Responsive Menu
Add more content here...

Tập 137 – Tịnh Độ Đại Kinh Khoa Chú 2014

TỊNH ĐỘ ĐẠI KINH KHOA CHÚ 2014

(Giảng lần thứ 4)

PHẨM THỨ TƯ: PHÁP TẠNG NHÂN ĐỊA

Tập 137

Chủ giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không

Thời gian: 26/11/2014

Giảng tại: Hiệp Hội Giáo Dục Phật Đà Hồng Kông

Dịch giả: Sư cô Thích Tâm Thường

Giảo chánh: Thích Thiện Trang.

Kính chào chư vị Pháp sư, quý vị đồng học, mời an tọa. Thỉnh mọi người cùng tôi quy y Tam Bảo:

A-xà-lê tồn niệm, ngã Đệ tử Diệu Âm, thỉ tùng kim nhật, nãi chí mạng tồn, quy y Phật Đà, lưỡng túc trung tôn, quy y Đạt Ma, ly dục trung tôn, quy y Tăng Già, chư chúng trung tôn. (3 lần)

Mời xem Đại Kinh Khoa Chú, trang 377, đếm ngược đến hàng thứ hai, tiêu đề B1, 正說因地 “Chánh Thuyết Nhân Địa” (Chính Thức Thuyết Về Nhân Địa), trong kinh văn phẩm thứ tư đến phẩm thứ tám, chia làm hai khoa. Chúng ta xem tiếp, mục C1, 在家聞法 “Tại Gia Văn Pháp” (Nghe Pháp Lúc Tại Gia), khoa này chia thành ba đoạn, đoạn thứ nhất 生值佛世 “Sanh Trị Phật Thế” (Sanh Lúc Gặp Phật Ở Thế Gian). Mời xem kinh văn:

【佛告阿難。過去無量不可思議。無央數劫。有佛出世。名世間自在王如來。應供。等正覺。明行足。善逝。世間解。無上士。調御丈夫。天人師。佛。世尊。】

 “Phật cáo A Nan: Quá khứ vô lượng bất khả tư nghì, vô ương số kiếp, hữu Phật xuất thế, danh Thế Gian Tự Tại Vương Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn” (Phật nói với ngài A Nan: Vô lượng không thể nghĩ bàn, vô tận số kiếp về thuở quá khứ, có Phật ra đời, hiệu là Thế Gian Tự Tại Vương Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn). Chúng ta xem Chú Giải của Niệm lão. Hôm trước có đồng học hỏi tôi, vị ấy nói con của vị ấy hỏi vị ấy, thầy của A Mi Đà Phật là người nào? Chỗ này nói ra rồi, thầy của A Mi Đà Phật chính là 『世間自在王如來』 “Thế Gian Tự Tại Vương Như Lai”. Trong phẩm này 法藏因地第四 “Pháp Tạng Nhân Địa đệ tứ” (Phẩm thứ tư Pháp Tạng Nhân Địa), có thể nói là lịch sử của Thế giới Cực Lạc, phải xem từ nguồn gốc, thời gian quá dài rồi, không cách nào tưởng tượng, cũng không cách nào có thể nói được rõ ràng. Nên điều chúng ta nhìn thấy trong Kinh, trong vô tận số kiếp còn thêm cụm vô lượng không thể nghĩ bàn vào, 『無量不可思議,無央數劫』“vô lượng bất khả tư nghì, vô ương số kiếp” (vô lượng không thể nghĩ bàn, vô tận số kiếp). Chú Giải của Niệm lão, 無央數劫。梵語阿僧祇 “vô ương số kiếp. Phạn ngữ a-tăng-kỳ” (vô ương số kiếp. Tiếng Phạn là a-tăng-kỳ), dịch âm, dịch sang ý nghĩa của nước ta là 無央數 “vô ương số” (vô ương số). 央者,盡也 “Ương giả, tận dã” (Ương là cùng tận), chính là 無盡數之劫 “vô tận số chi kiếp” (vô tận vô số kiếp), không cách nào tính toán được, 稱為無央數劫 “xưng vi vô ương số kiếp” (gọi là vô ương số kiếp). Thêm một chú giải nhỏ trong dấu ngoặc, hoặc nói 阿僧祇劫 “a-tăng-kỳ kiếp” (a-tăng-kỳ kiếp). Ý nghĩa của chữ “kiếp” này, 見上品布施累劫 “kiến thượng phẩm bố thí lũy kiếp” (xem câu ‘bố thí luỹ kiếp’ ở phẩm trước), phía trước chúng ta đã nói, học tập rồi. 劫為極長之時間單位,非算數所及之劫 “Kiếp vi cực trường chi thời gian đơn vị, phi toán số sở cập chi kiếp” (Kiếp là đơn vị thời gian rất dài, chẳng phải tính đếm mà biết đến kiếp được), hữu hạn, có thể tính toán, còn đến mức không cách nào tính toán thì gọi là vô ương số, 亦名阿僧祇劫 “diệc danh a-tăng-kỳ kiếp” (cũng gọi là a-tăng-kỳ kiếp). 而此阿僧祇劫又復是無有限量 “Nhi thử a-tăng-kỳ kiếp hựu phục thị vô hữu hạn lượng” (Nhưng a-tăng-kỳ kiếp này cũng lại là không có hạn lượng), đây là một ý nghĩa khác của a-tăng-kỳ kiếp, không có hạn lượng, 非思議所能及 “phi tư nghì sở năng cập” (không phải nghĩ bàn đến được), tư là tưởng tượng, nghì là lời nói; nói cách khác, là chúng ta không cách nào tưởng tượng, không cách nào nói được rõ ràng. Nên gọi là “vô lượng bất khả tư nghì, vô ương số kiếp” chính là thời gian rất dài rất lâu. 指過去之時,久遠無極 “Chỉ quá khứ chi thời, cửu viễn vô cực” (Chỉ thời gian quá khứ, lâu xa vô cùng), thời gian quá dài rồi, chúng ta không cách nào tính toán được.

Đây là nói về thời gian, quá khứ vô lượng kiếp lại vô lượng kiếp, thế gian này có một vị Phật ra đời, danh hiệu là Thế Gian Tự Tại Vương Như Lai, tiếp theo giải thích cho chúng ta. 世間自在王 “Thế Gian Tự Tại Vương”, năm chữ này là hội tập từ trong bản dịch đời Đường. Từng chữ từng câu này đều có căn cứ, không sửa đổi kinh văn của bản dịch gốc, nói rõ đây là sự hội tập trung thực nhất, chúng ta nên phải tin tưởng. 過去久遠,無量不可思議無盡數之大劫 “Quá khứ cửu viễn, vô lượng bất khả tư nghì vô tận số chi Đại kiếp” (Trong quá khứ lâu xa, vô lượng không thể nghĩ bàn vô tận vô số Đại kiếp), lúc đó, có Phật xuất hiện ở thế gian, danh hiệu xưng là Thế Gian Tự Tại Vương. 是乃古佛別有之名號,稱為別號 “Thị nãi cổ Phật biệt hữu chi danh hiệu, xưng vi biệt hiệu” (Đó chính là danh hiệu riêng của cổ Phật, nên gọi là biệt hiệu). Chúng ta biết rằng, trên kinh Đại thừa nói với chúng ta, quá khứ vô thỉ, không tìm thấy khởi đầu, vị lai cũng vô chung, đây là thời gian và không gian. Trong Đại thừa giáo nói với chúng ta, thời gian, không gian từ đâu tới? Vẫn là do Tự Tánh biến hiện ra, Tự Tánh có thể sanh vạn pháp, trong vạn pháp gồm có cả thời gian và không gian.

Sách học nhập môn Pháp Tướng tông là Luận Bách Pháp Minh Môn, là Bồ-tát Thiên Thân đem Đại luận Du Già Sư Địa Luận do Bồ-tát Di Lặc làm, trong luận đó quy nạp vạn pháp thành: 660 loại, tiện cho việc học tập. Bồ-tát Thiên Thân nhìn thấy, vẫn là chưa tiện cho người mới học, đối với hạng sơ cơ, vừa mới nhập môn, nói quá phức tạp, quá sâu, không dễ lý giải, nên ngài quy nạp 660 pháp thành 100 pháp, tiện cho việc dạy học. Trong 100 pháp ấy chia thành hai loại lớn: một loại là pháp Hữu vi, một loại là pháp Vô vi. Hữu vi, là có sanh có diệt; còn Vô vi, không sanh không diệt. Pháp Vô vi có sáu loại, trong sáu loại chỉ có một loại Vô vi thật sự, năm loại khác, pháp Hữu vi không thể thu vào, nên cũng gọi là pháp Vô vi. Giống như Hư không, chúng ta không nhìn thấy Hư không này sanh diệt, dường như là không sanh không diệt, nên xếp vào trong Vô vi; cảnh giới trong Thiền định cũng không có sanh diệt. Hữu vi chia làm: Tâm pháp, là khởi tâm động niệm; Tâm sở pháp, tác dụng mà khởi tâm động niệm sanh ra; Sắc pháp, sắc pháp là vật chất, còn Tâm pháp là ý niệm, hiện tượng vật chất đều gọi là Sắc pháp. Còn có một loại gọi là Bất tương Ưng hành pháp, tức là không thuộc về tâm, cũng không thuộc về tâm sở, cũng không thuộc về sắc, nhưng đều có mối quan hệ với chúng, dùng thành một pháp độc lập, gọi là tâm Bất tương ưng. Hiện nay chúng ta gọi là khái niệm trừu tượng, khái niệm trừu tượng chính là Bất tương Ưng hành pháp nói trên kinh Phật, có 24 loại. Trong Tâm sở pháp có thiện có ác, có Tâm sở thiện, có Tâm sở bất thiện, bất thiện là phiền não, 11 thiện pháp, 26 phiền não.

Đây đều là quy nạp lại, quy nạp đến cuối cùng trở thành 100 pháp, học tập nhập môn Đại thừa: nhất định phải đọc bộ luận ấy, luận ấy, văn tự không nhiều, nhưng Chú Giải rất phong phú. Đó là một câu nói của Lục tổ Đại sư Huệ Năng, “hà kỳ Tự Tánh, năng sanh vạn pháp”, vạn pháp đều không rời khỏi Tự Tánh, Tự Tánh là Bản thể của vạn pháp. Thời gian, không gian: loại trừu tượng này cũng không rời khỏi Bản thể ấy, nếu tách rời Bản thể thì không một pháp nào có thể được. Nên ngài nói rất hay, ngờ đâu Tự Tánh, có thể sanh vạn pháp, một câu nói rõ hết rồi.

Lúc đó có Phật xuất hiện ở thế gian, thật sự quá khứ vô thỉ, đức hiệu Thế Gian Tự Tại Vương, nên Niệm lão nói với chúng ta, đây là danh hiệu riêng của cổ Phật, gọi là biệt hiệu. 世間自在 “Thế Gian Tự Tại” (Thế Gian Tự Tại), chỗ này chia ra để nói, 常在世間而不為世間所拘礙 “thường tại thế gian nhi bất vi thế gian sở câu ngại” (thường ở thế gian nhưng không bị thế gian trói buộc chướng ngại). Trên kinh Phật có câu nói 佛照世間相,常住自寂滅 “Phật chiếu thế gian tướng, thường trụ tự tịch diệt” (Phật rõ tướng thế gian, thường trụ tự tịch diệt), đây chính là ý nghĩa của Thế Gian Tự Tại. Câu này rất quan trọng. Trong Phật pháp Đại thừa, Phật luôn nói với chúng ta, sanh Phật bình đẳng, sanh Phật nhất như, sanh là chúng sanh, Phật là chứng được cảnh giới rốt ráo viên mãn, trở về Tự Tánh rồi, trở về Tự Tánh là hồi quy Thường Tịch Quang. Tuy Thường Tịch Quang không có tất cả hiện tượng vật chất, cũng không có tất cả hiện tượng tinh thần, ngay cả hiện tượng tự nhiên cũng không có, Phật pháp gọi đó là không tịch, dùng hai chữ này để miêu tả. Không tịch chẳng thể nói nó không có, tại sao vậy? Bởi gặp được duyên thì nó có thể hiện tướng, chính là Đại sư Huệ Năng đã nói: có thể sanh vạn pháp. Khi không sanh vạn pháp là không tịch, lúc sanh vạn pháp chính là Y Chánh trang nghiêm. Vì vậy sanh và không sanh ở đây là một không phải hai, không sanh chẳng thể nói nó không, sanh cũng chẳng thể nói nó có, vì sao? Bởi những gì có tướng đều là hư vọng, tất cả tướng là có sanh có diệt, bao gồm Thật Báo độ. Tướng của Thật Báo độ hiện, là có hiển có ẩn, khi hiện thì chúng ta gọi là hiển, khi không hiện thì gọi là ẩn, ẩn tàng đi, không thấy tướng nữa. Khi nó hiện là có, khi không hiện là không, có và không là một không phải hai. Đây là việc rất khó hiểu, có và không biến thành bằng nhau, đó là một thể.

Cảnh giới này, chính là trong Đại thừa giáo thường xưng là Pháp thân Như Lai. Ai có? Tất cả chúng sanh mỗi mỗi đều có, không phải mình Phật có, Phật chứng được rồi, mà chúng ta cũng có, tất cả mọi người đều có, nhưng chúng ta chưa chứng được, chúng ta mê rồi, là đã mê mất Tự Tánh. Tự Tánh chính là Chân Tâm, Chân Tâm là một, chứ không có hai, tất cả pháp đều là do Chân Tâm biến. Ở trên kinh, Phật dùng ví dụ để nói, giống như biển lớn, biển lớn ấy là Chân Tâm, Y Chánh trang nghiêm của Thập pháp giới cũng như bọt nước ở trong biển lớn. Bọt nước là do tác động của sóng mà sanh ra, hiện tượng đó rất ngắn tạm, sóng biến mất rồi, thì bọt nước không còn nữa, quý vị liền thấy được biển lớn. Nhưng quý vị ở trước bọt nước chưa bị phá vỡ, giống như nói là mê, không biết chính mình là biển lớn, cho rằng chính mình là bọt nước nhỏ; sau khi phá mê thì phục hồi về biển lớn, vốn dĩ là biển cả. Ví dụ này vô cùng sinh động, tỷ dụ rất hay, rất thích hợp. Chúng ta thấy sóng trên bờ biển, sẽ nghĩ đến những điều trên kinh Phật nói, tất cả chúng sanh, hết thảy chúng sanh khắp pháp giới hư không giới, bao gồm cả Phật, Bồ-tát, Thanh văn, Duyên giác, Lục đạo, tất cả Thập pháp giới này là do bọt nước mà hình thành. Nên nói phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng, gồm cả Thật Báo Trang Nghiêm độ.

Nhưng Thật Báo độ nếu so sánh với Thập pháp giới, thì có một hiện tượng khác nhau, đó chính là trong Nhất chân Pháp giới không có sanh diệt, còn Thập pháp giới có sanh có diệt. Thí như nói hiện nay chúng ta ở Pháp giới người, chúng ta có sanh lão bệnh tử, bất kỳ người nào trong Thập pháp giới cũng không thể tránh được. Đó là gì? Đó là tướng, phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng, tướng có đạt được không? Không thể đạt được. Tại sao? Bởi chúng ta từ trong ảo tướng: phải nhận thức chân tướng của nó, chân tướng là sanh diệt, tần số của sanh diệt, một giây 2 triệu 100 ngàn tỷ lần, trong một giây. Có sanh diệt nhiều lần như vậy, mỗi sanh diệt là một tướng, một ảo tướng, vả lại không có hai ảo tướng nào là giống nhau, nhất định không thể được. Phải xem từ đâu? Phải từ toàn thể hư không Pháp giới để xem, thật sự không có hai tướng như nhau. Nên trên kinh Đại thừa cũng có nói, tương tự tương tục; nếu nói tương tục, thì một tướng trước giống với một tướng sau, vậy mới tương tục, là không giống nhau. Chỗ gần nhìn không ra, dường như là tương đồng, vừa mở rộng thì thấy khác nhau, phóng to ra khắp pháp giới hư không giới, liền biết khác nhau, giống ít khác nhiều, không phải là giống nhiều khác ít.

Chúng ta ở nhân gian, người sống được 100 năm không nhiều, điều này hiếm có. Thời gian 100 năm này trong vô lượng kiếp, quá khứ vô lượng kiếp, vị lai vô lượng kiếp, trong thời gian dài ấy thì tính thế nào, thật sự là một búng tay, 100 năm. Nên nhất định phải nhận thức rõ, đó là giả, không phải thật, bao gồm Thật Báo Trang Nghiêm độ của Pháp thân Bồ-tát cư trú. Thật Báo Trang Nghiêm độ từ đâu mà có, cuối cùng hiện nay chúng ta đã làm rõ ràng. Lục đạo do đâu mà có? Lục đạo từ Kiến tư Phiền não mà có, cũng chính là nói, quý vị có Thân kiến, Biên kiến, Kiến thủ, Giới thủ kiến, Tà kiến, quý vị có Tham Sân Si Mạn Nghi, những thứ này biến hiện ra Lục đạo luân hồi. Trong lục đạo có thiện có ác, tâm thiện hạnh thiện biến hiện ra ba đường thiện, ý niệm ác hạnh ác biến hiện ra ba đường ác, đều ở trước mặt của quý vị. Nhất chân Pháp giới không có sanh diệt, là có ẩn, có hiện, mà không có sanh diệt. Chúng ta cũng có thể nói: ẩn là diệt của nó, hiện là sanh của nó, có tướng của sanh diệt, nhưng nó không có sát-na sanh diệt.

Sanh diệt của nó từ đâu mà đến, hiện nay chúng ta biết rồi. Phải thoát khỏi Thập pháp giới, Thập pháp giới là do Vô minh Phiền não biến hiện ra, phá Vô minh rồi, thì không còn Thập pháp giới nữa, Nhất chân Pháp giới xuất hiện. Nhất chân Pháp giới từ đâu ra? Chưa đoạn sạch sẽ Tập khí của Vô thỉ Vô minh, nên hiện cảnh giới này. Tập khí của Vô thỉ Vô minh cần thời gian bao lâu mới đoạn hết được? Trên kinh nói với chúng ta, phải ba a-tăng-kỳ kiếp. Hôm nay vừa đúng chúng ta giảng đến chỗ này, a-tăng-kỳ kiếp, phải ba a-tăng-kỳ kiếp. Nên nói ba đại a-tăng-kỳ kiếp là ý nghĩa này, phải đoạn sạch sẽ phiền não, Tập khí Phiền não của Vô thỉ Vô minh. Sau khi đoạn sạch sẽ, liền trở về Thường Tịch Quang, không thấy Thật Báo Trang Nghiêm độ nữa. Vì vậy đạt đến rốt ráo viên mãn, Phật thường dùng cảnh trong mộng làm tỷ dụ, mộng có ba loại: trong mộng có mộng, trong mộng đó còn có mộng. Lục đạo của chúng ta là loại thứ ba, Thật Báo Trang Nghiêm độ là loại thứ nhất, Thập pháp giới là loại thứ hai, Lục đạo luân hồi của chúng ta là loại thứ ba. Quý vị xem, chúng ta đoạn Kiến tư Phiền não rồi, thì không có lục đạo nữa, Thập pháp giới hiện tiền; đoạn Vô thỉ Vô minh Phiền não, thì không còn Thập pháp giới nữa, Nhất chân Pháp giới hiện ra; đoạn sạch sẽ Tập khí Phiền não của Vô thỉ Vô minh, thì không thấy Thật Báo độ nữa, lúc đó là cảnh giới gì? Thường Tịch Quang. Thường Tịch Quang Tịnh độ cao nhất trong bốn cõi của Tịnh độ, Thường Tịch Quang chính là Tự Tánh, Thường Tịch Quang chính là Bản thể, trở về đến Tự Tánh.

Khế nhập Thường Tịch Quang, lúc này hiện tượng vật chất không có, hiện tượng tinh thần cũng không còn nữa, ngay cả Tập khí của hiện tượng tinh thần đều đoạn sạch sẽ rồi, vậy là nhập Thường Tịch Quang. Thường Tịch Quang ở đâu? Chẳng đâu không có, chẳng lúc nào không có, Thường Tịch Quang lớn đến không có ngoài, nhỏ đến không có trong. Hồi quy Thường Tịch Quang, chính là chứng được rốt ráo viên mãn, trên Kinh Hoa Nghiêm xưng quý ngài là Diệu Giác Như Lai. Những người tu hành đó cư trú ở Thật Báo độ, gọi là Pháp thân Đại sĩ, quý ngài từ Sơ trụ Bồ-tát của Viên giáo Hoa Nghiêm thì chứng được, khi nào rời khỏi Thật Báo độ? Đến Đẳng giác. Vì thế, quý ngài có 41 cấp bậc, Thập trụ, Thập hạnh, Thập hồi hướng, Thập địa, Đẳng giác. Đẳng giác đã đoạn rất sạch sẽ Tập khí của Vô thỉ Vô minh, không để lại chút nào, lúc ấy không thấy Thật Báo độ nữa, Thường Tịch Quang hiện tiền, thì quý ngài rất tự nhiên hòa vào Thường Tịch Quang.

Đây là vũ trụ quan của Phật pháp Đại thừa, đây là duyên khởi của Phật pháp Đại thừa. Quý vị xem mê mất Tự Tánh, biến hiện ra những ảo tướng này, tầng tầng lớp lớp cảnh mộng, người đó càng ngày càng vào sâu trong mộng, chìm vào cảnh giới quá sâu, từ từ thức dậy, phá từng tầng từng tầng, đến cuối cùng cũng trở về Thường Tịch Quang. Đó là tuần hoàn lớn, một vòng tuần hoàn, nhà khoa học hiện nay nói trở về 0, xuất phát từ 0, cuối cùng vẫn trở về đến chỗ 0, rất tương tự, rất gần với những gì kinh Phật nói. Phật là dùng phương pháp gì? Dùng Tam học: Giới Định Huệ. Giới Định Huệ thật tuyệt vời, Giới có thể diệt phiền não thô nặng, giúp quý vị thoát khỏi luân hồi; dùng thêm Định, cũng chính là tâm thanh tịnh được nói trên đề Kinh của chúng ta, tâm thanh tịnh là Giới, tâm bình đẳng là Định, dùng Định giúp chúng ta thoát khỏi Thập pháp giới, trở về đến Nhất chân Pháp giới; dùng giác nữa, thanh tịnh bình Đẳng giác, dùng giác để chiếu vỡ Tập khí của Phiền não Vô thỉ Vô minh, sau đó hồi quy Thường Tịch Quang, chứng được rốt ráo viên mãn.

Thế Gian Tự Tại Vương Như Lai, hoặc chúng ta xưng Ngài là Thế Gian Tự Tại Vương Phật cũng được, đó là địa vị Diệu Giác, trên bậc Đẳng giác, Ngài ở Thường Tịch Quang. Trong Thường Tịch Quang được đại tự tại, đại tự tại này biểu hiện từ đâu? Từ hằng thuận chúng sanh, tùy hỷ công đức. Trên Kinh Lăng Nghiêm nói 隨心應量 “tùy tâm ứng lượng”, tùy chúng sanh tâm, ứng chúng sanh lượng, 當處出生,隨處滅盡 “đương xứ xuất sanh, tùy xứ diệt tận”, đó là đại tự tại, không có chút chướng ngại nào. Ngài ứng hóa ở thế gian, cũng giống như trong Phẩm Phổ Môn nói, nên dùng thân gì độ được thì liền hiện thân ấy. Nên dùng thân gì độ được, là cảm của bên chúng sanh, ứng của Pháp thân Như Lai trong Thường Tịch Quang, không có khởi tâm động niệm, pháp vốn như thế, quý Ngài là tự nhiên như vậy. Như chúng ta gõ chuông, chúng ta vừa gõ thì chuông vang lên ngay, gõ mạnh thì âm thanh lớn, thời gian vang dài; gõ nhẹ thì âm thanh nhỏ, thời gian ngắn, là điều tự nhiên. Chuông không có suy nghĩ, tôi gõ nó như vậy, nó phải phản ứng thế nào, không có, không có ý niệm này. Thế nên chúng ta hiểu rõ, năm xưa đức Thích Ca Mâu Ni Phật thị hiện ở thế gian, trụ thế 80 năm, dường như là giống với cuộc sống của chúng ta, Ngài có khởi tâm động niệm hay không? Không có. Nếu khởi tâm động niệm, thì Ngài không phải là Phật, mà là Bồ-tát, Bồ-tát có khởi tâm động niệm, nhưng không có phân biệt chấp trước.

Chúng ta học Phật thì học từ đâu? Học ngay từ đây, hoàn toàn chính xác. Mắt thấy sắc, tai nghe tiếng: rất rõ ràng, rất sáng tỏ, đó là trí huệ, đó là quán, quán chiếu. Trong quán chiếu chính là không có phân biệt chấp trước, quán chiếu bậc cao thì không có khởi tâm động niệm, Phật và Pháp thân Bồ-tát không có khởi tâm động niệm; Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát của Tam thừa, Thập trụ, Thập hạnh, Thập hồi hướng của Biệt giáo gọi là Tam thừa Bồ-tát, quý ngài có khởi tâm động niệm, không có phân biệt chấp trước. Thật tu hành là tu ở đâu? Tu ở nơi sáu căn và sáu trần. Sáu căn tiếp xúc với cảnh giới sáu trần: có giác có quán, giác là không mê, quán là hiểu rõ, biết tất cả tướng là ảo tướng, là tần số cao, chúng ta dùng lời của khoa học để nói, ảo tướng sanh ra bởi các rung động tần số cao. Ảo tướng này đã bao gồm hiện tượng tâm lý, hiện tượng của sóng dao động ý niệm, từ hiện tượng sóng dao động ý niệm: sanh ra hiện tượng vật chất, vật chất là đến như vậy, tinh thần là tới như thế. Thuật ngữ của nhà Phật gọi là Nghiệp tướng của A-lại-da, Nghiệp tướng là tần số, từ trong tần số sanh Chuyển tướng, chuyển là năng biến, hiện tượng vật chất là sở biến.

Vì vậy giảng về duyên khởi, [theo] Phật pháp Đại thừa, thì vũ trụ từ đâu mà có? Không phải là do một vị thần tạo, không phải vậy, là duyên khởi. Duyên khởi từ đâu tới? Là từ Tự Tánh. Tự Tánh có từ đâu tới không? Tự Tánh không có, Tự Tánh pháp vốn như vậy, Tự Tánh vốn chính là như thế. Đến lúc nào quý vị mới thật sự có thể hiểu rõ triệt để? Thành Phật, tu đến cảnh giới của Như Lai, tu đến đẳng cấp của Diệu Giác, sẽ hiểu rõ tất cả thôi. Chân tướng rõ ràng thì Minh tâm Kiến tánh liền biết rõ, đó là bậc thấp nhất trong 41 cấp bậc của Thật Báo độ, Đại triệt Đại ngộ, Minh tâm Kiến tánh, Sơ trụ Bồ-tát, không khởi tâm không động niệm nữa. Không khởi tâm không động niệm, vậy cấp bậc đến từ đâu? Đức Thế Tôn nói với chúng ta 41 cấp bậc: Thập trụ, Thập hạnh, Thập hồi hướng, Thập địa, là 40, thêm Đẳng giác nữa, là 41 cấp bậc, 41 cấp bậc có thật không? Không có. Không có mà tại sao lại nói có? Nói có, bởi vì quý ngài chưa đoạn sạch sẽ Tập khí, là từ sự nặng nhẹ của Tập khí mà nói 41 cấp bậc. Địa vị càng thấp, Tập khí nặng, càng lên trên Tập khí càng nhẹ, đến Diệu Giác, hoàn toàn đoạn sạch sẽ Tập khí rồi. Tập khí Vô thỉ Vô minh ngoài việc chướng ngại quý vị trở về Thường Tịch Quang, thì không chướng ngại các thứ khác, nên trí huệ, thần thông, đạo lực và quả vị cứu cánh của quý vị, chính là Diệu Giác Như Lai, không khác nhau. Quý vị có năng lực phân thân biến hóa, trong cõi nước tất cả chư Phật của Thập pháp giới, giống như Bồ-tát Quán Thế Âm, tự tại hiện thân thuyết pháp. Chúng sanh có cảm thì quý vị liền ứng, ngàn nơi cầu thì ngàn nơi ứng, cảm ứng đạo giao không thể nghĩ bàn.

Mỗi người chúng ta đều không phải là độc lập, người kết duyên với chúng ta đời đời kiếp kiếp từ vô lượng kiếp đến nay, cũng là a-tăng-kỳ số, vô lượng vô biên. Nên khi chính chúng ta chứng được quả vị Pháp thân Bồ-tát, thì chắc chắn không bỏ chúng sanh, đặc biệt là chúng sanh có duyên, họ hoan hỷ tiếp cận với quý vị, quý vị nói chuyện với họ thì họ tin theo, đó là có duyên; nếu không có duyên, mà quý vị dạy họ thì họ không tiếp nhận, họ không tin, đó là không có duyên phận. Pháp giới vô lượng vô biên, bất kỳ người có duyên ở nơi nào gặp gian khổ, gặp phải khó khăn, quý vị liền sẽ có cảm ứng, giống như máy vi tính, quý vị nhận được tin tức của họ, thì rất tự nhiên liền Hóa thân ở trước mặt họ. Thời gian dài sẽ dùng Ứng thân, năm xưa khi đức Thích Ca Mâu Ni Phật còn tại thế, trụ thế 80 năm, là Ứng thân. Còn Hóa thân làm một sự việc, khi làm xong rồi thì không thấy nữa, thời gian dài ngắn không nhất định, có người mấy phút, có người vài giờ. Ngay cả như Bồ-tát Văn Thù, biến thành một người ăn xin, gọi là Văn Kiết, chăm sóc lão Hòa thượng Hư Vân. Khi bị nạn, ngài ba bước một lạy đi lên núi, giữa đường bị bệnh nơi vắng vẻ, Bồ-tát Văn Thù đến cứu ngài, dùng thân phận của một người ăn xin, để ngài không nghi ngờ gì, đã giúp ngài hai lần, hơn một tháng, là Hóa thân. Hơn một tháng đã trị khỏi bệnh cho ngài, ngài có thể đi bái sơn, không thấy người ăn xin nữa. Đó chính là không có chướng ngại, đó chính là đại tự tại.

Vương là tính từ, trong một đất nước, người ra lệnh chính là Quốc vương, Quốc vương được đại tự tại, còn tất cả nhân dân đều phải nghe theo mệnh lệnh của ông ta, dùng điều này để tỷ dụ. Phật là Pháp vương, tự tại với pháp, pháp chính là lời của Đại sư Huệ Năng nói “nào ngờ Tự Tánh, có thể sanh vạn pháp”, Pháp vương được đại tự tại ngay trong vạn pháp, không có chướng ngại. Chúng ta học Phật, pháp tối thượng thừa chính là căn cứ vào đạo lý này để tu học. Học thế nào? Sáu căn tiếp xúc với sáu trần: tu không khởi tâm không động niệm, đây là dùng mục tiêu của Phật; Bồ-tát hạ xuống một bậc, có khởi tâm động niệm, nhưng không có phân biệt chấp trước; A-la-hán hạ xuống một bậc nữa, có khởi tâm động niệm, có phân biệt, không có chấp trước. Hiện nay chúng ta tu cách nào? Gộp Đại thừa, Tiểu thừa lại làm một, học không khởi tâm không động niệm, điều này làm không được, chúng ta không cách nào để tu, quá cao rồi, chúng ta học không phân biệt không chấp trước. Khi ăn cơm, không phân biệt thức ăn có ngon hay không, không chấp trước, vậy là thật sự tu hành; mặc quần áo, không cần nghĩ đến kiểu dáng thế nào, chất liệu ra sao, không phân biệt không chấp trước. Học Phật là học ở đâu? Học trong cuộc sống thường ngày. Xử việc đối người tiếp vật: không phân biệt, đây là người tốt, kia là người xấu, trong tâm đối xử như nhau, cách nhìn thế nào? Tất cả đều là Phật, tất cả đều là A Mi Đà Phật. Khi quý vị thật sự tu được như vậy, thì quý vị tu thành công Thế giới Cực Lạc rồi.

Với Vĩnh Tư Tập về lão Hòa thượng Hải Hiền: nhất định phải xem nhiều. Quý vị xem ngài Hải Khánh, ngài gánh một thùng phân, phân người, đi trên đường, đường đó chắc chắn không lớn, đường nhỏ ở nông thôn. Có một người đi xe đạp, tốc độ rất nhanh, va chạm ngã vào ngài, ngài gánh một thùng phân, sau khi ngã xuống thùng phân đó văng khắp người ngài. Vị đi xe đạp là người trẻ tuổi, mắng ngài, những người bên cạnh cảm thấy bất bình, ngài liền khuyên mọi người rằng: không phải là lỗi của anh ấy, đừng trách anh ấy, là lỗi của tôi. Đối với người, đối với việc, đối với vật: thật sự làm đến chân thành, bình đẳng, cung kính. Ngài Hải Khánh có chút nói lắp, khi nói chuyện thì nói không rõ ràng, nên ngài rất ít nói, nhưng niệm Phật thì từng chữ trọn vẹn rõ ràng, chỉ một câu Nam Mô A Mi Đà Phật này, ngài niệm rất rõ ràng sáu chữ này, quý vị không cảm thấy ngài bị nói lắp. Nhưng khi không niệm Phật, lúc nói chuyện, thì quý vị cảm thấy ngài nói lắp rất nghiêm trọng.

Ngài để lại khai thị gì cho chúng ta? Để lại thân kim cang bất hoại. Khi mất rồi, ngài ngồi trong chum thời gian hơn sáu năm, ngài Hải Hiền là Sư huynh của ngài, muốn mở chum, nếu thi thể đã phân hủy, thì hoả táng, tro cốt sẽ đưa vào tháp. Khi mở chum của ngài ra xem xét, diện mạo như còn sống, ngay cả quần áo cũng không bị hư hỏng chút nào. Ngài tu thế nào? Ngài biểu hiện cho chúng ta là Nhẫn nhục Ba-la-mật, vì chúng ta mà thị hiện, cả đời lấy giới làm thầy, lấy khổ làm thầy, ngài đã làm được tám chữ này. Công việc nặng nhọc trong chùa không ai muốn làm thì ngài làm hết, hơn nữa làm mà sanh tâm hoan hỷ. Ngài tu thế nào? Trong hoàn cảnh vật chất, hoàn cảnh người và việc, ngài hoàn toàn buông xuống, buông xuống tất cả phân biệt chấp trước, buông xuống khởi tâm động niệm. Bởi vì chỉ có không khởi tâm không động niệm, cảnh giới của Pháp thân Bồ-tát, thì ngài mới có thể để lại thân kim cang bất hoại, đó không phải là điều mà người bình thường có thể làm được. Chúng ta xem đĩa phim ấy, thấy báo cáo của ngài thì phải thể hội được.

Ở đây, chúng ta đọc câu này, “Phật chiếu thế gian tướng, thường trụ tự tịch diệt”, chúng ta làm không được, lão Hòa thượng Hải Hiền, lão Hòa thượng Hải Khánh làm được rồi, thật sự không dễ. Chỉ có ngay tướng lìa tướng, thật sự nhìn thấy Thật tướng các pháp, tịch diệt, diệt gì vậy? Không có khởi tâm động niệm, không có phân biệt, không có chấp trước nữa, đó là tịch diệt. Thường trụ tịch diệt, mọi lúc, mọi nơi, sáu căn tiếp xúc với cảnh giới sáu trần, không có khởi tâm động niệm, phân biệt chấp trước, đây là thường trụ tự tịch diệt. Vạn sự vạn vật trên thế gian rất rõ ràng, rất sáng tỏ, không mơ hồ, chỉ là người bình thường nhìn không ra. Đến khi ngài ra đi để lại kim thân, chúng ta quay lại nghĩ xem: khi ngài còn sống, ngôn hành của ngài lúc trụ thế, mới phát hiện sự áo diệu trong đó. Đó là chân tu, không phải là một ngày niệm bao nhiêu ngàn tiếng Phật hiệu, đọc bao nhiêu bộ kinh, không phải vậy. Cả đời các ngài không biết chữ, chưa bao giờ đọc qua một bộ kinh, cũng chưa từng nghe một lần kinh nào, nhưng khởi tâm động niệm, lời nói việc làm của các ngài tương ưng với Pháp thân Bồ-tát. Nên chúng ta phải đặc biệt lưu ý hai câu này, việc làm cả đời của ngài Hải Khánh, ngài Hải Hiền tương ưng với hai câu này, tương ưng chính là ý nghĩa của Thế Gian Tự Tại.

又《甄解》曰 “Hựu Chân Giải viết” (Thêm nữa trong sách Chân Giải nói), tức do Đại đức Tịnh tông Nhật Bản nói, 以世間配般若,自在即解脫義,王是法身。三一相即 “dĩ Thế Gian phối Bát-nhã, Tự Tại tức Giải thoát nghĩa, Vương thị Pháp thân. Tam nhất tương tức” (lấy Thế Gian phối hợp với Bát-nhã, Tự Tại là nghĩa của Giải thoát, Vương là Pháp thân. Ba chính là một, một chính là ba), Bát-nhã, Giải thoát, Pháp thân: ba điều này tương tức, một chính là ba, ba chính là một, 不縱不橫,名世自在王 “bất tung bất hoành, danh Thế Tự Tại Vương” (không dọc cũng không ngang, gọi là Thế Tự Tại Vương). Thế Gian Tự Tại Vương Như Lai viên mãn chứng được Pháp thân, Bát-nhã, Giải thoát. 是從涅槃三德釋佛名號 “Thị tùng Niết-Bàn Tam đức thích Phật danh hiệu” (Là từ Tam đức của Niết-Bàn để giải thích danh hiệu của Phật), Tam đức được nói trong Kinh Niết Bàn là: Pháp thân đức, Bát-nhã đức, Giải thoát đức, dùng Tam đức để giải thích danh hiệu của Thế Gian Tự Tại Vương Phật. 古代一切從屬於王,故以王喻法身德 “Cổ đại nhất thiết tùng thuộc ư Vương, cố dĩ Vương dụ Pháp thân đức” (Thời xưa tất cả phụ thuộc theo vua, nên dùng Vương ví cho Pháp thân đức), chế độ chính trị thời xưa: tất cả nghe theo mệnh lệnh của vua, nên dùng điều này để tỉ dụ Pháp thân. 一切皆從法身所流現 “Nhất thiết giai tùng Pháp thân sở lưu hiện” (Tất cả đều từ Pháp thân mà hiện ra). Tất cả pháp từ Trường Năng Lượng Điểm 0 sanh ra, chúng ta dùng lời của khoa học ngày nay để nói, một niệm không giác hiện ra, 又一一還歸於法身,故曰王是法身 “hựu nhất nhất hoàn quy ư Pháp thân, cố viết Vương thị Pháp thân” (Lại nữa, tất cả vẫn trở về Pháp thân, nên nói Vương là Pháp thân). Tất cả pháp cuối cùng đều là trở về 0, từ Trường Năng Lượng Điểm 0 hiện ra, vẫn trở về đến Trường Năng Lượng Điểm 0, trong Phật pháp gọi là Tự Tánh Thường Tịch Quang. Nên nói rằng Vương là Pháp thân, sanh diệt cùng lúc, không phải là hai.

通達世間,屬般若德 “Thông đạt thế gian, thuộc Bát-nhã đức” (Thông đạt thế gian, thuộc về Bát-nhã đức). Tự nhiên thông suốt đối với tất cả pháp của thế và xuất thế gian, có cần học không? Không cần học. Chỉ cần quý vị kiến tánh, điều gọi là kiến tánh chính là nhìn thấy Chân tướng các pháp. Chân tướng các pháp là gì? Làm thế nào mới có thể thấy được? Khoa học ngày nay là dùng Toán học để thăm dò, dùng kỹ thuật thiết bị của khoa học, quan sát chứng minh là đúng, phương pháp này dùng là đến từ bên ngoài. Bên ngoài có thể phát hiện, giống như hiện nay nhà khoa học đã phơi bày bí mật thật sự của hiện tượng vật chất, bí mật của vũ trụ. Thấy được sự biến mất của hiện tượng vật chất, hiện tượng vật chất hiện tiền, thấy được sự sanh của nó, thấy được sự diệt của nó. Là sanh diệt thế nào mà sanh ra hiện tượng vật chất? Thì ra là ý niệm, sự sanh diệt của ý niệm sanh ra hiện tượng vật chất. Do đó, hiện tượng vật chất là giả, đúng là tình cờ trùng hợp với trên kinh Phật, lời trên kinh Phật nói, hiện tượng vật chất là từ tâm tưởng sanh. Tướng do tâm sanh, sắc do tâm sanh, tâm này là ý niệm, được khoa học hiện đại chứng minh rồi. Ý niệm từ đâu đến? Hiện nay nhà khoa học vẫn là một sự thách đố, vẫn chưa thể chứng minh. Chúng ta tin rằng thêm hai mươi, ba mươi năm nữa, cũng có thể vạch trần được: bí mật là ý niệm từ đâu đến.

Ở trên kinh Đại thừa, Phật nói dùng Ý thức Thứ sáu, Ý thức Thứ sáu là suy xét, chúng ta suy nghĩ vấn đề đều dùng Ý thức Thứ sáu, năng lực của Ý thức Thứ sáu rất lớn, nó có 51 tâm sở, là viên mãn. Trong tám thức khởi tác dụng thì nó là thứ nhất, đối với bên ngoài có thể duyên được biên giới của vũ trụ, đối với bên trong có thể duyên được Thức thứ tám, ở trên kinh Phật nói những điều này, cũng chính là lời dự đoán. Nhà khoa học hiện nay là dùng Ý thức Thứ sáu, dùng Ý thức Thứ sáu, Phật nói, đối với bên trong có thể duyên được A-lại-da, Tam tế tướng của A-lại-da, Nghiệp tướng, Chuyển tướng, Cảnh giới tướng, Cảnh giới tướng là vật chất. Cũng tức là ba loại hiện tượng: hiện tượng tự nhiên, hiện tượng tâm lý (chính là ý niệm), hiện tượng vật chất, nhà khoa học có thể duyên được, nhưng duyên không được Tự Tánh. Nên họ vẫn là phàm phu, họ vẫn tạo Lục đạo luân hồi. Phải làm thế nào mới có thể tự tại: giống như Phật Bồ-tát? Không thể dùng các phương pháp bên ngoài, phải dùng phương pháp bên trong, bên trong là gì? Giới Định Huệ. Dùng Giới được tâm thanh tịnh, chứng quả A-la-hán; dùng Định hành đạo Bồ-tát, thoát khỏi Thập pháp giới, Minh tâm Kiến tánh, kiến tánh thành Phật. Lúc ấy, lại chờ phá Tập khí Phiền não Vô thỉ Vô minh, điều này là không có cách nào có thể giúp được quý vị, cần thời gian, thời gian lâu rồi, tự nhiên không còn nữa. Cần thời gian bao lâu? Ba a-tăng-kỳ kiếp. Ba a-tăng-kỳ kiếp, thông thường cũng gọi là vô lượng thọ, vô lượng của hữu lượng. Hết ba a-tăng-kỳ kiếp rồi, thì đoạn sạch sành sanh tất cả Tập khí Vô thỉ Vô minh, lúc đó không thấy Thật Báo độ nữa. Thật Báo độ từ đâu mà đến? Do Tập khí Vô thỉ Vô minh biến hiện ra, Tập khí không còn, thì không thấy Thật Báo độ, Thường Tịch Quang hiện tiền. Trở về Thường Tịch Quang, vậy là chứng được rốt ráo viên mãn Vô thượng Bồ-đề.

Nên mục tiêu cuối cùng của nền giáo dục Phật giáo là gì? Là giúp chúng ta trở về Tự Tánh. Chúng ta từ mê mất Tự Tánh, biến hiện ra Lục đạo, vô thỉ kiếp đến nay, tạo sanh tử luân hồi trong Lục đạo, không thể giác ngộ, càng mê càng sâu, càng chìm sâu càng khổ. Lục đạo khổ không tả xiết, khổ nhất là địa ngục, hễ là mê trong Lục đạo, chắc chắn thời gian ở địa ngục dài nhất. Chỉ có thể nghe được Phật pháp, mới có cơ hội thoát khỏi địa ngục, nếu không có Phật pháp, thì mãi không biết chân tướng sự thật, làm sao quý vị thoát khỏi được? Trong Phật pháp Đại thừa, đặc biệt là Tịnh tông, phương pháp của Tịnh tông hoàn toàn tương ưng với nguyên lý, điều này không phải là giả, tín nguyện trì danh. Tín nguyện trì danh có tương ưng với “Phật chiếu thế gian tướng, thường trụ tự tịch diệt” không? Tương ưng. Niệm Phật quan trọng, khi không có việc thì niệm Phật, niệm ra tiếng, Kim Cang trì, niệm thầm đều được, không trở ngại chút nào. Nếu không niệm Phật chính là niệm sanh tử luân hồi, chính quý vị không hay không biết, vậy thì sai rồi. Phải niệm Phật, đối với tất cả pháp thế gian tùy duyên không phan duyên, vậy thì tốt. Học lão Hòa thượng Hải Hiền, lão Hòa thượng Hải Khánh, nhìn thế gian này không có gì là không tốt, mọi thứ đều tốt, với tất cả người việc vật: không có tâm phân biệt, không có tâm chấp trước. Biết, trong tâm rất rõ ràng, tất cả đều là do Tự Tánh biến hiện ra, đâu có gì không tốt? Lại huống chi trên Kinh Hoa Nghiêm nói “tất cả chúng sanh xưa nay là Phật”, “tất cả chúng sanh đều có trí huệ đức tướng của Như Lai”, không thể xem nhẹ, không thể coi thường họ. Chính mình trong cuộc sống hàng ngày nuôi dưỡng tính khiêm tốn, không có kiêu ngạo, tốt!

Thông đạt thế gian là Bát-nhã, trí huệ Bát-nhã vốn có trong Tự Tánh, không đến từ bên ngoài. Nên chỉ cần kiến tánh, thì thứ gì cũng biết, thông suốt hiểu rõ tất cả pháp thế và xuất thế gian. 於世自在,是解脫德 “Ư thế tự tại, thị Giải Thoát đức” (Tự tại với thế gian, là Giải Thoát đức), được đại tự tại ở thế gian này. Giải Thoát, đọc âm ‘giải’ là dùng như một động từ, tháo mở, tháo mở gì? Phiền não, Tập khí. Thoát là thoát ly, thoát khỏi Lục đạo luân hồi, thoát ly Thập pháp giới, thoát khỏi Thật Báo Trang Nghiêm độ. Tự tại với thế gian, cũng chính là những pháp của thế gian này, pháp của Thập pháp giới, thậm chí tất cả pháp của Thật Báo Trang Nghiêm độ Thế giới Cực Lạc, đối với chính mình không sanh ra chút ảnh hưởng nào, không bị sự quấy nhiễu. Thế giới Cực Lạc sẽ không bị những niềm vui làm mê mất, quý vị ở trong Thế giới đó, sanh tâm hoan hỷ, tâm hoan hỷ là phiền não, hỷ nộ ai lạc ái ố dục là Thất tình, quấy nhiễu. Trong nghịch cảnh sanh tâm sân giận, trong thuận cảnh sanh tâm tham luyến, toàn sai rồi. Tất cả cảnh giới thuận hay nghịch đều có thể chịu đựng, không khởi tâm tham luyến, không sanh tâm oán hận, vậy thì đúng rồi. Hoàn toàn dùng một tâm bình thường, bình là bình đẳng, không có phân biệt là bình đẳng, thường là vĩnh hằng, trụ trong bình thường, đây là người đại tu hành, người chân tu hành!

Chúng ta không vào cảnh giới này, làm sao đây? Đó là cảnh giới của Như Lai, Pháp thân Như Lai, là cảnh giới chí cao Vô thượng trong Phật pháp. Vả lại thế nào? Ai ai cũng có phần, tất cả đều không phải không có, mà chỉ là mê ngộ khác nhau. Phật pháp đối với tất cả chúng sanh không có gì khác, là giúp mọi người giác ngộ, khi giác ngộ rồi thì đều là như nhau. Giác ngộ triệt để, giác ngộ rốt ráo, giác ngộ viên mãn, chính là Diệu Giác Như Lai. Quý ngài có duyên với chúng sanh, có duyên thì đương nhiên phải giúp chúng sanh rời khổ được vui, Phật xuất hiện ở thế gian là vì việc này, giúp chúng sanh lìa khổ, lìa cứu cánh khổ. Cứu cánh khổ là gì? Là luân hồi. Quý vị chưa ra khỏi luân hồi, thì khổ vui đó là tạm thời, không thoát khỏi được mãi mãi, luân hồi khổ, chẳng thể không biết. Được vui phải là rốt ráo vui, vui rốt ráo viên mãn là Thế giới Tây Phương Cực Lạc, so sánh với Thật Báo Trang Nghiêm độ của tất cả cõi nước chư Phật trong mười phương, thì Thế giới Cực Lạc là thù thắng bậc nhất. Tại sao vậy? Phía sau chúng ta đọc đoạn lịch sử này sẽ biết thôi. Thế giới Cực Lạc từ đâu mà có? Là Thế Gian Tự Tại Vương dạy Tỳ-kheo Pháp Tạng, Tỳ-kheo Pháp Tạng là tiền thân của A Mi Đà Phật, dạy Ngài đến tất cả cõi nước chư Phật, để tham quan, để khảo sát, để học tập. Những điều thiện, điều tốt trong tất cả cõi nước Phật, con hãy nhớ, là cần tất cả, còn tất cả những điều không thiện, điều chưa tốt thì không cần, trở về xây dựng Thế giới Cực Lạc của con. Nên Thế giới Cực Lạc đến từ đâu? Tập hợp sự thành tựu to lớn của chân thiện mỹ huệ trong tất cả cõi nước chư Phật, trở thành số một, là đến như thế đó. Vì vậy, được rốt ráo vui là vãng sanh Thế giới Cực Lạc.

Tất cả chư Phật Như Lai xuất hiện ở thế gian giáo hóa chúng sanh, giúp chúng sanh lìa khổ được vui, thì chúng ta sáng tỏ rồi, chư Phật Như Lai có tâm thế nào, điều duy nhất, ý niệm số một, là hi vọng giúp họ đến Thế giới Cực Lạc, vì sao vậy? Bởi được rốt ráo vui. Phải hiểu ý nghĩa này, chúng ta cần làm rõ ràng, làm sáng tỏ. Tại sao tôi không niệm các vị Phật khác, mà tôi niệm A Mi Đà Phật? Vì sao tôi không đọc các kinh khác, mà đọc Kinh Vô Lượng Thọ? Đó là bởi vì tâm nguyện bổn hoài của chư Phật Như Lai, giúp chúng ta rời rốt ráo khổ, được rốt ráo vui, là việc như vậy đó. Phương pháp rời cứu cánh khổ được rốt ráo vui, chính là tín nguyện trì danh cầu sanh Tịnh Độ. Chúng ta đối với Pháp môn này không tin, không thể tiếp nhận, được, thì dùng tiếp phương pháp khác, dùng 84.000 Pháp môn, dần dần giúp quý vị nâng cao, khơi dậy sự hứng thú của quý vị, nhưng đến cuối cùng vẫn quay về Pháp môn này. Quý vị xem Kinh Hoa Nghiêm đến cuối cùng, Mười đại Nguyện vương của Bồ-tát Phổ Hiền dẫn về Cực Lạc, làm viên mãn cho Kinh Hoa Nghiêm, nhìn thấy rồi, trên Kinh Pháp Hoa, Long Nữ tám tuổi thành Phật, thật sự là ngàn kinh vạn luận đều quy hướng một nơi. Từ đây chúng ta thể hội được dụng tâm của đức Thích Ca Mâu Ni Phật, trí huệ chân thật, từ bi chân thật của đức Thích Ca Mâu Ni Phật, chúng ta phải cảm ân. Tri ân báo ân, biết ân của Phật, làm thế nào để báo ân? Tín nguyện trì danh cầu sanh Tịnh Độ, chính là báo ân của Phật. Chúng ta cần nắm chắc điều này, những thứ khác đều là giả. Giả thì làm sao ứng phó? Tùy duyên là tốt, tại sao vậy? Bởi tùy duyên đều đại hoan hỷ, đối với chúng ta không xảy ra chướng ngại, đối với người khác có thể sanh tâm hoan hỷ, tốt! Trong 24 giờ, chúng ta ôm chắc lấy một câu Phật hiệu, đối với chư Phật Như Lai, đặc biệt là bản nguyện của đức Mi Đà, phẩm thứ sáu chính là 48 nguyện.

Vì vậy, ở đây Niệm lão nhắc nhở chúng ta, 圓攝三德,三即是一,一即是三 “viên nhiếp Tam đức, tam tức thị nhất, nhất tức thị tam” (nhiếp trọn ba đức, ba chính là một, một chính là ba), ba đức này chính là Pháp thân, Bát-nhã, Giải thoát, một mà ba, ba mà một. 如∴字三點 “Như Y tự tam điểm” (Như ba điểm của chữ Y), ba điểm này là tiếng Phạn, tiếng Phạn đây là một chữ cái, đọc là Y, âm Y, ba điểm của chữ Y, 不縱不橫,表涅槃真身常樂我淨之無上妙德 “bất tung bất hoành, biểu Niết-Bàn Chân thân Thường Lạc Ngã Tịnh chi Vô thượng diệu đức” (không ngang không dọc, biểu thị diệu đức Vô thượng Thường Lạc Ngã Tịnh của Chân thân Niết-Bàn). Một niệm ngay đây chính là, niệm niệm đừng lạc mất A Mi Đà Phật, niệm niệm đều là A Mi Đà Phật, thì đúng rồi, công đức của danh hiệu không thể nghĩ bàn. Biết được đức thứ nhất của danh hiệu, làm sao để biết? Phải dựa vào kinh điển, một bộ Kinh này là đủ rồi. Nếu trong bộ Kinh này vẫn còn hoài nghi, thì đọc tiếp những kinh lớn khác, tôi là người từng trải nên tôi hiểu rõ. Tôi học Phật 63 năm, trong những năm đầu, Pháp sư Sám Vân giới thiệu Tịnh tông cho tôi, nhưng tôi chưa tiếp nhận. Lúc đó có quan niệm sai lầm, đây là dạy cho các cụ bà, có lẽ là Phật tiếp dẫn người không có tri thức, nên dùng Pháp môn này. Chúng tôi tự cho mình là tầng lớp tri thức, cho rằng rất thông minh, không cam tâm học Pháp môn này, điều hướng tới trong tâm đều là Đại Kinh Đại Luận. Đây là gì? Bị ảnh hưởng của thầy Phương Đông Mỹ. Nhưng thầy Phương đến cuối đời cũng Quy Y Tam Bảo, cũng đã tu Pháp môn Niệm Phật, đó là việc của nửa năm trước khi thầy vãng sanh, thầy mới quay đầu, thật không dễ. Tôi là từ trong những Đại Kinh như Hoa Nghiêm, Pháp Hoa, Lăng Nghiêm mà quay đầu lại, thật sự nhận thức Tịnh Độ, thật sự biết câu danh hiệu này không thể nghĩ bàn. Tuyệt không phải là những Đại Kinh ấy, lý luận của Đại Kinh không sai, phương pháp cũng tốt, nhưng rất khó tu, quá tạp, quá nhiều rồi.

Đoạn tiếp theo, 『如來,應供……佛,世尊』 “Như Lai, Ứng Cúng…Phật, Thế Tôn” (Từ Như Lai, Ứng Cúng…đến Phật, Thế Tôn), mười hiệu này là danh hiệu chung của chư Phật, mỗi một vị Phật đều có thể xưng là Như Lai, mỗi một vị Phật đều có thể xưng là Ứng Cúng, mỗi một vị Phật đều có thể xưng là Thế Tôn. 一切佛同具此十號,實則諸佛德無量,故德號亦無量,今隨眾生機,節略而稱十號 “Nhất thiết Phật đồng cụ thử thập hiệu, thật tắc chư Phật đức vô lượng, cố đức hiệu diệc vô lượng, kim tùy chúng sanh cơ, tiết lược nhi xưng thập hiệu” (Tất cả đức Phật đều đầy đủ mười danh hiệu này, thật ra đức của chư Phật vô lượng, nên đức hiệu cũng vô lượng, nay tùy theo căn cơ của chúng sanh, trích lược mà nói mười danh hiệu). Hoa Nghiêm dùng 10 để đại biểu cho viên mãn, ở đây cũng là ý nghĩa này, 10 đại biểu cho đại viên mãn, tiêu biểu cho đức của Phật. Đức của Phật chính là đức năng vốn sẵn đủ trong Tự Tánh, là vô lượng vô biên, đức hiệu của Ngài tất nhiên cũng là vô lượng vô biên. Thế giới Ta Bà, căn cơ chúng sanh trên địa cầu của chúng ta không phải là cao lắm, nếu nhiều thì không muốn tiếp nhận, quá phiền rồi, thích đơn giản, đơn giản thì nói mười loại, gọi là mười danh hiệu. Mười loại, trong mỗi một loại đều gồm cả chín loại kia, đây chính là lời trên Kinh Hoa Nghiêm nói, một tức là nhiều, nhiều tức là một, một và nhiều chẳng phải hai, đây là đại viên mãn. Vì vậy phải cầu chứng, thâm nhập nhất môn, vì sao? Bởi phải tâm thanh tịnh mới có thể chứng được, phải tâm bình đẳng mới có thể chứng được, phải Đại triệt Đại ngộ mới có thể Minh tâm Kiến tánh. Thế thì chúng ta biết, điều đức Như Lai truyền chính là đại pháp chân thật, chúng ta cần phải có tâm chân thật, tương ưng với Ngài mới có thể tiếp nhận, nếu tâm của chúng ta là Vọng tâm, là giả tâm, như vậy nhất định đời này không thể chứng được.

Chân Tâm là gì? Chân Tâm không có ý niệm, Đại thừa giáo nói Chân Tâm lìa niệm, niệm đó là gì? Khởi tâm Động niệm; không khởi tâm không động niệm là Chân Tâm, khởi tâm động niệm là Vọng tâm. Trong Vọng tâm có Chân Tâm, nhưng Chân Tâm không khởi tác dụng, Chân Tâm khởi tác dụng là Thường Tịch Quang, Vọng tâm khởi tác dụng là Lục đạo luân hồi, là Thập pháp giới. Chúng ta muốn học Đại thừa, thì cần phải biết xả vọng dùng chân, giống như lời Phật nói trên Kinh Lăng Nghiêm, mới có thể tương ưng. Khởi tâm động niệm chính là Vọng tâm, người hiện nay, vọng niệm không chỉ cao hơn trước đây gấp trăm lần. Cổ nhân có vọng niệm, nhưng vọng niệm ít, hiện nay theo sự tiến bộ của khoa học, vọng niệm cũng đi lên, càng ngày càng nhiều. Nói cách khác, khoảng cách giữa Chân Như và tâm tánh ngày càng xa hơn, làm thế nào người hiện nay có thể chứng được? Chúng ta không nói người khác, hãy hỏi chính mình, bình tĩnh mà xem xét, tôi có năng lực này không? Mắt thấy sắc có phải thật sự không phân biệt tốt xấu ở trong sắc, không chấp trước tà chánh, có làm được không? Không làm được, từ sáng đến tối vẫn là những tạp niệm này, đó chính là tạo nghiệp luân hồi. Mỗi ngày điều tích lũy được không phải là Tịnh nghiệp, mà nghiệp ô nhiễm, càng nhiễm càng sâu, tại vì sao? Bởi đối với giả mà coi là thật. Gì là giả? Thân thể là giả, chúng ta vì thân thể mà lo lắng biết bao.

Lão Hòa thượng Hải Hiền làm tấm gương cho chúng ta, 112 tuổi, chưa bao giờ quan tâm đối với thân thể. Tại sao vậy? Bởi ngài chỉ có một nguyện vọng, mỗi ngày đều niệm vãng sanh Tịnh Độ, ngoài một niệm này thì không có ý niệm thứ hai. Tuy thường gặp A Mi Đà Phật, nhưng cũng thường cầu A Mi Đà Phật dẫn ngài đến Thế giới Cực Lạc, chính ngài đã nói, A Mi Đà Phật chưa dẫn tôi đi, nói tôi tu không tệ, ở thế gian này thêm vài năm, làm tấm gương tốt cho người học Phật trên thế gian. Luận về tư cách vãng sanh của ngài, thì đã có từ lâu rồi, tôi xem kỹ đĩa phim về ngài, tôi cảm thấy ngài đầy đủ điều kiện vãng sanh chắc phải là vào khoảng 25 tuổi. 20 tuổi ngài xuất gia, tôi tin rằng không vượt quá 5 năm, đạt Công phu Thành phiến, Công phu Thành phiến là có cảm ứng với A Mi Đà Phật. Ngài còn thọ mạng nhưng không cần nữa, A Mi Đà Phật sẽ dẫn ngài đến Thế giới Cực Lạc. A Mi Đà Phật muốn giữ ngài ở thế gian làm tấm gương tốt, rốt cuộc ngài có đủ điều kiện gì? Rất đơn giản, ngài có tâm từ bi, ngài có tâm yêu thương, ngài có thể yêu thương che chở tất cả chúng sanh, đây là điều kiện thứ nhất. Điều kiện thứ hai, ngài thật sự đã làm được: lấy giới là thầy, lấy khổ làm thầy.

Ngài trì giới chính là một câu Phật hiệu này, một câu Phật hiệu viên mãn tất cả Giới luật; không sợ khổ, mà bằng lòng chịu khổ. Nhìn thấy sự hưởng thụ thì ngài không hài lòng, cả đời chưa bao giờ nhìn thấy ngài có lúc nào mà không vui, chỉ có một lần quý vị thấy vẻ mặt nghiêm túc của ngài. Đó là vì việc gì? Vào ngày sinh nhật 112 tuổi, những Cư sĩ tại gia ấy: ở chùa Lai Phật chúc mừng sinh nhật cho ngài, đã làm một bàn các món ăn. Ngài nhìn thấy rất không vừa lòng, không ăn một miếng nào, vẻ mặt nghiêm túc, đây là điều chưa từng thấy qua. Cuối cùng ngài cũng ăn một ít mì sợi trộn với hạt vừng, rất đơn giản. Đó là không muốn, không hi vọng họ làm như vậy, đó là trì giới, lấy khổ làm thầy. Khổ đối với ngài mà nói là vui, ngài không coi là khổ, trông thấy chúng sanh mỗi ngày ăn uống rất nhiều, ngài khởi tâm từ bi của ngài, đó là thật khổ, đó là tạo nghiệp. Quý vị xem ngài nhìn mọi người đang cùng ăn cơm, thấy thức ăn trong chén của người ta, cơm rơi xuống đất, ngài nhặt lên để ăn, lão Hòa thượng vui vẻ. Ngài nói quý vị hiểu không? Ngài không muốn lãng phí một hạt gạo đó, không muốn lãng phí một giọt nước, đây là tích bao nhiêu phước đức. Phước đức từ đâu đến? Phước đến từ đó, từ tiết kiệm, không lãng phí gì cả. Ở nông thôn không có nước máy, đối với việc dùng nước rất tiết kiệm, không lãng phí, rửa mặt đều là dùng chậu nhỏ, không dùng chậu lớn. Tiết kiệm phước, thật sự phải học. Những gì mà Kinh Vô Lượng Thọ đã nói thì ngài làm được tất cả, đều biểu diễn cho chúng ta thấy, chúng ta phải lắng tâm để quan sát. Chúng ta nên chú ý trong cuộc sống hàng ngày, cần làm tấm gương tốt cho người, rơi xuống đất không nên sợ bẩn, lão Hòa thượng đã ăn như vậy.

Chúng ta biết, Tự Tánh là Vô Lượng Quang, Vô Lượng Thọ thật sự, vô lượng vô biên đức năng: đều không ở bên ngoài, trí huệ không ở bên ngoài, phước báo cũng không ở bên ngoài. Đức năng đều là vốn đầy đủ trong Tự Tánh của chính mình, nên là bình đẳng, không có chỗ nào cao chỗ nào thấp; hiển thị ra không bình đẳng, đó là chúng ta mê mất Tự Tánh: có nặng có nhẹ. A-la-hán, Bồ-tát mê nhẹ, nên coi như có trí huệ, có đức hạnh; Phật là chứng được viên mãn. Chúng sanh trong Lục đạo luân hồi mê rất sâu, không biết nhân quả, không biết Thánh giáo, cho mình là đúng, ngày ngày tạo nghiệp mà tự mình không biết. Đó gọi là kẻ đáng thương, ở thế gian không có gì đáng thương hơn điều này, chúng ta nhất định phải biết.

Người có sanh nhất định có tử, không nên sợ chết, sau khi chết, đi về đâu, đó là vấn đề lớn, điều đó quan trọng hơn tất cả, đó mới là đại sự số một trong đời người. Ngày nay chúng ta có duyên gặp được Tịnh tông, gặp được A Mi Đà Phật, duyên này thù thắng không gì bằng. Dù chúng ta đã tạo tội nghiệp Ngũ nghịch Thập ác, nhất định đọa địa ngục, nhưng gặp được Pháp môn này thì vẫn cứu được, chỉ cần thật tin nguyện thiết, nhất tâm chuyên niệm, tranh thủ thời gian, thì nghiệp chướng của quý vị đều tiêu trừ hết, thành tựu Thế giới Cực Lạc rồi. Thân thể là giả, tất nhiên không thể chà đạp nó, nhưng cũng không cần phải yêu quý quá mức; yêu quý nó, dưỡng thành thói quen này, thì không ra khỏi Lục đạo luân hồi, tại sao vậy? Bởi tăng thêm Thân kiến. Thân kiến là loại thứ nhất trong năm loại Kiến hoặc, không bỏ đi thân này của quý vị, không bỏ thì thế nào? Không thoát khỏi luân hồi, phiền phức ở đây. Không cần thân thể, không nghĩ tới nữa, thì chứng quả Tu-đà-hoàn. Quả Tu-đà-hoàn là Sơ quả của Tiểu thừa, tuy là Sơ quả, nhưng quý ngài là Thánh nhân, quý ngài không phải phàm phu, vì sao? Bởi quý ngài nhất định không đọa ba đường ác, qua lại bảy lần trong cõi người cõi trời, chứng A-la-hán, liền vượt qua Lục đạo luân hồi rồi. Phàm phu chưa phá Thân kiến, ở trong Lục đạo không có thời gian vượt ra, là tù không thời hạn, không thời hạn ở đây là vô lượng kiếp, đáng sợ biết bao!

Vậy chúng ta phải làm sao? Như tuổi tác của tôi đây, ở thế gian này sẽ không lâu dài nữa, nên phải niệm niệm đều là A Mi Đà Phật, niệm niệm cầu sanh Tịnh Độ, không có ý niệm khác, không có lo lắng khác, có thể buông xuống tất cả. Khi nào buông xuống? Buông xuống ngay bây giờ. Nhất định không có một việc nào để trong tâm, để trong tâm chỉ một câu Phật hiệu này, không quan tâm những thứ khác, chỉ cần nắm lấy một câu Phật hiệu này thì được rồi, là đúng rồi. Những điều khác, trên Kinh Kim Cang nói, 法尚應捨,何況非法 “pháp còn nên xả, huống chi phi pháp”, pháp là Phật pháp, Phật pháp cũng xả bỏ, phi pháp là pháp thế gian, càng phải buông xuống.

Đoạn tiếp theo nói, 又此十號在諸經中之開合,頗有不同,例如《淨影疏》依《成實論》合無上士與調御丈夫為一號。開佛世尊為兩號 “hựu thử thập hiệu tại chư kinh trung chi khai hiệp, phả hữu bất đồng, lệ như Tịnh Ảnh Sớ y Thành Thật Luận hiệp Vô Thượng Sĩ dữ Điều Ngự Trượng Phu vi nhất hiệu. Khai Phật Thế Tôn vi lưỡng hiệu” (lại nữa, việc tách ra hay gộp lại của mười đức hiệu này trong các kinh, có phần khác nhau, ví dụ như trong Tịnh Ảnh Sớ dựa vào Luận Thành Thật gộp Vô Thượng Sĩ và Điều Ngự Trượng Phu lại thành một đức hiệu. Tách Phật Thế Tôn ra thành hai đức hiệu). 今依 “Kim y” (Ở đây căn cứ), hiện tại Bản Hội Tập này căn cứ vào Kinh Niết Bàn, Kinh Anh Lạc, Luận Đại Trí Độ, tách Vô Thượng Sĩ và Điều Ngự Trượng Phu ra thành hai danh hiệu. Còn Phật và Thế Tôn, thì Kinh Niết Bàn gộp lại là danh hiệu thứ 10. Áp dụng Kinh Niết Bàn, 今依《涅槃》之說 “kim y Niết Bàn chi thuyết” (Ở đây căn cứ vào lời nói của Kinh Niết Bàn). Đây là tách ra gộp lại khác nhau, nhưng ý nghĩa không khác nhau, đây là thiện xảo phương tiện của thuyết pháp.

Thời gian hôm nay hết rồi, phần dưới, buổi học tiếp theo chúng ta tiếp tục học tập, sẽ nói chi tiết mười loại đức hiệu. Đây là dùng mười đức hiệu để nói rõ vô lượng vô biên đức năng vốn đầy đủ trong Tự Tánh của chúng ta, phải có niềm tin với chính mình, đời này gặp được cơ hội thành Phật, không nên dễ dàng để trôi qua. Được rồi, hôm nay học tập đến đây thôi.

(Hết tập 137)

Nguyện đem công đức này

Hướng về khắp tất cả

Đệ tử cùng chúng sanh

Đều sanh nước Cực Lạc

Sớm viên thành Phật đạo

Rộng độ khắp chúng sanh

Nam Mô A Mi Đà Phật