Responsive Menu
Add more content here...

Tập 163 – Tịnh Độ Đại Kinh Khoa Chú 2014

TỊNH ĐỘ ĐẠI KINH KHOA CHÚ 2014

(Giảng lần thứ 4)

Tập 163

Hòa thượng Thích Tịnh Không chủ giảng.

Giảng tại: Hiệp Hội Giáo Dục Phật Đà Hồng Kông.

Thời gian: Ngày 12 tháng 1 năm 2015.

Dịch giả: Cự Lang.

Giảo chánh: Thích Thiện Trang.

          Kính chào chư vị Pháp sư, chư vị đồng học, mời ngồi. Mời mọi người cùng tôi đồng quy y Tam Bảo:

阿闍黎存念,我弟子妙音,始從今日,乃至命存,皈依佛陀,兩足中尊;皈依達摩,離欲中尊;皈依僧伽,諸眾中尊。“A-xà-lê tồn niệm, ngã Đệ tử Diệu Âm, thuỷ tùng kim nhật, nãi chí mạng tồn, quy y Phật-đà, Lưỡng túc trung tôn; quy y Đạt-ma, Ly dục trung tôn; quy y Tăng-già, Chư chúng trung tôn. (3 lần)

          Mời xem Đại Kinh Khoa Chú trang 426, bắt đầu xem từ hàng thứ nhất, khoa đề: 勤修 “Cần Tu” (Siêng Năng Tu Hành). Mời xem kinh văn:

【精勤求索。恭慎保持。修習功德。滿足五劫。】“Tinh cần cầu sách, cung thận bảo trì, tu tập công đức, mãn túc ngũ kiếp” (Tinh tấn siêng năng tìm cầu chọn lựa, cẩn thận giữ gìn, tu tập công đức, đầy đủ năm kiếp).

          Kinh văn chỉ có 16 chữ, hàm nghĩa trong 16 chữ này sâu rộng, không có cùng tận. Chúng ta xem Chú Giải của Niệm lão, trước tiên nói “tinh cần cầu sách”, kinh văn của hai loại bản dịch thời Hán và Ngô là勇猛精進,勤苦求索 “dũng mãnh tinh tấn, cần khổ cầu sách” (dũng mãnh tinh tấn, siêng khổ cầu chọn). Nên biết chữ “tinh” này chính là tinh tấn, “cần” tức là cần khổ, “cầu” là nguyện cầu, “sách” là tìm lấy. 4 chữ trong những chỗ này, chúng ta phải nghĩ đến việc đạt được lợi ích chân thật của Phật pháp ngay trong một đời này, 4 chữ này thực sự rất quan trọng, nhất định không được xem thường. Nhất định phải tinh tấn, nhất định phải siêng năng, cần khổ, điều chúng ta muốn cầu là gì? Điều chúng ta muốn cầu, điều đạt được là gì? Tìm lấy tức là đạt được, không biết các đồng học có phải có tâm nguyện này thật không? Không có gặp được Phật pháp thì chắc chắn làm không được, nếu muốn một đời thoát ly Lục đạo luân hồi, thì thật không phải là chuyện dễ dàng. Nhưng quý vị gặp được Phật pháp, gặp được Đại thừa, gặp được Tịnh Độ tông, gặp được Bản Hội Tập của bộ Kinh Vô Lượng Thọ này, thì duyên phận của quý vị đầy đủ rồi. Có thể mãn nguyện không? Chỉ cần làm cho được 4 chữ này, thì quý vị chắc chắn mãn nguyện. Phải biết rằng thời gian trong luân hồi rất dài, quá khứ vô lượng kiếp, vị lai vẫn là vô lượng kiếp. Đời người ở thế gian rất ngắn, người có thể sống 100 tuổi không nhiều, dẫu cho sống được 112 tuổi giống như lão Hoà thượng Hải Hiền, cũng chỉ là khoảng khảy búng tay.

          Lần đầu tiên tôi đến Hồng Kông để giảng kinh, là năm 1977, khi ấy Hồng Kông chưa có đông người đến vậy, cũng không nhiều nhà cửa như bây giờ, cao ốc thông thường có lẽ cao khoảng 14 tầng, 13-14-15 tầng, bây giờ những toà cao ốc ấy vẫn còn, mọi người hơi để ý một chút, quý vị nhìn xem trên mỗi đường phố, những ngôi nhà cũ, chúng được xây vào khi đó. Toà cao ốc lớn nhất của Hồng Kông là 50 tầng, ở sát ven biển, tôi nhớ toà nhà đó, cửa sổ cửa chính là hình tròn, hễ nhìn là thấy. Toà nhà cao nhất lúc ấy, bây giờ đã hạ bậc rồi, những ngôi nhà bên cạnh còn cao hơn nhà đó. Các đồng tu xuất gia ở Hồng Kông, dường như tôi đều quen biết, từ già đến trẻ, người tuổi tác lớn, xấp xỉ tuổi với tôi, thậm chí còn nhỏ tuổi hơn tôi, có thể nói 3/4 những người đó cũng không còn sống, không còn bạn cũ nữa. Hơn 30 năm đích thực chỉ như một búng tay, nhớ lại thì giống như chỉ mới ngày hôm qua. Cho nên đừng tưởng rằng chúng ta ở thế gian này còn có thời gian rất dài, đó là nhận thức sai lầm; Cũng đừng tưởng rằng những điều ta hưởng thụ hiện giờ, những thứ đã sở hữu, cảm thấy rất vui mừng, đó là giả thôi, một hơi thở không còn, thì cũng chẳng đem theo được gì đâu. 

          Học Phật chân chánh, nếu muốn liễu sanh tử thoát Tam giới, nếu muốn vãng sanh đến Thế giới Tây Phương Cực Lạc, nguyện này (tức là ý niệm này) không thể không mạnh, loại ý niệm này phải rất mạnh mẽ, niệm niệm đều nghĩ đến A Mi Đà Phật, niệm niệm nghĩ đến Thế giới Tây Phương Cực Lạc. Quyển sách này chính là đức Thích Ca Mâu Ni Phật vì chúng ta mà giới thiệu Thế giới Tây Phương Cực Lạc, giảng rất rõ ràng, mọi khía cạnh đều nói rõ ràng, nói sáng tỏ, từng câu đều là lời thật, không có câu nào là lời giả, bao gồm bộ Tập Chú của lão Cư sĩ Hoàng Niệm Tổ, đều không có một chữ nào là giả dối. Pháp môn này rất dễ tu. Rất khó được, lão Hoà thượng Hải Hiền làm gương mẫu tốt nhất cho chúng ta. Ngài qua đời 2 năm trước, cách chúng ta thời gian rất gần, ngài qua đời vào tháng 1 năm 2013, hiện giờ là tháng 1 năm 2015, vừa tròn 2 năm, là biểu pháp vì chúng ta trong thời đại gần đây nhất. Ngài sanh vào quãng năm Quang Tự đời Mãn Thanh, khi vãng sanh đã 112 tuổi. Sanh ra trong vùng nông thôn nghèo khó, từ nhỏ không có cơ hội đi học, không biết chữ, chưa từng đi học, gia cảnh nghèo nàn. Sau khi nhà Mãn Thanh sụp đổ, Trung Quốc sa vào quân phiệt cát cứ, kế tiếp thì Nhật Bản xâm lược Trung Quốc, chúng ta đã qua 8 năm kháng chiến, khổ không kể xiết. Cho nên Pháp sư xuất gia khi 20 tuổi, nhìn thấu rồi. Ông nội, cha mẹ trong nhà đều là những người học Phật, duyên với Phật rất sâu. Mặc dù chưa bao giờ đi học, nhưng gia giáo rất tốt, cha mẹ làm gương mẫu tốt cho ngài, làm người chân thành thật thà, cũng rất thông minh. Đối với nghề làm nông, từ nhỏ đã dần lớn khôn trên ruộng vườn, nên kinh nghiệm vô cùng phong phú. 20 tuổi xuất gia, về Sư phụ ngài, chúng ta xem thấy trên đĩa phim, đó là người tuyệt vời, như trong Phật pháp Đại thừa đã nói, Minh tâm Kiến tánh, Đại triệt Đại ngộ, Sư phụ ngài là người như thế. Nhìn thấy từ chỗ nào? Từ lúc Sư phụ thế độ cho ngài. Ngài lên núi tìm Sư phụ mong cầu xuất gia, xin Sư phụ nhận ngài làm đồ đệ, Sư phụ không có từ chối, lập tức xuống tóc cho ngài, biết người, đó là nhân tài của Pháp môn.

          Trong Phật pháp có biết chữ hay không biết, có đi học hay không đi cũng không sao. Thiền tông thời nhà Đường sinh ra một vị Tổ sư, là Đại sư Lục tổ Huệ Năng, cả đời không biết chữ, chưa từng đi học, ngài là một tiều phu đốn củi, sống nhờ vào lao lực khổ nhọc. Tiều phu vào thời kháng chiến vẫn rất nhiều, thời kháng chiến ở trong thành phố không có đèn điện, không có điện, không có nước máy, cho nên có việc múc nước vào trong thành để bán, đốn củi vào trong thành để bán, công việc rất khó nhọc. Ngài là tiều phu, sống bằng nghề đốn củi, phụ thân qua đời rất sớm, nương nhau sống cùng với mẹ, có năng lực này. Tình cờ bán củi, đã bán củi xong, là bán cho một khách sạn, khi rời khỏi, nghe thấy có người đang niệm kinh trong khách sạn, ngài đứng đó xem thử, nghe họ niệm hết bài kinh, nghe cảm thấy rất có ý vị, ngài hiểu. Người trong đó đang niệm Kinh Kim Cang, ngài gõ cửa, vị Cư sĩ họ Trương bên trong mở cửa ra, hỏi ngài có việc gì? Ngài nói: Ông vừa mới niệm sách gì vậy, nghe rất hay, rất có ý vị. Cư sĩ Trương vừa nhìn, người bán củi này nghe được rất có ý vị, bảo ngài đi vào trò chuyện với ông, sau cuộc trò chuyện này, ông bội phục ngài năm vóc sát đất, khuyên ngài: Anh nên đi đến Hoàng Mai, đến cầu pháp với Đại sư Ngũ tổ Hoằng Nhẫn ở đó, anh nhất định có thành tựu. Nhưng gia cảnh bần cùng, một ngày không đốn củi, thì không có chi phí sinh hoạt trong một ngày. Cư sĩ Trương này rất hiếm thấy, đưa cho ngài 10 lạng bạc, 10 lạng bạc ngài kiếm một năm cũng không nổi, cho ngài làm phí an gia. Mẹ già ở nhà không có ai chăm sóc, ông nói được, những Phật hữu chúng tôi, chúng tôi tìm vài người để chăm sóc mẹ anh, anh cứ yên tâm đi. Ngài đi thật, duyên phận. Đến Hoàng Mai, Đại sư Ngũ tổ hỏi ngài: Anh đến muốn cầu điều gì? Quả nhiên không giống như người bình thường, ngài trả lời Ngũ tổ nói: Con đến để cầu làm Phật. Quý vị xem khẩu khí lớn biết bao, ngài đến để cầu mong làm Phật, ngài không vì điều chi khác. Ngài quả thật thành Phật, 8 tháng, thời gian 8 tháng thật thành Phật rồi, Ngũ tổ truyền y bát cho ngài. Vị Tổ sư không biết chữ, sau khi khai ngộ, Đại triệt Đại ngộ, đều biết rõ hết tất cả các pháp. Cho nên trí huệ mở, điều này quan trọng.

          Học Phật, Pháp môn trong nhà Phật rất nhiều, tức là phương pháp rất nhiều, được gọi là tám vạn bốn ngàn Pháp môn, môn nào cũng có thể thành Phật. Phải học pháp ra sao? Phải chuyên nhất, phải chuyên, phải nhất; Không chuyên, học nhiều quá không được, vậy sẽ không thành tựu. Chuyên nhất là gì? Chuyên nhất tức là Thiền định, chuyên nhất đến mức độ nhất định, thì tự nhiên khai ngộ, những điều đã nói trong Đại thừa giáo đều có thể được chứng minh. Phật nói với chúng ta vũ trụ này do từ đâu đến? Trong các tôn giáo đều nói là do Thần tạo ra, người thời nay trải qua giáo dục khoa học 400 năm, không có ai tin tưởng đối với Thần tạo vũ trụ. Song Phật pháp không có nói do Thần tạo ra, Phật dạy vũ trụ do từ đâu đến? Phật nói chúng ta, vũ trụ đến từ ý niệm. Ý niệm của ai? Ý niệm của chính quý vị. 一切法從心想生 “Nhất thiết pháp tùng tâm tưởng sanh” (Tất cả các pháp sanh từ tâm tưởng), 相由心生 “Tướng do tâm sanh”, 境隨心轉 “Cảnh tuỳ tâm chuyển”, Phật đã nói ra hết những điều này cho quý vị, do tâm tưởng sanh. Đại sư Huệ Năng khai ngộ, khai ngộ tức là Kiến tánh, Tánh là như thế nào? Quý vị hãy nói ra xem. Ngài nói ra 5 câu, trên thực tế chính là 20 chữ. Thứ nhất là nói với chúng ta, Tự Tánh “bổn tự thanh tịnh”, không có mảy may ô nhiễm. Tự Tánh tức là Chân Tâm, người người đều có Chân Tâm, Chân Tâm tức là Phật, quý vị dùng Chân Tâm thì gọi là thành Phật, quý vị dùng Vọng Tâm thì gọi là phàm phu. Tâm sanh diệt chính là ý niệm, niệm trước diệt niệm sau sanh, đó gọi là Vọng Tâm, đó không phải là Chân Tâm, Chân Tâm bất động. Cho nên Chân Tâm thứ nhất là thanh tịnh. Thứ hai là: “Bổn bất sanh diệt”, Chân Tâm không có sanh diệt, đó là chính mình thật sự. Thứ ba là: “Bổn tự cụ túc”, trong Chân Tâm đầy đủ mọi thứ. Cho nên không được tìm kiếm bên ngoài, bên ngoài tìm không thấy, quý vị phải tìm bên trong, tìm bên ngoài là sai rồi. Vì sao? Bởi tất cả pháp. Câu thứ tư là nói “bổn vô động dao”, Chân Tâm là bất động, không có lay động, chính là Tự Tánh vốn định. Câu cuối cùng là: “Năng sanh vạn pháp”, vạn pháp chính là vũ trụ. Vũ trụ là đến từ đâu? Ngài Lục tổ đều nói vô cùng rõ ràng, giống như điều Phật giảng, tất cả các pháp sanh từ tâm tưởng sanh, chúng ta khởi tâm động niệm mới có toàn bộ vũ trụ, nếu không khởi tâm không động niệm, thì vũ trụ này không có nữa.

          Vũ trụ là giả, không phải là thật, nhất định phải nhìn thấu, sau khi nhìn thấu, quý vị mới có thể buông xuống, sau khi buông xuống, quý vị mới có thể chứng đắc, tìm thấy được Chân Tâm, dùng Chân Tâm không dùng Vọng tâm, người ấy được gọi là Phật, được gọi là Bồ-tát. Bồ-tát dùng Chân Tâm, A-la-hán vẫn là dùng Vọng tâm, các ngài vẫn không phải dùng Chân Tâm, nhưng trong Vọng tâm giảng được chân thật nhất, tương ứng với Chân Tâm, không quá chênh lệch, bất luận nhìn từ khía cạnh nào, chúng ta đều không phân tách ra được, nhưng thực tế các ngài vẫn dùng A-lại-da, các ngài chưa dùng Chân Tâm, người dùng Chân Tâm là Bồ-tát. Cao cấp nhất trong hàng Bồ-tát là Pháp thân Bồ-tát, từ dưới bậc Pháp thân Bồ-tát đều là dùng Vọng tâm. Vọng tâm tu được hay nhất, luôn luôn tuân thủ lời dạy của đức Phật, các ngài ấy khởi tâm động niệm, ngôn ngữ tạo tác đều rất giống Phật, cho nên chúng ta cũng gọi các ngài ấy là Phật. Đại sư Thiên Thai gọi các vị đó là Tương tự Tức Phật, rất giống, chúng ta gọi các vị ấy là Phật, vì sao không phải là thật? Bởi các ngài dùng là Vọng tâm, so với chúng ta hiện đang dùng là cùng một tâm. Tâm của chúng ta rất loạn, tạp niệm rất nhiều, vọng tưởng rất nhiều; Các ngài không loạn, có thể giữ vững ở một, các ngài có thể chuyên nhất, chuyên nhất tức là Thiền định, mặc dù không thể thành Phật. Nhưng các ngài trụ ở đâu? Ở cõi trời, trời có 28 tầng, các ngài trụ trên 4 tầng cao nhất, trời Vô sắc giới, tuổi thọ rất dài. 

          Những điều này chỉ có Phật pháp là nói rõ ràng, nói sáng tỏ. Trước đây chúng ta tóm lại không tránh khỏi nghi ngờ với cách nói này, điều Phật nói không sai, Phật không nói lời giả dối, song không tìm thấy chứng cứ đâu khác. Chúng ta rất may mắn, sanh ra trong thời đại này, thời đại này, khoa học đã kéo dài hơn 400 năm, hơn 400 năm khoa học nghiên cứu rất có tiến bộ, không thể nói không có thành tựu, nhưng thành tựu không tính là lớn so với Phật pháp. Trong Phật pháp, nói tất cả các pháp là sanh từ tâm tưởng, khoa đã chứng minh điều đó, là thật. Cho nên các nhà khoa học cận đại, trong 2-30 năm gần nhất, một loạt những nhà khoa học trẻ tuổi đều đang nghiên cứu về niệm lực, tức là ý niệm. Năng lực của ý niệm không thể nghĩ bàn, đặc biệt là năng lượng của Chân Tâm. Địa cầu ngày nay rối ren như vậy, tai nạn nhiều như vậy, có ngày nào không có? Quý vị xem tin tức truyền hình, lắng nghe đài phát thanh, mỗi ngày đều rất nhiều, hơn nữa rất nghiêm trọng. Tai nạn này là đến từ đâu? Do ý niệm bất thiện gây nên. Còn có rất nhiều lời tiên tri, từ xưa đến nay đã nói trên địa cầu này sẽ có tai nạn lớn, lời tiên tri của người Maya, một số nhà tiên tri của phương Tây đã nói. Tiên tri của người Maya là năm 2012, chúng ta vượt qua bình an, có phải là không có? Nếu nói theo Phật pháp thì không phải không có, mà thế nào? Là được kéo giãn về sau, thật sự là chư Phật Bồ-tát đại từ đại bi, kéo giãn tai nạn đó về sau, không phải không có. Ý nghĩa kéo giãn về sau, [là] hi vọng chúng ta có thể quay đầu, hi vọng chúng ta có thể cải tà quy chánh. Các nhà khoa học nói với chúng ta, nói với chúng ta về niệm lực, cư dân trên địa cầu hiện nay, có khoảng 7 tỉ người, các nhà khoa học nói với chúng ta, các cư dân trên địa cầu này, chỉ cần thật sự có những người chiếm số căn bậc hai của 1% [dân số] có thể thật sự quay đầu, thật sự sám hối, thì có thể hoá giải tai nạn. Căn bậc hai của 1% là bao nhiêu người? Chưa đến 10 ngàn người, con số mà các nhà khoa học cho chúng ta, đại khái khoảng hơn 8000 người. Hơn 8000 người thiện, 7 tỉ người làm ác, 8000 người thiện là có thể cứu vớt trái đất. Chúng ta có thể tin tưởng điều này, cổ nhân nước ta có một câu nói: 邪不勝正 “Tà bất thắng chánh” (Tà không thể thắng chánh). 7 tỉ là Tà niệm, hơn 8000 người ấy thì Chánh tri Chánh kiến, họ là Chánh niệm, tà không thắng chánh, có thể có nhiều người như thế cư trú tại thế gian này, thì thế gian này có thể vượt qua an toàn. Chúng ta có lý do tin tưởng, sự tiến triển khoa học quả thực là thay đổi từng ngày, 2-30 năm sau, Phật giáo không thuộc vào tôn giáo, thuộc về điều gì? Thuộc về Khoa học bậc cao, Triết học bậc cao. Sự huyền bí của vũ trụ được khoa học phát hiện, toàn ở trong kinh Phật, kinh Phật nói còn rõ ràng hơn các báo cáo của họ, viên mãn hơn, không thể không biết việc này.  

          Điều Phật pháp cầu là chân trí huệ, trí huệ này không phải do học mà có, là do bản thân quý vị vốn đã có. Câu thứ ba trong năm câu của Đại sư Huệ Năng vừa nãy nói: “Bổn tự cụ túc”, cụ túc điều gì? Đầy đủ tất cả, đều không khiếm khuyết thứ gì. Trong Kinh Hoa Nghiêm, đức Thích Ca Mâu Ni Phật nêu lên cho chúng ta, quy nạp bổn tự cụ túc thành ba loại lớn: loại thứ nhất là Trí huệ; Loại thứ hai là Đức năng, tức là đạo đức của quý vị, năng lực của quý vị, tài nghệ của quý vị; Loại thứ ba là tướng hảo, bất luận là Chánh báo của mình, thân thể dung mạo, sức khoẻ sống lâu, môi trường cư trú, đều giống như Thế giới Cực Lạc, không có khiếm khuyết thứ gì, tốt đẹp. Trong Tự Tánh hết thảy chính mình đầy đủ, đừng tìm bên ngoài, tìm bên trong, tìm bên trong chính là cầu nhất tâm. Tôn chỉ tu hành trong Kinh này, là Nhất tâm Bất loạn, Nhất tâm chính là Tự Tánh vốn định. Vì thế Phật dạy rằng, tất cả chúng sanh vốn dĩ là Phật. Hiện tại vì sao không phải là Phật? Hiện tại đã có Vọng niệm, Vọng niệm đang ngày ngày chỉ huy quý vị, khiến quý vị tạo nghiệp, biến thành phàm phu. Thật ra thế nào? Thật ra quý vị vẫn thật sự là Phật, không có gì thay đổi, sự thay đổi là giả, không phải là thật, chân thật thì từ trước đến nay không có thay đổi. là Phật nào? Nói bằng lời hiện thực, thì gọi là A Mi Đà Phật, A Mi Đà Phật là chính mình.

          Những năm nay, chúng tôi đề xướng Pháp sự Tam Thời Hệ Niệm. Tam Thời Hệ Niệm là do Thiền sư Trung Phong thời nhà Nguyên biên soạn, chúng tôi đã dùng xấp xỉ được hơn 20 năm, những Pháp hội khác chúng tôi đều không có, chỉ có một kiểu này thôi, chuyên nhất. Trong Pháp bổn, Thiền sư có hai câu nói rất hay, phải ghi nhớ: 我心即是阿彌陀佛,阿彌陀佛即是我心 “Ngã tâm tức thị A Mi Đà Phật, A Mi Đà Phật tức thị ngã tâm” (Tâm ta tức là A Mi Đà Phật, A Mi Đà Phật tức là tâm ta). Quý vị xem, lời vị Tổ sư này nói, lời thật, không phải giả dối. 此方即是淨土 “Thử phương tức thị Tịnh Độ” (Nơi này tức là Tịnh Độ), chính là Thế giới Cực Lạc, Thế giới Cực Lạc chính là nơi này. Vì sao? Bởi quý vị thật sự có thể thân tâm thanh tịnh, thì vũ trụ thanh tịnh, thì thế giới tốt đẹp. Cho nên Phật dạy chúng ta, mục tiêu cuối cùng của giáo học Phật giáo, là quay về Tự Tánh, đó gọi là thành Phật. Thành Phật chính là quay về Tự Tánh, tìm ra được Chân Tâm của quý vị, quý vị dùng việc bằng Chân Tâm (xử sự đãi người tiếp vật) là thành Phật. Quý vị dùng Vọng tâm, vẫn là có sanh có diệt, có nhiễm có tịnh, có thiện có ác, đó đều là Vọng Tâm. Trong Chân Tâm không có, không có thiện ác, không có nhiễm tịnh, không có Khởi tâm, không có Động niệm, không có Phân biệt, không có Chấp trước, đó là Chân Tâm. Luyện như thế nào? Luyện cho ra Chân Tâm, đào thải đi những điều hư vọng, những thứ giả dối, buông xuống thì đúng.

          Đức Thích Ca Mâu Ni Phật ở trong bộ Kinh điển này, đó chính là sách mô tả về Thế giới Tây Phương Cực Lạc, sử dụng lối viết theo Văn ngôn văn, Văn ngôn văn này là Văn ngôn văn cạn rõ ràng nhất trong nền văn học nước ta, cũng tức là văn Bạch thoại thời bấy giờ. Kinh này được truyền sang nước ta vào thời kỳ nào? Thời nhà Hán. Đọc bản Kinh chính là đọc văn Bạch thoại của thời nhà Hán. Tại sao? Bởi cần cho mọi người đều đọc hiểu được, những vị Pháp sư phiên dịch kinh, mục đích là muốn cho mọi người xem hiểu. Cho nên kinh Phật đều không thâm sâu, nếu quý vị cầm cổ văn so với kinh, thì quý vị sẽ hiểu ra, cổ văn khó hiểu, còn kinh Phật dễ hiểu, cạn rõ ràng dễ dàng minh bạch, nên các vị Đại sư phiên dịch kinh đều không phải là người đơn giản.

          Cho nên lão Hoà thượng Hải Hiền, đây là người cận đại chúng ta, cách chúng ta rất gần rất gần, mới qua đời 2 năm trước thôi. Ngài chỉ một câu Phật hiệu, không biết chữ, đạt đến cảnh giới nào? Tương đồng với cảnh giới của Lục tổ, ngài khai ngộ rồi, với Thích Ca Mâu Ni Phật ở dưới cội Bồ-đề, đêm thấy sao sáng, Đại triệt Đại ngộ, là thuộc về cùng một đẳng cấp. Điều đó mách cho chúng ta không phải là giả. Song cả đời ngài đã không có nói với ai, vì sao không nói? Bởi thầy không cho phép ngài nói. Khi thầy xuống tóc cho ngài, lúc đó ngài 20 tuổi, bẩm tính thiên phú của ngài ấy tốt, ngài chính là bậc pháp khí như trong Phật pháp nói, ngài có thể rèn dũa, ngài có thể thành tựu. Ngài ấy thật thà, nghe lời, thật làm, chỉ cần có đủ những điều kiện này, thì dễ dạy. Sư phụ chỉ dạy ngài một câu Phật hiệu, Nam Mô A Mi Đà Phật, là câu Phật hiệu này, kêu ngài cứ niệm luôn luôn. Ngài cứ lão lão thật thật niệm suốt 92 năm, không rẽ hướng khác, cũng tức là không đổi đề mục, cứ một câu Phật hiệu này, do thầy dạy ngài, thật thà niệm 92 năm, thời gian dài đến thế. Rốt cuộc ngài niệm đến cảnh giới nào? Chúng ta xem đĩa CD ấy, xem qua là biết rõ, phải xem kỹ lưỡng. Căn tánh tốt như vậy, nghe lời, thật làm, thật thà không dễ tìm thấy, không dễ tìm loại người ấy. Thật thà là gì? Ngài tin tưởng, không có nghi ngờ, thầy dạy như thế nào thì khăng khăng quyết lòng học, bất kỳ ai nói Pháp môn này hay, Pháp môn kia ra sao, ngài không mảy may quan tâm, không liên quan với ngài. Ngài chỉ giữ theo lời thầy đã dạy, không bị lung lay bởi cảnh giới, không vì hoàn cảnh mà sanh nghi hoặc, người như vậy, bậc căn tánh đó không dễ dàng gặp được, ngay trong một đời có thể gặp nhưng không thể cầu. Có hàng căn tánh như thế, ngài niệm đến Công phu Thành phiến thì cần bao lâu? Chúng ta thấy những người tu hành trong quá khứ, những người vãng sanh ấy, tuyệt đại đa số đều là 3 năm, là thành công. Thời gian 3 năm không dài, 1000 ngày mà thôi, thì được Công phu Thanh phiến. Chỉ cần được Công phu Thành phiến, thì A Mi Đà Phật sẽ đến báo tin. Trong Kinh Lăng Nghiêm đã nói rằng, Bồ-tát Đại Thế Chí nói rằng: “Ức Phật niệm Phật, hiện tiền đương lai tất định kiến Phật” (Nhớ Phật niệm Phật, hiện tại tương lai chắc chắc thấy Phật). Hai chữ “tất định” nói khẩn thiết biết bao, cũng không có một mảy may nghi ngờ. Quý vị niệm Phật, trong tâm quý vị có Phật, sự nhớ Phật này là trong tâm thật có Phật, ngoại trừ Phật ra, không có Tạp niệm, không có Vọng tưởng, Khởi tâm động niệm chỉ là một câu A Mi Đà Phật, thì đúng rồi. Quý vị có thể kiên trì 3 năm không đổi, thì A Mi Đà Phật đến, hoặc là ở trong mộng, hoặc là ở trong định, Phật đến thăm quý vị, đến an ủi quý vị, đến kiên định tín tâm cho quý vị, để quý vị biết, quý vị đã có liên hệ với Phật (với A Mi Đà Phật), Phật sẽ nói với quý vị, quý vị còn có tuổi thọ dài bao nhiêu, đến lúc thì Phật sẽ tiếp dẫn quý vị sang Thế giới Cực Lạc. Mở tâm rồi, nhìn thấy, đó không phải là giả. 

          Trên cơ sở này, có một vài người (khả năng vẫn là đa số, không phải thiểu số, cơ hội thấy được A Mi Đà Phật hiếm có), sẽ yêu cầu A Mi Đà Phật: Tuổi thọ con còn, nhưng con không cần nữa, bây giờ con đi theo Ngài. A Mi Đà Phật từ bi, không một ai không đồng ý, thật đưa họ đi rồi. Cho nên chúng ta nhìn thấy ghi chép trong Tịnh Độ Thánh Hiền Lục, trong Vãng Sanh Truyện, có khá nhiều người, có lẽ đều là trước sau 3 năm thì họ vãng sanh. Tuyệt đối không phải là tuổi thọ của họ vừa vặn đã hết, đâu có chuyện trùng hợp đến vậy. Như ngài Oánh Kha đời Tống trong ghi chép của người xưa, tuổi thọ ngài ấy vẫn còn 10 năm, nhưng không cần nữa, yêu cầu Phật dẫn ngài đi. Phật hẹn với ngài ấy: Được, 3 ngày sau Ta đến tiếp dẫn con, 3 ngày sau, ra đi thật. Cho nên chúng tôi tin rằng, đồ đệ của lão Hoà thượng Đế Nhàn, người thợ vá nồi vãng sanh, cũng là người gần thời với chúng ta, chuyện xảy ra thời kháng chiến. 3 năm vãng sanh, tôi tin rằng ngài ấy không phải hết tuổi thọ, ngài ấy mới bốn mươi mấy tuổi, chắc chắn rằng ngài ấy vẫn còn tuổi thọ nhưng ngài ấy không cần nữa, đi theo Phật, Phật dẫn ngài ấy đi thật. Ngài ấy là đứng yên vãng sanh, sau khi chết rồi, vẫn còn đứng 3 ngày. Một số Phật hữu báo tin cho Sư phụ ngài ấy, khi đó chưa có phương tiện giao thông, đều là đi bộ, đến chùa Quán Tông, đi đi về về hết 3 ngày, Sư phụ của ngài ấy đến, lão Hoà thượng Đế Nhàn đến, ngài ấy đứng suốt 3 ngày. Lão Hoà thượng tán thán ngài, rất hiếm thấy, có thành tựu thật sự. Người đứng yên vãng sanh nhiều, nhưng sau khi vãng sanh còn đứng 3 ngày, thì có lẽ chỉ có một mình ngài, không có người thứ hai.

          Người như vậy tôi đã thấy qua tại Hoa Kỳ, cũng là Cư sĩ tại gia, khi vãng sanh, tự mình biết. Những người ấy rất thông minh, cũng không tiết lộ một chút tin tức cho người khác, thậm chí họ cũng không nói cho con cháu trong nhà, vì sao? Bởi sợ những người đó làm chướng ngại. Họ viết di chúc, dặn dò hậu sự cho mình thật rõ ràng rồi, mới ra đi, không dính một dấu vết nào. Tôi ở San Francisco gặp được một người, một bà cụ, hơn 70 tuổi, con trai, con dâu sanh một đứa trẻ ở Mỹ, bà sống ở Đài Loan, đưa bà sang chăm sóc cháu nhỏ, làm việc nhà. Bà cũng không biết làm gì, bà niệm Phật, niệm Phật thì người nhà cũng không quấy nhiễu, cho dù ở Mỹ, hai vợ chồng đều phải đi làm, cháu nhỏ giao cho bà cụ trông. Đứa cháu 3, 4 tuổi, đi trường mẫu giáo, một mình bà cụ ở nhà niệm Phật. Đến ngày ra đi, mỗi buổi sáng sớm bà cụ dậy sớm để nấu bữa sáng, sau khi họ ăn xong, người đi học thì đi học, người đi làm thì đi làm, đều đi cả. Sau khi con trai, con dâu dậy, thấy bà cụ không có động tĩnh, cũng không ai nấu cơm, cảm thấy rất ngạc nhiên, mở phòng bà cụ ra, bà cụ đã mặc bộ áo tràng, ngồi ở trên giường, ngồi xếp bằng trên giường, gọi bà không thấy trả lời, xem cho kỹ, là ra đi rồi. Bên cạnh còn để lại di chúc, hơn nữa, đồ tang của con trai, con dâu, đứa cháu, bà cũng làm cả rồi. Nói cách khác, chí ít chúng ta hiểu rõ chắc rằng bà đã biết 3 tháng trước, bà có nhiều thời gian để lo những điều hậu sự rõ ràng đến như vậy, để người nhà bà không lo lắng chút nào. Đó là thật, không phải giả, chúng tôi có đồng học đích thân đã thấy. Người niệm Phật vãng sanh ở Mỹ, tôi đã nghe nói rất nhiều. Đó đều là làm chứng minh cho chúng ta, là thật, không phải giả. Tại sao bà cụ thành công? Bởi chuyên nhất, bà không có Tạp niệm, không có Vọng tưởng. Ở Mỹ nghe kinh là vô cùng không dễ, người già ra ngoài, không tự lái xe được, rất không thuận tiện. Bắt xe buýt công cộng, xe buýt công cộng có lẽ tầm nửa tiếng, một tiếng mới có một chuyến, vì thông thường người ta đều tự lái xe. Những người ấy quá nửa là đã già, người già không có chuyện đặc biệt thì họ cũng không muốn ra ngoài. Cho nên họ làm những tấm gương tốt, để người nhà nhìn thấy, để Phật hữu nhìn thấy, để hàng xóm nhìn thấy, đó đều là hoằng pháp lợi sanh. Có người nào già rồi mà không có bệnh khổ, không có tử khổ chứ? Những người niệm Phật ấy, đều không có những nỗi khổ ấy.

          Tám khổ mà nhà Phật thường nói, tất cả chúng sanh đều không tránh khỏi. Thứ nhất là Sanh khổ, mỗi người đều trải qua với Sanh khổ, đều lãng quên, tiếp theo là lão, bệnh, tử, bốn loại sanh – già – bệnh – chết này; Ngoài bốn loại này còn có Ái biệt ly, người mà quý vị thân thương, đến khi chết, tóm lại phải chia lìa, không thể chung sống cùng nhau nữa; Oán tắng hội, oan gia đối đầu muốn tách ra mà cứ gặp mãi; Còn có điều Cầu bất đắc, những điều mong cầu trong tâm mà không đạt được; Cuối cùng Ngũ ấm Xí thịnh, Ngũ ấm Xí thịnh là nói sự thay đổi về sinh lý của chúng ta, Phiền não, Tập khí đó đều thuộc về Ngũ ấm. Ai có thể tránh khỏi? Nhưng những người tu hành ấy, họ không có, họ rất rõ ràng, chính mình phải vãng sanh đến Thế giới Cực Lạc, ngay cả con trai, con dâu cũng không nói, nói ra thì chúng sẽ quấy nhiễu, sợ chúng khó chịu, nên không bao giờ nhắc. Bà cụ này để lại di chúc, còn có người không để di chúc, không nói lời nào cả. Biểu diễn cho chúng ta thấy, người có thiện căn nhất định giác ngộ được, đó chính là điều lợi trong học Phật, đó chính là phước báo chân thật của học Phật, lợi ích chân thật. Chúng ta tận tai nghe thấy (đó đều là sự thật), 40 năm trước, tại làng Tướng Quân ở Đài Nam, Đài Loan, cũng là một bà cụ, niệm Phật 3 năm vãng sanh, cũng đứng yên mà ra đi. Sự việc này, có một lần tôi diễn giảng ở Đại học Trung Sơn đã nhắc đến, sau khi tan hội thì có đồng tu ở nơi đó, đến nói với tôi, là sự thật, họ là người hàng xóm. Đó không phải là giả, điều này không thể gạt người. Lý luận, phương pháp tu học, phải tuân thủ nguyên tắc, thì hiệu quả, hết thảy ở trong bộ Kinh này, bộ Kinh này là sách mô tả hay nhất. Thế giới Cực Lạc đến từ đâu? Là do trong Tự Tánh của A Mi Đà Phật biến hiện ra, là tất cả những người niệm Phật bằng tâm cung kính, tâm chân thành, tâm hướng về mà biến hiện ra, đồng tâm đồng nguyện, đồng đức đồng hạnh với A Mi Đà Phật thì đi hết tất cả. A Mi Đà Phật dẫn đầu, biến hiện ra đầu tiên, mỗi người vãng sanh ở Thế giới Cực Lạc đều là góp gạch góp ngói, đem công đức tu hành của chính mình hồi hướng hết thảy sang bên đó, thành tựu như thế, trang nghiêm thù thắng không gì sánh bằng. 

          Cho nên chúng ta nhất định phải học bốn chữ này: Cung, cung kính; Thận, thận trọng, một chút cũng không được tuỳ tiện; Tuân theo; Chấp trì. Chúng ta xem đoạn sau đây: “Cung thận bảo trì”, 《漢譯》曰:我當奉持,當即中住 “Hán dịch viết: Ngã đương phụng trì, đương tức trung trụ” (trong bản Hán Dịch ghi rằng: ngã đương phụng trì, sẽ chắc liền an trụ trong Trung đạo). Cung là kính, thận là cẩn thận, là thành, cũng là an tĩnh, ý nghĩa của tĩnh. “Hán Dịch đương tức trung trụ”, đây là tức khắc, tức khắc là trung trụ, đó đều là nghĩa chân thật của hai chữ “cung thận”. 安住中道,是真恭慎 “An trụ Trung đạo, thị chân cung thận” (An trụ Trung đạo, là cung thận thật sự). Cung kính đến cực độ, trong tâm đều không có một Vọng niệm, đó là cung thận thực sự. Ý nghĩa này sâu, không phải là điều người bình thường có thể làm được, vì sao? Bởi tương ứng với Chân Tâm. Người bình thường, chúng ta quan sát kỹ lưỡng, quan sát điều gì? Quan sát ý niệm. Ý niệm sanh khởi lên, rất nhiều người trong Thiền tông dùng phương pháp này, thấy ý niệm, ý niệm đến từ đâu? Hễ thấy thì ý niệm này không có nữa, ý niệm này đi về đâu? Bảo quý vị dụng tâm ở trong đó, đừng dụng vào ở chỗ khác, cứ từ từ, sau rồi có thể đắc định. Vọng niệm nhẹ đi, Vọng niệm ít đi, đó chính là có tiến bộ. Thật sự không có Vọng niệm thì khai ngộ, hoát nhiên đại ngộ.

          保持與保任同一保字 “Bảo trì dữ bảo nhậm đồng nhất bảo tự” (Bảo trì và bảo nhậm chung một chữ bảo), trong Kinh điển Đại thừa của nhà Phật, bảo nhậm được dùng nhiều nhất, ý nghĩa của chữ này cũng rất sâu. 宗門曰 “Tông môn viết”, trong Thiền Tông nói: 心心不異謂之保 “Tâm tâm bất dị vị chi bảo” (Tâm tâm không khác gọi đó là bảo). Ý niệm, ý niệm trước với ý niệm sau là một ý niệm, đó là bảo, quý vị đích thực bảo trì được, thì đó là Định. Vì sao? Bởi tâm tâm không có sự tương đồng, chắc chắn không có tương đồng. Ý niệm này cực kỳ vi tế, chúng ta phải biết, không biết thì quý vị không hiểu lời này. Tâm tâm tức là ý niệm, niệm trước diệt, niệm sau sanh, vĩnh viễn không ngừng, nó ngừng không trụ, vả lại tốc độ rất nhanh, tức là tần số rất cao. Chúng ta từ đối thoại của đức Thích Ca Mâu Ni Phật với Bồ-tát Di Lặc, thì chúng ta sáng tỏ. Đức Phật hỏi ngài Di Lặc: 心有所念 “Tâm hữu sở niệm” (ý niệm được có bởi Tâm), đó là nói trong tâm phàm phu khởi một ý niệm: 幾念幾相識耶 “Kỉ niệm kỉ tướng thức da” (Bao nhiêu niệm bao nhiêu tướng thức?) đây là kinh văn. Câu này đã hỏi ba vấn đề, ý niệm có bởi tâm, trong ý niệm này có bao nhiêu tế niệm? Có bao nhiêu tướng (tướng tức là hiện tượng vật chất)? Có bao nhiêu thức (thức là hiện tượng tâm lý)? Đã hỏi ba vấn đề. Bồ-tát Di Lặc trả lời: 拍手彈指之頃 “Phách thủ đàn chỉ chi khoảnh” (trong khoảnh khắc khảy tay búng ngón tay). Một khảy ngón tay này, một khảy ngón tay có bao nhiêu ý niệm? Có “32 ức trăm ngàn niệm”. Trăm ngàn là mười vạn, đơn vị là dùng mười vạn, 32 ức nhân 10 vạn, là 320 ngàn tỉ. Một khảy ngón tay, là 320 ngàn tỉ ý niệm, tức là tâm tâm tâm tâm, bao nhiêu chữ tâm? 320 ngàn tỉ, từng cái tiếp nối từng cái. 念念成形 “Niệm niệm thành hình”, hình tức là hiện tượng vật chất. 形皆有識 “Hình giai hữu thức” (Hình đều có thức), lời ấy nói rất hay, điều đó được các nhà khoa học hiện nay chứng minh rồi. Hình là gì? Hình là hiện tượng vật chất. Vật chất có từ đâu? Có từ ý niệm. “Hình giai hữu thức” chính là trong mỗi một hiện tượng vật chất đều có thọ–tưởng–hành–thức, Phật pháp nói Ngũ uẩn. Ngũ uẩn: sắc–thọ–tưởng–hành–thức, sắc là chỉ hiện tượng vật chất, thọ–tưởng–hành–thức là nói hiện tượng tinh thần, thuyết rõ hiện tượng tinh thần với hiện tượng vật chất là một thể, không thể chia, hiện tượng vật chất dù nhỏ đi nữa cũng có thọ–tưởng–hành–thức, nói cách khác, nó đều có thể biết. Nếu quý vị thật sự làm rõ ràng, làm sáng tỏ rồi, chúng ta muốn khởi tâm động niệm âm thầm không để người ta biết, thì không được đâu, tại sao? Bởi người ta đều nhìn thấy hiện tượng vật chất.

          Tiến sĩ Masaru Emoto của Nhật Bản hiện nay làm thực nghiệm với nước, bất kỳ một người nào khởi tâm động niệm thì nước biết, nước có phản ứng. Làm thực nghiệm với nước được mấy trăm ngàn lần, tôi đi đến phòng thí nghiệm của ông để tham quan qua 2 lần. Ông cảm thấy rất ngạc nhiên, tôi nói với ông: Trong kinh Phật, 3000 năm trước Phật đã nói rồi. Ông vô cùng ngạc nhiên, vốn dĩ ông không dám đụng vào tôn giáo, cho rằng tôn giáo đều là mê tín, sợ có tổn thương với họ, người ta nói ông là mê tín. Kết quả tôi nói: Những thứ ông đã làm, trong kinh Phật có, chứng thực rồi. Thật ra, nếu ông không tin, ông hãy đem lời trong kinh điển tôn giáo ra thực nghiệm xem. Vừa thực nghiệm, thì quả nhiên rất tốt đẹp thực sự. Tôi dẫn ông đi vào. Ông đối với tôn giáo, mỗi một tôn giáo, ông đều làm thực nghiệm, mỗi một tôn giáo đều tốt, vì sao? Bởi tâm địa thiện lương. Với tướng tâm địa hiểm ác, thì hình tướng [kết tinh] hiện ra rất đáng sợ; tâm địa thiện lương, tướng [kết tinh] hiện ra rất đáng yêu, ông làm rất nhiều. Ông Masaru Emoto đã qua đời vào năm ngoái, chúng tôi là bạn cũ. Chúng tôi đã làm một căn phòng thí nghiệm ở Đài Nam – Đài Loan, thực nghiệm thành công, kết quả thực nghiệm còn tốt hơn cả ông. Cũng tức là thiết bị của chúng tôi là mới, thiết bị của ông đã là lỗi thời, kính hiển vi được ông sử dụng, hình như chỉ có gấp hơn 200 lần, 250 lần, còn thứ hiện chúng tôi dùng tại Đài Nam là gấp 750 lần, cho nên rõ ràng hơn. Đó là thực nghiệm. Cho nên tướng do tâm sanh, thế thì cảnh là tuỳ tâm chuyển. 

          Năm 2010, trên thế giới có một vài nhà khoa học, tụ tập ở Sydney, Australia, làm báo cáo 2 ngày, có mời tôi, khi đó tôi ở Hồng Kông, tôi không đi, tôi phái 8 người đồng học đi nghe. Báo cáo ngày thứ nhất, là phát hiện khoa học mới nhất, càng lúc càng tiếp cận với điều trong kinh Phật giảng, chúng tôi nghe rồi rất hoan hỉ. Báo cáo ngày thứ hai là chuyên đối với lời tiên tri của người Maya về năm 2012, tiên tri về tai nạn, các nhà khoa học nghiên cứu làm thế nào để đối phó. Trước hết, có tin tưởng hay không? Một nửa tin tưởng, một nửa không tin tưởng, tỉ lệ vừa vặn 1/2, 1 phần 2. Trong đó, kết luận cuối cùng là của khoa học gia Hoa Kỳ, họ nói với chúng ta, tức là điều chúng tôi đã nói trước đó, căn bậc hai của 1% tổng số người cư dân trên địa cầu, thật sự có thể thực hiện bỏ ác dương thiện, đoan chánh tâm niệm, thì có thể cứu vớt tai nạn của địa cầu, địa cầu sẽ không huỷ diệt. Điều này giống như Phật pháp nói. Trong năm đó tại sao không có tai nạn? Vì người trên toàn thế giới đều biết tin tức này, không có người nào lại không quan tâm, tôi tin rằng tất cả những người tin vào tôn giáo, trong năm đó ngày ngày đều cầu nguyện, đích thực đoạn ác tu thiện. Đoạn không được sạch sẽ cũng không sao, tóm lại là làm ít việc xấu một chút, làm nhiều việc tốt một chút, đó là điều khẳng định có, mỗi người đều có thể giữ tâm này, sinh ra một nguồn sức mạnh. Lời của Tiến sĩ Braden quả không sai, chính xác, chúng ta có thể lý giải.  

          Song bây giờ nhìn thấy, tai nạn có vẻ ngày càng nghiêm trọng hơn, đó là gì? Rất nhiều người không tin tưởng, cho rằng đó là giả, tiên tri không đáng tin cậy. Không biết rằng các nhà khoa học nói những lời này, số người tín ngưỡng tôn giáo nghe được, họ thật sự làm việc quay đầu. Bây giờ không xảy ra, cảm thấy thiên hạ thái bình không có gì nữa, ý niệm thiện ít đi, ý niệm ác nhiều lên, tai biến dường như ngày càng nghiêm trọng hơn, chính là đạo lý như thế. Nếu quý vị hỏi có tai nạn hay không? Thì quý vị thấy người ở nơi này tạo ác hay không? Quả nhiên có thể đoạn ác tu thiện, điều bất thiện ở trong xã hội này mà ngày sau ít hơn ngày trước, điều thiện mà ngày sau nhiều hơn ngày trước, thì ở nơi đó chắc chắn không có tai nạn. Vì sao? Vì hiện tượng vật chất là sanh ra từ ý niệm, ý niệm tốt sẽ dẫn đến hiện tượng vật chất tốt, như Thế giới Cực Lạc. Thế giới Cực Lạc vì sao tốt như thế? Bởi A Mi Đà Phật nay thị hiện đang thuyết pháp, ngày ngày dạy, người đi đến nơi đó, đều nghe lời dạy của A Mi Đà Phật, là nghe lời mới vãng sanh, người không nghe lời không thể vãng sanh, họ đi không được. Vì vậy Thế giới Cực Lạc có thể giải thích bằng bốn chữ là: “Người tốt việc tốt”, đều là người tốt, người tâm hạnh bất thiện thì không đi được. Nếu ngày nay chúng ta muốn vãng sanh Thế giới Cực Lạc, thì ghi nhớ, Thế giới ấy là người tốt việc tốt, chúng ta phải làm người tốt, chúng ta phải hành việc tốt, phải biết tương ứng với tiêu chuẩn của Thế giới đó, thì chắc chắn có phần vãng sanh, không khó một chút nào. Tại sao không khó? Vì quý vị vốn dĩ là Phật, cho nên không khó, quý vị vốn không phải là Phật thì khó rồi. Vốn dĩ là Phật, chúng ta phải ghi nhớ điều này, chúng ta phải có tín tâm, không thể có mảy may nghi ngờ.

          Phật là gì? Phật là trí huệ, trí huệ viên mãn rốt ráo gọi là Phật. Mà trí huệ viên mãn rốt ráo là mỗi chúng sanh đều có, không những người có, mà súc sanh cũng có, ngạ quỷ cũng có, đoạ vào địa ngục vẫn có, không bao giờ biến mất, vì sao? Bởi không sanh không diệt. Bất luận ở đường nào cũng không liên quan, tóm lại sẽ có một ngày họ giác ngộ, họ quay đầu, thì họ thành Phật. Đây là điều chúng ta có thể quả quyết, không có mảy may nghi ngờ. Cho nên phải chăm chỉ, phải nỗ lực. Quan trọng nhất, [là] nhìn thấu: tức là biết rõ, đọc Kinh này giúp cho chúng ta biết rõ, biết rõ rồi thì buông xuống, buông xuống Vọng tưởng, buông xuống Tạp niệm, buông xuống danh tiếng lợi dưỡng, buông xuống tham–sân–si–mạn. Ngày sau chúng ta càng gần kề Phật hơn ngày trước, đến mức độ nhất định, thì A Mi Đà Phật đến thông báo quý vị, báo tin cho quý vị. Lão Hoà thượng Hải Hiền, một đời ngài thấy A Mi Đà Phật, gặp mặt bao nhiêu lần? Theo tính toán bảo thủ nhất của tôi, tuyệt đối không chỉ 10 lần. Tại sao? Bởi sau khi ngài đắc Lý nhất tâm Bất loạn, trong tâm muốn thấy Phật bèn hiện tiền, tuỳ lúc tuỳ nơi, chỉ cần trong tâm nghĩ A Mi Đà Phật, thì A Mi Đà Phật hiện thân, đó là thật. Nếu chúng ta mà tu đến Lý nhất tâm Bất loạn, thì cũng như vậy, cũng là như thế, muốn thấy Phật thì Phật hiện thân. Trong vũ trụ này, quá khứ–hiện tại–vị lai, không có một điều nào mà không biết, không có một điều nào mà không rõ ràng, chỉ là ngài không nói, tình cờ tiết lộ một chút: Điều gì tôi cũng biết. Điều gì cũng biết nhưng chỉ là không nói, người ta hỏi: Vì sao ngài không nói? Thiên cơ không được tiết lộ. Có một câu tục ngữ này: Người tiết lộ thiên cơ thì sét đánh, nói với người ta không thể nói. Những lời này cũng như vừa pha trò vui, cũng như là chân thật, vấn đề là quý vị có biết nghe không, quý vị nghe rồi, có phải có giác ngộ thật không, có chịu làm thật không.

          Cách nghĩ của tôi, tuổi thọ của lão Hoà thượng Hải Hiền chắc hẳn cũng là 70-80 tuổi, không thể nào đến 112 tuổi. Sao mà có được 112 tuổi? Do A Mi Đà Phật ban cho ngài. Phật dặn dò ngài biểu pháp, biểu pháp tức là làm một gương người tu hành tốt, cho người tu hành thấy, cho tín đồ Phật giáo thấy, cho người tu Tịnh Độ thấy, học Phật phải giống như ngài, đó gọi là chân tu. Chân tu thì có thành tựu chân thật, làm ra cho chúng ta thấy. Biểu pháp cuối cùng chính là nhìn thấy “Nhược Yếu Phật Pháp Hưng, Duy Hữu Tăng Tán Tăng” (Nếu Muốn Phật Pháp Thịnh, Chỉ Có Tăng Khen Tăng), là quyển sách này, khi nào nhìn thấy quyển sách này, A Mi Đà Phật sẽ đến tiếp dẫn ngài. Cho nên có người đem quyển sách này cho ngài xem, hoan hỉ vô cùng, vì sao? Bởi A Mi Đà Phật sắp đón ngài đi đến Thế giới Cực Lạc rồi, quả nhiên 3 ngày thì ngài ra đi. Vì vậy ngài làm chứng minh cho chúng ta vài sự việc, vô cùng quan trọng. Chứng minh thứ nhất, Thế giới Cực Lạc có thật; Chứng minh thứ hai, A Mi Đà Phật có thật; Chứng minh thứ ba, ngài Hạ Liên Cư hội tập bộ Kinh này là Chân kinh, từng chữ từng câu là nguyên văn được thuyết bởi đức Thích Ca Mâu Ni Phật, không có một chữ nào, một câu nào là sai lầm, chứng minh điều này, chứng minh nữa cho chúng ta: Chú Giải (Tập Chú) của lão Cư sĩ Hoàng Niệm Tổ, là Chánh tri Chánh kiến, không nên nghi ngờ; Điều thứ tư là chứng minh cho chúng ta, 2-30 năm nay, chúng ta y chiếu bộ Kinh này để tu hành là không hề sai, không cần nghi ngờ, không được thoái chuyển. Hiếm thấy! Trong thời nay, chúng ta học tập bản này, gặp phải chướng ngại nghiêm trọng, những người huỷ báng rất nhiều, người không tin tưởng rất nhiều, khiến có không ít người trong các đồng tu của chúng ta, bị nghe những lời đồn phao tin bên ngoài đó thì nghi ngờ, không dám tin tưởng, từ bỏ Pháp môn này, hoặc là từ bỏ bản Kinh này. Lão Hoà thượng đã được A Mi Đà Phật dặn dò, muốn ngài đến giúp đỡ chúng ta giải quyết vấn đề này, nguy cơ tín tâm, ngài đã làm được. Dùng điều gì? Công phu chân chánh suốt 92 năm.

          Tôi đem hành nghi một đời của Hoà thượng ngài, giảng ra cho sáng tỏ, mọi người nghe rõ ràng, thấy hiểu rồi, vậy mới quyết trọn một lòng giống như ngài, một câu Phật hiệu cứ niệm luôn luôn, không nghi ngờ nữa, không rẽ hướng khác. Thành tựu của mỗi người chúng ta, đều sẽ giống như ngài Hải Khánh, ngài Hải Hiền, mẹ ruột của ngài, khi ra đi, nói đi, tôi đi đây, thì đi thật, không có một mảy may đau khổ, không có một mảy may lưu luyến, ra đi thật. Mẹ của ngài rất là không thể nghĩ bàn. Khi mẹ ngài ra đi, các ngài sống trong giai đoạn gian nan nhất, ngay cả mua quan tài, cũng mua không được, tự mình dùng gỗ đóng đinh làm quan tài, chôn cất mẹ ngài. An táng, tóm lại trong lòng không yên, chỉ làm đại khái cho người mẹ đã mất. 8 năm sau hoàn cảnh tốt rồi, mới cải táng cho mẹ, dựng bia làm kỷ niệm, khi đào mộ lên, quan tài vừa mở, không thấy người đâu, mãi đến hiện giờ cũng không có ai biết, người đã đi đâu rồi? Quan tài mở ra trống rỗng, bên trong chỉ có mấy cây đinh đóng quan tài. Sự việc này, ở trong lịch sử có ghi chép, là Tổ sư Đạt Ma. Ngài Đạt Ma, vào thời Lương Vũ Đế, khi ấy đi sang Trung Hoa, sau khi Tổ sư ngài ra đi, cũng là như thế. Người ta làm mai táng cho ngài, 3-4 tháng sau đó, từ Tây Vực (chính là vùng Tân Cương hiện nay), có một người ở bên đó làm ăn trở về, nói ở Tân Cương, nhìn thấy Tổ sư Đạt Ma, Tổ sư Đạt Ma đi trên đường, có xỏ một chiếc giày cỏ. Trở về, kể lại chuyện này cho mọi người, mọi tính toán, khi đó là lúc đã chôn ngài ấy rồi, mọi người cầu chứng minh, mới đào phần mộ của Tổ sư Đạt Ma lên, quả nhiên trong quan tài có một chiếc giày cỏ, không thấy người. Chứng minh người đó nói: Tổ sư Đạt Ma chỉ mang có một chiếc giày, một chân đi chân trần, là thật sự, không phải giả, có chuyện như thế. Cho nên lúc bấy giờ, làm người ta suy nghĩ, mẹ ngài phải chăng cũng giống như ngài Đạt Ma, đó là Bồ-tát tái lai, du hý thần thông, biểu diễn một chiêu cho quý vị thấy, không thấy người. Những sự việc này đều xảy ra trong thời hiện đại chúng ta. 

          Lão Hoà thượng Hải Khánh cũng là người không biết chữ, người rất nhỏ, mọi người đều ăn hiếp ngài, ngài biểu diễn cho chúng ta Nhẫn nhục Ba-la-mật, điều gì cũng có thể nhẫn, đích thực là nhẫn điều mà người khác không thể nhẫn, làm điều mà người khác không chịu làm. Trong chùa chiền, trong đạo tràng, người khác không chịu làm những việc khổ sai, đều do ngài làm. Chịu khổ bậc nhất, nhẫn nhục bậc nhất, tự tại vãng sanh, sau khi vãng sanh ngồi yên 6 năm 9 tháng, toàn thân không hư hoại, hiện tại đã thếp thân vàng ròng, thờ ở trong chùa. Khi còn sống không ai thèm đếm xỉa đến ngài, sau khi chết muôn người kính ngưỡng, người thấy được không ai không dập đầu. Đều là xuất gia từ nhỏ, ngài là 11 tuổi xuất gia, 82 tuổi ra đi, xuất gia 71 năm. Đó đều là tấm gương tốt nhất của đồng tu học Phật thời hiện đại.

          Tiếp theo, chúng ta xem Niệm lão làm tổng kết cho chúng ta: 持者,行持也,又執也(執持),即《漢譯》之奉持也。故知恭慎保持者,乃自然敬肅,從容中道,心心不異,任運自持也。 “Trì giả, hành trì dã, hựu chấp dã (chấp trì), tức Hán dịch chi phụng trì dã. Cố tri cung thận bảo trì giả, nãi tự nhiên kính túc, tùng dung Trung đạo, tâm tâm bất dị, nhậm vận tự trì dã” (Trì: là hành trì, lại là chấp (chấp trì), tức là phụng trì trong bản Hán dịch. Nên biết cung thận bảo trì, là cung kính tự nhiên, thong dong Trung đạo, tâm tâm không khác, tự giữ nghe theo sự an bài). Chú Giải này của Niệm lão giải thích rõ ràng, giải thích rất hay, cung thận nghĩa là gì? Trì, hành trì, chấp trì, cung thận bảo trì chính là tự nhiên cung kính, không có mảy may thực hiện, đã nuôi thành thói quen rồi. Thong dong Trung đạo, tâm tâm không khác, điều này khó, chúng ta là tâm tâm khác nhau. Bất dị tức là tâm tâm tương đồng, đó là niệm niệm đều là A Mi Đà Phật, một niệm trước là A Mi Đà Phật, một niệm sau tiếp theo là A Mi Đà Phật, không có Tạp niệm, không có Vọng tưởng, vậy mới gọi là “tâm tâm bất dị.” “Nhậm vận tự trì”, nhậm vận tức có nghĩa là tự nhiên, rất tự nhiên không vượt khuôn phép, rất tự nhiên niệm niệm tương tục. 

          “Tu tập công đức, mãn túc ngũ kiếp”, đây là nói ngài mất thời gian dài bao lâu để học tập. Trong kinh Phật, kiếp là đơn vị thời gian, nếu không có chỉ định là tiểu kiếp, là trung kiếp, thì thông thường là đại kiếp. Không có chỉ định, tức là đủ trọn 5 đại kiếp. Cách tính kiếp như thế nào? Có rất nhiều loại. Khi đức Thích Ca Mâu Ni Phật tại thế, Ấn Độ chưa thống nhất. Như bên Trung Hoa, lịch sử Trung Hoa rất hoàn chỉnh, ghi chép rất rõ ràng, ba đời Hạ–Thương–Chu, nhà Hạ 400 năm, nhà Thương 600 năm (Thương Thang), nhà Chu 800 năm, chúng ta gọi là Tam đại. Tam đại, ở bên Trung Hoa chưa thống nhất, cho nên đều là bộ lạc nhỏ. Người đứng đầu, dẫn đầu, chúng ta xưng chư hầu, đều xưng là hầu, nước chư hầu. Nhà Chu, trong lịch sử ghi chép, vào thời của Chu Văn Vương, khu vực Trung Nguyên có bao nhiêu quốc gia? 800, 800 chư hầu. Nhà Chu xưng vương, mọi người gọi là Thiên tử, không phải là thống nhất, vị vương (Thiên tử) đó là người khác tôn trọng ngài, xưng hô cung kính đối với ngài, ngài không có quyền, quyền của ngài chỉ có thể quản nước nhỏ của chính ngài thôi. Nước của nhà Chu 100 dặm, trong lịch sử ghi chép rằng, nước của Thương Thang chỉ có 70 dặm, diện tích rất nhỏ. Vì sao xưng ngài là vương, xưng ngài là Thiên tử? Ngài làm chính trị tốt nhất, cai trị rất tốt, khiến những quốc gia khác ngưỡng mộ, những quốc gia khác học tập theo ngài, đều nghe theo lời dạy của ngài, cho nên thừa nhận ngài là người lãnh đạo của mọi người chúng ta. Khi đó cũng chưa có tuyển cử, nhưng hoàn toàn là dùng đức hạnh, khiến các hầu vương ấy cung kính, tình nguyện nghe theo lời dạy của ngài, tình nguyện chấp nhận chế độ của ngài, học tập với ngài.

          Trung Hoa thật sự thống nhất là [vào thời] Tần Thuỷ Hoàng. Quý vị thấy cuối thời nhà Chu, cuối đời động loạn. Nhà Chu, thật sự là Chu thống nhất, đó là sự thống nhất về tinh thần, thống nhất về văn hoá chỉ có 300 năm, cũng không dễ dàng. Sau 300 năm, những người thế hệ sau của nhà Chu, đã không thể giữ thành pháp của tổ tông, làm rất nhiều chuyện không đúng pháp, các nước chư hầu kia bèn dần dần xa lánh đi, bề ngoài thì cung kính, nhưng thực tế hoàn toàn không nghe, mỗi người tự theo cách riêng. Cho nên chiến tranh mới bùng nổ, thế lực nào mạnh, thì tiêu diệt nước nhỏ bên cạnh, quy phục về mình, diễn biến này suốt 500 năm, thời Xuân Thu–Chiến Quốc 500 năm, đây là cuối thời nhà Chu. Đến nhà Tần thống nhất, thống nhất thì những cuộc chiến tranh chư hầu này tan biến, vì sao? Bởi trở thành một quốc gia, một quốc gia, chiến tranh giữa nước này với nước kia không còn nữa. Sự việc này được ông Toynbee nhìn ra. Vì vậy cuối đời ông Toynbee, người này là Bồ-tát, đích thực là đại từ đại bi. Cuối đời suy nghĩ một vấn đề, làm sao để khiến trên thế giới này, khi ông chết đi, trên thế giới này thuộc về quốc gia chủ quyền, có hơn 140 nước. Trước Chiến tranh Thế giới lần thứ hai, các quốc gia chủ quyền trên địa cầu chỉ có hơn 40 nước, còn chưa đến 100 nước. Sau chiến tranh tăng lên nhiều như vậy, các thuộc địa đua nhau độc lập, đều trở thành quốc gia chủ quyền, vậy không tốt. Tại sao? Bởi dễ bùng nổ chiến tranh quốc tế, chiến tranh quốc gia với quốc gia, chiến tranh này có khả năng sẽ dấy lên cuộc Đại chiến Thế giới thứ ba, đây là điều ông rất không muốn nhìn thấy. Tại sao? Bởi chiến tranh trong quá khứ thì con người không có nhiều vũ khí, những vũ khí tinh nhuệ, chính là không có khả năng tiêu diệt địa cầu, song kể từ khi vũ khí hạt nhân sinh học hoá học xuất hiện, thì vấn đề đã khác đi rồi, người ta có khả năng huỷ diệt địa cầu, có khả năng làm tất cả các sinh vật trên địa cầu bị diệt tận, vậy phải làm sao? Cuối đời ông ngày ngày suy nghĩ đến sự việc này, nghĩ đến thời Xuân Thu–Chiến Quốc của Trung Hoa, tốt nhất nên có một chính phủ thế giới, mỗi quốc gia trên địa cầu đều có thể nghe lệnh từ chính phủ thế giới, gần giống như thời Tam đại của Trung Hoa, có thể nghe theo Vũ Vương, nghe theo Chu Vương. Hạ–Thương–Chu, Hạ Vũ, Thương Thang, Chu triều (Văn Vương, Vũ Vương), các ngài đều dùng văn hoá, là dùng đạo đức, cảm hoá những nhà lãnh đạo của các nước, có lý tưởng chính trị đại đồng, có thiên hạ một nhà, có loại tư tưởng này, thời Xuân Thu–Chiến Quốc. Nhà Tần mặc dù thống nhất, nhưng thời gian rất ngắn, chỉ có 15 năm. Tôi cảm thấy cống hiến lớn nhất của thời đó, chính là sự thống nhất văn tự, chữ viết cùng văn phong, xe chạy cùng đường. Xe chạy cùng đường thì giao thông tiện lợi, mỗi quốc gia chế tạo những thứ này đều có quy cách nhất định, toàn quốc đều có thể đi lại thông suốt, rất thuận tiện. Chữ viết cùng văn phong, mỗi quốc gia có ngôn ngữ của quốc gia, chúng ta hiện nay gọi là tiếng địa phương, ngôn ngữ sẽ biến đổi, nhưng văn ngôn không biến đổi, văn ngôn là được thông dụng trong thiên hạ, văn ngôn, văn ngôn chữ Hán, điều này hay. Cho nên ông nghĩ đến điều này, ai có thể thống lĩnh thế giới này, chúng ta gọi là thống hợp, không nên gọi là thống nhất, tránh để người ta nảy sinh hiểu lầm. Không dùng vũ lực, mà dùng văn hoá, dùng dạy học, dùng giáo dục luân lý, giáo dục đạo đức, giáo dục Thánh hiền, giáo dục nhân quả, dùng những thứ này để dạy.

          Mỗi quốc gia đều tự có ngôn ngữ riêng, bên trong lãnh thổ chính quốc gia đó, như tiếng địa phương chúng ta hiện nay, mỗi địa phương có ngôn ngữ của mỗi địa phương, chứ không phá hoại ngôn ngữ đó. Tuy nhiên sự qua lại trong toàn thể quốc tế, phải dùng một ngôn ngữ, một ngôn ngữ này, thì Văn ngôn văn của Trung Hoa là lý tưởng nhất. Văn ngôn văn là thứ hay đẹp, ông Russell cũng ca ngợi, vì Văn ngôn văn có thể vượt lên thời gian không gian, không bị hạn chế thời gian. Những thứ được viết vào thời Xuân Thu–Chiến Quốc, sách Chu Lễ được Chu Công viết rồi truyền lại, người thời nay có thể xem hiểu, không hiểu sai ý nghĩa, còn có thể dùng được tốt, người của 3000 năm sau cũng có thể xem hiểu. Những thứ này truyền cho hậu thế, đều nên dùng loại văn tự ấy để viết lại, mới thật sự có thể truyền được về sau, đó là những thứ hay đẹp. Vì vậy, Văn tự học của Trung Hoa là một loại văn hoá, văn hoá vô cùng cao, đó là trí huệ chân thật của nhân loại. Phát minh vĩ đại nhất của thế gian này, đều không có cách chi so sánh với việc phát minh chữ Hán, đó mới là sự vĩ đại chân chính. Ông Toynbee hy vọng Văn ngôn văn trở thành ngôn ngữ dùng chung của quốc tế, giống như thời Tần–Hán, dùng loại Văn ngôn này để làm chữ viết thông dụng trên toàn quốc. Ngôn ngữ địa phương không bị phá hoại, cũng không bị hạn chế, cũng không bị bãi bỏ, như vậy tốt, như vậy có thể đoàn kết, có thể học tập lẫn nhau. Văn hoá dân tộc của mỗi một quốc gia, đều có thể tiếp tục được giữ gìn, hơn nữa không ngừng hấp thu những văn hoá khác để nâng cao chính mình. Như Trung Hoa vốn có văn hoá truyền thống, văn hoá Phật giáo là của Ấn Độ, đi sang Trung Hoa, chúng ta hoàn toàn tiếp thu. Phật giáo giúp cho văn hoá truyền thống Trung Hoa nâng cao, chính Phật giáo cũng đã hấp thu văn hoá truyền thống Trung Hoa, cũng nâng cao, đó là sự việc tốt. Đó đều là gợi ý rất có giá trị cho người thời nay.

          Bản thân ông Toynbee, người phản đối ông rất nhiều, người tán thành ông cũng không ít, chê và khen đứng nửa. Tôi xem bản dịch một phần sách của ông, tôi vô cùng tán thán, tôi cảm thấy đó là Bồ-tát tái lai, đó không phải là người bình thường. Bồ-tát nên dùng thân phận giáo sư để xuất hiện, ngài bèn dùng thân phận giáo sư, ông sinh ra ở Luân Đôn, sanh ra trong niên đại ấy, khi đó là thế kỷ 19, là thế kỷ của người Anh Quốc, sanh ra trong thời đại này, cho nên ông có cơ hội học rộng nghe nhiều, thành tựu như một triết gia lớn. Ông có rất nhiều những kiến giải, khải thị rất tốt cho chúng ta, rất đáng để học tập nghiêm túc. Ông đề xuất rằng, giải quyết những vấn đề xã hội của thế kỷ 21, ông nói chỉ có học thuyết Khổng–Mạnh của Trung Hoa, với Phật pháp Đại thừa. Phật pháp Đại thừa cũng tại Trung Hoa, Ấn Độ không còn nữa. Ông rất xem trọng văn hoá, xem trọng luân lý đạo đức, điều đó rất đáng được tán dương.

          A Mi Đà Phật, ở trong quá trình tu học này: 具足五劫,思惟攝取莊嚴佛國清淨之行。 “Cụ túc ngũ kiếp, tư duy nhiếp thủ trang nghiêm Phật quốc thanh tịnh chi hạnh” (Đầy đủ năm kiếp, tư duy thâu lấy các hạnh thanh tịnh của nước Phật trang nghiêm). Ngài mất thời gian dài đến vậy, không phải thời gian ngắn, hơn nữa làm thật, tư duy tu tập, đó chính là làm thật. Bản dịch thời Đường, phần trước chúng ta nhìn thấy đức Thế Gian Tự Tại Vương Phật, vì ngài mà tuyên thuyết 21 ức cõi nước chư Phật, không những thuyết minh cho ngài, giới thiệu cho ngài, mà hơn nữa còn hiện bày ra cho ngài thấy, Phật dùng thần lực hoá hiện cõi nước của tất cả chư Phật ở trước mặt ngài để ngài nhìn thấy hết thảy. Như Quán Kinh, Quán Kinh là Phu nhân Vi Đề Hi gặp phải khó khăn, con trai gây nên chính biến muốn giết cha mẹ, bà bị nạn này nên cầu đức Phật, có nơi nào tốt không, không nhìn thấy việc ác này nữa. Phật cũng là: hiển bày quốc độ của tất cả chư Phật cho bà thấy, để bà tự lựa chọn. Sau khi bà thấy, thì lựa chọn Thế giới Tây Phương Cực Lạc, nói với Phật nơi đó tốt, con tình nguyện đến, làm sao mới có thể vãng sanh? Đức Phật bèn nói ra Thập Lục Quán Kinh. 16 phương pháp, bất kỳ loại nào cũng có thể, phương pháp niệm Phật trì danh này chính là loại cuối cùng, loại thứ 16. Trong loại thứ 16 chia làm ba loại lớn: 觀想念佛、觀像念佛、持名念佛Quán tưởng Niệm Phật, Quán tượng Niệm Phật, Trì danh Niệm Phật, trì danh xếp sau cùng, sau cùng thường là thù thắng nhất. Cho nên ngài Pháp Tạng dùng thời gian 5 kiếp. 1 kiếp, cách nói về kiếp rất nhiều, cách nói bình thường nhất là tuổi thọ người, tuổi thọ loài người, đó là điều trong kinh Phật nói, dài nhất là tám vạn bốn ngàn tuổi, ngắn nhất là 10 tuổi, đó là một hiện tượng tự nhiên, nhân tố đương nhiên rất nhiều. Khi tuổi thọ loài người 10 tuổi, cứ 100 năm, tăng 1 tuổi, tăng đến 84 ngàn tuổi, sau đó từ 84 ngàn tuổi, mỗi 100 năm, giảm 1 tuổi, lại giảm đến 10 tuổi, cứ một lần tăng một lần giảm: gọi là một tiểu kiếp. 20 tiểu kiếp là một 1 trung kiếp, 4 trung kiếp là 1 đại kiếp. Con số này có thể suy tính ra được, ngài Pháp Tạng học tập tốn thời gian bao lâu? 5 đại kiếp. Dùng thời gian lâu đến vậy, vì cõi Phật dù là vô lượng vô biên vô số, nhưng ngài không bỏ sót một cõi nào, Phật giới thiệu cho ngài, ngài nghe được, hiện tướng thì ngài đều nhìn thấy, ngài ở trong đó có sự chọn và bỏ.

          Bản dịch thời Đường, chúng ta xem Đường Dịch: 於彼二十一億諸佛土中所有莊嚴清淨之事 “Ư bỉ nhị thập nhất ức chư Phật độ trung sở hữu trang nghiêm thanh tịnh chi sự” (Đối với tất cả những sự trang nghiêm thanh tịnh trong 21 ức cõi chư Phật ấy), ngài tiếp nhận hết thảy: 悉皆攝受。既攝受已,滿足五劫 “Tất giai nhiếp thọ, ký nhiếp thọ dĩ, mãn túc ngũ kiếp” (Thảy đều nhiếp thọ, đã nhiếp thọ rồi, trọn đủ năm kiếp), được làm thật, trong đó rất quan trọng, nhất định phải làm từ chính mình. Trọn đủ 5 kiếp: “Tư duy tu tập”, là tự mình làm thật, đó chính là vì sao có Thế giới Cực Lạc. Trong bản dịch thời Tống nói: 往一靜處,獨坐思惟,修習功德,莊嚴佛剎。發大誓願,經於五劫。古德於此頗有異解。 “Vãng nhất tĩnh xứ, độc toạ tư duy, tu tập công đức, trang nghiêm Phật sát. Phát đại thệ nguyện, kinh ư ngũ kiếp. Cổ đức ư thử phả hữu dị giải” (Đến một nơi yên tĩnh, ngồi một mình tư duy, tu tập công đức, trang nghiêm cõi Phật. Phát thệ nguyện lớn, trải qua năm kiếp. Cổ đức đối với điều này có giải thích hơi khác nhau). Cổ đức đối với câu kinh văn này, có những giải thích khác nhau, phần sau vì chúng ta liệt kê ba loại rõ ràng. Tóm lại mà nói, chúng ta ở đây có thể nhìn thấy ngài làm thật. Ở một nơi yên tĩnh, không bị bên ngoài quấy nhiễu, ngồi một mình suy nghĩ, tư duy về sự thanh tịnh trang nghiêm của cõi nước tất cả chư Phật, trong đó có nhân có quả, thiện nhân có thiện quả, ác nhân có ác báo, Mười pháp giới, Lục đạo bất thiện, cho nên ngài không cần. Nơi đó có Phàm Thánh Đồng Cư độ, nhưng chỉ có cõi trời người, không có Tu-la, không có La-sát, không có ngạ quỷ, địa ngục, súc sanh; Nói cách khác, không có tham–sân–si–mạn–nghi, cho nên không có những đường ác này. Phải tu, phải học tập, phải thành tựu công đức, công đức chính là cõi Phật trang nghiêm của Thế giới Cực Lạc. Phát nguyện rộng lớn, cõi Phật này kiến lập rồi, dùng làm gì? Tiếp dẫn chúng sanh Lục đạo trong cõi nước của tất cả chư Phật, đi sang chỗ của ngài để học tập, rất nhanh sẽ được thành tựu. Vì sao? Bởi trong đó không có người ác, không có việc ác, tất cả mọi điều bất thiện: hết thảy đều không có, quý vị muốn làm bất thiện cũng không có duyên, không có một người xấu.

          Làm sao để thành tựu? Tuyệt đối đừng quên rằng: “Kim hiện tại thuyết pháp”, A Mi Đà Phật ở bên đó dạy học, trước giờ chưa gián đoạn, vả lại bắt đầu làm từ bản thân, chúng ta thường nói về thân hành ngôn giáo, mãi mãi không có gián đoạn. Ngài thần thông quảng đại, giảng đường bên đó đến hiện tại là 10 kiếp rồi, 5 kiếp này là thời gian tu hành của ngài, thời gian thành lập, thành lập đến hiện nay đã qua 10 kiếp, 10 kiếp này giảng kinh dạy học không có một ngày gián đoạn. Giáo dục quan trọng biết bao! Không dạy không được, nhất định phải dạy, dạy thì mới có thành tựu, Thế giới Cực Lạc có thể hiện tiền. Với địa cầu của chúng ta: thì đạo lý như nhau, nếu có vị quốc vương tốt, thật sự thấu hiểu Phật pháp, thông suốt rồi, dạy học nghiêm túc giống như Phật, thì địa cầu có thể biến thành Thế giới Cực Lạc, đó không phải là giả. Người lãnh đạo ấy cần phải tự mình làm được, tự mình không làm được, mà dạy người khác, thì người khác không tin tưởng, không nghe; Tự mình phải làm được trước, sau đó yêu cầu người khác làm được, mọi người tâm phục khẩu phục, thì giáo dục thành công. Điểm này là mấu chốt, phải nắm cho chắc.

Hôm nay hết thời gian rồi, chúng ta học tập đến đây thôi.

(Hết tập 163)

Nguyện đem công đức này
Hướng về khắp tất cả
Đệ tử cùng chúng sanh
Đều sanh nước Cực Lạc
Sớm viên thành Phật quả
Rộng độ khắp chúng sanh.

Nam Mô A Mi Đà Phật.