TỊNH ĐỘ ĐẠI KINH KHOA CHÚ 2014
(Giảng lần thứ 4)
Tập 158
Hòa thượng Thích Tịnh Không chủ giảng.
Giảng tại: Hiệp Hội Giáo Dục Phật Đà Hồng Kông.
Thời gian: Ngày 5 tháng 1 năm 2015.
Dịch giả: Cự Lang.
Giảo chánh: Thích Thiện Trang.
Kính chào chư vị Pháp sư,
chư vị đồng học, mời ngồi. Mời mọi người quy y Tam Bảo cùng với tôi: 阿闍黎存念,我弟子妙音,始從今日,乃至命存,皈依佛陀,兩足中尊;皈依達摩,離欲中尊;皈依僧伽,諸眾中尊。“A-xà-lê tồn niệm, ngã Đệ tử Diệu
Âm, thuỷ tùng kim nhật, nãi chí mạng tồn, quy y Phật-đà, lưỡng túc trung tôn;
Quy y Đạt-ma, ly dục trung tôn; Quy y Tăng-già, chư chúng trung tôn. (3 lần)
Mời
xem Đại Kinh Khoa Chú, trang 417 hàng số 1, chúng ta xem từ câu thứ 2:
更加以外聖易信,己靈難明 “Cánh gia dĩ ngoại Thánh dị tín, kỷ linh nan minh” (Thêm nữa bậc Thánh bên ngoài
[thì] dễ tin, còn [tánh] linh của mình [thì] khó rõ). Hôm trước chúng ta học
đến chỗ này. Hai câu này rất quan trọng, chúng ta học Phật không có hiệu quả rõ
rệt, vấn đề nằm ở đâu? Chính là mấy chữ này. Chính mình học Pháp môn này học rất
lâu, không hiệu quả, nhìn thấy người khác học Pháp môn này khá, học dường như
có tác dụng. Có tác dụng thật phải không? Thật đấy, không phải giả đâu. Tại
sao? Hiệu quả được sản sinh vẫn luôn là tín lực của mình, với chính mình vốn do
niềm tin có nghi ngờ, cho nên họ có chướng ngại. Hiện giờ ta tin tưởng những gì
ở người khác, ta không có nghi ngờ, cho nên lòng tin của mình: tương ưng với
hành môn kia, thì như thế được thành tựu. Nếu chúng ta có tín tâm với người
ngoài, lại quay về tin lại chính chúng ta, thì hiệu quả sẽ thù thắng hơn. Tại
sao không thể tin chính mình? Trong kinh nói hay lắm, Phật nói rất hay, Pháp
môn này là pháp khó tin. Lại thêm có tập khí phiền não của mình rất nặng nữa, học
suốt cả đời mà không có cảm ứng, không biết trong tín tâm của mình: có xen tạp
bao nhiêu Vọng tưởng, có bao nhiêu tạp niệm, từ trong Vọng tưởng, tạp niệm, lại
sinh sôi ra nhiều nghiệp chướng nghiêm trọng, đây mới là nguyên nhân. Nhìn thấy
những điều khác lạ lẫm, thì lập tức tin tưởng, chấp nhận, Vọng tưởng, tạp niệm
này vẫn không tăng tiến lên, linh nghiệm, thật linh nghiệm. Nếu đã học 2-3 năm
rồi thì không linh nghiệm, vì sao không linh nghiệm? Bởi Vọng tưởng tạp niệm của
quý vị tăng tiến lên, đạo lý nằm ở chỗ này. Trong Kinh này Niệm lão nói hay lắm,
“ngoại Thánh dị tín, kỷ linh nan minh”, “kỷ linh” với “ngoại Thánh” phải
dung hợp thành một thể thì vấn đề mới giải quyết.
Chúng
ta ngày nay nói tin Phật, tin A Di Đà Phật, trong niềm tin đó có vấn đề, đầy rẫy
Vọng tưởng, tạp niệm, thế làm sao linh nghiệm? Nếu muốn biết A Di Đà Phật chính
là chính mình, linh tánh của chính mình: đó là Tự Tánh của A Di Đà Phật, vốn dĩ
là một không phải hai, quyết trọn một lòng: không có một mảy may nghi ngờ.
Không có nghi ngờ xem từ chỗ nào? Đó chính là khi niệm Phật không có Vọng tưởng,
không có tạp niệm, đó chính là thật tin. Một mặt niệm một mặt khởi Vọng tưởng,
còn có tạp niệm tiến tới, thế thì mình phải tự đề cao cảnh giác, chính ta có vấn
đề với Pháp môn này. Vấn đề đến từ hai khía cạnh, một là nghiệp chướng chính
mình quá nặng, không có phước phận to lớn như vậy. Phật giới thiệu cho chúng ta
Pháp môn này, nói rất rõ ràng, ai tin tưởng Pháp môn này? Người có trí huệ lớn
tin tưởng, chúng ta không có trí huệ lớn; người có phước báo lớn tin tưởng,
chúng ta không có phước báo. Chính là trong Kinh Di Đà nói: nhiều thiện
căn chính là trí huệ lớn, nhiều phước đức là phước báo lớn. Thiện căn, phước đức
không phải là tu trong một đời này, là tích luỹ trong đời đời kiếp kiếp quá khứ,
nghe thấy thì tin tưởng không có nghi ngờ, đem tất cả của mình buông xuống hết,
tất cả đều dựa vào A Di Đà Phật.
Tôi
có thể tin tưởng một điểm này, mạnh hơn chư vị một chút, là do hồi trẻ Đại sư
Chương Gia dạy cho tôi. Ngài ấy dạy tôi: hoàn toàn dựa vào Phật lực, bản thân đối
với chính mình đừng nghĩ ngợi gì hết, kính dâng thân thể này cho Phật Bồ-tát, tất
cả Phật Bồ-tát làm chủ. Ngài nói với tôi, quý vị đừng có dấy khởi tâm gì cả, một
đời quý vị [để] Phật Bồ-tát an bài thay quý vị, bất luận là thuận cảnh nghịch cảnh:
thảy là Phật Bồ-tát an bài tốt cho quý vị, đối với quý vị đều có lợi ích. Thuận
cảnh tiêu phước báo, nghịch cảnh tiêu nghiệp chướng. Nghiệp chướng, phước báo hết
thảy tiêu trừ, tâm thanh tịnh Tự Tánh hiện tiền, chuyện là như thế. Phước báo
cũng không phải là chuyện tốt, trí huệ cũng không phải là chuyện tốt, trí huệ
là Vọng tưởng, phước báo là nghiệp chướng, hưởng phước hưởng hồ đồ luôn, trí huệ
không còn nữa, tham muốn hưởng thụ vật chất thế thì tạo nghiệp rồi. Tất cả Phật
Bồ-tát an bài, tâm thái của chính chúng ta như thế nào? Tuỳ duyên, biết Phật an
bài thay ta, hoan hỷ tiếp nhận. Tín nguyện trì danh, lão thật niệm Phật, cầu
sanh Tịnh Độ, thì không sai. Phải hiểu được lý này.
Khoảng
chừng 30 năm trước, khi đó tôi đang sống ở Mỹ, có một lần trúng gió cảm mạo,
các đồng tu đưa tôi vào một bệnh viện nhỏ, Bác sĩ là người Trung Quốc, khám bệnh
cho tôi, kê một chút thuốc. Tôi nói chuyện với Bác sĩ, Bác sĩ cũng là người Đài
Loan di dân sang trước đây, tôi cười đùa nói chuyện với ông, kỳ thực là nói thật
lòng. Bác sĩ chữa bệnh cho bệnh nhân khỏi, nhờ vào đâu? Không phải nhờ vào thuốc
thang, thuốc thang là tăng thượng duyên, nguyên nhân thật sự là tâm lý. Bệnh
nhân tin tưởng Bác sĩ, Bác sĩ tin rằng mình có thể chữa khỏi cho bệnh nhân, tín
tâm thành tựu trong hai khía cạnh đó. Nếu bệnh nhân nghi ngờ Bác sĩ thì dù thuốc
hay mấy cũng sẽ không linh nghiệm; Bác sĩ nghi ngờ với bệnh nhân thì họ không
làm việc được. Tôi nói đạo lý này ra cho ông nghe, ông gật đầu thừa nhận có đạo
lý, vốn dĩ chính là như thế.
Người
thật sự có trí huệ, có phước đức, họ có tâm thái như thế nào? Tâm họ là định, bất
động, bất luận là thuận cảnh, nghịch cảnh họ đều bất động, họ trụ ở trong định.
Định khởi tác dụng là trí huệ chân thật, bản thân định chính là phước đức,
trong phước sanh huệ. Cho nên, cổ nhân Trung Hoa có câu nói rằng: 福至心靈 “Phước chí tâm linh” (Phước tột cùng thì tâm linh nghiệm), phước báo đến, thì bỗng
nhiên thông minh ra, bèn có trí huệ, chính là đạo lý như vậy.
Cho
nên ý nghĩa của hai câu này rất sâu, chúng ta phải từ từ mà thể hội. Khi nào
thì linh tánh của chính chúng ta hiện tiền? Tin tưởng thì hiện tiền, không tin
thì chướng ngại rồi. Linh tánh hiện tiền hay không: đều chi phối ở chính mình,
không ở bên ngoài. Do vậy Phật nói: 法門平等,無有高下 “Pháp môn bình đẳng, vô hữu cao hạ” (Pháp môn bình đẳng, không có
cao thấp), lời này là thật. Quý vị có nghi ngờ đối với Phật, tin tưởng với
Chúa Jesus, Jesus Ki-tô bên đó chắc chắn linh, Phật thì không linh. Quý vị tin
tưởng Phật, khi quý vị nghi ngờ đối với Chúa Ki-tô thì Phật nhất định linh,
Chúa Ki-tô nhất định không linh. Trên thực tế bên ngoài có linh không? Không
có, hoàn toàn là chính mình, tin thì linh, không tin thì không linh, là chân lý
vĩnh viễn bất biến. Cổ Thánh tiên Hiền nói với chúng ta, cả đời này chúng ta có
thể có chứng quả hay không: quyền không nằm ở bên ngoài, [mà] hoàn toàn chi phối
ở trong tay chính mình. Nếu người có thể thật sự quay đầu, tự mình có thể nắm
quyền thế, thì không có một ai không chứng quả.
Lão
Hoà thượng Hải Hiền là một người rất bình thường, một người rất phổ thông,
không có trí huệ hơn người, không có phước báo hơn người, cả đời dựa vào sức
lao động của mình để sinh sống, đích thực là một ngày không làm thì một ngày
không ăn. Môi trường tu học là ngôi chùa nhỏ trong làng quê, không có người đến
thắp nhang, không có người đi lạy Phật, cho nên trong chùa không có thu nhập.
Có mấy mẫu ruộng đất, nuôi không nổi ngôi chùa ấy, có năm người sống trong chùa
ấy, cực chẳng đã phải khai hoang, xung quanh chùa có rất nhiều đất núi không có
chủ, ngài bèn khai khẩn. Diện tích khai khẩn rất lớn, trồng lương thực, trồng
cây ăn trái, trồng rau củ, ngoại trừ có thể cung cấp cho trụ chúng trong Đạo tràng,
lại còn có dư. Tâm địa ngài từ bi, có dư thì không đem bán, mà hoàn toàn dùng để
cứu tế nghèo khổ. Nơi hoang vu hẻo lánh ấy người nghèo đông, người không có cơm
ăn chẳng ít, ngài cứu tế, phạm vi xung quanh mấy chục dặm đó, có những người khổ
nạn như vậy, đều là đối tượng để ngài cứu tế.
Tâm
địa thanh tịnh, không nhiễm mảy trần, ngài thành tựu thật rồi. Đã thành tựu
Công phu Thành phiến, [là] thành tựu nhỏ, Công phu Thành phiến chính là chúng
ta thường nói, trong tâm chỉ có một câu Phật hiệu, ngoại trừ Phật hiệu ra không
còn có bất cứ ý niệm gì, đó là thành một phiến. Có đoạn Phiền não không? Không
đoạn, chưa đoạn một phẩm nào cả, Công phu Thành phiến là khống chế được phiền
não, không khởi tác dụng, khởi tác dụng chính là một câu Phật hiệu A Di Đà Phật,
ngoại trừ A Di Đà Phật ra, ý niệm khác đều không có. Niệm Phật niệm đến công
phu này không khó, người bình thường 3 năm là thành tựu. 3 năm không thể thành
tựu, 30 năm không thể thành tựu, nguyên nhân là gì? Quý vị không buông xuống,
những việc quý vị chất chứa trong lòng quá nhiều, buông xuống là thành tựu;
không phải Pháp môn không linh, mà do quý vị chưa y giáo phụng hành. Ngài có thể
buông xuống thật. Điều khiến ngài khó buông xuống nhất, nói thật ra chính là
người mẹ già của ngài. Sau khi em trai qua đời, mẹ già không ai chăm sóc, ngài
đón mẹ mình đến Đạo tràng để cùng tu hành. Mẹ của ngài cũng là niệm Phật ăn
chay, từ nhỏ đã như thế rồi. Sống với nhau được 27 năm, cho đến khi bà cụ vãng
sanh. Do vậy, ngài đã buông xuống tình chấp, không còn chướng ngại nữa.
Công
phu Thành phiến, nói chung lại thì: A Di Đà Phật nhất định có cảm ứng với quý vị,
Thành phiến chính là cảm, lúc này Phật bèn đến ứng, hoặc là ở trong định, hoặc
là ở trong mộng. A Di Đà Phật đến nói với quý vị, đến thông báo cho quý vị, quý
vị đã đạt được điều kiện vãng sanh, quý vị vẫn còn thọ mạng, đợi đến khi quý vị
hết tuổi thọ, thì Phật đến tiếp dẫn quý vị. Lúc này quý vị quyết trọn một lòng
rồi, tại sao? Biết A Di Đà Phật có thật, đến rồi, quý vị càng dụng công hơn,
càng nỗ lực hơn. Nếu như 3 năm, 5 năm, có 3 năm, 5 năm tuổi thọ dài như thế, thì
rất có thể quý vị sẽ từ Công phu Thành phiến nâng lên đến Sự nhất tâm Bất loạn.
Sự nhất tâm Bất loạn chính là đoạn Kiến tư phiền não rồi. Đặc biệt là Tư hoặc,
Tư hoặc là gì? Tham–sân–si–mạn–nghi, quý vị không có năm chữ này nữa. Quý vị đối
với các pháp thế – xuất thế gian không có tham luyến; quý vị đối với người thiện,
người ác không có sân khuể; quý vị rõ ràng mọi điều, quý vị không mê hoặc;
khiêm tốn vì người, đãi người tiếp vật cung kính, khiêm nhường, không có kiêu mạn;
đối với sự tu hành của mình không có hoài nghi. Thật sự không có năm chữ này,
thì quý vị hiểu mình đã nâng cấp đến: Sự nhất tâm Bất loạn. Sự nhất tâm Bất loạn
vãng sanh, thăng cấp rồi, không ở Đồng Cư độ mà là ở Phương Tiện độ.
Vậy
vẫn còn tuổi thọ, lại còn 3 năm đến 5 năm, quý vị rất có thể nâng cấp đến Lý nhất
tâm Bất loạn. Lý nhất tâm Bất loạn chính là không có khởi tâm động niệm nữa,
quý vị mắt thấy tai nghe, nhưng không có Phân biệt–Chấp trước, ngay đến khởi
tâm động niệm cũng không có. Từ sáng đến tối suốt 12 thời, trong tâm rõ rõ ràng
ràng chỉ A Di Đà Phật, ngoại trừ A Di Đà Phật ra không có bất cứ gì nữa, điều
gì cũng biết, điều gì cũng không để ở trong tâm. Đó gọi là Lý nhất tâm Bất loạn,
chính là đại triệt đại ngộ, minh Tâm kiến Tánh trong Thiền tông. Ở trong cảnh
giới này, quý vị đã kiến Tánh, sau khi kiến Tánh, toàn thể Y chánh trang nghiêm
trong toàn thể mười pháp giới vũ trụ: đều là do từ Tự Tánh biến hiện ra, quý vị
nhìn thấy tánh rồi, tất cả tánh tướng, lý sự, nhân quả: của mọi pháp khắp pháp
giới hư không giới, quý vị biết hết cả, hoàn toàn thông suốt rõ ràng. Đây chính
là điều Sư phụ Truyền Giới của lão Hoà thượng Hải Hiền dạy cho ngài, niệm một
câu Nam Mô A Di Đà Phật này cứ niệm luôn luôn, minh bạch rồi, sự minh bạch này
chính là Lý nhất tâm Bất loạn. Nếu cảnh giới này hiện tiền, đặc biệt dặn dò
ngài: không được nói bừa, không thể nói. Ngài tuân giữ, ngài có trí huệ, không
lộ trí huệ, ngài có thần thông, chẳng hiện thần thông. Người bên ngoài nhìn thấy:
vĩnh viễn chỉ là một người thật thà, chất phác bình thường, một người niệm Phật.
Ngài thật sự có thể làm được tuỳ duyên bất biến, bất biến tuỳ duyên, ở lại thế
gian này, làm viên mãn lời dặn dò của A Di Đà Phật. Phật dặn bảo ngài làm một tấm
gương tốt cho người niệm Phật, cho người học Phật, ngài làm được rồi.
Vào
lúc biểu pháp viên mãn ấy, biểu pháp viên mãn, thì nhiệm vụ của ngài đã xong,
nhiệm vụ này: là nhiệm vụ trong thế giới Ta Bà, xong rồi, có thể Phật lại dặn
dò ngài đi đến thế giới phương khác để biểu pháp nữa. Nếu không dùng phương
pháp này, vẫn trụ tại thế gian, thì tác dụng biểu pháp đã không còn nữa, ngài
chỉ biểu diễn đến đây thôi, sau này không còn là chuyện của ngài nữa. Sẽ có người
biểu pháp khác, một người tiếp nối một người, toàn là do Phật Bồ-tát an bài.
Người thế gian là do nghiệp lực an bài, thiện nghiệp của họ [khiến] họ hưởng
phước, có địa vị ở trong xã hội, có giàu sang, ngũ phước lâm môn; không có phước
báo, thì nghiệp lực chi phối họ phải chịu khổ chịu nạn, toàn là do tự mình tạo.
Phật Bồ-tát phó thác cho: cũng là duyên phận trong đời trước, nếu ngài không có
duyên phận này: với người đời ở trong thế gian này, thì ngài cũng không thể tỏ
năng lực, ngài có duyên phận. Duyên phận cũng là có sự nhất định, đích thực như
thế tục đã nói: 一生皆是命,半點不由人“Nhất sanh giai thị mạng, bán điểm
bất do nhân” (Cả đời đều do số mạng, nửa chút
không phải do người). Chúng ta hiểu thấu được, thì tâm sẽ định, chúng ta sẽ
tin tưởng lời răn dạy của Phật Bồ-tát, khuyến cáo của các bậc Tổ sư Đại đức. Đối
với Pháp môn này, cả đời mình phải mong thành tựu, nhất định phải toàn tâm dốc
vào, tất cả do Phật Bồ-tát làm chủ, chính mình mãi mãi đều tuỳ duyên, tuỳ duyên
tiêu nghiệp cũ, nhất định không tạo nghiệp mới nữa, đối với chúng ta tín nguyện
trì danh, cầu sanh Tịnh Độ sẽ có ích lớn.
Chúng
ta xem tiếp phần sau, 是以具縛凡夫“thị dĩ cụ phược phàm phu”(vì thế hàng phàm phu đầy triền phược), phược là đại
từ chỉ phiền não, chúng ta là đầy đủ Kiến tư phiền não, Trần sa phiền não, Vô
minh phiền não, đích thực là phàm phu lục đạo chính cống. 但能信“Đãn năng tín”(chỉ cần tin được), đó chính
là một bước ngoặc lớn, có thể tin điều gì? 有世界名曰極樂“Hữu thế giới danh viết Cực Lạc”(Có thế giới tên là Cực Lạc),
chữ có này, [là] thật sự tin tưởng, chắc chắn không nghi ngờ. 其土“Kỳ độ”(Cõi đó), chính là thế giới Cực Lạc, 有佛,號阿彌陀“hữu Phật, hiệu A
Di Đà”(có Phật, hiệu là A Di Đà).
Quý vị chỉ cần tin hai chữ ‘có’ này, là có thật, chắc chắn không phải là giả.
Hai chữ có này: là do đức Thích Ca Mâu Ni Phật nói với chúng ta, đức Thích Ca
Mâu Ni Phật chắc chắn không có vọng ngữ. Trong Kinh Kim Cang nói, Như
Lai là đấng có năm lời: chân ngữ, thật ngữ, như ngữ, không vọng ngữ, không cuồng
ngữ, từng chữ từng câu đều là lời thành thật, chắc chắn không có lừa gạt chúng
sanh. Dùng lừa gạt để làm một cách thức dạy học, Phật tuyệt không dùng, tại
sao? Bị người ta phát hiện, quý vị lừa người ta một lần, có thể sẽ có lần thứ
hai, có thể có lần thứ ba. Cho nên, Phật đời đời kiếp kiếp chắc chắn không có vọng
ngữ, đưa lưỡi ra có thể che hết cả mặt, làm chứng minh cho mọi người bằng廣長舌相 quảng trường thiệt tướng (tướng lưỡi rộng dài). Hai chữ ‘có’ này quan trọng.
深信此兩個有字“Thâm tín thử lưỡng
cá hữu tự”(Tin sâu hai chữ ‘có’ này),
công phu của chúng ta không đắc lực, chính là đối với hai chữ ‘có’ này có nghi
ngờ. Tín tâm không đủ, chúng ta có tin, nhưng không có tin sâu, cho nên chúng
ta thường hay động tâm. Chúng ta nhìn thấy từ lão Hoà thượng Hải Hiền, ngài tin
sâu. Rất khó được, khi ngài 12 tuổi, trồng một trái bí đao, bị em họ của ngài
ăn trộm, ngài không biết. Ngài bèn nguyền rủa người, giống như niệm chú, tiếng
nguyền nhỏ: “Ai trộm bí đao của ta, thì cho họ nổi nhọt bệnh nặng”, chính là niệm
một câu như thế. Niệm suốt 3 ngày, em họ của ngài quả thật nổi nhọt bệnh rồi.
Bà thím biết được bèn tìm đến ngài: Con đừng có niệm nữa, em trai con chỉ lấy
có một trái bí đao thôi, [mà] con nguyền rủa bây giờ nó bị nhọt đau bệnh nặng
không dậy khỏi giường được. Ngài nghe rất kinh ngạc, vội chuyển niệm rằng: “Mau
cho em khoẻ đi, mau cho em khoẻ đi”, em họ quả nhiên khoẻ rất nhanh. Từ chỗ này
ngài đã sáng tỏ, niệm lực không thể nghĩ bàn. Tại sao ngài niệm linh, còn quý vị
niệm không linh? Ngài niệm là chuyên tâm niệm, một lòng xưng niệm nên linh; quý
vị trong khởi tâm động niệm còn xen tạp rất nhiều Vọng tưởng, rất nhiều tạp niệm,
không phải không linh, mà năng lượng không đủ. Nếu quý vị nhất tâm chuyên niệm,
thì nhất định sẽ có tác dụng như vậy. Đó là nói rõ điều gì? Tất cả các pháp
sanh từ tâm tưởng.
Niệm
để một người sanh bệnh, rồi lại niệm cho họ khôi phục bình thường thì họ khôi
phục bình thường. Từ điểm này quý vị dần dần triển khai, bất luận sanh bệnh tật
gì đi nữa, bệnh nhỏ bệnh lớn, đến từ đâu? Do niệm lực không chính đáng tạo nên.
Quý vị sáng tỏ đạo lý này, đoan chánh tâm niệm thì sẽ không có bệnh, thật đấy,
không phải giả đâu. Chúng ta còn có bệnh, thường xuyên hướng nội suy xét, tâm của
ta có vấn đề, khởi tâm động niệm không thuần, tuy có thiện niệm, trong thiện niệm
còn xen tạp những ý niệm bất thiện. Là gì? Có ý niệm tự tư tự lợi, xen tạp là bất
thiện. Thế là rõ ràng ngay, niệm Phật phải toàn tâm niệm Phật. Gặp được thiện
duyên, thiện duyên này là gì? Lợi ích chúng sanh, lợi ích Chánh pháp, chúng ta
đi làm, phải dùng chân tâm mà làm; chính là làm những chuyện này không được có
chính mình, có điều hay cho chính mình xen tạp trong đó, ý niệm thuần như vậy,
niệm như vậy rất có hiệu quả. Nếu có mảy may tư tâm, lợi ích của mình, thì
không linh nghiệm, đó là gì? Đó là đang tạo nghiệp, tạo nghiệp thì biến thành
nghiệp lực đang chủ tể, chứ không phải nguyện lực. Nghiệp lực sẽ chướng ngại
nguyện lực, nghiệp lực tiêu trừ rồi, năng lượng nguyện lực không thể nghĩ bàn.
Giống như lão Hoà thượng Hải Hiền, ngài sáng tỏ, ngài ở trong đó chứng ngộ rồi,
cho nên cả đời không niệm lỗi lầm của người khác. Tại sao? Niệm lỗi lầm người
khác, hại người, ta không muốn người khác hại ta, thì ta không được hại người.
Họ hại ta thì không sao, ta có Chánh niệm, tổn thương mà ta chịu không lớn, có
thể cho qua. Chính họ tạo nghiệp đó là Tánh tội, nhất định sẽ cảm lấy quả báo,
ta đừng thêm một chút gì cho họ nữa, đó gọi là tự làm tự chịu. Ta tăng thêm cho
họ một chút nữa, đó chính là lỗi lầm của ta, không được gia tăng cho họ, hy vọng
họ giác ngộ, hy vọng họ quay đầu, thiện niệm này. Có người có thể quay đầu, có
người không quay đầu được, nguyên nhân là gì? Tập khí quá nặng, lòng danh lợi
quá mạnh, buông không xuống. Chúng ta ở bên cạnh, nhìn thấy rất là rõ ràng, rất
là sáng tỏ.
Vì
vậy, phạm vi của chữ ‘có’ này: rộng và sâu lắm, sâu rộng không có ngằn mé. Tu Tịnh
Độ, mục đích của quý vị là muốn vãng sanh thế giới Cực Lạc, là muốn thân cận A
Di Đà Phật, hai chữ ‘có’ đó quan trọng hơn bất cứ điều gì, chắc chắn tin tưởng
có thế giới Cực Lạc, có A Di Đà Phật. Đem những việc này giảng thấu suốt, giảng
sáng tỏ, đức Di Đà, cõi Cực Lạc đều là do tâm tưởng: của chính chúng ta biến hiện
ra, tín tâm này quyết trọn một lòng, không nghi ngờ nữa, sanh ra từ ý niệm. Ta
ngày ngày tín nguyện trì danh, thì không phải đang xây dựng thế giới Cực Lạc
hay sao? Không phải làm xuất hiện A Di Đà Phật hay sao? Về lý thì sáng tỏ, về sự
thì công phu đắc lực. 切願往生“Thiết nguyện vãng sanh”(Nguyện vãng sanh tha thiết), nguyện vãng sanh này rất khẩn thiết, chỉ mong sao hiện tại liền
đi, thấy được A Di Đà Phật chắc chắn sẽ không bỏ qua. Do vậy, 一向持名“nhất hướng trì danh”, nhất hướng là một phương
hướng, hoàn toàn tương ưng với điều được Phật truyền trong Kinh này, phát tâm Bồ-đề,
nhất hướng chuyên niệm, đó là tổng trì tu học của Tịnh tông. 即可如願“Tức khả như nguyện”(Liền được như nguyện), tín
nguyện trì danh, thì quý vị có thể thoả mãn như nguyện, quý vị sẽ nhìn thấy thế
giới Cực Lạc, sẽ vãng sanh đến thế giới Cực Lạc, sẽ thân cận được A Di Đà Phật,
thật sự là Đệ tử của A Di Đà Phật. Tiếp nhận dạy bảo của A Di Đà Phật, đâu có lẽ
nào không thành Phật?
Câu
tiếp theo, là Đại sư: chân thành khẩn thiết nói với chúng ta rằng: 是乃凡愚所同能 “Thị nãi phàm ngu sở đồng năng” (Đó là điều kẻ phàm phu cùng làm được), phàm phu làm được:
phương pháp này, những người ngu si cũng có thể làm được, khiến chúng ta ở
trong đây kiến lập tín tâm. Chúng có thể vãng sanh không? Ta có thể thành Phật
không? Câu trả lời là chắc chắn, có thể, quý vị chỉ cần tin tưởng, chỉ cần theo
phương pháp này, thì thành tựu bình đẳng. Sau đó lật lại nói: 若獨言究明自心 “Nhược độc ngôn cứu minh tự tâm” (Nếu chỉ nói rằng tham cứu rõ tâm mình), đó chính là minh
Tâm kiến Tánh, không dựa vào A Di Đà Phật, ta tự mình mà tu trì, có thể đạt đến
minh Tâm kiến Tánh, đúng vậy, vậy cần người như thế nào? 則唯上智所堪任 “Tắc duy thượng trí sở kham nhiệm” (Thì chỉ người thượng trí mới
kham nổi). Đại sư Lục tổ Huệ Năng nói hay lắm, Pháp môn mà ngài tu, chỉ tiếp
người Thượng thượng căn, không phải Thượng thượng căn, thì họ đi Pháp môn đó sẽ
không thành tựu, nhất định là người Thượng thượng căn. Hoàn toàn khác với Tịnh
Độ tông, Tịnh Độ tông có thể tiếp dẫn phàm phu: cùng sanh nước Cực Lạc; Đại sư
Huệ Năng tiếp người Thượng thượng căn, Thanh-văn, Duyên-giác, Bồ-tát đều không
có phần, huống chi phàm phu? Pháp môn vô lượng, tiếp dẫn căn tánh khác nhau, có
những Pháp môn chỉ tiếp bậc Thượng trí, có những Pháp môn chỉ tiếp người
trung–hạ, chỉ có mỗi Pháp môn Tịnh tông này, từ Thượng thượng căn đến Hạ hạ căn
hết thảy đều tiếp. Ở trong vô lượng Pháp môn, chỉ có tín nguyện trì danh, chỉ
có Pháp môn này tiếp đón hết, không sót một người nào.
法藏菩薩於因地中,悲願宏深 “Pháp Tạng Bồ-tát ư nhân địa trung, bi nguyện hoành thâm” (Bồ-tát Pháp Tạng ở trong nhân
địa, bi nguyện rộng sâu), hoành là lớn, ngài từ bi, ngài phát ra
nguyện này, nguyện gì? Nguyện phổ độ chúng sanh, không sót một người nào. Dùng
phương pháp gì? Phương pháp rất đơn giản, viên diệu đến cực độ, chính là tín,
nguyện, trì danh. 開顯此他力法門 “Khai hiển thử Tha lực Pháp môn” (Mở bày Pháp môn Tha lực này),
không dựa vào mình, dựa hết vào đức Di Đà. Điều đức Di Đà đã dạy, chúng ta chắc
chắn phải tiếp nhận, phải y giáo phụng hành, điều Ngài dạy chúng ta chính là
tín nguyện trì danh. Chúng ta có thể tin tưởng thật, không nghi ngờ chút nào,
giáo lý hoàn toàn không hiểu, thậm chí còn không biết chữ, cả đời chưa bao giờ
học Kinh giáo, chỉ cần tâm địa thiện lương, làm được Ngũ giới Thập thiện, thì
có thể tu Pháp môn này. 是以世稱彌陀乃大願之王 “Thị dĩ thế xưng
Di Đà nãi đại nguyện chi vương” (Bởi vậy trên đời gọi đức Di Đà là vua của các nguyện lớn).
Mỗi một vị Phật, những người chứng đến Phật quả: đều là phát ra nguyện lớn. Bốn
thệ nguyện lớn: là đại nguyện chung của tất cả chư Phật, điều đầu tiên: 眾生無邊誓願度 “Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ”, đại nguyện này. Có vị Phật nào
không độ: vô lượng vô biên chúng sanh? Nhưng căn tánh chúng sanh khác nhau, muốn
phổ độ bình đẳng làm không được, phải mở rất nhiều Pháp môn tiếp dẫn đại chúng.
Chỉ có mỗi đức Di Đà là khác với chư Phật, Ngài là nguyện lớn trong các nguyện
lớn, nguyện lớn duy nhất: đó chính là một môn phổ độ tất cả căn tánh khác nhau,
gọi là Nguyện vương.
又密宗亦是他力門,同屬果教 “Hựu Mật tông diệc thị Tha lực môn, đồng thuộc Quả giáo” (Lại Mật tông cũng là môn Tha lực,
cùng thuộc Quả giáo), Tịnh Độ với Mật cùng một lý luận, phương pháp cũng rất
gần nhau, đều là kiến lập ở trên cơ sở của tín và nguyện. Mật tông phải tin Tam
Bảo, ngoại trừ Tam Bảo ra còn phải tin Thượng sư, nếu có nghi ngờ đối với Thượng
sư, thì rất khó thành tựu. Chúng ta biết Tịnh tông chỉ cần tin tưởng Phật Bồ-tát,
đương nhiên cũng phải tin tưởng thầy dạy, nhưng tin tưởng thầy dạy: không quá
khắt khe giống như Mật tông tin Thượng sư. Trong Mật tông nhìn nhận: Thượng sư
với Phật là như nhau, với Tịnh Độ tông thì xem Thượng sư như Bồ-tát, là Đệ tử của
A Di Đà Phật, chỉ điểm này là khác nhau. Nói cách khác, học Mật tông sẽ khó hơn
học Tịnh Độ, khó ở chỗ nào? Tín tâm. Tịnh tông tin tưởng 99%, còn sót một phần
nghi hoặc, vẫn được, nhưng Mật tông không được, Mật tông dù có một chút chút
nghi ngờ đối với Thượng sư, thì trở nên chướng ngại. Phải hiểu đạo lý này, sau
khi hiểu rồi, Pháp môn này dễ tu hơn Mật tông. Mật tông là dạy quý vị tín, nguyện,
trì chú, lời chú dài hơn Phật hiệu, Tịnh Độ tông chỉ dạy quý vị bốn chữ “A Di
Đà Phật”, rất đơn giản! Càng đơn giản càng dễ thọ trì, dễ dàng làm được. Lời
chú quá dài nhớ không nổi, cho dù nhớ nổi thì qua thời gian dài, khó tránh khỏi
không có tạp niệm xen vào, quý vị mới hiểu ra sự thù thắng của Pháp môn này. Đi
đến Trung Hoa, bất luận học theo một tông nào một phái nào, các vị cổ Thánh
tiên Hiền, Tổ sư Đại đức: cũng thường đến cuối cùng các ngài niệm Phật vãng
sanh Tịnh Độ. Các ngài dùng những Pháp môn khác để tu hành công phu, cuối cùng
toàn hồi hướng cầu sanh Tịnh Độ, các ngài đi thật, [người của] Giáo hạ, Thiền
tông, Mật tông: đến thế giới Cực Lạc cũng nhiều.
Trong
Kinh văn sau: 此殊勝難思之他力法門,正是彌陀悲願至切之處 “Thử thù thắng
nan tư chi Tha lực Pháp môn, chánh thị Di Đà bi nguyện chí thiết chi xứ” (Đây là Pháp môn Tha lực thù thắng
khó nghĩ, chính là chỗ bi nguyện rất khẩn thiết của đức Di Đà), khẩn thiết
đến cực độ, 亦正是淨密二宗方便究竟處 “diệc chánh thị Tịnh
Mật nhị tông Phương tiện Cứu cánh xứ” (cũng chính là chỗ Phương tiện Cứu cánh của hai tông Tịnh và Mật).
Niệm lão cả đời tu hành, Tịnh Độ là chính; ngài học Mật, ngài là Kim cang Thượng
sư của Mật tông, truyền thừa Mật pháp; Ngài học Thiền, lão sư của Thiền tông là
lão Hoà thượng 虛雲 Hư Vân; Ngài học Giáo, Pháp Tướng,
cậu của ngài là lão Cư sĩ 梅光羲 Mai Quang Hy – chuyên gia về Pháp
Tướng, lão Cư sĩ 李炳南 Lý Bỉnh Nam là thầy của tôi: cũng
là học trò của ngài Mai Quang Hy, những điều ngài học rất nhiều. Chẳng như lão
Hoà thượng Hải Hiền, lão Hoà thượng Hải Hiền tu khá đơn thuần, thâm nhập một
môn, chính là một câu A Di Đà Phật. Thiền là A Di Đà Phật, Mật là A Di Đà Phật,
Giáo cũng là A Di Đà Phật, một câu A Di Đà Phật viên mãn gồm thâu rồi, là thật,
không phải giả. Biểu hiện ở chỗ nào? Biểu hiện ở trong đời sống hàng ngày của
ngài.
Khi
Hoàng Niệm lão vãng sanh là lúc 79 tuổi, cuối đời thân thể không khoẻ, trông
như người bình thường không có tu hành, vậy có thể nói rất tốt, so sánh với lão
Hoà thượng Hải Hiền thì không được, không sánh bằng. Lão Hoà thượng Hải Hiền
112 tuổi, vẫn không cần ai chăm sóc, vẫn không lấy làm lạ, làm việc theo lối
thường, làm nông. Vào ngày sắp ra đi, tháng giêng năm 2013, ngài ra đi vào buổi
tối, ban ngày vẫn làm một ngày công ở vườn rau, trồng rau, sửa đất, tưới nước,
nhổ cỏ, làm suốt một ngày. Ngài làm việc rất chịu khó, không lười biếng một
chút nào, người bình thường không làm được điều này, ban đêm niệm Phật ra đi,
không nói cho bất kỳ ai hay. Sáng hôm sau dậy, mới phát hiện ra, mọi người phát
hiện lão Hoà thượng đã ra đi rồi. Nghĩ lại những hành vi của ngài suốt một
tháng nay, phát hiện điều gì? Ngài đã cáo biệt với mọi người, ngài đều đã đi
thăm các nơi để cáo biệt, cũng tiết lộ một chút tin tức, sau này không đến nữa.
Vì người ta trông thấy thân thể ngài khoẻ mạnh, nên không chú ý, sau khi ra đi,
nghĩ lại ngôn hành cử chỉ của lão Hoà thượng, [là] sớm đã biết trước giờ ra đi.
Đến để giã từ, thăm qua Đạo tràng xưa từng sống lúc trước, thăm qua các đồng
tham đạo hữu, tăng trưởng niềm tin cho họ, nhìn thấy bộ dạng của lão Hoà thượng,
tin tưởng thật sự, không nghi ngờ nữa.
Phần
sau Niệm lão từ mặt lý, đem sự việc này nói rõ ràng, nói sáng tỏ: 蓋自他本來不二 “Cái tự tha bổn lai bất nhị” (Bởi vì tự và tha vốn dĩ chẳng hai), tự là chính
mình, tha là A Di Đà Phật, tự là thế giới Ta Bà, tha là thế
giới Cực Lạc, từ Chánh báo, từ Y báo đều là vốn dĩ chẳng hai. Cho nên肯仗他力 “khẳng trượng Tha lực” (nguyện dựa vào Tha lực), ta hoàn toàn không dựa vào mình,
dựa hết vào A Di Đà Phật, dựa vào Tha lực. Tự tha bất nhị, ta dựa hoàn toàn vào
Tha lực, vốn dĩ là toàn tâm toàn lực, vẫn là Tự lực, Tha lực chính là Tự lực, Tự
lực chính là Tha lực, Tha lực với Tự lực tập hợp thành một lực, vậy thì viên
mãn. 即是於此難信之法能生淨信。難信能信,全由當人之無上智慧,此即是自力 “Tức thị ư thử nan tín chi pháp năng sanh tịnh tín. Nan tín năng
tín, toàn do đương nhân chi Vô thượng trí huệ, thử tức thị Tự lực” (Tức là với pháp khó tin có thể
sanh niềm tin thanh tịnh. Có thể tin điều khó tin, toàn bộ là do trí huệ Vô thượng
của người ấy, đó tức là Tự lực). Người có trí huệ Vô thượng nhạy bén, cảm ứng
rất nhanh; người không có trí huệ Vô thượng cảm ứng sẽ chậm chạp hơn, có cảm ứng.
Chậm chạp mất bao lâu? Hầu hết là trong 3 năm, chúng ta đọc được trong Tịnh
Độ Thánh Hiền Lục, đọc được trong Vãng Sanh Truyện, thấy được ngay
trong một số những người đồng học học Tịnh Độ: niệm Phật cầu vãng sanh hiện tiền
với chúng ta.
Hôm
nay các đồng tu ở chùa Cực Lạc – Đài Nam, có nhiều người đến thăm tôi, thỉnh
tôi trở về Đài Nam để ăn tết âm lịch. Ý hay! Làng Tướng Quân ở Đài Nam, 40 năm
trước có một bà lão niệm Phật 3 năm đứng yên vãng sanh, chúng tôi nhắc đến thì
người ở nơi đó đều biết, là thật, không phải giả. Cư sĩ tại gia: niệm Phật 3
năm, biết trước giờ đi vãng sanh thế giới Cực Lạc, đứng mà ra đi. 3 năm trước,
bà không biết Phật Pháp là gì cả, cả đời người tâm địa thiện lương, thật thà, từ
bi. 3 năm trước con trai bà cưới con dâu, con dâu biết Phật Pháp, khuyên bà
thành thật đừng nên đi lạy thần bừa bãi nữa, khi đó bà gặp thần nào cũng lạy,
tiên nào cũng bái, không phân biệt thần với Phật. Khi nói với bà một chút đạo
lý Phật Pháp, bà nghe rồi rất hoan hỷ, không đi những nơi khác nữa, trong nhà
thiết lập một Phật đường, cúng dường Tam Thánh Tây Phương, ngày ngày niệm A Di
Đà Phật, không đi đến chỗ nào nữa. 3 năm thì bà vãng sanh, thành công thật rồi,
biết trước giờ ra đi.
Bà
lão rất thông minh, đến ngày vãng sanh không nói cho người nhà biết, nói cho
người nhà sợ xảy ra chướng ngại, [nên] không nói. Vào ngày vãng sanh, bà vãng
sanh vào ban đêm, khi ăn cơm tối, bà nói với con trai và con dâu của mình, con
trai và con dâu đều rất hiếu thảo, bà nói với chúng: Các con ăn cơm trước đi,
ăn cơm tối, bà nói mẹ đi tắm gội, các con từ từ ăn. Nhưng con trai và con dâu vẫn
đang đợi bà, đợi bà tắm gội xong cùng nhau ăn cơm. Đợi rất lâu, nhận thấy có
chút gì không đúng, sao bà lão tắm gội thời gian lâu đến thế. Đi vào phòng bà
xem, quả thật đã thay y phục, đích thực đã tắm gội, không thấy người, kêu không
ai trả lời. Tìm kiếm khắp nơi, đến Phật đường, thấy bà mặc áo tràng đứng ở nơi
đó, mặt hướng tượng Phật, trên tay cầm xâu chuỗi, gọi bà không thấy đáp, nhìn
cho kỹ thì bà đi rồi, ra đi lúc ăn cơm tối. Độ hoá rất nhiều người, khu vực
phía Nam Đài Loan không ai là không biết, nhìn thấy một người giống như bà vậy,
học Phật không quá 3 năm, thành tựu như vậy, làm mọi người tin tưởng.
Tôi
dạy học ở Phật Quang sơn, năm đó tôi 44 tuổi, bà vãng sanh một trăm trước đó,
lúc tôi 43 tuổi, bà lão vãng sanh. Chúng tôi nghe xong vô cùng cảm động, là thật
không phải giả, thời gian không lâu, 3 năm mà thôi. Tại sao bà có thành tựu như
thế? Bởi bà buông xuống thật, ra đi trong ngày đó, quý vị xem ngay cả với con
trai, con dâu mà bà cũng không nói. Nói với họ, sợ họ làm chướng ngại, họ còn
có thân tình, không xả được, bà buông xuống rồi, đã buông xuống thân tình. Sự
thị hiện này khiến con trai và con dâu của bà, người nhà bà lão càng tin tưởng
hơn với Tịnh tông. Làm chứng, điều quý vị biết trước ban đầu là thường thức, bà
làm chứng minh cho quý vị, chứng minh sự việc này là chân thật, chứ không phải
giả. Tôi nghe được thông tin này là vào năm tiếp theo, tôi đang dạy học ở Phật
Quang sơn, người làm ở Phật Quang sơn là hàng xóm của bà lão, họ đem câu chuyện
đó kể cho tôi nghe, sự việc của một năm trước.
Phần
sau nói, Tín lực này, tự tín, tự lực là trí huệ đích thực, đó không phải là
dùng việc theo cảm tình. Toàn do trí huệ Vô thượng của người ấy, vì quý vị chọn
lấy Pháp môn Vô thượng, một đời thật sự thành tựu, sự lựa chọn này là trí huệ
Vô thượng. 但能信入,老實念去,自然能所兩忘,自心朗現 “Đãn năng tín nhập,
lão thật niệm khứ, tự nhiên Năng Sở lưỡng vong, Tự Tâm lãng hiện” (Chỉ có thể tín nhập, thành thật
mà niệm, tự nhiên có thể quên đi cả Năng và Sở, Tự Tâm hiện bày sáng tỏ), Tự
Tâm lãng hiện này chính là Lý nhất tâm Bất loạn, Đại triệt Đại ngộ, minh
Tâm kiến Tánh. Do đó, 從事持達理持 “tùng sự trì đạt Lý trì” (từ Sự trì đạt Lý trì), sau
khi kiến Tánh, niệm Phật là Lý trì, 即凡心成佛心 “tức phàm tâm thành Phật tâm”, tại sao? Bởi phàm tâm với Phật tâm là một chẳng phải hai. Gọi là
phàm tâm, tức là trong Phật tâm còn mang theo tập khí phiền não, đó gọi là phàm
tâm; loại bỏ tập khí phiền não, thì phàm tâm vốn là Phật tâm. Bà lão không đơn
giản, thấy từ chỗ nào? Thấy từ cách bà ra đi, bà không có tình thân, buông xuống
tình thân rồi, điều khó buông xuống nhất chính là tình thân. Bà có con cháu, bà
thật sự yêu con cháu của mình, biểu diễn cho quý vị thấy, để cả đời quý vị đối
với Pháp môn niệm Phật: tin sâu không nghi ngờ; nói cách khác, tương lai quý vị
niệm Phật có thành tựu giống như bà, con cháu tương lai niệm Phật vãng sanh, bà
chắc chắn cùng với đức A Di Đà Phật đến tiếp dẫn. Quý vị có thể nói bà lão
không có trí huệ hay sao? Bà biểu diễn bằng cách thức này, không dễ dàng.
能所兩忘“Năng sở lưỡng vong”(Năng Sở đều mất), năng niệm
là tâm, sở niệm là Phật, hoà nên một thể, Năng và Sở chẳng hai, Năng và Sở như
một, đó là kiến Tánh, Tự Tâm chính là Tự Tánh, hiện tiền rồi, minh Tâm kiến
Tánh. 從事持達理持,即凡心成佛心。淨宗之妙,全在於此 “Tùng Sự trì đạt
Lý trì, tức phàm tâm thành Phật tâm. Tịnh tông chi diệu, toàn tại ư thử” (Từ Sự trì đạt Lý trì, tức tâm
phàm trở thành tâm Phật. Sự nhiệm mầu của Tịnh tông: đều ở nơi đây). Những
Pháp môn khác không có sự huyền diệu này, không có dễ dàng đến thế, không có
đơn giản đến thế, đó chính là phương tiện rốt ráo, phương tiện đến cực điểm.
Nam nữ già trẻ, hiền ngu bất tài, người nào cũng có thể thành tựu. Chúng tôi ở
trước điều này, các đồng học mọi người đều biết, có bé gái nhỏ 10 tuổi niệm Phật
vãng sanh, cháu bé niệm suốt 3 năm. Lúc cháu 7 tuổi, nghe ông nội của cháu niệm
Phật, trẻ em hiếu kỳ, Phật là gì? Thế giới Cực Lạc là gì? Ông nội kể cho cháu
nghe, nói với cháu rằng thế giới Cực Lạc tốt. Cô bé bèn hỏi: “Ông ơi, ông có thể
dẫn cháu đến thế giới Cực Lạc để thăm quan không?” Ông nội nói với cháu rằng:
ông không làm được. Cháu nói người nào mới được? “A Di Đà Phật mới được, cháu
ngày ngày niệm A Di Đà Phật, A Di Đà Phật sẽ đem cháu đi”. Cô bé ngày ngày bèn
niệm Phật, niệm suốt 3 năm, A Di Đà Phật tiếp dẫn cô bé vãng sanh. Nam nữ già
trẻ, hiền ngu bất tài, gặp được Pháp môn này thì không có ai không thành tựu. Gặp
được Pháp môn này đích thực là phước báo lớn, nhân duyên lớn, không đơn giản, bỏ
qua trước mắt thật là đáng tiếc. Bỏ lỡ những điều khác không kể làm chi, bỏ lỡ
điều này là lỡ lầm lớn, trăm ngàn muôn kiếp khó gặp gỡ. Cho nên Kinh điển, Chú
sớ, Chú Giải này đều là: lão Cư sĩ Hoàng Niệm Tổ, ở trong tất cả các Kinh Luận,
khai thị của Tổ sư Đại đức mà hội tập lại, [để] giải thích bộ Kinh điển này, để
chúng ta không sanh nghi ngờ, không dấy lo lắng, tin sâu chẳng nghi thì chúng
ta được lợi ích.
Lại
xem đoạn sau đây: 願佛廣演 Nguyện Phật quảng diễn (Mong Phật diễn thuyết rộng),
đây không phải là cảnh giới của mình, đó chính là cầu mong Phật thuyết minh chi
tiết, xem Kinh văn:
【惟願如來應正遍知。廣演諸佛無量妙剎。】 “Duy
nguyện Như Lai, Ứng, Chánh Biến Tri, quảng diễn chư Phật vô lượng diệu sát.” (Chỉ mong đức Như Lai, bậc Ứng
Cúng, Chánh Biến Tri, rộng diễn vô lượng cõi mầu nhiệm của chư Phật).
Đây
là điều mong cầu của Bồ-tát Pháp Tạng. Chúng ta xem lời chú giải của Niệm lão. 演Diễn chính là diễn thuyết, 宣說 “tuyên thuyết”. Như Lai, Ứng,
Chánh Biến Tri chính là trong mười hiệu如來、應供、正遍知,乃佛十號中之三號 “Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, nãi Phật thập hiệu trung chi
tam hiệu” (Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến
Tri là ba hiệu trong mười hiệu của Phật). Nói ba hiệu là đại biểu cho mười
hiệu, mười hiệu viên mãn. Đó là sự xưng tán đối với Phật, mười hiệu là Phật đức.
法藏菩薩陳明 “Phát Tạng Bồ-tát trần minh” (Bồ-tát Pháp Tạng trình bày rõ),
trần là từ cung kính [của] bề dưới đối với bề trên, chính là thuyết minh, 非我境界後,乃啟請世間自在王如來 “phi ngã cảnh giới hậu, nãi khải thỉnh Thế Gian Tự Tại Vương Như
Lai” (sau [câu] ‘không phải cảnh
giới của con’, là khải thỉnh Thế Gian Tự Tại Vương Như Lai), đây là thầy của
ngài, 為之廣演諸佛之無量勝妙剎土 “vị chi quảng diễn
chư Phật chi vô lượng thắng diệu sát độ” (vì con rộng diễn vô lượng cõi nước thù thắng nhiệm mầu của chư
Phật). Đây là nguyện vọng của ngài, bởi vì hoằng nguyện của ngài: là phổ độ
chúng sanh của lục đạo mười pháp giới trong cõi nước: của chư Phật mười phương,
khiến họ ngay trong một đời chứng đắc viên mãn Phật quả rốt ráo. Nguyện này
phát ra, đương nhiên phải kiến lập một Đạo tràng để họ có nơi chốn mà học tập, Đạo
tràng đó chính là cõi Phật, cõi nước chư Phật đều là Đạo tràng để độ chúng
sanh. Đại nguyện của ngài muốn viên mãn được, thì cần phải có nơi chốn tu học
thù thắng, cần phải tham khảo tất cả cõi nước chư Phật, ngài muốn biết tình trạng
trong tất cả cõi nước chư Phật, cầu mong thầy giúp đỡ ngài.
Chúng
ta xem tiếp văn sau: 思修滿願 Tư Tu mãn nguyện (Tư duy Tu tập mãn nguyện),
Kinh văn:
【若我得聞。如是等法。思惟修習。誓滿所願。】 “Nhược
ngã đắc văn, như thị đẳng pháp, tư duy tu tập, thệ mãn sở nguyện” (Nếu
con được nghe: các pháp như vậy, tư duy tu tập, thề trọn ước nguyện.)
Đoạn Kinh văn này chỉ có 16 chữ, 16 chữ này rất quan trọng. Trong
Chú Giải nói rằng: 此段大意為:法藏菩薩答曰,此義太深,超我境界 “Thử đoạn đại ý
vi: Pháp Tạng Bồ-tát đáp viết, thử nghĩa thái thâm, siêu ngã cảnh giới” (Đại ý của đoạn này là: Bồ-tát
Pháp Tạng đáp rằng, nghĩa này quá sâu, vượt qua cảnh giới của con), đây là
ý nghĩa của ba chữ “tự” đã nói trước. 若通俗,勉強可作水平解 “Nhược thông tục, miễn cưỡng khả tác thuỷ bình giải” (Nếu là thông thường, thì gắng
gượng có thể giải thích với mức độ), cảnh giới này con không có trình độ
này, ý nghĩa đó quá sâu, vượt quá trình độ của con, đây là lời chú nhỏ của Niệm
lão. 於是再度請佛廣說無量佛剎 “Ư thị tái độ thỉnh
Phật quảng diễn vô lượng Phật sát” (Thế nên lại thỉnh Phật rộng diễn vô lượng cõi Phật), đoạn
văn sau đó quan trọng, 我若聞後 “ngã nhược văn hậu” (nếu con nghe rồi), con
nghe được rồi, con sáng tỏ rồi, 定能如法修習,圓滿所願“định năng như pháp tu tập, viên
mãn sở nguyện” (chắc chắn có
thể tu tập đúng pháp, trọn vẹn ước nguyện). Nếu đã nghe rồi mà không tu được
thì cũng bằng như chưa nghe, sau khi nghe rồi làm thật, chân tu, thì mới viên
mãn bổn nguyện. 我若得聞如是等等妙剎及其攝取之法 “Ngã nhược đắc
văn như thị đẳng đẳng diệu sát cập kỳ nhiếp thủ chi pháp” (Nếu con được nghe các cõi nhiệm
mầu như vậy và cách thức để nhiếp thủ đó), nhiếp thủ chính là phương pháp
giáo hoá chúng sanh, 我當思惟修習,誓當圓滿我之所願 “ngã đương tư duy
tu tập, thệ đương viên mãn ngã chi sở nguyện” (con sẽ tư duy tu tập, thề sẽ viên mãn ước nguyện của con).
Đây là thuyết rõ tại sao con muốn biết, sau khi biết rồi con nỗ lực tu học, [bởi]
con muốn xây một Đạo tràng: quảng độ tất cả chúng sanh tội khổ trong mười
phương, đó là bổn nguyện của A Di Đà Phật. Nói cách khác, xây cõi Phật, tu
hành, chứng quả, chứng quả chính là thành Phật, đều không phải vì mình, vì ai?
Vì những chúng sanh của mười pháp giới trong tất cả cõi nước chư Phật: trong mười
phương ba đời, là vì điều này. Giúp đỡ họ rời khỏi lục đạo luân hồi, rời khỏi
mười pháp giới, đều sanh đến thế giới Cực Lạc để tu học.
Phương
pháp mà tất cả chư Phật trong mười phương ba đời giáo hoá chúng sanh, ngài học
biết hết cả rồi, nơi tu học ra sao thì mới thích hợp cho người tu hành, ngài
cũng hoàn toàn có thể kiến lập, kiến lập Đạo tràng, Đạo tràng đó chính là thế
giới Cực Lạc. Tại thế giới Cực Lạc, chúng ta nhìn thấy trong Kinh có câu, A Di
Đà Phật ở trong đó làm gì? Trong Kinh Di Đà nói rất hay: 今現在說法 “Kim hiện tại thuyết pháp” (Hiện nay đang thuyết pháp). Thân hành ngôn giáo, thân hành
là hoàn cảnh, Y chánh trang nghiêm của thế giới Cực Lạc, [là] hoàn cảnh; hiện
đang thuyết pháp là dạy dỗ, có hành có giải, giải hành chẳng phải hai. Cho nên
[ở] nơi đó thành tựu nhanh chóng, mỗi một đồng học đều là tấm gương tốt trong
tu hành, mọi người đều nương A Di Đà Phật dạy học để tu hành, tu sửa lỗi lầm của
hành vi thân–khẩu–ý. Cho nên, “thệ mãn sở nguyện”, mãn nguyện vọng của
ngài, nguyện vọng này tốt, không có tự tư tự lợi.
Đoạn
tiếp theo là Phật đáp ứng lại, 佛為宣演 “Phật vị tuyên diễn”(Phật tuyên diễn cho). Trong
này lại chia thành hai đoạn, đoạn thứ nhất知機 Tri cơ (Biết cơ
duyên), cơ là cơ duyên, duyên chín muồi rồi, Thế Gian Tự Tại Vương
Như Lai: trong tâm đã hướng về người học trò ở ngay trước mặt. Chúng ta xem
Kinh văn:
【世間自在王佛知其高明。志願深廣。】 “Thế
Gian Tự Tại Vương Phật tri kỳ cao minh, chí nguyện thâm quảng” (Đức
Phật Thế Gian Tự Tại Vương biết ngài cao minh, chí nguyện sâu rộng).
Trong
Chú Giải nói rằng: 高者,上也,崇也,遠也 “Cao giả, thượng
dã, sùng dã, viễn dã” (Cao: là
trên, là trọn, là xa), có ba ý nghĩa này. 明者,光也,照也,通也 “Minh giả, quang dã, chiếu dã, thông dã.” (Minh: là sáng suốt, sáng sủa,
chiếu soi, thông suốt). 《會疏》曰 “Hội Sớ viết” (Trong Hội Sớ nói),
giải thích trong Hội Sớ: 高明“Cao minh” là nói đức, trí,
đức, đức cao trí sáng. 深廣“Thâm quảng” là nói nguyện
tâm của ngài, đại nguyện mà Pháp Tạng phát sâu rộng vô tận. Sau đó Niệm lão giải
thích cho chúng ta: 謂持戒禪定,超勝世間,故謂高 “Vị trì giới thiền
định, siêu thắng thế gian, cố vị cao” (Nói về giữ giới và thiền định: vượt hơn thế gian, nên gọi là
cao), ngài chân tu. 方便般若,照究諸法 “Phương tiện Bát-nhã, chiếu cứu chư
pháp” (Phương tiện Bát-nhã: soi tận
các pháp), đó là minh, Phương tiện Bát-nhã là khởi dụng của Bát-nhã. 遠徹來際無撓 “Viễn triệt lai tế vô nạo” (Thấu suốt tận xa thời vị lai không nhiễu), trong ngoặc đơn
nói rằng: 謂能遠究達於未來之極處 “Vị năng viễn cứu
đạt ư vị lai chi cực xứ” (Là có thể thấu
suốt đối với tận cùng thời vị lai), mà không có chướng ngại, không bị cản
trở, ý nghĩa đó gọi là thâm. 周遍攝一切無遺 “Chu biến nhiếp nhất thiết vô di” (Nhiếp trọn khắp tất cả không sót), trọn khắp pháp
giới, nhiếp thọ tất cả chúng sanh không có ai bỏ sót, đó gọi là quảng.
Chỗ
này chúng ta phải ghi nhớ, A Di Đà Phật từ bi, ngài Pháp Tạng ở thế giới Cực Lạc
thành Phật: đã qua mười kiếp. Trong đó nói về bổn nguyện của Ngài, Ngài nhiếp
thọ chúng sanh không sót một ai, thế tại sao chúng ta không thể vãng sanh? Sở
dĩ chúng ta không thể vãng sanh, vì chúng ta không phù hợp điều kiện mà Ngài
yêu cầu. Điều kiện mà Ngài yêu cầu, Đại sư Ngẫu Ích nói rất hay, có thể vãng
sanh hay không: hoàn toàn ở có tín nguyện hay không. Tín tâm của chúng ta có vấn
đề, nguyện tâm của chúng ta có vấn đề: thì không tương ưng. Tín tâm của chúng
ta có nghi ngờ, nguyện tâm của chúng ta còn lưu luyến thế giới này, không muốn
đi.
Chúng
ta xem lão Hoà thượng Hải Hiền, ngài đối với thế gian này không có lưu luyến,
thấy từ chỗ nào? Thấy từ ngày sinh nhật 112 tuổi của ngài. Có không ít tín đồ
đi đến chùa để mừng sinh nhật cho ngài, làm một bữa cơm chay, lão Hoà thượng hoàn
toàn không ăn. Vả lại hôm đó ngài không nói năng, biểu hiện không có vẻ cười,
chẳng như ngày thường hoan hoan hỷ hỷ, cuối cùng ngài chỉ ăn một bát mì lá mè.
Mì lá mè mà người ta đem đến, chúng tôi đã thưởng thức rồi, lão Hoà thượng bình
thường chỉ ăn những món đó. Sau khi tôi ăn xong cảm giác đầu tiên là khả năng
tiêu hoá trong đường ruột lão Hoà thượng mạnh, tại sao? Món đó không dễ tiêu
hoá. Món đó cứng hơn rau xanh thông thường của chúng ta, thô hơn, ngài ăn món đó
mà có thể tiêu hoá, chứng tỏ sức khoẻ ngài rất tốt. Là không có vị gì, ngài
quen rồi, đối với ẩm thực, quả thật, ăn cho no là được, không có bất cứ ưa chuộng
gì. Thế là hiểu ra, việc ăn mặc đi ở của ngài hết thảy đều là vừa chừng đúng mực,
trong lòng không có những thứ này. Chúng ta thì thế nào? Chúng ta đối với điều
này còn có cầu kỳ, còn phải bắt bẻ, đó chính là đối với thế gian này không
buông xuống, ngài buông xuống hết thảy.
Buông
xuống tình thân rồi, khi lão nhân còn tại thế, ngài còn có em gái, xuất gia rồi,
ngài có chị gái đã qua đời, em gái xuất gia: dẫn theo con nhỏ xuất gia chung.
Anh chị em tổng cộng có năm người, ba người không còn sống nữa, anh cả, anh
hai, chị cả cũng qua đời, không có vướng mắc tình thân. Những đồng tham xưa, bạn
bè cũ, trước vãng sanh một tháng ngài đã đi chào hỏi, đều đi thăm hết một lượt.
Đó có phải tình thân không? Không phải, thế ngài làm gì? Độ chúng sanh. Quý vị
trông tôi xem, tôi khoẻ mạnh đến thế, qua mấy ngày là đi, làm chứng minh cho mọi
người thế giới Cực Lạc có thật, A Di Đà Phật có thật, không phải giả. Tăng trưởng
tín tâm của mọi người, khích lệ mọi người phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ, thế giới
Ta Bà khổ, đi đến thế gian này là biểu pháp, chính xác, làm tấm gương cho người
khác thấy, giúp người giác ngộ, giúp người phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ. Cho
nên ngài là độ chúng sanh, khởi tâm động niệm, ngôn ngữ tạo tác: toàn là độ
chúng sanh, giúp đỡ chúng sanh kiên định tín tâm, kiên cố nguyện tâm, chăm chỉ
niệm câu Phật hiệu này, buông xuống vạn duyên, thì Tịnh Độ sẽ hiện tiền.
Sau
đây, Phật vì ngài mà diễn thuyết, thuyết pháp còn phải hiện cõi nước, mời xem
Kinh văn:
【即為宣說二百一十億諸佛剎土功德嚴淨廣大圓滿之相。應其心願。悉現與之。說是法時。經千億歲。】 “Tức vị
tuyên thuyết nhị bá nhất thập ức chư Phật sát độ công đức nghiêm tịnh quảng đại
viên mãn chi tướng. Ứng kỳ tâm nguyện.
Tất hiện dữ chi. Thuyết thị pháp thời. Kinh thiên ức tuế” (Liền tuyên thuyết cho các tướng
công đức trang nghiêm, thanh tịnh, rộng lớn, viên mãn của 210 ức cõi nước chư
Phật, ứng với tâm nguyện của ngài, thảy hiện cho thấy. Khi nói pháp ấy, trải
qua ngàn ức năm).
Thời
gian thuyết pháp dài, câu đầu tiên chính là nói rõ, là nói trong bao lâu? “Thiên
ức tuế”, tức là ngàn ức năm. Kinh văn, chúng ta xem Chú Giải: 即為宣說,表佛說法 “Tức vị tuyên thuyết, biểu Phật thuyết pháp” (Liền tuyên thuyết cho, là biểu thị Phật thuyết
pháp). Mỗi một tôn Phật xuất hiện ở thế gian, đều là vì người mà nói pháp,
hiện nay đang thuyết pháp. Bởi vì thính chúng đông, người thuộc các loại căn
tánh khác nhau đều có, đến đó để thấy Phật là vì sao? Thỉnh Phật chỉ giáo. Phật
không ngại gian khổ, không có nhọc nhằn, cũng không mệt mỏi, chỉ cần nhìn thấy
chúng sanh có duyên hiện tiền, thì Ngài hoan hỷ thuyết pháp. Không những thuyết
pháp nói cho ngài, mà còn “tất hiện dữ chi”, Phật dùng thần lực đem mười
phương thế giới: đều khiến Bồ-tát Pháp Tạng nhìn thấy hiện tiền. Như chúng ta
hiện nay dùng truyền hình, ở trong truyền hình có thể nhìn thấy, Phật không cần
dùng những công cụ máy móc ấy, Ngài có năng lực đem tất cả cõi nước chư Phật
trong mười phương: từng cõi từng cõi hiện ra trước mặt quý vị, khiến quý vị cẩn
thận mà quan sát, quý vị không nhìn thấy, Phật giảng giải cho quý vị, để quý vị
nhìn được, nghe được.
Trong
suốt thời gian lâu như thế, 世間自在王佛宣說示現二百一十億諸佛剎,功德莊嚴清淨廣大圓滿之相 “Thế Gian Tự Tại Vương Phật tuyên thuyết thị hiện nhị bá nhất thập ức
chư Phật sát, công đức trang nghiêm thanh tịnh quảng đại viên mãn chi tướng” (Thế Gian Tự Tại Vương Phật
tuyên thuyết và thị hiện 210 ức cõi Phật, [về] các tướng công đức trang nghiêm,
thanh tịnh, rộng lớn, viên mãn). 嚴淨,莊嚴清淨“Nghiêm tịnh, trang nghiêm thanh tịnh”(Nghiêm tịnh: là trang nghiêm
thanh tịnh). 圓滿“Viên mãn”, viên là trọn khắp,
性體周遍為圓 “tánh thể chu biến vi viên” (tánh thể trọn khắp là viên).
滿者,具足之義 “Mãn giả, cụ túc chi nghĩa” (Mãn: có nghĩa là đầy đủ),
tất cả đầy đủ. Như Đại sư Huệ Năng khi khai ngộ đã nói năm câu, câu thứ ba là
nói rằng何期自性,本自具足 “Hà kỳ Tự Tánh, bổn tự cụ túc” (Ngờ đâu Tự Tánh, vốn tự đầy đủ),
đầy đủ điều gì? Vốn tự đầy đủ tức là đầy đủ viên mãn, đầy đủ Tánh Đức, Đức dụng
vốn đủ trong Tự Tánh. Đức Thế Tôn trong Kinh Hoa Nghiêm đã nói một câu,
có thể làm chú giải, Phật nói: 一切眾生皆有如來智慧、德、相 “Nhất thiết chúng
sanh giai hữu Như Lai trí huệ, đức, tướng” (Tất cả chúng sanh đều có trí huệ, đức, tướng của Như Lai),
đây chính là điều Tự Tánh vốn tự đầy đủ. Trong Tự Tánh của mỗi người Chúng ta,
trí huệ bình đẳng với Phật, đều như nhau, đức năng như nhau, tài nghệ như nhau,
tướng hảo như nhau, không có một dạng nào không bình đẳng, Phật có gì thì Tự
Tánh chúng ta có hết. Do đó giáo học của Phật giáo, mục tiêu cuối cùng là minh
Tâm kiến Tánh, Phật không hướng ngoại cầu, bên ngoài không có thứ gì cả. Tất cả
các pháp sanh từ tâm tưởng, không có tâm tưởng thì căn bản không có tất cả
pháp, điều này được các nhà Cơ học lượng tử hiện đại chứng minh. Câu này quan
trọng, tất cả các pháp sanh từ tâm tưởng, tâm tưởng làm Phật sẽ thành Phật, tâm
tưởng làm người thì sẽ như một người, tâm tham là quỷ, sân khuể là địa ngục,
ngu si là súc sanh, người là nhân–nghĩa–lễ–trí–tín.
Nho
gia bên Trung Hoa nói Ngũ thường, chính là năm loại đức, Ngũ luân là đạo, Ngũ
thường là đức. Đạo là tự nhiên, không phải do nhân tạo, vốn dĩ là vậy, đó là đạo.
Cha con có tình thân là đạo, vua tôi có nghĩa là đạo, lớn nhỏ có thứ tự, vợ chồng
có phân biệt, bạn bè có chữ tín, đó đều là đạo, không phải do người phát minh,
không phải do người sáng tạo, vốn dĩ là vậy. Người [mà] một đời này có thể tuỳ
thuận đạo thì gọi là đức. Tuỳ thuận, quý vị xem Ngũ đức: nhân, nghĩa, lễ, trí,
tín, chính là Ngũ giới của nhà Phật, Ngũ giới là đức, không sát sanh là nhân,
không trộm cướp là nghĩa, không tà dâm là lễ, không vọng ngữ là tín, không uống
rượu là trí. Đức là điều mà Thánh nhân kiến lập cho chúng ta, hoàn toàn tương
ưng với đạo, đến từ chỗ nào? Do đó đạo đức gắn lại với nhau, có đạo đức đó
chính là người, đạo đức hướng thượng nâng lên chính là cõi trời. Tổ tiên xưa của
Trung Hoa hiểu được, giữ gìn Ngũ luân, Ngũ thường, sau đó lại triển khai ra là
Tứ duy, Bát đức, văn hoá truyền thống Trung Hoa chính là bốn khoa: Ngũ luân,
Ngũ thường, Tứ duy, Bát đức. Trong bộ 《四庫全書》 Tứ Khố Toàn Thư đó nói điều gì?
Là nói điều này. Bốn khoa này cộng lại gồm mười hai chữ: hiếu–đễ–trung–tín, lễ–nghĩa–liêm–sỉ,
nhân–ái–hoà–bình, là 12 chữ này. Mười hai chữ này làm được chính là Thánh nhân,
là Hiền nhân, không làm được viên mãn, đó là Quân tử. Đó là văn hoá truyền thống
Trung Hoa, có thể nối quỹ đạo với Phật pháp Đại thừa. Phật pháp Đại thừa đem
văn hoá truyền thống Trung Hoa nâng cao hướng lên, nâng lên bình đẳng với cảnh
giới của Phật Bồ-tát. Tiến sĩ Toynbee người Anh đã nhìn ra, những thứ này có thể
cứu toàn thế giới, có thể cứu toàn nhân loại. Chúng ta phải học tập, không học
tập, cứ tuỳ thuận tập khí phiền não, quả báo chắc chắn ở tam đồ.
Phật
dạy cho chúng ta thấu triệt hơn nhà Nho giảng, giảng rõ ràng hơn, ba độc phiền
não tham–sân–si có hay không? Chúng ta suy xét, có. Có thì có phiền phức, quả
báo của tham–sân–si là ba đường ác: sân khuể là địa ngục; tham dục là ngạ quỷ;
ngu si là súc sanh, ngu si là không có trí huệ. Tất cả các giới luật: đều là
phương pháp để đoạn tham–sân–si, không thể có những điều này. Vô tham, vô sân,
vô si gọi là ba thiện căn, tất cả thiện pháp thế–xuất thế gian: sanh ra từ căn
này. Tam đồ lục đạo là sanh ra từ tham–sân–si, ngược lại với ba độc chính là ba
điều thiện. Chúng ta nên đi con đường nào? Đi thế nào là nằm ở nơi khởi tâm động
niệm ngay trong đời sống hàng ngày. Chúng ta khởi tâm động niệm, điều quan trọng
nhất là tập khí, tập khí khi đang phát tác thì tự mình không nhận biết, nhưng tập
khí ấy sẽ khởi tác dụng, khi chúng ta xả báo, tức là khi lâm chung, nó sẽ khởi
tác dụng. Nó sẽ dẫn dụ chúng ta đi đến ba đường ác, quý vị nói đáng sợ biết
bao.
Do
vậy, tu hành chân chánh là tu hành ở đâu? Tu hành trong sáu căn tiếp xúc cảnh
giới sáu trần, mắt thấy sắc, nhìn thấy rõ ràng, nhìn thấy minh bạch, đó là trí
huệ, Bát-nhã đang soi, soi chiếu rõ ràng, tu điều gì? Tu đừng Khởi tâm động niệm.
Không được, không kiểm soát được Khởi tâm động niệm, không phải là cảnh giới của
chúng ta, đó là cảnh giới của Pháp thân Đại sĩ, thấy sắc, nghe thanh các ngài
như như bất động, không Khởi tâm không Động niệm, [là] Pháp thân Bồ-tát. Xuống
dưới Pháp thân Bồ-tát đều sẽ khởi tâm động niệm, nhưng mà như thế nào? Các vị ấy
không có Phân biệt, không có Chấp trước, đó là Bồ-tát. Lại xuống một bậc nữa,
các ngài có Phân biệt nhưng không Chấp trước, đó là A-la-hán. Khởi tâm động niệm,
Phân biệt, Chấp trước có hết thảy, thì đó là phàm phu lục đạo, trời và người
cũng không ngoại lệ, cũng là phàm phu lục đạo, không ra khỏi sáu đường luân hồi,
vô cùng đáng sợ.
Phần
sau圓足“viên túc” này: là đầy đủ viên mãn. 故知圓滿即華嚴宗圓明具德之義 “Cố tri viên mãn tức Hoa Nghiêm tông viên minh cụ đức chi nghĩa” (Nên biết viên mãn chính là
nghĩa của tròn sáng đủ đức trong Hoa Nghiêm tông). Câu thứ ba trong năm câu
của Đại sư Lục tổ: “Hà kỳ Tự Tánh, bổn tự cụ túc”, với điều này là một ý
nghĩa, hoàn toàn giống nhau. Do đó chúng ta cầu trí huệ, cầu phước báo, cầu tài
nghệ đều phải cầu từ bên trong, [chứ] bên ngoài không có, bên ngoài là giả thôi.
Phật Bồ-tát hoàn toàn là dùng nội công, dùng phương pháp gì? Dùng Giới–Định–Huệ.
Dùng Giới–Định–Huệ có thể cầu được những điều thật, không dùng Giới–Định–Huệ chỉ
cầu những thứ giả, không phải là thật. Ngày nay khoa học kỹ thuật toàn là hướng
ngoại cầu, không biết hướng nội cầu, cho nên họ có thể được thọ dụng, nhưng có
hạn chế. Quý vị nói không có Thiên nhãn, dùng kính viễn vọng có thể nhìn thấy
được xa, đó là giả, người ta không cần dùng những thứ đó, mà có thể nhìn xa,
chúng ta vẫn cần những thứ đó. Quý vị hiểu rằng khoa học là mượn ngoại lực, rất
là hữu hạn, trợ giúp rất có hạn. Phật Pháp dùng nội công, khiến chúng ta tự
khôi phục sáu loại năng lực: Thiên nhĩ, Thiên nhãn, Tha tâm, Túc mạng, Thần
túc, Lậu tận, thật được thọ dụng, thật được đại tự tại, không thể không biết điều
này. Hôm nay hết thời gian rồi, chúng ta học tập đến đây thôi.
(Giảng lần thứ 4)
Tập 158
Hòa thượng Thích Tịnh Không chủ giảng.
Giảng tại: Hiệp Hội Giáo Dục Phật Đà Hồng Kông.
Thời gian: Ngày 5 tháng 1 năm 2015.
Dịch giả: Cự Lang.
Giảo chánh: Thích Thiện Trang.
Kính chào chư vị Pháp sư,
chư vị đồng học, mời ngồi. Mời mọi người quy y Tam Bảo cùng với tôi: 阿闍黎存念,我弟子妙音,始從今日,乃至命存,皈依佛陀,兩足中尊;皈依達摩,離欲中尊;皈依僧伽,諸眾中尊。“A-xà-lê tồn niệm, ngã Đệ tử Diệu
Âm, thuỷ tùng kim nhật, nãi chí mạng tồn, quy y Phật-đà, lưỡng túc trung tôn;
Quy y Đạt-ma, ly dục trung tôn; Quy y Tăng-già, chư chúng trung tôn. (3 lần)
Mời
xem Đại Kinh Khoa Chú, trang 417 hàng số 1, chúng ta xem từ câu thứ 2:
更加以外聖易信,己靈難明 “Cánh gia dĩ ngoại Thánh dị tín, kỷ linh nan minh” (Thêm nữa bậc Thánh bên ngoài
[thì] dễ tin, còn [tánh] linh của mình [thì] khó rõ). Hôm trước chúng ta học
đến chỗ này. Hai câu này rất quan trọng, chúng ta học Phật không có hiệu quả rõ
rệt, vấn đề nằm ở đâu? Chính là mấy chữ này. Chính mình học Pháp môn này học rất
lâu, không hiệu quả, nhìn thấy người khác học Pháp môn này khá, học dường như
có tác dụng. Có tác dụng thật phải không? Thật đấy, không phải giả đâu. Tại
sao? Hiệu quả được sản sinh vẫn luôn là tín lực của mình, với chính mình vốn do
niềm tin có nghi ngờ, cho nên họ có chướng ngại. Hiện giờ ta tin tưởng những gì
ở người khác, ta không có nghi ngờ, cho nên lòng tin của mình: tương ưng với
hành môn kia, thì như thế được thành tựu. Nếu chúng ta có tín tâm với người
ngoài, lại quay về tin lại chính chúng ta, thì hiệu quả sẽ thù thắng hơn. Tại
sao không thể tin chính mình? Trong kinh nói hay lắm, Phật nói rất hay, Pháp
môn này là pháp khó tin. Lại thêm có tập khí phiền não của mình rất nặng nữa, học
suốt cả đời mà không có cảm ứng, không biết trong tín tâm của mình: có xen tạp
bao nhiêu Vọng tưởng, có bao nhiêu tạp niệm, từ trong Vọng tưởng, tạp niệm, lại
sinh sôi ra nhiều nghiệp chướng nghiêm trọng, đây mới là nguyên nhân. Nhìn thấy
những điều khác lạ lẫm, thì lập tức tin tưởng, chấp nhận, Vọng tưởng, tạp niệm
này vẫn không tăng tiến lên, linh nghiệm, thật linh nghiệm. Nếu đã học 2-3 năm
rồi thì không linh nghiệm, vì sao không linh nghiệm? Bởi Vọng tưởng tạp niệm của
quý vị tăng tiến lên, đạo lý nằm ở chỗ này. Trong Kinh này Niệm lão nói hay lắm,
“ngoại Thánh dị tín, kỷ linh nan minh”, “kỷ linh” với “ngoại Thánh” phải
dung hợp thành một thể thì vấn đề mới giải quyết.
Chúng
ta ngày nay nói tin Phật, tin A Di Đà Phật, trong niềm tin đó có vấn đề, đầy rẫy
Vọng tưởng, tạp niệm, thế làm sao linh nghiệm? Nếu muốn biết A Di Đà Phật chính
là chính mình, linh tánh của chính mình: đó là Tự Tánh của A Di Đà Phật, vốn dĩ
là một không phải hai, quyết trọn một lòng: không có một mảy may nghi ngờ.
Không có nghi ngờ xem từ chỗ nào? Đó chính là khi niệm Phật không có Vọng tưởng,
không có tạp niệm, đó chính là thật tin. Một mặt niệm một mặt khởi Vọng tưởng,
còn có tạp niệm tiến tới, thế thì mình phải tự đề cao cảnh giác, chính ta có vấn
đề với Pháp môn này. Vấn đề đến từ hai khía cạnh, một là nghiệp chướng chính
mình quá nặng, không có phước phận to lớn như vậy. Phật giới thiệu cho chúng ta
Pháp môn này, nói rất rõ ràng, ai tin tưởng Pháp môn này? Người có trí huệ lớn
tin tưởng, chúng ta không có trí huệ lớn; người có phước báo lớn tin tưởng,
chúng ta không có phước báo. Chính là trong Kinh Di Đà nói: nhiều thiện
căn chính là trí huệ lớn, nhiều phước đức là phước báo lớn. Thiện căn, phước đức
không phải là tu trong một đời này, là tích luỹ trong đời đời kiếp kiếp quá khứ,
nghe thấy thì tin tưởng không có nghi ngờ, đem tất cả của mình buông xuống hết,
tất cả đều dựa vào A Di Đà Phật.
Tôi
có thể tin tưởng một điểm này, mạnh hơn chư vị một chút, là do hồi trẻ Đại sư
Chương Gia dạy cho tôi. Ngài ấy dạy tôi: hoàn toàn dựa vào Phật lực, bản thân đối
với chính mình đừng nghĩ ngợi gì hết, kính dâng thân thể này cho Phật Bồ-tát, tất
cả Phật Bồ-tát làm chủ. Ngài nói với tôi, quý vị đừng có dấy khởi tâm gì cả, một
đời quý vị [để] Phật Bồ-tát an bài thay quý vị, bất luận là thuận cảnh nghịch cảnh:
thảy là Phật Bồ-tát an bài tốt cho quý vị, đối với quý vị đều có lợi ích. Thuận
cảnh tiêu phước báo, nghịch cảnh tiêu nghiệp chướng. Nghiệp chướng, phước báo hết
thảy tiêu trừ, tâm thanh tịnh Tự Tánh hiện tiền, chuyện là như thế. Phước báo
cũng không phải là chuyện tốt, trí huệ cũng không phải là chuyện tốt, trí huệ
là Vọng tưởng, phước báo là nghiệp chướng, hưởng phước hưởng hồ đồ luôn, trí huệ
không còn nữa, tham muốn hưởng thụ vật chất thế thì tạo nghiệp rồi. Tất cả Phật
Bồ-tát an bài, tâm thái của chính chúng ta như thế nào? Tuỳ duyên, biết Phật an
bài thay ta, hoan hỷ tiếp nhận. Tín nguyện trì danh, lão thật niệm Phật, cầu
sanh Tịnh Độ, thì không sai. Phải hiểu được lý này.
Khoảng
chừng 30 năm trước, khi đó tôi đang sống ở Mỹ, có một lần trúng gió cảm mạo,
các đồng tu đưa tôi vào một bệnh viện nhỏ, Bác sĩ là người Trung Quốc, khám bệnh
cho tôi, kê một chút thuốc. Tôi nói chuyện với Bác sĩ, Bác sĩ cũng là người Đài
Loan di dân sang trước đây, tôi cười đùa nói chuyện với ông, kỳ thực là nói thật
lòng. Bác sĩ chữa bệnh cho bệnh nhân khỏi, nhờ vào đâu? Không phải nhờ vào thuốc
thang, thuốc thang là tăng thượng duyên, nguyên nhân thật sự là tâm lý. Bệnh
nhân tin tưởng Bác sĩ, Bác sĩ tin rằng mình có thể chữa khỏi cho bệnh nhân, tín
tâm thành tựu trong hai khía cạnh đó. Nếu bệnh nhân nghi ngờ Bác sĩ thì dù thuốc
hay mấy cũng sẽ không linh nghiệm; Bác sĩ nghi ngờ với bệnh nhân thì họ không
làm việc được. Tôi nói đạo lý này ra cho ông nghe, ông gật đầu thừa nhận có đạo
lý, vốn dĩ chính là như thế.
Người
thật sự có trí huệ, có phước đức, họ có tâm thái như thế nào? Tâm họ là định, bất
động, bất luận là thuận cảnh, nghịch cảnh họ đều bất động, họ trụ ở trong định.
Định khởi tác dụng là trí huệ chân thật, bản thân định chính là phước đức,
trong phước sanh huệ. Cho nên, cổ nhân Trung Hoa có câu nói rằng: 福至心靈 “Phước chí tâm linh” (Phước tột cùng thì tâm linh nghiệm), phước báo đến, thì bỗng
nhiên thông minh ra, bèn có trí huệ, chính là đạo lý như vậy.
Cho
nên ý nghĩa của hai câu này rất sâu, chúng ta phải từ từ mà thể hội. Khi nào
thì linh tánh của chính chúng ta hiện tiền? Tin tưởng thì hiện tiền, không tin
thì chướng ngại rồi. Linh tánh hiện tiền hay không: đều chi phối ở chính mình,
không ở bên ngoài. Do vậy Phật nói: 法門平等,無有高下 “Pháp môn bình đẳng, vô hữu cao hạ” (Pháp môn bình đẳng, không có
cao thấp), lời này là thật. Quý vị có nghi ngờ đối với Phật, tin tưởng với
Chúa Jesus, Jesus Ki-tô bên đó chắc chắn linh, Phật thì không linh. Quý vị tin
tưởng Phật, khi quý vị nghi ngờ đối với Chúa Ki-tô thì Phật nhất định linh,
Chúa Ki-tô nhất định không linh. Trên thực tế bên ngoài có linh không? Không
có, hoàn toàn là chính mình, tin thì linh, không tin thì không linh, là chân lý
vĩnh viễn bất biến. Cổ Thánh tiên Hiền nói với chúng ta, cả đời này chúng ta có
thể có chứng quả hay không: quyền không nằm ở bên ngoài, [mà] hoàn toàn chi phối
ở trong tay chính mình. Nếu người có thể thật sự quay đầu, tự mình có thể nắm
quyền thế, thì không có một ai không chứng quả.
Lão
Hoà thượng Hải Hiền là một người rất bình thường, một người rất phổ thông,
không có trí huệ hơn người, không có phước báo hơn người, cả đời dựa vào sức
lao động của mình để sinh sống, đích thực là một ngày không làm thì một ngày
không ăn. Môi trường tu học là ngôi chùa nhỏ trong làng quê, không có người đến
thắp nhang, không có người đi lạy Phật, cho nên trong chùa không có thu nhập.
Có mấy mẫu ruộng đất, nuôi không nổi ngôi chùa ấy, có năm người sống trong chùa
ấy, cực chẳng đã phải khai hoang, xung quanh chùa có rất nhiều đất núi không có
chủ, ngài bèn khai khẩn. Diện tích khai khẩn rất lớn, trồng lương thực, trồng
cây ăn trái, trồng rau củ, ngoại trừ có thể cung cấp cho trụ chúng trong Đạo tràng,
lại còn có dư. Tâm địa ngài từ bi, có dư thì không đem bán, mà hoàn toàn dùng để
cứu tế nghèo khổ. Nơi hoang vu hẻo lánh ấy người nghèo đông, người không có cơm
ăn chẳng ít, ngài cứu tế, phạm vi xung quanh mấy chục dặm đó, có những người khổ
nạn như vậy, đều là đối tượng để ngài cứu tế.
Tâm
địa thanh tịnh, không nhiễm mảy trần, ngài thành tựu thật rồi. Đã thành tựu
Công phu Thành phiến, [là] thành tựu nhỏ, Công phu Thành phiến chính là chúng
ta thường nói, trong tâm chỉ có một câu Phật hiệu, ngoại trừ Phật hiệu ra không
còn có bất cứ ý niệm gì, đó là thành một phiến. Có đoạn Phiền não không? Không
đoạn, chưa đoạn một phẩm nào cả, Công phu Thành phiến là khống chế được phiền
não, không khởi tác dụng, khởi tác dụng chính là một câu Phật hiệu A Di Đà Phật,
ngoại trừ A Di Đà Phật ra, ý niệm khác đều không có. Niệm Phật niệm đến công
phu này không khó, người bình thường 3 năm là thành tựu. 3 năm không thể thành
tựu, 30 năm không thể thành tựu, nguyên nhân là gì? Quý vị không buông xuống,
những việc quý vị chất chứa trong lòng quá nhiều, buông xuống là thành tựu;
không phải Pháp môn không linh, mà do quý vị chưa y giáo phụng hành. Ngài có thể
buông xuống thật. Điều khiến ngài khó buông xuống nhất, nói thật ra chính là
người mẹ già của ngài. Sau khi em trai qua đời, mẹ già không ai chăm sóc, ngài
đón mẹ mình đến Đạo tràng để cùng tu hành. Mẹ của ngài cũng là niệm Phật ăn
chay, từ nhỏ đã như thế rồi. Sống với nhau được 27 năm, cho đến khi bà cụ vãng
sanh. Do vậy, ngài đã buông xuống tình chấp, không còn chướng ngại nữa.
Công
phu Thành phiến, nói chung lại thì: A Di Đà Phật nhất định có cảm ứng với quý vị,
Thành phiến chính là cảm, lúc này Phật bèn đến ứng, hoặc là ở trong định, hoặc
là ở trong mộng. A Di Đà Phật đến nói với quý vị, đến thông báo cho quý vị, quý
vị đã đạt được điều kiện vãng sanh, quý vị vẫn còn thọ mạng, đợi đến khi quý vị
hết tuổi thọ, thì Phật đến tiếp dẫn quý vị. Lúc này quý vị quyết trọn một lòng
rồi, tại sao? Biết A Di Đà Phật có thật, đến rồi, quý vị càng dụng công hơn,
càng nỗ lực hơn. Nếu như 3 năm, 5 năm, có 3 năm, 5 năm tuổi thọ dài như thế, thì
rất có thể quý vị sẽ từ Công phu Thành phiến nâng lên đến Sự nhất tâm Bất loạn.
Sự nhất tâm Bất loạn chính là đoạn Kiến tư phiền não rồi. Đặc biệt là Tư hoặc,
Tư hoặc là gì? Tham–sân–si–mạn–nghi, quý vị không có năm chữ này nữa. Quý vị đối
với các pháp thế – xuất thế gian không có tham luyến; quý vị đối với người thiện,
người ác không có sân khuể; quý vị rõ ràng mọi điều, quý vị không mê hoặc;
khiêm tốn vì người, đãi người tiếp vật cung kính, khiêm nhường, không có kiêu mạn;
đối với sự tu hành của mình không có hoài nghi. Thật sự không có năm chữ này,
thì quý vị hiểu mình đã nâng cấp đến: Sự nhất tâm Bất loạn. Sự nhất tâm Bất loạn
vãng sanh, thăng cấp rồi, không ở Đồng Cư độ mà là ở Phương Tiện độ.
Vậy
vẫn còn tuổi thọ, lại còn 3 năm đến 5 năm, quý vị rất có thể nâng cấp đến Lý nhất
tâm Bất loạn. Lý nhất tâm Bất loạn chính là không có khởi tâm động niệm nữa,
quý vị mắt thấy tai nghe, nhưng không có Phân biệt–Chấp trước, ngay đến khởi
tâm động niệm cũng không có. Từ sáng đến tối suốt 12 thời, trong tâm rõ rõ ràng
ràng chỉ A Di Đà Phật, ngoại trừ A Di Đà Phật ra không có bất cứ gì nữa, điều
gì cũng biết, điều gì cũng không để ở trong tâm. Đó gọi là Lý nhất tâm Bất loạn,
chính là đại triệt đại ngộ, minh Tâm kiến Tánh trong Thiền tông. Ở trong cảnh
giới này, quý vị đã kiến Tánh, sau khi kiến Tánh, toàn thể Y chánh trang nghiêm
trong toàn thể mười pháp giới vũ trụ: đều là do từ Tự Tánh biến hiện ra, quý vị
nhìn thấy tánh rồi, tất cả tánh tướng, lý sự, nhân quả: của mọi pháp khắp pháp
giới hư không giới, quý vị biết hết cả, hoàn toàn thông suốt rõ ràng. Đây chính
là điều Sư phụ Truyền Giới của lão Hoà thượng Hải Hiền dạy cho ngài, niệm một
câu Nam Mô A Di Đà Phật này cứ niệm luôn luôn, minh bạch rồi, sự minh bạch này
chính là Lý nhất tâm Bất loạn. Nếu cảnh giới này hiện tiền, đặc biệt dặn dò
ngài: không được nói bừa, không thể nói. Ngài tuân giữ, ngài có trí huệ, không
lộ trí huệ, ngài có thần thông, chẳng hiện thần thông. Người bên ngoài nhìn thấy:
vĩnh viễn chỉ là một người thật thà, chất phác bình thường, một người niệm Phật.
Ngài thật sự có thể làm được tuỳ duyên bất biến, bất biến tuỳ duyên, ở lại thế
gian này, làm viên mãn lời dặn dò của A Di Đà Phật. Phật dặn bảo ngài làm một tấm
gương tốt cho người niệm Phật, cho người học Phật, ngài làm được rồi.
Vào
lúc biểu pháp viên mãn ấy, biểu pháp viên mãn, thì nhiệm vụ của ngài đã xong,
nhiệm vụ này: là nhiệm vụ trong thế giới Ta Bà, xong rồi, có thể Phật lại dặn
dò ngài đi đến thế giới phương khác để biểu pháp nữa. Nếu không dùng phương
pháp này, vẫn trụ tại thế gian, thì tác dụng biểu pháp đã không còn nữa, ngài
chỉ biểu diễn đến đây thôi, sau này không còn là chuyện của ngài nữa. Sẽ có người
biểu pháp khác, một người tiếp nối một người, toàn là do Phật Bồ-tát an bài.
Người thế gian là do nghiệp lực an bài, thiện nghiệp của họ [khiến] họ hưởng
phước, có địa vị ở trong xã hội, có giàu sang, ngũ phước lâm môn; không có phước
báo, thì nghiệp lực chi phối họ phải chịu khổ chịu nạn, toàn là do tự mình tạo.
Phật Bồ-tát phó thác cho: cũng là duyên phận trong đời trước, nếu ngài không có
duyên phận này: với người đời ở trong thế gian này, thì ngài cũng không thể tỏ
năng lực, ngài có duyên phận. Duyên phận cũng là có sự nhất định, đích thực như
thế tục đã nói: 一生皆是命,半點不由人“Nhất sanh giai thị mạng, bán điểm
bất do nhân” (Cả đời đều do số mạng, nửa chút
không phải do người). Chúng ta hiểu thấu được, thì tâm sẽ định, chúng ta sẽ
tin tưởng lời răn dạy của Phật Bồ-tát, khuyến cáo của các bậc Tổ sư Đại đức. Đối
với Pháp môn này, cả đời mình phải mong thành tựu, nhất định phải toàn tâm dốc
vào, tất cả do Phật Bồ-tát làm chủ, chính mình mãi mãi đều tuỳ duyên, tuỳ duyên
tiêu nghiệp cũ, nhất định không tạo nghiệp mới nữa, đối với chúng ta tín nguyện
trì danh, cầu sanh Tịnh Độ sẽ có ích lớn.
Chúng
ta xem tiếp phần sau, 是以具縛凡夫“thị dĩ cụ phược phàm phu”(vì thế hàng phàm phu đầy triền phược), phược là đại
từ chỉ phiền não, chúng ta là đầy đủ Kiến tư phiền não, Trần sa phiền não, Vô
minh phiền não, đích thực là phàm phu lục đạo chính cống. 但能信“Đãn năng tín”(chỉ cần tin được), đó chính
là một bước ngoặc lớn, có thể tin điều gì? 有世界名曰極樂“Hữu thế giới danh viết Cực Lạc”(Có thế giới tên là Cực Lạc),
chữ có này, [là] thật sự tin tưởng, chắc chắn không nghi ngờ. 其土“Kỳ độ”(Cõi đó), chính là thế giới Cực Lạc, 有佛,號阿彌陀“hữu Phật, hiệu A
Di Đà”(có Phật, hiệu là A Di Đà).
Quý vị chỉ cần tin hai chữ ‘có’ này, là có thật, chắc chắn không phải là giả.
Hai chữ có này: là do đức Thích Ca Mâu Ni Phật nói với chúng ta, đức Thích Ca
Mâu Ni Phật chắc chắn không có vọng ngữ. Trong Kinh Kim Cang nói, Như
Lai là đấng có năm lời: chân ngữ, thật ngữ, như ngữ, không vọng ngữ, không cuồng
ngữ, từng chữ từng câu đều là lời thành thật, chắc chắn không có lừa gạt chúng
sanh. Dùng lừa gạt để làm một cách thức dạy học, Phật tuyệt không dùng, tại
sao? Bị người ta phát hiện, quý vị lừa người ta một lần, có thể sẽ có lần thứ
hai, có thể có lần thứ ba. Cho nên, Phật đời đời kiếp kiếp chắc chắn không có vọng
ngữ, đưa lưỡi ra có thể che hết cả mặt, làm chứng minh cho mọi người bằng廣長舌相 quảng trường thiệt tướng (tướng lưỡi rộng dài). Hai chữ ‘có’ này quan trọng.
深信此兩個有字“Thâm tín thử lưỡng
cá hữu tự”(Tin sâu hai chữ ‘có’ này),
công phu của chúng ta không đắc lực, chính là đối với hai chữ ‘có’ này có nghi
ngờ. Tín tâm không đủ, chúng ta có tin, nhưng không có tin sâu, cho nên chúng
ta thường hay động tâm. Chúng ta nhìn thấy từ lão Hoà thượng Hải Hiền, ngài tin
sâu. Rất khó được, khi ngài 12 tuổi, trồng một trái bí đao, bị em họ của ngài
ăn trộm, ngài không biết. Ngài bèn nguyền rủa người, giống như niệm chú, tiếng
nguyền nhỏ: “Ai trộm bí đao của ta, thì cho họ nổi nhọt bệnh nặng”, chính là niệm
một câu như thế. Niệm suốt 3 ngày, em họ của ngài quả thật nổi nhọt bệnh rồi.
Bà thím biết được bèn tìm đến ngài: Con đừng có niệm nữa, em trai con chỉ lấy
có một trái bí đao thôi, [mà] con nguyền rủa bây giờ nó bị nhọt đau bệnh nặng
không dậy khỏi giường được. Ngài nghe rất kinh ngạc, vội chuyển niệm rằng: “Mau
cho em khoẻ đi, mau cho em khoẻ đi”, em họ quả nhiên khoẻ rất nhanh. Từ chỗ này
ngài đã sáng tỏ, niệm lực không thể nghĩ bàn. Tại sao ngài niệm linh, còn quý vị
niệm không linh? Ngài niệm là chuyên tâm niệm, một lòng xưng niệm nên linh; quý
vị trong khởi tâm động niệm còn xen tạp rất nhiều Vọng tưởng, rất nhiều tạp niệm,
không phải không linh, mà năng lượng không đủ. Nếu quý vị nhất tâm chuyên niệm,
thì nhất định sẽ có tác dụng như vậy. Đó là nói rõ điều gì? Tất cả các pháp
sanh từ tâm tưởng.
Niệm
để một người sanh bệnh, rồi lại niệm cho họ khôi phục bình thường thì họ khôi
phục bình thường. Từ điểm này quý vị dần dần triển khai, bất luận sanh bệnh tật
gì đi nữa, bệnh nhỏ bệnh lớn, đến từ đâu? Do niệm lực không chính đáng tạo nên.
Quý vị sáng tỏ đạo lý này, đoan chánh tâm niệm thì sẽ không có bệnh, thật đấy,
không phải giả đâu. Chúng ta còn có bệnh, thường xuyên hướng nội suy xét, tâm của
ta có vấn đề, khởi tâm động niệm không thuần, tuy có thiện niệm, trong thiện niệm
còn xen tạp những ý niệm bất thiện. Là gì? Có ý niệm tự tư tự lợi, xen tạp là bất
thiện. Thế là rõ ràng ngay, niệm Phật phải toàn tâm niệm Phật. Gặp được thiện
duyên, thiện duyên này là gì? Lợi ích chúng sanh, lợi ích Chánh pháp, chúng ta
đi làm, phải dùng chân tâm mà làm; chính là làm những chuyện này không được có
chính mình, có điều hay cho chính mình xen tạp trong đó, ý niệm thuần như vậy,
niệm như vậy rất có hiệu quả. Nếu có mảy may tư tâm, lợi ích của mình, thì
không linh nghiệm, đó là gì? Đó là đang tạo nghiệp, tạo nghiệp thì biến thành
nghiệp lực đang chủ tể, chứ không phải nguyện lực. Nghiệp lực sẽ chướng ngại
nguyện lực, nghiệp lực tiêu trừ rồi, năng lượng nguyện lực không thể nghĩ bàn.
Giống như lão Hoà thượng Hải Hiền, ngài sáng tỏ, ngài ở trong đó chứng ngộ rồi,
cho nên cả đời không niệm lỗi lầm của người khác. Tại sao? Niệm lỗi lầm người
khác, hại người, ta không muốn người khác hại ta, thì ta không được hại người.
Họ hại ta thì không sao, ta có Chánh niệm, tổn thương mà ta chịu không lớn, có
thể cho qua. Chính họ tạo nghiệp đó là Tánh tội, nhất định sẽ cảm lấy quả báo,
ta đừng thêm một chút gì cho họ nữa, đó gọi là tự làm tự chịu. Ta tăng thêm cho
họ một chút nữa, đó chính là lỗi lầm của ta, không được gia tăng cho họ, hy vọng
họ giác ngộ, hy vọng họ quay đầu, thiện niệm này. Có người có thể quay đầu, có
người không quay đầu được, nguyên nhân là gì? Tập khí quá nặng, lòng danh lợi
quá mạnh, buông không xuống. Chúng ta ở bên cạnh, nhìn thấy rất là rõ ràng, rất
là sáng tỏ.
Vì
vậy, phạm vi của chữ ‘có’ này: rộng và sâu lắm, sâu rộng không có ngằn mé. Tu Tịnh
Độ, mục đích của quý vị là muốn vãng sanh thế giới Cực Lạc, là muốn thân cận A
Di Đà Phật, hai chữ ‘có’ đó quan trọng hơn bất cứ điều gì, chắc chắn tin tưởng
có thế giới Cực Lạc, có A Di Đà Phật. Đem những việc này giảng thấu suốt, giảng
sáng tỏ, đức Di Đà, cõi Cực Lạc đều là do tâm tưởng: của chính chúng ta biến hiện
ra, tín tâm này quyết trọn một lòng, không nghi ngờ nữa, sanh ra từ ý niệm. Ta
ngày ngày tín nguyện trì danh, thì không phải đang xây dựng thế giới Cực Lạc
hay sao? Không phải làm xuất hiện A Di Đà Phật hay sao? Về lý thì sáng tỏ, về sự
thì công phu đắc lực. 切願往生“Thiết nguyện vãng sanh”(Nguyện vãng sanh tha thiết), nguyện vãng sanh này rất khẩn thiết, chỉ mong sao hiện tại liền
đi, thấy được A Di Đà Phật chắc chắn sẽ không bỏ qua. Do vậy, 一向持名“nhất hướng trì danh”, nhất hướng là một phương
hướng, hoàn toàn tương ưng với điều được Phật truyền trong Kinh này, phát tâm Bồ-đề,
nhất hướng chuyên niệm, đó là tổng trì tu học của Tịnh tông. 即可如願“Tức khả như nguyện”(Liền được như nguyện), tín
nguyện trì danh, thì quý vị có thể thoả mãn như nguyện, quý vị sẽ nhìn thấy thế
giới Cực Lạc, sẽ vãng sanh đến thế giới Cực Lạc, sẽ thân cận được A Di Đà Phật,
thật sự là Đệ tử của A Di Đà Phật. Tiếp nhận dạy bảo của A Di Đà Phật, đâu có lẽ
nào không thành Phật?
Câu
tiếp theo, là Đại sư: chân thành khẩn thiết nói với chúng ta rằng: 是乃凡愚所同能 “Thị nãi phàm ngu sở đồng năng” (Đó là điều kẻ phàm phu cùng làm được), phàm phu làm được:
phương pháp này, những người ngu si cũng có thể làm được, khiến chúng ta ở
trong đây kiến lập tín tâm. Chúng có thể vãng sanh không? Ta có thể thành Phật
không? Câu trả lời là chắc chắn, có thể, quý vị chỉ cần tin tưởng, chỉ cần theo
phương pháp này, thì thành tựu bình đẳng. Sau đó lật lại nói: 若獨言究明自心 “Nhược độc ngôn cứu minh tự tâm” (Nếu chỉ nói rằng tham cứu rõ tâm mình), đó chính là minh
Tâm kiến Tánh, không dựa vào A Di Đà Phật, ta tự mình mà tu trì, có thể đạt đến
minh Tâm kiến Tánh, đúng vậy, vậy cần người như thế nào? 則唯上智所堪任 “Tắc duy thượng trí sở kham nhiệm” (Thì chỉ người thượng trí mới
kham nổi). Đại sư Lục tổ Huệ Năng nói hay lắm, Pháp môn mà ngài tu, chỉ tiếp
người Thượng thượng căn, không phải Thượng thượng căn, thì họ đi Pháp môn đó sẽ
không thành tựu, nhất định là người Thượng thượng căn. Hoàn toàn khác với Tịnh
Độ tông, Tịnh Độ tông có thể tiếp dẫn phàm phu: cùng sanh nước Cực Lạc; Đại sư
Huệ Năng tiếp người Thượng thượng căn, Thanh-văn, Duyên-giác, Bồ-tát đều không
có phần, huống chi phàm phu? Pháp môn vô lượng, tiếp dẫn căn tánh khác nhau, có
những Pháp môn chỉ tiếp bậc Thượng trí, có những Pháp môn chỉ tiếp người
trung–hạ, chỉ có mỗi Pháp môn Tịnh tông này, từ Thượng thượng căn đến Hạ hạ căn
hết thảy đều tiếp. Ở trong vô lượng Pháp môn, chỉ có tín nguyện trì danh, chỉ
có Pháp môn này tiếp đón hết, không sót một người nào.
法藏菩薩於因地中,悲願宏深 “Pháp Tạng Bồ-tát ư nhân địa trung, bi nguyện hoành thâm” (Bồ-tát Pháp Tạng ở trong nhân
địa, bi nguyện rộng sâu), hoành là lớn, ngài từ bi, ngài phát ra
nguyện này, nguyện gì? Nguyện phổ độ chúng sanh, không sót một người nào. Dùng
phương pháp gì? Phương pháp rất đơn giản, viên diệu đến cực độ, chính là tín,
nguyện, trì danh. 開顯此他力法門 “Khai hiển thử Tha lực Pháp môn” (Mở bày Pháp môn Tha lực này),
không dựa vào mình, dựa hết vào đức Di Đà. Điều đức Di Đà đã dạy, chúng ta chắc
chắn phải tiếp nhận, phải y giáo phụng hành, điều Ngài dạy chúng ta chính là
tín nguyện trì danh. Chúng ta có thể tin tưởng thật, không nghi ngờ chút nào,
giáo lý hoàn toàn không hiểu, thậm chí còn không biết chữ, cả đời chưa bao giờ
học Kinh giáo, chỉ cần tâm địa thiện lương, làm được Ngũ giới Thập thiện, thì
có thể tu Pháp môn này. 是以世稱彌陀乃大願之王 “Thị dĩ thế xưng
Di Đà nãi đại nguyện chi vương” (Bởi vậy trên đời gọi đức Di Đà là vua của các nguyện lớn).
Mỗi một vị Phật, những người chứng đến Phật quả: đều là phát ra nguyện lớn. Bốn
thệ nguyện lớn: là đại nguyện chung của tất cả chư Phật, điều đầu tiên: 眾生無邊誓願度 “Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ”, đại nguyện này. Có vị Phật nào
không độ: vô lượng vô biên chúng sanh? Nhưng căn tánh chúng sanh khác nhau, muốn
phổ độ bình đẳng làm không được, phải mở rất nhiều Pháp môn tiếp dẫn đại chúng.
Chỉ có mỗi đức Di Đà là khác với chư Phật, Ngài là nguyện lớn trong các nguyện
lớn, nguyện lớn duy nhất: đó chính là một môn phổ độ tất cả căn tánh khác nhau,
gọi là Nguyện vương.
又密宗亦是他力門,同屬果教 “Hựu Mật tông diệc thị Tha lực môn, đồng thuộc Quả giáo” (Lại Mật tông cũng là môn Tha lực,
cùng thuộc Quả giáo), Tịnh Độ với Mật cùng một lý luận, phương pháp cũng rất
gần nhau, đều là kiến lập ở trên cơ sở của tín và nguyện. Mật tông phải tin Tam
Bảo, ngoại trừ Tam Bảo ra còn phải tin Thượng sư, nếu có nghi ngờ đối với Thượng
sư, thì rất khó thành tựu. Chúng ta biết Tịnh tông chỉ cần tin tưởng Phật Bồ-tát,
đương nhiên cũng phải tin tưởng thầy dạy, nhưng tin tưởng thầy dạy: không quá
khắt khe giống như Mật tông tin Thượng sư. Trong Mật tông nhìn nhận: Thượng sư
với Phật là như nhau, với Tịnh Độ tông thì xem Thượng sư như Bồ-tát, là Đệ tử của
A Di Đà Phật, chỉ điểm này là khác nhau. Nói cách khác, học Mật tông sẽ khó hơn
học Tịnh Độ, khó ở chỗ nào? Tín tâm. Tịnh tông tin tưởng 99%, còn sót một phần
nghi hoặc, vẫn được, nhưng Mật tông không được, Mật tông dù có một chút chút
nghi ngờ đối với Thượng sư, thì trở nên chướng ngại. Phải hiểu đạo lý này, sau
khi hiểu rồi, Pháp môn này dễ tu hơn Mật tông. Mật tông là dạy quý vị tín, nguyện,
trì chú, lời chú dài hơn Phật hiệu, Tịnh Độ tông chỉ dạy quý vị bốn chữ “A Di
Đà Phật”, rất đơn giản! Càng đơn giản càng dễ thọ trì, dễ dàng làm được. Lời
chú quá dài nhớ không nổi, cho dù nhớ nổi thì qua thời gian dài, khó tránh khỏi
không có tạp niệm xen vào, quý vị mới hiểu ra sự thù thắng của Pháp môn này. Đi
đến Trung Hoa, bất luận học theo một tông nào một phái nào, các vị cổ Thánh
tiên Hiền, Tổ sư Đại đức: cũng thường đến cuối cùng các ngài niệm Phật vãng
sanh Tịnh Độ. Các ngài dùng những Pháp môn khác để tu hành công phu, cuối cùng
toàn hồi hướng cầu sanh Tịnh Độ, các ngài đi thật, [người của] Giáo hạ, Thiền
tông, Mật tông: đến thế giới Cực Lạc cũng nhiều.
Trong
Kinh văn sau: 此殊勝難思之他力法門,正是彌陀悲願至切之處 “Thử thù thắng
nan tư chi Tha lực Pháp môn, chánh thị Di Đà bi nguyện chí thiết chi xứ” (Đây là Pháp môn Tha lực thù thắng
khó nghĩ, chính là chỗ bi nguyện rất khẩn thiết của đức Di Đà), khẩn thiết
đến cực độ, 亦正是淨密二宗方便究竟處 “diệc chánh thị Tịnh
Mật nhị tông Phương tiện Cứu cánh xứ” (cũng chính là chỗ Phương tiện Cứu cánh của hai tông Tịnh và Mật).
Niệm lão cả đời tu hành, Tịnh Độ là chính; ngài học Mật, ngài là Kim cang Thượng
sư của Mật tông, truyền thừa Mật pháp; Ngài học Thiền, lão sư của Thiền tông là
lão Hoà thượng 虛雲 Hư Vân; Ngài học Giáo, Pháp Tướng,
cậu của ngài là lão Cư sĩ 梅光羲 Mai Quang Hy – chuyên gia về Pháp
Tướng, lão Cư sĩ 李炳南 Lý Bỉnh Nam là thầy của tôi: cũng
là học trò của ngài Mai Quang Hy, những điều ngài học rất nhiều. Chẳng như lão
Hoà thượng Hải Hiền, lão Hoà thượng Hải Hiền tu khá đơn thuần, thâm nhập một
môn, chính là một câu A Di Đà Phật. Thiền là A Di Đà Phật, Mật là A Di Đà Phật,
Giáo cũng là A Di Đà Phật, một câu A Di Đà Phật viên mãn gồm thâu rồi, là thật,
không phải giả. Biểu hiện ở chỗ nào? Biểu hiện ở trong đời sống hàng ngày của
ngài.
Khi
Hoàng Niệm lão vãng sanh là lúc 79 tuổi, cuối đời thân thể không khoẻ, trông
như người bình thường không có tu hành, vậy có thể nói rất tốt, so sánh với lão
Hoà thượng Hải Hiền thì không được, không sánh bằng. Lão Hoà thượng Hải Hiền
112 tuổi, vẫn không cần ai chăm sóc, vẫn không lấy làm lạ, làm việc theo lối
thường, làm nông. Vào ngày sắp ra đi, tháng giêng năm 2013, ngài ra đi vào buổi
tối, ban ngày vẫn làm một ngày công ở vườn rau, trồng rau, sửa đất, tưới nước,
nhổ cỏ, làm suốt một ngày. Ngài làm việc rất chịu khó, không lười biếng một
chút nào, người bình thường không làm được điều này, ban đêm niệm Phật ra đi,
không nói cho bất kỳ ai hay. Sáng hôm sau dậy, mới phát hiện ra, mọi người phát
hiện lão Hoà thượng đã ra đi rồi. Nghĩ lại những hành vi của ngài suốt một
tháng nay, phát hiện điều gì? Ngài đã cáo biệt với mọi người, ngài đều đã đi
thăm các nơi để cáo biệt, cũng tiết lộ một chút tin tức, sau này không đến nữa.
Vì người ta trông thấy thân thể ngài khoẻ mạnh, nên không chú ý, sau khi ra đi,
nghĩ lại ngôn hành cử chỉ của lão Hoà thượng, [là] sớm đã biết trước giờ ra đi.
Đến để giã từ, thăm qua Đạo tràng xưa từng sống lúc trước, thăm qua các đồng
tham đạo hữu, tăng trưởng niềm tin cho họ, nhìn thấy bộ dạng của lão Hoà thượng,
tin tưởng thật sự, không nghi ngờ nữa.
Phần
sau Niệm lão từ mặt lý, đem sự việc này nói rõ ràng, nói sáng tỏ: 蓋自他本來不二 “Cái tự tha bổn lai bất nhị” (Bởi vì tự và tha vốn dĩ chẳng hai), tự là chính
mình, tha là A Di Đà Phật, tự là thế giới Ta Bà, tha là thế
giới Cực Lạc, từ Chánh báo, từ Y báo đều là vốn dĩ chẳng hai. Cho nên肯仗他力 “khẳng trượng Tha lực” (nguyện dựa vào Tha lực), ta hoàn toàn không dựa vào mình,
dựa hết vào A Di Đà Phật, dựa vào Tha lực. Tự tha bất nhị, ta dựa hoàn toàn vào
Tha lực, vốn dĩ là toàn tâm toàn lực, vẫn là Tự lực, Tha lực chính là Tự lực, Tự
lực chính là Tha lực, Tha lực với Tự lực tập hợp thành một lực, vậy thì viên
mãn. 即是於此難信之法能生淨信。難信能信,全由當人之無上智慧,此即是自力 “Tức thị ư thử nan tín chi pháp năng sanh tịnh tín. Nan tín năng
tín, toàn do đương nhân chi Vô thượng trí huệ, thử tức thị Tự lực” (Tức là với pháp khó tin có thể
sanh niềm tin thanh tịnh. Có thể tin điều khó tin, toàn bộ là do trí huệ Vô thượng
của người ấy, đó tức là Tự lực). Người có trí huệ Vô thượng nhạy bén, cảm ứng
rất nhanh; người không có trí huệ Vô thượng cảm ứng sẽ chậm chạp hơn, có cảm ứng.
Chậm chạp mất bao lâu? Hầu hết là trong 3 năm, chúng ta đọc được trong Tịnh
Độ Thánh Hiền Lục, đọc được trong Vãng Sanh Truyện, thấy được ngay
trong một số những người đồng học học Tịnh Độ: niệm Phật cầu vãng sanh hiện tiền
với chúng ta.
Hôm
nay các đồng tu ở chùa Cực Lạc – Đài Nam, có nhiều người đến thăm tôi, thỉnh
tôi trở về Đài Nam để ăn tết âm lịch. Ý hay! Làng Tướng Quân ở Đài Nam, 40 năm
trước có một bà lão niệm Phật 3 năm đứng yên vãng sanh, chúng tôi nhắc đến thì
người ở nơi đó đều biết, là thật, không phải giả. Cư sĩ tại gia: niệm Phật 3
năm, biết trước giờ đi vãng sanh thế giới Cực Lạc, đứng mà ra đi. 3 năm trước,
bà không biết Phật Pháp là gì cả, cả đời người tâm địa thiện lương, thật thà, từ
bi. 3 năm trước con trai bà cưới con dâu, con dâu biết Phật Pháp, khuyên bà
thành thật đừng nên đi lạy thần bừa bãi nữa, khi đó bà gặp thần nào cũng lạy,
tiên nào cũng bái, không phân biệt thần với Phật. Khi nói với bà một chút đạo
lý Phật Pháp, bà nghe rồi rất hoan hỷ, không đi những nơi khác nữa, trong nhà
thiết lập một Phật đường, cúng dường Tam Thánh Tây Phương, ngày ngày niệm A Di
Đà Phật, không đi đến chỗ nào nữa. 3 năm thì bà vãng sanh, thành công thật rồi,
biết trước giờ ra đi.
Bà
lão rất thông minh, đến ngày vãng sanh không nói cho người nhà biết, nói cho
người nhà sợ xảy ra chướng ngại, [nên] không nói. Vào ngày vãng sanh, bà vãng
sanh vào ban đêm, khi ăn cơm tối, bà nói với con trai và con dâu của mình, con
trai và con dâu đều rất hiếu thảo, bà nói với chúng: Các con ăn cơm trước đi,
ăn cơm tối, bà nói mẹ đi tắm gội, các con từ từ ăn. Nhưng con trai và con dâu vẫn
đang đợi bà, đợi bà tắm gội xong cùng nhau ăn cơm. Đợi rất lâu, nhận thấy có
chút gì không đúng, sao bà lão tắm gội thời gian lâu đến thế. Đi vào phòng bà
xem, quả thật đã thay y phục, đích thực đã tắm gội, không thấy người, kêu không
ai trả lời. Tìm kiếm khắp nơi, đến Phật đường, thấy bà mặc áo tràng đứng ở nơi
đó, mặt hướng tượng Phật, trên tay cầm xâu chuỗi, gọi bà không thấy đáp, nhìn
cho kỹ thì bà đi rồi, ra đi lúc ăn cơm tối. Độ hoá rất nhiều người, khu vực
phía Nam Đài Loan không ai là không biết, nhìn thấy một người giống như bà vậy,
học Phật không quá 3 năm, thành tựu như vậy, làm mọi người tin tưởng.
Tôi
dạy học ở Phật Quang sơn, năm đó tôi 44 tuổi, bà vãng sanh một trăm trước đó,
lúc tôi 43 tuổi, bà lão vãng sanh. Chúng tôi nghe xong vô cùng cảm động, là thật
không phải giả, thời gian không lâu, 3 năm mà thôi. Tại sao bà có thành tựu như
thế? Bởi bà buông xuống thật, ra đi trong ngày đó, quý vị xem ngay cả với con
trai, con dâu mà bà cũng không nói. Nói với họ, sợ họ làm chướng ngại, họ còn
có thân tình, không xả được, bà buông xuống rồi, đã buông xuống thân tình. Sự
thị hiện này khiến con trai và con dâu của bà, người nhà bà lão càng tin tưởng
hơn với Tịnh tông. Làm chứng, điều quý vị biết trước ban đầu là thường thức, bà
làm chứng minh cho quý vị, chứng minh sự việc này là chân thật, chứ không phải
giả. Tôi nghe được thông tin này là vào năm tiếp theo, tôi đang dạy học ở Phật
Quang sơn, người làm ở Phật Quang sơn là hàng xóm của bà lão, họ đem câu chuyện
đó kể cho tôi nghe, sự việc của một năm trước.
Phần
sau nói, Tín lực này, tự tín, tự lực là trí huệ đích thực, đó không phải là
dùng việc theo cảm tình. Toàn do trí huệ Vô thượng của người ấy, vì quý vị chọn
lấy Pháp môn Vô thượng, một đời thật sự thành tựu, sự lựa chọn này là trí huệ
Vô thượng. 但能信入,老實念去,自然能所兩忘,自心朗現 “Đãn năng tín nhập,
lão thật niệm khứ, tự nhiên Năng Sở lưỡng vong, Tự Tâm lãng hiện” (Chỉ có thể tín nhập, thành thật
mà niệm, tự nhiên có thể quên đi cả Năng và Sở, Tự Tâm hiện bày sáng tỏ), Tự
Tâm lãng hiện này chính là Lý nhất tâm Bất loạn, Đại triệt Đại ngộ, minh
Tâm kiến Tánh. Do đó, 從事持達理持 “tùng sự trì đạt Lý trì” (từ Sự trì đạt Lý trì), sau
khi kiến Tánh, niệm Phật là Lý trì, 即凡心成佛心 “tức phàm tâm thành Phật tâm”, tại sao? Bởi phàm tâm với Phật tâm là một chẳng phải hai. Gọi là
phàm tâm, tức là trong Phật tâm còn mang theo tập khí phiền não, đó gọi là phàm
tâm; loại bỏ tập khí phiền não, thì phàm tâm vốn là Phật tâm. Bà lão không đơn
giản, thấy từ chỗ nào? Thấy từ cách bà ra đi, bà không có tình thân, buông xuống
tình thân rồi, điều khó buông xuống nhất chính là tình thân. Bà có con cháu, bà
thật sự yêu con cháu của mình, biểu diễn cho quý vị thấy, để cả đời quý vị đối
với Pháp môn niệm Phật: tin sâu không nghi ngờ; nói cách khác, tương lai quý vị
niệm Phật có thành tựu giống như bà, con cháu tương lai niệm Phật vãng sanh, bà
chắc chắn cùng với đức A Di Đà Phật đến tiếp dẫn. Quý vị có thể nói bà lão
không có trí huệ hay sao? Bà biểu diễn bằng cách thức này, không dễ dàng.
能所兩忘“Năng sở lưỡng vong”(Năng Sở đều mất), năng niệm
là tâm, sở niệm là Phật, hoà nên một thể, Năng và Sở chẳng hai, Năng và Sở như
một, đó là kiến Tánh, Tự Tâm chính là Tự Tánh, hiện tiền rồi, minh Tâm kiến
Tánh. 從事持達理持,即凡心成佛心。淨宗之妙,全在於此 “Tùng Sự trì đạt
Lý trì, tức phàm tâm thành Phật tâm. Tịnh tông chi diệu, toàn tại ư thử” (Từ Sự trì đạt Lý trì, tức tâm
phàm trở thành tâm Phật. Sự nhiệm mầu của Tịnh tông: đều ở nơi đây). Những
Pháp môn khác không có sự huyền diệu này, không có dễ dàng đến thế, không có
đơn giản đến thế, đó chính là phương tiện rốt ráo, phương tiện đến cực điểm.
Nam nữ già trẻ, hiền ngu bất tài, người nào cũng có thể thành tựu. Chúng tôi ở
trước điều này, các đồng học mọi người đều biết, có bé gái nhỏ 10 tuổi niệm Phật
vãng sanh, cháu bé niệm suốt 3 năm. Lúc cháu 7 tuổi, nghe ông nội của cháu niệm
Phật, trẻ em hiếu kỳ, Phật là gì? Thế giới Cực Lạc là gì? Ông nội kể cho cháu
nghe, nói với cháu rằng thế giới Cực Lạc tốt. Cô bé bèn hỏi: “Ông ơi, ông có thể
dẫn cháu đến thế giới Cực Lạc để thăm quan không?” Ông nội nói với cháu rằng:
ông không làm được. Cháu nói người nào mới được? “A Di Đà Phật mới được, cháu
ngày ngày niệm A Di Đà Phật, A Di Đà Phật sẽ đem cháu đi”. Cô bé ngày ngày bèn
niệm Phật, niệm suốt 3 năm, A Di Đà Phật tiếp dẫn cô bé vãng sanh. Nam nữ già
trẻ, hiền ngu bất tài, gặp được Pháp môn này thì không có ai không thành tựu. Gặp
được Pháp môn này đích thực là phước báo lớn, nhân duyên lớn, không đơn giản, bỏ
qua trước mắt thật là đáng tiếc. Bỏ lỡ những điều khác không kể làm chi, bỏ lỡ
điều này là lỡ lầm lớn, trăm ngàn muôn kiếp khó gặp gỡ. Cho nên Kinh điển, Chú
sớ, Chú Giải này đều là: lão Cư sĩ Hoàng Niệm Tổ, ở trong tất cả các Kinh Luận,
khai thị của Tổ sư Đại đức mà hội tập lại, [để] giải thích bộ Kinh điển này, để
chúng ta không sanh nghi ngờ, không dấy lo lắng, tin sâu chẳng nghi thì chúng
ta được lợi ích.
Lại
xem đoạn sau đây: 願佛廣演 Nguyện Phật quảng diễn (Mong Phật diễn thuyết rộng),
đây không phải là cảnh giới của mình, đó chính là cầu mong Phật thuyết minh chi
tiết, xem Kinh văn:
【惟願如來應正遍知。廣演諸佛無量妙剎。】 “Duy
nguyện Như Lai, Ứng, Chánh Biến Tri, quảng diễn chư Phật vô lượng diệu sát.” (Chỉ mong đức Như Lai, bậc Ứng
Cúng, Chánh Biến Tri, rộng diễn vô lượng cõi mầu nhiệm của chư Phật).
Đây
là điều mong cầu của Bồ-tát Pháp Tạng. Chúng ta xem lời chú giải của Niệm lão. 演Diễn chính là diễn thuyết, 宣說 “tuyên thuyết”. Như Lai, Ứng,
Chánh Biến Tri chính là trong mười hiệu如來、應供、正遍知,乃佛十號中之三號 “Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, nãi Phật thập hiệu trung chi
tam hiệu” (Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến
Tri là ba hiệu trong mười hiệu của Phật). Nói ba hiệu là đại biểu cho mười
hiệu, mười hiệu viên mãn. Đó là sự xưng tán đối với Phật, mười hiệu là Phật đức.
法藏菩薩陳明 “Phát Tạng Bồ-tát trần minh” (Bồ-tát Pháp Tạng trình bày rõ),
trần là từ cung kính [của] bề dưới đối với bề trên, chính là thuyết minh, 非我境界後,乃啟請世間自在王如來 “phi ngã cảnh giới hậu, nãi khải thỉnh Thế Gian Tự Tại Vương Như
Lai” (sau [câu] ‘không phải cảnh
giới của con’, là khải thỉnh Thế Gian Tự Tại Vương Như Lai), đây là thầy của
ngài, 為之廣演諸佛之無量勝妙剎土 “vị chi quảng diễn
chư Phật chi vô lượng thắng diệu sát độ” (vì con rộng diễn vô lượng cõi nước thù thắng nhiệm mầu của chư
Phật). Đây là nguyện vọng của ngài, bởi vì hoằng nguyện của ngài: là phổ độ
chúng sanh của lục đạo mười pháp giới trong cõi nước: của chư Phật mười phương,
khiến họ ngay trong một đời chứng đắc viên mãn Phật quả rốt ráo. Nguyện này
phát ra, đương nhiên phải kiến lập một Đạo tràng để họ có nơi chốn mà học tập, Đạo
tràng đó chính là cõi Phật, cõi nước chư Phật đều là Đạo tràng để độ chúng
sanh. Đại nguyện của ngài muốn viên mãn được, thì cần phải có nơi chốn tu học
thù thắng, cần phải tham khảo tất cả cõi nước chư Phật, ngài muốn biết tình trạng
trong tất cả cõi nước chư Phật, cầu mong thầy giúp đỡ ngài.
Chúng
ta xem tiếp văn sau: 思修滿願 Tư Tu mãn nguyện (Tư duy Tu tập mãn nguyện),
Kinh văn:
【若我得聞。如是等法。思惟修習。誓滿所願。】 “Nhược
ngã đắc văn, như thị đẳng pháp, tư duy tu tập, thệ mãn sở nguyện” (Nếu
con được nghe: các pháp như vậy, tư duy tu tập, thề trọn ước nguyện.)
Đoạn Kinh văn này chỉ có 16 chữ, 16 chữ này rất quan trọng. Trong
Chú Giải nói rằng: 此段大意為:法藏菩薩答曰,此義太深,超我境界 “Thử đoạn đại ý
vi: Pháp Tạng Bồ-tát đáp viết, thử nghĩa thái thâm, siêu ngã cảnh giới” (Đại ý của đoạn này là: Bồ-tát
Pháp Tạng đáp rằng, nghĩa này quá sâu, vượt qua cảnh giới của con), đây là
ý nghĩa của ba chữ “tự” đã nói trước. 若通俗,勉強可作水平解 “Nhược thông tục, miễn cưỡng khả tác thuỷ bình giải” (Nếu là thông thường, thì gắng
gượng có thể giải thích với mức độ), cảnh giới này con không có trình độ
này, ý nghĩa đó quá sâu, vượt quá trình độ của con, đây là lời chú nhỏ của Niệm
lão. 於是再度請佛廣說無量佛剎 “Ư thị tái độ thỉnh
Phật quảng diễn vô lượng Phật sát” (Thế nên lại thỉnh Phật rộng diễn vô lượng cõi Phật), đoạn
văn sau đó quan trọng, 我若聞後 “ngã nhược văn hậu” (nếu con nghe rồi), con
nghe được rồi, con sáng tỏ rồi, 定能如法修習,圓滿所願“định năng như pháp tu tập, viên
mãn sở nguyện” (chắc chắn có
thể tu tập đúng pháp, trọn vẹn ước nguyện). Nếu đã nghe rồi mà không tu được
thì cũng bằng như chưa nghe, sau khi nghe rồi làm thật, chân tu, thì mới viên
mãn bổn nguyện. 我若得聞如是等等妙剎及其攝取之法 “Ngã nhược đắc
văn như thị đẳng đẳng diệu sát cập kỳ nhiếp thủ chi pháp” (Nếu con được nghe các cõi nhiệm
mầu như vậy và cách thức để nhiếp thủ đó), nhiếp thủ chính là phương pháp
giáo hoá chúng sanh, 我當思惟修習,誓當圓滿我之所願 “ngã đương tư duy
tu tập, thệ đương viên mãn ngã chi sở nguyện” (con sẽ tư duy tu tập, thề sẽ viên mãn ước nguyện của con).
Đây là thuyết rõ tại sao con muốn biết, sau khi biết rồi con nỗ lực tu học, [bởi]
con muốn xây một Đạo tràng: quảng độ tất cả chúng sanh tội khổ trong mười
phương, đó là bổn nguyện của A Di Đà Phật. Nói cách khác, xây cõi Phật, tu
hành, chứng quả, chứng quả chính là thành Phật, đều không phải vì mình, vì ai?
Vì những chúng sanh của mười pháp giới trong tất cả cõi nước chư Phật: trong mười
phương ba đời, là vì điều này. Giúp đỡ họ rời khỏi lục đạo luân hồi, rời khỏi
mười pháp giới, đều sanh đến thế giới Cực Lạc để tu học.
Phương
pháp mà tất cả chư Phật trong mười phương ba đời giáo hoá chúng sanh, ngài học
biết hết cả rồi, nơi tu học ra sao thì mới thích hợp cho người tu hành, ngài
cũng hoàn toàn có thể kiến lập, kiến lập Đạo tràng, Đạo tràng đó chính là thế
giới Cực Lạc. Tại thế giới Cực Lạc, chúng ta nhìn thấy trong Kinh có câu, A Di
Đà Phật ở trong đó làm gì? Trong Kinh Di Đà nói rất hay: 今現在說法 “Kim hiện tại thuyết pháp” (Hiện nay đang thuyết pháp). Thân hành ngôn giáo, thân hành
là hoàn cảnh, Y chánh trang nghiêm của thế giới Cực Lạc, [là] hoàn cảnh; hiện
đang thuyết pháp là dạy dỗ, có hành có giải, giải hành chẳng phải hai. Cho nên
[ở] nơi đó thành tựu nhanh chóng, mỗi một đồng học đều là tấm gương tốt trong
tu hành, mọi người đều nương A Di Đà Phật dạy học để tu hành, tu sửa lỗi lầm của
hành vi thân–khẩu–ý. Cho nên, “thệ mãn sở nguyện”, mãn nguyện vọng của
ngài, nguyện vọng này tốt, không có tự tư tự lợi.
Đoạn
tiếp theo là Phật đáp ứng lại, 佛為宣演 “Phật vị tuyên diễn”(Phật tuyên diễn cho). Trong
này lại chia thành hai đoạn, đoạn thứ nhất知機 Tri cơ (Biết cơ
duyên), cơ là cơ duyên, duyên chín muồi rồi, Thế Gian Tự Tại Vương
Như Lai: trong tâm đã hướng về người học trò ở ngay trước mặt. Chúng ta xem
Kinh văn:
【世間自在王佛知其高明。志願深廣。】 “Thế
Gian Tự Tại Vương Phật tri kỳ cao minh, chí nguyện thâm quảng” (Đức
Phật Thế Gian Tự Tại Vương biết ngài cao minh, chí nguyện sâu rộng).
Trong
Chú Giải nói rằng: 高者,上也,崇也,遠也 “Cao giả, thượng
dã, sùng dã, viễn dã” (Cao: là
trên, là trọn, là xa), có ba ý nghĩa này. 明者,光也,照也,通也 “Minh giả, quang dã, chiếu dã, thông dã.” (Minh: là sáng suốt, sáng sủa,
chiếu soi, thông suốt). 《會疏》曰 “Hội Sớ viết” (Trong Hội Sớ nói),
giải thích trong Hội Sớ: 高明“Cao minh” là nói đức, trí,
đức, đức cao trí sáng. 深廣“Thâm quảng” là nói nguyện
tâm của ngài, đại nguyện mà Pháp Tạng phát sâu rộng vô tận. Sau đó Niệm lão giải
thích cho chúng ta: 謂持戒禪定,超勝世間,故謂高 “Vị trì giới thiền
định, siêu thắng thế gian, cố vị cao” (Nói về giữ giới và thiền định: vượt hơn thế gian, nên gọi là
cao), ngài chân tu. 方便般若,照究諸法 “Phương tiện Bát-nhã, chiếu cứu chư
pháp” (Phương tiện Bát-nhã: soi tận
các pháp), đó là minh, Phương tiện Bát-nhã là khởi dụng của Bát-nhã. 遠徹來際無撓 “Viễn triệt lai tế vô nạo” (Thấu suốt tận xa thời vị lai không nhiễu), trong ngoặc đơn
nói rằng: 謂能遠究達於未來之極處 “Vị năng viễn cứu
đạt ư vị lai chi cực xứ” (Là có thể thấu
suốt đối với tận cùng thời vị lai), mà không có chướng ngại, không bị cản
trở, ý nghĩa đó gọi là thâm. 周遍攝一切無遺 “Chu biến nhiếp nhất thiết vô di” (Nhiếp trọn khắp tất cả không sót), trọn khắp pháp
giới, nhiếp thọ tất cả chúng sanh không có ai bỏ sót, đó gọi là quảng.
Chỗ
này chúng ta phải ghi nhớ, A Di Đà Phật từ bi, ngài Pháp Tạng ở thế giới Cực Lạc
thành Phật: đã qua mười kiếp. Trong đó nói về bổn nguyện của Ngài, Ngài nhiếp
thọ chúng sanh không sót một ai, thế tại sao chúng ta không thể vãng sanh? Sở
dĩ chúng ta không thể vãng sanh, vì chúng ta không phù hợp điều kiện mà Ngài
yêu cầu. Điều kiện mà Ngài yêu cầu, Đại sư Ngẫu Ích nói rất hay, có thể vãng
sanh hay không: hoàn toàn ở có tín nguyện hay không. Tín tâm của chúng ta có vấn
đề, nguyện tâm của chúng ta có vấn đề: thì không tương ưng. Tín tâm của chúng
ta có nghi ngờ, nguyện tâm của chúng ta còn lưu luyến thế giới này, không muốn
đi.
Chúng
ta xem lão Hoà thượng Hải Hiền, ngài đối với thế gian này không có lưu luyến,
thấy từ chỗ nào? Thấy từ ngày sinh nhật 112 tuổi của ngài. Có không ít tín đồ
đi đến chùa để mừng sinh nhật cho ngài, làm một bữa cơm chay, lão Hoà thượng hoàn
toàn không ăn. Vả lại hôm đó ngài không nói năng, biểu hiện không có vẻ cười,
chẳng như ngày thường hoan hoan hỷ hỷ, cuối cùng ngài chỉ ăn một bát mì lá mè.
Mì lá mè mà người ta đem đến, chúng tôi đã thưởng thức rồi, lão Hoà thượng bình
thường chỉ ăn những món đó. Sau khi tôi ăn xong cảm giác đầu tiên là khả năng
tiêu hoá trong đường ruột lão Hoà thượng mạnh, tại sao? Món đó không dễ tiêu
hoá. Món đó cứng hơn rau xanh thông thường của chúng ta, thô hơn, ngài ăn món đó
mà có thể tiêu hoá, chứng tỏ sức khoẻ ngài rất tốt. Là không có vị gì, ngài
quen rồi, đối với ẩm thực, quả thật, ăn cho no là được, không có bất cứ ưa chuộng
gì. Thế là hiểu ra, việc ăn mặc đi ở của ngài hết thảy đều là vừa chừng đúng mực,
trong lòng không có những thứ này. Chúng ta thì thế nào? Chúng ta đối với điều
này còn có cầu kỳ, còn phải bắt bẻ, đó chính là đối với thế gian này không
buông xuống, ngài buông xuống hết thảy.
Buông
xuống tình thân rồi, khi lão nhân còn tại thế, ngài còn có em gái, xuất gia rồi,
ngài có chị gái đã qua đời, em gái xuất gia: dẫn theo con nhỏ xuất gia chung.
Anh chị em tổng cộng có năm người, ba người không còn sống nữa, anh cả, anh
hai, chị cả cũng qua đời, không có vướng mắc tình thân. Những đồng tham xưa, bạn
bè cũ, trước vãng sanh một tháng ngài đã đi chào hỏi, đều đi thăm hết một lượt.
Đó có phải tình thân không? Không phải, thế ngài làm gì? Độ chúng sanh. Quý vị
trông tôi xem, tôi khoẻ mạnh đến thế, qua mấy ngày là đi, làm chứng minh cho mọi
người thế giới Cực Lạc có thật, A Di Đà Phật có thật, không phải giả. Tăng trưởng
tín tâm của mọi người, khích lệ mọi người phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ, thế giới
Ta Bà khổ, đi đến thế gian này là biểu pháp, chính xác, làm tấm gương cho người
khác thấy, giúp người giác ngộ, giúp người phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ. Cho
nên ngài là độ chúng sanh, khởi tâm động niệm, ngôn ngữ tạo tác: toàn là độ
chúng sanh, giúp đỡ chúng sanh kiên định tín tâm, kiên cố nguyện tâm, chăm chỉ
niệm câu Phật hiệu này, buông xuống vạn duyên, thì Tịnh Độ sẽ hiện tiền.
Sau
đây, Phật vì ngài mà diễn thuyết, thuyết pháp còn phải hiện cõi nước, mời xem
Kinh văn:
【即為宣說二百一十億諸佛剎土功德嚴淨廣大圓滿之相。應其心願。悉現與之。說是法時。經千億歲。】 “Tức vị
tuyên thuyết nhị bá nhất thập ức chư Phật sát độ công đức nghiêm tịnh quảng đại
viên mãn chi tướng. Ứng kỳ tâm nguyện.
Tất hiện dữ chi. Thuyết thị pháp thời. Kinh thiên ức tuế” (Liền tuyên thuyết cho các tướng
công đức trang nghiêm, thanh tịnh, rộng lớn, viên mãn của 210 ức cõi nước chư
Phật, ứng với tâm nguyện của ngài, thảy hiện cho thấy. Khi nói pháp ấy, trải
qua ngàn ức năm).
Thời
gian thuyết pháp dài, câu đầu tiên chính là nói rõ, là nói trong bao lâu? “Thiên
ức tuế”, tức là ngàn ức năm. Kinh văn, chúng ta xem Chú Giải: 即為宣說,表佛說法 “Tức vị tuyên thuyết, biểu Phật thuyết pháp” (Liền tuyên thuyết cho, là biểu thị Phật thuyết
pháp). Mỗi một tôn Phật xuất hiện ở thế gian, đều là vì người mà nói pháp,
hiện nay đang thuyết pháp. Bởi vì thính chúng đông, người thuộc các loại căn
tánh khác nhau đều có, đến đó để thấy Phật là vì sao? Thỉnh Phật chỉ giáo. Phật
không ngại gian khổ, không có nhọc nhằn, cũng không mệt mỏi, chỉ cần nhìn thấy
chúng sanh có duyên hiện tiền, thì Ngài hoan hỷ thuyết pháp. Không những thuyết
pháp nói cho ngài, mà còn “tất hiện dữ chi”, Phật dùng thần lực đem mười
phương thế giới: đều khiến Bồ-tát Pháp Tạng nhìn thấy hiện tiền. Như chúng ta
hiện nay dùng truyền hình, ở trong truyền hình có thể nhìn thấy, Phật không cần
dùng những công cụ máy móc ấy, Ngài có năng lực đem tất cả cõi nước chư Phật
trong mười phương: từng cõi từng cõi hiện ra trước mặt quý vị, khiến quý vị cẩn
thận mà quan sát, quý vị không nhìn thấy, Phật giảng giải cho quý vị, để quý vị
nhìn được, nghe được.
Trong
suốt thời gian lâu như thế, 世間自在王佛宣說示現二百一十億諸佛剎,功德莊嚴清淨廣大圓滿之相 “Thế Gian Tự Tại Vương Phật tuyên thuyết thị hiện nhị bá nhất thập ức
chư Phật sát, công đức trang nghiêm thanh tịnh quảng đại viên mãn chi tướng” (Thế Gian Tự Tại Vương Phật
tuyên thuyết và thị hiện 210 ức cõi Phật, [về] các tướng công đức trang nghiêm,
thanh tịnh, rộng lớn, viên mãn). 嚴淨,莊嚴清淨“Nghiêm tịnh, trang nghiêm thanh tịnh”(Nghiêm tịnh: là trang nghiêm
thanh tịnh). 圓滿“Viên mãn”, viên là trọn khắp,
性體周遍為圓 “tánh thể chu biến vi viên” (tánh thể trọn khắp là viên).
滿者,具足之義 “Mãn giả, cụ túc chi nghĩa” (Mãn: có nghĩa là đầy đủ),
tất cả đầy đủ. Như Đại sư Huệ Năng khi khai ngộ đã nói năm câu, câu thứ ba là
nói rằng何期自性,本自具足 “Hà kỳ Tự Tánh, bổn tự cụ túc” (Ngờ đâu Tự Tánh, vốn tự đầy đủ),
đầy đủ điều gì? Vốn tự đầy đủ tức là đầy đủ viên mãn, đầy đủ Tánh Đức, Đức dụng
vốn đủ trong Tự Tánh. Đức Thế Tôn trong Kinh Hoa Nghiêm đã nói một câu,
có thể làm chú giải, Phật nói: 一切眾生皆有如來智慧、德、相 “Nhất thiết chúng
sanh giai hữu Như Lai trí huệ, đức, tướng” (Tất cả chúng sanh đều có trí huệ, đức, tướng của Như Lai),
đây chính là điều Tự Tánh vốn tự đầy đủ. Trong Tự Tánh của mỗi người Chúng ta,
trí huệ bình đẳng với Phật, đều như nhau, đức năng như nhau, tài nghệ như nhau,
tướng hảo như nhau, không có một dạng nào không bình đẳng, Phật có gì thì Tự
Tánh chúng ta có hết. Do đó giáo học của Phật giáo, mục tiêu cuối cùng là minh
Tâm kiến Tánh, Phật không hướng ngoại cầu, bên ngoài không có thứ gì cả. Tất cả
các pháp sanh từ tâm tưởng, không có tâm tưởng thì căn bản không có tất cả
pháp, điều này được các nhà Cơ học lượng tử hiện đại chứng minh. Câu này quan
trọng, tất cả các pháp sanh từ tâm tưởng, tâm tưởng làm Phật sẽ thành Phật, tâm
tưởng làm người thì sẽ như một người, tâm tham là quỷ, sân khuể là địa ngục,
ngu si là súc sanh, người là nhân–nghĩa–lễ–trí–tín.
Nho
gia bên Trung Hoa nói Ngũ thường, chính là năm loại đức, Ngũ luân là đạo, Ngũ
thường là đức. Đạo là tự nhiên, không phải do nhân tạo, vốn dĩ là vậy, đó là đạo.
Cha con có tình thân là đạo, vua tôi có nghĩa là đạo, lớn nhỏ có thứ tự, vợ chồng
có phân biệt, bạn bè có chữ tín, đó đều là đạo, không phải do người phát minh,
không phải do người sáng tạo, vốn dĩ là vậy. Người [mà] một đời này có thể tuỳ
thuận đạo thì gọi là đức. Tuỳ thuận, quý vị xem Ngũ đức: nhân, nghĩa, lễ, trí,
tín, chính là Ngũ giới của nhà Phật, Ngũ giới là đức, không sát sanh là nhân,
không trộm cướp là nghĩa, không tà dâm là lễ, không vọng ngữ là tín, không uống
rượu là trí. Đức là điều mà Thánh nhân kiến lập cho chúng ta, hoàn toàn tương
ưng với đạo, đến từ chỗ nào? Do đó đạo đức gắn lại với nhau, có đạo đức đó
chính là người, đạo đức hướng thượng nâng lên chính là cõi trời. Tổ tiên xưa của
Trung Hoa hiểu được, giữ gìn Ngũ luân, Ngũ thường, sau đó lại triển khai ra là
Tứ duy, Bát đức, văn hoá truyền thống Trung Hoa chính là bốn khoa: Ngũ luân,
Ngũ thường, Tứ duy, Bát đức. Trong bộ 《四庫全書》 Tứ Khố Toàn Thư đó nói điều gì?
Là nói điều này. Bốn khoa này cộng lại gồm mười hai chữ: hiếu–đễ–trung–tín, lễ–nghĩa–liêm–sỉ,
nhân–ái–hoà–bình, là 12 chữ này. Mười hai chữ này làm được chính là Thánh nhân,
là Hiền nhân, không làm được viên mãn, đó là Quân tử. Đó là văn hoá truyền thống
Trung Hoa, có thể nối quỹ đạo với Phật pháp Đại thừa. Phật pháp Đại thừa đem
văn hoá truyền thống Trung Hoa nâng cao hướng lên, nâng lên bình đẳng với cảnh
giới của Phật Bồ-tát. Tiến sĩ Toynbee người Anh đã nhìn ra, những thứ này có thể
cứu toàn thế giới, có thể cứu toàn nhân loại. Chúng ta phải học tập, không học
tập, cứ tuỳ thuận tập khí phiền não, quả báo chắc chắn ở tam đồ.
Phật
dạy cho chúng ta thấu triệt hơn nhà Nho giảng, giảng rõ ràng hơn, ba độc phiền
não tham–sân–si có hay không? Chúng ta suy xét, có. Có thì có phiền phức, quả
báo của tham–sân–si là ba đường ác: sân khuể là địa ngục; tham dục là ngạ quỷ;
ngu si là súc sanh, ngu si là không có trí huệ. Tất cả các giới luật: đều là
phương pháp để đoạn tham–sân–si, không thể có những điều này. Vô tham, vô sân,
vô si gọi là ba thiện căn, tất cả thiện pháp thế–xuất thế gian: sanh ra từ căn
này. Tam đồ lục đạo là sanh ra từ tham–sân–si, ngược lại với ba độc chính là ba
điều thiện. Chúng ta nên đi con đường nào? Đi thế nào là nằm ở nơi khởi tâm động
niệm ngay trong đời sống hàng ngày. Chúng ta khởi tâm động niệm, điều quan trọng
nhất là tập khí, tập khí khi đang phát tác thì tự mình không nhận biết, nhưng tập
khí ấy sẽ khởi tác dụng, khi chúng ta xả báo, tức là khi lâm chung, nó sẽ khởi
tác dụng. Nó sẽ dẫn dụ chúng ta đi đến ba đường ác, quý vị nói đáng sợ biết
bao.
Do
vậy, tu hành chân chánh là tu hành ở đâu? Tu hành trong sáu căn tiếp xúc cảnh
giới sáu trần, mắt thấy sắc, nhìn thấy rõ ràng, nhìn thấy minh bạch, đó là trí
huệ, Bát-nhã đang soi, soi chiếu rõ ràng, tu điều gì? Tu đừng Khởi tâm động niệm.
Không được, không kiểm soát được Khởi tâm động niệm, không phải là cảnh giới của
chúng ta, đó là cảnh giới của Pháp thân Đại sĩ, thấy sắc, nghe thanh các ngài
như như bất động, không Khởi tâm không Động niệm, [là] Pháp thân Bồ-tát. Xuống
dưới Pháp thân Bồ-tát đều sẽ khởi tâm động niệm, nhưng mà như thế nào? Các vị ấy
không có Phân biệt, không có Chấp trước, đó là Bồ-tát. Lại xuống một bậc nữa,
các ngài có Phân biệt nhưng không Chấp trước, đó là A-la-hán. Khởi tâm động niệm,
Phân biệt, Chấp trước có hết thảy, thì đó là phàm phu lục đạo, trời và người
cũng không ngoại lệ, cũng là phàm phu lục đạo, không ra khỏi sáu đường luân hồi,
vô cùng đáng sợ.
Phần sau圓足“viên túc” này: là đầy đủ viên mãn. 故知圓滿即華嚴宗圓明具德之義 “Cố tri viên mãn tức Hoa Nghiêm tông viên minh cụ đức chi nghĩa” (Nên biết viên mãn chính là nghĩa của tròn sáng đủ đức trong Hoa Nghiêm tông). Câu thứ ba trong năm câu của Đại sư Lục tổ: “Hà kỳ Tự Tánh, bổn tự cụ túc”, với điều này là một ý nghĩa, hoàn toàn giống nhau. Do đó chúng ta cầu trí huệ, cầu phước báo, cầu tài nghệ đều phải cầu từ bên trong, [chứ] bên ngoài không có, bên ngoài là giả thôi. Phật Bồ-tát hoàn toàn là dùng nội công, dùng phương pháp gì? Dùng Giới–Định–Huệ. Dùng Giới–Định–Huệ có thể cầu được những điều thật, không dùng Giới–Định–Huệ chỉ cầu những thứ giả, không phải là thật. Ngày nay khoa học kỹ thuật toàn là hướng ngoại cầu, không biết hướng nội cầu, cho nên họ có thể được thọ dụng, nhưng có hạn chế. Quý vị nói không có Thiên nhãn, dùng kính viễn vọng có thể nhìn thấy được xa, đó là giả, người ta không cần dùng những thứ đó, mà có thể nhìn xa, chúng ta vẫn cần những thứ đó. Quý vị hiểu rằng khoa học là mượn ngoại lực, rất là hữu hạn, trợ giúp rất có hạn. Phật Pháp dùng nội công, khiến chúng ta tự khôi phục sáu loại năng lực: Thiên nhĩ, Thiên nhãn, Tha tâm, Túc mạng, Thần túc, Lậu tận, thật được thọ dụng, thật được đại tự tại, không thể không bTỊNH ĐỘ ĐẠI KINH KHOA CHÚ 2014
(Giảng lần thứ 4)
Tập 158
Hòa thượng Thích Tịnh Không chủ giảng.
Giảng tại: Hiệp Hội Giáo Dục Phật Đà Hồng Kông.
Thời gian: Ngày 5 tháng 1 năm 2015.
Dịch giả: Cự Lang.
Giảo chánh: Thích Thiện Trang.
Kính chào chư vị Pháp sư,
chư vị đồng học, mời ngồi. Mời mọi người quy y Tam Bảo cùng với tôi: 阿闍黎存念,我弟子妙音,始從今日,乃至命存,皈依佛陀,兩足中尊;皈依達摩,離欲中尊;皈依僧伽,諸眾中尊。“A-xà-lê tồn niệm, ngã Đệ tử Diệu
Âm, thuỷ tùng kim nhật, nãi chí mạng tồn, quy y Phật-đà, lưỡng túc trung tôn;
Quy y Đạt-ma, ly dục trung tôn; Quy y Tăng-già, chư chúng trung tôn. (3 lần)
Mời
xem Đại Kinh Khoa Chú, trang 417 hàng số 1, chúng ta xem từ câu thứ 2:
更加以外聖易信,己靈難明 “Cánh gia dĩ ngoại Thánh dị tín, kỷ linh nan minh” (Thêm nữa bậc Thánh bên ngoài
[thì] dễ tin, còn [tánh] linh của mình [thì] khó rõ). Hôm trước chúng ta học
đến chỗ này. Hai câu này rất quan trọng, chúng ta học Phật không có hiệu quả rõ
rệt, vấn đề nằm ở đâu? Chính là mấy chữ này. Chính mình học Pháp môn này học rất
lâu, không hiệu quả, nhìn thấy người khác học Pháp môn này khá, học dường như
có tác dụng. Có tác dụng thật phải không? Thật đấy, không phải giả đâu. Tại
sao? Hiệu quả được sản sinh vẫn luôn là tín lực của mình, với chính mình vốn do
niềm tin có nghi ngờ, cho nên họ có chướng ngại. Hiện giờ ta tin tưởng những gì
ở người khác, ta không có nghi ngờ, cho nên lòng tin của mình: tương ưng với
hành môn kia, thì như thế được thành tựu. Nếu chúng ta có tín tâm với người
ngoài, lại quay về tin lại chính chúng ta, thì hiệu quả sẽ thù thắng hơn. Tại
sao không thể tin chính mình? Trong kinh nói hay lắm, Phật nói rất hay, Pháp
môn này là pháp khó tin. Lại thêm có tập khí phiền não của mình rất nặng nữa, học
suốt cả đời mà không có cảm ứng, không biết trong tín tâm của mình: có xen tạp
bao nhiêu Vọng tưởng, có bao nhiêu tạp niệm, từ trong Vọng tưởng, tạp niệm, lại
sinh sôi ra nhiều nghiệp chướng nghiêm trọng, đây mới là nguyên nhân. Nhìn thấy
những điều khác lạ lẫm, thì lập tức tin tưởng, chấp nhận, Vọng tưởng, tạp niệm
này vẫn không tăng tiến lên, linh nghiệm, thật linh nghiệm. Nếu đã học 2-3 năm
rồi thì không linh nghiệm, vì sao không linh nghiệm? Bởi Vọng tưởng tạp niệm của
quý vị tăng tiến lên, đạo lý nằm ở chỗ này. Trong Kinh này Niệm lão nói hay lắm,
“ngoại Thánh dị tín, kỷ linh nan minh”, “kỷ linh” với “ngoại Thánh” phải
dung hợp thành một thể thì vấn đề mới giải quyết.
Chúng
ta ngày nay nói tin Phật, tin A Di Đà Phật, trong niềm tin đó có vấn đề, đầy rẫy
Vọng tưởng, tạp niệm, thế làm sao linh nghiệm? Nếu muốn biết A Di Đà Phật chính
là chính mình, linh tánh của chính mình: đó là Tự Tánh của A Di Đà Phật, vốn dĩ
là một không phải hai, quyết trọn một lòng: không có một mảy may nghi ngờ.
Không có nghi ngờ xem từ chỗ nào? Đó chính là khi niệm Phật không có Vọng tưởng,
không có tạp niệm, đó chính là thật tin. Một mặt niệm một mặt khởi Vọng tưởng,
còn có tạp niệm tiến tới, thế thì mình phải tự đề cao cảnh giác, chính ta có vấn
đề với Pháp môn này. Vấn đề đến từ hai khía cạnh, một là nghiệp chướng chính
mình quá nặng, không có phước phận to lớn như vậy. Phật giới thiệu cho chúng ta
Pháp môn này, nói rất rõ ràng, ai tin tưởng Pháp môn này? Người có trí huệ lớn
tin tưởng, chúng ta không có trí huệ lớn; người có phước báo lớn tin tưởng,
chúng ta không có phước báo. Chính là trong Kinh Di Đà nói: nhiều thiện
căn chính là trí huệ lớn, nhiều phước đức là phước báo lớn. Thiện căn, phước đức
không phải là tu trong một đời này, là tích luỹ trong đời đời kiếp kiếp quá khứ,
nghe thấy thì tin tưởng không có nghi ngờ, đem tất cả của mình buông xuống hết,
tất cả đều dựa vào A Di Đà Phật.
Tôi
có thể tin tưởng một điểm này, mạnh hơn chư vị một chút, là do hồi trẻ Đại sư
Chương Gia dạy cho tôi. Ngài ấy dạy tôi: hoàn toàn dựa vào Phật lực, bản thân đối
với chính mình đừng nghĩ ngợi gì hết, kính dâng thân thể này cho Phật Bồ-tát, tất
cả Phật Bồ-tát làm chủ. Ngài nói với tôi, quý vị đừng có dấy khởi tâm gì cả, một
đời quý vị [để] Phật Bồ-tát an bài thay quý vị, bất luận là thuận cảnh nghịch cảnh:
thảy là Phật Bồ-tát an bài tốt cho quý vị, đối với quý vị đều có lợi ích. Thuận
cảnh tiêu phước báo, nghịch cảnh tiêu nghiệp chướng. Nghiệp chướng, phước báo hết
thảy tiêu trừ, tâm thanh tịnh Tự Tánh hiện tiền, chuyện là như thế. Phước báo
cũng không phải là chuyện tốt, trí huệ cũng không phải là chuyện tốt, trí huệ
là Vọng tưởng, phước báo là nghiệp chướng, hưởng phước hưởng hồ đồ luôn, trí huệ
không còn nữa, tham muốn hưởng thụ vật chất thế thì tạo nghiệp rồi. Tất cả Phật
Bồ-tát an bài, tâm thái của chính chúng ta như thế nào? Tuỳ duyên, biết Phật an
bài thay ta, hoan hỷ tiếp nhận. Tín nguyện trì danh, lão thật niệm Phật, cầu
sanh Tịnh Độ, thì không sai. Phải hiểu được lý này.
Khoảng
chừng 30 năm trước, khi đó tôi đang sống ở Mỹ, có một lần trúng gió cảm mạo,
các đồng tu đưa tôi vào một bệnh viện nhỏ, Bác sĩ là người Trung Quốc, khám bệnh
cho tôi, kê một chút thuốc. Tôi nói chuyện với Bác sĩ, Bác sĩ cũng là người Đài
Loan di dân sang trước đây, tôi cười đùa nói chuyện với ông, kỳ thực là nói thật
lòng. Bác sĩ chữa bệnh cho bệnh nhân khỏi, nhờ vào đâu? Không phải nhờ vào thuốc
thang, thuốc thang là tăng thượng duyên, nguyên nhân thật sự là tâm lý. Bệnh
nhân tin tưởng Bác sĩ, Bác sĩ tin rằng mình có thể chữa khỏi cho bệnh nhân, tín
tâm thành tựu trong hai khía cạnh đó. Nếu bệnh nhân nghi ngờ Bác sĩ thì dù thuốc
hay mấy cũng sẽ không linh nghiệm; Bác sĩ nghi ngờ với bệnh nhân thì họ không
làm việc được. Tôi nói đạo lý này ra cho ông nghe, ông gật đầu thừa nhận có đạo
lý, vốn dĩ chính là như thế.
Người
thật sự có trí huệ, có phước đức, họ có tâm thái như thế nào? Tâm họ là định, bất
động, bất luận là thuận cảnh, nghịch cảnh họ đều bất động, họ trụ ở trong định.
Định khởi tác dụng là trí huệ chân thật, bản thân định chính là phước đức,
trong phước sanh huệ. Cho nên, cổ nhân Trung Hoa có câu nói rằng: 福至心靈 “Phước chí tâm linh” (Phước tột cùng thì tâm linh nghiệm), phước báo đến, thì bỗng
nhiên thông minh ra, bèn có trí huệ, chính là đạo lý như vậy.
Cho
nên ý nghĩa của hai câu này rất sâu, chúng ta phải từ từ mà thể hội. Khi nào
thì linh tánh của chính chúng ta hiện tiền? Tin tưởng thì hiện tiền, không tin
thì chướng ngại rồi. Linh tánh hiện tiền hay không: đều chi phối ở chính mình,
không ở bên ngoài. Do vậy Phật nói: 法門平等,無有高下 “Pháp môn bình đẳng, vô hữu cao hạ” (Pháp môn bình đẳng, không có
cao thấp), lời này là thật. Quý vị có nghi ngờ đối với Phật, tin tưởng với
Chúa Jesus, Jesus Ki-tô bên đó chắc chắn linh, Phật thì không linh. Quý vị tin
tưởng Phật, khi quý vị nghi ngờ đối với Chúa Ki-tô thì Phật nhất định linh,
Chúa Ki-tô nhất định không linh. Trên thực tế bên ngoài có linh không? Không
có, hoàn toàn là chính mình, tin thì linh, không tin thì không linh, là chân lý
vĩnh viễn bất biến. Cổ Thánh tiên Hiền nói với chúng ta, cả đời này chúng ta có
thể có chứng quả hay không: quyền không nằm ở bên ngoài, [mà] hoàn toàn chi phối
ở trong tay chính mình. Nếu người có thể thật sự quay đầu, tự mình có thể nắm
quyền thế, thì không có một ai không chứng quả.
Lão
Hoà thượng Hải Hiền là một người rất bình thường, một người rất phổ thông,
không có trí huệ hơn người, không có phước báo hơn người, cả đời dựa vào sức
lao động của mình để sinh sống, đích thực là một ngày không làm thì một ngày
không ăn. Môi trường tu học là ngôi chùa nhỏ trong làng quê, không có người đến
thắp nhang, không có người đi lạy Phật, cho nên trong chùa không có thu nhập.
Có mấy mẫu ruộng đất, nuôi không nổi ngôi chùa ấy, có năm người sống trong chùa
ấy, cực chẳng đã phải khai hoang, xung quanh chùa có rất nhiều đất núi không có
chủ, ngài bèn khai khẩn. Diện tích khai khẩn rất lớn, trồng lương thực, trồng
cây ăn trái, trồng rau củ, ngoại trừ có thể cung cấp cho trụ chúng trong Đạo tràng,
lại còn có dư. Tâm địa ngài từ bi, có dư thì không đem bán, mà hoàn toàn dùng để
cứu tế nghèo khổ. Nơi hoang vu hẻo lánh ấy người nghèo đông, người không có cơm
ăn chẳng ít, ngài cứu tế, phạm vi xung quanh mấy chục dặm đó, có những người khổ
nạn như vậy, đều là đối tượng để ngài cứu tế.
Tâm
địa thanh tịnh, không nhiễm mảy trần, ngài thành tựu thật rồi. Đã thành tựu
Công phu Thành phiến, [là] thành tựu nhỏ, Công phu Thành phiến chính là chúng
ta thường nói, trong tâm chỉ có một câu Phật hiệu, ngoại trừ Phật hiệu ra không
còn có bất cứ ý niệm gì, đó là thành một phiến. Có đoạn Phiền não không? Không
đoạn, chưa đoạn một phẩm nào cả, Công phu Thành phiến là khống chế được phiền
não, không khởi tác dụng, khởi tác dụng chính là một câu Phật hiệu A Di Đà Phật,
ngoại trừ A Di Đà Phật ra, ý niệm khác đều không có. Niệm Phật niệm đến công
phu này không khó, người bình thường 3 năm là thành tựu. 3 năm không thể thành
tựu, 30 năm không thể thành tựu, nguyên nhân là gì? Quý vị không buông xuống,
những việc quý vị chất chứa trong lòng quá nhiều, buông xuống là thành tựu;
không phải Pháp môn không linh, mà do quý vị chưa y giáo phụng hành. Ngài có thể
buông xuống thật. Điều khiến ngài khó buông xuống nhất, nói thật ra chính là
người mẹ già của ngài. Sau khi em trai qua đời, mẹ già không ai chăm sóc, ngài
đón mẹ mình đến Đạo tràng để cùng tu hành. Mẹ của ngài cũng là niệm Phật ăn
chay, từ nhỏ đã như thế rồi. Sống với nhau được 27 năm, cho đến khi bà cụ vãng
sanh. Do vậy, ngài đã buông xuống tình chấp, không còn chướng ngại nữa.
Công
phu Thành phiến, nói chung lại thì: A Di Đà Phật nhất định có cảm ứng với quý vị,
Thành phiến chính là cảm, lúc này Phật bèn đến ứng, hoặc là ở trong định, hoặc
là ở trong mộng. A Di Đà Phật đến nói với quý vị, đến thông báo cho quý vị, quý
vị đã đạt được điều kiện vãng sanh, quý vị vẫn còn thọ mạng, đợi đến khi quý vị
hết tuổi thọ, thì Phật đến tiếp dẫn quý vị. Lúc này quý vị quyết trọn một lòng
rồi, tại sao? Biết A Di Đà Phật có thật, đến rồi, quý vị càng dụng công hơn,
càng nỗ lực hơn. Nếu như 3 năm, 5 năm, có 3 năm, 5 năm tuổi thọ dài như thế, thì
rất có thể quý vị sẽ từ Công phu Thành phiến nâng lên đến Sự nhất tâm Bất loạn.
Sự nhất tâm Bất loạn chính là đoạn Kiến tư phiền não rồi. Đặc biệt là Tư hoặc,
Tư hoặc là gì? Tham–sân–si–mạn–nghi, quý vị không có năm chữ này nữa. Quý vị đối
với các pháp thế – xuất thế gian không có tham luyến; quý vị đối với người thiện,
người ác không có sân khuể; quý vị rõ ràng mọi điều, quý vị không mê hoặc;
khiêm tốn vì người, đãi người tiếp vật cung kính, khiêm nhường, không có kiêu mạn;
đối với sự tu hành của mình không có hoài nghi. Thật sự không có năm chữ này,
thì quý vị hiểu mình đã nâng cấp đến: Sự nhất tâm Bất loạn. Sự nhất tâm Bất loạn
vãng sanh, thăng cấp rồi, không ở Đồng Cư độ mà là ở Phương Tiện độ.
Vậy
vẫn còn tuổi thọ, lại còn 3 năm đến 5 năm, quý vị rất có thể nâng cấp đến Lý nhất
tâm Bất loạn. Lý nhất tâm Bất loạn chính là không có khởi tâm động niệm nữa,
quý vị mắt thấy tai nghe, nhưng không có Phân biệt–Chấp trước, ngay đến khởi
tâm động niệm cũng không có. Từ sáng đến tối suốt 12 thời, trong tâm rõ rõ ràng
ràng chỉ A Di Đà Phật, ngoại trừ A Di Đà Phật ra không có bất cứ gì nữa, điều
gì cũng biết, điều gì cũng không để ở trong tâm. Đó gọi là Lý nhất tâm Bất loạn,
chính là đại triệt đại ngộ, minh Tâm kiến Tánh trong Thiền tông. Ở trong cảnh
giới này, quý vị đã kiến Tánh, sau khi kiến Tánh, toàn thể Y chánh trang nghiêm
trong toàn thể mười pháp giới vũ trụ: đều là do từ Tự Tánh biến hiện ra, quý vị
nhìn thấy tánh rồi, tất cả tánh tướng, lý sự, nhân quả: của mọi pháp khắp pháp
giới hư không giới, quý vị biết hết cả, hoàn toàn thông suốt rõ ràng. Đây chính
là điều Sư phụ Truyền Giới của lão Hoà thượng Hải Hiền dạy cho ngài, niệm một
câu Nam Mô A Di Đà Phật này cứ niệm luôn luôn, minh bạch rồi, sự minh bạch này
chính là Lý nhất tâm Bất loạn. Nếu cảnh giới này hiện tiền, đặc biệt dặn dò
ngài: không được nói bừa, không thể nói. Ngài tuân giữ, ngài có trí huệ, không
lộ trí huệ, ngài có thần thông, chẳng hiện thần thông. Người bên ngoài nhìn thấy:
vĩnh viễn chỉ là một người thật thà, chất phác bình thường, một người niệm Phật.
Ngài thật sự có thể làm được tuỳ duyên bất biến, bất biến tuỳ duyên, ở lại thế
gian này, làm viên mãn lời dặn dò của A Di Đà Phật. Phật dặn bảo ngài làm một tấm
gương tốt cho người niệm Phật, cho người học Phật, ngài làm được rồi.
Vào
lúc biểu pháp viên mãn ấy, biểu pháp viên mãn, thì nhiệm vụ của ngài đã xong,
nhiệm vụ này: là nhiệm vụ trong thế giới Ta Bà, xong rồi, có thể Phật lại dặn
dò ngài đi đến thế giới phương khác để biểu pháp nữa. Nếu không dùng phương
pháp này, vẫn trụ tại thế gian, thì tác dụng biểu pháp đã không còn nữa, ngài
chỉ biểu diễn đến đây thôi, sau này không còn là chuyện của ngài nữa. Sẽ có người
biểu pháp khác, một người tiếp nối một người, toàn là do Phật Bồ-tát an bài.
Người thế gian là do nghiệp lực an bài, thiện nghiệp của họ [khiến] họ hưởng
phước, có địa vị ở trong xã hội, có giàu sang, ngũ phước lâm môn; không có phước
báo, thì nghiệp lực chi phối họ phải chịu khổ chịu nạn, toàn là do tự mình tạo.
Phật Bồ-tát phó thác cho: cũng là duyên phận trong đời trước, nếu ngài không có
duyên phận này: với người đời ở trong thế gian này, thì ngài cũng không thể tỏ
năng lực, ngài có duyên phận. Duyên phận cũng là có sự nhất định, đích thực như
thế tục đã nói: 一生皆是命,半點不由人“Nhất sanh giai thị mạng, bán điểm
bất do nhân” (Cả đời đều do số mạng, nửa chút
không phải do người). Chúng ta hiểu thấu được, thì tâm sẽ định, chúng ta sẽ
tin tưởng lời răn dạy của Phật Bồ-tát, khuyến cáo của các bậc Tổ sư Đại đức. Đối
với Pháp môn này, cả đời mình phải mong thành tựu, nhất định phải toàn tâm dốc
vào, tất cả do Phật Bồ-tát làm chủ, chính mình mãi mãi đều tuỳ duyên, tuỳ duyên
tiêu nghiệp cũ, nhất định không tạo nghiệp mới nữa, đối với chúng ta tín nguyện
trì danh, cầu sanh Tịnh Độ sẽ có ích lớn.
Chúng
ta xem tiếp phần sau, 是以具縛凡夫“thị dĩ cụ phược phàm phu”(vì thế hàng phàm phu đầy triền phược), phược là đại
từ chỉ phiền não, chúng ta là đầy đủ Kiến tư phiền não, Trần sa phiền não, Vô
minh phiền não, đích thực là phàm phu lục đạo chính cống. 但能信“Đãn năng tín”(chỉ cần tin được), đó chính
là một bước ngoặc lớn, có thể tin điều gì? 有世界名曰極樂“Hữu thế giới danh viết Cực Lạc”(Có thế giới tên là Cực Lạc),
chữ có này, [là] thật sự tin tưởng, chắc chắn không nghi ngờ. 其土“Kỳ độ”(Cõi đó), chính là thế giới Cực Lạc, 有佛,號阿彌陀“hữu Phật, hiệu A
Di Đà”(có Phật, hiệu là A Di Đà).
Quý vị chỉ cần tin hai chữ ‘có’ này, là có thật, chắc chắn không phải là giả.
Hai chữ có này: là do đức Thích Ca Mâu Ni Phật nói với chúng ta, đức Thích Ca
Mâu Ni Phật chắc chắn không có vọng ngữ. Trong Kinh Kim Cang nói, Như
Lai là đấng có năm lời: chân ngữ, thật ngữ, như ngữ, không vọng ngữ, không cuồng
ngữ, từng chữ từng câu đều là lời thành thật, chắc chắn không có lừa gạt chúng
sanh. Dùng lừa gạt để làm một cách thức dạy học, Phật tuyệt không dùng, tại
sao? Bị người ta phát hiện, quý vị lừa người ta một lần, có thể sẽ có lần thứ
hai, có thể có lần thứ ba. Cho nên, Phật đời đời kiếp kiếp chắc chắn không có vọng
ngữ, đưa lưỡi ra có thể che hết cả mặt, làm chứng minh cho mọi người bằng廣長舌相 quảng trường thiệt tướng (tướng lưỡi rộng dài). Hai chữ ‘có’ này quan trọng.
深信此兩個有字“Thâm tín thử lưỡng
cá hữu tự”(Tin sâu hai chữ ‘có’ này),
công phu của chúng ta không đắc lực, chính là đối với hai chữ ‘có’ này có nghi
ngờ. Tín tâm không đủ, chúng ta có tin, nhưng không có tin sâu, cho nên chúng
ta thường hay động tâm. Chúng ta nhìn thấy từ lão Hoà thượng Hải Hiền, ngài tin
sâu. Rất khó được, khi ngài 12 tuổi, trồng một trái bí đao, bị em họ của ngài
ăn trộm, ngài không biết. Ngài bèn nguyền rủa người, giống như niệm chú, tiếng
nguyền nhỏ: “Ai trộm bí đao của ta, thì cho họ nổi nhọt bệnh nặng”, chính là niệm
một câu như thế. Niệm suốt 3 ngày, em họ của ngài quả thật nổi nhọt bệnh rồi.
Bà thím biết được bèn tìm đến ngài: Con đừng có niệm nữa, em trai con chỉ lấy
có một trái bí đao thôi, [mà] con nguyền rủa bây giờ nó bị nhọt đau bệnh nặng
không dậy khỏi giường được. Ngài nghe rất kinh ngạc, vội chuyển niệm rằng: “Mau
cho em khoẻ đi, mau cho em khoẻ đi”, em họ quả nhiên khoẻ rất nhanh. Từ chỗ này
ngài đã sáng tỏ, niệm lực không thể nghĩ bàn. Tại sao ngài niệm linh, còn quý vị
niệm không linh? Ngài niệm là chuyên tâm niệm, một lòng xưng niệm nên linh; quý
vị trong khởi tâm động niệm còn xen tạp rất nhiều Vọng tưởng, rất nhiều tạp niệm,
không phải không linh, mà năng lượng không đủ. Nếu quý vị nhất tâm chuyên niệm,
thì nhất định sẽ có tác dụng như vậy. Đó là nói rõ điều gì? Tất cả các pháp
sanh từ tâm tưởng.
Niệm
để một người sanh bệnh, rồi lại niệm cho họ khôi phục bình thường thì họ khôi
phục bình thường. Từ điểm này quý vị dần dần triển khai, bất luận sanh bệnh tật
gì đi nữa, bệnh nhỏ bệnh lớn, đến từ đâu? Do niệm lực không chính đáng tạo nên.
Quý vị sáng tỏ đạo lý này, đoan chánh tâm niệm thì sẽ không có bệnh, thật đấy,
không phải giả đâu. Chúng ta còn có bệnh, thường xuyên hướng nội suy xét, tâm của
ta có vấn đề, khởi tâm động niệm không thuần, tuy có thiện niệm, trong thiện niệm
còn xen tạp những ý niệm bất thiện. Là gì? Có ý niệm tự tư tự lợi, xen tạp là bất
thiện. Thế là rõ ràng ngay, niệm Phật phải toàn tâm niệm Phật. Gặp được thiện
duyên, thiện duyên này là gì? Lợi ích chúng sanh, lợi ích Chánh pháp, chúng ta
đi làm, phải dùng chân tâm mà làm; chính là làm những chuyện này không được có
chính mình, có điều hay cho chính mình xen tạp trong đó, ý niệm thuần như vậy,
niệm như vậy rất có hiệu quả. Nếu có mảy may tư tâm, lợi ích của mình, thì
không linh nghiệm, đó là gì? Đó là đang tạo nghiệp, tạo nghiệp thì biến thành
nghiệp lực đang chủ tể, chứ không phải nguyện lực. Nghiệp lực sẽ chướng ngại
nguyện lực, nghiệp lực tiêu trừ rồi, năng lượng nguyện lực không thể nghĩ bàn.
Giống như lão Hoà thượng Hải Hiền, ngài sáng tỏ, ngài ở trong đó chứng ngộ rồi,
cho nên cả đời không niệm lỗi lầm của người khác. Tại sao? Niệm lỗi lầm người
khác, hại người, ta không muốn người khác hại ta, thì ta không được hại người.
Họ hại ta thì không sao, ta có Chánh niệm, tổn thương mà ta chịu không lớn, có
thể cho qua. Chính họ tạo nghiệp đó là Tánh tội, nhất định sẽ cảm lấy quả báo,
ta đừng thêm một chút gì cho họ nữa, đó gọi là tự làm tự chịu. Ta tăng thêm cho
họ một chút nữa, đó chính là lỗi lầm của ta, không được gia tăng cho họ, hy vọng
họ giác ngộ, hy vọng họ quay đầu, thiện niệm này. Có người có thể quay đầu, có
người không quay đầu được, nguyên nhân là gì? Tập khí quá nặng, lòng danh lợi
quá mạnh, buông không xuống. Chúng ta ở bên cạnh, nhìn thấy rất là rõ ràng, rất
là sáng tỏ.
Vì
vậy, phạm vi của chữ ‘có’ này: rộng và sâu lắm, sâu rộng không có ngằn mé. Tu Tịnh
Độ, mục đích của quý vị là muốn vãng sanh thế giới Cực Lạc, là muốn thân cận A
Di Đà Phật, hai chữ ‘có’ đó quan trọng hơn bất cứ điều gì, chắc chắn tin tưởng
có thế giới Cực Lạc, có A Di Đà Phật. Đem những việc này giảng thấu suốt, giảng
sáng tỏ, đức Di Đà, cõi Cực Lạc đều là do tâm tưởng: của chính chúng ta biến hiện
ra, tín tâm này quyết trọn một lòng, không nghi ngờ nữa, sanh ra từ ý niệm. Ta
ngày ngày tín nguyện trì danh, thì không phải đang xây dựng thế giới Cực Lạc
hay sao? Không phải làm xuất hiện A Di Đà Phật hay sao? Về lý thì sáng tỏ, về sự
thì công phu đắc lực. 切願往生“Thiết nguyện vãng sanh”(Nguyện vãng sanh tha thiết), nguyện vãng sanh này rất khẩn thiết, chỉ mong sao hiện tại liền
đi, thấy được A Di Đà Phật chắc chắn sẽ không bỏ qua. Do vậy, 一向持名“nhất hướng trì danh”, nhất hướng là một phương
hướng, hoàn toàn tương ưng với điều được Phật truyền trong Kinh này, phát tâm Bồ-đề,
nhất hướng chuyên niệm, đó là tổng trì tu học của Tịnh tông. 即可如願“Tức khả như nguyện”(Liền được như nguyện), tín
nguyện trì danh, thì quý vị có thể thoả mãn như nguyện, quý vị sẽ nhìn thấy thế
giới Cực Lạc, sẽ vãng sanh đến thế giới Cực Lạc, sẽ thân cận được A Di Đà Phật,
thật sự là Đệ tử của A Di Đà Phật. Tiếp nhận dạy bảo của A Di Đà Phật, đâu có lẽ
nào không thành Phật?
Câu
tiếp theo, là Đại sư: chân thành khẩn thiết nói với chúng ta rằng: 是乃凡愚所同能 “Thị nãi phàm ngu sở đồng năng” (Đó là điều kẻ phàm phu cùng làm được), phàm phu làm được:
phương pháp này, những người ngu si cũng có thể làm được, khiến chúng ta ở
trong đây kiến lập tín tâm. Chúng có thể vãng sanh không? Ta có thể thành Phật
không? Câu trả lời là chắc chắn, có thể, quý vị chỉ cần tin tưởng, chỉ cần theo
phương pháp này, thì thành tựu bình đẳng. Sau đó lật lại nói: 若獨言究明自心 “Nhược độc ngôn cứu minh tự tâm” (Nếu chỉ nói rằng tham cứu rõ tâm mình), đó chính là minh
Tâm kiến Tánh, không dựa vào A Di Đà Phật, ta tự mình mà tu trì, có thể đạt đến
minh Tâm kiến Tánh, đúng vậy, vậy cần người như thế nào? 則唯上智所堪任 “Tắc duy thượng trí sở kham nhiệm” (Thì chỉ người thượng trí mới
kham nổi). Đại sư Lục tổ Huệ Năng nói hay lắm, Pháp môn mà ngài tu, chỉ tiếp
người Thượng thượng căn, không phải Thượng thượng căn, thì họ đi Pháp môn đó sẽ
không thành tựu, nhất định là người Thượng thượng căn. Hoàn toàn khác với Tịnh
Độ tông, Tịnh Độ tông có thể tiếp dẫn phàm phu: cùng sanh nước Cực Lạc; Đại sư
Huệ Năng tiếp người Thượng thượng căn, Thanh-văn, Duyên-giác, Bồ-tát đều không
có phần, huống chi phàm phu? Pháp môn vô lượng, tiếp dẫn căn tánh khác nhau, có
những Pháp môn chỉ tiếp bậc Thượng trí, có những Pháp môn chỉ tiếp người
trung–hạ, chỉ có mỗi Pháp môn Tịnh tông này, từ Thượng thượng căn đến Hạ hạ căn
hết thảy đều tiếp. Ở trong vô lượng Pháp môn, chỉ có tín nguyện trì danh, chỉ
có Pháp môn này tiếp đón hết, không sót một người nào.
法藏菩薩於因地中,悲願宏深 “Pháp Tạng Bồ-tát ư nhân địa trung, bi nguyện hoành thâm” (Bồ-tát Pháp Tạng ở trong nhân
địa, bi nguyện rộng sâu), hoành là lớn, ngài từ bi, ngài phát ra
nguyện này, nguyện gì? Nguyện phổ độ chúng sanh, không sót một người nào. Dùng
phương pháp gì? Phương pháp rất đơn giản, viên diệu đến cực độ, chính là tín,
nguyện, trì danh. 開顯此他力法門 “Khai hiển thử Tha lực Pháp môn” (Mở bày Pháp môn Tha lực này),
không dựa vào mình, dựa hết vào đức Di Đà. Điều đức Di Đà đã dạy, chúng ta chắc
chắn phải tiếp nhận, phải y giáo phụng hành, điều Ngài dạy chúng ta chính là
tín nguyện trì danh. Chúng ta có thể tin tưởng thật, không nghi ngờ chút nào,
giáo lý hoàn toàn không hiểu, thậm chí còn không biết chữ, cả đời chưa bao giờ
học Kinh giáo, chỉ cần tâm địa thiện lương, làm được Ngũ giới Thập thiện, thì
có thể tu Pháp môn này. 是以世稱彌陀乃大願之王 “Thị dĩ thế xưng
Di Đà nãi đại nguyện chi vương” (Bởi vậy trên đời gọi đức Di Đà là vua của các nguyện lớn).
Mỗi một vị Phật, những người chứng đến Phật quả: đều là phát ra nguyện lớn. Bốn
thệ nguyện lớn: là đại nguyện chung của tất cả chư Phật, điều đầu tiên: 眾生無邊誓願度 “Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ”, đại nguyện này. Có vị Phật nào
không độ: vô lượng vô biên chúng sanh? Nhưng căn tánh chúng sanh khác nhau, muốn
phổ độ bình đẳng làm không được, phải mở rất nhiều Pháp môn tiếp dẫn đại chúng.
Chỉ có mỗi đức Di Đà là khác với chư Phật, Ngài là nguyện lớn trong các nguyện
lớn, nguyện lớn duy nhất: đó chính là một môn phổ độ tất cả căn tánh khác nhau,
gọi là Nguyện vương.
又密宗亦是他力門,同屬果教 “Hựu Mật tông diệc thị Tha lực môn, đồng thuộc Quả giáo” (Lại Mật tông cũng là môn Tha lực,
cùng thuộc Quả giáo), Tịnh Độ với Mật cùng một lý luận, phương pháp cũng rất
gần nhau, đều là kiến lập ở trên cơ sở của tín và nguyện. Mật tông phải tin Tam
Bảo, ngoại trừ Tam Bảo ra còn phải tin Thượng sư, nếu có nghi ngờ đối với Thượng
sư, thì rất khó thành tựu. Chúng ta biết Tịnh tông chỉ cần tin tưởng Phật Bồ-tát,
đương nhiên cũng phải tin tưởng thầy dạy, nhưng tin tưởng thầy dạy: không quá
khắt khe giống như Mật tông tin Thượng sư. Trong Mật tông nhìn nhận: Thượng sư
với Phật là như nhau, với Tịnh Độ tông thì xem Thượng sư như Bồ-tát, là Đệ tử của
A Di Đà Phật, chỉ điểm này là khác nhau. Nói cách khác, học Mật tông sẽ khó hơn
học Tịnh Độ, khó ở chỗ nào? Tín tâm. Tịnh tông tin tưởng 99%, còn sót một phần
nghi hoặc, vẫn được, nhưng Mật tông không được, Mật tông dù có một chút chút
nghi ngờ đối với Thượng sư, thì trở nên chướng ngại. Phải hiểu đạo lý này, sau
khi hiểu rồi, Pháp môn này dễ tu hơn Mật tông. Mật tông là dạy quý vị tín, nguyện,
trì chú, lời chú dài hơn Phật hiệu, Tịnh Độ tông chỉ dạy quý vị bốn chữ “A Di
Đà Phật”, rất đơn giản! Càng đơn giản càng dễ thọ trì, dễ dàng làm được. Lời
chú quá dài nhớ không nổi, cho dù nhớ nổi thì qua thời gian dài, khó tránh khỏi
không có tạp niệm xen vào, quý vị mới hiểu ra sự thù thắng của Pháp môn này. Đi
đến Trung Hoa, bất luận học theo một tông nào một phái nào, các vị cổ Thánh
tiên Hiền, Tổ sư Đại đức: cũng thường đến cuối cùng các ngài niệm Phật vãng
sanh Tịnh Độ. Các ngài dùng những Pháp môn khác để tu hành công phu, cuối cùng
toàn hồi hướng cầu sanh Tịnh Độ, các ngài đi thật, [người của] Giáo hạ, Thiền
tông, Mật tông: đến thế giới Cực Lạc cũng nhiều.
Trong
Kinh văn sau: 此殊勝難思之他力法門,正是彌陀悲願至切之處 “Thử thù thắng
nan tư chi Tha lực Pháp môn, chánh thị Di Đà bi nguyện chí thiết chi xứ” (Đây là Pháp môn Tha lực thù thắng
khó nghĩ, chính là chỗ bi nguyện rất khẩn thiết của đức Di Đà), khẩn thiết
đến cực độ, 亦正是淨密二宗方便究竟處 “diệc chánh thị Tịnh
Mật nhị tông Phương tiện Cứu cánh xứ” (cũng chính là chỗ Phương tiện Cứu cánh của hai tông Tịnh và Mật).
Niệm lão cả đời tu hành, Tịnh Độ là chính; ngài học Mật, ngài là Kim cang Thượng
sư của Mật tông, truyền thừa Mật pháp; Ngài học Thiền, lão sư của Thiền tông là
lão Hoà thượng 虛雲 Hư Vân; Ngài học Giáo, Pháp Tướng,
cậu của ngài là lão Cư sĩ 梅光羲 Mai Quang Hy – chuyên gia về Pháp
Tướng, lão Cư sĩ 李炳南 Lý Bỉnh Nam là thầy của tôi: cũng
là học trò của ngài Mai Quang Hy, những điều ngài học rất nhiều. Chẳng như lão
Hoà thượng Hải Hiền, lão Hoà thượng Hải Hiền tu khá đơn thuần, thâm nhập một
môn, chính là một câu A Di Đà Phật. Thiền là A Di Đà Phật, Mật là A Di Đà Phật,
Giáo cũng là A Di Đà Phật, một câu A Di Đà Phật viên mãn gồm thâu rồi, là thật,
không phải giả. Biểu hiện ở chỗ nào? Biểu hiện ở trong đời sống hàng ngày của
ngài.
Khi
Hoàng Niệm lão vãng sanh là lúc 79 tuổi, cuối đời thân thể không khoẻ, trông
như người bình thường không có tu hành, vậy có thể nói rất tốt, so sánh với lão
Hoà thượng Hải Hiền thì không được, không sánh bằng. Lão Hoà thượng Hải Hiền
112 tuổi, vẫn không cần ai chăm sóc, vẫn không lấy làm lạ, làm việc theo lối
thường, làm nông. Vào ngày sắp ra đi, tháng giêng năm 2013, ngài ra đi vào buổi
tối, ban ngày vẫn làm một ngày công ở vườn rau, trồng rau, sửa đất, tưới nước,
nhổ cỏ, làm suốt một ngày. Ngài làm việc rất chịu khó, không lười biếng một
chút nào, người bình thường không làm được điều này, ban đêm niệm Phật ra đi,
không nói cho bất kỳ ai hay. Sáng hôm sau dậy, mới phát hiện ra, mọi người phát
hiện lão Hoà thượng đã ra đi rồi. Nghĩ lại những hành vi của ngài suốt một
tháng nay, phát hiện điều gì? Ngài đã cáo biệt với mọi người, ngài đều đã đi
thăm các nơi để cáo biệt, cũng tiết lộ một chút tin tức, sau này không đến nữa.
Vì người ta trông thấy thân thể ngài khoẻ mạnh, nên không chú ý, sau khi ra đi,
nghĩ lại ngôn hành cử chỉ của lão Hoà thượng, [là] sớm đã biết trước giờ ra đi.
Đến để giã từ, thăm qua Đạo tràng xưa từng sống lúc trước, thăm qua các đồng
tham đạo hữu, tăng trưởng niềm tin cho họ, nhìn thấy bộ dạng của lão Hoà thượng,
tin tưởng thật sự, không nghi ngờ nữa.
Phần
sau Niệm lão từ mặt lý, đem sự việc này nói rõ ràng, nói sáng tỏ: 蓋自他本來不二 “Cái tự tha bổn lai bất nhị” (Bởi vì tự và tha vốn dĩ chẳng hai), tự là chính
mình, tha là A Di Đà Phật, tự là thế giới Ta Bà, tha là thế
giới Cực Lạc, từ Chánh báo, từ Y báo đều là vốn dĩ chẳng hai. Cho nên肯仗他力 “khẳng trượng Tha lực” (nguyện dựa vào Tha lực), ta hoàn toàn không dựa vào mình,
dựa hết vào A Di Đà Phật, dựa vào Tha lực. Tự tha bất nhị, ta dựa hoàn toàn vào
Tha lực, vốn dĩ là toàn tâm toàn lực, vẫn là Tự lực, Tha lực chính là Tự lực, Tự
lực chính là Tha lực, Tha lực với Tự lực tập hợp thành một lực, vậy thì viên
mãn. 即是於此難信之法能生淨信。難信能信,全由當人之無上智慧,此即是自力 “Tức thị ư thử nan tín chi pháp năng sanh tịnh tín. Nan tín năng
tín, toàn do đương nhân chi Vô thượng trí huệ, thử tức thị Tự lực” (Tức là với pháp khó tin có thể
sanh niềm tin thanh tịnh. Có thể tin điều khó tin, toàn bộ là do trí huệ Vô thượng
của người ấy, đó tức là Tự lực). Người có trí huệ Vô thượng nhạy bén, cảm ứng
rất nhanh; người không có trí huệ Vô thượng cảm ứng sẽ chậm chạp hơn, có cảm ứng.
Chậm chạp mất bao lâu? Hầu hết là trong 3 năm, chúng ta đọc được trong Tịnh
Độ Thánh Hiền Lục, đọc được trong Vãng Sanh Truyện, thấy được ngay
trong một số những người đồng học học Tịnh Độ: niệm Phật cầu vãng sanh hiện tiền
với chúng ta.
Hôm
nay các đồng tu ở chùa Cực Lạc – Đài Nam, có nhiều người đến thăm tôi, thỉnh
tôi trở về Đài Nam để ăn tết âm lịch. Ý hay! Làng Tướng Quân ở Đài Nam, 40 năm
trước có một bà lão niệm Phật 3 năm đứng yên vãng sanh, chúng tôi nhắc đến thì
người ở nơi đó đều biết, là thật, không phải giả. Cư sĩ tại gia: niệm Phật 3
năm, biết trước giờ đi vãng sanh thế giới Cực Lạc, đứng mà ra đi. 3 năm trước,
bà không biết Phật Pháp là gì cả, cả đời người tâm địa thiện lương, thật thà, từ
bi. 3 năm trước con trai bà cưới con dâu, con dâu biết Phật Pháp, khuyên bà
thành thật đừng nên đi lạy thần bừa bãi nữa, khi đó bà gặp thần nào cũng lạy,
tiên nào cũng bái, không phân biệt thần với Phật. Khi nói với bà một chút đạo
lý Phật Pháp, bà nghe rồi rất hoan hỷ, không đi những nơi khác nữa, trong nhà
thiết lập một Phật đường, cúng dường Tam Thánh Tây Phương, ngày ngày niệm A Di
Đà Phật, không đi đến chỗ nào nữa. 3 năm thì bà vãng sanh, thành công thật rồi,
biết trước giờ ra đi.
Bà
lão rất thông minh, đến ngày vãng sanh không nói cho người nhà biết, nói cho
người nhà sợ xảy ra chướng ngại, [nên] không nói. Vào ngày vãng sanh, bà vãng
sanh vào ban đêm, khi ăn cơm tối, bà nói với con trai và con dâu của mình, con
trai và con dâu đều rất hiếu thảo, bà nói với chúng: Các con ăn cơm trước đi,
ăn cơm tối, bà nói mẹ đi tắm gội, các con từ từ ăn. Nhưng con trai và con dâu vẫn
đang đợi bà, đợi bà tắm gội xong cùng nhau ăn cơm. Đợi rất lâu, nhận thấy có
chút gì không đúng, sao bà lão tắm gội thời gian lâu đến thế. Đi vào phòng bà
xem, quả thật đã thay y phục, đích thực đã tắm gội, không thấy người, kêu không
ai trả lời. Tìm kiếm khắp nơi, đến Phật đường, thấy bà mặc áo tràng đứng ở nơi
đó, mặt hướng tượng Phật, trên tay cầm xâu chuỗi, gọi bà không thấy đáp, nhìn
cho kỹ thì bà đi rồi, ra đi lúc ăn cơm tối. Độ hoá rất nhiều người, khu vực
phía Nam Đài Loan không ai là không biết, nhìn thấy một người giống như bà vậy,
học Phật không quá 3 năm, thành tựu như vậy, làm mọi người tin tưởng.
Tôi
dạy học ở Phật Quang sơn, năm đó tôi 44 tuổi, bà vãng sanh một trăm trước đó,
lúc tôi 43 tuổi, bà lão vãng sanh. Chúng tôi nghe xong vô cùng cảm động, là thật
không phải giả, thời gian không lâu, 3 năm mà thôi. Tại sao bà có thành tựu như
thế? Bởi bà buông xuống thật, ra đi trong ngày đó, quý vị xem ngay cả với con
trai, con dâu mà bà cũng không nói. Nói với họ, sợ họ làm chướng ngại, họ còn
có thân tình, không xả được, bà buông xuống rồi, đã buông xuống thân tình. Sự
thị hiện này khiến con trai và con dâu của bà, người nhà bà lão càng tin tưởng
hơn với Tịnh tông. Làm chứng, điều quý vị biết trước ban đầu là thường thức, bà
làm chứng minh cho quý vị, chứng minh sự việc này là chân thật, chứ không phải
giả. Tôi nghe được thông tin này là vào năm tiếp theo, tôi đang dạy học ở Phật
Quang sơn, người làm ở Phật Quang sơn là hàng xóm của bà lão, họ đem câu chuyện
đó kể cho tôi nghe, sự việc của một năm trước.
Phần
sau nói, Tín lực này, tự tín, tự lực là trí huệ đích thực, đó không phải là
dùng việc theo cảm tình. Toàn do trí huệ Vô thượng của người ấy, vì quý vị chọn
lấy Pháp môn Vô thượng, một đời thật sự thành tựu, sự lựa chọn này là trí huệ
Vô thượng. 但能信入,老實念去,自然能所兩忘,自心朗現 “Đãn năng tín nhập,
lão thật niệm khứ, tự nhiên Năng Sở lưỡng vong, Tự Tâm lãng hiện” (Chỉ có thể tín nhập, thành thật
mà niệm, tự nhiên có thể quên đi cả Năng và Sở, Tự Tâm hiện bày sáng tỏ), Tự
Tâm lãng hiện này chính là Lý nhất tâm Bất loạn, Đại triệt Đại ngộ, minh
Tâm kiến Tánh. Do đó, 從事持達理持 “tùng sự trì đạt Lý trì” (từ Sự trì đạt Lý trì), sau
khi kiến Tánh, niệm Phật là Lý trì, 即凡心成佛心 “tức phàm tâm thành Phật tâm”, tại sao? Bởi phàm tâm với Phật tâm là một chẳng phải hai. Gọi là
phàm tâm, tức là trong Phật tâm còn mang theo tập khí phiền não, đó gọi là phàm
tâm; loại bỏ tập khí phiền não, thì phàm tâm vốn là Phật tâm. Bà lão không đơn
giản, thấy từ chỗ nào? Thấy từ cách bà ra đi, bà không có tình thân, buông xuống
tình thân rồi, điều khó buông xuống nhất chính là tình thân. Bà có con cháu, bà
thật sự yêu con cháu của mình, biểu diễn cho quý vị thấy, để cả đời quý vị đối
với Pháp môn niệm Phật: tin sâu không nghi ngờ; nói cách khác, tương lai quý vị
niệm Phật có thành tựu giống như bà, con cháu tương lai niệm Phật vãng sanh, bà
chắc chắn cùng với đức A Di Đà Phật đến tiếp dẫn. Quý vị có thể nói bà lão
không có trí huệ hay sao? Bà biểu diễn bằng cách thức này, không dễ dàng.
能所兩忘“Năng sở lưỡng vong”(Năng Sở đều mất), năng niệm
là tâm, sở niệm là Phật, hoà nên một thể, Năng và Sở chẳng hai, Năng và Sở như
một, đó là kiến Tánh, Tự Tâm chính là Tự Tánh, hiện tiền rồi, minh Tâm kiến
Tánh. 從事持達理持,即凡心成佛心。淨宗之妙,全在於此 “Tùng Sự trì đạt
Lý trì, tức phàm tâm thành Phật tâm. Tịnh tông chi diệu, toàn tại ư thử” (Từ Sự trì đạt Lý trì, tức tâm
phàm trở thành tâm Phật. Sự nhiệm mầu của Tịnh tông: đều ở nơi đây). Những
Pháp môn khác không có sự huyền diệu này, không có dễ dàng đến thế, không có
đơn giản đến thế, đó chính là phương tiện rốt ráo, phương tiện đến cực điểm.
Nam nữ già trẻ, hiền ngu bất tài, người nào cũng có thể thành tựu. Chúng tôi ở
trước điều này, các đồng học mọi người đều biết, có bé gái nhỏ 10 tuổi niệm Phật
vãng sanh, cháu bé niệm suốt 3 năm. Lúc cháu 7 tuổi, nghe ông nội của cháu niệm
Phật, trẻ em hiếu kỳ, Phật là gì? Thế giới Cực Lạc là gì? Ông nội kể cho cháu
nghe, nói với cháu rằng thế giới Cực Lạc tốt. Cô bé bèn hỏi: “Ông ơi, ông có thể
dẫn cháu đến thế giới Cực Lạc để thăm quan không?” Ông nội nói với cháu rằng:
ông không làm được. Cháu nói người nào mới được? “A Di Đà Phật mới được, cháu
ngày ngày niệm A Di Đà Phật, A Di Đà Phật sẽ đem cháu đi”. Cô bé ngày ngày bèn
niệm Phật, niệm suốt 3 năm, A Di Đà Phật tiếp dẫn cô bé vãng sanh. Nam nữ già
trẻ, hiền ngu bất tài, gặp được Pháp môn này thì không có ai không thành tựu. Gặp
được Pháp môn này đích thực là phước báo lớn, nhân duyên lớn, không đơn giản, bỏ
qua trước mắt thật là đáng tiếc. Bỏ lỡ những điều khác không kể làm chi, bỏ lỡ
điều này là lỡ lầm lớn, trăm ngàn muôn kiếp khó gặp gỡ. Cho nên Kinh điển, Chú
sớ, Chú Giải này đều là: lão Cư sĩ Hoàng Niệm Tổ, ở trong tất cả các Kinh Luận,
khai thị của Tổ sư Đại đức mà hội tập lại, [để] giải thích bộ Kinh điển này, để
chúng ta không sanh nghi ngờ, không dấy lo lắng, tin sâu chẳng nghi thì chúng
ta được lợi ích.
Lại
xem đoạn sau đây: 願佛廣演 Nguyện Phật quảng diễn (Mong Phật diễn thuyết rộng),
đây không phải là cảnh giới của mình, đó chính là cầu mong Phật thuyết minh chi
tiết, xem Kinh văn:
【惟願如來應正遍知。廣演諸佛無量妙剎。】 “Duy
nguyện Như Lai, Ứng, Chánh Biến Tri, quảng diễn chư Phật vô lượng diệu sát.” (Chỉ mong đức Như Lai, bậc Ứng
Cúng, Chánh Biến Tri, rộng diễn vô lượng cõi mầu nhiệm của chư Phật).
Đây
là điều mong cầu của Bồ-tát Pháp Tạng. Chúng ta xem lời chú giải của Niệm lão. 演Diễn chính là diễn thuyết, 宣說 “tuyên thuyết”. Như Lai, Ứng,
Chánh Biến Tri chính là trong mười hiệu如來、應供、正遍知,乃佛十號中之三號 “Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, nãi Phật thập hiệu trung chi
tam hiệu” (Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến
Tri là ba hiệu trong mười hiệu của Phật). Nói ba hiệu là đại biểu cho mười
hiệu, mười hiệu viên mãn. Đó là sự xưng tán đối với Phật, mười hiệu là Phật đức.
法藏菩薩陳明 “Phát Tạng Bồ-tát trần minh” (Bồ-tát Pháp Tạng trình bày rõ),
trần là từ cung kính [của] bề dưới đối với bề trên, chính là thuyết minh, 非我境界後,乃啟請世間自在王如來 “phi ngã cảnh giới hậu, nãi khải thỉnh Thế Gian Tự Tại Vương Như
Lai” (sau [câu] ‘không phải cảnh
giới của con’, là khải thỉnh Thế Gian Tự Tại Vương Như Lai), đây là thầy của
ngài, 為之廣演諸佛之無量勝妙剎土 “vị chi quảng diễn
chư Phật chi vô lượng thắng diệu sát độ” (vì con rộng diễn vô lượng cõi nước thù thắng nhiệm mầu của chư
Phật). Đây là nguyện vọng của ngài, bởi vì hoằng nguyện của ngài: là phổ độ
chúng sanh của lục đạo mười pháp giới trong cõi nước: của chư Phật mười phương,
khiến họ ngay trong một đời chứng đắc viên mãn Phật quả rốt ráo. Nguyện này
phát ra, đương nhiên phải kiến lập một Đạo tràng để họ có nơi chốn mà học tập, Đạo
tràng đó chính là cõi Phật, cõi nước chư Phật đều là Đạo tràng để độ chúng
sanh. Đại nguyện của ngài muốn viên mãn được, thì cần phải có nơi chốn tu học
thù thắng, cần phải tham khảo tất cả cõi nước chư Phật, ngài muốn biết tình trạng
trong tất cả cõi nước chư Phật, cầu mong thầy giúp đỡ ngài.
Chúng
ta xem tiếp văn sau: 思修滿願 Tư Tu mãn nguyện (Tư duy Tu tập mãn nguyện),
Kinh văn:
【若我得聞。如是等法。思惟修習。誓滿所願。】 “Nhược
ngã đắc văn, như thị đẳng pháp, tư duy tu tập, thệ mãn sở nguyện” (Nếu
con được nghe: các pháp như vậy, tư duy tu tập, thề trọn ước nguyện.)
Đoạn Kinh văn này chỉ có 16 chữ, 16 chữ này rất quan trọng. Trong
Chú Giải nói rằng: 此段大意為:法藏菩薩答曰,此義太深,超我境界 “Thử đoạn đại ý
vi: Pháp Tạng Bồ-tát đáp viết, thử nghĩa thái thâm, siêu ngã cảnh giới” (Đại ý của đoạn này là: Bồ-tát
Pháp Tạng đáp rằng, nghĩa này quá sâu, vượt qua cảnh giới của con), đây là
ý nghĩa của ba chữ “tự” đã nói trước. 若通俗,勉強可作水平解 “Nhược thông tục, miễn cưỡng khả tác thuỷ bình giải” (Nếu là thông thường, thì gắng
gượng có thể giải thích với mức độ), cảnh giới này con không có trình độ
này, ý nghĩa đó quá sâu, vượt quá trình độ của con, đây là lời chú nhỏ của Niệm
lão. 於是再度請佛廣說無量佛剎 “Ư thị tái độ thỉnh
Phật quảng diễn vô lượng Phật sát” (Thế nên lại thỉnh Phật rộng diễn vô lượng cõi Phật), đoạn
văn sau đó quan trọng, 我若聞後 “ngã nhược văn hậu” (nếu con nghe rồi), con
nghe được rồi, con sáng tỏ rồi, 定能如法修習,圓滿所願“định năng như pháp tu tập, viên
mãn sở nguyện” (chắc chắn có
thể tu tập đúng pháp, trọn vẹn ước nguyện). Nếu đã nghe rồi mà không tu được
thì cũng bằng như chưa nghe, sau khi nghe rồi làm thật, chân tu, thì mới viên
mãn bổn nguyện. 我若得聞如是等等妙剎及其攝取之法 “Ngã nhược đắc
văn như thị đẳng đẳng diệu sát cập kỳ nhiếp thủ chi pháp” (Nếu con được nghe các cõi nhiệm
mầu như vậy và cách thức để nhiếp thủ đó), nhiếp thủ chính là phương pháp
giáo hoá chúng sanh, 我當思惟修習,誓當圓滿我之所願 “ngã đương tư duy
tu tập, thệ đương viên mãn ngã chi sở nguyện” (con sẽ tư duy tu tập, thề sẽ viên mãn ước nguyện của con).
Đây là thuyết rõ tại sao con muốn biết, sau khi biết rồi con nỗ lực tu học, [bởi]
con muốn xây một Đạo tràng: quảng độ tất cả chúng sanh tội khổ trong mười
phương, đó là bổn nguyện của A Di Đà Phật. Nói cách khác, xây cõi Phật, tu
hành, chứng quả, chứng quả chính là thành Phật, đều không phải vì mình, vì ai?
Vì những chúng sanh của mười pháp giới trong tất cả cõi nước chư Phật: trong mười
phương ba đời, là vì điều này. Giúp đỡ họ rời khỏi lục đạo luân hồi, rời khỏi
mười pháp giới, đều sanh đến thế giới Cực Lạc để tu học.
Phương
pháp mà tất cả chư Phật trong mười phương ba đời giáo hoá chúng sanh, ngài học
biết hết cả rồi, nơi tu học ra sao thì mới thích hợp cho người tu hành, ngài
cũng hoàn toàn có thể kiến lập, kiến lập Đạo tràng, Đạo tràng đó chính là thế
giới Cực Lạc. Tại thế giới Cực Lạc, chúng ta nhìn thấy trong Kinh có câu, A Di
Đà Phật ở trong đó làm gì? Trong Kinh Di Đà nói rất hay: 今現在說法 “Kim hiện tại thuyết pháp” (Hiện nay đang thuyết pháp). Thân hành ngôn giáo, thân hành
là hoàn cảnh, Y chánh trang nghiêm của thế giới Cực Lạc, [là] hoàn cảnh; hiện
đang thuyết pháp là dạy dỗ, có hành có giải, giải hành chẳng phải hai. Cho nên
[ở] nơi đó thành tựu nhanh chóng, mỗi một đồng học đều là tấm gương tốt trong
tu hành, mọi người đều nương A Di Đà Phật dạy học để tu hành, tu sửa lỗi lầm của
hành vi thân–khẩu–ý. Cho nên, “thệ mãn sở nguyện”, mãn nguyện vọng của
ngài, nguyện vọng này tốt, không có tự tư tự lợi.
Đoạn
tiếp theo là Phật đáp ứng lại, 佛為宣演 “Phật vị tuyên diễn”(Phật tuyên diễn cho). Trong
này lại chia thành hai đoạn, đoạn thứ nhất知機 Tri cơ (Biết cơ
duyên), cơ là cơ duyên, duyên chín muồi rồi, Thế Gian Tự Tại Vương
Như Lai: trong tâm đã hướng về người học trò ở ngay trước mặt. Chúng ta xem
Kinh văn:
【世間自在王佛知其高明。志願深廣。】 “Thế
Gian Tự Tại Vương Phật tri kỳ cao minh, chí nguyện thâm quảng” (Đức
Phật Thế Gian Tự Tại Vương biết ngài cao minh, chí nguyện sâu rộng).
Trong
Chú Giải nói rằng: 高者,上也,崇也,遠也 “Cao giả, thượng
dã, sùng dã, viễn dã” (Cao: là
trên, là trọn, là xa), có ba ý nghĩa này. 明者,光也,照也,通也 “Minh giả, quang dã, chiếu dã, thông dã.” (Minh: là sáng suốt, sáng sủa,
chiếu soi, thông suốt). 《會疏》曰 “Hội Sớ viết” (Trong Hội Sớ nói),
giải thích trong Hội Sớ: 高明“Cao minh” là nói đức, trí,
đức, đức cao trí sáng. 深廣“Thâm quảng” là nói nguyện
tâm của ngài, đại nguyện mà Pháp Tạng phát sâu rộng vô tận. Sau đó Niệm lão giải
thích cho chúng ta: 謂持戒禪定,超勝世間,故謂高 “Vị trì giới thiền
định, siêu thắng thế gian, cố vị cao” (Nói về giữ giới và thiền định: vượt hơn thế gian, nên gọi là
cao), ngài chân tu. 方便般若,照究諸法 “Phương tiện Bát-nhã, chiếu cứu chư
pháp” (Phương tiện Bát-nhã: soi tận
các pháp), đó là minh, Phương tiện Bát-nhã là khởi dụng của Bát-nhã. 遠徹來際無撓 “Viễn triệt lai tế vô nạo” (Thấu suốt tận xa thời vị lai không nhiễu), trong ngoặc đơn
nói rằng: 謂能遠究達於未來之極處 “Vị năng viễn cứu
đạt ư vị lai chi cực xứ” (Là có thể thấu
suốt đối với tận cùng thời vị lai), mà không có chướng ngại, không bị cản
trở, ý nghĩa đó gọi là thâm. 周遍攝一切無遺 “Chu biến nhiếp nhất thiết vô di” (Nhiếp trọn khắp tất cả không sót), trọn khắp pháp
giới, nhiếp thọ tất cả chúng sanh không có ai bỏ sót, đó gọi là quảng.
Chỗ
này chúng ta phải ghi nhớ, A Di Đà Phật từ bi, ngài Pháp Tạng ở thế giới Cực Lạc
thành Phật: đã qua mười kiếp. Trong đó nói về bổn nguyện của Ngài, Ngài nhiếp
thọ chúng sanh không sót một ai, thế tại sao chúng ta không thể vãng sanh? Sở
dĩ chúng ta không thể vãng sanh, vì chúng ta không phù hợp điều kiện mà Ngài
yêu cầu. Điều kiện mà Ngài yêu cầu, Đại sư Ngẫu Ích nói rất hay, có thể vãng
sanh hay không: hoàn toàn ở có tín nguyện hay không. Tín tâm của chúng ta có vấn
đề, nguyện tâm của chúng ta có vấn đề: thì không tương ưng. Tín tâm của chúng
ta có nghi ngờ, nguyện tâm của chúng ta còn lưu luyến thế giới này, không muốn
đi.
Chúng
ta xem lão Hoà thượng Hải Hiền, ngài đối với thế gian này không có lưu luyến,
thấy từ chỗ nào? Thấy từ ngày sinh nhật 112 tuổi của ngài. Có không ít tín đồ
đi đến chùa để mừng sinh nhật cho ngài, làm một bữa cơm chay, lão Hoà thượng hoàn
toàn không ăn. Vả lại hôm đó ngài không nói năng, biểu hiện không có vẻ cười,
chẳng như ngày thường hoan hoan hỷ hỷ, cuối cùng ngài chỉ ăn một bát mì lá mè.
Mì lá mè mà người ta đem đến, chúng tôi đã thưởng thức rồi, lão Hoà thượng bình
thường chỉ ăn những món đó. Sau khi tôi ăn xong cảm giác đầu tiên là khả năng
tiêu hoá trong đường ruột lão Hoà thượng mạnh, tại sao? Món đó không dễ tiêu
hoá. Món đó cứng hơn rau xanh thông thường của chúng ta, thô hơn, ngài ăn món đó
mà có thể tiêu hoá, chứng tỏ sức khoẻ ngài rất tốt. Là không có vị gì, ngài
quen rồi, đối với ẩm thực, quả thật, ăn cho no là được, không có bất cứ ưa chuộng
gì. Thế là hiểu ra, việc ăn mặc đi ở của ngài hết thảy đều là vừa chừng đúng mực,
trong lòng không có những thứ này. Chúng ta thì thế nào? Chúng ta đối với điều
này còn có cầu kỳ, còn phải bắt bẻ, đó chính là đối với thế gian này không
buông xuống, ngài buông xuống hết thảy.
Buông
xuống tình thân rồi, khi lão nhân còn tại thế, ngài còn có em gái, xuất gia rồi,
ngài có chị gái đã qua đời, em gái xuất gia: dẫn theo con nhỏ xuất gia chung.
Anh chị em tổng cộng có năm người, ba người không còn sống nữa, anh cả, anh
hai, chị cả cũng qua đời, không có vướng mắc tình thân. Những đồng tham xưa, bạn
bè cũ, trước vãng sanh một tháng ngài đã đi chào hỏi, đều đi thăm hết một lượt.
Đó có phải tình thân không? Không phải, thế ngài làm gì? Độ chúng sanh. Quý vị
trông tôi xem, tôi khoẻ mạnh đến thế, qua mấy ngày là đi, làm chứng minh cho mọi
người thế giới Cực Lạc có thật, A Di Đà Phật có thật, không phải giả. Tăng trưởng
tín tâm của mọi người, khích lệ mọi người phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ, thế giới
Ta Bà khổ, đi đến thế gian này là biểu pháp, chính xác, làm tấm gương cho người
khác thấy, giúp người giác ngộ, giúp người phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ. Cho
nên ngài là độ chúng sanh, khởi tâm động niệm, ngôn ngữ tạo tác: toàn là độ
chúng sanh, giúp đỡ chúng sanh kiên định tín tâm, kiên cố nguyện tâm, chăm chỉ
niệm câu Phật hiệu này, buông xuống vạn duyên, thì Tịnh Độ sẽ hiện tiền.
Sau
đây, Phật vì ngài mà diễn thuyết, thuyết pháp còn phải hiện cõi nước, mời xem
Kinh văn:
【即為宣說二百一十億諸佛剎土功德嚴淨廣大圓滿之相。應其心願。悉現與之。說是法時。經千億歲。】 “Tức vị
tuyên thuyết nhị bá nhất thập ức chư Phật sát độ công đức nghiêm tịnh quảng đại
viên mãn chi tướng. Ứng kỳ tâm nguyện.
Tất hiện dữ chi. Thuyết thị pháp thời. Kinh thiên ức tuế” (Liền tuyên thuyết cho các tướng
công đức trang nghiêm, thanh tịnh, rộng lớn, viên mãn của 210 ức cõi nước chư
Phật, ứng với tâm nguyện của ngài, thảy hiện cho thấy. Khi nói pháp ấy, trải
qua ngàn ức năm).
Thời
gian thuyết pháp dài, câu đầu tiên chính là nói rõ, là nói trong bao lâu? “Thiên
ức tuế”, tức là ngàn ức năm. Kinh văn, chúng ta xem Chú Giải: 即為宣說,表佛說法 “Tức vị tuyên thuyết, biểu Phật thuyết pháp” (Liền tuyên thuyết cho, là biểu thị Phật thuyết
pháp). Mỗi một tôn Phật xuất hiện ở thế gian, đều là vì người mà nói pháp,
hiện nay đang thuyết pháp. Bởi vì thính chúng đông, người thuộc các loại căn
tánh khác nhau đều có, đến đó để thấy Phật là vì sao? Thỉnh Phật chỉ giáo. Phật
không ngại gian khổ, không có nhọc nhằn, cũng không mệt mỏi, chỉ cần nhìn thấy
chúng sanh có duyên hiện tiền, thì Ngài hoan hỷ thuyết pháp. Không những thuyết
pháp nói cho ngài, mà còn “tất hiện dữ chi”, Phật dùng thần lực đem mười
phương thế giới: đều khiến Bồ-tát Pháp Tạng nhìn thấy hiện tiền. Như chúng ta
hiện nay dùng truyền hình, ở trong truyền hình có thể nhìn thấy, Phật không cần
dùng những công cụ máy móc ấy, Ngài có năng lực đem tất cả cõi nước chư Phật
trong mười phương: từng cõi từng cõi hiện ra trước mặt quý vị, khiến quý vị cẩn
thận mà quan sát, quý vị không nhìn thấy, Phật giảng giải cho quý vị, để quý vị
nhìn được, nghe được.
Trong
suốt thời gian lâu như thế, 世間自在王佛宣說示現二百一十億諸佛剎,功德莊嚴清淨廣大圓滿之相 “Thế Gian Tự Tại Vương Phật tuyên thuyết thị hiện nhị bá nhất thập ức
chư Phật sát, công đức trang nghiêm thanh tịnh quảng đại viên mãn chi tướng” (Thế Gian Tự Tại Vương Phật
tuyên thuyết và thị hiện 210 ức cõi Phật, [về] các tướng công đức trang nghiêm,
thanh tịnh, rộng lớn, viên mãn). 嚴淨,莊嚴清淨“Nghiêm tịnh, trang nghiêm thanh tịnh”(Nghiêm tịnh: là trang nghiêm
thanh tịnh). 圓滿“Viên mãn”, viên là trọn khắp,
性體周遍為圓 “tánh thể chu biến vi viên” (tánh thể trọn khắp là viên).
滿者,具足之義 “Mãn giả, cụ túc chi nghĩa” (Mãn: có nghĩa là đầy đủ),
tất cả đầy đủ. Như Đại sư Huệ Năng khi khai ngộ đã nói năm câu, câu thứ ba là
nói rằng何期自性,本自具足 “Hà kỳ Tự Tánh, bổn tự cụ túc” (Ngờ đâu Tự Tánh, vốn tự đầy đủ),
đầy đủ điều gì? Vốn tự đầy đủ tức là đầy đủ viên mãn, đầy đủ Tánh Đức, Đức dụng
vốn đủ trong Tự Tánh. Đức Thế Tôn trong Kinh Hoa Nghiêm đã nói một câu,
có thể làm chú giải, Phật nói: 一切眾生皆有如來智慧、德、相 “Nhất thiết chúng
sanh giai hữu Như Lai trí huệ, đức, tướng” (Tất cả chúng sanh đều có trí huệ, đức, tướng của Như Lai),
đây chính là điều Tự Tánh vốn tự đầy đủ. Trong Tự Tánh của mỗi người Chúng ta,
trí huệ bình đẳng với Phật, đều như nhau, đức năng như nhau, tài nghệ như nhau,
tướng hảo như nhau, không có một dạng nào không bình đẳng, Phật có gì thì Tự
Tánh chúng ta có hết. Do đó giáo học của Phật giáo, mục tiêu cuối cùng là minh
Tâm kiến Tánh, Phật không hướng ngoại cầu, bên ngoài không có thứ gì cả. Tất cả
các pháp sanh từ tâm tưởng, không có tâm tưởng thì căn bản không có tất cả
pháp, điều này được các nhà Cơ học lượng tử hiện đại chứng minh. Câu này quan
trọng, tất cả các pháp sanh từ tâm tưởng, tâm tưởng làm Phật sẽ thành Phật, tâm
tưởng làm người thì sẽ như một người, tâm tham là quỷ, sân khuể là địa ngục,
ngu si là súc sanh, người là nhân–nghĩa–lễ–trí–tín.
Nho
gia bên Trung Hoa nói Ngũ thường, chính là năm loại đức, Ngũ luân là đạo, Ngũ
thường là đức. Đạo là tự nhiên, không phải do nhân tạo, vốn dĩ là vậy, đó là đạo.
Cha con có tình thân là đạo, vua tôi có nghĩa là đạo, lớn nhỏ có thứ tự, vợ chồng
có phân biệt, bạn bè có chữ tín, đó đều là đạo, không phải do người phát minh,
không phải do người sáng tạo, vốn dĩ là vậy. Người [mà] một đời này có thể tuỳ
thuận đạo thì gọi là đức. Tuỳ thuận, quý vị xem Ngũ đức: nhân, nghĩa, lễ, trí,
tín, chính là Ngũ giới của nhà Phật, Ngũ giới là đức, không sát sanh là nhân,
không trộm cướp là nghĩa, không tà dâm là lễ, không vọng ngữ là tín, không uống
rượu là trí. Đức là điều mà Thánh nhân kiến lập cho chúng ta, hoàn toàn tương
ưng với đạo, đến từ chỗ nào? Do đó đạo đức gắn lại với nhau, có đạo đức đó
chính là người, đạo đức hướng thượng nâng lên chính là cõi trời. Tổ tiên xưa của
Trung Hoa hiểu được, giữ gìn Ngũ luân, Ngũ thường, sau đó lại triển khai ra là
Tứ duy, Bát đức, văn hoá truyền thống Trung Hoa chính là bốn khoa: Ngũ luân,
Ngũ thường, Tứ duy, Bát đức. Trong bộ 《四庫全書》 Tứ Khố Toàn Thư đó nói điều gì?
Là nói điều này. Bốn khoa này cộng lại gồm mười hai chữ: hiếu–đễ–trung–tín, lễ–nghĩa–liêm–sỉ,
nhân–ái–hoà–bình, là 12 chữ này. Mười hai chữ này làm được chính là Thánh nhân,
là Hiền nhân, không làm được viên mãn, đó là Quân tử. Đó là văn hoá truyền thống
Trung Hoa, có thể nối quỹ đạo với Phật pháp Đại thừa. Phật pháp Đại thừa đem
văn hoá truyền thống Trung Hoa nâng cao hướng lên, nâng lên bình đẳng với cảnh
giới của Phật Bồ-tát. Tiến sĩ Toynbee người Anh đã nhìn ra, những thứ này có thể
cứu toàn thế giới, có thể cứu toàn nhân loại. Chúng ta phải học tập, không học
tập, cứ tuỳ thuận tập khí phiền não, quả báo chắc chắn ở tam đồ.
Phật
dạy cho chúng ta thấu triệt hơn nhà Nho giảng, giảng rõ ràng hơn, ba độc phiền
não tham–sân–si có hay không? Chúng ta suy xét, có. Có thì có phiền phức, quả
báo của tham–sân–si là ba đường ác: sân khuể là địa ngục; tham dục là ngạ quỷ;
ngu si là súc sanh, ngu si là không có trí huệ. Tất cả các giới luật: đều là
phương pháp để đoạn tham–sân–si, không thể có những điều này. Vô tham, vô sân,
vô si gọi là ba thiện căn, tất cả thiện pháp thế–xuất thế gian: sanh ra từ căn
này. Tam đồ lục đạo là sanh ra từ tham–sân–si, ngược lại với ba độc chính là ba
điều thiện. Chúng ta nên đi con đường nào? Đi thế nào là nằm ở nơi khởi tâm động
niệm ngay trong đời sống hàng ngày. Chúng ta khởi tâm động niệm, điều quan trọng
nhất là tập khí, tập khí khi đang phát tác thì tự mình không nhận biết, nhưng tập
khí ấy sẽ khởi tác dụng, khi chúng ta xả báo, tức là khi lâm chung, nó sẽ khởi
tác dụng. Nó sẽ dẫn dụ chúng ta đi đến ba đường ác, quý vị nói đáng sợ biết
bao.
Do
vậy, tu hành chân chánh là tu hành ở đâu? Tu hành trong sáu căn tiếp xúc cảnh
giới sáu trần, mắt thấy sắc, nhìn thấy rõ ràng, nhìn thấy minh bạch, đó là trí
huệ, Bát-nhã đang soi, soi chiếu rõ ràng, tu điều gì? Tu đừng Khởi tâm động niệm.
Không được, không kiểm soát được Khởi tâm động niệm, không phải là cảnh giới của
chúng ta, đó là cảnh giới của Pháp thân Đại sĩ, thấy sắc, nghe thanh các ngài
như như bất động, không Khởi tâm không Động niệm, [là] Pháp thân Bồ-tát. Xuống
dưới Pháp thân Bồ-tát đều sẽ khởi tâm động niệm, nhưng mà như thế nào? Các vị ấy
không có Phân biệt, không có Chấp trước, đó là Bồ-tát. Lại xuống một bậc nữa,
các ngài có Phân biệt nhưng không Chấp trước, đó là A-la-hán. Khởi tâm động niệm,
Phân biệt, Chấp trước có hết thảy, thì đó là phàm phu lục đạo, trời và người
cũng không ngoại lệ, cũng là phàm phu lục đạo, không ra khỏi sáu đường luân hồi,
vô cùng đáng sợ.
Phần
sau圓足“viên túc” này: là đầy đủ viên mãn. 故知圓滿即華嚴宗圓明具德之義 “Cố tri viên mãn tức Hoa Nghiêm tông viên minh cụ đức chi nghĩa” (Nên biết viên mãn chính là
nghĩa của tròn sáng đủ đức trong Hoa Nghiêm tông). Câu thứ ba trong năm câu
của Đại sư Lục tổ: “Hà kỳ Tự Tánh, bổn tự cụ túc”, với điều này là một ý
nghĩa, hoàn toàn giống nhau. Do đó chúng ta cầu trí huệ, cầu phước báo, cầu tài
nghệ đều phải cầu từ bên trong, [chứ] bên ngoài không có, bên ngoài là giả thôi.
Phật Bồ-tát hoàn toàn là dùng nội công, dùng phương pháp gì? Dùng Giới–Định–Huệ.
Dùng Giới–Định–Huệ có thể cầu được những điều thật, không dùng Giới–Định–Huệ chỉ
cầu những thứ giả, không phải là thật. Ngày nay khoa học kỹ thuật toàn là hướng
ngoại cầu, không biết hướng nội cầu, cho nên họ có thể được thọ dụng, nhưng có
hạn chế. Quý vị nói không có Thiên nhãn, dùng kính viễn vọng có thể nhìn thấy
được xa, đó là giả, người ta không cần dùng những thứ đó, mà có thể nhìn xa,
chúng ta vẫn cần những thứ đó. Quý vị hiểu rằng khoa học là mượn ngoại lực, rất
là hữu hạn, trợ giúp rất có hạn. Phật Pháp dùng nội công, khiến chúng ta tự
khôi phục sáu loại năng lực: Thiên nhĩ, Thiên nhãn, Tha tâm, Túc mạng, Thần
túc, Lậu tận, thật được thọ dụng, thật được đại tự tại, không thể không biết điều
này. Hôm nay hết thời gian rồi, chúng ta học tập đến đây thôi.
(Hết tập 158)
Nguyện đem công đức này
Hướng về khắp tất cả
Đệ tử cùng chúng sanh
Đều sanh nước Cực Lạc
Sớm viên thành Phật quả
Rộng độ khắp chúng sanh.
Nam Mô A Di Đà Phật.
ffiết điều
này. Hôm nay hết thời gian rồi, chúng ta học tập đến đây thôi.
(Hết tập 158)
Nguyện đem công đức này
Hướng về khắp tất cả
Đệ tử cùng chúng sanh
Đều sanh nước Cực Lạc
Sớm viên thành Phật quả
Rộng độ khắp chúng sanh.
Nam Mô A Di Đà Phật.
(Hết tập 158)
Nguyện đem công đức này
Hướng về khắp tất cả
Đệ tử cùng chúng sanh
Đều sanh nước Cực Lạc
Sớm viên thành Phật quả
Rộng độ khắp chúng sanh.
Nam Mô A Di Đà Phật.