TỊNH ĐỘ ĐẠI KINH KHOA CHÚ 2014 – 2017
(Giảng lần thứ 4)
PHẨM THỨ BA: ĐẠI GIÁO DUYÊN KHỞI
Duyên Khởi Của Đại Giáo
TẬP 125
Chủ giảng: Đại lão Hoà thượng Thích Tịnh Không.
Giảng tại: Hiệp hội Giáo dục Phật Đà Hồng Kông.
Thời gian: Ngày 29 tháng 10 năm 2014.
Dịch giả: Vũ Văn Trà.
Giảo chánh: Thích Thiện Trang.
Kính
chào: chư vị Pháp sư, chư vị đồng học, kính mời ngồi. Mời mọi người cùng tôi
quy y Tam Bảo: “A-xà-lê tồn niệm, ngã Đệ tử Diệu Âm, thỉ tùng kim nhật, nãi
chí mạng tồn, quy y Phật-Đà, lưỡng túc trung tôn; Quy y Đạt-ma, ly dục trung tôn; Quy y Tăng-già, chư
chúng trung tôn” (3 lần).
Mời
xem Đại Kinh Khoa Chú: trang 357, trang 357, đếm ngược đến hàng thứ sáu, đây là
đoạn còn lại.
『住奇特法』“Trụ kỳ đặc pháp”(Trụ pháp hiếm lạ đặc biệt), câu này là Kinh
văn. Tiếp theo là Tập Chú của Niệm lão: 「《淨影疏》曰:佛所得法,超出餘人,在世所無,故云奇特。」“Tịnh Ảnh Sớ viết: Phật sở đắc
pháp, siêu xuất dư nhân, tại thế sở vô, cố vân kỳ đặc” (Trong Tịnh Ảnh Sớ
nói: Pháp mà Phật chứng đắc, siêu vượt người khác, không có ở thế gian, nên gọi
là kỳ đặc). Kỳ là hiếm lạ, rất hiếm có; Đặc là đặc
biệt, đặc thù. Những gì mà Phật chứng được siêu vượt người khác, vượt hơn A-la-hán, A-la-hán có chứng đắc, là
Bát-Niết-Bàn của Tiểu thừa; Bồ-tát có chứng đắc, vị thứ của Bồ-tát có 51 bậc, trong
Kinh Hoa Nghiêm nói: từ Sơ tín vị đến Đẳng giác, gồm 51 vị thứ. 51 vị thứ đó là
10 vị thứ của thập Tín, thập Trụ, thập Hạnh, thập Hồi hướng, thập Địa, [là] 50
bậc, bên trên thêm Đẳng giác, là 51 vị thứ. Phật còn cao hơn những địa vị này, Phật
là bậc thứ 52, cao nhất, bên trên không còn nữa, cho nên siêu vượt người khác. Trong
Đại thừa giáo: 51 vị thứ; Trong Tiểu thừa giáo, Thanh văn, tứ Quả tứ Hướng, là
tám vị thứ; Còn có Bích-chi-phật, cao hơn A-la-hán, thấp hơn Bồ-tát. [Phật] đều
vượt hơn toàn bộ, những gì mà Phật đạt được: là đại pháp rốt ráo viên mãn. Chúng
ta đều có thể học được điều ấy: ở trong đoạn Tập Chú này. Không có ở thế gian, thế
gian ở đây là chỉ sáu đường, chỉ mười Pháp giới, những gì mà Phật chứng được, không
có trong Lục đạo Thập pháp giới, đó là hiếm lạ, điều ấy đặc biệt thù thắng, nên
xưng đó là kỳ đặc.
「《合贊》」“Hợp Tán”(Sách
Hợp Tán), cũng là của Tổ sư Tịnh tông Nhật Bản, ngài nói: 「濟凡祕術」“Tế phàm bí thuật”(Bí thuật để cứu
phàm phu), “phàm” là phàm phu sáu đường, Lục đạo gọi là Nội phàm, Tứ thánh
xưng là Ngoại phàm. Ngoại phàm, có Thanh văn, có Duyên giác, có Bồ-tát, những Bồ-tát
ấy chưa Minh tâm Kiến tánh. Ở trong Đại thừa giáo: vẫn thuộc về Ngoại phàm
chính là mười địa vị của Thập tín, Thập tín, Thập trụ, Thập hạnh, Thập hồi hướng
của Biệt giáo, đều là phàm. Thập Địa xưng là Thánh, đăng Địa liền xưng là
Thánh, quý ngài siêu việt Thập pháp giới. Nếu là Viên giáo Hoa Nghiêm, thì Sơ
trụ đã siêu việt, đó là hai tông phán giáo khác nhau. Hoa Nghiêm cao, Sơ trụ Bồ-tát:
đã Minh tâm Kiến tánh, kiến Tánh thành Phật, quý Ngài là Phật thật, không phải
giả. Tuy đã thành Phật, nhưng chưa chứng được cứu cánh viên mãn, nên gọi là Phần
chứng Tức Phật, là do Đại sư Thiên Thai nói, [tức] do Đại sư Trí Giả nói. Sơ trụ
trở lên tất cả đều kiến Tánh, Biệt giáo phải Sơ địa mới kiến Tánh, Sơ địa của
Biệt giáo bằng với Sơ trụ của Viên giáo, điều mà quý ngài chứng đắc là bình đẳng.
Chư Phật Như Lai ứng hoá ở thế gian, giúp những phàm Thánh ấy, những vị Thánh
chưa thoát khỏi mười Pháp giới, A-la-hán, Bích-chi-phật của Tiểu thừa, Tam thừa
Bồ-tát của Đại thừa, Tam thừa đó chính là: thập Trụ, thập Hạnh, thập Hồi hướng,
giúp đỡ quý ngài. Có một bí thuật, thuật là phương pháp. Phương pháp gì? Phương
pháp thoát khỏi Lục đạo, phương pháp thoát ly Thập pháp giới, phương pháp ấy: không
ở trong 84 ngàn Pháp môn, không ở trong vô lượng Pháp môn, cho nên là “bí”. Chữ
“bí” này là bí mật, thật ra đây không thể nói bí mật, là thâm mật, có thể dùng
hai chữ đó để giải thích. Thâm mật, trong mười Pháp giới không có ai biết, cho
dù biết, nhưng họ không tin, chẳng khác nào không biết. Thật sự gặp được Pháp
môn này, nghe được Pháp môn này, có thể tin, có thể không nghi, đối với họ cũng
là thâm mật, họ có thể tin. Nhưng Pháp môn này, tuyệt đại đa số mọi người không
tin, không phải do một mình đức Thích Ca Mâu Ni Phật nói, mà hầu như là mười
phương chư Phật Như Lai, tất cả quý Ngài đều giảng, đều nói pháp này, đều khẳng
định Pháp môn này là nan tín chi pháp. Cho nên tu học Pháp môn này, họ có thể
thoái tâm giữa đường, có thể thay đổi, cũng không hiếm lạ chút nào. Chẳng những
không hiếm lạ, mà còn là hiện tượng bình thường. Nguyên nhân là gì? Do họ không
có thiện căn lớn như thế, không có phước báu lớn như vậy.
Pháp
môn này, trong Kinh A Mi Đà nói rất hay, 「不可以少善根福德因緣,得生彼國」“bất khả dĩ thiểu thiện căn phước đức
nhân duyên, đắc sanh bỉ quốc”(không thể dùng ít thiện căn phước đức nhân
duyên, mà được sanh nước kia). Mặc dù chúng ta có nhân duyên, có cơ hội gặp
được này, nhưng thiện căn phước đức của chúng ta không đủ, cho nên thấy được
Pháp môn khác sẽ động tâm, không thể kiên trì một mạch mà học. Có thể kiên trì
một mạch mà học, không bị cảnh giới bên ngoài lay động, 84 ngàn Pháp môn không
lay động được họ, vô lượng Pháp môn cũng không chuyển được họ, họ chẳng phải là
không tiếp xúc, mà tiếp xúc cũng như như bất động, là giống như Đồng tử Thiện
Tài. Trong Kinh Hoa Nghiêm chúng ta thấy được: 53 Tham vấn của ngài Thiện Tài. Ngài
Thiện Tài tu Pháp môn gì? Tu tín nguyện trì danh, cầu sanh Tịnh Độ, ngài Thiện
Tài tu Pháp môn này. Ngài khai ngộ dưới hội của đức Văn Thù, trong tục ngữ nói
là: Đại triệt Đại ngộ, Minh tâm Kiến tánh. Trên hội của đức Văn Thù gọi là đắc
Căn bản trí, 53 Tham vấn là thành tựu Hậu đắc trí của ngài, Hậu đắc trí là vô sở
bất tri, Căn bản trí là vô tri, Bát-nhã vô tri, khi khởi tác dụng thì không gì
chẳng biết. Cho nên sau khi đạt được Căn bản trí, 53 Tham vấn: thành tựu trí huệ
viên mãn của Như Lai, vậy mới độ được chúng sanh, vậy mới là trụ pháp kỳ đặc. Pháp
kỳ đặc ấy, ngày nay ở trên hội này, đức Thích Ca Mâu Ni Phật sắp tuyên thuyết
cho mọi người, Nguyên nhân là gì? Do đức Thế Tôn quán cơ, trong đại chúng học
trò hiện tiền: có người tiếp nhận được, có người không nghi ngờ, có người có thể
tu chứng, vãng sanh Thế giới Tây Phương Cực Lạc chính là chứng, đức Phật hoan hỷ.
Khi người chứng nhiều rồi, thì người không đủ thiện căn thấy được, lập tức liền
có thể bổ túc thiện căn phước đức của họ, vì sao? Bởi họ nhìn thấy nhiều người
như thế, nên họ đã tin, họ không nghi nữa, thì thiện căn của họ đã đủ rồi. Những
người vãng sanh đó khiến cho rất nhiều người: tận mắt nhìn thấy, nghe thấy, phát
tâm vãng sanh theo, tự hành hoá tha. Truyền thuyết ấy, những kinh điển ấy được
ghi chép thành văn chữ, lưu truyền cho đời sau, đời sau có người vẫn không đủ
thiện căn phước đức, họ thấy được, họ nghe được, đồng thời cũng thấy được vào
thời đó của họ: thật có người như vậy, tuy không nhiều, hai người, ba người, nhưng
những người không đủ chút thiện căn ấy: rất nhanh sẽ bổ sung được. Vẫn có người
không bổ sung được, không bổ túc được thì tăng trưởng thiện căn: trong A-lại-da
của họ, tuy tăng trưởng nhưng họ vẫn không muốn vãng sanh, họ còn lưu luyến với
thế gian này, họ vẫn ham mê với mười hai phần giáo, không thể chuyên nhất, thì
thiện căn đời này tăng trưởng, lại đợi đời sau kiếp sau. Chúng ta có lý do tin
tưởng, cuối cùng họ nhất định vẫn là Pháp môn này: vãng sanh thành Phật. Chúng
ta nhìn thấy hoan hỷ, thấy được khen ngợi. Ngay trong đời này, nghe một câu Phật
hiệu A Mi Đà Phật, chúng ta thấy được, nghe được đều sanh tâm hoan hỷ, biết người
đó đời sau kiếp sau: nhất định là Chủng tử ấy chín muồi, mà được độ thoát khỏi
Tam giới Lục đạo, vãng sanh Thế giới Cực Lạc thành Phật làm Tổ. Pháp môn này thật
sự là hiếm lạ đặc biệt.
Phật
sắp nói Pháp môn kỳ đặc này, đương nhiên trước tiên phải trụ cảnh giới kỳ đặc. Cảnh
giới kỳ đặc là gì? Trong Kinh văn tiếp theo nói: 『住諸佛所住導師之行,最勝之道』“Trụ chư Phật sở trụ Đạo sư chi hạnh, tối thắng chi đạo”(Trụ hạnh
Đạo sư mà chư Phật trụ, đạo thù thắng nhất), những chữ đó là khen ngợi Pháp
môn này, đây chính là pháp hiếm lạ đặc biệt. 「諸佛所住」“Chư Phật sở trụ”(Chỗ mà chư Phật trụ) là Tịnh Độ của đức Mi
Đà, 「導師之行」“Đạo sư chi hạnh”(hạnh của Đạo sư)
là tín nguyện trì danh, hai loại này đều là đạo thù thắng nhất, ai biết được? Đọc
Kinh Vô Lượng Thọ, đọc đến đoạn này thì lướt qua, không biết mấy câu nói này: đã
khen Tịnh tông hết mức. Người thiện căn phước đức sâu dày, đọc đoạn Kinh văn: 「世尊今日入大寂定」“Thế Tôn kim nhật nhập Đại Tịch Định”,
đến 「最勝之道」“tối thắng chi đạo”, chỉ đọc mấy câu
này, họ liền sẽ quyết trọn một lòng, nghiêm túc học tập Pháp môn này. Giống như
lão Hoà thượng Hải Hiền: hơn 92 năm không chuyển hướng, cả đời ngài cũng không
rẽ sang hướng khác, vì sao? Bởi không gì thù thắng hơn Pháp môn này, pháp môn
này đạt đến đỉnh cao, câu danh hiệu Phật thống nhiếp tất cả Pháp môn, thống nhiếp
tất cả kinh giáo, thống nhiếp tất cả đức hiệu của chư Phật Bồ-tát. Hơn nữa Pháp
môn này không trở ngại công việc, thực hiện trong đời sống, thực hiện trong
công tác, áp dụng trong xử việc đối người tiếp vật, hoạt bát sống động, Lý Sự
Vô ngại, Sự Sự Vô ngại, hiện tại đã được rất tự tại. Quý vị xem lão Hoà thượng
Hải Hiền, chúng ta xem thấy ngài trong đĩa phim, từ sáng đến tối pháp hỷ sung
mãn, giống như nơi này chính là Thế giới Cực Lạc, trong cảm nhận của ngài là thật,
không phải giả; Trên thế giới này các hạng người, nam nữ già trẻ, các ngành các
nghề, ở trong cảm nhận của ngài đều là Thiện tri thức, chúng ta cần phải lĩnh hội
được. Quý vị có thể nhìn ra, thể hội được, thì tâm của quý vị định rồi, nhất định
không thể có dao động nữa, vẫn có thể bị hoàn cảnh bên ngoài ảnh hưởng, thì
không được, đó chính là nhập Đại Tịch Định. Đại Tịch Định không phải ngồi xếp bằng
quay vào vách, mà tâm là định, thuận cảnh như như bất động, nghịch cảnh cũng
như như bất động, nhất định sẽ không bị ảnh hưởng theo cảnh giới bên ngoài, sẽ
không chuyển biến theo cảnh giới bên ngoài, đó gọi là Đại Tịch Định. Nếu đức Thế
Tôn không phải là trụ Đại Tịch Định, không phải là trụ pháp kỳ đặc, đạo thù thắng
nhất, thì làm sao Ngài có thể nói ra được? Ngay cả dạy học cũng phải khế nhập cảnh
giới này. Từ trong cảnh giới này, ngôn ngữ được lưu lộ ra, oai nghi được lưu lộ
ra, khiến cho những đại chúng xem nghe: sanh khởi niềm tin, dẫn phát đạo tâm, đại
Bồ-đề tâm của họ.
Chúng
ta xem tiếp, Niệm lão trích dẫn đoạn văn của sách Chân Giải. Chân Giải cũng là
của Đại đức Nhật Bản, 「奇特法者,如來正覺果海,名為奇特。奇特之極,至下」“Kỳ đặc pháp
giả, Như Lai Chánh giác quả hải, danh vi kỳ đặc. Kỳ đặc chi cực, chí hạ” (Pháp
kỳ đặc: là biển quả Chánh giác của Như Lai, gọi là kỳ đặc. Hiếm lạ đặc biệt đến vô cùng, đến phần sau), đến tiếp theo sẽ giảng tới, 「華光出佛之文彰矣」“hoa quang xuất Phật chi văn chương hỷ”(đoạn văn về ánh
sáng hoa sen xuất hiện Phật [sẽ] hiển bày). Chữ ‘chương’ là hiển lộ rõ
ràng, khiến chúng ta đều có thể thấy được, đều nghe được, đều cảm nhận được. Biển
quả Chánh giác của Như Lai, tất cả chúng sanh chúng ta đều đầy đủ, thật kỳ đặc,
chúng ta không cách nào nghĩ đến, đó là Chân Như Tự Tánh. Đức Thế Tôn thường
nói trong kinh Đại thừa, đặc biệt là Kinh Hoa Nghiêm, Ngài nói:「一切眾生皆有如來智慧德相」“Nhất thiết chúng sanh giai hữu Như Lai trí huệ đức tướng”(Tất cả
chúng sanh đều có trí huệ đức tướng của Như Lai), là một ý nghĩa với biển
quả Chánh giác: được nói chỗ này. Biển quả Chánh giác của Như Lai, trí huệ đức
tướng của Như Lai, Chánh giác chính là trí huệ, biển quả tức là đức tướng. Biển
quả là Thế giới Cực Lạc, Chánh giác là trí huệ viên mãn của A Mi Đà Phật. Người
niệm Phật vãng sanh đến Thế giới Cực Lạc thì thành Phật, thành Phật nào? Quý vị
là tôn Phật nào? Nói với quý vị: là A Mi Đà Phật. A Mi Đà Phật: là vị Phật đệ
nhất trong biển quả Chánh giác, là Phật Căn Bản, là Phật Tự Tánh, tất cả chúng
sanh đều có, chỉ là mê thì không giác. Hôm nay Đức Thế Tôn: sắp tuyên thuyết
Pháp môn này cho chúng ta, khiến cho chúng ta đều giác ngộ trở lại, nhận biết
trong Chân Tâm của chính chúng ta có báu vật, không phải tìm kiếm bên ngoài,
bên ngoài không có, bên ngoài là ảo tướng, tất cả những gì có tướng đều là hư vọng,
phải hướng vào trong Tự Tánh để cầu.
Niệm
Phật đã niệm bao nhiêu năm, mà không nhiếp được tâm, vẫn còn nhiều Vọng tưởng Tạp
niệm, trừ không hết, đó là nguyên nhân gì? Không phải trên Thể Tánh sanh vấn đề,
trên Thể Tánh không sanh ra vấn đề, mà là phương pháp của chúng ta có vấn đề. Cách
niệm Phật thế nào? Bồ-tát Quán Thế Âm, Bồ-tát Đại Thế Chí giảng rất hay, Bồ-tát
Quán Âm dạy cho chúng ta: 「反聞聞自性,性成無上道」“Phản văn
văn Tự Tánh, Tánh thành Vô thượng đạo”(Xoay nghe lại để nghe Tự Tánh,
Tánh thành Vô thượng đạo). Phản văn thế nào? Là không nghe bên ngoài, mà nghe
bên trong, vi diệu! Cách nghe bên trong thế nào? Chúng ta niệm Phật niệm thầm
không phát ra âm thanh, trong tâm đang niệm, có âm thanh không? A Mi Đà Phật,
có âm thanh không? Bên ngoài không có âm thanh, bên trong có âm thanh, tai cần
nghe bên trong, đừng nghe bên ngoài, nghe bên trong liền tương ưng. [Sẽ] nghe
không được âm thanh bên ngoài, [dù] âm thanh bên ngoài lớn đi nữa, biết có âm
thanh ồn ào, nhưng không nghe rõ ràng; Phật hiệu ở bên trong, từng câu từng chữ
nghe rất rõ ràng, vậy thì nhiếp được tâm. [Những gì] do Bồ-tát Đại Thế Chí giảng:
và Bồ-tát Quán Âm dạy là một sự việc, Bồ-tát Quán Âm là「反聞聞自性」“phản văn văn Tự Tánh”, Bồ-tát Đại
Thế Chí [là] 「都攝六根」“đô nhiếp lục căn”, nhiếp cả sáu căn
chính là nghe lại, tuy lời nói ra khác nhau, nhưng ý nghĩa như nhau, là một sự
việc. Không bị sáu căn quấy nhiễu, mắt thấy sắc, tai nghe âm thanh, mũi ngửi
hương, lưỡi nếm vị, sáu căn tiếp xúc cảnh giới sáu trần, không khởi tâm không động
niệm, không phân biệt không chấp trước, thì gọi là đô nhiếp lục căn. Thấy sắc,
mắt đang khởi tâm động niệm trên sắc, thì mê rồi, Khởi tâm Động niệm là Vô minh
Phiền não, quý vị xem, thấy sắc khởi Vô minh Phiền não, nghe âm thanh cũng là
khởi Vô minh Phiền não, thêm Phân biệt, Phân biệt là Trần sa Phiền não, Chấp
trước là Kiến tư Phiền não, sáu căn tiếp xúc với cảnh giới sáu trần sanh Phiền
não, đều sanh ba loại Phiền não. Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn, cách
đoạn thế nào? Hiểu được “phản văn” thì đoạn được, rất hiệu quả, hiểu được “đô
nhiếp lục căn”, có hiệu quả. A Mi Đà Phật là Bổn sư của chúng ta, dạy chúng ta
niệm Phật, cách niệm thế nào? Quý vị xem hai vị Giáo thọ, hai vị Huấn luyện
viên, ngài Quán Âm, ngài Đại Thế Chí là hai vị Giáo thọ, Huấn luyện viên, phương
pháp quý ngài dạy cho chúng ta, chúng ta phải biết dùng, nhất định có hiệu nghiệm.
Cho nên phải thật quay đầu, phải buông xuống đối với bên ngoài, không bị ngoại
cảnh quấy nhiễu, không bị ngoại cảnh ảnh hưởng chính là buông xuống. Vì sao? Bởi
quý vị ở trong cảnh giới, không khởi tâm không động niệm là Định, không phân biệt
không chấp trước là Giới, rất là rõ ràng, vô cùng sáng tỏ là Huệ, Tam học: Giới
Định Huệ đều ở trong đó, mầu nhiệm khó tả, kỳ đặc đến vô cùng. Quý vị vào được
vị đạo này, thì quý vị mới thưởng thức được pháp vị của Tịnh Độ, pháp vị của Thế
giới Cực Lạc, thật sự sanh ra được tâm hoan hỷ. Kinh văn ở sau, ánh sáng hoa
sen hiện Phật, đã biểu dương rõ ràng cực kỳ hiếm lạ đặc biệt.
Tiếp
theo dẫn Phẩm Tánh Khởi của Kinh Hoa Nghiêm, 「且如《華嚴性起品》」“thả như Hoa Nghiêm Tánh Khởi Phẩm”(hơn
nữa như Phẩm Tánh Khởi trong Kinh Hoa Nghiêm) đã nói, 「一切眾生身中有正覺智。嘆之云奇哉!奇則奇矣,奇而非特」“nhất thiết chúng
sanh thân trung hữu Chánh giác trí. Thán chi vân kỳ tai! Kỳ tắc kỳ hỹ, kỳ nhi phi đặc”(trong thân của tất cả chúng sanh có Trí
chánh giác. Khen ngợi đó là kỳ lạ thay! Kỳ là hiếm lạ, hiếm lạ nhưng không đặc biệt).
Là hiếm lạ, nhưng không có gì đặc biệt, vì sao? Bởi loại hiếm lạ này người nào
cũng có. Tất cả chúng sanh đều có trí huệ đức tướng của Như Lai, chỉ là chưa hiển
lộ ra được, do Phiền não Tập khí chướng ngại, bây giờ buông xuống Phiền não Tập
khí, thì không trở ngại, hiển lộ ra trí huệ Chánh giác. Một phút không có chướng
ngại, thì hiển lộ trí huệ trong một phút; một giây không có chướng ngại, thì hiển
lộ trí huệ trong một giây; khi có chướng ngại thì đã mê. Làm sao chúng ta có thể:
kéo dài thời gian trí huệ Chánh giác của chúng ta, chúng ta từ mấy giây lên đến
được mấy phút, từ mấy phút có thể lên đến mấy chục phút, đó chính là công phu tu hành. Làm sao mới
có thể làm được? Buông xuống Phiền não Tập khí thì có thể làm được. Phiền não
là gì? Tham sân si mạn nghi. Thuận cảnh, buông xuống tâm tham; Nghịch cảnh,
buông xuống sân giận; Đời loạn, buông xuống ngu si, buông xuống tham sân si mạn
nghi, thì có thể thuận theo Tự Tánh. Không thuận theo cảnh duyên, mà thuận theo
Pháp tánh. Pháp tánh ngay ở trước mắt, chưa từng rời khỏi, Tánh Tướng như một.
Sự
tiếp xúc của sáu căn chúng ta là Pháp tướng, Tướng không rời khỏi Tánh. Giống
như chúng ta xem màn hình tivi, chúng ta ví dụ màn hình làm Tự Tánh, hình ảnh
trên màn hình chính là: tất cả pháp mà được Tự Tánh hiện. Đại sư Huệ Năng nói: 「何期自性,能生萬法」“Hà kỳ Tự Tánh, năng sanh vạn pháp”(Nào
ngờ Tự Tánh, có thể sanh vạn pháp), vạn pháp này là tất cả pháp của toàn Vũ
trụ. Trong Bách Pháp Minh Môn: đem quy nạp thành 100 loại, triển khai ra chính
là tất cả pháp. Pháp của 100 loại ấy là Tướng, Pháp tướng. Đức Phật hy vọng
chúng ta thấy Tánh ở trên Tướng. Tướng là do Chân Tâm và Vọng tâm: trộn lẫn mà biến
hiện ra. Chân Tâm hiện tướng nhưng không biến, Vọng tâm có thể biến. Vọng tâm là sanh diệt, đem Tướng phần của
Chân Tâm: biến thành hiện tượng sanh diệt. Tướng vốn là không sanh không diệt, mà
biến thành hiện tượng sanh diệt. Bồ-tát Di Lặc nói với chúng ta rất rõ ràng, do
dùng điều gì mà biến đổi? Do động, hễ niệm bất giác chính là động. Còn Tự Tánh?
Tự Tánh là bất động. Đại sư Huệ Năng nói rất hay: 「何期自性,本無動搖」“Hà kỳ Tự Tánh, bổn vô động dao”(Nào
ngờ Tự Tánh, vốn không dao động), đó gọi là Tự Tánh vốn định. Cho nên vì
sao phải tu định? Do định là Chân Tâm, động là Vọng tâm, tu định chính là tìm về
Chân Tâm. Chư Phật Bồ-tát dùng Chân Tâm, không dùng Vọng tâm; Chúng sanh của Lục
đạo Thập pháp giới: dùng Vọng tâm, không dùng Chân Tâm. Sự khác biệt của phàm và
Thánh là ở chỗ này.
Chân
Tâm là không động, Chân Tâm là thanh tịnh, không có ô nhiễm. Ô nhiễm là A-lại-da,
đặc biệt là Mạt-na, Ý căn, những thứ này là dễ bị ô nhiễm nhất; Tiếp đó là Ý thức,
Ý thức Thứ sáu, cũng rất dễ bị ô nhiễm, nhưng không có sâu, và nghiêm trọng như
Mạt-na. Chuyển thức thành trí phải chuyển từ trên [Thức thứ] sáu, Thứ bảy. Cách
chuyển thức Sáu, Bảy thế nào? Chúng ta cần hiểu rõ, chúng ta phải thật làm, sáu
căn ở trong cảnh giới sáu trần, không phân biệt chính là chuyển Thức thứ sáu, không
chấp trước tức là chuyển Thức thứ bảy, chuyển thức Sáu, Bảy rồi, thì năm thức trước
và Thức thứ tám liền chuyển theo. Thức Sáu, Bảy là chuyển trên nhân; Năm, Tám
là chuyển trên quả. Chỉ cần chuyển Sáu, Bảy, thì chúng liền chuyển theo trở lại.
Chuyển phàm thành Thánh chỉ là chuyển Vọng tâm dùng Chân Tâm, dùng Chân Tâm
chính là Phật Bồ-tát, chính là bậc Thánh; Dùng Vọng tâm: là phàm phu của Lục đạo,
Thập pháp giới, họ dùng Vọng tâm. Chúng ta phải hiểu được trong đời sống hàng
ngày, sáu căn ở trong cảnh giới sáu trần, từ sáng đến tối đều đang tiếp xúc, phải
khiến cho sự Phân biệt Chấp trước ấy giảm nhẹ, phai nhạt, càng phai nhạt càng tốt,
vậy chính là có tiến bộ. Phai nhạt đến bằng không thì đã thành công, quý vị đã
thật chuyển trở lại, nhưng tuyệt đối không được để cho nó: ngày càng nhiều
hơn, vậy thì hỏng rồi ! Đó là tu Lục đạo luân hồi, đó không phải tu Thế giới
Cực Lạc. [Tu] Thế giới Cực Lạc thì ngày càng nhạt hơn, nhạt đến cuối cùng trong
ý niệm không còn nữa. Cho nên, Pháp môn này gọi là kỳ đặc pháp.
Tám
vạn bốn ngàn Pháp môn: đều là Pháp môn phổ thông, đều là phải làm phai nhạt ý
niệm, nhạt đến cuối cùng bằng không, thì đã thành công. Việc đó quá khó quá khó
rồi! Chúng ta chắc chắn sẽ khởi tâm động niệm, không có cách để bằng không. Phương
pháp này của A Mi Đà Phật tuyệt diệu, Ngài không bảo quý vị bằng không, Ngài bảo
quý vị bằng với A Mi Đà Phật. Cho nên, Pháp môn này là chỉ phương lập tướng, chỉ
định một phương hướng: Thế giới Tây Phương Cực Lạc; lập tướng, Thế giới Tây
Phương Cực Lạc: có A Mi Đà Phật, có Thế giới Cực Lạc, để cho quý vị quán tưởng,
quý vị cũng đừng nghĩ gì khác. Thế giới Cực Lạc là quê nhà của tôi, trải qua niệm
được càng quen thuộc, thì càng sáng tỏ đối với quê nhà, quý vị càng ưa thích, chuyển
ý niệm của quý vị, bỏ đi sáu đường, bỏ đi mười Pháp giới, nhất tâm nhất ý
chuyên tưởng A Mi Đà Phật. Trong Kinh Hoa Nghiêm nói: 「一切法從心想生」“Nhất thiết pháp tùng tâm tưởng sanh”(Tất
cả pháp từ tâm tưởng sanh), chúng ta tưởng thành Thế giới Cực Lạc, đến Thế
giới Cực Lạc, thì vấn đề đã được giải quyết. Tới bên đó: A Mi Đà Phật giúp
chúng ta xử lý, không cần chúng ta bận tâm, phương pháp này hay! Vô cùng đơn giản,
mà còn có hiệu quả, có hiệu quả vô cùng, đó là sự thật, chẳng phải là giả. Thế
giới Cực Lạc không phải giả thiết, Thế giới Cực Lạc là Nhất chân Pháp giới. Người
ở nơi ấy, thân là thân Pháp tánh, hoàn cảnh cư trú là Pháp tánh độ. Ý nghĩa của
Pháp tánh là gì? Là không sanh không diệt, không có chuyển biến, đó là Pháp
tánh. A-lại-da là có sanh có diệt, là thay đổi ở trong từng sát-na, Pháp tánh
khác với Pháp tướng. Đó chính là hiếm lạ, chính là đặc biệt.
「一切眾生身中有正覺智」“Nhất thiết chúng sanh thân trung hữu Chánh giác trí”(Trong thân của
tất cả chúng sanh có Trí chánh giác), không cần hướng ngoại cầu, mà hướng nội
cầu. Hướng nội cầu chính là Phật pháp, hướng ngoại cầu là Khoa học mà ngày nay
nói. Khoa học là hướng ngoại, Phật Bồ-tát không hướng ngoại, do bên ngoài là giả. Hướng nội, nội là Tâm
Tánh, Tâm Tánh là chân thật, có chân trí huệ, có chân đức năng, có chân tướng tốt,
đều sẽ biểu diễn ở thân thể của chúng ta, biểu diễn ở ngay trong hoàn cảnh đời
sống của chúng ta, cho nên khen ngợi: đó là kỳ thay, hiếm lạ. Tuy sự việc ấy hiếm
lạ, nhưng không phải đặc biệt.
「又如《法華提婆品》,龍女成佛」“Hựu như Pháp Hoa Đề Bà Phẩm, Long Nữ thành Phật”(Và như trong Phẩm
Đề Bà Đạt Đa của Kinh Pháp Hoa, Long Nữ thành Phật), điều ấy rất đặc biệt, rồng
là Súc sanh, đó không phải cõi người, là đường Súc sanh, hơn nữa chỉ có tám tuổi,
bé gái nhỏ, cô có thể thành Phật, điều đó rất đặc biệt, nhưng không kỳ lạ. Tại
sao không kỳ lạ? Bởi Phật thường nhắc nhở chúng ta trên Đại Kinh, 「一切眾生本來是佛」“nhất thiết chúng sanh bổn lai thị Phật”(tất
cả chúng sanh trước nay là Phật), vậy thì không kỳ lạ nữa. Đó là một trường
hợp rất đặc biệt. 「唯此一法,最奇最特」“Duy thử nhất
pháp, tối kỳ tối đặc”(Chỉ một pháp này, hiếm lạ nhất đặc biệt nhất).
Pháp này chính là: tín nguyện trì danh, vãng sanh Tịnh Độ, một pháp này hiếm lạ,
một pháp này rất đặc biệt.
Chúng
ta xem đoạn này. 「何者」“Hà giả”, ‘Hà giả’ này là lời hỏi,
vì sao, tại sao pháp đó hiếm lạ đặc biệt nhất? 「經說:眾寶蓮華周滿世界」“Kinh thuyết: chúng bảo liên hoa chu mãn
thế giới”(Trong Kinh dạy: nhiều hoa sen báu đầy khắp thế giới), ba bộ
kinh đều nói đến, Kinh Vô Lượng Thọ, Kinh A Mi Đà, Kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật
đều nói đến. Hoa sen ấy, nếu quý vị nói đó là Y báo, 「則華外無佛正覺」“tắc
hoa ngoại vô Phật Chánh Giác”(nhưng lại ngoài hoa không có Phật Chánh
Giác), rõ ràng là Y báo, nhưng hoa đó: là do Tự Tánh biến, không phải Tướng
phần của A-lại-da, không phải Cảnh giới tướng của A-lại-da. Tự Tánh, đó chính
là nói: hoa đó có trí huệ viên mãn, Tánh đức viên mãn. Về sự việc này, ngày nay
chúng ta tương đối: có một khái niệm rõ ràng, nhà khoa học đã phát hiện, phát
hiện ra chỉ cần là hiện tượng vật chất: đều có kiến văn giác tri. Ngũ uẩn mà thường
được nói trên kinh Đại thừa, Ngũ uẩn là một thể, sắc là hiện tượng vật chất, sắc
này không kể là lớn hay nhỏ, nhất định có thọ tưởng hành thức. Trước đây chúng
tôi học Ngũ uẩn, đều cho rằng đó là thân thể người, hiện nay đã biết, không phải
vậy. Vật chất và tinh thần là không thể chia ra, hơn nữa tinh thần có trước, vật
chất có sau. Đức Phật giảng rất rõ ràng ở trên kinh, chúng ta xem không hiểu, đã
xem trăm lần, ngàn lần, cũng không xem hiểu. Mỗi ngày niệm Tâm Kinh nhiều lần, 「照見五蘊皆空」“chiếu kiến Ngũ uẩn giai Không”(chiếu kiến Ngũ uẩn đều là Không),
không biết Ngũ uẩn là gì, cứ cho là thân người, thân thể là sắc; Có cảm thọ; có
tư tưởng, nhớ được quá khứ, nghĩ tương lai; Tư tưởng đó là niệm này nối tiếp niệm
kia, niệm trước diệt niệm sau sanh, gọi là hành, hành tức là liên tục, không ngừng
dứt; Thức, thức chính là A-lại-da, Chủng tử của A-lại-da, ở nơi đó sanh diệt
không ngừng, khởi hiện hành, vĩnh viễn sẽ không tiêu mất, là giải thích như vậy.
Đến
nhà Cơ học Lượng tử hiện nay, đã giải mở được ẩn ngữ này. Phương pháp dùng giống
với lời Phật dạy trên kinh, chính là nhờ vào phân tích vật chất, cuối cùng thấy
do gì cấu tạo nên, không ngừng phân chia. Một hạt Vi trần, mắt thường có thể
nhìn thấy, gọi là Bụi lông bò. Đem Bụi lông bò chia thành bảy phần, một phần bảy
là Bụi lông dê; Lại đem Bụi lông dê chia làm bảy phần, một phần bảy gọi là Bụi
lông thỏ; Lại chia Bụi lông thỏ thành một phần bảy, là Bụi nước, Nhục nhãn
không thấy nữa, hiện tượng vật chất rất vi tế ở trong đó, nước có khoảng trống,
nó ở trong nước hoạt động không trở ngại; Lại đem Bụi nước chia thành một phần
bảy, gọi là Bụi kim, kim là kim loại, kim loại có khoảng trống; Lại chia Bụi
kim thành một phần bảy, gọi là Vi trần. Trên kinh Phật [nói] Vi trần rất nhỏ, Thiên
nhãn của A-la-hán có thể thấy được Vi trần, càng nhỏ hơn Vi trần, thì A-la-hán
không thấy được nữa. Vẫn chia được Vi trần ấy, lại chia thành càng nhỏ hơn, một
phần bảy, một phần bảy, liên tục mà chia, gọi là Sắc tụ Cực vi; Lại chia Sắc tụ Cực vi
thành một phần bảy, là Cực vi Chi vi, thật sự là nhỏ nhất, không thể phân chia nữa, vừa chia thì không
còn hiện tượng vật chất nữa, cho nên gọi là Lân hư trần, giống như làm hàng xóm
của hư không, khi quý vị phân chia thì biến thành hư không. Những thứ này được
nhà Khoa học phát hiện, Khoa học gia chia đến cuối cùng, khi chia đến cuối cùng là Neutrino. Neutrino,
chính là Cực vi sắc, Cực vi Chi vi, Lân hư trần mà đức Phật nói trong kinh. Khi
phân chia những hạt này thì không còn, thành không rồi, không còn vật chất nữa.
Khoa
học ngày nay có phương pháp: nắm bắt được Neutrino, khi đem phá vỡ nó, thì
không còn hiện tượng vật chất nữa, phát hiện chính là gì? Là hiện tượng
sóng dao động của ý niệm. Lúc này mới bỗng nhiên đại ngộ, hoá ra sự sanh khởi của
hiện tượng vật chất: là do sóng dao động của ý niệm sanh ra, không có ý niệm
thì không có hiện tượng vật chất. Cho nên, sắc thọ tưởng hành thức, thọ tưởng
hành thức đó ở trước vật chất, có thọ tưởng hành thức mới xuất hiện hiện tượng
vật chất. Gốc của thọ tưởng hành thức chính là thức, từ gốc, sóng, sóng dao động
ấy, sóng dao động chính là hành, từ trong hành lại sanh ra tưởng; trong tưởng mới
có thọ, thọ là cảm nhận, nó có tưởng, do đó mới hình thành sắc tướng, hình
thành vật chất. Điều này đã được phơi bày, sau khi phơi bày thì nhà Khoa học
nói với chúng ta, trên thế giới: căn bản không có sự tồn tại của những thứ vật
chất đó, vật chất toàn
là giả, ý nghĩa giống với câu: phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng mà đức
Phật nói trong kinh. Đi đến kết luận, lời đức Phật nói 3000 năm trước, đã được
nhà Khoa học hiện đại chứng thực, đức Phật nói là thật, không phải giả. Đức Phật
còn nói: 「一切有為法,如夢幻泡影,如露亦如電,應作如是觀」“Nhất thiết hữu vi pháp, như mộng huyễn
bào ảnh, như lộ diệc như điện, ưng tác như thị quán”(Tất cả pháp hữu vi,
như mộng ảo bọt bóng, như sương cũng như chớp, nên quán sát như vậy). Nhà
Khoa học đã hoàn toàn tiếp nhận. Cho nên nhà Khoa học nghe được những lời ấy trong
kinh Phật, vô cùng kinh ngạc! Khoa học đến ngày nay hơn 400 năm, nỗ lực không
ngừng của thế hệ này sang thế hệ khác, mới phát hiện được, vì sao đức Phật vào
3000 năm trước, cũng không có thiết bị Khoa học gì, mà Ngài biết được rõ ràng
như vậy, giảng còn sáng tỏ hơn báo cáo của Khoa học, việc đó là thế nào? Do đức
Phật hướng nội cầu, còn nhà Khoa học hướng ngoại cầu. Ngoại cầu, 400 năm, bao
nhiêu người nỗ lực tiếp nối mới phát hiện; Nội cầu thì không cần, chính mình
công phu mấy năm thì quý vị liền phát hiện. Hướng nội cầu chính là tu Định, trước
là Trì giới, Trì giới giúp quý vị được tâm thanh tịnh, tâm thanh tịnh chính là Định.
Đạt được tâm thanh tịnh, không nên buông bỏ, mà làm cho tâm càng thanh tịnh
sâu, Thiền định rất sâu, đến tất cả pháp đều không động nữa, sau cùng hoà thành
một phiến với Tự Tánh, đó chính là Tự Tánh vốn định. Tự Tánh vốn định có thể
chiếu kiến tất cả pháp, vì tất cả pháp không rời Tự Tánh, tất cả pháp đều là do
Tự Tánh biến, cho nên quý vị sẽ rất rõ ràng, rất sáng tỏ, rất hiểu rõ quá trình
đó biến đổi thế nào, còn rõ ràng hơn sự phân tích của Khoa học. Cho nên trong
kinh Phật: có Khoa học bậc cao, có Triết học cao thâm.
Chúng
ta muốn hỏi: Kinh Phật giảng là điều gì? Bốn chữ đã nói rõ ràng, 「諸法實相」“Chư pháp Thật tướng”. “Chư pháp” tức
là tất cả pháp trong Vũ trụ, ngày nay nói là hiện tượng, toàn bộ hiện tượng vật
chất, hết thảy hiện tượng tinh thần, tất cả hiện tượng của tự nhiên, đều không
sót điều gì, Chân tướng là gì? Người kiến Tánh thấy được hoàn toàn, tướng thật
của tất cả pháp. Ngày nay Chân tướng của vật chất được người ta phơi bày, nhưng
Chân tướng của ý niệm vẫn chưa phơi bày, ý niệm sanh ra vật chất. Còn ý niệm từ
đâu ra? Do sao mà có ý niệm? Hiện nay nhà Khoa học đang phỏng đoán, cho rằng
trong Vũ trụ có năng lượng, sau đó làm sao chứng minh ấy, năng lượng ấy lại đến
từ đâu? Bóc tách từng tầng từng tầng, khiến cho Chân tướng hiển lộ rõ ràng. Do
đó chúng ta có lý do tin tưởng, qua 20 năm, 30 năm nữa, Phật giáo không phải
Tôn giáo, mà Phật giáo là
gì? Là Khoa học bậc cao, Triết học bậc cao. Mấy ngàn năm, chúng ta mê trong những
ảo tướng này, sẽ được người phơi bày. Phơi bày, nhưng họ có thể thành Phật
không? Không thể. Trong kinh Đại thừa đức Phật nói: Thức thứ sáu, chính là tư
tưởng, năng lực của nó là có hạn, không phải vô hạn, bởi đó là Vọng tâm, không
phải Chân Tâm. Chân Tâm là vô hạn, Vọng tâm là có hạn, có hạn chế, Vọng tâm chỉ
có thể hạn chế ở trong A-lại-da, bên ngoài A-lại-da đó là Tự Tánh. Tức là nói
dùng Ý thức Thứ sáu, có thể hiểu rõ bên trong A-lại-da, cũng có thể vén mở huyền
bí của vũ trụ này, nhưng Chân Như Tự Tánh bên ngoài A-lại-da, thì hoàn toàn
không liên quan, chẳng những không thành Phật, mà ngay cả Tu-đà-hoàn của Tiểu
thừa cũng không có phần. Đó là sự khác nhau của Phật pháp với pháp thế gian, đó
gọi là Phật pháp.
Tiểu
thừa Tu-đà-hoàn đã khôi phục hai bản năng, trong kinh giảng điều này, người có
bản năng. Bản năng, biểu hiện ở bên ngoài chính là sáu loại thần thông, nhà
Khoa học không có. Tu-đà-hoàn có Thiên nhãn thông, Thiên nhĩ thông. Thiên nhãn
không có chướng ngại, ngồi ở trong phòng này, rất là rõ ràng người ở nơi cách bức
tường đó, người ở tầng trên, lầu dưới, quý vị cũng thấy được. Nhà Khoa học
không được, không có năng lực này. Có Thiên nhĩ, không cần dùng điện thoại, họ
nghe thấy lời nói của người ở nơi xa. Tu-đà-hoàn liên lạc với Tu-đà-hoàn: không cần dùng những thiết bị đó, quý
ngài có thể nhìn thấy, không cần dùng truyền hình, có thể thấy được, có thể
nghe thấy, bất luận khoảng cách bao xa, quý ngài không có trở ngại. Lại nâng
lên một cấp, Nhị quả, [hơn] Sơ quả Tu-đà-hoàn, Nhị quả thì nhiều thêm hai loại,
khôi phục hai loại thần thông nữa, là Tha tâm thông, Túc mạng thông. Tha tâm
thông, quý ngài biết trong tâm người khác nghĩ gì. Túc mạng thông là biết quá
khứ: đời trước, kiếp trước. A-la-hán biết được 500 đời, tình hình của đời đời
kiếp kiếp: quý ngài đều có thể nhớ ra, quý ngài cũng nhìn thấy được. Tam quả:
A-na-hàm, đã xuất hiện Thần túc thông. Thần túc thông là bay đi biến hoá, quý
ngài có thể phân thân, hơn nữa thật hữu dụng, phân thân có tác dụng, chẳng phải
không hữu ích. Vào trước đây, chúng tôi thấy được trong những sách cổ đó, quả
thật có Cao tăng Ấn Độ hoằng pháp ở nước ta, khi trở về, rất đông tín đồ, đều mở
tiệc tiễn biệt Pháp sư, cúng Trai, thỉnh mời Pháp sư đến ứng cúng, Pháp sư đã
hoan hỷ đồng ý. Cùng một ngày, cùng một thời điểm, giữa ngày, hơn 500 người mời
ngài dùng cơm, không phải ở một nơi, trong nhà người khác cũng cúng dường lão
Hoà thượng, ngài đều đến. Ngày hôm sau, tiễn biệt 10 dặm trường đình, mỗi người
đều hoan hỷ phấn chấn, Pháp sư rất nể mặt chúng tôi, hôm qua đến nhà tôi ứng
cúng. Người khác nói không đúng, hôm qua ở nhà tôi, làm sao có thể ở nhà quý vị?
Khi xâu chuỗi [sự việc] mới biết, ngài đều đã đến 500 nhà, ngài phân 500 thân. Nhà
Khoa học không cách nào làm được. Khoảng cách bay đi xa, ý niệm ngài vừa nghĩ,
thì thân đã đến rồi, không cần dùng phương tiện giao thông, Tam quả A-na-hàm đã
có bản lĩnh đó. Tổ sư Đạt Ma qua sông Trường Giang không cần thuyền, lấy một
cành lau, nhổ bên cạnh bờ một cành lau thả trên mặt nước, ngài đạp trên cành
lau thì đã qua sông, biểu diễn cho chúng ta, bản lĩnh này thì Tam quả trở lên mới
có. Tứ quả A-la-hán đắc Lậu tận thông, không còn Phiền não nữa, tức là đoạn hết
Kiến tư Phiền não rồi.
Cho
nên nhà Khoa học không cách nào sánh với quý ngài. Nhà Khoa học dùng những thiết
bị quan sát ấy, chân tướng sự thật đã được họ phát hiện, nhưng họ không được thọ
dụng. Phật pháp dùng nội công, dùng Giới Định Huệ, nhân Giới được Định, nhân Định
khai Huệ. Quý ngài được thọ dụng, sáu loại bản năng đều được khôi phục, quý
ngài được đại tự tại. Trong đại tự tại thì điều thứ nhất là ẩn hiện tự tại. Cần
phải phục vụ, giúp chúng sanh giác ngộ: chính là việc quý ngài đang làm, quý
ngài liền hiện thân; Sau khi làm xong việc, quý ngài đi rồi, liền không hiện nữa,
không hiện là ẩn. Ẩn hiện khác nhau, ẩn hiện tự tại, ẩn hiện đều không có Khởi
tâm Động niệm, mà là thế nào? Do chúng sanh, hằng thuận chúng sanh, tuỳ hỷ công
đức. Tuỳ thuận chúng sanh, thành tựu công đức chân thật của chính mình, công đức
tích luỹ ấy, giúp quý ngài nâng lên, đó là Viên giáo của Đại thừa, bên trên còn
có 41 đẳng cấp, dùng loại phương thức đó giúp quý ngài nâng cao. Cho nên về hoa
sen, mỗi một cánh hoa sen, thậm chí chúng ta nghiền cánh hoa thành bụi, mỗi hạt
bụi: đều đầy đủ viên mãn sắc thọ tưởng hành thức, sống động! Là thật không phải
giả.
Tiến
sĩ Hew Len, [trong] quý vị có đồng học đã từng gặp ở đây, ông ấy đến thăm chúng
tôi, không ở phòng thu hình này, mà ở phòng thu bên cạnh, trong phòng thu đó,
tôi để bức hình của ông. Ông nói với chúng tôi, không nên cho rằng chúng ta khởi
tâm động niệm: thì không có ai biết, chúng ta làm việc đó không có ai nhìn thấy,
sai lầm, chiếc bàn biết nhìn, biết nghe, hiểu được ý người, chỗ ngồi của chúng
ta cũng là như vậy, bức tường cũng biết nghe, trần nhà cũng biết nghe, sàn nhà
này cũng biết nghe, Khởi tâm Động niệm, hành vi việc làm của chúng ta, chúng đều
nhận biết. Đó chính là pháp hiếm lạ đặc biệt. Ông khám bệnh cho người khác hoàn
toàn là dùng ý niệm. Tôi hỏi ông: ông căn cứ đạo lý gì để trị bệnh, căn cứ lý
luận nào? Hoàn toàn dựa vào tâm tưởng. Đức Phật nói trong kinh「一切法從心想生」“nhất thiết pháp tùng tâm tưởng sanh”(tất cả Pháp từ tâm tưởng
sanh), chính là dựa vào tâm tưởng đó. Ông nói, tâm phải thanh tịnh, không
thanh tịnh thì không linh nghiệm, cần phải thanh tịnh, phải đem tất cả toàn bộ:
ý niệm bất thiện của chính mình: dọn dẹp sạch sẽ; sau đó lại đem tất cả ý niệm
thiện: cũng tẩy trừ sạch sẽ. Trong tâm thanh tịnh của Tự Tánh không có thiện
ác, không có nhiễm tịnh, không có đúng sai, đều không có thứ gì, 「本來無一物」“bổn lai vô nhất vật”(xưa nay không một vật), câu này do Lục
tổ nói, đó là Chân Tâm của chính mình. Chân Tâm là thanh tịnh, là bình đẳng, là
giác thì không mê, năm chữ trên tựa đề Kinh của chúng ta, thanh tịnh bình đẳng
giác là Chân Tâm của chúng ta. Thanh tịnh không có ô nhiễm, bình đẳng không có
xao động, cho nên tâm phải định, không được động, động thì không bình đẳng, giống
như nước vậy, nước vừa động thì nổi sóng. Chân Tâm không khởi sóng, mà Vọng tâm
khởi sóng, chúng ta gọi là cảm xúc, đó là Vọng Tâm. Sóng to gió lớn, khi vui mừng
thì sóng to gió lớn, không vui nổi giận cũng là sóng to gió lớn, đó đều là Vọng
tâm, không phải Chân Tâm. Phải dùng Chân Tâm, trị bệnh cho người cần phải dùng
Chân Tâm, ông nói chính mình phải đầy đủ tiêu chuẩn này.
Phương
pháp trị liệu rất đơn giản, bệnh nhân không cần gặp mặt với chính mình, khoảng
cách mấy ngàn dặm cũng có thể chữa khỏi, dùng điều gì để chữa? Không có rời khỏi
Giới Định Huệ. Tư liệu ông cần chỉ là bốn điều: thứ nhất là họ tên của bệnh
nhân, thứ hai là ngày tháng năm sinh, thứ ba là người hiện đang sống ở nơi nào,
thứ tư là bệnh án, báo cáo kiểm tra ở bệnh viện, ông chỉ cần bốn thứ đó. Cách
trị liệu: là mỗi ngày quán tưởng nửa tiếng, sau khi xem bệnh án của người bệnh,
quán tưởng đến chính mình trở thành một thể với bệnh nhân, bệnh trên thân người
ốm: chính là bệnh trên thân tôi hiện nay, bây giờ tôi đang bắt đầu điều trị cho
chính mình, hoàn toàn dùng niệm lực, làm cho tế bào mang mầm bệnh trên thân
tôi: khôi phục bình thường. Ông có bốn câu kệ, cũng giống như Chú ngữ vậy, như
Mật tông niệm Chú vậy, ông không phải niệm Chú, mà ông niệm bốn câu này, câu đầu
tiên là xin lỗi, tôi không chăm sóc tốt quý vị, khiến quý vị mang mầm bệnh, xin
lỗi quý vị; Câu tiếp là xin thứ lỗi; Câu thứ ba là cảm ơn quý vị; Câu sau cùng
là tôi yêu quý vị, chỉ niệm bốn câu đó. Niệm bốn câu này đối với tế bào mang mầm
bệnh, dùng tâm thanh tịnh niệm, nửa giờ đồng hồ, mỗi ngày thực hiện nửa tiếng, liên
tục làm một tháng, 30 ngày, bệnh đã khỏi, đã khôi phục bình thường. Khi đó bệnh
bên đây tôi khỏi, thì bệnh nhân bên đó liền khỏi, khám lại không còn nữa. Rất
thần kỳ, ông đã chữa khỏi mấy ngàn người, đến nơi chúng ta đây để biểu diễn cho
chúng ta xem.
Cho
nên, trong kinh đức Phật đã giảng bao nhiêu lần, không rõ số lần, 「一切法從心想生」“nhất thiết pháp tùng tâm tưởng sanh”(tất cả pháp từ tâm tưởng
sanh), 「相由心生」“tướng do tâm sanh”(tướng do tâm
sanh), 「境隨心轉」“cảnh tuỳ tâm chuyển”(cảnh chuyển
theo tâm), tất cả đều nói về việc ấy. Vậy là chúng ta đã hiểu rõ, ngày nay
chúng ta: vẫn chưa có cách chăm sóc thân thể của chính mình, chúng ta đã hiểu
được đạo lý, vấn đề đó phát sinh ở chỗ nào? Do sự ô nhiễm trong tâm của chúng
ta: chưa được dẹp trừ sạch sẽ. Cần khẩn trương buông xuống, do toàn là giả, tài
sắc danh thực thuỵ đều là giả, không có điều gì là thật. Buông sạch sẽ hết thảy,
thì chúng ta có thể đạt được: chí ít giống như bản lĩnh đó của Tiến sĩ HewLen. Đó
không phải thần kỳ, chẳng phải do Phật Bồ-tát nào dựa thân, không phải, cũng
không phải gia trì gì, không phải vậy, mà ở đạo lý đó, người nào cũng làm được,
tất cả chúng sanh vốn là Phật, sao họ có thể làm không được? Sư phụ của lão Hoà
thượng Hải Hiền chữa bệnh cho người, tuỳ ý lấy một nắm cỏ, đó chính là thuốc, bệnh
gì cũng trị được. Có phải sức mạnh của cỏ đó không? Không phải, cỏ là thuốc dẫn,
trên thực tế là gì? Là niệm lực. Công phu niệm lực của ngài: cao minh hơn Tiến
sĩ HewLen, nên Tiến sĩ HewLen: vẫn cần mỗi ngày nửa giờ làm 30 ngày, mới có thể
làm xong, người ấy lập tức liền thấy hiệu quả. Đó chính là do tâm của ngài
không chỉ thanh tịnh, mà đã đến bình đẳng. Thanh tịnh là định của A-la-hán,
công phu sức định, bình đẳng là định lực của Bồ-tát. Nếu là Đại triệt Đại ngộ,
Minh tâm Kiến tánh, thì sức mạnh đó là càng lớn, Pháp thân Bồ-tát, là năng lực
trên quả địa Như Lai đến gia trì, lập tức liền thấy hiệu nghiệm.
Cho
nên, tâm phải Chân, Chân là không có dục vọng. Dục vọng là gốc của Lục đạo luân
hồi, không trừ bỏ hết dục vọng, thì việc vãng sanh sẽ có chướng ngại. Người thật
sự được vãng sanh, nghiệp chướng lại nặng, một niệm cuối cùng của họ thật sự
buông xuống, họ mới có thể đi được. Sau cùng vẫn còn một niệm không buông xuống
được, thì A Mi Đà Phật cũng không thể dẫn họ đi. Niềm tin của chúng ta vẫn là
không đủ, công phu không đắc lực không phải là vấn đề của pháp, không phải là vấn
đề của Phật, không phải là vấn đề bên ngoài, mà toàn là trong tâm chúng ta có vấn
đề, 「行有不得,反求諸己」“hành hữu bất đắc, phản cầu chư kỷ”(việc
làm có không thành, quay lại tìm ở mình): mới có thể giải quyết vấn đề. Không
hướng ngoại cầu, không phản tỉnh, thì vĩnh viễn không thể giải quyết vấn đề. Trong
Kinh nói thật hay, nhất định phải nhìn ra, có thể nhìn ra, thì được thọ dụng.
Cho
nên, nghiền hoa sen đó thành bụi, mỗi hạt bụi đều có kiến văn giác tri, quý vị
nói đó là Chánh báo hay là Y báo? Đó là Chánh báo cũng là Y báo, Y báo Chánh báo
là một không phải hai. Đã giảng xong đoạn văn này. Liên hoa ấy, là hoa sen của
Thế giới Cực Lạc, 「欲言是依,則華外無佛正覺」“Dục
ngôn thị Y, tắc hoa ngoại vô Phật Chánh Giác”(Muốn nói là Y báo, nhưng lại
ngoài hoa không có Phật Chánh Giác), trong hoa có, ngoài hoa không có; 「欲言是正,則說言百千億葉」“Dục ngôn thị Chánh, tắc thuyết ngôn bá thiên
ức diệp”(Muốn nói là Chánh báo, nhưng lại thuyết nói trăm ngàn ức cánh),
nên cánh ấy là Y báo. 「欲言是因,則如來果上功德」“Dục ngôn thị Nhân, tắc Như Lai Quả thượng
công đức”(Muốn nói là nhân, nhưng lại công đức trên quả địa Như Lai).
Hoa do sao mà có? Hoa là do Như Lai biến hiện; 「欲言是果,則十方所生妙華」“Dục ngôn thị Quả, tắc thập phương sở sanh diệu hoa”(Muốn nói là Quả,
nhưng lại hoa vi diệu sanh ra bởi mười phương), hoa thực sự, hoa của Thế giới
Cực Lạc vô cùng vi diệu, là do nguyện lực của A Mi Đà Phật, và công đức niệm Phật
của chúng sanh mà thành tựu. Nơi đây chúng ta thật sự niệm Phật, thì hoa ấy
trong ao thất bảo lớn lên từng ngày, ánh sáng màu sắc tốt đẹp; Nếu chúng ta
không niệm, thì hoa đó sẽ khô héo. Ở Thế giới Cực Lạc thấy được thay đổi, chỉ
là hoa sen trong ao thất bảo, còn lại không có biến đổi, không có sanh diệt, chỉ
có quang sắc lớn nhỏ của hoa sen đó: là khác nhau, hoa sen có thay đổi, kỳ diệu! 「欲言是主,則能含十方三世無量慧;欲言是伴,則唯是如來正覺。欲言是一法,則此中出無量法;欲言是無量,則亦一句名號。奇奇特特,不可稱,不可說,不可思議之法」“Dục ngôn thị Chủ, tắc năng hàm thập
phương tam thế vô lượng huệ; Dục ngôn thị Bạn, tắc duy thị Như Lai Chánh giác. Dục ngôn thị nhất pháp, tắc thử trung xuất vô lượng pháp; Dục
ngôn thị vô lượng, tắc diệc nhất cú danh hiệu. Kỳ kỳ đặc đặc, bất khả xưng, bất
khả thuyết, bất khả tư nghì chi pháp” (Muốn nói là
Chủ, nhưng lại chứa được vô lượng huệ của mười phương ba đời; Muốn nói là Bạn, nhưng
lại chỉ là Như Lai Chánh Giác. Muốn nói là một pháp, nhưng lại trong đây sanh
vô lượng pháp; Muốn nói là vô lượng, nhưng lại cũng là một câu danh hiệu. Pháp rất
hiếm lạ đặc biệt, không thể xưng, không thể nói, chẳng thể nghĩ bàn), miễn
cưỡng nói tên đó gọi là pháp kỳ đặc. 「上義甚深」“Thượng nghĩa thậm thâm”(Nghĩa trên rất sâu), ý
nghĩa của mấy câu nói đó rất sâu. Tiếp theo Hoàng Niệm lão lược giải thích
thêm.
[Từ] những văn
Kinh này thấy được sự không hiếm lạ. Không khó, chữ đều quen thuộc, nhưng ý
nghĩa thật sự rất sâu, quý vị phải hiểu thấu đáo, thì quý vị mới hoan hỷ. Nếu
quý vị mơ hồ đọc qua những điều này, thì không niệm ra được vị đạo. Chúng ta học
tập kinh giáo không nên tham tiến độ, muốn học bao nhiêu, không cần thiết, phải
hiểu vị đạo bên trong, được thọ dụng chân thật. Sau đó mới vui mừng: đời này chúng
ta may mắn biết bao, đời này gặp được Pháp môn này, đã giải quyết vấn đề. Giải
quyết vấn đề cần thật sự buông xuống, buông xuống tất cả toàn bộ, trở về tự
nhiên. Điều gì cũng là tự nhiên, tự nhiên thật tốt, không cần dùng chút suy
tính nào, tất cả tuỳ thuận tự nhiên, tất cả Phật Bồ-tát chăm lo. Mỗi ngày có một
bữa ăn, do chư Phật Bồ-tát chăm sóc, không có cũng là do Phật Bồ-tát chăm lo, đều
hoan hỷ, đều tiếp nhận; đối với tất cả pháp không khởi tâm không động niệm, không
phân biệt không chấp trước, được đại tự tại! Tất cả tâm đều không nắm giữ, tâm
nắm giữ đều là Vọng tâm, đều là Vọng niệm. Dùng Chân Tâm, không dùng Vọng tâm. Dùng
Chân Tâm tương ưng với Phật Bồ-tát, dùng Chân Tâm, thì [hiểu] vô lượng nghĩa của
từng chữ từng câu trong kinh Phật; Dùng Vọng tâm, thì ý nghĩa gì cũng không có,
đều là Tạp niệm của chính mình, đều là Vọng tưởng của chính mình.
Chúng ta xem Niệm
lão khai thị cho chúng ta. 「茲略釋之。如來果德,稱為奇特。最極奇特,如經中華光出佛之文,則彰明矣!」“Tư lược thích chi. Như Lai quả đức,
xưng vi kỳ đặc. Tối cực kỳ đặc, như Kinh trung hoa quang xuất Phật chi văn, tắc
chương minh hỹ”(Bây giờ giải thích sơ lược điều đó, quả đức của Như Lai,
xưng là kỳ đặc. Tối cực kỳ đặc. Như trong Kinh [có]
đoạn văn về ánh sáng của hoa hiện ra Phật, là biểu lộ rõ ràng vậy!) Kinh văn ở sau chúng ta sẽ đọc đến. Hoa là liên hoa, quang là phát ra ánh sáng,
ánh sáng là do hoa phát ra, trong ánh sáng có cõi nước của tất cả chư Phật trong
mười phương thế giới. Hình tướng ở trong đó, giống như chúng ta xem tivi hiện
nay, hình ảnh đó hiện ra, cõi nước chư Phật trong mười phương, quý vị đều thấy
được toàn bộ. Sau khi thấy được, quý vị liền muốn đi, thật đã đi. Làm sao đi?
Là hoá thân đi, thân của chính mình ở Thế giới Cực Lạc, ở bên cạnh đức Mi Đà, ở
giảng đường của đức Mi Đà, như như bất động. A Mi Đà Phật đang giảng kinh thuyết
pháp, quý vị đang nhất tâm lắng nghe, phân thân đến quốc độ mười phương, hiệu
quả. Phân thân đến cõi nước mười phương cúng Phật, cúng Phật là tu phước, văn
kinh thính Pháp là tu huệ, phước huệ song tu. Chúng ta muốn gặp một tôn Phật mà
cũng không gặp được, không có duyên ấy; đến Thế giới Cực Lạc, tất cả chư Phật trong
mười phương ba đời: quý vị đều gặp được, có thể không đến nơi đó ư? Người không
phát tâm, không muốn đi, cổ đức nói: 「非愚即狂」“phi ngu tức cuồng”(không ngu thì
khùng), họ mới không phát tâm. Thật sự nghe, nào có chuyện không phát tâm đến?
Pháp môn này vô cùng thù thắng hiếm lạ đặc biệt, viên dung bao hàm vô lượng vô biên
Pháp môn, một pháp chính là tất cả pháp, tất cả pháp chính là một pháp này, thật
vi diệu!
Tiếp
theo trích dẫn Kinh văn của Kinh Hoa Nghiêm nói, 「如《華嚴經》云:一切眾生身中有正覺智」“như Hoa Nghiêm Kinh vân: nhất thiết chúng sanh thân trung hữu Chánh
Giác trí”(như trong Kinh Hoa Nghiêm nói: trong thân của tất cả chúng
sanh có Trí chánh giác). Câu nói này chính là lời của Đại sư Huệ Năng, nói
khi khai ngộ, 「何期自性,本自具足」“hà kỳ Tự Tánh, bổn tự cụ túc”(nào
ngờ Tự Tánh, vốn tự đầy đủ). Đầy đủ điều gì? Vô lượng trí huệ, vô lượng
công đức, vô lượng tướng tốt, đầy đủ toàn Vũ trụ. Trên thân của tất cả chúng
sanh có, cho nên nói tất cả chúng sanh vốn là Phật, chỉ là hiện nay quý vị đang
mê. Đã mê nhưng Trí chánh giác của quý vị, công đức của quý vị, tướng hảo của
quý vị không hề mất đi, chẳng qua là hiện nay không thể hiện tiền, cũng không
có mất đi, quý vị có thể bỏ đi chướng ngại, thì liền hiện ra. Chướng ngại là
gì? Chính là ba loại Phiền não lớn, Vô minh Phiền não, Kiến tư Phiền não, Trần
sa Phiền não, ba loại phiền não ấy chướng ngại Tánh đức của quý vị. Trong Kinh
Hoa Nghiêm còn có câu nói: 「一切眾生皆有如來智慧德相」“Nhất
thiết chúng sanh giai hữu Như Lai trí huệ đức tướng”(Tất cả chúng sanh đều
có trí huệ đức tướng của Như Lai), cũng tương đồng với ý nghĩa này. Đức Phật
không có Vọng ngữ, lời Phật dạy đều là lời thật, nên phải tin. Nói cách khác, tất
cả chúng sanh với chư Phật Như Lai, với A Mi Đà Phật, vốn là hoàn toàn giống
nhau, không có khác biệt chút nào. Long Nữ tám tuổi thành Phật không hiếm lạ, bởi
vì trước nay là Phật!
Đại
thừa giáo giảng rõ ràng như vậy, Vô minh Phiền não là gì? Là Khởi tâm Động niệm.
Nhưng Khởi tâm Động niệm vi tế: chính mình chẳng biết, nên gọi là Vô minh. Tự
quý vị biết, vậy thì đã sáng tỏ, không biết. Nhà Khoa học đã nói ra cho chúng
ta, chúng ta xem báo cáo Khoa học, đối với vô thỉ vô minh: đã có khái niệm rõ
ràng. Động niệm ý niệm cực kỳ vi tế, [đoạn] đối thoại của Bồ-tát Di Lặc và đức
Thích Ca Mâu Ni Phật: chúng ta đã học đến. Đức Thế Tôn hỏi Bồ-tát Di Lặc, nói ý
niệm có bởi tâm, phàm phu nhân gian, ý niệm ấy của họ đã động, trong một ý niệm
đó: có mấy niệm, có mấy tướng, có mấy thức, đức Phật hỏi như vậy. Kinh văn là: 「心有所念,幾念幾相識耶?」“Tâm hữu sở niệm, kỷ niệm kỷ tướng thức da?”(Niệm có bởi tâm, có mấy niệm mấy tướng
mấy thức?) Chúng ta giảng sáng tỏ câu nói này, dùng văn bạch thoại nói rõ
ràng, thì phàm phu khởi ý niệm, có bao nhiêu niệm nhỏ, có bao nhiêu Tướng phần
(hiện tượng vật chất), có bao nhiêu thức, (thức nghĩa là Chủng tử, Nghiệp tập
hàm chứa trong: A-lại-da), đã hỏi nhiều như thế, trong một câu nói, hiện tượng
vật chất, thức là hiện tượng tinh thần, Bồ-tát Di Lặc trả lời rằng: một khảy
tay đó, thời gian của một búng tay rất ngắn, 「一彈指有三十二億百千念」“nhất đàn chỉ hữu tam thập nhị ức bá thiên niệm”(một khảy ngón
tay có 32 ức trăm ngàn niệm). Trước là nói ý niệm, quý vị nói có mấy niệm, một
khảy tay có 32 ức trăm ngàn niệm. 「念念成形」“Niệm niệm thành hình”, hình chính
là tướng, niệm nào cũng có hình, đều có hiện tượng vật chất. 「形皆有識」“Hình giai hữu thức”(Hình đều có thức), chỉ cần có hiện tượng
vật chất, trong mỗi hiện tượng vật chất, đều có thọ tưởng hành thức, Ngũ uẩn. Ngũ
uẩn là một thể, Ngũ uẩn không thể chia ra, trong tướng có thức, trong thức có
tướng, hơn nữa còn là thức có trước, tướng có sau.
Đơn
vị chúng ta dùng hiện nay, đơn vị thời gian là dùng giây, một giây có thể khảy
bao nhiêu lần? Trước đây tôi đều là nói năm lần, có người nói với tôi là vượt
hơn, có thể búng bảy lần. Nếu là búng bảy lần, thì 320 ngàn tỷ, một búng tay này
[có] 32 ức trăm ngàn niệm, chúng ta làm phép tính nhân, trăm ngàn là 10 vạn, 32
ức nhân 10 vạn, bằng 320 ngàn tỷ. Trong một khảy ngón tay, có 320 ngàn tỷ ý niệm,
ý niệm vi tế, ai biết được? Ngay ở trước mắt chúng ta, mà chúng ta không chút cảm
nhận, không biết. Đó là chân tướng, chân tướng sự thật. Nếu một giây khảy bảy lần,
3 nhân 7; 3 lần 7 là 21, đó chính là một giây có: 2 triệu 100 ngàn tỷ lần sanh
diệt. 2 triệu 100 ngàn tỷ lần sanh diệt trong một giây, làm sao chúng ta bắt kịp
được? Không có cách nào, thiết bị Khoa học hiện nay, có thể bắt kịp đến một phần
1 triệu ngàn tỷ giây, Phật nói là một phần 2 triệu 100 ngàn tỷ giây, thiết bị
Khoa học hiện đại vẫn không được, vẫn phải tiến lên, vẫn phải phát triển hơn nữa,
có thể bắt kịp thêm gấp đôi, chúng tôi tin có khả năng thực hiện được, qua hơn
2-30 năm, có thể vượt qua gấp đôi, theo kịp đến một phần 2 triệu ngàn tỷ giây, vậy
thì không khác biệt nhiều, tiếp cận với lời Phật dạy. Ý niệm vi tế ấy, là pháp
sanh diệt.
Quý
vị nói, mỗi một ý niệm: đều là một tấm phim. Đây là đoạn cắt của cuộn phim trước
kia, điện ảnh trước đây là dùng ảnh động tạo thành, một giây trong máy chiếu
phim, một đóng một mở đó, chính là sự sanh diệt, sanh diệt bao nhiêu lần? 24 lần.
Một giây 24 lần, chúng ta xem chiếu phim đã bị phim mê hoặc, cho rằng đó giống
như là thật. Tivi tiến bộ hơn chiếu phim, tần số càng cao hơn, tivi là 50 tấm
phim ảnh trong một giây. Một giây, đã tăng xấp xỉ gấp đôi. Tivi hiện đại dùng kỹ
thuật số, mỗi giây có 100 lần sanh diệt, một giây có 100 lần, ở trên màn hình
đó nhìn không ra kẽ hở. Khi 1/24 giây có thể nhìn thấy, xem thấy điều gì? Ánh
sáng ấy đang chớp nháy. Không thấy ánh sáng của tivi chớp nháy, đã tăng gấp
đôi, 1/50 giây, thì không thấy hiện tượng chớp nháy. Kỹ thuật số hiện nay là
100 tấm trong một giây, cho nên là giống như hiện trường thật. Nếu Bồ-tát Di Lặc
không giảng cho chúng ta, thì chúng ta vĩnh viễn không biết chân tướng sự thật.
Khoa
học có trợ giúp rất lớn đối với chúng ta, tuy không phải là chúng ta: dùng cảnh
giới đích thân chứng được của công phu Thiền định, nhưng chúng ta đã tin; đối với
lời nói của đức Phật ở trong kinh: không hoài nghi nữa. Một khi đã tin: thì những
gì mà Phật nói trong kinh, chúng ta đã tin toàn bộ, nhưng có một số việc rất hiếm
lạ, đó là gì? Đó là năng lực của chúng ta vẫn không làm được, chúng ta không đạt
được cảnh giới ấy, chúng ta tin thật có. Tần số cao đó, sanh diệt 2 triệu 100
ngàn tỷ lần trong một giây, ở trước mắt chúng ta, mà chúng ta không có cảm
giác. Sự sanh diệt đó vĩnh viễn không ngừng, niệm trước diệt niệm sau sanh. Trong
kinh nói với chúng ta tương tự liên tục, không phải liên tục thật. Liên tục thật
thì: niệm trước hoàn toàn giống với niệm sau, đó gọi là tướng liên tục. Tương tự
liên tục không giống nhau. Chúng ta ở phạm vi nhỏ trong gian phòng này, hai tiếng
đồng hồ, không có thay đổi, giống nhau; Nhưng nếu quý vị nói toàn bộ thế giới, thì
không giống nhau nữa; Tất cả vũ trụ, càng không giống nhau. Ý niệm của chúng ta
là sanh ra toàn bộ vũ trụ, không phải hệ mặt trời, chẳng phải hệ ngân hà, mà là
toàn vũ trụ, mỗi ý niệm đều là toàn vũ trụ. Vũ trụ do từ đâu ra? Từ tâm tưởng
sanh. Tâm tưởng do từ đâu đến? Là do Tự Tánh vốn có. Chính là Đại sư Huệ Năng
nói: 「何期自性,本自具足」“Hà kỳ Tự Tánh, bổn tự cụ túc”(Nào
ngờ Tự Tánh, vốn tự đầy đủ), đầy đủ trí huệ viên mãn, công đức viên mãn, sắc
tướng viên mãn, do vốn tự đầy đủ. Thiên biến vạn hoá bất luận biến thế nào, cũng
không rời căn bản, căn bản là Tự Tánh.
Cho
nên, kiến Tánh quan trọng hơn bất cứ điều gì, 8 muôn 4 ngàn Pháp môn, vô lượng
Pháp môn, mục đích truy cầu cuối cùng là gì? Chính là kiến Tánh. Sở dĩ nói Pháp
môn bình đẳng, là vì Pháp môn nào cũng có thể giúp quý vị thấy Tánh. Là giống
như thuốc, quý vị bị bệnh, thuốc đến bệnh hết, quý vị uống thuốc rồi thì bệnh sẽ
khỏi. Các loại bệnh khác nhau, thuốc cũng khác nhau; 84 ngàn Pháp môn: chữa trị
84 ngàn bệnh của chúng sanh; vô lượng Pháp môn trị vô lượng bệnh của chúng
sanh. Rốt cuộc bệnh của tôi là gì, tôi nên dùng thuốc nào, chính mình không biết,
gặp được Phật thì được rồi, gặp được A-la-hán, gặp được Phật, quý Ngài biết
nhìn. Túc mạng thông của A-la-hán biết được 500 đời, quý ngài có thể thấy: những
Tập khí Phiền não của quý vị trong 500 đời, quý ngài có cách chữa cho quý vị. Vậy
nếu gặp được Phật thì càng tốt, Phật xem thấy sự việc lúc trước: của quý vị
trong vô lượng kiếp, nên gặp được Phật là may mắn nhất. Vậy chúng ta đến Thế giới
Cực Lạc, thân cận A Mi Đà Phật, thì chẳng phải đã giải quyết vấn đề rồi ư? A Mi
Đà Phật thấy được vô lượng kiếp trước của chúng ta, xem thấy nguồn gốc của
chúng ta: khi niệm không giác thì có Vô minh, đời đời kiếp kiếp từ sau khi đã
mê, Ngài biết toàn bộ. Có cần thỉnh giáo Ngài dùng phương pháp nào chữa trị không?
Đã có phương pháp, chính là một câu A Mi Đà Phật, quá tuyệt vời! Quý vị đến Thế
giới Cực Lạc. Phật dạy quý vị vẫn là niệm câu A Mi Đà Phật này, chắc chắn không
có sai.
Hiện
nay đức Thích Ca Mâu Ni Phật dạy cho chúng ta; đến Thế giới Cực Lạc, A Mi Đà Phật
dạy cho chúng ta, không hề thay đổi, là một không phải hai. Sau đó chúng ta sẽ
đảnh lễ đức Thích Ca Mâu Ni Phật, thật sự khâm phục đức Bổn sư. Lúc đó mới hiểu
rõ thật sự, chẳng phải đến Thế giới Cực Lạc: A Mi Đà Phật lại thay đổi một Pháp
môn khác, không phải, đó là vọng tưởng của quý vị, quý vị nghĩ sai rồi. Đến Thế
giới Cực Lạc, một câu A Mi Đà Phật niệm đến cùng, vì sao? Bởi câu Phật hiệu này
là đức hiệu của Tự Tánh, đó là bất biến. Tự Tánh là thật, còn danh hiệu khác đều
là phương tiện, tại sao vậy? Bởi danh hiệu đó của đức Thích Ca Mâu Ni Phật, thì
Thích Ca là nhân từ, Mâu Ni là thanh tịnh, dùng đại từ đại bi, dùng tâm thanh tịnh,
để giúp Thế giới Ta Bà này, chúng sanh của Thế giới Ta Bà thiếu tâm từ bi, tâm
địa ô nhiễm nghiêm trọng, nên dùng phương pháp đó để chữa trị. A Mi Đà Phật là
vô lượng giác, chữ “A” dịch là vô, “Mi Đà” dịch là lượng, “Phật” là giác, trí
huệ Chánh giác, vô lượng trí huệ Chánh giác, bệnh gì cũng chữa được, khắp Pháp
giới hư không giới, chúng sanh trong tất cả cõi nước chư Phật, danh hiệu này của
A Mi Đà Phật đều điều trị được. Do đó tới Thế giới Cực Lạc, gặp được A Mi Đà Phật,
A Mi Đà Phật vẫn là dạy quý vị niệm A Mi Đà Phật, vi diệu vô cùng, thật sự
không thể nghĩ bàn.
Cho
nên Trí chánh giác, chính là trí huệ đức tướng của Như Lai, điều này quả thật
đúng là rất lạ, hiếm lạ, 「但眾生皆具」“đãn chúng
sanh giai cụ”(nhưng chúng sanh đều đầy đủ), mỗi chúng sanh đều có
trí huệ đức tướng của Như Lai, nên không có gì đặc biệt, 「則非特殊現象,故云奇而非特」“tắc phi đặc thù hiện tượng, cố vân kỳ nhi phi đặc”(thì không có
hiện tượng đặc biệt, nên nói hiếm lạ nhưng không đặc biệt). 「《法華》中龍女成佛,八歲之龍女,能立即成佛,確極特殊」“Pháp Hoa trung Long Nữ thành Phật, bát tuế chi Long Nữ, năng lập tức
thành Phật, xác cực đặc thù”(Trong Kinh Pháp Hoa, Long Nữ thành Phật,
Long Nữ tám tuổi, có thể lập tức thành Phật, thật cực kỳ đặc biệt), thật là
vô cùng đặc biệt. 「但特而非奇」“Đãn đặc nhi phi kỳ”(Nhưng đặc biệt
mà không hiếm lạ), cũng không kỳ lạ. 「因眾生本來是佛,人人有分,個個現成,故龍女成佛並不名奇」“Nhân chúng sanh bổn lai thị Phật, nhân nhân hữu phần, cá cá hiện thành,
cố Long Nữ thành Phật tịnh bất danh kỳ”(Bởi chúng sanh trước nay là Phật,
người nào cũng có phần, ai cũng có sẵn, nên Long Nữ thành Phật cũng không gọi
là lạ), điều này không kỳ lạ. 「唯此經中之淨宗一法,既是最奇,又是最特。」“Duy thử Kinh trung chi Tịnh tông
nhất pháp, ký thị tối kỳ, hựu thị tối đặc”(Chỉ một pháp Tịnh tông trong
Kinh này, đã là hiếm lạ nhất, lại là đặc biệt nhất). Chúng ta phải nên chú ý đến điều này, quá tuyệt vời. Cho nên nếu
thật sự thông bộ Kinh này, làm rõ ràng, làm sáng tỏ, thì thông toàn bộ Phật
Pháp. Nhất định phải tuân theo lời của lão Tổ tông, 「一門深入,長時薰修」“nhất môn thâm nhập, trường thời
huân tu”(thâm nhập một môn, huân tu lâu dài), 「讀書千遍,其義自見」“độc thư thiên
biến, kỳ nghĩa tự kiến”(đọc sách ngàn lần, tự hiểu nghĩa của sách). Ngày
nào cũng đọc, đọc một lần từ đầu đến cuối là tu định; Nếu cẩn thận thì mỗi ngày
chỉ học xong một đoạn nhỏ, đó là huệ, đó là tu huệ. Cho nên công đức của tu huệ và tu định đều thông, không
có khác nhau, phương pháp không giống nhau, tuỳ ưa thích của mỗi người. Giới
hoàn toàn ở trong đó. Giới là gì? Là tâm địa thanh tịnh, có pháp hỷ mà không chấp
trước, hôm nay quý vị lãnh hội được Lý này, lại qua mấy ngày nhận thức càng cao
hơn, sâu hơn nữa, lại có những điều kỳ diệu được quý vị thấy được, mới biết ý
nghĩa của từng câu từng chữ là ý vị vô cùng, nghĩa sâu không có đáy, rộng không
biên giới, đó chính là Tánh đức. Vì sao có thể như vậy? Do đức Thế Tôn lưu lộ
ra từ trong Đại Tịch Định, đều đã nói bí mật với quý vị. Nếu chẳng phải Đại Tịch
Định, thì nói ra những điều này sẽ không có loại hiệu quả ấy. Sau đó mới biết
những điều cao hay của cổ Thánh tiên Hiền, hiện nay chúng ta không thể sánh với
quý ngài, tại sao vậy? Bởi tâm người thời nay nông nổi, nông nổi đến tột cùng,
họ không an định được, hơn nữa đều cho rằng đó là đúng, không tin ở ngay trong
tâm thanh tịnh: sẽ ngộ ra đạo lý, họ không tin. Nhất định phải học rộng nghe
nhiều, chắc chắn phải thông qua biện luận, hoàn toàn tương phản với những gì mà
cổ Đức nói, thì khó rồi. Chúng ta cũng là đi con đường của người xưa, mới đạt
được chút cam lồ, nếm được chút pháp vị, nếu học theo người hiện nay, thì không
đạt được, đạt được là tri thức, không được thọ dụng. Thời gian hôm nay đã hết, chúng
ta chỉ học tập đến chỗ này.
( Hết tập 125)
Nguyện đem công đức này
Hướng về khắp tất cả
Đệ tử cùng chúng sanh
Đều sanh nước Cực Lạc
Nhanh viên thành Phật quả
Rộng độ khắp chúng sanh.
Nam Mô A Mi Đà Phật.