Tịnh Độ Đại Kinh Khoa Chú 2014
(Giảng lần thứ 4)
Tập 131
Chủ giảng: Hòa Thượng Thích Tịnh Không
Ngày giảng: 09/11/2014
Địa điểm: Hiệp Hội Giáo Dục Phật Đà Hồng Kông
Dịch giả: Sư cô Thích Tâm Thường
Giảo chánh: Thích Thiện Trang.
Kính chào chư vị Pháp sư, quý vị đồng học, mời an tọa. Thỉnh mọi người cùng tôi quy y Tam Bảo:
A-xà-lê tồn niệm, ngã Đệ tử Diệu Âm, thỉ tùng kim nhật, nãi chí mạng tồn, quy y Phật Đà, lưỡng túc trung tôn, quy y Đạt Ma, ly dục trung tôn, quy y Tăng Già, chư chúng trung tôn. (3 lần)
Mời xem Đại Kinh Khoa Chú, trang 368, hàng thứ sáu, bắt đầu xem từ hàng thứ sáu:
又本經能惠真實之利者,緣由經中開化皆是真實之際,極樂妙土正是彌陀住真實慧之所流現 “Hựu bổn Kinh năng huệ chân thật chi lợi giả, duyên do Kinh trung khai hóa giai thị Chân thật chi tế, Cực Lạc diệu độ chánh thị Mi Đà trụ chân thật huệ chi sở lưu hiện” (Lại nữa, Kinh này có thể ban cho lợi ích chân thật, là bởi những lời khai thị giáo hóa trong Kinh đều là chân thật chi tế, Cực Lạc diệu độ chính là đức Mi Đà trụ trong trí huệ chân thật mà hiện ra). Đoạn cuối cùng này, Niệm lão vì chúng ta mà nói rõ: việc ban cho lợi ích chân thật. Vì sao nói bộ Kinh này là thù thắng nhất, nguyên nhân chính là trong Kinh, những điều Phật khai thị cho chúng ta, những điều Phật dạy bảo chúng ta đều là chân thật chi tế. Chân thật chi tế chính là Chân Như Tự Tánh, hoặc nói Chân Như Bản tánh, cũng chính là Chân tánh vốn có của chúng ta. Đó là từ trong Chân Tâm mà lưu xuất ra, không phải từ Vọng tâm lưu xuất ra. Tâm mà phàm phu lục đạo chúng ta, mọi lúc, mọi nơi dùng là Vọng tâm, không phải Chân Tâm. Nếu dùng Chân Tâm thì thành Phật rồi, dùng Vọng tâm, đấy là phàm phu.
Thế nào là Chân Tâm? Thế nào là Vọng tâm? Vọng tâm là tâm sanh diệt, chính là ý niệm. Quý vị xem, niệm trước diệt rồi, thì niệm sau sanh, niệm niệm tương tự liên tục, không phải là thật sự liên tục. Mỗi ý niệm đều khác nhau, một ý niệm là một cảnh giới, giống như chúng ta xem phim đèn chiếu, dùng điện ảnh trước đây để làm ví dụ thì không khó hiểu. Đây là quá khứ, bây giờ không có nữa, điện ảnh trước đây là dùng hình ảnh động mà tạo thành, đây là đoạn cắt của cuộn phim. Nó là hình ảnh động, đặt trong máy chiếu phim, khi mở ống kính ra, một hình ảnh được chiếu lên màn hình, hình ảnh này được chiếu trên màn hình là viên mãn, là toàn thể, không phải bộ phận, không có trước sau, chiếu một là chiếu tất cả trong đó. Đóng ống kính lại, đổi hình ảnh thứ hai, lại mở ra, hình ảnh thứ hai đi vào. Là từng hình ảnh một, tốc độ một giây 24 hình ảnh, cũng tức là 1 phần 24 giây, đây chính là nguyên lý của điện ảnh trước đây. Điện ảnh tạo thành thế nào? Do phương pháp nào mà tạo thành.
Hiện nay chúng ta đều xem TV, càng giống thật hơn điện ảnh, tại sao vậy? Bởi điện ảnh một giây có 24 hình ảnh, là TV, trước đây, tin rằng quý vị vẫn còn nhớ xem TV trắng đen, còn chưa có TV màu, là TV trắng đen, TV lúc đó một giây tương đương với 50 hình ảnh phim máy chiếu này của chúng ta. Quý vị xem, như vậy trong điện ảnh chiếu 24 hình ảnh, còn hình ảnh động trong TV là một giây 50 hình ảnh, nên xem giống thật hơn điện ảnh. TV bây giờ, hiện nay là TV màu, là kỹ thuật số, bây giờ dùng kỹ thuật số, một giây có 100 hình ảnh. Càng ngày càng giống y như thật, khoa học kỹ thuật này đang không ngừng phát triển.
Hoàn cảnh thực tế, cả vũ trụ, là đến từ đâu? Không ai biết. Ở trên kinh Đại thừa, Phật đã giảng với chúng ta rất nhiều lần, nhưng chúng ta đã lơ là, không để trong tâm. Điều này rất quan trọng, vũ trụ này là sự việc thế nào? Chân tướng là gì? Cũng giống như màn hình TV. Hiện nay, hình ảnh động trên màn hình TV, một giây là 100 hình ảnh, hình ảnh trước bị tiêu diệt rồi, hình ảnh sau liền xuất hiện, hình ảnh diệt rồi mãi sẽ không trở lại, thì quý vị biết đó là giả. Một giây có 100 hình ảnh, hoàn cảnh trên thực tế hiện nay của chúng ta, bao gồm thân thể của chúng ta, ý niệm của chúng ta, tất cả các pháp xung quanh chúng ta, một giây bao nhiêu hình ảnh? Đây là nói về tâm, ý niệm của chúng ta, khởi tâm động niệm, Bồ-tát Di Lặc nói với chúng ta, một búng tay này, một búng tay có 32 ức trăm ngàn niệm. 32 ức trăm ngàn niệm là 320 ngàn tỷ mà chúng ta nói hiện nay, một vạn nhân một vạn là một ức, ngàn tỷ là triệu, một ngàn tỷ đây là triệu, một triệu. Bao nhiêu ngàn tỷ? 320 ngàn tỷ, đây là một búng tay. Một giây có thể búng mấy lần? Có người nói với tôi có thể búng bảy lần, tôi tin tưởng, người trẻ, thể lực rất tốt, búng rất nhanh, một giây búng bảy lần. 320 ngàn tỷ nhân cho 7, ba bảy hai mươi mốt, tức là 2 triệu 100 ngàn tỷ, trong một giây. Một giây có 2 triệu 100 ngàn tỷ lần sanh diệt, thì làm sao chúng ta biết được? Chân tướng sự thật này ở ngay trước mắt, chưa bao giờ ngừng, khi ngủ cũng không gián đoạn, khi ngủ quý vị sẽ còn nằm mộng, lúc ngủ hoàn cảnh này vẫn tồn tại, không có biến mất, đó là gì? Chính là dao động sóng vi tế của chúng ta không có kết thức, vẫn là một niệm một niệm tiếp nối một niệm.
Nên trên Kinh Kim Cang, Phật nói với chúng ta, 凡所有相,皆是虛妄 “phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng” (tất cả những gì có tướng, đều là hư vọng), không có gì là thật, đều là ảo tướng được sanh ra dưới những rung động tần số cao như vậy. Cuối cùng của Kinh Kim Cang nói một bài kệ, 一切有為法,如夢幻泡影 “nhất thiết hữu vi pháp, như mộng huyễn bào ảnh” (tất cả pháp hữu vi, như mộng huyễn bọt bóng), nói với chúng ta không phải là thật, những gì có tướng, đều là hư vọng. Tuy tướng là giả, nhưng người thông minh mượn giả tu chân, giả này có tác dụng, tôi dùng pháp giả này, tôi tìm cầu chân thật ở trong đó. Chân thật là gì? Không sanh không diệt. Chúng ta dùng TV để làm ví dụ, người hiện nay mỗi ngày đang xem TV, màn hình của TV cũng giống như là Tự Tánh, chân thật chi tế, tại sao vậy? Bởi không có sanh diệt. Khi chúng ta ấn kênh, sắc tướng hiện ra, có âm thanh, có sắc tướng, âm thanh và sắc tướng này hiện ra trên màn hình. Màn hình không sanh không diệt, hiện tướng này là một giây có 100 lần sanh diệt, 100 lần trong một giây.
Quá khứ sẽ không trở lại, phải sáng tỏ đạo lý này, phải hiểu rõ chân tướng sự thật. Sau đó chúng ta sẽ tin theo lời của Phật thôi. Phật nói vũ trụ này của chúng ta từ đâu tới? Từ tâm tưởng sanh. Tâm của ai tưởng sanh? Tâm của chính mình tưởng sanh. Chúng ta cùng với đại chúng, tâm tưởng có hai loại: một loại là Biệt nghiệp, Bất cộng pháp, trong tâm tôi nghĩ gì chỉ có mình tôi biết, người ngoài không biết; loại khác là Cộng nghiệp, tôi nhìn thấy gì thì quý vị cũng nhìn thấy, tôi nghe được gì thì quý vị cũng nghe thấy, đó là chung của chúng ta. Có nghiệp chung, có nghiệp không chung, hai loại nghiệp này cùng lúc khởi tác dụng, đây là chân tướng của vũ trụ. Những tướng này đều là giả, không có tướng nào là thật, cả vũ trụ đều là giả tướng.
Bộ Kinh này thì sao? Bộ Kinh này là thật, từng chữ từng câu được nói trong Kinh, đều là được lưu xuất từ trong Tự Tánh của Như Lai, Tự Tánh không sanh không diệt. Tự Tánh cũng gọi là Bản tánh, cũng gọi là Chân Như, cũng gọi là Chân Tâm, vĩnh viễn không biến đổi, đây mới là ngã chân thật của chính mình, chính mình chân thật. Chân ngã này không phải là hiện tượng vật chất, cũng không phải hiện tượng tinh thần, hiện tượng vật chất là sắc thanh hương vị xúc, đó là vật chất, hiện tượng tinh thần là ý niệm, nó cũng không phải là ý niệm, cũng không phải hiện tượng tự nhiên. Vậy ở đâu? Chẳng nơi nào không có, chẳng lúc nào không có, nó là thật, không có sanh diệt. Gặp được duyên liền hiện tướng, không có duyên thì tướng này không hiện, Phật pháp nói có ẩn, có hiện, không có duyên liền ẩn đi. Ẩn chẳng phải là không có, hiện không phải là thật có, đây đều là chân tướng sự thật, thật tướng các pháp, nhất định phải biết.
Thật sự hiểu rõ rồi, dần dần để thể hội, sau khi thể hội được thì quý vị có đại thọ dụng. Thọ dụng này chính là thọ dụng của chư Phật Như Lai, Pháp thân Bồ-tát, quý Ngài có, chúng ta cũng đạt được rồi. Như thế nào? Tất cả hiện tướng, bất kể là thật hay giả, thảy đều buông xuống, tại sao vậy? Bởi không thể đạt được, thật sự không đạt được. Bởi đó không phải là vật chất, cũng không phải tinh thần, lại còn không phải hiện tượng tự nhiên, thì làm sao quý vị có thể đạt được? Quý vị không tách rời nó, luôn luôn kết hợp với nhau, cũng giống như màn hình và hình tướng được hiện trên màn hình. Tướng là giả tướng, thể là thật, là chân thật chi tế, tướng là hư ảo, thật giả là một không phải hai. Trong thật có giả, trong giả có thật, trên màn hình có hình tướng, hình tướng không tách rời màn hình, dùng tỉ dụ này vô cùng gần gũi. Khi xem TV có thể nhìn thấy chân tướng này, đó là khai ngộ rồi, vấn đề quý vị có biết xem không, biết xem cũng sẽ khai ngộ, cũng sẽ thành Phật.
Nên trên kinh Đại thừa nói pháp nào chẳng phải là Phật pháp, TV có phải là Phật pháp không? Phải, chỉ cần quý vị biết. Then chốt là biết và không biết, không biết, thì quý vị là phàm phu, quý vị bị cảnh giới chuyển; nếu biết, thì quý vị chuyển cảnh giới, không bị cảnh giới chuyển, đó chính là Như Lai, nếu có thể chuyển cảnh, thì đồng với Như Lai. Vì vậy trên kinh nói từng chữ từng câu là chân thật chi tế, mãi không biến đổi, 3000 năm trước Phật thuyết Kinh này, người vào khi đó được thọ dụng, hiện nay chúng ta xem bộ Kinh này vẫn được thọ dụng, sau 3000 năm có người đọc được bộ Kinh này, vẫn có thọ dụng, điều này là thật, đây là chân thật chi tế.
Cực Lạc diệu độ, chúng ta đã nói ở phía trước, rất nhiều Tổ sư Đại đức Nhật Bản học Kinh Vô Lượng Thọ, nhiều hơn Trung Hoa, chú sớ vô cùng phong phú, hôm qua chúng ta học đến sáu điều trong sách Lục Yếu. Về Giáo, Giáo chính là Kinh Vô Lượng Thọ; trong Giáo này có Hành, mười niệm chắc chắn được vãng sanh, đây là Hành; có Tín, là chư Phật khen ngợi; có Chứng, là nhất định thành Chánh giác. Có chân Phật, là Vô Lượng Thọ; quang minh vô lượng, quang minh vô lượng là chân độ, chân Phật là thọ mạng vô lượng, quang minh vô lượng, quang minh vô lượng là Thường Tịch Quang Tịnh độ, thọ mạng vô lượng là Vô Lượng Thọ Phật. Sáu điều này đều là chân thật, sáu loại chân thật này chỉ có Kinh Vô Lượng Thọ đầy đủ. Trong Hoa Nghiêm, Pháp Hoa có, nhưng chưa nhìn thấy người tu hành, chưa nhìn thấy người tu hành chứng quả. Pháp môn Tịnh tông thì vãng sanh Thế giới Cực Lạc chính là tu hành chứng quả, rất nhiều! Từ xưa đến nay người ở rất nhiều nơi niệm Phật vãng sanh tướng lành hiếm có, họ là thật, không phải giả. Trước đây chúng tôi thấy ở nước Mỹ, thấy ở Canada, biết trước ngày giờ, không cần người trợ niệm, bản thân rất rõ ràng, rất sáng suốt, vả lại biết trước lúc đi.
Tôi ở San Francisco, bên đó có bà lão họ Cam [là] vị hộ pháp lâu năm, bà nói với tôi, bà có một lão đồng tu, đồng tham, cũng là một bà lão. Con bà ấy đi học ở nước Mỹ, về sau đã xây dựng gia đình ở đó, sanh con, rồi đón bà cụ từ Đài Loan sang nước Mỹ để chăm sóc đứa bé, chăm sóc cháu trai, trông nom việc nhà, ở cùng với con trai, và con dâu. Mỗi ngày bà niệm Phật, đứa bé lớn lên, rồi đi học, bà cụ khỏe, mỗi ngày một mình ở trong nhà, công phu niệm Phật rất tinh tấn. Sáng sớm đều là bà cụ thức dậy nấu đồ ăn sáng, bởi vì con trai con dâu đi làm, cháu trai đi học. Sáng sớm ngày hôm đó không có ai nấu cơm, mọi người đều đã dậy rồi, phòng của bà cụ thì đóng, là việc thế nào? Hôm nay bà cụ khác thường. Đẩy cửa ra vừa nhìn, thấy bà cụ ngồi ở trên giường, mặc áo tràng ngồi xếp bằng trên giường, nhìn kỹ thì bà ra đi rồi, ngồi mà ra đi, niệm Phật mà ra đi. Có di chúc được viết ở bên cạnh, dặn dò việc hậu sự, còn có tang phục cho con trai, con dâu, cháu trai, bà đều đã làm xong. Những việc này ít nhất là ba tháng, tức là trước ba tháng thì bà biết ngày nào bà sẽ đi, nhưng không nói với bất kỳ người nào, nhìn thấy di chúc, vậy mới biết. Công phu niệm Phật không sai biệt lắm với lão Hòa thượng Hải Hiền, với mẹ của lão Hòa thượng Hải Hiền, làm được! Ngài Hải Hiền ở chùa Lai Phật tại Nam Dương, còn lão đồng tham ấy của Cam phu nhân ở San Francisco tại nước Mỹ. Vì thế đây là thật, chứ không phải giả.
Nên trên Kinh này nói những đạo lý đó cho chúng ta, nói những chân tướng sự thật đó, có lý có sự, có phương pháp tu hành, quý vị thật làm thật thành công. Điều quan trọng là phải buông xuống được vạn duyên, chính là Phật nói với chúng ta: phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng, không có gì là thật. Mọi người nhất thời gặp gỡ đều là duyên phận, duyên phận thì phải trân quý, còn chính mình phải nỗ lực nghiêm túc để làm, chỉ có điều này mang đi được, ngoài ra không có gì có thể mang đi, ngay cả thân thể này cũng không mang đi được. Người niệm Phật thân thể nhất định khỏe mạnh, sẽ không bị bệnh, tại sao vậy? Bởi cảnh chuyển theo tâm. Câu Phật hiệu A Mi Đà Phật này thù thắng không gì bằng, trong tất cả chân thật, Phật hiệu này là chân thật nhất. Niệm câu Phật hiệu này chính là niệm chân thật chi tế của chính mình, chính là niệm Chân Tâm của chính mình, Chân Tâm của chính mình là A Mi Đà Phật, A Mi Đà Phật là Chân Tâm của chính mình, vô cùng thân thiết. Một ý niệm này đảm bảo đời này quý vị vãng sanh Thế giới Tây Phương Cực Lạc đi làm Phật rồi, vị Phật mà quý vị làm giống như A Mi Đà Phật, thật hiếm có.
Y chánh trang nghiêm của Thế giới Cực Lạc chính là đức Mi Đà trụ chân thật huệ, đây là trí huệ chân thật vốn đầy đủ trong Tự Tánh, Thế giới Cực Lạc là nhờ công đức nguyện hạnh của A Mi Đà Phật mà thành tựu. Chúng ta niệm A Mi Đà Phật, nhất tâm xưng niệm, không có tạp niệm, không có vọng tưởng, từng tiếng cảm ứng đạo giao với A Mi Đà Phật. A Mi Đà Phật xây dựng Thế giới Tây Phương Cực Lạc, công đức niệm Phật này của chúng ta cũng tham gia một phần của Ngài. Đây là đại nguyện đại hạnh của A Mi Đà Phật, chúng ta chịu niệm, cũng chính là nói chúng ta thêm gạch thêm ngói cho Thế giới Cực Lạc, chúng ta có một phần công đức trong đó. Còn có gì thù thắng hơn điều này? Không còn nữa, công đức chân thật bậc nhất.
Tiếp theo Niệm lão đưa ra Luận Vãng Sanh làm chứng minh cho chúng ta, 如《往生論》曰:三種 “như Vãng Sanh Luận viết: tam chủng” (như trong Luận Vãng Sanh nói: ba loại), ba loại này chính là: cõi Phật, Phật, Bồ-tát được nói trong dấu ngoặc, 成就願心莊嚴,略說入一法句故 “thành tựu nguyện tâm trang nghiêm, lược thuyết nhập nhất pháp cú cố” (thành tựu nguyện tâm trang nghiêm, nên nói đơn giản nhập vào một câu pháp). Một câu pháp này chính là 真實智慧無為法身“chân thật trí huệ Vô vi Pháp thân” (trí huệ chân thật, Pháp thân Vô vi), tâm là trí huệ chân thật, thân là Pháp thân Vô vi. Trong Luận Vãng Sanh nói với chúng ta những sự việc này của Thế giới Cực Lạc, bên trong có ba đoạn lớn: đoạn lớn thứ nhất nói Y báo trang nghiêm, đã nói 17 loại về hoàn cảnh của Thế giới Cực Lạc; sau đó giới thiệu A Mi Đà Phật với chúng ta, giới thiệu A Mi Đà Phật thì nói 8 loại; cuối cùng nói với chúng ta, mười phương vô lượng vô biên thế giới chư Phật, vô số Bồ-tát, Thanh văn, Duyên giác, chúng sanh lục đạo, niệm Phật vãng sanh đến Thế giới Cực Lạc đều là Bồ-tát, đến Thế giới Cực Lạc đều làm Bồ-tát. Bồ-tát có: bốn loại trang nghiêm, Phật có: tám loại trang nghiêm, hoàn cảnh có: 17 loại trang nghiêm, thành tựu nguyện tâm trang nghiêm. Nói lược là nhập vào một câu pháp, một câu pháp này, gọi là câu thanh tịnh, 清淨句者,謂真實智慧無為法身故 “thanh tịnh cú giả, vị chân thật trí huệ Vô vi Pháp thân cố” (câu thanh tịnh: là nói trí huệ chân thật, Pháp thân Vô vi). Trí huệ chân thật là tâm, Pháp thân Vô vi là thân, Chân Tâm vãng sanh Thế giới Cực Lạc.
真實之際者,無為法身也 “Chân thật chi tế giả, Vô vi Pháp thân dã” (Chân thật chi tế: là Pháp thân Vô vi). Vô vi mà vô sở bất vi, Vô vi, không có tất cả hiện tượng, trên kinh Đại thừa thường hay dùng bốn chữ để miêu tả: thanh tịnh tịch diệt. Đó là thanh tịnh, không nhiễm một trần; đó là tịch diệt, diệt tất cả sanh tử, vọng tưởng, phiền não. Trong đó hoàn toàn không có những thứ này, đó không phải là pháp sanh diệt, mà không sanh không diệt. Lục Tổ Đại sư Huệ Năng của Thiền tông, ngày đó ngài khai ngộ, Đại triệt Đại ngộ, Minh tâm Kiến tánh, chính là thấy được Chân Tâm, Chân Tâm là hình dạng thế nào? Ngài hướng Ngũ tổ Hòa thượng Hoằng Nhẫn làm báo cáo, báo cáo rất đơn giản, chỉ nói năm câu. Câu thứ nhất là thanh tịnh, 何期自性,本自清淨 “hà kỳ Tự Tánh, bổn tự thanh tịnh”, không ngờ Tự Tánh vốn tự thanh tịnh, vĩnh viễn thanh tịnh, chưa bao giờ ô nhiễm, đây là Chân Tâm. Câu thứ hai nói với chúng ta, Chân Tâm 不生不滅 “bất sanh bất diệt”, không có sanh diệt. Câu thứ ba nói với chúng ta, 本自具足 “bổn tự cụ túc” (vốn tự đầy đủ), đầy đủ điều gì? Trong kinh Đại thừa thường nói, trên Kinh Hoa Nghiêm nói: tất cả chúng sanh đều có trí huệ đức tướng của Như Lai, vốn tự đầy đủ chính là đầy đủ những điều này: vô lượng trí huệ, vô lượng đức năng, vô lượng tướng hảo. Vô lượng ở đây có phải con số không? Không phải con số, thật sự là vô lượng, thật sự vô lượng vô biên vô cùng vô tận. Ở đâu vậy? Trong toàn vũ trụ, bởi vì hiện tượng của cả vũ trụ là do quý vị biến hiện ra. Có duyên thì tự nhiên hiện ra, nếu không có duyên, không có duyên đó chính là thanh tịnh tịch diệt, thứ gì cũng không có.
Câu thứ tư, 本無動搖 “bổn vô động dao” (vốn không dao động). Hiện nay tâm của chúng ta là động, tất cả vạn pháp đều là dao động, gọi là hiện tượng dao động sóng, đều là đang động. Tự Tánh của chúng ta không động, gọi là Tự Tánh vốn định. Nên quý vị phải minh tâm kiến tánh, làm thế nào mới có thể kiến tánh? Ý niệm của quý vị không động nữa, là kiến tánh rồi. Ý niệm của chúng ta đang động, niệm trước diệt niệm sau sanh, ý niệm này tiếp nối ý niệm kia, vả lại tần số cực kỳ cao, quý vị xem một giây 2 triệu 100 ngàn tỷ lần, hiện ngay trước mặt mà chúng ta không cảm thấy gì. Việc này đã được nhà Cơ học Lượng tử hiện đại phát hiện ra, họ tìm ra hiện tượng tâm lý, hiện tượng vật lý đều là ảo tướng sanh ra từ tần số cao, không phải là thật, đó là pháp sanh diệt, sanh sanh không dừng. Quả thật là giống như hiện nay chúng ta xem TV, hình ảnh động của TV một giây có 100 lần sanh diệt. 100 lần sanh diệt trong một giây thì chúng ta nhìn không ra, không có cảm giác là đang sanh diệt, hoàn cảnh hiện thực của chúng ta là một giây có 2 triệu 100 ngàn tỷ lần sanh diệt.
Không ai biết được quá khứ, người biết cũng không nói ra, nói ra cũng không ai tin tưởng. Điều này được nhà Cơ học Lượng tử cận đại, tức là hai-ba mươi năm gần đây, việc khó hiểu này mới được vạch trần. Bản báo cáo mà tôi xem là báo cáo của ông Planck, nhà khoa học người Đức, vị đó là thầy của ông Einstein, cả đời ông chuyên môn nghiên cứu vật chất, vật chất rốt cuộc là gì? Xem như ông trời không phụ người vất vả tâm sức, bí mật này được ông ấy vạch trần rồi, rất tuyệt vời. Sau khi vạch trần mới biết, trên thế giới hoàn toàn là không có những thứ vật chất này tồn tại, hiện tượng vật chất thật sự giống như những gì trong mộng, thật sự giống như màn hình TV, tất cả đều là giả. Thứ này không thể nói là có, cũng không thể nói là không, nó có ảo tướng này. Tại sao không thể nói có? Bởi nó căn bản không thể tồn tại. Quý vị hãy nghĩ xem, một giây có 2 triệu 100 ngàn tỷ lần sanh diệt, vậy nó tồn tại thế nào? Chúng ta khởi ý niệm, cho dù là một búng tay ý niệm này, đã có 2 triệu 100 ngàn tỷ lần sanh diệt. 320 ngàn tỷ, đây là một búng tay, không phải là một giây, nếu một giây thì phải nhân cho bảy.
Chúng ta phải thường nghĩ đến những chân tướng sự thật này, vì sao vậy? Để chúng ta không còn tham luyến đối với tất cả pháp thế gian nữa, sự tham luyến đó đều là công dã tràng. Tự nhiên sẽ làm một người rất quy củ, người rất có đạo đức, vì sao? Bởi thuận theo Tánh đức, không thuận theo phiền não nữa. Phiền não là gì? Tham sân si mạn, đó là phiền não. Không thuận theo phiền não, mà thuận theo giáo huấn của đức Phật: không tham, không sân, không si, không ngạo mạn, không hoài nghi. Lão Tổ tông nước ta đã nói Ngũ luân, Ngũ thường, Tứ duy, Bát đức, quý vị rất tự nhiên làm được, tại sao vậy? Bởi đó là Bản tánh của quý vị. Chân Tâm khởi dụng hoàn toàn tương ưng với luân lý đạo đức, cũng hoàn toàn tương ưng với Tam học: Giới – Định – Huệ của đức Phật đã dạy, đó gọi là chân lý. Chân lý mãi không thay đổi, chính là chân thật chi tế mà Kinh này nói, vĩnh viễn bất biến. Giác ngộ là thành Phật rồi, khi thành Phật, suy nghĩ, hành vi hoàn toàn giống với Phật, không có khác biệt.
Chúng ta xem tiếp bên dưới, 極樂依正“Cực Lạc Y Chánh” (Y báo và Chánh báo của cõi Cực Lạc), Y báo của Thế giới Cực Lạc là hoàn cảnh, Chánh báo là Phật và Bồ-tát, 真實智慧之流現 “chân thật trí huệ chi lưu hiện” (là do trí huệ chân thật hiện ra). Chúng ta ở trong lục đạo, Y Chánh trong lục đạo, Y báo của chúng ta chính là địa cầu ngày nay, Chánh báo có được của chúng ta là thân thể. Đây là do gì hiện ra? Đây không phải là do trí huệ, mà là phiền não, tập khí hiện ra. Vậy thì chúng ta sáng tỏ tu hành rồi, tu thế nào? Buông xuống tập khí phiền não, thì trí huệ hiện tiền, là thành công rồi. Lục đạo là do phiền não biến hiện ra, nếu trí huệ hiện tiền, thì không thấy lục đạo nữa, tại sao? Bởi giống như nằm mộng đã tỉnh lại, thì dấu vết của cảnh giới trong mộng cũng không tìm thấy, đây là thật. Hiện nay chúng ta đều đang nằm mộng, Phật giảng cho chúng ta những đạo lý này, chính là nói với chúng ta, đây đều là cảnh giới trong mộng. Khi đã sáng tỏ, biết rõ cảnh giới trong mộng rồi, thì không nhiễm một mảy may nữa, tại sao vậy? Bởi là giả mà, không phải thật.
Nhưng Chân Tâm của chúng ta sẽ lưu lộ ra, đó là gì? Đại từ đại bi. Việc lớn quan trọng nhất của đại từ đại bi, là giúp người khác giác ngộ. Tôi giác ngộ rồi, tôi làm sáng tỏ rồi, còn họ chưa giác ngộ, cũng chưa giác ngộ điều đó, thì giúp đỡ họ. Phật là bình đẳng, không có phân biệt chấp trước mà giúp đỡ tất cả chúng sanh, giúp tất cả chúng sanh vô điều kiện. Nhưng chúng sanh phải có duyên, thế nào là có duyên? Chịu tiếp nhận, có thể nghe hiểu, chịu tiếp nhận, đó chính là chúng sanh có duyên. Chúng sanh có duyên thì chịu, chúng sanh không có duyên thì không chịu. Có duyên thì tiếp nhận, người duyên chín muồi thì họ tiếp nhận toàn bộ, đời này họ nhất định vãng sanh Thế giới Cực Lạc, thành Phật rồi. Tiếp nhận một nửa, còn có một nửa không thể tiếp nhận, cũng khó được, là trồng thiện căn cho họ, đời này họ chưa ra khỏi luân hồi, hi vọng đời sau lại được thân người, tiếp tục học tập, sẽ có thể được như thế.
Vì vậy từ trí huệ mà hiện ra, 一切真實,故能惠以真實之利 “nhất thiết chân thật, cố năng huệ dĩ chân thật chi lợi” (tất cả chân thật, nên có thể ban cho lợi ích chân thật). Cho nên thật sự có thể, đây cũng nói rõ cho chúng ta, thật sự có thể ban cho chúng sanh lợi ích chân thật, chính mình nhất định phải tất cả chân thật, nếu không thể tất cả chân thật, thì làm sao quý vị có thể ban lợi ích chân thật cho người khác. Vậy tất cả chân thật rất quan trọng, tất cả chân thật từ đâu đến? Hoàn toàn từ trí huệ mà đến. Phải buông xuống tình chấp, buông xuống tham sân si mạn, buông xuống thất tình ngũ dục, những gì hiện ra sau đó chính là tất cả chân thật. 無為法身即實相 “Vô vi Pháp thân tức Thật tướng” (Pháp thân Vô vi chính là Thật tướng), Thật tướng chính là tướng chân thật, đây không phải là giả, mà là thật. Pháp thân Vô vi: là Thường Tịch Quang Tịnh độ rốt ráo nhất, viên mãn nhất, trong Bốn độ của thế giới Tây Phương Cực Lạc, mục tiêu cuối cùng của việc học Phật là trở về Thường Tịch Quang. Lúc này, quý vị không có hiện tượng vật chất, cũng không có hiện tượng tinh thần, là hiện tượng gì? Một vùng quang minh. Giống như gian phòng này của chúng ta có mười mấy ngọn đèn, khi bật đèn đều phát ra ánh sáng, ánh sáng và ánh sáng hòa vào nhau. Nên đến nơi đó hoàn toàn bình đẳng rồi, không có Phật xưa, Phật hiện tại, Phật vị lai, không có, sau khi tiến đến ánh sáng với ánh sáng hòa vào một mảng, đó là Thường Tịch Quang, đó là đại viên mãn. Quý vị xem, công đức của tất cả chư Phật đã tu, công đức của chính chúng ta đã tu có thể nhập vào, giao thoa với công đức của quý Ngài, hoàn toàn hòa thành một mảng, liền trở thành vô lượng vô biên trí huệ, đức năng, tướng hảo, rất viên mãn, không khiếm khuyết chút nào.
Có duyên với Thế giới Cực Lạc, những người nào có duyên? Những người ấy vãng sanh đến vẫn chưa chứng được rốt ráo viên mãn, quý vị có duyên với những người ấy, rất tự nhiên quý vị sẽ đến trong Thật Báo Trang Nghiêm độ của Thế giới Cực Lạc để hiện thân, giúp họ thành tựu, giúp họ nhanh chóng đi lên. Vả lại đến nơi đó tất cả đều có thần thông, vô lượng kiếp trước chúng ta có quan hệ thế nào, đều sáng tỏ rồi, thật sự là những gì chúng ta nói là tương thân tương ái, một đoàn thể hòa thuận, mọi người đều có được thanh tịnh bình đẳng giác. Nên đến Thế giới Cực Lạc, đầu tiên quý vị phải biết, Thế giới Cực Lạc, sau khi sanh đến nơi đó, người mà quý vị biết là rất nhiều rất nhiều. Vô lượng kiếp trước đều là người thân quyến thuộc, đồng tham bạn thân của quý vị, niệm Phật sanh đến Thế giới Cực Lạc, tất cả đều gặp mặt rồi, nên không cô đơn. Trên trái đất này, dù là bạn bè thân nhất, nhưng đôi khi còn không gặp nhau một lần, một năm khó gặp được một, hai lần. Đến Thế giới Cực Lạc ngày ngày gặp nhau, có thể mời cùng kết bạn đi giúp đỡ chúng sanh hữu duyên, chúng sanh đó có duyên với tôi, cũng có duyên với quý vị, thì hai người chúng ta cùng nhau đi.
Giống như đức Thích Ca Mâu Ni Phật, có duyên với chúng sanh trên trái đất này, khi Ngài đến, còn có rất nhiều Bồ-tát, A-la-hán hữu duyên đã cùng đi theo đến trên trái đất này, đó chính là Tăng đoàn của Ngài. Chúng ta mở kinh điển ra, 1255 người, đó đều là cùng có duyên, tất cả cùng đến. Với người nào duyên sâu nhất thì Ngài đến đóng vai chính, hiện thân Phật, những người khác duyên kém hơn một chút, thì hiện thân Bồ-tát, hiện thân A-la-hán, còn có hiện thân Hộ pháp, thân Quốc vương Đại thần, Trưởng giả Cư sĩ, thân như thế nào cũng hiện, là ở nơi này mở pháp hội. Diễn vở kịch này phải diễn thành công, khiến cho những thính chúng ấy đều giác ngộ, đều quay đầu hướng thiện, đã đạt được mục đích này. Pháp giới hư không giới rộng lớn không có giới hạn, mười phương vô lượng vô biên cõi nước chư Phật, đều là nơi mà đồng học hữu duyên của chúng ta hiện nay cư trú.
Chúng ta sẽ nghĩ rằng, Thế giới Cực Lạc rất náo nhiệt, không sai, là vô cùng náo nhiệt, quý vị không ngờ tới được. Nhưng tâm của mỗi người thanh tịnh, đều không để những việc này trong tâm, điều này thật tuyệt vời. Khi biểu diễn trên sân khấu, mỗi người biễu diễn đều biết đây là một màn giả, không nên tưởng thật, thì các ngài tự tại rồi, phổ độ chúng sanh, mà chính mình không bị nhiễm chút nào. Thế giới này của chúng ta không được, độ chúng sanh có ô nhiễm, đôi khi ô nhiễm không quay đầu lại được, chính mình bị rơi vào rồi, vậy thì thật đáng thương. Nên giáo hóa chúng sanh: phải có định công, phải nhìn thấu, phải buông xuống. Nếu không nhìn thấu, không buông xuống, thì đừng làm việc này, trước tiên nhất tâm niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ, trở lại rồi làm, trở lại thì sẽ không ô nhiễm nữa.
Lợi ích chân thật, Pháp thân Vô vi. 故《要解》云 “Cố Yếu Giải vân” (Cho nên trong Yếu Giải nói), Niệm lão dùng đoạn Yếu Giải làm tổng kết cho chỗ này, 能說所說 “năng thuyết sở thuyết” (năng thuyết sở thuyết), năng thuyết là 12 bộ kinh đã nói trong 49 năm, Tam tạng mười hai bộ loại; sở thuyết chính là bộ kinh điển này, hiện nay chúng ta xưng là Đại Tạng Kinh. 能度所度 “Năng độ sở độ” (Năng độ sở độ), năng độ là đức Thích Ca Thế Tôn, những vị Bồ-tát, A-la-hán, Tổ sư Đại đức ấy; sở độ là những chúng sanh lục đạo này, cũng bao gồm cả Thanh văn, Duyên giác. 能信所信 “Năng tín sở tín” (Năng tín sở tín), phạm vi này đã thu hẹp rất nhiều, năng tín, là có thể tin theo những điều được nói trong bộ Kinh này: có Thế giới Tây Phương Cực Lạc, Thế giới Cực Lạc có A Mi Đà Phật, tin A Mi Đà Phật đã từng phát 48 nguyện, nguyện nguyện tiếp dẫn tất cả chúng sanh hữu duyên; sở tín chính là bộ Kinh điển này, bộ Kinh điển này đã nói về đạo lý, đã nói về chân tướng sự thật, đã nói về phương pháp, đã nói về vô lượng thù thắng trang nghiêm, quý vị đều có thể tin tưởng, đây là những điều tôi đã tin. Năng tín sở tín.
能願所願 “Năng nguyện sở nguyện” (Năng nguyện sở nguyện), năng nguyện là chính mình thật sự phát nguyện, cầu sanh Tịnh Độ; sở nguyện là tôi vãng sanh Thế giới Cực Lạc, thân cận A Mi Đà Phật. Ở Thế giới Cực Lạc, tất cả chướng duyên đều không có nữa, một đời nhất định thành Phật, sau khi thành Phật được đại tự tại. Nếu quý vị hỏi tôi, khi tôi thành Phật rồi, về sau tôi làm thế nào? Tôi nói với đồng học: sau khi tôi thành Phật, tôi cũng không rời khỏi Thế giới Cực Lạc, tôi coi Thế giới Cực Lạc làm quê nhà, coi Thế giới Cực Lạc làm căn cứ địa của tôi. Chúng ta vĩnh viễn ủng hộ A Mi Đà Phật, tuy chứng đắc giống như A Mi Đà Phật, nhưng vẫn thỉnh Ngài ra để lãnh đạo. Chúng ta ở trong đó trợ giúp, tiếp dẫn, giáo hóa các vị tiểu Bồ-tát vãng sanh Thế giới Cực Lạc mỗi ngày, số lượng những người ấy vô lượng vô biên, Thế giới Cực Lạc lớn vô lượng, lớn vô cùng. Thế giới Cực Lạc ở đâu? Không rời khỏi thế giới này của chúng ta, thế giới của chúng ta đây ở trong Thế giới Cực Lạc. Thế giới Cực Lạc không có giới hạn, lớn đến vô cùng, nhỏ đến vô tận, Thế giới Cực Lạc thật sự là kỳ diệu đến tột cùng.
能持所持 “Năng trì sở trì” (Năng trì sở trì), trì chính là học tập, luôn luôn không ngừng học tập. Ngày nay năng trì của chúng ta là tâm, là Chân Tâm; sở trì là một câu A Mi Đà Phật, Nam Mô A Mi Đà Phật. 能生所生 “Năng sanh sở sanh” (Năng sanh sở sanh), năng sanh, Thế giới Tây Phương Cực Lạc, năng sanh là nguyện tâm của chính chúng ta; sở sanh là Thế giới Cực Lạc. 能讚所讚 “Năng tán sở tán” (Năng tán sở tán), năng tán, chúng ta nhìn thấy trên kinh rồi, là tất cả chư Phật Như Lai trong mười phương; sở tán là Y báo Chánh báo trang nghiêm của Thế giới Tây Phương. Những điều này 無非實相正印之所印 “vô phi Thật tướng chánh ấn chi sở ấn” (chẳng gì là không được chánh ấn Thật tướng in vào), mỗi sự việc, mỗi sự kiện: đều là Thật tướng, Thật tướng chính là chân thật chi tế, Pháp thân Vô vi đã nói phía trước. Chánh ấn đây là tỷ dụ, sở ấn chính là Y báo Chánh báo trang nghiêm của Thế giới Tây Phương Cực Lạc, cùng với vô lượng vô biên công đức từ Thế giới Tây Phương lưu xuất ra.
可見入此門中,一一皆入實相,故所惠真實之利,莫過於此也 “Khả kiến nhập thử môn trung, nhất nhất giai nhập Thật tướng, cố sở huệ chân thật chi lợi, mạc quá ư thử dã” (Có thể thấy vào trong môn này, tất cả đều nhập vào Thật tướng, nên lợi ích chân thật đã ban cho, không có gì vượt qua điều này). Cần nhớ kỹ câu này, quý vị có thể vào trong môn này, môn này là Pháp môn Tịnh tông, đại biểu của Pháp môn Tịnh tông chính là Thế giới Cực Lạc. Quý vị vào Pháp môn này, trong Yếu Giải nói: năng thuyết sở thuyết, năng độ sở độ, năng tín sở tín, năng nguyện sở nguyện, năng trì sở trì, năng sanh sở sanh, năng tán sở tán: đều là Thật tướng, lợi ích chân thật không có môn nào vượt qua được môn này. Chúng ta nói tất cả kinh, tất cả phương pháp tu hành, 84.000 Pháp môn, nói lợi ích chân thật, thì Kinh Vô Lượng Thọ là số một, không có gì vượt qua được, đây là thật không phải giả. Nếu quý vị muốn tu tích công đức, tu thế nào? Thật thà niệm Phật, là tu rồi. Tu công đức như thế nào, cũng không có gì lớn bằng công đức của thật thà niệm Phật này, cũng không có nhiều công đức như thật thà niệm Phật, vì sao không niệm Phật? Vì sao khởi vọng tưởng? Bởi quý vị ham muốn vàng bạc của cải châu báu thế gian, quý vị không biết Thế giới Cực Lạc, những vàng bạc của cải châu báu này ở Thế giới Cực Lạc làm gì? Để rải đường, là vật liệu xây dựng, ở đây chúng ta dùng cốt thép xi măng, còn người ta dùng trân châu, mã não, vàng ròng để rải đường, ở đây dùng là nhựa đường, Thế giới Cực Lạc là vàng ròng để rải đường. Thì quý vị biết Thế giới Cực Lạc giàu có thế nào, làm sao chúng ta so sánh được! Nhưng chúng ta có thể đạt được, nhất tâm niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ là đạt được, không giả chút nào. Tại vì sao không đi?
Từ mấy năm trước, lúc tôi 85 tuổi, tôi đã quay đầu, thật sự quay đầu, tất cả Pháp môn đều buông xuống, không còn xem nữa, toàn bộ tinh thần chỉ dùng trong bộ Kinh này. Mỗi ngày đọc là bộ Kinh này, học tập là bộ Kinh này, giúp đỡ đồng học cũng là bộ Kinh này. Có mấy nơi muốn mở Viện Hán học, trong Viện Hán học có Nho-Phật-Đạo, tôi rất hoan hỷ, tôi nói nếu tôi còn có tinh thần, có thể lực, thì tôi sẽ giảng Kinh Vô Lượng Thọ, không giảng những kinh khác. Tại sao vậy? Bởi lợi ích chân thật không gì vượt qua được điều này, quý vị hiểu được câu này là sáng tỏ rồi.
Mời xem đoạn tiếp theo, 希有難值 “Hi Hữu Nan Trị” (Hiếm Có Khó Gặp), trị là gặp được. Mời xem kinh văn:
【難值難見。如優曇花。希有出現。汝今所問。多所饒益。】“Nan trị nan kiến, như Ưu Đàm hoa, hy hữu xuất hiện. Nhữ kim sở vấn, đa sở nhiêu ích” (Khó gặp khó thấy, như hoa Ưu Đàm, hiếm khi xuất hiện, điều ông hỏi đây, lợi ích rất lớn).
Đây là lời của đức Thích Ca Mâu Ni Phật, phải biết từng câu của Phật thuyết là lời thật, không phải miêu tả, không phải khen ngợi, mà là lời thật, lời nói chân thật. 難值難見,如優曇花,希有出現 “Nan trị nan kiến, như Ưu Đàm hoa, hy hữu xuất hiện” (Khó gặp khó thấy, như hoa Ưu Đàm, hiếm khi xuất hiện). Trị là gặp được. 《會疏》曰:佛法難聞,故云難值。佛身難睹,故言難見 “Hội Sớ viết: Phật pháp nan văn, cố vân nan trị. Phật thân nan đổ, cố ngôn nan kiến” (Trong Hội Sớ nói: Phật pháp khó nghe, nên nói là nan trị. Thân của Phật khó thấy, nên nói là nan kiến). Trên kinh Đại thừa thường nói: thân người khó được, Phật pháp khó nghe, nhắc nhở chúng ta phải trân quý duyên phận lần này của chúng ta, thật không dễ dàng có được. Thọ mạng của nhân gian ngắn, không dài, còn thọ mạng của lục đạo, tam đồ dài, thọ mạng của cõi trời cũng dài, thọ mạng của đường súc sanh cũng rất dài, rất nhiều người không biết. Súc sanh là được tính bằng số lần, nếu quý vị đọa vào súc sanh đạo, quý vị trở thành một con gà, thì phải làm bao nhiêu lần? Phải làm mấy chục lần, hoặc là mấy trăm lần; cũng tức là con gà đó bị người giết ăn thịt rồi, vẫn đầu thai làm gà, lại biến thành một con gà con. Đó là tính về số lần, đường súc sanh được luận về số lần, càng là động vật nhỏ thì càng nhiều, không dễ dàng ra khỏi.
Người học Phật đọa vào trong đường ác thì dễ ra hơn, vì sao vậy? Bởi trong ba đường ác cũng có Phật Bồ-tát đang dạy bảo ở đó, đều là dạy người trước đây ở nhân gian đã từng nghe Phật pháp, từng tu hành. Nếu họ gặp được Phật Bồ-tát, thì họ rời khỏi đường súc sanh, rời khỏi đường ngạ quỷ, thậm chí rời khỏi đường địa ngục. Rất khó! Phải bao nhiêu kiếp may ra quý vị mới gặp được một lần cơ hội đến nhân gian, khi đến, trên nhân gian này có Phật pháp hay không thì không chắc chắn. Đức Thích Ca Mâu Ni Phật xuất hiện vào 3000 năm trước, 3000 năm trước thế gian này chưa có Phật pháp, Pháp vận của đức Thích Ca Mâu Ni Phật là 12.000 năm, sau 12.000 năm, thế gian này cũng không có Phật pháp, quý vị phải gặp được đúng trong thời đại có Phật pháp. Thấy Phật càng không dễ, thấy Phật thì phải sanh ra cùng thời đại cùng nơi với Phật, quý vị mới có thể gặp được, quý vị mới có thể thấy được, [nên] khó gặp.
Địa cầu này của chúng ta, là Phàm Thánh Đồng Cư độ, hiện nay trên địa cầu không có Phật, mà có Bồ-tát. Có Bồ-tát, phải có duyên phận đặc biệt, nếu không có duyên phận thì không nhìn thấy. Bồ-tát Văn Thù ở núi Ngũ Đài, nhưng bao nhiêu người đã thấy? Chúng ta biết lão Hòa thượng Hư Vân đã thấy, khi nhìn thấy lại không biết. Lúc lão Hòa thượng Hư 47 tuổi phát tâm triều bái Ngũ Đài sơn, ngài từ Phổ Đà ba bước một lạy, lạy đến Ngũ Đài sơn, thời gian bao lâu? Hơn ba năm. Trên đường đã hai lần bị bệnh, đều ở nơi hoang vu, không có thôn trang, là chỗ không có người, đã bị bệnh. Gặp được một người ăn xin, người ăn xin đó đã cứu ngài, hai lần đều là người ăn xin đó cứu ngài. Người ăn xin ở với ngài hơn một tháng, không phải là một ngày hai ngày, mà một lần là khoảng nửa tháng, hai lần hợp lại là hơn một tháng. Là ân nhân cứu mạng, rất cảm kích, hướng về người ăn xin để hỏi cao danh quý tánh, ngài nói ngài là Văn Kiết, Văn trong văn chương, Kiết trong Kiết tường, gọi là Văn Kiết. Hỏi ngài ở đâu? Ngài nói tôi ở Ngũ Đài sơn, ngài đến Ngũ Đài sơn hỏi thăm, mọi người đều biết tôi. Sau khi khỏi bệnh, ngài vẫn đi ba bước một lạy, người ăn xin đó đã đi rồi, cũng không biết đi đâu nữa.
Sau khi đến Ngũ Đài sơn hỏi thăm khắp nơi, quý vị có biết người Văn Kiết đó không, nhưng không ai biết. Đến trong chùa, lạy Bồ-tát Văn Thù xong, hướng đến đại chúng thỉnh giáo, đây là người xuất gia, thỉnh giáo: trên đường hai lần bị bệnh, đều là người ăn xin Văn Kiết đó đã cứu tôi, quý vị có người nào biết Văn Kiết là ai không. Hòa thượng bên trong liền nói với ngài, là Bồ-tát Văn Thù, ngài mới bỗng nhiên đại ngộ, đã ở cùng Bồ-tát Văn Thù hai lần, thời gian hơn một tháng, mà không biết. Chúng ta khởi tâm động niệm Phật Bồ-tát đều biết, thật tâm tu hành, gặp phải khổ nạn, thì Phật Bồ-tát sẽ đến giúp quý vị. Nhưng chính quý vị không biết, đến khi quý vị biết thì hối hận không kịp. Chúng ta học Phật có rất nhiều vấn đề nghi nan, không có chỗ để hỏi, quý vị xem không phải là cơ hội đúng lúc. Nhưng chúng ta không đưa ra hỏi, Ngài thì cũng không giảng khai thị. Nên khó gặp.
Hoa Ưu Đàm, cũng phiên dịch là hoa Linh Thụy. 此葉 “Thử diệp” (Lá cây ấy), lá của hoa giống như cây lê, 果大如拳,其味甘,無花而結子,亦有花而難值 “quả đại như quyền, kỳ vị cam, vô hoa nhi kết tử, diệc hữu hoa nhi nan trị” (quả lớn như nắm tay, có vị ngọt, không có hoa mà kết trái, tuy có hoa nhưng khó gặp). Hoa này, trên kinh Phật có ghi chép, Thánh nhân, Phật Bồ-tát ra đời, sẽ có hoa này xuất hiện, rất khó nhìn thấy được. Thời gian hoa nở không dài, vì vậy trở nên rất hiếm, trên kinh Phật ghi chép rất nhiều. Như trên Kinh Bát Niết Bàn cũng nói: 有尊樹王,名優曇缽,有實無華 “Hữu tôn thọ vương, danh Ưu Đàm Bát, hữu thật vô hoa” (Có cây tôn quý là vua trong các cây, tên là Ưu Đàm Bát, có trái nhưng không có hoa), cây ấy kết trái, nhưng không thấy nở hoa, 若金華生者,世乃有佛 “nhược kim hoa sanh giả, thế nãi hữu Phật” (nếu nở hoa sắc vàng, thì thế gian có Phật), khi Phật ra đời thì cây này nở hoa sắc vàng. 又《文殊現寶藏經》曰:無佛世有實無華 “Hựu Văn Thù Hiện Bảo Tạng Kinh viết: vô Phật thế hữu thật vô hoa” (Thêm nữa trong Kinh Văn Thù Hiện Bảo Tạng nói: không có Phật ra đời thì cây ấy có trái mà không có hoa). Không ai nhìn thấy cây ấy nở hoa, nhưng có kết trái. Còn trong Kinh Xuất Diệu nói: 數千萬劫,時時乃出。群生見華,謂曰如來將出 “Sổ thiên vạn kiếp, thời thời nãi xuất. Quần sanh kiến hoa, vị viết Như Lai tương xuất” (Mấy ngàn vạn kiếp, khi ấy mới xuất hiện. Chúng sanh thấy hoa, thì gọi là Như Lai sắp ra đời). Đức Như Lai vẫn chưa ra đời, tương lai nếu đến hiện thân thuyết pháp, thì chúng sanh có thể nhìn thấy hoa này.
據上諸經可知此花希有難逢,於有佛世方始出現,故以喻 “Cứ thượng chư kinh khả tri thử hoa hy hữu nan phùng, ư hữu Phật thế phương thỉ xuất hiện, cố dĩ dụ” (Căn cứ vào các kinh trên thì có thể biết hoa này hiếm có khó gặp, khi có Phật ra đời mới bắt đầu xuất hiện, nên dùng làm tỷ dụ), dùng hoa này để làm ví dụ so sánh, 佛之真實教法難值難遇 “Phật chi chân thật giáo pháp nan trị nan ngộ” (giáo pháp chân thật của Phật [là] khó gặp khó thấy), thật sự không dễ. Cả đời người gặp được Phật pháp là quá may mắn rồi, thật sự là may mắn không gì sánh được, trong vô lượng kiếp khó gặp được một lần, thì sao quý vị gặp được? Tuy chúng ta không gặp được chân thân của Phật, nhưng vẫn ở trong Pháp vận của Phật. Tuy Chánh pháp, Tượng pháp đã qua rồi, nhưng Mạt pháp 10.000 năm, chúng ta gặp được là cuối 1000 năm thứ nhất của thời Mạt pháp, bắt đầu 1000 năm thứ hai, chúng ta đã gặp lúc này. Gặp được rồi thì phải tin tưởng, không thể hoài nghi, sự tin tưởng này là đại thiện căn, đại phước đức. Vì sao quý vị có thể tin? Bởi trong đời quá khứ đã từng học Phật, nếu không thật sự tu hành, thì vẫn trong lục đạo làm luân hồi. Đời này gặp được Phật pháp, vẫn sẽ có luân hồi, nhưng đã trồng thiện căn; gặp được Tịnh tông, gặp được Pháp môn Niệm Phật, đời này quý vị có thể rời khỏi mãi mãi sáu đường luân hồi, đến Thế giới Cực Lạc để thành Phật. Cơ hội này thật sự là hiếm có vô cùng, quá khó được rồi! Mong rằng chúng ta tuyệt đối không được bỏ lỡ cơ hội này.
Duyên phận của chúng ta thù thắng hiếm có không gì bằng, tại sao vậy? Bởi bản hội tập của bộ Kinh Vô Lượng Thọ này là được hoàn thành trong Đại chiến thế giới lần thứ hai, hoàn thành kết tập. Lão Cư sĩ Hạ Liên Cư đã dùng thời gian mười năm, để hội tập bộ Kinh điển này, là thiện bản viên mãn rốt ráo của Kinh Vô Lượng Thọ. Bộ Kinh này năm xưa Thế Tôn còn ở đời đã tuyên giảng nhiều lần, không phải là một lần, nên có rất nhiều phiên bản khác nhau, trong các phiên bản khác nhau [có] rất nhiều nội dung không giống nhau, điều này cần nhờ vào người đời sau để làm công việc hội tập. Trong quá khứ bắt đầu từ thời nhà Tống, có sự hội tập của ngài Vương Long Thư, có sự hội tập của ngài Ngụy Mặc Thâm, ngài Ngụy Mặc Thâm là người vào niên hiệu Hàm Phong đời nhà Thanh, có ngài Bành Tế Thanh, ngài Bành Tế Thanh là người thời Càn Long, có bản trích lục, ngài không phải hội tập, ngài làm bản trích lục, gạn lọc trích lược. Bản dịch gốc có năm loại phiên bản khác nhau, bản này của ngài Hạ Liên Cư là sau cùng, là viên mãn nhất, Kinh Vô Lượng Thọ bằng tiếng Trung có chín loại phiên bản khác nhau, bản này hay nhất. Các Đại đức xuất gia tại gia thế hệ trước của chúng ta, rất nhiều người không nhìn thấy, đó là [vì] mới lưu thông sau khi chiến tranh kết thúc. Nên chúng ta gặp được rồi, hiếm có khó gặp.
Chú Giải của lão Cư sĩ Hoàng Niệm Tổ, thì càng khó hơn, những năm 1980 thì ngài mới hoàn thành. Tôi và ngài là có duyên phận đặc biệt, lúc đó tôi ở nước Mỹ, ngài đến nước Mỹ để hoằng pháp, ở nước Mỹ một tháng, cả đời ngài chỉ đi qua một lần, chúng tôi đã gặp nhau. Lúc đó Chú Giải này là bản thảo đầu tiên, dùng in dầu đại khái đã in mấy chục bản, đã mang một bộ sang nước Mỹ, và đã tặng cho tôi. Sau khi xem xong, tôi vô cùng hoan hỷ, tôi hỏi ngài, ngài có giữ bản quyền không? Ngài nói thầy hỏi điều này là ý gì? Tôi nói không có bản quyển, thì tôi cầm về Đài Loan để in lại, nếu có bản quyền, thì tôi phải tôn trọng ngài. Ngài nói không có, hết sức hoan hỷ, mong tôi viết lời tựa cho ngài, muốn tôi viết tiêu đề trang bìa cho ngài, tôi cũng đã làm theo. Từ sau khi biết nhau như vậy, mỗi năm tôi đến Bắc Kinh để thăm ngài, chúng tôi vừa gặp như đã thân. Vào thời đại đó, ở hải ngoại giảng Kinh này, giảng bản này chỉ có một mình tôi, ở trong nước giảng bản này cũng chỉ một mình ngài, hai người chúng tôi đã gặp nhau. Sau này có qua sửa đổi mấy lần, chính là bản hiện nay, đây là bản hiệu đính.
Sau khi [hoàn thành] bản hiệu đính, một ngày ngài niệm 140.000 câu Phật hiệu, niệm nửa năm thì ngài đã vãng sanh. Làm tấm gương cho chúng ta, cuối cùng là niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ. Vị lão nhân này không đơn giản, thông Tông thông Giáo, Hiển Mật viên dung, là đại Thiện tri thức! Ngài là Kim Cang Thượng sư của Mật tông, khi ngài sắp ra đi, buông xuống Thiền, cũng buông xuống Mật, Giáo thì đã sớm buông xuống rồi, làm tấm gương cho chúng ta. Niệm Phật vãng sanh là thật, có nắm chắc, các Pháp môn khác không nắm chắc, Hoa Nghiêm Pháp Hoa một đời thành Phật, nhưng chưa thấy ai thành Phật; Tịnh tông vãng sanh đâu đâu cũng có, xưa nay trong ngoài nhiều không kể xiết, nói rõ đây là thật. Hiện tiền, lão Hòa thượng Hải Hiền làm tấm gương cho chúng ta, chân thật không giả dối, một câu Phật hiệu ngài đã niệm 92 năm, 112 tuổi vãng sanh. Khi ra đi tự tại, không cần người trợ niệm, ngài nói trợ niệm là không có niềm tin, tôi không cần trợ niệm, tự tôi nói đi là đi thôi. Thật sự, làm ra tấm gương tốt nhất cho chúng ta.
Mẹ của ngài 86 tuổi niệm Phật vãng sanh, cũng đã làm một tấm gương tốt, là Cư sĩ tại gia, vãng sanh không nên bị bệnh, bị bệnh rất khổ, nói đi liền đi rồi. Mẹ của ngài Hải Hiền: năm 86 tuổi đó trở về quê nhà, vốn ở trong chùa chiền, bà kiên quyết phải trở về quê, lão Hòa thượng Hải Hiền khuyên bà nhưng bà không nghe, đành phải cùng mẹ trở về quê. Bà bảo ngài tìm con gái, cháu gái của bà tới, tìm để làm gì? Biểu diễn vãng sanh cho mọi người xem. Trước khi vãng sanh, đích thân xuống bếp làm bánh sủi cảo, mọi người cùng nhau ăn uống rất vui vẻ. Sau khi ăn xong, bà khoanh chân ngồi xếp bằng trên ghế, nói với mọi người: tôi đi đây, là thật ra đi rồi, một câu thì bà thật ra đi rồi. Đây là người thân trong nhà bà nhìn thấy, niệm Phật là thật không phải giả, đó là độ người trong nhà của bà. Quý vị xem tự tại biết bao, trước khi ra đi, xuống bếp làm sủi cảo, đã ăn một bữa cơm rất vui vẻ, sau khi ăn xong ra đi rồi, thoải mái biết bao, tự tại biết dường nào.
Điều kỳ lạ hơn là khi đó, cuộc sống của lão Hòa thượng Hải Hiền vô cùng khó khăn, chỉ có dùng những tấm ván mỏng đóng một chiếc quan tài để mai táng cho mẹ của ngài, lão Hòa thượng cứ luôn cảm thấy có lỗi đối với mẹ, nhưng không có cách nào. Tám năm sau, hoàn cảnh chuyển biến tốt hơn, lão Hòa thượng muốn cải táng cho mẹ, dựng bia làm kỷ niệm. Đào phần mộ lên, mở quan tài ra, nhưng không có người, cho đến bây giờ cũng không biết mẹ ngài ở đâu, trong quan tài là trống rỗng, chỉ có mấy chiếc đinh đóng quan tài, chứ không thấy người đâu. Có phải là Bồ-tát đang thị hiện không? Trong quá khứ có một trường hợp, là Tổ sư Đạt Ma. Tổ sư Đạt Ma vãng sanh, cũng là người ta mai táng cho ngài, ba tháng sau, có người từ Tây Vực trở về, Tây Vực chính là Tân Cương hiện nay, khi trở về, người đó nói rằng, trên đường người đó đã gặp Tổ sư Đạt Ma, Tổ sư Đạt Ma một chân mang giày, mang giày rơm, chân còn lại đi chân trần. Người khác nghe xong thấy kỳ lạ, ngài đã vãng sanh ba tháng rồi, cũng chôn rồi, làm gì có chuyện này? Người đó nói là thật, nói thật nhìn thấy, không phải là giả. Được rồi, chúng ta đến phần mộ và mở phần mộ ra. Vừa mở quan tài ra, quả nhiên không có ai, có một chiếc giày rơm. Người đó nói không sai, một chân của ngài mang giày rơm, còn một chân không mang giày, chiếc giày rơm đó ở trong quan tài. Làm minh chứng cho người đó, điều người đó nhìn thấy là thật, không phải giả. Như vậy mẹ của lão Hòa thượng Hải Hiền: chắc hẳn không phải là người phàm, bà biết khi nào ra đi, ra đi an nhiên tự tại như vậy, sau khi ra đi rồi không còn thi thể nữa, không biết đi đâu, có phải là Phật Bồ-tát, A-la-hán đến hiện thân không, điều này rất khó nói.
Ba loại trang nghiêm của Thế giới Cực Lạc, đều là được thành tựu bởi 48 nguyện của A Mi Đà Phật, nói đơn giản chính là: một câu pháp, một câu pháp, chính là trí huệ chân thật, Pháp thân Vô vi. Chân thật chi tế: là Pháp thân Vô vi, chính là Thường Tịch Quang Tịnh độ. Y báo Chánh báo của Cực Lạc: là do trí huệ chân thật hiện ra, tất cả chân thật, nên có thể ban cho lợi ích chân thật, Pháp thân Vô vi chính là Thật tướng. Nên trong Yếu Giải của Đại sư Ngẫu Ích nói với chúng ta vô cùng hay. Chúng ta hãy xem lão Hòa thượng Hải Hiền biểu pháp, tác chứng cho chúng ta, thật sự là hiếm có khó gặp. Chúng ta gặp được lão Hòa thượng Hải Hiền, tuy chưa gặp mặt, nhưng năm ngoái ngài đã vãng sanh rồi, tháng giêng năm ngoái. Một số Đệ tử của ngài vẫn đang chỉnh lý một số tư liệu của ngài để chuẩn bị xuất bản, chúng ta hi vọng có thể biết nhiều hơn. Đây đều là nói rõ, gặp được Phật pháp, gặp được Phật Bồ-tát là việc lớn hy hữu khó gặp.
今因阿難之問,開釋尊之本懷 “Kim nhân A Nan chi vấn, khai Thích Tôn chi bổn hoài” (Nay vì lời hỏi của ngài A Nan, nên bổn hoài của đức Thích Tôn được mở ra), Thích Tôn, là đức Thích Ca Mâu Ni Phật, bổn hoài chính là giúp tất cả chúng sanh: sớm ngày thành Phật, càng nhanh càng tốt. Có phương pháp này không? Có, trong vô lượng Pháp môn chỉ có một môn này, môn này chính là Pháp môn Niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ. 顯彌陀之宏願 “Hiển Mi Đà chi hoằng nguyện” (Hiển lộ hoằng nguyện của đức Mi Đà), Pháp môn này là được kiến lập bởi 48 nguyện của đức Mi Đà, 48 nguyện thì nguyện nào cũng chân thật, nguyện nào cũng là trí huệ chân thật, đều là chân thật chi tế, lợi ích chân thật, mỗi nguyện đều có ba loại chân thật này. Vì vậy 乃將此真實之法和盤托出“nãi tương thử chân thật chi pháp hòa bàn thác xuất” (bèn đem pháp chân thật này phơi bày ra tất cả), hòa bàn chính là phơi bày ra hoàn toàn, không còn lại gì nữa. 普利群生“Phổ lợi quần sanh” (Rộng lợi quần sanh), lợi ích rộng khắp tất cả chúng sanh có duyên. Nếu chúng sanh không có duyên, thì chúng ta phải giúp họ kết duyên, dùng phương pháp nào kết duyên? Chúng ta niệm Phật thì họ nghe vào được, gọi là 一歷耳根,永為道種 “nhất lịch nhĩ căn, vĩnh vi đạo chủng” (một khi nghe qua tai, mãi thành hạt giống đạo), họ nghe thấy rồi, trong thức A-lại-da có A Mi Đà Phật, đời sau kiếp sau lại gặp được duyên, thì mầm này sẽ sanh trưởng, sanh ra và lớn lên. Ngày nay chúng ta đã gặp được có thể tin tưởng, không hoài nghi, có thể tiếp nhận, có thể y giáo phụng hành, bởi trong đời quá khứ đời đời kiếp kiếp đều đã kết duyên này. Nếu duyên này không sâu, thì làm sao quý vị chịu tin chứ? Làm sao quý vị có thể hoan hỷ? Nghe được A Mi Đà Phật, nhìn thấy tượng của A Mi Đà Phật: có thể sanh tâm hoan hỷ, đều là chúng sanh có duyên trong đời quá khứ. Nếu chúng sanh không có duyên, thì khiến cho họ nghe thấy âm thanh này, khiến cho họ nhìn thấy hình tượng, trồng thiện căn, đều là công đức lợi ích vô cùng thù thắng.
Nên đức Thế Tôn khen ngợi ngài A Nan rằng, 汝今所問,多所饒益 “nhữ kim sở vấn, đa sở nhiêu ích” (điều ông hỏi hôm nay, có nhiều lợi ích), hôm nay trong hội này ông thưa hỏi, Phật vì mọi người mà thuyết ra bộ Kinh Vô Lượng Thọ này, lợi ích vô lượng vô biên, lợi ích quá nhiều rồi. Mãi đến thời Mạt pháp cuối cùng của đức Thích Ca Mâu Ni Phật thì bộ Kinh này mới bị biến mất, tất cả kinh Phật đều biến mất ở thế gian, đây là bộ cuối cùng, chúng ta tin rằng bộ cuối cùng chính là bản của chúng ta dùng hiện nay. Có thể thấy được bộ Kinh này, có thể nghe được bộ Kinh này, nghe được một câu, nghe được một câu Phật hiệu, thì công đức cũng không thể nghĩ bàn.
Chúng ta xem khoa tiếp theo, 法報德用 “Pháp Báo đức dụng” (Đức dụng của Pháp thân Báo thân), vô lượng công đức của Pháp thân, Báo thân, đã khởi tác dụng. Trong đây lại chia ba khoa nhỏ, khoa nhỏ thứ nhất, là Bát-nhã đức, 覺智難量 “giác trí nan lượng” (trí huệ giác ngộ khó đo lường), trí là trí huệ, giác là giác ngộ. Chúng ta xem kinh văn:
【阿難當知。如來正覺。其智難量。無有障礙。】
“A Nan đương tri, Như Lai Chánh giác. Kì trí nan lượng, vô hữu chướng ngại” (A Nan nên biết, trí Chánh Giác của Như Lai, rất khó đo lường, không có chướng ngại).
Mời xem Chú Giải. 正覺者,證悟一切諸法之真正覺智,即如來之實智。故成佛曰成正覺 “Chánh Giác giả, chứng ngộ nhất thiết chư pháp chi chân chánh giác trí, tức Như Lai chi Thật trí. Cố thành Phật viết thành Chánh Giác” (Chánh Giác: là giác trí chân thật chứng ngộ tất cả các pháp, chính là Thật trí của Như Lai. Nên thành Phật được gọi là thành Chánh Giác). Chứng là chứng thật, là chứng minh, chứng ngộ tất cả các pháp. Phật pháp phù hợp với nguyên tắc của khoa học đã nói, với những bằng chứng mà nhà khoa học đã tìm ra, thật sự phải có sự chứng minh. Phật pháp cũng là nói Tín, Giải, Hành, Chứng, quý vị thật sự chứng đắc rồi, thì đó là của chính quý vị, nếu quý vị chưa chứng đắc, thì những gì quý vị học là của đức Thích Ca Mâu Ni Phật, là của người khác, không phải của chính mình. Do đó học Phật có bốn giai đoạn: đầu tiên là phải tin, vì sao vậy? Bởi không tin thì quý vị không chịu học. Nên tin là vào cửa, nhất định không thể hoài nghi. Quý vị mang theo nghi ngờ để tu học, quý vị không thể hành, không thể chứng, nhiều lắm là giải. Học tập kinh giáo, nghe kinh giáo, đọc tụng kinh giáo, làm cho rõ ràng, làm cho sáng tỏ những điều Phật giảng, chưa hẳn đã tin, không đạt được lợi ích chân thật, chỉ trồng thiện căn mà thôi. Nhất định phải tin điều đó là thật, không phải giả, tại sao vậy? Bởi đức Phật dạy người không vọng ngữ, thì làm gì có đạo lý chính mình vọng ngữ?
Lời nói của chính mình không thật thà, quý vị giảng kinh Phật sẽ không có ai tin, nên chính mình phải làm ra được Tam Quy, Ngũ giới, Thập thiện, thì người khác sẽ tin quý vị thôi. Tam Quy là Phật Pháp Tăng, khi chúng ta khai kinh là niệm Tam Quy y, quy y Phật là giác thì không mê, quy y Pháp là chánh thì không tà, quy y Tăng là tịnh thì không nhiễm. Đây là tổng cương lĩnh, tổng nguyên tắc của học tập Phật pháp, nói với chúng ta điều gì? Chúng ta từ mê hoặc điên đảo mà quay về Tự Tánh giác; từ tri kiến sai lầm, tà tri tà kiến mà quay đầu lại, nương vào chánh tri chánh kiến; từ ô nhiễm quay đầu lại, nương vào tâm thanh tịnh. Đó gọi là Quy Y Tam Bảo. Như vậy Tự Tánh giác, Tự Tánh chánh, Tự Tánh thanh tịnh, chính là chân thật chi tế. Chân thật chi tế trên Kinh Vô Lượng Thọ mà chúng ta học tập, là Chân Tâm, là Bản tánh, Bản tánh giác là trí đức, chánh là hành đức, tịnh là tâm thanh tịnh của Tự Tánh. Nên hoàn toàn trở về Tự Tánh, là giác trí chân thật.
Chúng ta phải tin tưởng, chúng ta phải hiểu rõ, làm rõ ràng, làm sáng tỏ, tại sao vậy? Bởi đoạn nghi sanh tín, không có hoài nghi nữa, phải thật làm, sau khi tin thì tôi thật làm, sau khi thật làm thì có thể chứng được, thật sự thể hội được rồi. Khi thể hội, tâm phải thanh tịnh mới thể hội được, tâm là ô nhiễm thì không có cách nào thể hội, nhất định phải cầu thanh tịnh. Tâm thanh tịnh chính là định, định chính là buông xuống ô nhiễm, buông xuống phân biệt, buông xuống chấp trước. Buông xuống những thứ này rồi, thì tâm địa thanh tịnh, bình đẳng, khởi tác dụng chính là giác, trí huệ đã xuất hiện, đó là chứng. Chứng ngộ chân tướng của tất cả pháp là giác trí chân thật, đây chính là trí huệ Bát-nhã vốn đầy đủ trong Tự Tánh. Vì vậy thành Phật cũng gọi là thành Chánh Giác, thành Chánh Giác chính là thành Phật.
如《淨影疏》曰:如來正覺,總舉佛智 “Như Tịnh Ảnh Sớ viết: Như Lai Chánh Giác, tổng cử Phật trí” (Như trong Tịnh Ảnh Sớ nói: Như Lai Chánh Giác, nêu ra toàn bộ trí huệ của Phật), một câu này đã nêu ra tất cả trí huệ của Phật đã chứng đắc. 可見如來正覺四字,全表佛智。此智甚深,故曰難量 “Khả kiến Như Lai Chánh Giác tứ tự, toàn biểu Phật trí. Thử trí thậm thâm, cố viết nan lượng” (Có thể thấy bốn chữ: Như Lai Chánh Giác, biểu thị tất cả trí huệ của Phật. Trí này rất sâu, nên nói khó đo lường). Trí huệ này là thật, không cách nào tưởng tượng, trên kinh thường nói là bất khả tư nghị, tư là suy nghĩ, quý vị không cách nào suy nghĩ, vì sao vậy? Bởi không nghĩ ra; Nghị là nghị luận, là thảo luận, là để nói rõ, cũng không cách nào nói rõ. Chỉ có thể hiểu bằng ý, nhưng không thể nói thành lời, nếu quý vị đã chứng được, gặp được người chứng đắc, thì hai người quý vị có thể thông suốt, nhưng người khác không biết.
Giống như Ngũ Tổ và Lục Tổ, khi Lục Tổ khai ngộ rồi, nói ra năm câu đó, thì Ngũ Tổ ấn chứng cho ngài, không sai chút nào, liền truyền y bát cho ngài. Ngài là do nghe kinh mà khai ngộ, nghe Kinh Kim Cang, chưa giảng xong Kinh Kim Cang, đại khái giảng đến 1 phần 3. Bởi Đại sư Huệ Năng không biết chữ, chưa từng đi học, nên Ngũ Tổ giảng Kinh Kim Cang nhất định là giảng đại ý, không cần dùng bản kinh. Giảng đến 應無所住,而生其心 “ưng vô sở trụ, nhi sanh kỳ tâm” (không nên trụ vào đâu, liền sanh tâm ấy), thì ngài hoát nhiên Đại ngộ, nói ra năm câu đó. Ngũ Tổ nói, được rồi, ấn chứng cho ông, ông cũng không có một chút sai lầm, truyền y bát cho ngài, ngài tiếp nhận Tổ sư đời thứ sáu. Bởi vì thời tiết nhân duyên khác nhau, nên [Ngũ Tổ] bảo ngài lánh nạn, sẽ có người gây phiền phức, người bình thường không phục, thanh danh, địa vị của ngài chưa đủ, chưa bằng Pháp sư Thần Tú. Pháp sư Thần Tú đã thân cận Tổ sư không ít năm, rất nhiều người thấy lão Hòa thượng, khách của lão Hòa thượng quá nhiều, phần lớn đều là ngài Thần Tú thay mặt lão Hòa thượng để tiếp kiến. Nên trong lòng mọi người đều cho rằng Tổ sư đời thứ sáu nhất định là ngài Thần Tú, làm sao có thể là ngài Huệ Năng chứ? Nên mọi người không phục.
Vào thời Đường, là thịnh thế, Phật giáo hưng thịnh, còn có sự phiền toái như thế, nên những khó khăn mà chúng ta gặp phải hiện nay có thể tưởng tượng thì biết, cũng không khó hiểu, sau khi hiểu rõ thì tâm khai ý giải, giác được điều gì? Đây là hiện tượng bình thường. Ngài ở trong đội thợ săn 15 năm mới đi ra, sau khi đi ra, Thiền tông vô cùng rực rỡ, ở dưới hội của Đại sư Huệ Năng, hơn 40 người Minh tâm Kiến tánh, Đại triệt Đại ngộ. Quá khứ đều là đơn truyền, một người truyền một người, truyền được năm đời, đến Đại sư Huệ Năng, đã truyền hơn 40 người. Trong lịch sử Phật giáo Trung Hoa, đây là “không tiền tuyệt hậu“, tức là trước Đại sư Huệ Năng chưa từng có hiện tượng này, sau Đại sư Huệ Năng cũng sẽ không có, truyền hai, ba người thì có, còn truyền bốn mươi mấy người thì không có. Đây chính là bất khả tư nghì, chúng ta không có cách nào để tưởng tượng, cũng không cách nào để giải thích, Minh tâm Kiến tánh hoàn toàn là dùng tâm ấn tâm. Tốt rồi, thời gian hôm nay hết rồi, chúng ta học tập đến đây thôi.
(Hết tập 131)
Nguyện đem công đức này
Hướng về khắp tất cả
Đệ tử cùng chúng sanh
Đều sanh nước Cực Lạc
Sớm viên thành Phật quả
Rộng độ khắp chúng sanh
Nam Mô A Mi Đà Phật.
#HoathuongTinhKhong #tinhdodaikinhkhoachu2014