Tịnh Độ Đại Kinh Khoa Chú 2014
(Giảng lần thứ 4)
Phẩm Thứ 2: Đức Tuân Phổ Hiền
Tập 119
Hoà thượng Thích Tịnh Không chủ giảng.
Giảng ngày 17 tháng 10 năm 2014.
Giảng tại: Học viện Tịnh Tông Úc Châu.
Dịch giả: Bình Như.
Giảo chánh: Thích Thiện Trang.
Kính chào chư vị Pháp sư, chư vị đồng học, kính mời ngồi. Thỉnh mọi người cùng tôi quy y Tam Bảo: A-xà-lê tồn niệm, ngã Đệ tử Diệu Âm, thỉ tùng kim nhật, nãi chí mạng tồn, quy y Phật Đà, lưỡng túc trung tôn, quy y Đạt Ma, ly dục trung tôn, quy y Tăng Già, chư chúng trung tôn. (3 lần).
Mời xem Đại Kinh Khoa Chú, trang 347, trang 347, hàng thứ bảy từ trái sang, bắt đầu xem từ chính giữa. 如《涅槃經》偈曰:一切眾生受異苦,悉是如來一人苦。“Như Niết Bàn Kinh kệ viết: nhất thiết chúng sanh thọ dị khổ, tất thị Như Lai nhất nhân khổ”(Như phần kệ trong Kinh Niết Bàn nói: Tất cả chúng sanh chịu khổ riêng, đều là một thân Như Lai khổ). Đây là giải thích kinh văn: 於諸眾生,視若自己“ư chư chúng sanh, thị nhược tự kỷ”(đối với chúng sanh, xem như chính mình), Niệm lão trích dẫn câu kệ trong Kinh Niết Bàn ở chỗ này. Người như thế nào thì biết chúng sanh với chính mình là một thể? Nên nói rằng tất cả chư pháp trong vũ trụ đều là một thể. Đại sư Huệ Năng đã nói rất rõ ràng với chúng ta: “Nào ngờ Tự Tánh, năng sanh vạn pháp”. Tự Tánh chính là chính mình, năng sanh vạn pháp, vạn pháp là từ Tự Tánh mà sanh ra, mà biến hiện ra, người như thế nào thì biết? Những Bồ-tát Minh tâm Kiến tánh đều biết, các ngài nhìn thấy rồi. Ở trong cảnh giới ấy, đầy đủ Ngũ nhãn của Như Lai: Nhục nhãn, Thiên nhãn, Huệ nhãn, Pháp nhãn, Phật nhãn, thật sự nhìn thấy chân tướng vũ trụ vạn hữu. Trong cảnh giới đó không còn phân chia ra nữa, giống như trong Hoa Nghiêm đã thuyết, cảnh giới cao nhất mà Hoa Nghiêm giảng là: 十方三世佛,共同一法身“Thập phương tam thế Phật, cộng đồng nhất Pháp thân”(mười phương ba đời Phật, cùng chung một Pháp thân), Pháp thân chính là Tự Tánh, chính là Bổn Tánh. Trung Hoa Thời xưa, Lão tử đã từng nói: 天地與我同根,萬物與我一體“Thiên địa dữ ngã đồng căn, vạn vật dữ ngã nhất thể“(trời đất cùng gốc với ta, vạn vật một thể với ta), đây là thật, đây không phải giả, đây mới chính là chân tướng sự thật, gọi là Chư pháp Thật tướng. Câu nói này trong Kinh Niết-Bàn, chúng ta có thể hiểu được, chúng sanh chịu khổ là Như Lai đang chịu khổ, Như Lai là Tự Tánh của chúng ta, Tự Tánh là Phật, xưa nay vốn là Phật, xưa nay vốn là Như Lai, Như Lai là nói từ trên Tánh, Bản tánh như vậy, cho nên chúng sanh chịu khổ, đích thật cũng chính là Như Lai đang chịu. Như Lai muốn thoát khổ được vui, vậy thì phải giúp đỡ tất cả chúng sanh: đều phải lìa khổ được vui, đây chính là bổn nguyện, bổn hoài của Như Lai.
故普願拯濟負荷,皆度彼岸 “Cố phổ nguyện chẩn tế phụ hạ, giai độ bỉ ngạn”(Nên nguyện rộng gánh vác nhiệm vụ cứu vớt, đều độ qua bờ kia). Đây chính là mục đích cuối cùng của việc giáo hóa chúng sanh, nhất định phải độ tận chúng sanh, tất cả đều phải lìa khổ được vui, lìa cứu cánh khổ, đắc cứu cánh lạc. Lìa cứu cánh khổ là gì? Thật sự thoát ly lục đạo luân hồi, lục đạo luân hồi là cứu cánh khổ, khổ không nói nên lời, trong đó loạn vô cùng. Khó khăn lắm mới xuất hiện thái bình thịnh thế trong thời gian ngắn, trong giai đoạn đó là chúng sanh: biết đoạn ác tu thiện, tích lũy công đức, cho nên mới cảm được Phật, Bồ-tát xuất thế, giảng kinh dạy học, giúp đỡ chúng ta giác ngộ. Chân chánh giác ngộ rồi, tự nhiên liền buông xuống; nói cách khác, chúng ta chỉ nói là giác ngộ, tôi hiểu rồi, tôi biết rồi, nhưng mà thế nào? Chưa buông xuống. Năm xưa Đại sư Chương Gia cho tôi một tiêu chuẩn, chưa thật sự buông xuống, thì chưa có thật sự giác ngộ, làm gì có chuyện giác ngộ rồi mà họ không chịu buông xuống? Không có đạo lý ấy. Cho nên chúng ta ngàn vạn lần đừng cho rằng chính mình đã giác ngộ. Tự mình chân chính buông xuống, buông xuống triệt để, đây mới gọi là giác ngộ. Chưa có buông xuống, nói được hoa trời rơi rụng, cũng không có lìa cứu cánh khổ, không có ra khỏi lục đạo luân hồi.
Đức Phật dùng phương pháp gì để giúp những chúng sanh khổ nạn đó? Phật dùng việc dạy học. Chư vị xem xem một đời của đức Thích Ca Mâu Ni Phật, Ngài 30 tuổi khai ngộ, đây là vì chúng ta mà thị hiện. Sau khi giác ngộ thì dạy học một mạch, không có nghỉ một ngày nào, trên kinh điển, chúng ta không nhìn thấy đức Thích Ca Mâu Ni Phật nghỉ một ngày, một đời dạy học, 79 tuổi viên tịch. Ngài dạy học là có thứ tự, tại vườn Nai giảng Kinh A Hàm 12 năm, là Tiểu học của Phật giáo, giáo dục phổ thế, sự giáo dục này có thể giúp người thế gian: hóa giải xung đột, giúp xã hội thế gian an định, quốc gia giàu có, thiên hạ thái bình. Chúng ta thường giảng về thái bình thịnh thế, là đến từ sự giáo dục, giáo dục quan trọng như vậy. Trong giáo dục này, dùng văn tự Trung Hoa mà nói, là giáo dục gì? Giáo dục tôn giáo. Giáo dục tôn giáo là gì? Hai chữ tôn giáo này, chư vị phân tách ra mà xem, thế nào gọi là tôn, thế nào gọi là giáo, sau đó kết hợp lại, thế nào gọi là tôn giáo. Tôn giáo là giáo dục chủ yếu của nhân sinh, tại sao vậy? Bởi dạy người ta quay về Tự Tánh. Giáo dục quay về Tự Tánh chính là chủ yếu, là giáo học quan trọng, là giáo hóa tôn kính. Nếu không phải là giáo dục của quay về Tự Tánh, thì đó không phải cứu cánh, không phải cứu cánh chính là chưa ra khỏi lục đạo luân hồi. Đối tượng của dạy học là chúng sanh trong lục đạo. Kết quả của giáo dục là hành thiện được ba đường thiện, đắc được quả báo đó, phước báo đó, phước báo nhân thiên, tâm hạnh bất thiện, đó chính là tam ác đạo, cảm được tam ác đạo là địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh. Nhân quả trong lục đạo luân hồi, là thật, không phải giả. Phật là giác ngộ triệt để, thật sự hiểu rõ thật tướng của vũ trụ nhân sinh, cho nên Ngài dạy chúng ta phải thoát ly lục đạo luân hồi, còn phải thoát ly mười pháp giới, giúp đỡ chúng ta chứng đắc Nhất chân Pháp giới. Nhất chân Pháp giới là Thật Báo Trang Nghiêm độ của Như Lai, đó chính là đắc cứu cánh vui. Lìa cứu cánh khổ, đắc cứu cánh vui, là những gì mà Pháp thân Bồ-tát đắc được. Cho nên giáo dục của Phật-Đà là siêu vượt hơn giáo dục thông thường của thế gian và xuất thế gian, giáo dục thông thường không có ra khỏi lục đạo, không có ra khỏi mười pháp giới. Trong Phật pháp, Tiểu thừa không có ra khỏi mười pháp giới, chỉ có ra khỏi lục đạo luân hồi, Đại thừa ra khỏi mười pháp giới, chứng đắc cứu cánh viên mãn.
Chúng ta xem đoạn văn tiếp theo, 故普願拯濟負荷,皆度彼岸“cố phổ nguyện chẩn tế phụ hạ, giai độ bỉ ngạn”(nên rộng nguyện gánh vác nhiệm vụ cứu vớt, đều độ sang bờ kia), đây chính là chúng sanh vô biên thệ nguyện độ. Mỗi một Pháp thân Bồ-tát: nhất định phát đại nguyện như vậy, tại sao vậy? Bởi vốn dĩ mình và người là một thể, độ chúng sanh chính là thực sự là độ chính mình, chúng ta không biết [điều đó]. Bồ-tát ở chỗ này chứng đắc cứu cánh viên mãn, từ trong Tự Tánh mà lưu xuất ra đại từ đại bi, đại bi là đồng thể đại bi, đại từ là vô duyên đại từ. Vô duyên, chính là giúp đỡ chúng sanh được vui mà vô điều kiện, phải giúp đỡ họ được vui rốt ráo. Giúp như thế nào để đạt cứu cánh lạc? Phải giúp họ vãng sanh tới thế giới có Phật xuất thế, vậy mới gọi là chân thật giúp họ, họ có thể được gặp Phật, họ có thể nghe được pháp, đó chính là chúng sanh được độ. Tiếp theo giải thích chữ chẩn tế, 拯者,救助也。濟者,渡也,成也,益也“chẩn giả, cứu trợ dã. Tế giả, độ dã, thành dã, ích dã”(Chẩn là: cứu giúp. Tế: là độ, là xong, là giúp), có lợi ích chân thật đối với họ. 故拯濟即是救度之義。負者,擔荷也“Cố chẩn tế tức thị cứu độ chi nghĩa. Phụ giả, đam hạ dã”(Nên chẩn tế tức là nghĩa của cứu độ. Phụ: là đam hạ (gánh vác)), chữ đam này [là] chư vị gánh vác, đó là sứ mạng của chư vị.
Tiếp theo dẫn大法炬陀羅尼經“Đại Pháp Cự Đà La Ni Kinh”(Kinh Đại Pháp Cự Đà La Ni), 佛言:菩薩擔者,誓願荷負一切眾生出離世間“Phật ngôn: Bồ-tát đam giả, thệ nguyện hạ phụ nhất thiết chúng sanh xuất ly thế gian”(Phật nói: Bồ-tát gánh vác điều này, thệ nguyện gánh vác tất cả chúng sanh ra khỏi thế gian). Đây là Bồ-tát, sứ mạng của Bồ-tát, bổn phận của Bồ-tát, Bồ-tát phải làm gì? Là làm việc này, giúp đỡ tất cả chúng sanh xuất ly thế gian, thế gian này chính là lục đạo luân hồi. Tiếp theo: 譬如長者家內豐饒,多諸珍寶,唯有一子,以愛念故,財寶樂具悉給與之,無有疲倦 “Thí như Trưởng giả gia nội phong nhiêu, đa gia trân bảo, duy hữu nhất tử, dĩ ái niệm cố, tài bảo lạc cụ tất cấp dữ chi, vô hữu bì quyện”(Thí dụ như trong nhà vị Trưởng giả giàu sang, có rất nhiều các thứ quý báu, nhưng chỉ có một người con trai, bởi ái niệm [con], nên chu cấp cho người con ấy tài sản bảo vật thứ vui, mà không có mệt chán). Phật ở chỗ này dùng ví dụ so sánh để nói, thí như Trưởng giả, trong kinh Đại thừa chúng ta thường nhìn thấy Trưởng giả, Trưởng giả ở trong xã hội này có địa vị, có tài sản, có sự thông minh trí huệ, và cũng cần phải có tuổi tác, tuổi này chính là trường thọ, đa phần chính là từ 40-50 trở lên. Cho nên họ là những người giàu sang, rất nhiều trân bảo, trong gia đình có nhiều tài sản, giàu có cất giữ rất nhiều trân bảo, ông có một người con, con một, yêu thương đối với đứa con đó, vì sự ái niệm đó, nên tài sản thứ vui trong gia đình đó, tất cả vật chất là để cho ông đang hưởng thụ, và hưởng thụ tinh thần, tất cả tài nguyên đều để cho ông, đem cho đứa con của ông, không có chán mệt, mà hoan hỉ. 菩薩亦復如是“Bồ-tát diệc phục như thị”(Bồ-tát cũng là như vậy), Bồ-tát hiểu rõ, tất cả chúng sanh cùng với ngài là đồng [một] thể, tâm đại bi đồng thể chính là tâm yêu thương, sanh ra rồi, sanh ra rồi thì khởi tác dụng gì? Yêu thương che chở tất cả chúng sanh. Đặc biệt là chúng sanh khổ nạn, Bồ-tát có sứ mạng có trách nhiệm, nhất định phải giúp đỡ những chúng sanh đó lìa khổ được vui, gọi là hành Bồ-tát đạo. Đầu tiên giúp họ lìa khổ, sau đó tiếp tục giúp họ được vui, được vui là mục tiêu cuối cùng, 乃至令入無餘涅槃“nãi chí linh nhập Vô dư Niết-Bàn”(Cho đến khiến [chúng sanh] nhập Vô dư Niết-Bàn). Niết-Bàn là tiếng Phạn, dịch là diệt, diệt phiền não, diệt sanh tử, đây chính là Niết-Bàn. Cũng dịch là viên tịch, viên là viên mãn, trí huệ viên mãn, đức năng viên mãn, tướng hảo viên mãn. Đặc biệt là trong Niết-Bàn thêm chữ ‘Vô dư’, Vô dư là Niết-Bàn của cứu cánh viên mãn. Niết-Bàn được chứng đắc bởi A-la-hán, Bích-chi-phật là Hữu dư, Niết-Bàn được chứng đắc bởi Đẳng giác Bồ-tát là Vô dư. Đây gọi là荷負重擔“hạ phụ trọng đam”(việc gánh vác nặng nề), gánh vác này rất nặng, phải giúp đỡ tất cả chúng sanh thành Phật, Vô dư Niết-Bàn là viên thành Phật đạo. Kinh văn được dẫn phía trên, 深顯拯濟負荷之義“thâm hiển chẩn tế phụ hạ chi nghĩa”(hiển bày sâu xa nghĩa của gánh vác nhiệm vụ cứu giúp).
Câu cuối cùng bên dưới, 皆度彼岸,度者,到也。彼岸者,涅槃也“giai độ bỉ ngạn, độ giả, đáo dã. Bỉ ngạn dã, Niết-Bàn dã”(giai độ bỉ ngạn, độ: là đến. Bỉ ngạn: là Niết-Bàn), Niết-Bàn của rốt ráo viên mãn. 《大論》Đại Luận, trong quyển thứ 12 của Đại Trí Độ Luận có nói: 若能直進不退,成辦佛道,名到彼岸。“Nhược năng trực tiến bất thoái, thành biện Phật đạo, danh đáo bỉ ngạn”(Nếu được thẳng tiến không thoái chuyển, thành tựu Phật đạo, thì gọi là đáo bỉ ngạn). Tinh tấn bất thoái vô cùng quan trọng. Ngày nay chúng ta học Phật, mỗi ngày có tiến bộ không? Có. Nhưng mà họ có thoái chuyển, lười biếng buông thả, công phu không tiến lên nổi, Phật hiệu thường thường bị gián đoạn, đây chính là hiện tượng của sự thoái chuyển. Thành biện Phật đạo chính là thành tựu Phật đạo, thành tựu Phật đạo chỉ có tiến chứ không có lui, chỉ có tiến về phía trước, không có thoái chuyển, như vậy mới có thể tới được bờ kia. Ở phía sau Niệm lão vì chúng ta mà tổng kết rằng: 表大士普度“Biểu Đại sĩ phổ độ”(Biểu thị sự rộng độ của Đại sĩ), Đại sĩ này là biểu pháp trong Kinh này đã nói, là 16 vị Chánh sĩ phía trước, là Đẳng giác Bồ-tát tại gia. Nói theo nghĩa rộng, là 41 địa vị Pháp thân Đại sĩ trong Thật Báo Trang Nghiêm độ, đây là nói rộng ra, không một ai mà không giúp đỡ tất cả chúng sanh, xa lìa tất cả khổ, đắc được tất cả vui. Lìa cứu cánh khổ, đắc cứu cánh vui, đây chính là sứ mạng của các ngài, tâm độ chúng sanh của các ngài từ trước tới giờ chưa từng gián đoạn, sự nghiệp độ chúng sanh này: cũng là từ trước tới giờ chưa từng gián đoạn.
Chúng ta xem đoạn cuối cùng này: 己四、德慧齊佛 “Kỷ tứ, Đức huệ tề Phật”(H4. Đức và huệ bằng Phật), đây là vô lượng công đức bởi sự thành tựu tự hành hóa tha của Bồ-tát.
【悉獲諸佛無量功德。智慧聖明。不可思議。】“Tất hoạch chư Phật vô lượng công đức, trí huệ Thánh minh, bất khả tư nghì” (Đều được vô lượng công đức, trí huệ Thánh minh, không thể nghĩ bàn của chư Phật).
Đoạn kinh văn chỉ có 16 chữ, sự chứng đắc của các ngài là sự viên mãn, chúng ta nếu chân thật nỗ lực noi theo, thì chúng ta sẽ được ít phần, nhiều phần, được vô lượng công đức giống với chư Phật hóa độ chúng sanh. 以上二句,表諸大士具足福智二嚴,位齊果位“dĩ thượng nhị cú, biểu chư Đại sĩ cụ túc phước trí nhị nghiêm, vị tề Quả vị”(Hai câu ở trên, biểu thị chư vị Đại sĩ đầy đủ phước trí nhị nghiêm, cấp bậc ngang bằng Quả vị). Đầy đủ phước đức, hai loại trí huệ trang nghiêm, rất tự nhiên bình đẳng với Pháp thân Bồ-tát, cấp bậc ngang bằng Quả vị. 乃從果向因之大菩薩,咸得如來之福德莊嚴“Nãi tùng quả hướng nhân chi đại Bồ-tát, hàm đắc Như Lai chi phước đức trang nghiêm”(Là đại Bồ-tát từ quả hướng nhân, tất cả đều được phước đức trang nghiêm của Như Lai). Đại Bồ-tát từ quả hướng nhân là ai? 16 vị Chánh sĩ vì chúng ta mà biểu pháp, chúng ta giống với các ngài, nương theo tín nguyện trì danh, nhất hướng chuyên niệm, cầu sanh Tịnh Độ, đây là đại Bồ-tát từ quả hướng nhân. Chúng ta cũng giới thiệu Pháp môn này cho người khác, thì trí phước của chúng ta liền bất khả tư nghì, trí huệ phước báu vô lượng vô biên. Nếu tìm một vị Phật Như Lai làm ví dụ, thì đó chính là A Mi Đà Phật, phước báo, trí huệ ấy hầu như tương đồng với A Mi Đà Phật, có thể đắc được ngay trước mắt, không thể không biết điều này, sự việc này là thật, không phải giả. Nhưng chúng ta đích thật là ở trong lục đạo thời gian quá lâu rồi, vô lượng kiếp tới nay luân hồi không ngừng nghỉ, mặc dù có trí huệ, trí huệ là do trong Tự Tánh vốn đầy đủ, làm sao mà không có, nhưng mà mê mất Bản tánh rồi, đem trí huệ biến thành phiền não, đem phước đức biến thành tội báo, chúng ta đang hưởng thụ điều gì? Lục đạo luân hồi. Phước của lục đạo luân hồi từ đâu mà đến?
Từ trên kinh mà xem, người thế nào có phước? Người tín nguyện trì danh nhất hướng chuyên niệm: có trí huệ, có phước báo, trí huệ phước báo của họ đều là bất khả tư nghì. Họ chưa khai ngộ, họ cũng là phàm phu giống với chúng ta, tại sao họ có phước còn ta không có phước, họ có trí huệ còn ta không có trí huệ? Họ đối với Tịnh tông, đối với tín nguyện trì danh không có hoài nghi, đây chính là trí huệ. Họ chân chính tin tưởng có thế giới Cực Lạc, có A Mi Đà Phật, tôi chỉ cần phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ, A Mi Đà Phật quyết định không bỏ rơi tôi, đây chính là phước báu. Tín tâm nguyện tâm kiên cố như vậy, liền đầy đủ Vô thượng Bồ-đề tâm, Vô thượng Bồ-đề tâm là điều kiện đầu tiên để vãng sanh thế giới Tây Phương Cực Lạc, chỉ cần điều kiện đầu tiên này thì họ đã đầy đủ rồi. Nhất hướng chuyên niệm, không có hoài nghi, không có xen tạp, không có thoái chuyển, tin tấn không giải đãi, mỗi một tâm niệm đều tương ưng với thế giới Cực Lạc, tương ưng với A Mi Đà Phật, họ chắc chắn được sanh, một đời viên mãn. Không phải là sự viên mãn bình thường, mà là cứu cánh viên mãn, vĩnh viễn thoát ly lục đạo, thoát ly mười pháp giới. Họ sẽ đi đến đâu? Họ tới thế giới Cực Lạc, Báo độ của A Mi Đà Phật. Thế giới Cực Lạc của A Mi Đà Phật, mặc dù cũng có tứ độ tam bối cửu phẩm, nhưng trên thực tế đó là pháp giới bình đẳng, đây là bất khả tư nghì. Tại sao vậy? Bởi trong nguyện văn đã tuyên thuyết rồi, phàm là vãng sanh tới thế giới Tây Phương Cực Lạc, đều làm A-duy-việt-trí Bồ-tát. A-duy-việt-trí là gì? Đơn giản mà nói, Minh tâm Kiến tánh, viên chứng tam bất thoái: Vị bất thoái, Hạnh bất thoái, Niệm bất thoái, là Pháp thân Bồ-tát. Nói cách khác, cõi Phương Tiện của thế giới Cực Lạc không khác với bậc Pháp thân, cõi Đồng Cư (Phàm Thánh Đồng Cư) của thế giới Cực Lạc: cũng giống với cõi Thật Báo, không có sai biệt, trên danh tự thì có, trên thật tế hoàn toàn là Báo độ trong Tự Tánh của Như Lai. Cho nên hễ vừa vãng sanh, chính là lìa cứu cánh khổ, đắc cứu cánh lạc.
Pháp môn này, chư vị phải biết, đây thật là nan tín chi pháp. Mặc dù khó tin, nhưng dễ hành, chỉ cần chư vị chịu thật làm, thì chư vị đời này liền có thành tựu. Lão Hòa thượng Đế Nhàn thường nói, người Đệ tử thợ vá nồi của ngài, ba năm thành tựu, không khó. Ông thợ vá nồi không biết chữ, không có đi học, sau khi xuất gia, cũng không có ở trong chùa một ngày. Tại sao vậy? Bởi ông ấy không biết những quy củ trong chùa, ông ấy cũng không thể học. Lão Hòa thượng Đế Nhàn mở ra Pháp môn tiện lợi cho ông ấy, chỉ dạy ông ấy một câu Nam Mô A Mi Đà Phật, dạy ông ấy liên tục niệm luôn, niệm mệt rồi thì nghỉ ngơi, nghỉ ngơi xong thì tiếp tục niệm, không kể ngày đêm. Đó là gì? Đó là những gì mà ngài Bồ-tát Đại Thế Chí đã nói là không hoài nghi, không xen tạp, không gián đoạn. Ông thợ vá nồi thật thà, nghe lời, thật làm, ba năm liền thành tựu, biết trước thời gian, đứng vững vãng sanh, còn đứng ba ngày: để đợi lão Hòa thượng làm hậu sự cho ông ấy. Khó tin dễ hành, chỉ cần chư vị tin tưởng, thì không có một ai mà không thành tựu, không có một ai lại không vãng sanh. Ông ấy có thể nhất hướng chuyên niệm, thâm nhập một môn, đó chính là trí huệ, kiên trì tới cùng, đây chính là công phu của định, chúng ta giảng về giới định huệ, tuân thủ giáo huấn của thầy, đó chính là trì giới. Thâm nhập một môn, huân tu thời gian dài là giới, mà huân tu thời gian dài cũng có thể đắc định, giúp chư vị đắc định, nhân giới đắc định, sau khi đắc định, tiếp tục kiên trì thì sẽ khai trí huệ, Đại triệt Đại ngộ, Minh tâm Kiến tánh, họ khai ngộ rồi.
Kiến tánh, người kiến Tánh như thế nào? Không khác gì với người bình thường. Khác nhau ở điều gì? Chư vị có vấn đề về sự nghi nan đến thỉnh giáo họ, họ có thể giải thích rõ ràng, giảng sáng tỏ giúp chư vị. Bất luận tất cả pháp thế gian hay xuất thế gian, họ thảy đều hiểu rõ, chư vị không hỏi, thì họ cũng không biết điều gì, chư vị hỏi họ, họ điều gì cũng biết. Người như vậy chính là người đã khai ngộ, họ trả lời chư vị, là trí huệ chân thật từ trong Tự Tánh hiển lộ ra, khác với người bình thường. Người bình thường ví dụ như chư vị hỏi họ vấn đề gì, họ phải suy nghĩ, tôi làm sao để trả lời chư vị, đó chính là dùng chủng tử trong A-lại-da. Chủng tử của A-lại-da có tính giới hạn, còn có hậu di chứng, nói cách khác, họ cũng không phải là thật sự đáng tin. Người khai ngộ thì thật sự đáng tin tưởng, trí huệ của họ không có tính giới hạn, không có hậu di chứng, nhất định là không có sai lầm. Tri thức sẽ có sự sai sót, trí huệ thì không có sai sót. Phật pháp, đức Thế Tôn, chư Bồ-tát giảng dạy cho chúng ta, thành tựu chúng ta, là trí huệ, không phải tri thức, nhất định phải hiểu điều này. Trí huệ là trong Tự Tánh chính mình lưu xuất ra, tri thức đến từ sự học bên ngoài, trí huệ bao gồm tri thức, tri thức không thể bao gồm trí huệ. Nói cách khác, người có trí huệ thì họ cũng có tri thức, họ vừa nhìn vừa nghe liền hiểu hết, người có tri thức thì họ không có trí huệ.
『智慧聖明不可思議』“Trí huệ Thánh minh bất khả tư nghì”, đây chính là tán thán sự thành tựu của tu Tịnh Độ vãng sanh thế giới Cực Lạc. Thành tựu điều gì? Đức năng trí huệ bình đẳng với Phật, tề là bình đẳng. Trong khoa đề này của chúng ta có nói德慧齊佛“đức huệ tề Phật”, bình đẳng với Phật. Địa vị ngang bằng với Quả vị, Quả vị này chính là Phật vị, bình đẳng với Phật, đó là đại Bồ-tát từ quả hướng nhân, đều đắc được công đức trang nghiêm của Như Lai. 智慧聖明不可思議“Trí huệ Thánh minh bất khả tư nghì”(Trí huệ Thánh minh không thể nghĩ bàn), câu cuối cùng, 明大士咸得如來之智慧莊嚴“minh Đại sĩ hàm đắc Như Lai chi trí huệ trang nghiêm”(làm sáng tỏ trí huệ trang nghiêm của Như Lai mà [các] Đại sĩ đều đắc được), Tịnh Ảnh Sớ cùng với Chân Giải, Hợp Tán, những vị Đại sư ấy đều có cách nói, cách giải thích giống nhau đối với câu này. 「聖者,正也。又肇公曰」“Thánh giả, chánh dã. Hựu Triệu Công viết”(Thánh: là chánh. Thêm nữa ngài Triệu công nói), [là] Đại sư Tăng Triệu, trí huệ là thể, Thánh minh là dụng. Thánh là chánh, chánh tri chánh kiến, kiến giải tư tưởng hoàn toàn tương đồng với Phật. 無事不照謂之聖。菩薩權實靈照,不可以言思擬議其形容,故云不可思議“Vô sự bất chiếu vị chi Thánh. Bồ-tát quyền thật linh chiếu, bất khả dĩ ngôn tư nghĩ nghị kỳ hình dung, cố vân bất khả tư nghì”(Chẳng gì không hiểu rõ gọi là Thánh. Bồ-tát hiểu rõ quyền thật, không thể dùng lời nói suy nghĩ ước lược luận bàn hình dung về điều ấy, nên nói là bất khả tư nghì). Chúng ta không dùng cách tưởng tượng nào để hình dung được bốn chữ này, bất khả tư nghì chính là không thể tưởng tượng, đó quá thần kỳ, quá vi diệu, không phải là điều mà lục đạo phàm phu chúng ta có thể thể hội tới được. Chúng ta vì sao không thể thể hội tới? Bởi chúng ta có chướng ngại. Chướng ngại gì? Phật không khởi tâm không động niệm, còn chúng ta có khởi tâm động niệm. Khởi tâm động niệm thì tâm liền không thanh tịnh, khởi tâm động niệm tâm liền không bình đẳng, tâm tánh có đức tính sáng tỏ rạng rỡ, nhưng đã mất đi đức đó rồi. Phải làm sao để khôi phục? Phải tu định, phải làm cho tâm thanh tịnh xuất hiện. Trong tâm thanh tịnh không có phân biệt, không có chấp trước, thậm chí là không có khởi tâm động niệm, thật sự thanh tịnh, thật sự bình đẳng, vậy liền khởi tác dụng sáng tỏ. 照見五蘊皆空“Chiếu kiến Ngũ uẩn giai không”, câu này là trong Tâm Kinh nói. Ý nghĩa là gì? Ngũ uẩn giai không đồng với nói phàm tất cả tướng đều là hư vọng, tất cả pháp Hữu vi như mộng huyễn bào ảnh, đây là thật không phải giả, tất cả pháp bất khả đắc.
Phía trên chính là những gì mà Đại sư Tăng Triệu nói, 肇公之意“Tăng công chi ý”, ý của ngài là gì? 智慧是本體,聖明是妙用“Trí huệ thị Bản thể, Thánh minh thị diệu dụng”(Trí huệ là Bản thể, Thánh minh là diệu dụng). Minh này chính là hiểu rõ, không phải sự hiểu rõ bình thường, mà là sự hiểu rõ chính xác, không có một chút nào sai biệt. Người thế gian chúng ta nói là rõ ràng sáng suốt, tôi hiểu rồi, không thể gọi là Thánh, tại sao vậy? Bởi trong sự rõ ràng sáng suốt vẫn còn có thứ tạp nham không rõ ràng, không giống như Bồ-tát. Tại sao lại có sự khác biệt lớn đến vậy? Bởi trí huệ của Bồ-tát, sự rõ ràng sáng suốt của Bồ-tát, từ trong Tự Tánh lưu xuất ra Chân tâm, Bản tánh. Sự hiểu biết của chúng ta đến từ suy nghĩ và trí nhớ, là Chủng tử của A-lại-da, là sự phát khởi từ trong đó, sự hiểu biết này không phải là chân thật, sự hiểu biết này là giả, là hư vọng. Trong sự hiểu biết này của chúng ta, có rất nhiều sự sai sót ở trong đó, tự mình không biết, mang vào trong cuộc sống, thực thi trong công việc, khiến xuất hiện vấn đề, điều đó cho thấy: chúng ta có tri thức chứ không phải là trí huệ. Trong tri thức tìm thấy sự khác biệt, trong trí huệ thì không tìm thấy điều đó, trí huệ cùng với tri thức là hai việc khác nhau. Cho nên học Phật, bất luận Đại thừa hay Tiểu thừa đều yêu cầu khai ngộ, muốn khai ngộ thì không thể không yêu cầu giới định huệ. Giới là phương pháp để đắc định, trì giới có thể đắc định. Định là gì? Chính là “thanh tịnh bình đẳng” mà trong Kinh Vô Lượng Thọ đã nói. Tâm thanh tịnh là định của Nhị thừa, là A-la-hán với Bích-chi-phật; bình đẳng chính là định của Bồ-tát Đại thừa, cao hơn nhiều so với Nhị thừa. Sự thanh tịnh mà Tiểu thừa đắc là không bình đẳng, vẫn còn sóng lớn sóng nhỏ: chướng ngại chư vị Minh tâm Kiến tánh. Thật tướng các pháp nằm ngay trước mặt, bởi vì chư vị có chướng ngại, cho nên chư vị không nhìn thấy. Chứng đắc quả vị Sơ trụ trong Viên giáo, các ngài phá một phẩm Vô minh, chứng một phần Pháp thân, các ngài nhìn thấy một phần Chân tướng, cho nên các ngài không mê, các ngài có thể khởi diệu dụng. Diệu dụng đối với chính mình là đoạn phiền não, đối với người khác: có thể giúp đỡ chúng sanh thành tựu giới định huệ, cho nên đó là diệu dụng.
一切事皆能照了通達,名之為聖“Nhất thiết sự giai năng chiếu liễu thông đạt, danh chi vi thánh”(Đối với tất cả sự đều có thể chiếu liễu thông đạt, gọi đó là Thánh). Chư vị xem dùng chữ ‘chiếu’, không phải dùng tư duy, không phải dùng sự tưởng tượng. Phàm phu lục đạo gặp việc, thì đợi tôi suy nghĩ đã, suy nghĩ đó là dùng Thức thứ sáu, dùng A-lại-da, để suy nghĩ đã. Bồ-tát có cần suy nghĩ không? Bồ-tát không cần suy nghĩ, Bồ-tát chiếu kiến rồi. Chữ chiếu ở đây không có A-lại-da, không có tám thức, không có 51 món tâm sở, hoàn toàn thoát ly khỏi tất cả rồi, người hiện nay chúng ta gọi là trực giác, trực giác chính là ý nghĩa của sự chiếu liễu. Chiếu liễu liền thông đạt, hoàn toàn hiểu rõ chân tướng sự thật, đó là Thánh nhân, Thánh nhân Đại thừa, không phải Tiểu thừa.
Tiếp theo nói: 菩薩之權智與實智(實智是體,權智是用),所生之靈明照用,眾生凡情絕不能解,故曰不可思“Bồ-tát chi Quyền trí dữ Thật trí (Thật trí thị thể, Quyền trí thị dụng), sở sanh chi linh minh chiếu dụng, chúng sanh phàm tình tuyệt bất khả giải, cố viết bất khả tư”(Quyền trí và Thật trí của Bồ-tát (Thật trí là thể, Quyền trí là dụng), sanh ra dụng sáng tỏ kỳ diệu, chúng sanh phàm tình hoàn toàn không thể hiểu, nên nói là bất khả tư). Vì sao chúng sanh không thể giải? Là do chúng sanh có phàm tình. Phàm tình là gì? Là A-lại-da, Mạt-na, Ý thức, phàm phu xem đó làm thành Chân tâm của chính mình, nhìn vậy là sai rồi. Đã nhìn sai mà còn không thể quay đầu, còn tự cho mình là đúng, vấn đề này rất là nghiêm trọng. Cho nên sự tu học trong Phật pháp là khó! Trong thời Mạt pháp, chúng ta muốn thành tựu, thật chỉ có một môn là Pháp môn Tịnh Độ, tín nguyện trì danh, cầu sanh Tịnh Độ, thật sự vãng sanh tới thế giới Cực Lạc, vấn đề này đều được giải quyết rồi. Không đi qua con đường này, dùng Pháp môn khác, 84 ngàn Pháp môn, vô lượng Pháp môn, đức Phật ở trong kinh giáo đã nói với chúng ta, từ lý mà nói thì không có vấn đề gì, Pháp môn bình đẳng, không có cao thấp, nhưng từ sự mà nói vấn đề thì lớn rồi. Tại sao vậy? Bởi từ sự mà nói thì căn tánh của chúng sanh không tương đồng, Bản tánh không tương đồng. Những điều này từ đâu mà ra? Do vô lượng kiếp huân tập mà thành. Người Trung Hoa nói đến Bản tánh, Tập tánh, đây là Tập tánh, Tập tánh là từ trong thói quen mà dưỡng thành, trong Bản tánh không có. Chư vị tích lũy càng nhiều Tập tánh, không liên quan đến Bản tánh, Tập tánh mang sự ô nhiễm, Bản tánh không có, Bản tánh như như bất động. Tập tánh là pháp sanh diệt, niệm trước diệt niệm sau sanh, cho nên rất là phiền phức, nhất định phải xuất hiện trí huệ chân chánh.
Chúng ta dùng phương pháp gì, hy vọng rằng trí huệ xuất hiện rất mau. Dựa vào điều gì để trí huệ xuất hiện rất mau? Dùng giáo dục của đức Phật là thích hợp nhất, có thể giúp chúng ta. Nhưng mà học giáo dục của đức Phật, thì thầy là rất quan trọng. Trong thời đại chúng ta đây không còn thầy nữa, tôi có thể là thời cuối cùng gặp được người thầy như vậy, tính ra là rất may mắn. Về thầy, chúng ta bước vào cửa lớn của thầy, nhập môn có ba điều kiện, chúng ta thử xem chúng ta có không? Nếu chư vị có, có điều kiện này, thì không gặp được thầy cũng có thể thành tựu. Làm sao thành tựu? Y theo người xưa làm thầy, làm Đệ tử tư thục của người xưa. Những năm đầu của Trung Hoa, Mạnh Phu tử làm tấm gương cho chúng ta, Mạnh tử nương Khổng tử làm thầy. Nhưng Khổng tử đã tạ thế rồi, không còn sống nữa, vậy thì làm sao nương ngài làm thầy? Tác phẩm của Khổng tử vẫn còn tại thế gian, ngài đều có được, hoàn toàn y theo giáo huấn của văn tự, có niềm tin đối với những văn tự mà Khổng tử để lại, không có hoài nghi, học tập rất nghiêm túc, không có xen tạp, không có vọng niệm, cũng chính là ngài chuyên tâm, thật là có tài năng, thiên tánh, chân thật, nghe lời, thật làm, đây là thiên tánh, thái độ học tập tốt, chân thành thanh tịnh, tâm thanh tịnh, cung kính đọc sách của ngài thì có lợi ích, có thể đắc được lợi ích. Chúng ta ngày nay bản tánh không tốt, bản tánh là gì? Không chân thật, không nghe lời, bằng mặt không bằng lòng đối với giáo giới của thầy, không chịu thật làm, cũng chính là nói đối với cổ Thánh tiên Hiền có hoài nghi.
Sự nghi ngờ này là bình thường, cũng tức là chúng ta sinh ra ở thời đại này, ai cũng vứt bỏ những gì của các bậc Hiền nhân Hiền triết thời xưa. Trong 100 năm qua, cũng có rất nhiều chuyên gia học giả, họ tự học, không cho người khác học, chúng ta nương họ làm thầy, họ ngăn cản chúng ta tiếp xúc với người xưa. Học những thứ nước ngoài rất thời thượng đó, chúng ta xem rồi cũng rất vui cũng rất ngưỡng mộ, không biết những thứ đó là nhìn như đúng mà là sai. Hiện nay biết rõ, [đó là] thiệt thòi quá lớn. Nghĩ lại xem xét những thứ đó của họ, giảng toà trong và ngoài nước cũng không ít, đến tham gia nghe thử một khoá, nghe xong thì thế nào? Bán tín bán nghi, nghi ngờ. Những thứ tốt như vậy, tại sao lại có nhiều người nghi ngờ, muốn từ bỏ, có thực sự tốt hay không? Tại sao không ai tán thán, không ai ca tụng? Đây là nhân tố khiến chúng ta khởi tâm hoài nghi về những điều đó. Tôi có niềm tin vào đó, niềm tin của tôi đến từ đâu? Từ những khó khăn của cuộc sống này. Chịu nhiều khổ nạn rồi, tôi liền sẽ phản tỉnh, sẽ suy xét, nguồn gốc của khổ nạn là gì? Nước ngoài tốt, tôi cũng đi ra nước ngoài để xem, đã xem không ít đất nước, xem không ít người sự vật, quan sát kỹ lưỡng, nghiêm túc tư duy, tuy tốt, nhưng trong đó có vấn đề; Tuy tốt, nhưng không phải là thiện hết. Nay hiện tượng mặt trái của văn hóa ngoại quốc đã lộ ra, chứng tỏ quan sát của chúng ta không sai. Đất nước chúng ta [đối với] những đồ trong những thứ bỏ đi đó, những thứ của cổ Thánh tiên Hiền bị bỏ đi không cần đến, chúng ta nhặt lên xem lại, cảm thấy trong đó vẫn còn rất nhiều thứ có thể lấy, tuy những thứ của nước ngoài là tốt, nhưng sẽ sinh ra những tác dụng tiêu cực. Nếu chư vị không có tâm nhẫn nại, vẫn còn được có duyên phận này, thì chư vị có thể thấy, thấy được còn tương đối sâu sắc, chư vị mới làm rõ ràng, làm sáng tỏ chân tướng sự thật.
Sau khi thực sự hiểu rõ, thì chúng ta sẽ có sự lựa chọn, vì một người (đó là vì chính mình), chúng ta ở hai thế giới: Ta Bà và Cực Lạc, làm rõ ràng, làm sáng tỏ rồi, thì tôi sẽ chọn thế giới Cực Lạc, chọn A Mi Đà Phật, tự nhiên tôi sẽ xả bỏ Tà Bà, cầu sanh Tịnh Độ. Ở thế gian này, tôi tin tưởng quan điểm của ông Toynbee, rất nhiều cách nhìn của ông giống như tôi tưởng tượng, tôi đã nghĩ đến rồi, đọc sách của ông, ông đã chứng minh thay tôi rồi. Đó là gì? Những gì mà các bậc Hiền triết cổ nhân có thể để lại, là không đơn giản! Phương pháp này là thầy Phương và thầy Lý đã dạy cho tôi, các ngài dạy tôi hãy suy nghĩ một chút. Nếu những gì của cổ nhân là cặn bã, nếu không thích hợp dùng với hiện nay, thì làm sao có thể truyền tới 5000 năm? Đáng lẽ đã bị người ta bỏ đi từ lâu rồi. Trong 5000 năm này chẳng lẽ không có cao nhân sao? Từ đời này qua đời khác đều có những bậc Thánh hiền Quân tử, họ chịu được với thử thách của lịch sử, nên đó không phải là những thứ đơn giản. Chúng ta không thấy ra lợi ích của những thứ đó, bởi vì chúng ta không có trí huệ, không có đức hạnh, không có thanh tịnh bình đẳng giác. Trí huệ đức hạnh thật sự của các bậc Hiền triết thời xưa, những lý niệm kinh nghiệm của họ, rất đáng để chúng ta tham khảo, và có giá trị rất cao, làm sao chúng ta có thể khinh thường được? Vì vậy, chúng ta phải học tập nghiêm túc, phải coi trọng truyền thống. Chúng ta không tin cậy được: những thứ có thể lưu lại trong 100 năm hoặc 200 năm. Những điều này được truyền lại bởi cổ Thánh tiên Hiền, đặc biệt là trong bộ Tứ Khố, chúng ta tin rằng có thể được truyền lại nghìn năm vạn đời, đó là kho báu thực sự. Bảo vật do tổ tiên để lại, mọi người đều có phần, từ trong Tánh đức của chính mình, nếu chư vị kiến Tánh, thì hoàn toàn đồng ý; chưa Kiến tánh thì không được tùy tiện phê bình, tùy tiện phê bình là tạo khẩu nghiệp, quả báo trong tương lai rất đáng sợ.
Chúng ta xem qua mặt tiếp theo, ý của ngài Triệu công là: Trí huệ là Bản thể, Thánh minh là diệu dụng. Tất cả sự đều có thể chiếu liễu thông đạt, đó gọi là Thánh. Quyền trí và Thật trí của Bồ-tát, sanh ra dụng sáng tỏ minh chiếu, chúng sanh phàm tình hoàn toàn không thể lý giải, chữ này được dùng để khẳng định thật sự, tuyệt đối không thể lý giải, nên nói là bất khả tư. 一切語言不能表達,故曰不可議“Nhất thiết ngữ ngôn bất năng biểu đạt, cố viết bất khả nghì”(Tất cả ngôn ngữ không thể biểu đạt, nên nói là bất khả nghì). Chữ ‘nghì’ ở đây là gì? Nghì là nghị luận, cũng chính là giảng cho rõ ràng, giảng cho sáng tỏ. Chân lý là gì? Chân lý là không cách gì để giảng, nhất định phải tự chư vị ngộ nhập. Làm sao mới có thể ngộ nhập? Buông xuống Vọng tưởng Phân biệt Chấp trước, làm cho sự thanh tịnh bình đẳng giác của chư vị xuất hiện. Thanh tịnh bình đẳng giác là Chân tâm, Chân tâm có thể chiếu kiến, chư vị liền khai ngộ, chư vị liền sáng tỏ. Sau khi sáng tỏ, chư vị cũng không được nói ra, chư vị nói ra thì người khác cũng nghe không hiểu. Cho nên非語言分別之所能知,故其形其容無法擬議“phi ngữ ngôn phân biệt chi sở năng tri, cố kỳ hình kỳ dung vô pháp nghĩ nghị”(chẳng phải ngôn ngữ phân biệt mà có thể biết được, vì thế không cách nào ước lượng thảo luận về hình ấy dung ấy), hình là hình dáng, dung là hình dạng, không nói ra được.
又不可思議有二種“Hựu bất khả tư nghì hữu nhị chủng”(Thêm nữa bất khả tư nghì có hai loại), quy nạp thành hai loại lớn, 一者理空,非惑情所測“nhất giả Lý không, phi hoặc tình sở trắc”(một là Lý không, chẳng phải hoặc tình có thể đo lường được), hoặc là mê hoặc, chính là A-lại-da, không phải tình thức có thể đo lường được.
二者神奇“Nhị giả Thần kỳ”(Hai là Thần kỳ), biến đổi không thể lường, 非淺識所量“phi thiển thức sở lượng”(chẳng phải là thức nông cạn có thể đo được), lượng chính là đo lường, cũng là ý nghĩa của hiểu rõ. Người có trí huệ nông cạn chỉ nhìn thấy hiện tượng thần kỳ, mà không biết nguyên nhân của điều thần kỳ. Nói rất hay! 又《智度論》曰:小乘法中無不可思議事“Hựu Trí Độ Luận viết: Tiểu thừa pháp trung vô bất khả tư nghì sự” (Thêm nữa trong Trí Độ Luận nói: trong pháp Tiểu thừa không có việc không thể nghĩ bàn). Trong Kinh A Hàm, Phật đã thuyết về những pháp có thể nghiên cứu, có thể thảo luận. Tại sao? Bởi có nhiều lần chú trọng vào sự tướng, rất nhiều đạo lý thâm sâu mà Phật không nói, nói rồi cũng không ai hiểu. Trong pháp Đại thừa thì có hết, 如六十小劫說《法華經》謂如食頃“như lục thập Tiểu kiếp thuyết Pháp Hoa Kinh vị như thực khoảnh”(như 60 Tiểu kiếp thuyết Kinh Pháp Hoa [mà] như thực khoảnh). Thực khoảnh là thời gian rất ngắn, giống như là thời gian của một bữa ăn. Chúng ta cảm giác rằng thời gian của một bữa ăn, đức Thích Ca Mâu Ni Phật thuyết viên mãn Kinh Pháp Hoa rồi, thực tế là thời gian trong bao lâu? Sáu mươi Tiểu kiếp. Thời gian của một Tiểu kiếp, được nói trong kinh Phật cũng sai khác rất lớn, đều là do đức Phật thuyết. Tại sao vậy? Bởi không thể nói cho rõ ràng những điều này được, chỉ cần để cho mọi người có một khái niệm được rồi, những điều này đều không phải pháp thật, đều là giả, thời gian, không gian đều không phải là thực tại. Một Tiểu kiếp, tăng giảm kiếp là do Phật thường nói. Phật nói thọ mạng của loài người, thấp nhất là 10 tuổi, tức là tuổi thọ trung bình là 10 tuổi, từ 10 tuổi, mỗi 100 năm tăng thêm một tuổi, tăng đến 84.000 tuổi, tuổi thọ cao nhất của loài người là 84.000 tuổi; lại từ 84.000 tuổi, mỗi 100 năm thì giảm một tuổi, giảm đến 10 tuổi, một tăng một giảm như vậy, gọi là một Tiểu kiếp. Sáu mươi Tiểu kiếp, lâu như vậy! 20 Tiểu kiếp là 1 Trung kiếp, 4 Trung kiếp là 1 Đại kiếp, 60 Tiểu kiếp nhiều hơn Trung kiếp nhưng ít hơn Đại kiếp, trong một Đại kiếp lớn có 80 Tiểu kiếp. 60 Tiểu kiếp thuyết Kinh Pháp Hoa, đây là việc bất khả tư nghì. Trong Đại thừa có, trong Tiểu thừa trước giờ Phật không nói, nếu nói thì làm mọi người sanh khởi nghi ngờ, đức Phật mà giảng rõ ràng rồi, thì chúng sanh thế nào? Mê hoặc điên đảo, nghe không hiểu được. Cho nên thuyết pháp phải khế cơ phải khế lý, không dễ dàng! Phải nghiêm túc học tập. Chú trọng hai chữ ‘nghiêm túc’ này. Đại sư Chương Gia dạy tôi phải nhìn thấu buông xuống, đó là bí quyết của việc học Phật pháp. Nhìn thấu là hiểu rõ, làm rõ ràng, làm sáng tỏ, sau khi sáng tỏ, điều quan trọng nhất là buông xuống. Hiểu rằng tất cả pháp đều là không, Tiểu thừa có nói đến, nhưng có ai buông xuống vạn pháp chưa? Chưa có. Buông xuống Kiến tư Phiền não thì chứng quả A-la-hán, buông xuống Tập khí Kiến tư thì chứng quả Bích-chi-phật, không còn Kiến tư Phiền não nữa, các ngài vẫn còn Trần sa Phiền não, vẫn còn Vô minh Phiền não. Nhưng nếu buông xuống Kiến tư Phiền não, thì không còn lục đạo luân hồi nữa, siêu vượt luân hồi, trong Phật pháp xưng là Thánh nhân.
Chúng ta tiếp tục xem đoạn cuối總結“tổng kết” này.
【如是等諸大菩薩。無量無邊。一時來集。】“Như thị đẳng chư đại Bồ-tát: Vô lượng vô biên, nhất thời lai tập”(Vô lượng vô biên chư đại Bồ-tát như vậy: cùng lúc đến tập họp).
Có thể thấy được trong pháp hội mà đức Thế Tôn giảng Kinh Vô Lượng Thọ này: thù thắng trang nghiêm không gì sánh bằng. Có bao nhiêu vị đại Bồ-tát như đã nói ở trên? Những tên nêu trên chỉ là đại diện, Bồ-tát xuất gia thì nói ba vị, Bồ-tát tại gia thì nói 16 vị. Trong năm bản dịch gốc cũng khác nhau. Đoạn kinh văn này cũng là do ngài Hạ Liên Cư hội tập, tổng kết ở đây những vị Bồ-tát như thế là vô lượng vô biên, rất nhiều, không thể kể hết, cùng lúc đến tập họp.
Chúng ta xem Chú Giải, câu này總結以上德遵普賢之諸大菩薩“tổng kết dĩ thượng đức tuân Phổ Hiền chi chư đại Bồ-tát”(tổng kết chư đại Bồ-tát của Đức tuân Phổ Hiền ở trên), bốn chữ Đức Tuân Phổ Hiền này rất quan trọng, nói rõ rằng đây không phải Bồ-tát bình thường, những vị đại Bồ-tát Đức Tuân Phổ Hiền này, của trong hội Hoa Nghiêm. 為聽聞讚揚淨宗妙法故“vị thính văn xưng tán Tịnh Độ diệu pháp cố”(Là bởi thính văn khen ngợi diệu pháp Tịnh tông), các ngài đến đó tụ họp, tại sao lại đến tham dự pháp hội này? Vì làm ảnh hưởng cho chúng sanh. Pháp môn này quá đặc biệt, chư vị thử xem tất cả kinh, chư vị đọc đi đọc lại, có trong kinh nào nói, những chư đại Bồ-tát như Đức Tuân Phổ Hiền này đến tham gia pháp hội không? Chúng ta tra cứu kinh, bao nhiêu bộ kinh có điều này? Vì đây đều thuộc về biểu pháp, các ngài tán dương, tán thành tuyên dương diệu pháp của Tịnh tông, nên được Đức Phật giảng kinh này thì đều đã đến, các ngài thực là người trong nghề, thực sự hiểu được. Phương pháp này vi diệu, diệu ở đâu? Tất cả phàm Thánh đều được đắc độ. Đại sư Từ Vân Quán Đảnh thời tiền Thanh nói, tất cả kinh luận Pháp môn nghi thức sám hối, thảy đều mất hiệu quả, tội nghiệp của chư vị quá nặng, không cách nào cứu chư vị, cuối cùng vẫn còn một môn, tín nguyện trì sanh, cầu sanh Tịnh Độ. Tạo tội nghiệp cực trọng, Ngũ nghịch Thập ác, chư vị gặp được Pháp môn này, tất cả đều được độ. Cho nên, những vị đại Bồ-tát này đến làm chứng minh cho chúng ta, nói với chúng ta sự thù thắng của Pháp môn này, chân thật là thù thắng không gì sánh bằng. 為廣宏普賢願王故“Vị quảng hoằng Phổ Hiền Nguyện vương cố”(là vì rộng làm rạng rỡ Nguyện vương của ngài Phổ Hiền), Thập đại Nguyện vương của Bồ-tát Phổ Hiền dẫn về Cực Lạc, mới viên mãn Kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm. Nếu không có Tịnh tông, thì Kinh Hoa Nghiêm không viên mãn, thế giới Hoa Tạng rất tốt, nhưng ai có thể tới đó được? Chỉ có từ Thế giới Cực Lạc tiếp tục vào thế giới Hoa Tạng là dễ như trở bàn tay, đây là con đường ngắn nhất, chúng ta phải biết. Chư vị muốn thân cận Tỳ Lô Giá Na Như Lai, gặp được A Mi Đà Phật, thì liền gặp được Tỳ Lô Giá Na. Tại sao vậy? Bởi mười phương ba đời Phật cùng chung một Pháp thân, Tỳ Lô Giá Na [là] Pháp thân Phật, cho nên chư vị gặp được Pháp thân của A Mi Đà Phật, đó chính là Tỳ Lô Giá Na. Đây là nguyên nhân thứ hai. Điều thứ ba, 為普度十方三世一切有情,往生淨土究竟涅槃故“Vị phổ độ thập phương tam thế nhất thiết hữu tình, vãng sanh Tịnh Độ cứu cánh Niết-Bàn cố”(là vì rộng độ tất cả hữu tình trong mười phương ba đời, vãng sanh Tịnh Độ [đạt] Niết-Bàn rốt ráo), đây là lý do thứ ba. Chúng ta phát nguyện, thật là phổ độ tất cả hữu tình chúng sanh trong mười phương ba đời, chỉ cần y theo Kinh Vô Lượng Thọ, y theo Pháp môn tín nguyện trì danh cầu sanh Tịnh Độ này, thì có thể thoả mãn đại nguyện này. Đại nguyện này là nguyện thứ nhất trong tứ hoằng thệ nguyện, “chúng sanh vô biện thệ nguyện độ”, không có tín nguyện vãng sanh, nguyện này sẽ thất bại, chư vị dựa vào đâu mà độ? Gặp được Tịnh tông, thì vấn đề được giải quyết, chân chính được đắc độ. Vì vậy, chúng ta biết những Pháp thân Bồ-tát này, tất cả chư Phật Như Lai thị hiện trong mười pháp giới, không có một vị nào là không giảng Tịnh Độ tam kinh nhất luận, kinh khác không nhất thiết phải giảng, vì xem căn tánh của chúng sanh, hoàn toàn là ứng cơ thuyết pháp. Nhưng Pháp môn Tịnh tông thống nhiếp tất cả căn cơ, cho nên đây là bộ Kinh mà tất cả chư Phật Như Lai nhất định phải tuyên thuyết.
Kinh Hoa Nghiêm là do đức Thế Tôn giảng ở trong định, vì chúng ta mà thị hiện nhập định, trong định Đại triệt Đại ngộ, Minh tâm Kiến tánh. Kiến tánh, tánh hình dạng như thế nào? Ngài đã đem Thể-Tướng-Đức-Dụng của Tự Tánh, nói ra cho chúng ta tận tường chi tiết hoàn toàn không có giữ lại. Đã nói ra rồi, bộ kinh đó lớn đến mức nào? Bồ-tát Long Thọ thấy được ở trong long cung của Bồ-tát Đại Long, Bồ-tát Đại Long là Đẳng giác Bồ-tát, ngài Long Thọ là Sơ địa Bồ-tát, nói cho chúng ta biết, những gì mà Thế Tôn đã thuyết trong Kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm, tất cả có三千大千世界微塵偈“Tam thiên Đại thiên thế giới Vi trần kệ”, Tam thiên Đại thiên thế giới vi trần số bài kệ, 一四天下微塵品 “nhất tứ Thiên hạ vi trần phẩm”. Thuyết trong thời gian bao lâu? nhị thất, cũng nói là tam thất, tam thất là 21 ngày, thuyết trong định. Chính là những gì mà phía trước chúng ta đã xem đến, đức Phật thuyết Kinh Pháp Hoa trong 60 Tiểu kiếp, là như thời gian của một bữa ăn. Đức Thích Ca Mâu Ni Phật giảng Hoa Nghiêm, Tam thiên Đại thiên thế giới vi trần kệ, nhất tứ Thiên hạ vi trần phẩm, giảng xong trong 14 ngày, giảng rất chi tiết, tánh tướng, lý sự, nhân quả của toàn vũ trụ đều giảng rõ ràng tất cả. Truyền tới nhân gian của chúng ta: là mục lục trọng yếu của Kinh Hoa Nghiêm, còn toàn kinh, thì Bồ-tát Long Thọ nói, chúng sanh Diêm Phù Đề không có người có thể thọ trì, phân lượng đó quá lớn. Xem Trung bản cũng không được, cuối cùng là xem Tiểu bản, Tiểu bản là mục lục đề cương quan trọng. Giống như chúng ta hiện nay xem Tứ Khố Toàn Thư, Đại bản là toàn bộ sách, 1500 quyển, Trung bản là bộ Hội Yếu, 500 quyển, Tiểu bản là mục lục đề cương trọng tâm, gồm 5 quyển. Cho nên truyền tới thế gian chúng ta, Đại Phương quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh là mục lục đề cương trọng tâm mà đức Thế Tôn đã thuyết, tổng cộng có 100 ngàn kệ, 40 phẩm.
Kinh ấy từ rất sớm đã được truyền tới Trung Hoa, nhưng không phải là bản hoàn chỉnh, có thiếu khuyết. Truyền tới sớm nhất là từ thời triều Tấn, Lục Thập Hoa Nghiêm, phiên dịch thành chữ Hán gồm 60 quyển, 35 ngàn bài kệ tụng. Chư vị xem, 100 ngàn bài kệ chỉ có 35 ngàn bài kệ, được một phần ba. Thời nhà Đường lúc ấy Võ Tắc Thiên chấp chính, Võ Tắc Thiên đổi quốc hiệu thành Chu, bộ kinh ấy được truyền đến lần thứ hai, do ngài Thật Xoa Nan Đà phiên dịch, gồm 80 quyển, xưng là Bát Thập Hoa Nghiêm, hơn kinh thời nhà Tấn 9.000 kệ tụng, vẫn là chưa tới một nữa, mới 45.000 kệ tụng. Trong niên hiệu Trinh Nguyên, vua nước Ô Trà tiến cống đến Trung Hoa, trong đó là một bộ Phổ Hiền Hạnh Nguyện Phẩm hoàn chỉnh, chính là phẩm cuối cùng, dịch sang chữ Hán thành 40 quyển. Cho nên hiện này đọc Hoa Nghiêm, thì Đại sư Hoằng Nhất dạy chúng ta, dùng Hoa Nghiêm 80 quyển, đọc tới quyển 59, phía sau thì không cần đọc nữa, phía sau là tiếp tục của Tứ Thập Hoa Nghiêm, tổng cộng 99 quyển. Là bản Hoa Nghiêm chữ Hán được bảo tồn hoàn chỉnh nhất, ba lần phiên dịch. Kinh Hoa Nghiêm rốt ráo là giảng điều gì? Đại sư Lục tổ Huệ Năng cũng khai ngộ rồi, ngài đem trạng thái khai ngộ, Minh tâm Kiến tánh, Tánh là gì? Ngài dùng năm câu nói để nói ra rồi. Câu thứ nhất, “nào ngờ Tự Tánh, vốn tự thanh tịnh”; câu thứ hai, “vốn không sanh diệt”, không sanh không diệt; câu thứ ba, “vốn tự đầy đủ”; câu thứ tư, “vốn không dao động”; câu thứ năm, “có thể sanh ra vạn pháp”. Chúng ta liền hiểu rõ, lúc đức Thế Tôn khai ngộ, thì cũng nói năm câu này, năm câu này là lược nói, Kinh Hoa Nghiêm là giảng chi tiết, năm câu này triển khai ra chính là Đại Phương quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh, cô đặc Đại Phương quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh lại, chính là năm câu này, không tăng không giảm, bất khả tư nghì. Hoa Nghiêm đã nói, 一即是多,多即是一“nhất tức thị đa, đa tức thị nhất (một tức là nhiều, nhiều tức là một). Nhất là gì? Tự Tánh. Đa là gì? Vạn pháp. Tự Tánh năng sanh vạn pháp, vạn pháp không xa lìa Tự Tánh, cho nên một chính là nhiều, nhiều chính là một. Khái niệm này vô cùng quan trọng, chúng ta không thể không biết. Những đại Bồ-tát này同德同心,一時來會“đồng đức đồng tâm, nhất thời lai hội”(cùng đức cùng tâm, cùng thời đến Pháp hội). Tịnh Ảnh Sớ nói rất hay, 為法心同,故來一時“vi pháp đồng tâm, cố lai nhất thời” (là pháp cùng tâm, nên đến cùng lúc). Lúc đó mọi người đều đến rồi, cảm ứng đạo giao, chúng sanh có cảm, chư Phật Bồ-tát đều có ứng, đều đến đạo tràng rồi. Đoạn này chúng ta học tập tới đây.
(Hết tập 119)
Nguyện đem công đức này
Hướng về khắp tất cả
Đệ tử cùng chúng sanh
Đều sanh nước Cực Lạc
Sớm viên thành Phật quả
Rộng độ khắp chúng sanh.
Nam Mô A Mi Đà Phật.
#HoathuongTinhKhong #tinhdodaikinhkhoachu2014