Responsive Menu
Add more content here...

Tập 2006 – Kinh Hoa Nghiêm

ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG PHẬT HOA NGHIÊM KINH

Phẩm Thứ 14 – Kệ Tán Thán Trên Đỉnh Núi Tu Di

Tập 2006

Hòa thượng Tịnh Không chủ giảng

Giảng tại Phật Đà Giáo Dục Hiệp Hội Hồng Kông

Thời gian: Ngày 29 tháng 11 năm 2008

Dịch giả: Phật tử Diệu Huệ

Giảo chánh: Thích Thiện Trang.

          Kính chào chư vị Pháp sư, chư vị đồng học, kính mời ngồi xuống. Mời xem 「須彌頂上偈讚品第十四」“Tu Di Đỉnh Thượng Kệ Tán Phẩm – Đệ Thập Tứ“ (Phẩm 14: Kệ Tán Thán Trên Đỉnh Núi Tu Di), đoạn thứ chín của kinh văn「無上慧菩薩」 “ Thượng Huệ Bồ-tát“ (Bồ-tát Vô Thượng Huệ), xem từ bài thứ hai của kệ tụng. Trước tiên chúng ta đọc một lần kinh văn

【諸佛所得處。

無作無分別。

粗者無所有,

微細亦復然。】

Chư Phật sở đắc xứ

tác vô phân biệt

Thô giả vô sở hữu

Vi tế diệc phục nhiên

(Chỗ đắc của chư Phật

Vô tác vô phân biệt

Thô thì không sở hữu

Vi tế cũng như thế).

          Trong bài kệ này nói đến thô và tế. Thô chính là Lục thô tướng, tế chính là Tam tế tướng. Phía trước chúng ta đã học qua rồi, bây giờ học bài kệ này sẽ dễ dàng hơn nhiều. Trước tiên trong Chú Giải của Đại sư Thanh Lương nhắc nhở chúng ta, trong bài kệ này, tức là bài thứ hai, bài thứ hai là giảng về「處」“xứ”, chính là Bồ-đề Niết-Bàn, trong Sớ. Bồ-đề là Tánh giác, Niết-Bàn là diệt. Trong Tứ Diệu Đế chúng ta giảng là Khổ Tập Diệt Đạo. Diệt ở đây chính là Niết-Bàn. Diệt điều gì? Diệt Vọng tưởng, diệt Phiền não. Phiền não, Vọng tưởng đều không còn nữa, đó gọi là Niết-Bàn. Trong Phật pháp Đại Niết-Bàn thường được phiên dịch là Viên Giác, Viên là viên mãn, chính là ý nghĩa của Niết-Bàn. Giác là ý nghĩa của Bồ-đề. Điều này là do Tự Tánh vốn có, nói lời chân thật, đó chính là Tự Tánh, cũng chính là như lão tổ tông nước ta thường giảng là bổn thiện, thật sự giảng đến Viên Giác, Bồ-đề Niết-Bàn đó mới chân thật gọi là bổn thiện. Trong Triết học, đây là Bản thể của vũ trụ vạn hữu, vũ trụ từ đâu đến? Từ đó biến hiện ra, sanh mạng từ đâu đến? Cũng chính là từ đó biến hiện ra. Điều này chúng ta trong Vọng Tận Hoàn Nguyên Quán, Đại sư Hiền Thủ giảng cho chúng ta rất rõ ràng, rất sáng tỏ, so với các nhà khoa học, các nhà triết học hiện đại, thì giảng càng được viên mãn, càng được rõ ràng hơn, đích thực là chân thật không hư nguỵ.

          Chứng đắc Bồ-đề Niết-Bàn, trong Phật pháp gọi là Phật quả rốt ráo, người ấy đã thành Phật rồi. Thành Phật ở đây là quả vị Phật rốt ráo viên mãn, không giống như Pháp thân Bồ-tát. Pháp thân Bồ-tát cũng có thể gọi là Viên Giác, dù là Tập khí của các ngài vẫn còn. Tập khí này chính là trong Kinh Hoa Nghiêm giảng là 41 phẩm Tập khí Vô minh, đoạn được Vô minh rồi, nhưng chưa đoạn hết Tập khí Vô minh. 41 phẩm vị ấy đều gọi là Phật, là Phật thật, không phải Phật giả. Cho nên trong Kinh Kim Cang đã nói là chư Phật, quý vị xem trong Giảng Nghĩa của Cư sĩ Giang Vị Nông, ngài giảng giải, ngài nói chư Phật chính là 41 địa vị này, 41 cấp bậc này quý ngài chưa đoạn hết Tập khí Vô minh. Tập khí có dày mỏng khác nhau, Tập khí dày là địa vị thấp hơn, Tập khí mỏng là địa vị cao hơn. Trên thực tế là không có cao thấp, cao thấp từ đâu mà có. Trong không có cao thấp [mà] nói ra 41 địa vị, cho nên điều này rất khó hiểu. Ví dụ như chúng ta hiện nay học tại trường học, Tiểu học, Trung học, Đại học, đó thực sự có cấp bậc, thật sự không giống nhau. Học sinh năm thứ nhất không giống học sinh năm thứ hai. Thế nhưng trong Phật pháp, Pháp thân Bồ-tát quý ngài là như nhau. Quý vị suy nghĩ xem, quý ngài không còn Chấp trước, không còn Phân biệt, đối với tất cả Pháp không khởi tâm, không động niệm, quý vị nói các ngài có sai biệt sao? Không có sai biệt. Nhưng còn Tập khí, Tập khí chân thật là có sai biệt, có dày mỏng khác nhau, Tập khí ấy không khởi tác dụng. Cho nên cứu cánh viên mãn Phật quả, tất cả thọ dụng mà quý ngài đã đạt được, là thần thông biến hoá, Sơ trụ Bồ-tát cũng đắc được rồi. Sơ trụ Bồ-tát mới chỉ phá được một phẩm Vô minh, cũng chính là buông xuống Khởi tâm Động niệm rồi, trí huệ, thần thông, đạo lực của quý ngài cùng Phật quả rốt ráo viên mãn có khác nhau không? Giống nhau, sai biệt ở chỗ nào? Cứu cánh Phật quả không còn Tập khí, Tập khí đã đoạn được hết rồi.

         Sơ trụ Viên giáo Bồ-tát, địa vị Phật này trong Thiền tông chúng ta thường nói là Minh tâm Kiến tánh, kiến Tánh thành Phật, tức là ở cấp bậc này, quý ngài có Tập khí Vô minh, nhưng chưa đoạn Tập khí Vô minh, một phẩm cũng chưa đoạn. Đoạn một phẩm, thì quý ngài là Nhị trụ, đoạn hai phẩm, thì quý ngài là Tam trụ, từ đó đi lên trên. Điều này rất trừu tượng, có đi lên thực sự hay không? Không có. Nếu thật có thăng lên, thì quý ngài là có Phân biệt, quý ngài có Chấp trước. Vì quý ngài không có Phân biệt, không có Chấp trước, cho nên từ Tập khí dày hay mỏng phía trên đã nói, bất đắc dĩ, rất miễn cưỡng chia những địa vị đó thành thập Trụ, thập Hạnh, thập Hồi Hướng, thập Địa, Đẳng giác, Diệu Giác. Cho nên chúng ta không thể dùng tâm Phân biệt Chấp trước để xem sự việc này, như vậy quý vị hoàn toàn sai lầm rồi. Trong Thập pháp giới là thật có [điều đó], cấp bậc không giống nhau là thật có sai biệt, trong Nhất chân Pháp giới không có sai biệt. Nếu có sai biệt thì sao có thể gọi là Nhất chân? Cho nên chúng ta không thể hiểu thật rõ ràng việc này. Quý vị nói có hay không? Thực sự giảng về 41 địa vị này không thể nói đó có, cũng không thể nói đó không có, hiểu được như vậy, quý vị từ từ dễ dàng hiểu rõ Chân tướng Sự thật.

         Sau khi hiểu rõ Chân tướng Sự thật này, nếu quý vị có thể dưỡng thành thói quen, thì được trợ giúp rất lớn đối với việc tu hành của quý vị. Trợ giúp thế nào? Không phải chúng ta trong Thập pháp giới cũng thường nói về tầng thứ này hay sao? Giống như chúng ta vừa nói, Tiểu học, Trung học, Đại học không giống nhau. Năm thứ nhất, năm thứ hai, năm thứ ba lại cũng không giống nhau. Điều này chúng ta nói là chân thật khác nhau, chân thật không tương đồng! Thế nhưng trong Đại thừa, những vị Phật Bồ-tát kiến Tánh, quý ngài thấy được, hoàn toàn như nhau. Vì sao vậy? Bởi vì Phân biệt Chấp trước của chúng ta là giả, không phải thật, nếu thật có, vậy thì thật sự khác nhau. Không phải là thật có, chúng ta là bị giả tướng này làm mê rồi, cho là thật có. Trong Kinh Bát Nhã Phật thường lấy ví dụ, dùng thứ gì? Dùng mộng làm ví dụ. 「夢幻泡影」“Mộng huyễn bào ảnh” (Mộng huyễn bọt bóng). Mộng là ví dụ chính, huyễn, bọt, bóng là phụ trợ. Trong văn pháp này lấy những thứ đó phụ trợ thành một câu này, trong thực tế điều quan trọng chính là từ thứ nhất, là mộng. Mộng là thật hay không? Trong mộng có tỷ phú, có một người ăn mày nghèo khổ, có khác nhau hay không? Sau khi tỉnh giấc, mộng không có sai khác, là bình đẳng, có giống nhau hay không? Chúng ta coi mộng là thật, cho nên cảm thấy trong đó thật sự có sai biệt, thực tế là không khác biệt.

          Những chân tướng sự thật này phải dần dần để lĩnh hội, sau khi lĩnh hội được phải thật chứng được, cho nên Phật pháp nói Tín, Giải, Hành, Chứng. Trong Kinh Hoa Nghiêm, chúng ta hoàn thành Tín, Giải rồi, Hành thì sao? Hành tức là trải sự luyện tâm, ngay trong cuộc sống thường ngày, xử việc đối nhân tiếp vật, học điều gì? Học Quán, học Chỉ. Quốc sư Hiền Thủ giảng cho chúng ta Ngũ chỉ, Lục quán, chính là luyện điều này. Học hiểu điều này, học hiểu thì bình đẳng thôi. Học hiểu rồi, thì ra vốn dĩ là cảnh mộng, cảnh mộng này cùng Nhất chân Pháp giới mà chư Phật Bồ-tát chứng đắc được cũng không có sai biệt, chân vọng không hai! Vì sao chân vọng không phải là hai? Bởi vì trong Tự Tánh không có chân, cũng không có vọng. Chúng ta từ trong Hoàn Nguyên Quán lĩnh hội được rõ ràng, tâm thanh tịnh của Tự Tánh là Thường Tịch Quang, trong Thường Tịch Quang không có hiện tượng tinh thần, cũng không có hiện tượng vật chất, không có Y Chánh trang nghiêm của Thập pháp giới, cũng không có Nhất chân Pháp giới. Nhất chân Pháp giới do đâu mà có? Hiện nay chúng ta hiểu được rõ ràng, Nhất chân Pháp giới là do Tập khí Vô thỉ Vô minh chưa đoạn được, biến hiện ra, đoạn hết Tập khí, thì không còn nữa, chính là Thường Tịch Quang. Cho nên Thường Tịch Quang mới là thật, vì sao vậy? Bởi vĩnh viễn không biến đổi. Đây là nói rõ, Thật Báo Trang Nghiêm độ vẫn không phải thuần chân. Tổ sư Đại đức xưa nay của chúng ta nói, Thường Tịch Quang độ không sanh không diệt, Thật Báo Trang Nghiêm độ có sanh không diệt, Y Chánh trang nghiêm của Thập pháp giới là có sanh có diệt. Khi chúng ta mới học Phật cũng nhớ những điều này, bây giờ nghĩ lại chúng có sanh, chúng không diệt, điều này không có đạo lý, chúng có sanh liền có diệt, có sanh vì sao có thể không diệt, sao có loại đạo lý này? Chỉ có bất sanh, chúng mới bất diệt. Cho nên chúng ta hiểu được, chư Phật thuyết Pháp có thuyết phương tiện, có thuyết chân thật. Thuyết phương tiện là tiếp dẫn quý vị, tuỳ thuận trình độ cấp bậc của quý vị mà giảng, quý vị nghe được rất hoan hỉ, chăm chỉ học tập. Hướng lên phía trước, quý vị tự mình hiểu rõ, ngộ rồi. Cho nên chúng ta hiện nay là hướng lên phía trước, nâng cao rồi, chúng ta hiểu rõ rồi, Thật Báo Trang Nghiêm độ cũng là có sanh có diệt, chỉ có Thường Tịch Quang là bất sanh bất diệt. Thường Tịch Quang là Bản thể chân chánh. Bồ-đề, Niết-Bàn đều là Thường Tịch Quang. Cho nên Thường Tịch Quang độ, trong kinh thường sử dụng hai từ để miêu tả nơi đó, 「寂照」“Tịch chiếu”, tịch chính là thanh tịnh tịch diệt, bên trong cũng đều không có thứ gì, đó là tịch. Ngày nay chúng ta nói là hiện tượng tinh thần, hiện tượng vật chất, hiện tượng tự nhiên là gì, hoàn toàn đều không có, đó là tịch. Tịch mà thường chiếu, chiếu chính là chiếu kiến, chiếu chính là quang minh, đó không phải là tối tăm, đó là quang minh, quang minh này là giác. Tịch mà thường chiếu, chiếu mà thường tịch, đây là miêu tả về Thường Tịch Quang, miêu tả về Bản thể của vũ trụ vạn hữu.

         Đức Thích Ca Mâu Ni Phật chứng đắc rồi, làm thế nào chứng đắc? Ở đây Đại sư Thanh Lương đưa ra cho chúng ta: 「以無所得,得菩提故,處即涅槃」“Dĩ vô sở đắc, đắc Bồ-đề cố, xứ tức Niết-Bàn” (Bởi không có gì đắc, nên đắc Bồ-đề, xứ là Niết-Bàn). Đây là giảng về Bồ-tát hoặc là giảng về chư Phật, kinh văn ở đây là chư Phật. Chư Phật ở đây là chỉ ai? Điều này có hai ý nghĩa, câu có hai ý nghĩa. Ý nghĩa thứ nhất, chỉ tất cả chư Phật, là người đạt đến cảnh giới ấy. Ý nghĩa thứ hai, chính là 41 địa vị Pháp thân Đại sĩ. Là “chư Phật“ được nói trong Kinh Kim Cang của Cư sĩ Giang Vị Nông. Hai điều này đều có thể giảng được thông suốt. Quý ngài trước tiên đoạn Khởi tâm Động niệm, quý vị phải hiểu được, Khởi tâm Động niệm gọi là Vô minh. Trong Kinh Hoa Nghiêm, gọi đó là Vọng tưởng, Khởi tâm Động niệm. Chính là Bồ-tát Di Lặc giảng một khảy móng tay có 32 ức trăm ngàn niệm, chính là ý niệm này. Điều này chúng ta rất khó lĩnh hội, chúng ta nói là Khởi tâm Động niệm, thấy được động ý niệm này, không phải vậy, đức Phật giảng không phải là Khởi tâm Động niệm này, Khởi tâm Động niệm này rất thô rồi. Khởi lên ý niệm này, Phật hỏi Bồ-tát Di Lặc, trong một ý niệm này, đó là niệm thô, trong niệm thô này có bao nhiêu tế niệm. Bồ-tát Di Lặc mới nói với chúng ta, có 32 ức trăm ngàn tế niệm. 32 ức trăm ngàn niệm, hiện tại chúng ta tính ra: là 320 ngàn tỷ, cũng chính là nói chúng ta động một ý niệm này, trong tế niệm này có 320 ngàn tỷ tế niệm. Chúng ta làm sao biết được? [Nếu] không phải là Bồ-tát Di Lặc nói ra cho chúng ta, thì chúng ta vĩnh viễn vẫn cũng không biết.

       320 ngàn tỷ niệm vi tế: gọi là một ý niệm thô. Chúng ta ngày nay nói là Khởi tâm Động niệm, trong một ý niệm này có bao nhiêu niệm vi tế như thế. Cách nói này chính là cách nói của khoa học hiện nay, tìm ra được ý niệm vi tế này rồi. Ý niệm này không còn nữa, quý vị xem ý niệm vi tế như vậy đều không còn nữa, không còn nữa là thành Phật, quý vị liền 「以無所得,得菩提故」“Dĩ vô sở đắc, đắc Bồ-đề cố” (Vì không có chỗ đắc, nên đắc Bồ-đề), quý vị liền chứng Bồ-đề Niết-Bàn. Bồ-đề Niết-Bàn là vốn có, là không sanh không diệt, lúc ấy hiện tiền, Bồ-đề hiện tiền, Niết-Bàn hiện tiền. Niết-Bàn là gì? Là tâm thanh tịnh, là Tự Tánh Thanh tịnh Viên minh Thể, cũng chính là Tự Tánh hiện tiền. Chúng ta nói là Minh tâm Kiến tánh, kiến Tánh thành Phật, đó là kiến Tánh rồi. Ai làm được? Thích Ca Mâu Ni Phật làm được rồi. Khi Ngài 30 tuổi, đêm nhìn sao sáng, Đại triệt Đại ngộ, chính là vô sở đắc, Tự Tánh hiện tiền. Khoảng một ngàn ba-bốn trăm năm trước đây, ở Trung Hoa xuất hiện một Đại sư Huệ Năng, là Lục tổ của Thiền tông, ngài kiến Tánh rồi. Khi ngài kiến Tánh, câu đầu tiên ngài nói với Hoà thượng Hoằng Nhẫn, nói với Thầy của ngài, cũng chính là nói với mọi người chúng ta: 「何期自性,本自清淨」“Hà kỳ Tự Tánh, bổn thị thanh tịnh” (nào ngờ Tự Tánh, vốn tự tanh tịnh), thanh tịnh này là Niết-Bàn, 「本不生滅」“bổn bất sanh diệt” (vốn không sanh diệt), đây cũng là Niết-Bàn. 「本自具足」“Bổn tự cụ túc” (Vốn tự đầy đủ), đó là Bồ-đề, 「能生萬法」“năng sanh vạn pháp” (có thể sanh ra vạn pháp), đó là Bồ-đề. Lời của Lục tổ đã nói giống với [những gì] mà đức Thích Ca Mâu Ni Phật đã nói, sau khi đức Thích Ca Mâu Ni Phật khai ngộ, đã giảng một bộ Kinh Hoa Nghiêm này, năm câu nói của ngài không gì khác Kinh Hoa Nghiêm, không tăng không giảm. Kinh Hoa Nghiêm nói tỉ mỉ, còn Tổ sư nói đơn giản, nói được 20 chữ, 20 chữ này chính là Kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm.

        Ngày nay chúng ta phiền phức ở nơi đâu? Chúng ta đắc, xả không được, luôn muốn có được, thứ gì cũng phải có được. Tu hành muốn đắc đạo, có thể thành tựu hay không? Vĩnh viễn không thể thành tựu, nguyên nhân vì sao vậy? Vì quý vị có sở đắc. Trong sở đắc có Vọng tưởng, có Phân biệt, có Chấp trước, ba thứ này điều gì cũng có đủ, quý vị làm sao có thể kiến Tánh? Vì sao vậy? Vì trong Tự Tánh không có những thứ này, quý vị xả được hết sạch những thứ đó, thì Bồ-đề Niết-Bàn liền hiện tiền. Bồ-đề Niết-Bàn là một giả danh, đó không là Bồ-đề, đó cũng không là Niết-Bàn. Đức Thích Ca Mâu Ni Phật vì phương tiện dạy học mà kiến lập, nên dùng danh từ này, nếu quý vị thật cho là có Bồ-đề, có Niết-Bàn, thì quý vị sai rồi. Nếu quý vị thật cho là không có Bồ-đề Niết-Bàn, thì quý vị cũng sai rồi. Không có Bồ-đề Niết-Bàn, quý vị chứng điều gì? Có Bồ-đề Niết-Bàn, quý vị cũng chứng không được. Cho nên Bồ-đề Niết-Bàn là giả danh. Cũng giống như hiện nay chúng ta đang lái xe ở trên đường cao tốc, Bồ-đề Niết-Bàn là biển chỉ đường, quý vị cứ đi theo biển chỉ đường này quý vị sẽ đến nơi. Biển chỉ đường này nói cho quý vị, theo hướng con đường này có thể đi đến Thượng Hải, biển chỉ đường này không phải là Thượng Hải, quý vị đi theo con đường này thì quý vị mới có thể đến Thượng Hải. Cho nên Bồ-đề Niết-Bàn là biển chỉ đường, quý vị làm theo Bồ-đề Niết-Bàn thì quý vị sẽ có thể chứng đắc Bồ-đề Niết-Bàn. Nhưng đó là biển chỉ đường, tuyệt đối không phải là Bồ-đề Niết-Bàn. Cho nên vô sở đắc thì đắc rồi, thật sự đắc được. Như thế nào mới [là] vô sở đắc? Chính là buông xuống, quý vị không buông xuống không được. Buông xuống Chấp trước đối với tất cả pháp của thế gian và xuất thế gian, điều đó không thể có; Không thể có Phân biệt đối với tất cả pháp của thế gian và xuất thế gian. Có Phân biệt, vậy thì quý vị cũng không thể chứng đắc; Cuối cùng là không Khởi tâm, không Động niệm đối với tất cả pháp thế gian và xuất thế gian. Đây chân thật gọi là vô sở đắc, bởi vô sở đắc, nên đắc Bồ-đề Niết-Bàn.

        Phía sau Đại sư Thanh Lương nói ra Chân tướng cho chúng ta, 「本覺自然,故非造作」“Bổn giác tự nhiên, cố phi tạo tác” (Bổn giác tự nhiên, nên không có tạo tác). Điều gì là tạo tác? Khởi tâm Động niệm chính là tạo tác. Cho nên quý vị khởi tâm động niệm chính là trái nghịch tự nhiên, thì Bổn giác sẽ không hiện ra. Quý vị có tạo tác, quý vị có Khởi tâm Động niệm, Bổn giác là gì? Bổn giác là ánh sáng, ánh sáng không có rồi, không có thì biến thành đen tối. Cho nên hiện nay quý vị đều hiểu được, vũ trụ là đen tối, ánh sáng mà chúng ta hiện nay thấy được là từ đâu đến? Là từ mặt trời đến. Cho nên nếu dời mặt trời đi, dời mặt trăng đi, dời các vì sao đi, thì toàn bộ vũ trụ là tối đen. Vì sao lại biến thành tối đen? Bởi chúng ta đều cho rằng vũ trụ là tối đen, chỗ nào trong vũ trụ là ánh sáng? Vũ trụ là ánh sáng, vì sao lại tối đen? Bởi vì quý vị khởi tâm động niệm, quý vị có tạo tác, trái nghịch tự nhiên, nên hiện tượng tự nhiên liền bị xoay chuyển, liền trở thành tối đen. Trong Phật giáo Mật tông giảng là Đại hắc thiên, chính là nói về việc này. Đại hắc thiên là Vô minh, cho nên Vô minh là hắc ám, có một chút Động niệm liền biến thành loại hiện tượng này. Loại hiện tượng tự nhiên này phát sanh như thế nào, chúng ta biết rõ rồi. Cho nên quý vị nhất định hiểu được, Bổn giác tự nhiên, nó không phải tạo tác; Không phải tạo tác, quý vị không thể tạo tác, quý vị có chút ít ý niệm tạo tác, là sai rồi. 「悟亦冥符」“Ngộ diệc minh phù“, giác ngộ là kiểu dạng nào? Giác ngộ là thế nào? Là buông xuống hết thảy Chấp trước, Phân biệt, Khởi tâm Động niệm, buông xuống hết thảy gọi là minh phù, rất tự nhiên quý vị hợp với Tự Tánh thành một thể. Minh cũng chính là không có tạo tác, thì tự nhiên phù hợp, cảnh giới hiện tiền. Khi cảnh giới hiện tiền, quý vị ở trong trạng thái gì? Quý vị vẫn là ở trong trạng thái tịch tĩnh, quý vị không có Khởi tâm Động niệm. Nếu có Khởi tâm Động niệm thì quý vị liền lại bị đoạ lạc rồi. Loại tình trạng này ở trong quá trình tu chứng, tôi nghĩ mỗi người tu hành đều thường có, tiếp cận rồi, một ý niệm khởi lên rồi lại mất đi, sự tiến thoái ở nơi cửa ải này cần phải có rất nhiều lần. Đến khi nào chân thật không còn Khởi tâm Động niệm nữa, liền biến thành nhất thể, minh phù chính là hoà hợp thành nhất thể. Lúc ấy「智無分別」“trí vô phân biệt” (trí không có phân biệt), trí là gì? Chính là Bồ-đề, Tánh giác vốn có trong Tự Tánh khởi tác dụng, chúng không có Phân biệt.

         Ở chỗ này Đại sư nói càng rõ ràng cho chúng ta: 「三細已盡,六粗亦然」“Tam tế dĩ tận, Lục Thô diệc nhiên” (Tam tế đã hết, Lục thô cũng vậy). Phía trước đã nói qua cho quý vị về Tam tế, là Tam tế tướng. Điều thứ nhất trong Tam tế tướng là 「業相」”Nghiệp tướng”, cũng gọi là Vô minh Nghiệp tướng, đây là điều gì vậy? Đây là động, chính là một niệm bất giác. Sự động cực kỳ vi tế này, vi tế đến mức độ nào? Chính là Bồ-tát Di Lặc đã nói, chúng ta hiện nay thường giảng là 1 triệu 280 ngàn tỉ niệm trong một giây, là ý niệm vi tế như vậy. Ý niệm này không phải là ý niệm của Chân tâm, Châm tâm vĩnh viễn không khởi lên ý niệm. Ý niệm này từ đâu mà đến? Vì sao có ý niệm này? Những điều này đã thu hút rất nhiều người đưa ra một vài vấn đề để nghiên cứu, có đáp án hay không? Không có, càng nghiên cứu càng phiền phức, càng nghiên cứu thì cuốn vào trong càng lúc càng sâu, mãi mãi nhổ không ra khỏi được. Phật nói với chúng ta, niệm ấy là vọng niệm, đó không phải là thật, không để ý thì sẽ không việc gì. Cho nên họ thêm vọng tưởng này. Điều này là Vô minh, thêm Vô thuỷ Vô minh, đó là nói với quý vị chúng không có khởi đầu. Vậy là thời điểm nào? Chân thật là chính ngay một niệm, nó không phải là quá khứ, nó cũng không phải là tương lai. Có một niệm này, thì Tứ độ, Thập pháp giới trang nghiêm đều có rồi. Một niệm này không còn nữa, thì tất cả đều không có. Cho nên thế giới này là do đốn hiện, nhất thời đốn hiện, nhất thời này chính là khi ý niệm sanh khởi, khi ý niệm khởi thì nhất thời liền hiện. Vì sao có thể hiện? Do vì trong Tự Tánh vốn tự đầy đủ. Khi không khởi ý niệm thì không hiện hành, khi không hiện hành không thể nói chúng không có, hiện hành không thể nói chúng có, vì sao vậy? Vì đó là giả, đó không phải là thật, là huyễn tướng, vốn dĩ chúng không tồn tại. Sự việc này, ngày nay trong Cơ học Lượng tử có cách nói này, ở trong một số tôn giáo, trong cổ Thánh tiên Hiền cũng có cách nói này, nhưng giảng được rõ ràng nhất, thấu triệt nhất, thì không gì vượt qua được kinh điển Đại thừa, quý ngài giảng được thật sự thông suốt, giúp cho quý vị hiểu rõ được chân tướng sự thật, không để ý đến chúng thì không việc gì. Hễ động, khi động, chúng thật sự liền hiện hành, nếu chúng ta không để ý đến chúng, không để ý thì chưa hết dư âm, chúng còn có Tương tục tướng, liền hình thành Thật báo Trang Nghiêm độ, người triệt để không để ý sự việc này sẽ trụ ở Thật Báo Trang Nghiêm độ, cũng chính là tuy có tướng, nhưng quý ngài không khởi tâm, không động niệm, không phân biệt, không chấp trước. [Ở] Thật Báo Trang Nghiêm độ, chúng có thể tồn tại, chính là chưa đoạn Tập khí, thuận theo Tập khí này chính là sóng dao động vi tế nhất. Bồ-tát Di Lặc đã nói là một khảy móng tay có 320 tỷ ý niệm, chưa đoạn điều này, cho nên có sự tồn tại của cõi Thật Báo Trang Nghiêm.

        Những việc này rất có thể khiến cho người ta mê hoặc, là người nào? Đó là nhà khoa học, nhà triết học, những điều này từ đâu mà có? Vì sao lại có? Đó là gì? Đây là Trí tướng, là Trí tướng trong Lục thô, những thứ này sanh khởi rồi. Sau Trí tướng tiếp theo có Tương tục tướng, có Chấp thủ tướng, Kế danh Tự tướng, càng đi càng sâu, càng đoạ càng sâu, lại xuất hiện Khởi nghiệp tướng, Nghiệp hệ Khổ tướng. Xong rồi, có đủ Thập pháp giới. Cho nên Thập pháp giới cũng là từ một niệm thô mà liền hoàn thành, toàn bộ đều hiện tiền. Tướng thô này chính là một khảy móng tay có 320 tỷ ý niệm, toàn bộ vũ trụ liền xuất hiện. Y Chánh trang nghiêm của Thập pháp giới ở ngay trong một khảy móng tay mà xuất hiện. Thật khó được! Cho nên trong tâm thanh tịnh của Tự Tánh chẳng những không có Tam tế, mà Lục thô cũng không có, đây là Phật quả rốt ráo, là Thường Tịch Quang.

        Tiếp theo Đại sư cũng nói với chúng ta, sự việc này 「又不可以識識」“hựu bất khả dĩ Thức thức” (lại không thể dùng Thức để biết). Chữ Thức phía trước là danh từ, chính là ngày nay chúng ta nói là tri thức, chữ thức phía sau là nhận thức, quý vị không thể dùng tri thức để nhận biết điều đó. Cho nên chúng không có Lục thô tướng; Đây cũng chính là nói chúng không có Chấp trước, không có Chấp trước là không có Lục thô. Thô này bao gồm Phân biệt, Chấp trước, cũng chính là chúng ta nói Y Chánh trang nghiêm của Thập pháp giới, đó là biến hiện ra từ Lục thô; Không có Lục thô, cho nên quý vị không thể dùng Thức để nhận biết chúng. Ngày nay chúng ta từ sự việc này có thể [bị] phiền phức lớn rồi, cho nên ngày nay vì sao chúng ta không có cách hiểu rõ được chân tướng của vũ trụ nhân sanh, câu nói này có thể giải đáp được. Vì sao vậy? Bởi ngày nay chúng ta không có rời khỏi tâm ý thức, tâm ý thức cũng đều gọi là Thức, chúng ta đều là dùng tâm ý thức để nhận biết về vũ trụ. Tâm là A-lại-da, ý là Mạt-na, là Chấp trước, Thức là Ý thức Thứ sáu, là Phân biệt. Hiện nay chúng ta đối với nhận thức của toàn bộ vũ trụ, lìa không khỏi Phân biệt, lìa không khỏi Chấp trước, lìa không  khỏi Vọng tưởng. Quý vị muốn dùng Thức để biết, thì đối với Y Chánh trang nghiêm của Thập pháp giới, quý vị vĩnh viễn là mê ở trong [đó]. Đây chính là ngày nay chúng ta giảng, vì sao khoa học, triết học không có cách nào nói ra được chân tướng của vũ trụ. Chính là nhà triết học, nhà khoa học, họ là dùng Thức để nhận biết, dùng Thức để hiểu, vậy liền có Lục thô tướng hiện ra. Thế nhưng chân tướng trong vũ trụ, trong kinh Phật nói là Chư pháp Thật tướng, quý vị không dùng Thức để biết, thì Chân tướng liền rất rõ ràng, ngay ở trước mặt quý vị.

      Cho nên chúng ta cần buông xuống dùng thức để biết, vì sao vậy? Vì chúng không có Lục thô, Phật nói ra danh từ Lục thô này, là giả danh. Nếu quý vị cho rằng dùng kiến thức thông thường của chúng ta: để giải thích được, vậy liền có Lục thô, quý vị nói được Lục thô rất rõ ràng. Quý vị cần phải hiểu trong chân tướng sự thật thì nó là huyễn tướng, cũng chính là sát-na sanh diệt, chúng ta nói sát-na sanh diệt: cũng là nói rất miễn cưỡng, nói rất chung chung, vì sao vậy? Bởi thời gian một sát-na quá dài. Quý vị xem trong Kinh Nhân Vương nói với chúng ta, một sát-na có 900 sanh diệt, Ngài nói một khảy móng tay có 60 sát-na, một sát-na có 900 sanh diệt, thời gian của sát-na này là quá dài rồi. Cảnh giới chân thật này trong kinh Phật thường dùng bốn chữ 「不可思議」“Bất khả tư nghị” (không thể nghĩ bàn), đó là cảnh giới bất khả tư nghị. Bốn chữ bất khả tư nghị này dùng rất hay, chính là không thể nghĩ, không thể luận bàn, vì sao vậy? Bởi nghĩ và bàn đều là thức.  Chỉ cần quý vị không dùng tư, không dùng nghị, thì Chân tướng liền hiện tiền. Quý vị có tư có nghị, thì tướng hiện liền thay đổi, quý vị sẽ không thấy được Chân tướng. Cho nên trong câu nói này, ý nghĩa thâm sâu vô cùng. Khuyết điểm phạm phải của chúng ta hiện nay chính là dùng tri thức, dùng tri thức để nhận thức, cho nên vĩnh viễn không thể thấy được Chân tướng.

        Khi nào chúng ta không dùng thức này? Dùng điều gì? Dùng trí huệ, Bồ-đề là trí huệ, trí huệ là vốn có sẵn trong Tự Tánh. Tri thức, trong Tự Tánh không có, tri thức là gì? Tri thức, dùng lời nói dễ hiểu này, tri thức là sai lầm, không phải là Chân tướng Sự thật. Tri thức và trí huệ là khác nhau, tri thức có thể cầu được, trí huệ không thể cầu, cầu không được. Cần phải buông xuống mới có thể đắc được trí huệ, vì sao vậy? Vì tâm thanh tịnh sanh trí huệ, tri thức không phải là tâm thanh tịnh. Trong tâm thanh tịnh có rất nhiều tri kiến, tâm thanh tịnh bị ô nhiễm rồi. Cho nên tri thức là những thứ có trong Vọng tâm, trí huệ là những thứ có trong Chân tâm. Tri thức thì quý vị là cần đi tìm cầu, trí huệ thì không cần cầu, đây là hai sự việc khác nhau. Trí huệ có thể nhận biết Tự Tánh, tri thức không có cách nào. Cho nên điều thứ nhất trong Lục thô tướng là Trí tướng, chính là tri thức. Người học Phật chúng ta nói đến, đó chính là Phật học, Phật học là tri thức. Người thuộc Phật học không thể kiến Tánh, người kiến Tánh không thể làm Phật học.

          Người kiến Tánh nhất định phải buông xuống, đức Thích Ca Mâu Ni Phật đã làm ra tấm gương rất tốt cho chúng ta, chúng ta phải nhớ kỹ. Đức Thích ca Mâu Ni Phật thị hiện chính là chỗ mà người ngày nay gọi là tầng lớp tri thức, hiếu học, quý vị xem hoàn toàn rơi vào trong Trí tướng. Ngài đã học 12 năm, sau cùng nơi cội Bồ-đề, hoàn toàn buông xuống 12 năm sở học, không dùng thức để biết, không dùng thứ này, mới hoát nhiên đại ngộ, Minh tâm Kiến tánh. Thị hiện ấy, chúng ta cần phải lãnh hội được thật sâu sắc, Minh tâm Kiến tánh, kiến Tánh thành Phật, không phải là dựa vào tri thức, nương vào điều gì? Nương vào Giới Định Huệ. Giới là phương tiện, nhân Giới đắc Định; Định vẫn là phương tiện, nhân Định khai Huệ, Huệ mới là mục đích. Cho nên Đại sư Huệ Năng vì chúng ta mà thị hiện, ngài không phải là tầng lớp tri thức, ngài không biết chữ. Ngài không có tri thức, nhưng ngài có trí huệ, trí huệ từ đâu mà đến? Tâm ngài thanh tịnh, ngài không có ô nhiễm, là người rất chân thật, hiếu dưỡng mẹ già, không có tạp niệm. Cho nên ngài đầy đủ Giới Định, Ngũ tổ Hoà thượng Hoằng Nhẫn khai mở cho ngài một chút sơ sơ, thì trí huệ liền khai mở. Chúng ta cần phải hiểu rõ đạo lý này.

      Chúng ta ngày nay rốt cuộc là cầu trí huệ hay là cầu tri thức? Chúng tôi trong cả cuộc đời này, ở rất nhiều quốc gia khu vực, tiếp xúc Phật giáo, chúng tôi đều thấy Viện Phật học. Trong Viện Phật học vì sao không thể đào tạo ra A-la-hán? Vì sao không thể đào tạo ra Bồ-tát, đào tạo ra Phật? Bởi vì điều mà trong Viện Phật học cầu chính là Phật học. Ý nghĩa của lời này, chính là họ xem Phật pháp như một môn học tri thức, một loại tri thức thế gian, cho nên không có một người nào có thể chứng đắc quả vị của Phật pháp. A-la-hán nhất định phải buông xuống Chấp trước đối với tất cả pháp thế gian và xuất thế gian, không có người có thể buông xuống, cho nên không có người chứng A-la-hán. Thế nhưng nghiên cứu kinh điển Phật giáo, ở trong trường học thật sự có thể đạt được học vị Tiến sĩ, đạt được học vị Thạc sĩ, đạt được học vị thế gian, nhưng họ không phải là A-la-hán. Học vị của Phật giáo là A-la-hán, Bồ-tát, Phật, là ba danh xưng này, họ không thể đạt được, bởi vì ba thứ học vị này đều là bất khả dĩ Thức thức, thì quý vị mới có thể đạt được, khó là khó ở chỗ này. Chúng tôi thường khuyến tấn đồng học, chúng ta không làm Phật học, chúng ta cần phải học Phật. Phải học Phật thì mới đạt được học vị trong Phật pháp, học vị của Phật pháp là A-la-hán, Bồ-tát, Phật, chúng ta muốn đạt được những học vị này. Phải dùng phương pháp nào? Không thể không buông xuống, điều này cùng với học thuật thế gian là hai việc khác nhau, phương hướng mục tiêu hoàn toàn khác nhau. Trong Đại học thế gian, quả thật đây là ba thứ học vị của thế gian Cử nhân, Thạc sĩ, Tiến sĩ, những địa vị này có thể đạt được dễ dàng.

          Cho nên nhiều năm qua chúng tôi như vậy, hàng ngày thường luôn động viên các đồng học, chúng ta cần phải chân thật làm, từ chỗ nào mà làm? Từ trì Giới, tu Định, phải bắt đầu làm từ chỗ này. Bài học đầu tiên, thầy dạy chúng ta buông xuống, trước tiên buông xuống điều gì? Trước tiên buông xuống tự tư tự lợi, ở trong cuộc sống hàng ngày xử việc đối người tiếp vật, luôn luôn nhắc nhở chính mình. Tập khí tự tư tự lợi của chúng ta rất nặng, đó là thói quen, đó không phải là Bổn tánh, Bổn tánh là thiện. Thiện này không phải là thiện trong thiện ác. Thiện ở đây nói điều gì? Thiện này coi như viên mãn để giảng, một chút mảy may khiếm khuyết đều không có. Là trí huệ viên mãn, đức hạnh viên mãn, tài nghệ viên mãn, tướng hảo viên mãn, phước báo viên mãn, không có một điều gì không viên mãn, đó gọi là thiện. Không phải là thiện trong thiện ác. Đó chính là Bổn tánh, Tự Tánh là viên mãn, chính là Bồ-đề Niết-Bàn, đại viên mãn. Mê mất Tự Tánh rồi, thất lạc viên mãn, liền biến thành khiếm khuyết, chúng ta ngày nay mọi thứ đều là thiếu khuyết, không có trí huệ, trở thành phiền não, không có đức hạnh, trở thành tạo nghiệp, không có phước báu, trở thành Lục đạo Tam đồ, biến chất rồi. Thế nhưng đức Phật nói với chúng ta, những thay đổi này toàn là giả, đều không phải là thật; Còn Sự thật, Sự thật là như như bất động, không có bị thương tổn chút nào, chỉ cần quý vị bỏ đi Vọng tưởng, Phân biệt, Chấp trước, thì Chân thật liền hiện tiền. Giảng được rất hay, quý vị tin hay không? Quý vị không tin, quý vị vĩnh viễn mê thêm nữa. Nếu quý vị tin, chịu quay đầu, thì chân thật nói là 回頭是岸“hồi đầu thị ngạn” (quay đầu là bờ), quý vị liền chứng đắc rồi.

       Chúng ta hiểu rõ sự thật này, chúng ta buông xuống tự tư tự lợi, đó là tu hành, là chân thật tu hành, buông xuống danh văn lợi dưỡng, danh văn lợi dưỡng là bên ngoài, rất dễ lôi cuốn mọi người, nhất định phải buông xuống, phải buông xuống Ngũ dục Lục trần. Ngũ dục Lục trần là hưởng thụ trong vật chất tinh thần. Điều này không có trong Tự Tánh. Sau cùng buông xuống tham, sân, si, mạn. Tôi thường nói 16 chữ, đã giảng mười mấy năm, từ lúc tôi bắt đầu ra ngoài giảng kinh thì thường giảng, đã giảng 50 năm. Chân thật đều buông xuống rồi, có Kiến tánh hay chưa? Nói với quý vị rằng chưa có, đừng nói Kiến tánh, ngay cả A-la-hán mà quý vị cũng chưa có đạt được. Vậy còn phải làm như vậy sao? Phải làm như vậy, tại vì sao? Bởi đó là dẫn quý vị đến cửa vào A-la-hán, quý vị có thể buông xuống bốn điều này, tự tư tự lợi, danh văn lợi dưỡng, Ngũ dục Lục trần, tham sân si mạn, không còn 16 chữ này nữa, là cửa ngõ của A-la-hán, quý vị cố gắng tiến thêm một bước, sẽ chứng A-la-hán.

A-la-hán cũng có đại A-la-hán, tiểu A-la-hán. Trong kinh Phật giảng có tám cấp bậc A-la-hán, tứ quả và tứ quả hướng là tám cấp bậc. Quý vị làm được 16 chữ này: chính là Sơ quả hướng trong Tứ quả hướng này, quý vị đã nhắm đúng phương hướng của A-la-hán, nhưng quý vị vẫn chưa chứng đắc. Phải làm thế nào mới chứng? Đó là nắm được tiêu chuẩn trong kinh Phật, không phải tiêu chuẩn của tôi nói, cao hơn tiêu chuẩn của tôi. Quý vị thật sự có thể buông xuống năm loại Kiến hoặc, thì chứng quả gì? Chứng Sơ quả, đó thật sự tiến vào cửa rồi. Sơ quả hướng, 16 chữ tôi giảng là Sơ quả hướng, đó là phương hướng, quý vị chân thật tiến lên một bước, quý vị có thể buông xuống 16 chữ này, thì điều kiện cần có của Sơ quả quý vị không khó nữa. Vì sao vậy?  Bởi điều thứ nhất phải buông xuống 「身見」Thân kiến, không chấp thân này là ta nữa, thân không phải là ta, quý vị cần phải khẳng định thân không phải là ta. Vậy tôi hỏi quý vị, quý vị có tham sống sợ chết hay không? Không có, vì sao vậy? Vì nó không phải là ta, quan niệm tham sống sợ chết này không còn nữa. Thân là gì vậy? Thân thể là những gì của ta, giống như y phục của chúng ta hiện nay, ai muốn y phục thì ta cởi ra cho quý vị, hoan hỉ vui vẻ, nhất định không có hối hận, cũng không oán hận, nếu muốn, tôi sẽ cho quý vị, quý vị liền rất dễ dàng bố thí, phá Thân kiến rồi.

Thứ hai, phá được邊見 “Biên kiến“, Biên kiến là gì vậy? Tôi thường thảo luận với chư vị đồng học về đối lập, nhị biên là đối lập. Chúng ta nhất định phải hoá giải đối lập với người và sự, chân thật chuyển biến được ý niệm này, người và ta là một thể. Sau khi đoạn hết kiến giải này, quý vị có xuất hiện điều gì? Thương người như chính mình. Đây là hạng người nào? Tu-đà-hoàn, cấp bậc thứ hai này của A-la-hán, đây là thật sự chứng được A-la-hán, là tiểu A-la-hán, Sơ quả. Quý vị liền hiểu được tiêu chuẩn của Phật pháp thật sự không dễ dàng! Không thể xung đột với tất cả mọi người, người khác xung đột với quý vị, quý vị không thể xung đột với họ, xung đột nhất định là xung đột xảy ra từ hai phía, nếu một bên không có, thì quý vị xung đột thế nào, nắm đấm đánh vào không rồi, quý vị sẽ không nảy sinh xung đột với người khác. Không có đối lập với người, không có đối lập với sự, cũng không có đối lập với thiên địa vạn vật nữa. Không có đối lập sẽ không có mâu thuẫn, không có mâu thuẫn sẽ không có xung đột, điều này vĩnh viễn đã hoá giải xong rồi. Đây là năm thứ nhất Tiểu học của Phật pháp.

          Sau đó [là] không còn Thành kiến nữa. 「見取見、戒取見」”Kiến thủ kiến, Giới thủ kiến”, người trong nước ta đều gọi là Thành kiến, không còn Thành kiến, không còn Thành kiến có thể tuỳ duyên. Kiến thủ kiến là Thành kiến trên quả, Giới thủ kiến là Thành kiến trên nhân, giảng về nhân quả. Không còn Thành kiến, không còn ý nghĩ của chính mình, chính mình vĩnh viễn là tâm thanh tịnh, quý vị mới có thể hằng thuận chúng sanh tuỳ hỷ công đức. Cuối cùng là không còn Tà kiến, chính là quý vị đều không còn có tất cả những kiến giải sai lầm, vì sao không còn? Bởi quý vị không có tri kiến, có tri kiến đều là sai lầm, không có tri kiến. Vì sao vậy? Vô sở đắc. Từ A-la-hán, Tu-đà-hoàn thì vô sở đắc, đây là năm thứ nhất Tiểu học của Phật pháp, Tu-đà-hoàn của Tiểu thừa. Còn Đại thừa? Đại thừa là Kinh Hoa Nghiêm, đây là Đại thừa, trong Kinh Hoa Nghiêm Bồ-tát Sơ tín vị, cũng là năm thứ nhất, cũng là năm thứ nhất của Đại thừa, đều là cảnh giới này. Nhưng sự đoạn chứng của năm thứ nhất Đại thừa và năm thứ nhất Tiểu thừa là bình đẳng. Đoạn phiền não là bình đẳng, trí huệ thì khác nhau, Đại thừa cao hơn Tiểu thừa rất nhiều. Tiểu thừa không biết có Tự Tánh, không biết nguồn gốc của vũ trụ, không biết được. Đại thừa đều biết được, đây chính là giảng về trí huệ, vậy thì Tiểu thừa không thể so sánh.

Chúng ta hiện tại là ở địa vị nào? Chúng ta hiện nay chính là ở, nếu dùng lời của Tiểu thừa để nói, chúng ta chưa chứng được Sơ tín vị, chúng ta đi là phương hướng của Sơ tín, Sơ tín hướng, chưa có chứng được quả vị Sơ tín. Chứng được quả Sơ tín, là tương đồng với quả Tu-đà-hoàn của Tiểu thừa, đó là Thánh nhân rồi. Không thể xem thường, ở trong Tam bất thoái, quý ngài đắc được Bất thoái chuyển đầu tiên rồi, điều gì bất thoái? Là Vị bất thoái, quý ngài vĩnh viễn không thoái chuyển đến phàm phu, quý ngài thật sự học lớp trên rồi, từ nay về sau quý ngài là từng bước tiến lên, quý ngài sẽ không thoái chuyển nữa. Mặc dù vẫn chưa có ra khỏi Lục đạo Luân hồi, nhưng quý ngài nhất định không đoạ vào Tam ác đạo, vì sao vậy? Quý vị suy ngẫm sẽ hiểu được, bởi quý ngài không còn tham sân si, quý ngài đoạn hết tham sân si mạn rồi, có tham sân si mới đoạ Tam ác đạo, không có tham sân si sẽ không đoạ Tam ác đạo. Quý ngài không còn ngạo mạn, không ngạo mạn là không đoạ ở trong ma đạo, ma đạo, đường A-tu-la, đường La-sát đều có ngạo mạn, quý ngài không còn ngạo mạn, cho nên quý ngài không rơi vào con đường này, quý ngài chỉ là tu hành ở hai đường người trời. Lúc đó có đại Bồ-tát thường chiếu cố những tiểu Bồ-tát ấy, giúp đỡ quý vị tiến lên.

Cho nên đức Phật giảng, chỉ cần chứng được Sơ quả, hoặc là Bồ-tát Sơ tín vị, thì quý vị ở trong Lục đạo dài nhất là bảy lần, sẽ không quá bảy lần, bảy lần qua lại trong cõi trời người, quý vị liền chứng được A-la-hán, Tứ quả A-la-hán, tốt nghiệp Tiểu thừa rồi. Trong Kinh Hoa Nghiêm chính là Bồ-tát Thất tín vị, bảy lần qua lại trong cõi trời người, quý vị chứng được Bồ-tát Thất tín vị, không còn Lục đạo nữa, siêu vượt Lục đạo. Thất tín, Bát tín, Cửu tín, Thập tín chính là Phương Tiện Hữu Dư độ, Lục đạo là Phàm Thánh Đồng Cư độ, quý vị rời khỏi Phàm Thánh Đồng Cư độ, quý vị tiến lên đến Phương Tiện Hữu Dư độ. Trong Phương Tiện Hữu Dư độ, vậy thì nếu muốn tiến lên nữa, phải đoạn điều gì? Phải đoạn Tập khí của Chấp trước, không còn Chấp trước, nhưng còn Tập khí Chấp trước. Phương Tiện Hữu Dư độ có bốn tầng, tầng thứ nhất là A-la-hán, có Tập khí, đoạn hết Tập khí, quý ngài tiến lên tầng thứ hai, tầng thứ hai là Bích-chi-phật. Bích-chi-phật không còn Tập khí, nhưng quý ngài có Phân biệt, ở trong tầng thứ hai quý ngài là phá Phân biệt, không phân biệt đối với tất cả pháp. Khi thật sự không còn Phân biệt đối với tất cả pháp, đoạn hết tâm Phân biệt rồi, quý ngài lại tiến thêm, tiến lên tầng thứ ba, tầng thứ ba là Bồ-tát, Bồ-tát trong Thập pháp giới. Bồ-tát không còn Phân biệt, nhưng còn Tập khí của Phân biệt, cho nên Bồ-tát phải đoạn hết Tập khí của Phân biệt. Đoạn dứt Tập khí của Phân biệt rồi, không còn nữa, quý ngài đạt được bậc cao nhất, cao nhất là Phật, là Phật trong Thập pháp giới, đó chưa phải là Phật thật, là Tương tự Tức Phật, đó là bậc cao nhất trong Thập pháp giới. Cao nhất tức là quý ngài cũng không còn Tập khí của Phân biệt, nhưng quý ngài có Khởi tâm Động niệm, Khởi tâm Động niệm chính là Vọng tưởng, chính là Vô minh. Quý ngài phải đoạn hết Khởi tâm Động niệm, chính là Khởi tâm Động niệm vi tế, không còn Khởi tâm Động niệm đối với tất cả pháp xuất thế gian, chỉ cần quý ngài đạt đến công phu như vậy, thì Thập pháp giới sẽ không còn nữa, lúc ấy gọi là Minh tâm Kiến tánh, kiến Tánh thành Phật. Không còn Thập pháp giới nữa, quý ngài đến Nhất chân Pháp giới, chính là sanh vào Thật Báo Trang Nghiêm độ. Sanh đến Thật Báo Trang Nghiêm độ, quý vị xem: Vọng tưởng, Phân biệt, Chấp trước đều không còn, cũng chính là chân thật làm được không Khởi tâm, không Động niệm, không Phân biệt, không Chấp trước, thế nhưng quý ngài vẫn còn Tập khí của Vọng tưởng, chính là Tập khí của Khởi tâm Động niệm, quý ngài thật sự không còn Khởi tâm Động niệm, nhưng rất khó đoạn Tập khí. Chính vì có Tập khí này, cho nên mới có Thật Báo Trang Nghiêm độ, nếu là đoạn hết Tập khí này, thì không còn Thật Báo Trang Nghiêm độ nữa, Thường Tịch Quang Tịnh độ hiền tiền.

Phật giảng những sự thật chân tướng này thật rõ ràng, thật sáng tỏ. Người lợi căn, người Thượng thượng căn, như đức Thích Ca Mâu Ni Phật, như Đại sư Huệ năng, quý ngài có bản lãnh, ngay lập tức liền đoạn hết, cũng chính là nói quý ngài có năng lực không Khởi tâm, không Động niệm, không Phân biệt, không Chấp trước. Chẳng những quý ngài không có ba loại Phiền não lớn này, mà quý ngài còn đã trừ đi Tập khí của Khởi tâm Động niệm, Tập khí của Phân biệt Chấp trước đều không còn nữa, điều này gọi là đốn siêu, gọi là đốn chứng. Vừa chuyển ý niệm, ở trên Lý luận mà nói, phàm phu thành Phật cần bao nhiêu thời gian? Trong khoảng một niệm, ý niệm chuyển lại thì phàm phu liền thành Phật. Vấn đề chính là quý vị có thể chuyển lại được hay không, chuyển lại được liền thành tựu. Vì sao không chuyển lại được? Bởi chúng ta ở trong Lục đạo bị ô nhiễm quá nghiêm trọng, quá sâu, thời gian ô nhiễm quá dài, hiện tại biết được rất rõ ràng rất sáng tỏ, nhưng chính là buông không xuống, chính là đoạn không hết được, phiền phức là ở chỗ này. Phật Bồ-tát đối với chúng ta rất rõ ràng, rất hiểu rõ, quý vị không thể nhất thời đoạn hết được, thì từ từ đoạn, mỗi ngày đoạn một chút, mỗi năm đoạn một chút, chủ yếu là không được tăng thêm, mỗi năm mỗi đoạn, quý vị từng bước tiến lên. Phương pháp này chính là có lợi ích rất lớn đối với chúng ta. Chúng ta đốn ngộ thì ngộ không được, chúng ta đi [bằng] tiệm ngộ, ngộ dần dần. Giống như đức Phật xây dựng cho chúng ta 51 cấp bậc của Bồ-tát, cũng giống như đi học, từ từ leo tiến lên. Thế nhưng khó nhất là nhập môn, chúng ta ngày nay không có nhập môn, khó khăn là ở chỗ này.

Thực hành công phu nhập môn, thật sự muốn nhập môn, vài chục năm nay tôi thường nói đến 16 chữ này, điều này quan trọng, 16 chữ này nếu làm không được, thì không có cách nào nhập môn. 16 chữ này chính là bước đi đầu tiên, là đưa quý vị đến cửa. Câu đầu tiên, buông không xuống được tự tư tự lợi, thì vĩnh viễn không thể nhập môn. Từ chỗ này suy ra, quý vị biết rõ học Phật là thật sự khó, nhập môn thật sự không dễ, ngưỡng cửa rất cao. Đại thừa hay Tiểu thừa đều cao, đừng nghĩ rằng Tiểu thừa là dễ dàng, Tiểu thừa cũng phải đoạn được 88 phẩm Kiến hoặc, chính là chỗ vừa rồi chúng ta nói: Thân kiến, Biên kiến, Kiến thủ kiến, Giới thủ kiến, Tà kiến. Vậy làm thế nào? Đức Phật thực sự là từ bi đến tột cùng, nếu quý vị không có cách nào, thì vẫn còn một con đường để có thể đi, đó là gì? Đường lớn ngoài cửa, chính là Tịnh Độ. Tịnh Độ cho phép quý vị đới nghiệp vãng sanh, chính là chúng ta nói 16 chữ này, chính là đưa quý vị vào cửa, nếu quý vị đều làm không được 16 chữ này, thì quý vị có thể vãng sanh hay không? Có thể vãng sanh, điều này không thể nghĩ bàn. Sau khi mở ra Pháp môn này rồi, đó thật là, Thập phương chư Phật Như Lai đều tán thán A Mi Đà Phật, vì sao lại tán thán Ngài? Chính là ở điểm này. Cho nên sự thù thắng của Thế giới Tây Phương Cực Lạc, chính là thù thắng ở Phàm Thánh Đồng Cư độ, đới nghiệp vãng sanh, không phải là ở trên; Ở trên, thì chư Phật Bồ-tát đều như nhau, Thế giới Cực Lạc cũng giống vậy, không hiếm lạ. Chính là Phàm Thánh Đồng Cư độ, vãng sanh ở ba bậc Hạ phẩm, một phẩm Phiền não cũng chưa đoạn. Nhưng vẫn có một điều kiện, nhất định phải hiểu được điều này, công phu niệm Phật phải có thể khống chế được Phiền não, Tập khí, chưa đoạn được, nhưng khống chế được chúng, khiến cho chúng không phát ra, không khởi tác dụng, đó là phục Phiền não, không phải là đoạn Phiền não. Đoạn Phiền não rất khó, vừa đoạn thì quý vị liền nhập môn. Vừa rồi nói là vào lớp thứ nhất, vào lớp thứ nhất chính là đạt được chứng chỉ đảm bảo, Vị bất thoái chính là chứng chỉ đảm bảo. Khó được điều này.

Chúng tôi hiện tại đi đích thực là, rất may mắn, điều này thật là hiếm có khó gặp, được thân người không dễ, học Phật pháp không dễ, gặp được Đại thừa không dễ, gặp được Tịnh Độ càng không dễ. Gặp được Tịnh Độ, quý vị phải thật sự có thể quyết trọn một lòng nắm giữ, thì một đời này chẳng những ra khỏi Lục đạo, mà còn thoát khỏi Thập pháp giới, là khẳng định có thể làm được. Đây chính là mang lại niềm hy vọng vô tận cho mỗi cá nhân chúng ta. Thế nhưng chúng ta nhất định phải nắm chắc cơ hội, bởi vì thọ mạng thân người không dài, nếu không có nắm vững cơ hội, điều này, vậy thật đáng tiếc. Không phải đời đời kiếp kiếp tuyệt đối quý vị có thể gặp được cơ hội này. Cư sĩ Bành Tế Thanh vào thời đầu nhà Thanh nói 「無量劫來希有難逢」”vô lượng kiếp lai hi hữu nan phùng“ (vô lượng kiếp đến nay hiếm có khó gặp). Chúng ta gặp được Pháp môn này, thật sự là vô lượng kiếp đến nay gặp được một lần, quý vị nói rất khó được, quý giá biết bao, nhất định không thể bỏ lỡ, phải buông xuống tất cả pháp thế xuất thế gian, [chỉ] nắm vững Pháp môn này. Pháp môn này có khó hay không? Chúng ta xem thấy từ trong Tịnh Độ Thánh Hiền Lục, từ trong Vãng Sanh Truyện, khi tôi mới học Phật, tôi đọc rất nhiều những cuốn sách ấy, tôi cảm thấy rất xúc động. Sau khi tôi đọc xong liền nghĩ đến một việc, hầu như một nửa [số người] trong đó, một nửa số người được ghi lại trong sách ấy, họ niệm Phật từ khi nghe được Pháp môn Tịnh Độ đến khi niệm Phật vãng sanh, đại khái khoảng ba năm, điều này nói rõ là không khó. Khi tôi mới ra ngoài giảng kinh, tôi là 33 tuổi ra ngoài giảng kinh, có gặp được một số Pháp sư trẻ tuổi, không cách tuổi tôi mấy, hướng về tôi đưa ra một vấn đề, các thầy ấy nói trong Vãng Sanh Truyện, Tịnh Độ Thánh Hiền Lục có nhiều người niệm Phật ba năm thì vãng sanh, có phải là họ niệm Phật mới ba năm thì tuổi thọ đã hết rồi không? Hỏi vấn đề này là thế nào. Tôi nghĩ rằng không thể có khả năng này, làm sao có nhiều người như vậy vừa đúng ba năm thì tuổi thọ đã hết, điều này là rất khó khiến người ta tin được. Cho nên lúc đó tôi liền lãnh hội được, tôi nói đây tuyệt đối không phải là thọ mạng của họ đã hết, mà là ba năm thì công phu của họ thành tựu rồi, trong kinh Phật nói, chỉ cần quý vị niệm Phật đến Công phu Thành phiến, quý vị liền có thể tự tại vãng sanh.

            Đặc biệt là trong Tịnh Độ Thánh Hiền Lục, chúng ta xem thấy Pháp sư Oánh Kha là ví dụ, ví dụ này rất rõ ràng. Pháp sư Oánh Kha là người thời Tống, vị Pháp sư ấy Tập khí rất nặng, ngày nay chúng ta nói là thói hư tật xấu, Tập khí rất nặng, mặc dù xuất gia, nhưng ngài không thể giữ giới, không thể trì giới, cho nên hay phạm khuyết điểm. Bản thân ngài có một điều rất tốt, là ngài tin tưởng nhân quả, ngài suy nghĩ loại hành vi này của mình, nhất định sẽ đoạ Địa ngục, nghĩ đến đoạ Địa ngục, ngài liền sợ hãi, cho nên ngài hướng về bạn bè đồng học đồng môn của ngài để thỉnh giáo, các vị có phương pháp nào có thể cứu tôi không, để tôi không bị đoạ Địa ngục. Các bạn đồng học liền đưa cho ngài xem một bản Vãng Sanh Truyện, khi ngài đọc xong rất cảm động, quyết tâm niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ. Ngài phát tâm vô cùng dũng mãnh, vừa tiếp xúc Pháp môn này, ngài liền đóng của phòng niệm A Mi Đà Phật, ba ngày không ngủ, không ăn cơm, đây là trong kinh ghi lại, ba ngày ba đêm ngài niệm khiến A Mi Đà Phật tới rồi. Chúng ta có thể tin tưởng, vì sao vậy? Chúng ta xem đến Kinh Địa Tạng, cô Bà-la-môn nữ niệm danh hiệu đức Giác Hoa Định Tự Tại Vương Như Lai, niệm được một ngày một đêm liền khởi cảm ứng. Ba ngày ba đêm ấy của Pháp sư Oánh Kha, không thể xem thường ngài ấy, ngài ấy niệm khiến A Mi Đà Phật đến rồi. Niệm cho đến khi A Mi Đà Phật nói với ngài, Phật nói: Tuổi thọ của con vẫn còn mười năm, con học tốt lắm, sau mười năm nữa, đến khi thọ mạng của con kết thúc, Ta sẽ đến tiếp dẫn con. Pháp sư Oánh Kha tự mình suy nghĩ một chút, còn có mười năm, như vậy thời gian rất dài, ngài liền thỉnh với A Mi Đà Phật: Thói hư tật xấu của con rất nặng, con không chịu nỗi những cám dỗ, nếu như mười năm vậy thì không biết được con lại phạm bao nhiêu tội, ngài nói: con có thể không cần thọ mạng được không, bây giờ con theo Ngài đi luôn. A Mi Đà Phật liền đồng ý với ngài ấy. Phật nói: Được rồi! Ba ngày sau Ta đến tiếp dẫn con. Chân thật ba ngày sau, ngài ấy không sanh bệnh mà vãng sanh rồi. Việc này nói rõ điều gì? Còn thọ mạng nhưng không cần, cho nên tôi thấy được những người niệm Phật ba năm vãng sanh, tôi hay có cách nghĩ này, tuyệt đối không phải là họ đã hết thọ mạng, họ còn thọ mạng, nhưng họ không cần nữa.

Vì vậy vào năm ngoái, bên Thâm Quyến của chúng ta, Cư sĩ Hoàng Trung Xương đã làm một chứng minh cho chúng ta. Anh ấy nghe nói tôi thường giảng về những việc này, anh ấy còn gọi điện thoại cho tôi, anh ấy nói: Con muốn bế quan niệm Phật ba năm cầu vãng sanh, có được hay không? Tôi nói có thể. Nhờ Hướng Tiểu Lỵ hộ pháp, anh ấy niệm đến khi còn thiếu hai tháng nữa là tròn ba năm, nghĩa là 2 năm 10 tháng, biết trước thời gian anh ấy ra đi, đây hoàn toàn không phải là đã hết thọ mạng. Khi ra đi tướng lành tốt đẹp, hoả táng còn có xá lợi. Thật sự hạ quyết tâm, buông xuống vạn duyên, thứ gì cũng đều xả hết, nhất tâm nhất niệm chính là cầu sanh Thế giới Cực Lạc, thân cận A Mi Đà Phật. Cư sĩ Hoàng có thể làm được, mỗi đồng học đều có thể làm được, chân thật phát nguyện, có khó hay không? Không khó. Cho nên người học Tịnh Tông, nếu tai hoạ gì đến, chúng ta có thể có thời gian ba năm, đủ để cho chúng ta đến Thế giới Cực Lạc, cho nên chúng ta không sợ hãi.

          Pháp môn niệm Phật này tiện lợi, không có chướng ngại, đi đứng nằm ngồi trong tâm có Phật đều được, tại gia, xuất gia, đều không có một chút chướng ngại. Khi có công việc, chỉ cần không phải là lao động trí óc, [vẫn] làm việc [còn] trong tâm cũng như niệm Phật. Nếu cần phải suy nghĩ, thì khi làm việc hãy buông xuống Phật hiệu, làm việc xong rồi, lại đề khởi Phật hiệu, đây chính là công phu không gián đoạn. Điều mà người niệm Phật gọi là không hoài nghi, không xen tạp, không gián đoạn, họ có năng lực phục Phiền não, phiền não có thể phục được, phục được rồi, liền tự tại vãng sanh. Cho nên đới nghiệp vãng sanh cõi Phàm Thánh Đồng Cư, không khó! Đới nghiệp vãng sanh thì có thể sanh tử tự tại, công phu này là niệm đến Thượng bối, Tam bối Cửu phẩm của Phàm Thánh Đồng Cư độ, công phu Thượng bối chính là tự tại vãng sanh, mỗi người chúng ta đều có thể làm được điều này. Muốn đến Phương Tiện Hữu Dư độ, vậy thì không dễ dàng, tiêu chuẩn của Phương Tiện Hữu Dư độ ít nhất chính là chúng ta giảng ở trước, là đoạn được 88 phẩm Kiến hoặc, chính là Thân kiến, Biên kiến, Kiến thủ kiến, Giới thủ kiến, Tà kiến, đoạn hết những thứ này, vậy thì niệm Phật sanh vào Phương Tiện Hữu Dư độ, cũng chính là Sơ quả Tu-đà-hoàn. Cho nên Thế giới Cực Lạc là đáng quý nhất, tất cả chư Phật đều tán thán, không phải là Phương Tiện độ, không phải là Thật Báo độ, mà là Phàm Thánh Đồng Cư độ của A Mi Đà Phật.

Chỉ cần quý vị sanh đến Thế giới Tây Phương Cực Lạc, thì quý vị nhất định không còn đoạ lạc, vì sao vậy? Bởi trong 48 Nguyện đã nói, viên chứng Tam bất thoái, không phải là một loại bất thoái, Vị bất thoái, Hạnh bất thoái, Niệm bất thoái. Thông thường nói đến viên mãn chứng đắc Tam bất thoái là người thế nào vậy? Trong kinh điển Đại thừa, đức Phật hay giảng là Thất địa Bồ-tát, mới có thể chứng được A-duy-Việt-trí Bồ-tát. Nhưng người niệm Phật sanh về Phàm Thánh Đồng Cư độ Hạ hạ phẩm vãng sanh, họ cũng viên chứng Tam bất thoái. Cho nên trong Kinh A Di Đà Yếu Giải, Đại sư Ngẫu Ích vô cùng tán thán. Thế giới Tây Phương Cực Lạc là Thế giới như thế nào? Quý vị nói các ngài là phàm phu, nhưng các ngài viên chứng Tam bất thoái, quý vị nói họ là Bồ-tát, nhưng họ cũng chưa đoạn một phẩm Phiền não, quý vị không thể nói là phải, cũng không thể nói không phải. Suy cho cùng giải thích như thế nào? Sau nhiều năm qua học tập như thế chúng ta lãnh hội được rồi, đó là Bổn nguyện uy thần của A Mi Đà Phật gia trì cho họ, không phải là công phu của chính họ. Đó là đã làm Đệ tử của A Mi Đà Phật, đi đến chỗ nào, người ta thấy được Đệ tử của A Mi Đà Phật, tất cả chư Phật đều đối xử tử tế với quý vị, đều tôn trọng quý vị, bởi vì quý vị là học trò của A Mi Đà Phật, nên được thơm lây của A Mi Đà Phật, là sự việc này. Cho nên quý vị cần phải hiểu được, chỉ có sanh đến Thế giới Cực Lạc mới có thể được hưởng thơm lây, không có sanh về Thế giới Cực Lạc, thì không được thơm lây này của A Mi Đà Phật, cần phải hiểu rõ điều này.

Vì thế đối với Chân tướng Sự thật này, thật sự làm được rõ ràng, làm được sáng tỏ, quý vị ngẫm nghĩ xem, việc lớn nhất trong cuộc đời này của chúng ta là gì? Việc lớn đứng đầu chính là sự việc này. Cho nên chân thật tu hành vẫn là như Đại sư Huệ Viễn thời Đông Tấn ngày xưa, bậc Tổ sư thứ nhất của Tịnh Độ tông của chúng ta, ngài đã làm ra tấm gương tốt nhất cho chúng ta. [Những người] chí đồng đạo hợp tập trung cùng nhau niệm Phật, Niệm Phật Đường Đông Lâm ở Lô Sơn, 123 người, chí đồng đạo hợp, không xuống núi, tất cả đều vãng sanh. Nhân duyên này thật là hiếm có! Người vãng sanh trước: đi theo A Mi Đà Phật đến tiếp dẫn người vãng sanh sau. Khi Đại sư Huệ Viễn vãng sanh, rất nhiều người vãng sanh trước đó đều đến cùng với A Mi Đà Phật, Đại sư Huệ Viễn đều thấy được, nói cho các đồng học người nào đến, người nào ở bên cạnh A Mi Đà Phật, cùng đến rồi. Tuyệt đối không phải là vọng ngữ, tuyệt đối không phải nói dối, cho nên chúng ta phải trân quý duyên phận này.

Ngày nay trong thời đại này, quý vị thấy xã hội hỗn loạn như vậy, tai nạn nhiều như vậy, chúng ta gặp được Pháp môn này, [đối với] tai nạn trước mắt không kinh không sợ, tâm chúng ta rất an định. Chúng ta đối với Chân tướng Sự thật rất sáng tỏ, rất rõ ràng, tự mình có chủ động, chân thật dụng công, đó là Tăng thượng duyên rất tốt, giúp cho chúng ta buông xuống xã hội này, không có lưu luyến nữa. Chỉ có sự việc này: nhất định chúng ta phải làm được, việc làm khác là phụ, không phải là chính, việc chính là chúng ta niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ. Việc phụ là việc nào? Bồi dưỡng nhân tài vì Phật pháp, khiến cho huệ mạng Phật pháp có thể truyền xuống nhiều đời nhiều thế hệ, điều này quan trọng. Nhân tài phải bồi dưỡng nhân tài thật sự, cũng chính là phải giúp đỡ người chân thật học Phật, không phải là Phật học. Cho nên tôi từ năm 2006, sau khi chúng ta từ hoạt động tại Liên Hợp Quốc trở về, tôi liền suy nghĩ sự việc này, tôi cũng không muốn nhiều, [chỉ] mười người. Tìm một hoàn cảnh thanh tịnh, giống như kiểu của Đại sư Viễn công, mười năm không xuống núi, chuyên học một môn. Nhất môn thâm nhập, trường thời huân tu, mười năm tâm liền sẽ định xuống, đắc Niệm Phật Tam-muội, sẽ khai trí huệ, khai trí huệ rồi, đó gọi là thông một kinh thì thông tất cả kinh. Không cần tìm nhiều, mười người là đủ rồi, chỗ ở cũng không cần lớn, đời sống kham khổ một chút, [là] tốt, vì sao vậy? Bởi không có lưu luyến đối với thế gian, mỗi người [đều] thành tựu. Người trẻ tuổi vẫn còn thọ mạng, thì phổ biến hoằng dương Chánh pháp của Như Lai, việc này thì chúng ta cần phải làm. Đây là nói bất khả dĩ Thức thức, cho nên quý ngài không có Thô tướng, không có Lục thô.

Câu tiếp theo: 「不可以智知,故無細者」“Bất khả dĩ Trí tri, cố vô Tế giả“ (Không thể dùng Trí để hiểu, nên không có Tế). Chữ “trí“ phía trước là trí tuệ của thế gian, trong Phật pháp nói là thế trí biện thông, chính là Trí tướng trong Lục thô tướng. Không thể dùng thế trí biện thông để cầu sự hiểu biết, cho nên các ngài không có Tế tướng, cũng không có Tam tế tướng. Chẳng những không có Lục thô, mà cũng không có Tam tế. Tam tế tướng này, không có Tam tế tướng chính là không còn Khởi tâm Động niệm nữa, có Khởi tâm Động niệm mới có Tam tế tướng. Phải biết rằng Tam tế tướng là ở trong một niệm cực kỳ vi tế, cũng chính là chúng ta thường nói: một phần của 1 triệu 280 ngàn tỷ giây, ở trong khoảng thời gian này có Tam tế tướng, trong một niệm vi tế này: có Nghiệp tướng, Chuyển tướng, Cảnh giới tướng. Hoặc là nói Nghiệp tướng là A-lại-da, Chuyển tướng là Kiến phần, Cảnh giới tướng là Tướng phần, Kiến phần chính là hiện tượng tinh thần, kiến văn giác tri, thọ tưởng hành thức, Tướng phần là hiện tượng vật chất. Chính là ở ngay trong một niệm cực kỳ vi tế đó, những thứ ấy đều hiện ra, vũ trụ hiện ra, sanh mạng hiện ra, vạn pháp hiện ra, chúng cực kỳ vi tế. Loại hiện tượng vi tế này, chính là khởi nguồn của vũ trụ nhân sanh, không thể dùng tri thức để biết loại hiện tượng này. Hiện nay chúng ta: người cầu hiểu rõ sự việc này [là] rất nhiều, triết học gia đang làm mỗi ngày, khoa học gia cũng đang nghiên cứu, còn có thần học gia, nhà thần học của tôn giáo, đều đang tìm khởi nguồn của vũ trụ. Cho đến ngày nay có rất nhiều học thuyết, cách nói, đều không thể nói được viên mãn, cho nên cho đến bây giờ vẫn còn là một dấu chấm hỏi.

          Ở đây Phật giảng cho chúng ta rõ ràng rồi, vì sao quý vị không thể liễu giải Chân tướng Sự thật, bởi chư vị là có trí, trí tuệ thông minh của thế gian, chư vị [dùng] để cầu biết, vậy thì không có cách nào, vậy cầu không được. Vì sao vậy? Bởi Tam tế tướng bất khả đắc. Có Tam tế tướng hay không? Có, nhưng bất khả đắc, thời gian của chúng quá ngắn. Cho nên chúng ta nói hiện tượng này là tướng tương tự liên tục, bởi vì chúng không phải là thật, một niệm trước và một niệm sau không phải là nhất niệm, mỗi niệm đều là độc lập, mỗi niệm không liên quan đến nhau. Nhưng mỗi niệm chúng có chỗ tương tự, chúng không phải là tương đồng, chúng không hoàn toàn tương đồng, nhưng chúng có tương tự. Cho nên chúng ta ngày nay thấy được toàn bộ Cảnh giới tướng, bao gồm Thật Báo độ, Phương Tiện độ, Đồng Cư độ, đều là tướng tương tự liên tục, nhất định không phải là Chân thật. Mà hiện tượng này, nhà khoa học hiện nay nói được rất hay, cùng với cách nói của Phật pháp là hoàn toàn tương đồng, [là] hiện tượng sóng dao động. Sóng này là ý niệm, sóng thiện của chúng ta, ý niệm thiện, thì thế giới này liền tốt đẹp, ý niệm bất thiện, thì thế giới này liền không tốt. Điều này khi tôi trong giảng kinh cũng đã giảng đến nhiều lần, giảng đến Phàm Thánh Đồng Cư độ của Thế giới Cực Lạc, chư vị cần biết, Thế giới Tây Phương Cực Lạc được nói trong Tam kinh Tịnh Độ, [là] giảng hoàn toàn về Phàm Thánh Đồng Cư độ, vì sao vậy? Bởi Phương Tiện độ và Thật Báo độ thì nói không ra được. Quý vị thấy Đồng Cư độ ở đó đẹp như vậy, nhưng tôi nói [nơi đó] cùng với địa cầu nơi cư ngụ hiện nay tại Thế giới Ta Bà của chúng ta, giảng ở trên Lý thì không có khác nhau. Vì sao vậy? Cảnh chuyển theo tâm, hoàn cảnh bên ngoài có tốt đẹp hay không là tuỳ theo tâm người mà thay đổi. Vì sao Thế giới Cực Lạc tốt đẹp như vậy? Đức Thích Ca Mâu Ni Phật giới thiệu cho chúng ta, Thế giới đó đều là 「諸上善人俱會一處」“chư thượng thiện nhân câu hội nhất xứ“ (nơi tụ hội của các vị Thượng thiện), là thượng thiện. Thế giới này của chúng ta vào ngày nay, chân thật là nơi tụ hội của những người thượng ác, là sự việc như vậy. Trong tâm thiện, núi sông đất đai không có gì bất thiện; Trong tâm bất thiện, núi sông đất đai: tất cả đều biến thành bất thiện, chính là đạo lý như vậy.

              Cho nên ngày nay để hoá giải tai nạn, nếu dùng Phật pháp mà nói, thì không khó! Mỗi cá nhân chúng ta đều có thể quay đầu, đoạn ác tu thiện, thì thế giới này lập tức tốt đẹp thôi, tai nạn nào cũng đều không còn, lời nói này là chân thật không giả chút nào. Cho nên vấn đề là, thứ nhất, quý vị có tin hay không? Thứ hai là quý vị có ý nguyện làm như vậy hay không? Thứ ba quý vị có là rất nghiêm túc làm [việc đó] hay không? Quả báo lập tức liền hiện tiền. Khởi đầu của vũ trụ, nếu quý vị chân thật làm được rõ ràng, làm sáng tỏ rồi, thì quý vị có thể không tin được hay sao? Tất cả pháp từ tâm tưởng sanh, cảnh chuyển theo tâm, đây mới là sự thật chân chánh. Từ điều nhỏ nhất mà nói, [là] thân thể của chúng ta, hiện nay có nhiều bác sĩ, những bác sĩ thật sự tài giỏi, họ đều hiểu được: điều được gọi là phương pháp điều trị bằng tâm linh. Đừng nên dựa vào y dược, chứng bệnh hỗn tạp lạ gì đó, chỉ cần tự điều chỉnh tốt tư tưởng, thì cuộc sống mỗi ngày của quý vị được rất vui sướng, rất hạnh phúc, bác sĩ bó tay không thể chữa được bệnh ung thư, nhưng không đến vài ngày toàn bộ khoẻ rồi. Điều này là gì? Tâm, tâm linh thay đổi thân thể của chúng ta, về sau quý vị liền hiểu được, tâm linh có thể thay đổi được thế giới của chúng ta.

          Thế giới là cộng nghiệp, chỉ cần chúng ta [quay đầu], không cần nói đến người trên toàn thế giới đều quay đầu, điều đó rất khó, [chỉ cần] người học Phật chúng ta đều quay đầu, liền cứu được thế giới, sức mạnh này rất lớn, không thể nghĩ bàn! Không nên xem thường chính mình. Thuần tịnh thuần thiện, từ tâm mà làm, có thể thay đổi chính mình, giúp cho thân tâm của chính mình khoẻ mạnh, bệnh tật gì cũng đều không có. Cuộc sống không xa rời nghiệp báo, chỉ cần tâm linh hướng thiện, thì nghiệp báo của chúng ta liền chuyển thôi, không có phước báo thì được phước báo, có phước báo thì phước báo đó càng thù thắng, những thứ đó đều chuyển được. Chúng ta chẳng kể phước báu lớn hay nhỏ, chúng ta đều nghĩ đến tất cả chúng sanh khổ nạn, bản thân sinh hoạt đơn giản. Đặc biệt hiện tại gọi là khủng hoảng tài chính, có nhiều người bị ảnh hưởng, người học Phật chúng ta có bị ảnh hưởng hay không? Có thể nói người học Phật chân chánh không bị ảnh hưởng. Người học Phật, ít nhất cũng phải bồi dưỡng năm đức của Khổng tử, là ôn lương cung kiệm nhượng, đời sống tiết kiệm là tốt rồi. Có người hỏi tôi vấn đề này, tôi nói trước kia tôi ở tại Đài Trung học kinh giáo với thầy Lý, thầy Lý, ngài nói với tôi, ngài đại khái từ khi hơn 30 tuổi, chưa đến 40 tuổi, ngài liền phát tâm ăn một bữa vào giữa ngày. Đã ăn mấy chục năm, cho dù 40 tuổi mới bắt đầu, ngài sống được đến 97 tuổi, 57 năm mỗi ngày ăn một bữa, ngài làm việc vất vả cũng không kém người bình thường.

          Ngài ăn một bữa bao nhiêu? Hai cái bánh bao nhỏ, hai cái bánh bao nhỏ chút như vầy. Chi phí sinh hoạt của ngài vào lúc đó, một tháng là 60 đồng tiền Đài Loan, tương đương 1,5 đô la Mỹ. Lúc đó 1 đô la Mỹ bằng 40 đồng tiền Đài Loan. Chi phí sinh hoạt trong một tháng của ngài chỉ 1,5 đô la Mỹ, nên khủng hoảng tài chính kiểu nào có thể khiến ngài bị ảnh hưởng được? Tôi học theo ngài, cũng giữa ngày ăn một bữa, 5 năm sau cùng tôi ở tại Đài Trung, tôi học ngài bèn sinh sống như vậy. Nhưng không bằng ngài, tôi tuổi trẻ, vọng tưởng nhiều, cho nên ít hơn không được, tiền sinh hoạt của tôi mỗi ngày phải dùng ba đồng tiền, ngài cần hai đồng tiền, cho nên chi phí sinh hoạt mỗi tháng của tôi cần 90 đồng tiền, cũng chính là nhiều hơn 2 đô la Mỹ một chút. Bao gồm chi phí tiêu dùng cho tất cả những việc khác, tôi đã ở Đài Trung 10 năm, không vượt quá 150 đồng tiền, đại khái là 4 đô la Mỹ, chi phí sinh hoạt một tháng của tôi khi ở tại Đài Trung 10 năm. Thầy cũng rất khen ngợi tôi, bảo tôi giữ mãi trạng thái sinh hoạt loại này, vì sao vậy? Bởi cả đời không cầu người, người xưa nói:「人到無求品自高」”Nhân đáo vô cầu phẩm tự cao“ (Người đến không cầu thì nhân phẩm sẽ tự nhiên cao thượng). Sinh hoạt đơn giản, phải biết tiết kiệm, có thể ăn no là đủ rồi. Hình như tôi giữa ngày ăn một bữa đến tháng thứ tám, tôi mới báo cáo với thầy. Tôi nói: con học thầy giữa ngày ăn một bữa, đã qua tám tháng rồi. Thầy hỏi tôi: thân thể như thế nào? Có ảnh hưởng gì không? Tôi nói: không có ảnh hưởng, rất bình thường. Thầy vỗ tay xuống bàn, vĩnh viễn làm tiếp tục như vậy, đời này chúng ta không cầu người khác. Cho nên người nước ta chỉ cần biết tiết kiệm, còn dư thì giúp người khác, người khổ ở thế gian này rất nhiều, giúp đỡ người khác, tận tâm tận lực chính là công đức viên mãn, tai hoạ gì cũng đều có thể yên ổn bình an, nhanh chóng vượt qua.

          Mỗi người nhất định không thể sinh sống quá xa xỉ, không cho phép, không thể trải qua những ngày nợ nần. Người xưa ở nước ta mắc nợ là điều xấu hổ, ai muốn nợ quá ngày, chuyện đó là không thể. Đều là tuỳ theo mức thu mà chi ra, thật thà chân thành giữ gìn khuôn phép, thì tai hoạ gì cũng không có. Cho nên hiện nay nguồn gốc căn bản của tai nạn, chúng ta liền hiểu rõ, là không giữ bổn phận, gây ra lộn xộn, ham muốn hưởng thụ Ngũ dục Lục trần, vậy hiện tại mới gặp phải những tai nạn lớn như thế, đó là tự làm tự chịu. Vì sao ở nước ta từ xưa đến nay không có nghe nói qua, trong lịch sử có khủng hoảng tài chính, chưa nghe nói qua, tìm không thấy trong lịch sử nước ta, nguyên nhân là gì? Người nước ta giữ gìn bổn phận, trong Phật pháp nói được càng thấu triệt, đức Thích Ca Mâu Ni Phật ba y một bát, một bữa ăn giữa ngày, một đêm dưới gốc cây, tai nạn gì Ngài cũng đều không có, thiên tai nhân hoạ gì cũng đều không chút liên quan đến Ngài. Cuộc sống ấy của Ngài, người bình thường chúng ta thoạt nhìn rất khó khăn, nhưng Ngài thì vô cùng hạnh phúc. Cũng chính là thân tâm, dùng lời ngày nay để nói, đều không có áp lực, thực sự là cuộc sống hạnh phúc mỹ mãn. Cho nên nói pháp hỷ sung mãn, thường sanh tâm hoan hỷ, trong kinh Đại thừa thường giảng điều này.

          Hai câu sau đây, lại có năng chứng sở chứng, điều này là Thô, không có năng chứng sở chứng gọi là Tế. 「皆言語道,故並無之」”Giai ngôn ngữ đạo, cố tịnh vô chi“ (đều dứt đường ngôn ngữ, nên đều không có điều đó), đây đều là do Lão tử đã nói: 「道可道,非常道;名可名,非常名」“Đạo khả đạo, phi thường đạo, danh khả danh, phi thường danh“ (Đạo có thể là đạo, thì không phải là đạo bình thường, tên mà có thể gọi là tên, thì không phải là tên bình thường), quý vị cần phải hiểu được, đây là ngôn ngữ đạo, không phải là chư Pháp thật Tướng. 「菩提涅槃,絕心行故」“Bồ-đề Niết-Bàn, tuyệt tâm hành cố “ (Nên Bồ-đề Niết-Bàn, [là] dứt tuyệt tâm hành). Ý nghĩa của Bồ-đề là giác chiếu, ý nghĩa của Niết-Bàn là tịch diệt, đều là ngôn thuyết. Chúng ta dùng hai câu nói này của Lão tử để giảng, thì sự việc này không khó lãnh hội được.

Hôm nay thời gian đã hết, chúng ta học tập đến đây thôi.

(Hết tập 2006)

Nguyện đem công đức này
Hướng về khắp tất cả
Đệ tử cùng chúng sanh
Đều sanh nước Cực Lạc
Sớm viên thành Phật đạo
Rộng độ khắp chúng sanh.

Nam Mô A Mi Đà Phật.