm đó, tôi biết được tình trạng như thế này,
thì tôi giảng kinh, chư vị xem văn tự, không xem tướng của tôi; khi chúng tôi
ghi hình thì có phụ đề, kinh văn, chư vị xem được, chư vị nghe được tiếng của tôi,
chư vị không biết tôi. Tôi đi tới đâu, không có ai theo tôi, [được] tự tại. Sau
khi biết được điều này thì rất là phiền phức, tôi không dám đến Đại Lục, tại
sao vậy? Bởi quá nhiều người.
Năm xưa ở Tây Hồ thuộc
Hàng Châu, sáng sớm đi tản bộ ở công viên, vẫn đi chưa xa, quay đầu lại nhìn, mấy
trăm người đang đi theo phía sau, đây không phải là việc tốt. Ở khách sạn, ở Bắc
Kinh, trong khách sạn có đại sảnh, người tụ tập đông kín, cỡ mấy trăm người, đến
thăm tôi, trời vừa sáng thì đến rồi, buổi tối 12 giờ đêm vẫn chưa chịu rời khổ,
mang đến rất nhiều phiền phức cho khách sạn. Những người đó đều là có ý tốt,
chúng tôi thì cảm thấy rất là thống khổ. Cho nên nói với mọi người kinh nghiệm
này, sau này lợi dụng truyền hình, lợi dụng internet, không nên có hình ảnh của
chính mình, không nên có hình ảnh, chỉ có văn tự, có tiếng là tốt nhất. Nếu tôi
không mở miệng nói, thì họ không biết là tôi, có tiếng nói, họ nghe rất quen
thuộc, mở miệng nói chuyện, đây là người nào đó. Năm xưa có tình hình này,
chúng tôi đã chủ quan, không nghĩ tới hậu quả rất là phiền phức, đây đều là
giáo huấn. Văn tự, sách nói, tốt, không cần thấy mặt người, đây là đều rất dễ
làm.
Phía sau vẫn còn một
câu. 又《涅槃經十一》曰:三世諸世尊,大悲為根本。Hựu Niết Bàn Kinh Thập nhất viết: Tam thế chư Thế Tôn, đại bi vi
căn bổn” (Thêm nữa trong quyển 11 của Kinh Niết Bàn nói:
Chư Thế Tôn trong ba đời, lấy đại bi làm căn bản). [Trong] Mật bộ (Mật
tông) quyển thứ nhất của Kinh Đại Nhật ghi: 菩提心為因,大悲為根本“Bồ-đề tâm vi nhân, đại
bi vi căn bổn”(Tâm Bồ-đề là nhân, đại bi là gốc rễ).
故諸大士咸發同體大悲之心。“Cố chư Đại sĩ hàm phát Đồng thể Đại bi
chi tâm“(Cho nên chư vị
Đại sĩ cùng phát tâm Đồng thể Đại bi). Hai chữ đồng thể chỗ
này quan trọng hơn bất cứ điều gì, người chân chính thấy được cùng một thể, thì
không còn Biên kiến nữa, trong năm loại Kiến hoặc thì phá trừ Biên kiến rồi. Biên
kiến là nhị biên, là đối lập. Mình và người đối lập, đồng thể thì không còn
quan niệm đối lập mình và người nữa, tất cả chúng sanh cùng một thể với tôi, tất
cả chúng sanh có khổ thì tôi có khổ, tất cả chúng sanh được vui thì tôi được
vui. Cho nên giúp đỡ chúng sanh chính là giúp đỡ chính mình, quan tâm chúng
sanh chính là quan tâm chính mình, quan niệm này quan trọng hơn tất cả. Cho nên
người không thể không có tâm từ bi.
Từ bi của Bồ-tát để ở
hàng đầu, từ bi là tâm yêu thương, yêu thương đồng một thể, bi tâm đồng một thể,
nhìn thấy người thì liền muốn giúp đỡ. Vậy phải xem duyên, họ không tiếp nhận,
vậy không có biện pháp nào hết. Thầy có muốn học trò mình thành tựu hay không?
Muốn, nhưng không tìm ra học trò. Tôi vô cùng quen thuộc tình trạng này. Năm
xưa lần đầu tiên xuất ngoại, sau khi trở về thì nhất định đi thăm thầy, việc lớn
nhất đó là báo cáo với thầy. Tôi cầu rất nhiều lần, cầu thầy bồi dưỡng thêm vài
học trò, [để] chúng tôi có bạn học, có trợ thủ, hoằng pháp bên ngoài dễ dàng
hơn. Thầy nghe rồi liền hoan hỷ, nói rất nhiều lần, lần cuối cùng nói với tôi:
không phải tôi không dạy, con thay tôi tìm học trò đi. Sau câu nói này, tôi
không dám mở lời nói nữa, tại sao vậy? Bởi tôi không tìm được học trò như vậy,
tôi tới đâu tìm? Tìm một người chân thật nghe lời, thật thà, thật làm, chân
thành, thanh tịnh, cung kính, tìm không ra học trò như vậy. Tôi mới hiểu được
những lời của cổ nhân nói, học trò tìm được thầy tốt, có thể gặp nhưng không thể
cầu. Thầy tìm người học trò như vậy, so với học trò tìm thầy càng khó khăn hơn,
họ đi tìm ở đâu? Duyên phận, có duyên thì gặp được, sau khi gặp được rồi không được
buông lơi, nghiêm túc dạy chư vị, còn sống thì luôn luôn quan tâm chư vị. Ân đức
của thầy vượt hơn cha mẹ, ân đức của cha mẹ với chúng ta là một đời, ân đức của
Phật Bồ-tát với chúng ta là đời đời kiếp kiếp, bất luận chúng ta đi tới đường
nào, các ngài cũng biết, các ngài đều đi theo không rời bỏ. Cho nên chân chính
phát tâm, đạt được gia trì của Phật Bồ-tát, đạo lý nằm ở chỗ này.
Cho nên những Đại
sĩ, chư Đại sĩ, từ trên chữ để nói, [là] mười sáu Chánh sĩ đã nói phía trước,
nói rộng ra, [là] đại biểu cho tất cả Bồ-tát tại gia. Mười sáu vị Đẳng giác Bồ-tát
này, địa vị của các ngài cùng với ngài Văn Thù, Phổ Hiền, Quan Âm, Thế Chí là
bình đẳng, thành tựu tại gia. Thời gian hôm nay đã hết, chúng ta học tập đến
đây.
(Hết tập
116)
Nguyện đem
công đức này
Hướng về
khắp tất cả
Đệ tử cùng
chúng sanh
Đều sanh
nước Cực Lạc
Sớm viên
thành Phật quả
Rộng độ khắp
chúng sanh.
Nam Mô A Mi Đà Phật.