TỊNH ĐỘ ĐẠI KINH KHOA CHÚ 2014
(Giảng lần thứ 4)
PHẨM THỨ 6: PHÁT ĐẠI THỆ NGUYỆN
Phát Thệ Nguyện Rộng Lớn
Tập 170
Hòa thượng Tịnh Không chủ giảng.
Giảng tại: Hiệp Hội Giáo Dục Phật
Đà Hồng Kông.
Thời gian: Ngày 24 tháng 1 năm 2015.
Dịch giả: Diệu Hiệp.
Giảo chánh: Thích Thiện Trang.
Kính chào chư vị Pháp sư, chư vị đồng học, mời
an tọa, mời an tọa. Thỉnh mọi người cùng tôi quy y Tam Bảo: A-xà-lê tồn
niệm, ngã đệ tử Diệu Âm, thỉ tùng kim nhật, nãi chí mạng tồn, quy y Phật Đà, lưỡng
túc trung tôn, quy y Đạt Ma, ly dục trung tôn, quy y Tăng Già, chư chúng trung
tôn. (3 lần)
Mời xem Đại Kinh Khoa Chú, trang 441, hàng cuối
cùng:
不墮惡趣願,或曰不更惡趣願,為第二願 “Bất đọa ác thú nguyện, hoặc viết bất canh ác
thú nguyện, vi đệ nhị nguyện” (Nguyện không đọa đường ác, hoặc gọi là nguyện không trải qua đường
ác là nguyện thứ hai). “Canh” là thọ lại, ý nghĩa của hai câu hoàn toàn như
nhau, đây là nguyện thứ hai. 此承第一願而言,我國(阿彌陀佛所說的我國就是極樂世界)不但無三惡道,甚至從焰摩羅界(即地獄界)等惡道中 “Thử thừa đệ nhất nguyện nhi ngôn, ngã quốc (A Di Đà Phật sở thuyết
đích ngã quốc tức thị Cực Lạc Thế giới) bất đãn vô Tam ác đạo, thậm chí tùng Diễm-ma-la
giới (tức địa ngục giới) đẳng ác đạo trung” (Nguyện này nói tiếp theo nguyện thứ nhất,
cõi nước con (cõi nước con mà A Di Đà Phật nói chính là Thế giới Cực Lạc), không
chỉ không có ba đường ác, mà ngay cả trong đường ác từ Diễm-ma-la giới (tức là
địa ngục giới) v.v…), hoặc bao gồm cả A-tu-la trong đó, bốn đường ác,
chúng sanh trong đường ác vãng sanh đến Thế giới Tây Phương Cực Lạc, đây chính
là 來生我國之一切眾生,受佛之教化 “lai sanh ngã quốc chi nhất thiết chúng sanh, thọ Phật chi giáo hóa” (tất cả chúng sanh sanh đến cõi nước con,
được sự giáo hóa của Phật), tiếp nhận sự gia trì bởi oai thần bổn nguyện của
A Di Đà Phật, tiếp nhận việc giảng kinh chỉ dạy của A Di Đà Phật. Đức Phật giảng
kinh ở Thế giới Cực Lạc, trước nay chưa từng dừng nghỉ, đức Thế Tôn đã giới thiệu
với chúng ta trong Kinh Di Đà, A Di Đà Phật ở Thế giới Cực Lạc 今現在說法 “kim hiện tại thuyết pháp”, “kim” chính là hiện tại, không phải quá khứ, chẳng phải tương lai. Thế
giới Cực Lạc không có quá khứ tương lai, không có khái niệm sự việc về thời
gian, cũng không có không gian. Không có không gian [là] không có khoảng cách;
không có thời gian [là] không có trước sau. Giáo học của Phật trước nay chưa từng
gián đoạn, ý này vô cùng quan trọng. Chúng ta tu học ở bất kỳ nơi nào, khoảng
giữa cũng có nghỉ ngơi, cũng có gián đoạn, chỉ riêng học tập ở Thế giới Cực Lạc
là không gián đoạn. Bởi vì không gián đoạn, cho nên tốc độ nhanh, hiệu suất
cao, vì thế thành Phật ở Thế giới Cực Lạc là một việc không khó, việc dễ dàng.
Không chỉ mãi mãi không còn đọa đường ác, mà hơn nữa 悉皆成就阿耨多羅三藐三菩提 “tất giai thành tựu A-nậu-đa-la Tam-miệu
Tam-bồ-đề” (thảy
đều thành tựu Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác). Câu này là mục tiêu cuối
cùng của việc tu học Phật pháp. Chúng ta học Phật mong muốn đạt được điều gì?
Chính là A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề, chính là mong muốn đạt được điều này.
Câu này hoàn toàn là tiếng Phạn, dịch âm từ tiếng Phạn.
Tiếp theo, 《淨土論註》 “Tịnh Độ
Luận Chú”, Chú Giải
của Pháp sư Đàm Loan, nói rất rõ ràng, 佛所得法,名為阿耨多羅三藐三菩提 “Phật sở đắc pháp, danh vi A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề” (pháp do Phật đã chứng đắc gọi là A-nậu-đa-la
Tam-miệu Tam-bồ-đề). Đây là nói thành Phật, làm thế nào thành Phật? Ngài đạt
được A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề, đây gọi là thành Phật. Tiếp theo trích dẫn
sách Pháp Hoa Huyền Tán nói, đã dịch nguyên âm của câu tiếng Phạn này ra nghĩa
của Trung Hoa, 阿云無 “A vân vô” (A là “vô”), dịch sang tiếng Trung nghĩa là vô, 耨多羅云上 “nậu-đa-la vân thượng” (nậu-đa-la là thượng), tiếng Trung nghĩa là thượng, 三 “tam”
nghĩa là chánh, 藐 “miệu”
nghĩa là đẳng, 三 “tam” lại
là chánh, cuối cùng 菩提 “Bồ-đề” là
giác, dịch cả cụm sang nghĩa Trung Hoa chính là 無上正等正覺 “Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác”. Cho nên cụm từ này có thể dịch ra, nhưng vì
sao không dịch? Điều này vào thời xưa, khi dịch kinh, có năm trường hợp không
phiên dịch, trong đó có một trường hợp là tôn trọng không phiên dịch, cụm từ
này thuộc về tôn trọng không phiên dịch. Vì vậy, dùng dịch âm là A-nậu-đa-la Tam-miệu
Tam-bồ-đề, tiếng Trung chính là Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, chính là ý
nghĩa này, vô cùng chính xác, không một chút sai lầm, chúng ta đọc câu này thì
hiểu rõ rồi. Trong kinh Phật nói với chúng ta, quý vị đạt được Chánh giác chính
là A-la-hán, trong sáu đường không có Chánh giác, Chánh giác thì ra khỏi lục đạo
luân hồi. Cho nên trong lục đạo có giác, chẳng phải không có giác, nhưng chưa đạt
đến tiêu chuẩn mà nhà Phật đã nói. Tiêu chuẩn của Phật giáo là A-la-hán, Tứ quả
của Tiểu thừa, lấy đó làm tiêu chuẩn. Đoạn hết Kiến tư Phiền não, khôi phục tâm
thanh tịnh rồi, Chánh giác. Tâm thanh tịnh sanh trí huệ, không sanh phiền não.
Lại lên cấp chính là Chánh đẳng Chánh giác, đẳng, giống với Phật, vẫn chưa phải
là Phật, cho nên Chánh đẳng Chánh giác là Bồ-tát. Cấp bậc của Bồ-tát rất nhiều,
trong Kinh Hoa Nghiêm, từ Sơ tín chính là Bồ-tát, mãi cho đến Đẳng giác, tổng cộng
có 51 cấp bậc. 51 cấp bậc này chính là Thập tín, Thập trụ, Thập hạnh, Thập hồi
hướng, Thập địa, 50 cấp bậc này, bên trên còn có Đẳng giác, đây là địa vị cao
nhất của Bồ-tát. Trên nữa chính là Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, vậy thì
thành Phật. Trong Hoa Nghiêm gọi là Diệu giác Như Lai.
Vì vậy, Luận Đại Trí Độ có 100 quyển, trong
quyển thứ 85 có nói, 唯佛一人智慧為阿耨多羅三藐三菩提 “duy Phật
nhất nhân trí huệ vi A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề” (chỉ một mình đức Phật [có] trí huệ là
A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề). Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác chỉ có một
người, Chánh đẳng Chánh giác có 51 người. Chánh giác là địa vị đệ Thất tín
trong Thập tín, trong Đại thừa cũng là Bồ-tát, thông thường chúng ta gọi là Tiểu
hạnh Bồ-tát. Thập tín giống như Tiểu học, Thập trụ là Trung học, từ trong đó
thăng cấp lên, còn có Thập hạnh, còn có Thập hồi hướng, Thập địa giống như Viện
nghiên cứu, Thập hồi hướng giống như Đại học, Đẳng giác Bồ-tát giống như lớp Tiến
sĩ, thăng cấp lên nữa thì tốt nghiệp, thành Phật. Chúng tôi dùng điều này để
làm ví dụ, mọi người có được một khái niệm. Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác chỉ
có một, một cấp bậc, là viên mãn chứng được Chân Như Tự Tánh. Vẫn chưa trở về
Thường Tịch Quang, trụ ở Thật Báo độ đều gọi là Pháp thân Bồ-tát. Thông thường
nói là thành Phật rồi, Pháp thân Bồ-tát là Phần chứng Phật, là Phật thật, không
phải Phật giả. Phật trong mười pháp giới là Thập tín Tâm mãn thành Phật, Biệt giáo
là địa vị Sơ trụ. Nếu các ngài không rời khỏi mười pháp giới, thì các ngài là
Tương tự Tức Phật; vượt khỏi mười pháp giới sanh đến Thật Báo độ, các ngài
chính là Phần chứng Tức Phật. Đề kinh của chúng ta viết rất hay, “Thanh Tịnh”
chính là A-la-hán, Chánh giác; “Bình Đẳng” [là] Chánh đẳng Chánh giác; chữ
“Giác” cuối cùng là Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Cho nên quả của ba giai đoạn
này đều được hiển bày trên đề kinh. Điều này vô cùng quan trọng, chúng ta học
Phật rốt cuộc là học điều gì? Chính là học thanh tịnh bình đẳng giác. Chữ
“giác” này chúng tôi thêm vào một chữ, Chánh giác.
Chúng ta xem tiếp, 惡道眾生善根微弱,復多宿業,蒙佛願力加被,攝受往生 “ác đạo chúng sanh thiện căn vi nhược, phục đa túc nghiệp, mông Phật
nguyện lực gia bị, nhiếp thọ vãng sanh” (chúng sanh trong ác đạo, thiện căn yếu ớt,
lại có nhiều túc nghiệp, [nhưng] được nguyện lực của Phật gia bị, nhiếp thọ
vãng sanh). Chúng ta làm sáng tỏ, làm rõ ràng những chân tướng sự thật này,
thì tín tâm niệm Phật vãng sanh của chính chúng ta sẽ tăng trưởng, nâng cấp
lên. Ác đạo có [chúng sanh] vãng sanh, trong ác đạo có Phật Bồ-tát hiện thân
súc sanh, hiện thân ngạ quỷ độ ngạ quỷ, hiện thân địa ngục độ chúng sanh trong
địa ngục. Trong ba đường ác vẫn còn được độ sao? Có. Người như thế nào? Đời quá
khứ ở nhân gian cũng đã từng học Phật, cũng đã từng niệm Phật, cũng phát nguyện
cầu sanh Tịnh độ, đáng tiếc là một niệm sau cùng khi lâm chung sai rồi, dấy khởi
ý niệm bất thiện, chính là tham sân si mạn nghi, vừa động ý niệm này, họ liền đến
đường ác rồi. Nhưng họ có thiện căn, họ đã từng học [Phật pháp], cho nên Phật Bồ-tát
sẽ đến cõi địa ngục hiện thân thuyết pháp cho họ, khiến họ sám hối, khiến họ
quay đầu, khiến họ sanh khởi tín nguyện. Chúng sanh trong ác đạo cũng có thể được
độ thoát, Pháp môn Tịnh tông thật sự không thể nghĩ bàn! Vì vậy chúng ta liền
biết được, chỉ cần là người đã từng niệm một tiếng Phật hiệu thì đều có duyên với
A Di Đà Phật, đều có duyên với Thế giới Cực Lạc, sớm muộn gì cũng sẽ đến. Nhưng
một niệm khi lâm chung không giác, đọa vào địa ngục rất cực khổ, phải chịu rất
nhiều hành hạ, chẳng thể không biết điều này. Đức Phật vô cùng từ bi, mong muốn
chúng ta đều làm sáng tỏ, làm rõ ràng những chân tướng sự thật này.
Tạo tác những nghiệp ác này, lâm chung vẫn
còn một hơi thở chưa dứt, vào lúc ấy cho dù là tội nghiệp Ngũ nghịch Thập ác, tội
nghiệp cực nặng, chỉ cần tín nguyện, một tiếng Phật hiệu, mười tiếng Phật hiệu
đều có thể vãng sanh. Những người ấy sanh về đâu? Sanh Phàm Thánh Đồng Cư độ.
Thế giới Cực Lạc có Phàm Thánh Đồng Cư độ, nhưng ở thế giới đó khác với thế giới
của chư Phật trong mười phương, lục đạo của thế giới chư Phật trong mười
phương, thật sự có sáu đường: trời, người, Tu-la, ngạ quỷ, địa ngục, súc sanh,
thật sự có; tuy ở Thế giới Cực Lạc có Phàm Thánh Đồng Cư độ, nhưng chỉ có hai
đường trời và người, không có Tu-la, không có ngạ quỷ, địa ngục, súc sanh. Vì vậy,
vãng sanh đến Thế giới Cực Lạc thì bảo đảm quý vị mãi mãi không còn đọa vào ba
đường ác, bên đó không có đường ác. Càng hiếm có hơn là thế giới đó không có
nhân [để] tạo tác nghiệp ác. Tiếp nhận sự gia trì của A Di Đà Phật, tiếp nhận sự
giáo hóa của A Di Đà Phật, đức Phật vừa gia trì thì trí huệ, thần thông, đạo lực
của quý vị nâng cấp một cách đáng kể, gần giống với Pháp thân Bồ-tát. Do đó,
chúng tôi hiểu rõ, Thế giới Cực Lạc có danh xưng của bốn độ, ba bậc, chín phẩm,
trên thực tế thì sao? Trên thực tế thì đó là pháp giới bình đẳng. Mỗi một người
vãng sanh, được 48 nguyện của A Di Đà Phật gia trì, ngay cả thân thể (phần sau
chúng ta sẽ học đến), dung mạo, trí huệ, thần thông, đạo lực, hình như cũng gần
giống với A Di Đà Phật. Điều này thì tìm trong tất cả cõi nước chư Phật khắp
pháp giới hư không giới cũng không có, chỉ riêng Thế giới Cực Lạc có.
Đến thế giới ấy rất dễ, đi ra cũng rất dễ, đến
đi tự do. Thông thường đến, chắc chắn đều là các ngài hóa thân đến, Ứng hóa
thân; thân thật của các ngài đâu? Thân thật vĩnh viễn ở Thế giới Cực Lạc, ở bên
cạnh A Di Đà Phật, trước nay chưa từng rời khỏi đó. Nhưng các ngài có khả năng
biến hóa vô lượng vô biên thân cùng lúc, hơn nữa cũng không phải là một thân tướng,
như Quán Thế Âm Bồ-tát được nói trong Phẩm Phổ Môn, 32 ứng hóa, nên dùng thân
nào để được độ thì ngài hiện thân ấy, hiện vô lượng vô biên thân. Hiện thân để
làm gì? Siêng tu phước huệ. Hiện thân đến mười phương thế giới để cúng Phật,
cúng Phật là tu phước, bố thí cúng dường là tu phước; lại ở trong đại hội của
chư Phật Như Lai mà nghe kinh nghe pháp, khai trí huệ. Cho nên các ngài hiện vô
lượng vô biên thân, tu vô lượng vô biên phước và trí huệ, phước huệ song tu.
Khác với chúng ta, chúng ta không cách nào so sánh với các ngài, các ngài đoạn
ác tu thiện, tích công lũy đức trong một ngày, các ngài làm được bao nhiêu? Đều
không thể dùng con số mà có thể nói hết được, chỉ có thể nói là vô lượng vô
biên, chúng ta có thể không đến đó sao? Lão Hòa thượng Hải Hiền gặp được người
khác, liền chủ động khuyên mọi người niệm Phật, khuyên mọi người cầu sanh Thế
giới Tây Phương Cực Lạc.
Chỉ cần quý vị phát nguyện thì quý vị có được
nguyện lực của Phật gia trì, nhiếp thọ vãng sanh, sanh đến Thế giới Cực Lạc 悉令成佛 “tất linh thành Phật” (đều giúp cho thành Phật), không sót một người nào, 此實阿彌陀如來慈悲至極之無上聖願 “thử thật A Di Đà Như Lai từ bi chí cực chi vô thượng Thánh nguyện” (điều này thật sự là Thánh nguyện vô thượng
từ bi đến tột cùng của A Di Đà Như Lai), thật sự từ bi đến tột bậc. Tất cả
chư Phật đã thành Phật, chứng được quả Phật rồi, Phật Phật đạo đồng. Không sai,
trong tất cả chư Phật thì không vị Phật nào không khuyên mọi người tín nguyện
trì danh, cầu sanh Tịnh Độ. Vì sao vậy? Vì đây chính là vô thượng Thánh nguyện
từ bi đến tột cùng của chư Phật Như Lai. Cho nên chư Phật Như Lai mong sao đưa
quý vị đến Thế giới Cực Lạc ngay lập tức, đến Thế giới Cực Lạc để thành Phật.
Chư Phật không có đố kỵ, không có ngạo mạn, không làm chướng ngại bất kỳ một
chúng sanh nào, tâm của các Ngài, nguyện của các Ngài chỉ có một, [đó là] thành
tựu tất cả chúng sanh, giúp chúng sanh mau chóng thành tựu, đồng tâm đồng nguyện,
đồng đức đồng hạnh với A Di Đà Phật. Vì vậy, có thể nói tất cả chư Phật Như Lai
đều là Hóa thân của A Di Đà Phật, không khác với A Di Đà Phật. Bất luận dạy quý
vị Pháp môn nào, Pháp môn bình đẳng, không có cao thấp, mỗi một Pháp môn đến
sau cùng hoàn toàn trở về Thế giới Cực Lạc, đồng tu học Phật chẳng thể không biết
điều này.
Chúng ta xem tiếp bên dưới, đây đều là lời
nói của Niệm lão. 蓋以從惡趣帶業往生之眾生 “Cái dĩ tùng ác thú đới nghiệp vãng sanh chi chúng sanh” (Vì vậy, chúng sanh đới nghiệp vãng sanh
từ đường ác), đời quá khứ đầy đủ nghiệp ác, đáng lẽ phải đọa vào ác đạo, 但因彌陀願力加持 “đãn nhân Di Đà nguyện lực gia trì” (nhưng nhờ sự gia trì bởi nguyện lực của
đức Di Đà), vãng sanh Thế giới Cực Lạc, 不復更墮三途,故曰不墮惡趣 “bất phục cánh đọa Tam đồ, cố viết bất đọa ác thú” (không còn đọa lại vào Tam đồ nên gọi là
không đọa đường ác). Là sự gia trì bởi 48 nguyện của A Di Đà Phật, phải biết
điều này, sự gia trì bởi công đức tu hành trong vô lượng kiếp của A Di Đà Phật,
bảo đảm quý vị vãng sanh Thế giới Cực Lạc, nên nói là không đọa đường ác. Tiếp
theo lại trích dẫn lời của Bồ-tát Long Thọ, 故龍樹大士曰:若人生彼國,終不墮三趣 “cố Long Thọ Đại sĩ viết: Nhược nhân sanh bỉ quốc, chung bất đọa Tam
thú” (nên
Đại sĩ Long Thọ nói: Nếu người sanh đến cõi nước ấy thì trọn không đọa ba đường),
Tam thú chính là ba đường ác, nếu người ấy thật sự vãng sanh đến Thế giới Cực Lạc,
chữ “chung” là nói về sau, tuyệt đối sẽ không đọa vào ba đường ác nữa. Tiếp
theo, 又善導大師曰 “hựu Thiện Đạo Đại sư viết” (thêm nữa, Đại sư Thiện Đạo nói), ngài Thiện Đạo là A Di Đà
Phật hóa thân ở Trung Hoa, Nhật Bản cũng nói như vậy. Ở Nhật Bản, tôi hỏi Pháp
sư bên ấy, Pháp sư của Tịnh Độ tông, tôi nói lời truyền rằng hai vị Đại sư Vĩnh
Minh Diên Thọ, Thiện Đạo đều là đức Di Đà hóa thân đến, có cách nói này hay
không? Họ nói có, ở Nhật Bản, ở Hàn Quốc đều có cách nói này. Những lời Đại sư
Thiện Đạo nói chính là những lời đích thân A Di Đà Phật tuyên thuyết, “mãi đến
khi thành Phật, không còn sanh tử luân hồi, không còn trải qua việc này nữa”,
vĩnh viễn thoát khỏi lục đạo luân hồi. Đây là hoành xuất lục thú. Từ câu nói
này của Đại sư Thiện Đạo thì chúng tôi đã khẳng định, Tịnh tông là hoành xuất lục
đạo. Người tu hành [Pháp môn] khác là thụ xuất, từ người phải sanh lên cõi trời,
Dục giới, trời Dục giới thăng cấp lên trời Sắc giới, từ trời Sắc giới lại thăng
cấp lên trời Vô Sắc giới, sau đó tiếp tục thăng cấp lên trên, thì ra khỏi, như
vậy gọi là thụ xuất. Tịnh tông không phải vậy, từ cõi người liền đến cõi Phật,
đến Thế giới Cực Lạc, không cần đi qua trời Dục giới, trời Sắc giới, trời Vô Sắc
giới, không cần thiết, đều là hoành xuất. Như cõi địa ngục, muốn ra khỏi cõi địa
ngục, cách ra khỏi thông thường là thụ xuất, chắc chắn là họ đến cõi ngạ quỷ
trước, từ cõi ngạ quỷ lại lên cõi súc sanh, cõi súc sanh lại lên cõi người, xuất
ly theo chiều đứng. Hiện nay, họ ở cõi địa ngục gặp được Bồ-tát, khuyên họ tín
nguyện trì danh, họ có thể tiếp nhận, thì họ từ cõi địa ngục vãng sanh đến Thế
giới Cực Lạc, họ không cần phải đi qua ngạ quỷ, súc sanh, người, trời, không cần
thiết, họ ra khỏi rồi, đây gọi là xuất ly theo chiều ngang.
Đoạn sau cùng đây là tổng kết của chương này,
又此章大願 “hữu thử chương đại nguyện” (thêm nữa, đại nguyện của chương này), nguyện cõi nước không
có đường ác, nguyện không đọa đường ác, hai đại nguyện này, trong đây có hai sự
thù thắng. 一者,惡趣眾生,亦得往生極樂,不復更墮惡道,表彌陀悲心無盡,度化無餘 “Nhất giả, ác thú chúng sanh, diệc đắc vãng sanh Cực Lạc, bất phục
cánh đọa ác đạo, biểu Di Đà bi tâm vô tận, độ hóa vô dư” (Thứ nhất, chúng sanh trong đường ác cũng
được vãng sanh Cực Lạc, không còn đọa vào đường ác nữa, biểu thị tâm bi vô tận
của đức Di Đà, hóa độ không sót), hóa độ không sót một chúng sanh nào. Ở chỗ
này, quý vị nhất định phải biết, Phật pháp thường nói 佛不度無緣之人 “Phật bất
độ vô duyên chi nhân” (Phật không độ người không có duyên), người nào không có
duyên? Không tin, có nghi ngờ, vậy là không có duyên, Phật không cách nào làm họ
cảm động, không cách nào bảo họ quay đầu. Cho nên chúng ta phải có duyên với Phật,
phải có duyên rất sâu rất sâu, duyên này từ đâu sanh ra? Từ tín tâm sanh ra, thật
sự tin thế gian có người tốt. Người hiện nay đã mất lòng tin rồi, không tin thế
gian có người tốt, đối với người nào cũng nghi ngờ. Cha mẹ đã dạy từ nhỏ, đi học
Mầm non, con đừng tin người khác, đều dạy chúng đừng tin, sợ bị người khác gạt.
Vì vậy, phiền não nghi ngờ này là gốc của ngu si, không đoạn nghi thì không thể
khai ngộ, không có trí huệ, họ học được một số thường thức, họ không có trí huệ.
Trí huệ là từ trong định lưu lộ ra, không có nghi ngờ thì được Tiểu định, định
của Tiểu thừa; không có Phân biệt, đó là định của Đại thừa, định của Bồ-tát. Thấy
tất cả pháp bình đẳng, không có cao thấp, không có hơn thua, không có tốt xấu,
không có thiện ác, không có nhiễm tịnh, hết thảy sự đối lập đều không có, Bồ-tát
quán bình đẳng. Điều mà người Trung Hoa kỳ vọng là thế giới đại đồng, xã hội
hòa thuận.
Hòa từ đâu mà có? Hòa từ bình đẳng mà có,
bình đẳng chính là hòa, bất hòa thì không bình đẳng, không bình đẳng mới có đấu
tranh, mới có chiến tranh, bình đẳng thì không còn nữa. Cha con có thân, thân
này là tình thân, trong tình thân sẽ không có đấu tranh, không chỉ không có đấu
tranh, mà ngay cả ý niệm Phân biệt cũng không có. Cha con, anh em, họ hàng, thế
hệ sau của cùng một tổ tiên, cần phải chung sống hòa thuận, không có Phân biệt,
phải tôn trọng lẫn nhau, kính yêu lẫn nhau, quan tâm lẫn nhau, hỗ trợ hợp tác với
nhau, xã hội hài hòa, không còn đấu tranh nữa, không chỉ đấu tranh không còn,
mà cạnh tranh cũng không còn, đó chính là thế giới đại đồng. Sự mong cầu trong
lòng của người đọc sách thông thường vào thời xưa của Trung Hoa chính là đại đồng,
là hài hòa, cả thế giới hài hòa. Nhân loại hài hòa rồi, tiếp tục làm được sự
hài hòa giữa người với đại tự nhiên, sự hài hòa giữa người với vạn vật trong trời
đất, vì sao vậy? Vì tất cả pháp từ tâm tưởng sanh, tướng do tâm sanh, cảnh tùy
tâm chuyển, đây là đạo lý. Thông đạt thấu hiểu đạo lý này thì hòa bình được thực
tiễn rồi, đối đãi bình đẳng, chung sống hòa thuận. Quý vị nghĩ thử xem, chúng
sanh sẽ hạnh phúc biết mấy, đây chính là thiên đường, đây chính là cõi nước chư
Phật. Vì vậy, thứ nhất là hiển bày tâm bi vô tận của đức Di Đà.
二者,凡往生者,悉皆作佛,究竟菩提。由此可見彌陀本心,念念願一切眾生成佛 “Nhị giả, phàm vãng sanh giả, tất giai tác Phật, cứu cánh Bồ-đề. Do
thử khả kiến Di Đà bổn tâm, niệm niệm nguyện nhất thiết chúng sanh thành Phật” (Thứ hai: Những người vãng sanh thảy đều
làm Phật, cứu cánh Bồ-đề. Từ đây có thể thấy bổn tâm của đức Di Đà, mỗi niệm đều
nguyện tất cả chúng sanh thành Phật). Chúng ta phải có ý niệm này, bản thân
không hề gì, chính mình có thành Phật hay không cũng không quan trọng, tất cả
chúng sanh đều thành Phật rồi, Phật độ chúng sanh thì có lý gì mà không độ tôi?
Chúng ta phải buông xuống tự tư tự lợi, phải buông xuống Vọng tưởng Phân biệt
Chấp trước, cùng một nguyện, cùng một niệm với Phật, mỗi niệm đều là nguyện tất
cả chúng sanh mau chóng thành Phật.
Văn hóa truyền thống tốt đẹp của Trung Hoa đã
mất đi 200 năm, chúng ta may mắn tiếp xúc được, đã có sự nhận biết, vậy thì cần
phải phát nguyện, chúng ta phải không phụ lòng tổ tiên. Tổ tiên của chúng ta,
dân tộc chúng ta, bất luận là dòng họ gì, chúng tôi cũng tin họ là con cháu của
Phục Hi, là con cháu của Thần Nông, là con cháu của Hoàng Đế, [là] người một
nhà! Trong Phật pháp nói là một thể, thân thiết hơn. Hiện nay chúng ta lơ là những
điều ấy rồi, người vào 200 năm trước lơ là, đến thời đại này của chúng ta gần
như mất hết, sắp đến giây phút đoạn diệt rồi, làm sao đây? Cho nên tôi khuyên
người trẻ phải lập chí, đừng làm quan lớn, đừng phát tài lớn, không nên, trong
tâm không có những điều này, chúng ta làm một người dân thường, thâm nhập văn
hóa truyền thống Trung Hoa, chúng ta tiếp nhận, chúng ta phát dương quang đại,
chúng ta truyền lại văn hóa cho đời sau. Phát nguyện làm gì? Công việc gì? Tú
tài nghèo trong tam gia thôn, chúng ta làm người như vậy, dạy tốt con trẻ thế hệ
sau, hy sinh thế hệ ta, thành toàn cho thế hệ sau. Vì sao vậy? Vì cắm gốc văn
hóa truyền thống phải từ trẻ em mà cắm gốc rễ, mười mấy hai mươi tuổi thì rất
khó, chúng đã học rất nhiều thói quen không tốt, vậy thì không dễ. Nhất định phải
từ lúc nhỏ, tốt nhất là cha mẹ có thể gánh vác sự giáo dưỡng trong giai đoạn đầu
của con trẻ, dạy điều gì? Dạy Đệ Tử Quy, dạy Cảm Ứng Thiên, dạy Thập Thiện Nghiệp.
Dạy thế nào? Cha mẹ làm cho trẻ sơ sinh xem,
trẻ nhỏ vừa ra đời, chúng đã biết nhìn, biết nghe, biết nghiêm túc học tập. Người
xưa Trung Hoa đều biết được, 教兒嬰孩,教婦初來 “giáo nhi anh hài, giáo phụ sơ lai” (dạy con từ thuở còn thơ, dạy vợ từ thuở ban
sơ mới về). Trẻ em
phải dạy từ lúc sơ sinh, ra đời thì dạy chúng nhìn tấm gương tốt, tất cả những
điều bất thiện, không phải là chánh (năng lượng tích cực), thì tuyệt đối không
thể cho con trẻ tiếp xúc, không thể để chúng nhìn thấy, không thể để chúng nghe
thấy, không thể để chúng tiếp xúc được. Người mẹ phải trông nom chúng ba năm,
trong ba năm đó, chúng nhìn thấy mặt tốt, đều là những gì tương ưng với luân lý
đạo đức, chúng nghe được điều tốt, tiếp xúc được cũng toàn là chánh diện, gốc rễ
này cắm được chắc, đứa trẻ này dễ dạy. Đến lúc sáu, bảy tuổi, đi học rồi, khi
lên lớp thì thầy cô dạy chúng, thầy cô tiếp nối những gì cha mẹ đã dạy, thầy cô
phải làm tấm gương cho học sinh. Thầy cô bảo học sinh làm, mà chính mình không
làm được, thì học sinh sẽ nghi ngờ, học sinh không tin; thầy cô thật sự làm được
rồi thì học sinh tin tưởng, học sinh mới thật sự chịu theo quý vị học tập. Thầy
cô rất vất vả, đời sống của thầy cô rất đơn giản, rất khắc khổ, không có thu nhập
gì tốt, thu thập của họ là [từ] phụ huynh học sinh, nhà giàu có thì mỗi năm đến
dịp lễ sẽ tặng thêm chút quà, nhà nghèo thì thầy cô từ bi, đứa trẻ dạy được,
không thu học phí, nghiêm túc dạy chúng.
Tinh thần dựng nước của Trung Hoa chính là hiếu
đạo, sư đạo, hiếu thân tôn sư, đây là đại căn đại bản dựng nước của Trung Hoa,
mấy ngàn năm nay không mất. Hiện nay không còn gốc này nữa, cho nên rất đáng sợ.
Chúng ta cần phải hy sinh chính mình để cắm lại gốc rễ này, có cơ hội thì dạy
cho mấy trẻ nhỏ là việc tốt. Đó là Thánh Hiền, đó là Quân tử, khác với người
thông thường. Tuy cả đời rất vất vả, nhưng quả báo vô cùng thù thắng. Vì sao vậy?
Vì những gì quý vị làm là sự nghiệp của Thần Thánh, đời sau của quý vị, tôi tin
là đều ở cõi trời, nếu quý vị niệm Phật thì chắc chắc là ở cõi Phật, vãng sanh
Thế giới Cực Lạc được đại viên mãn. Dạy cho trẻ em thật tốt, đó chính là tích
công lũy đức, dạy đức hạnh, dạy văn tự, đối với văn tự Trung Hoa, đều giảng rõ
ràng, giảng tường tận mỗi một chữ, trong đó có học vấn lớn. Nước ngoài là chữ
viết phiên âm, là biểu âm, trong chữ đơn không có ý nghĩa. Chữ viết của Trung
Hoa là biểu ý, đó là một ký hiệu, trong ký hiệu ấy tượng trưng cho rất nhiều ý
nghĩa, là Triết học, là Huyền học, là chân lý, không như nhau. Vì vậy, có thể gọi
chữ viết của Trung Hoa là một môn học vấn, Văn Tự học. Chữ viết của Trung Hoa
vượt khỏi thời gian, vượt khỏi không gian. Vượt khỏi không gian, tức là cả nhân
loại học tập đều không có chướng ngại, đều có thể học tốt được; vượt khỏi thời
gian, ba ngàn năm trước hữu hiệu, hiện nay của ba ngàn năm sau cũng hữu hiệu,
có thể đọc được chữ mà người ba ngàn năm trước đã viết, văn hiến lưu truyền lại,
ba ngàn năm sau vẫn có tác dụng. Đây gọi là trí huệ chân thật, đây gọi là phát
minh thật sự vĩ đại, phát minh của khoa học kỹ thuật không thể so sánh với phát
minh chữ viết của Trung Hoa, phải biết điều này.
Trung Hoa “văn dĩ tải đạo”, đem những điều mà
cổ Thánh tiên Hiền đã ngộ được về đạo nghĩa, trí huệ, lý niệm, phương pháp,
tinh thần, kinh nghiệm, đều dùng những chữ viết này viết ra lưu truyền cho đời
sau, thật sự là kho báu vô tận. Hiện nay, những kho báu này có tác dụng, Tiến
sĩ Joseph Toynbee người Anh nói rất hay, giải quyết những vấn đề của thế kỷ 21,
những vấn đề này là vấn đề nghiêm trọng, là nhân loại tồn tại hay diệt vong,
văn hóa được tiếp tục hay đoạn tuyệt, thảy đều ở điểm này, đây là thời đại gì,
chúng ta phải nhận biết rõ ràng. Ông nói muốn cứu vãn xã hội của thế kỷ 21, chỉ
có học thuyết Khổng Mạnh Trung Hoa và Phật pháp Đại thừa. Học thuyết Khổng Mạnh,
Phật pháp Đại thừa đều dùng
văn ngôn văn, chữ Hán của Trung Hoa mà viết ra, cho nên tôi hy vọng mười năm
sau, văn ngôn văn chữ Hán của Trung Hoa có thể trở thành ngữ văn chung của nhân
loại trên toàn thế giới, thế giới sẽ xuất hiện sự hòa bình kéo dài mãi mãi.
Thái bình thịnh thế, lễ nghĩa chi bang mà người Trung Hoa đã nói có thể thực hiện
được không? Được, phục hưng văn ngôn văn chữ Hán của Trung Hoa thì có thể làm
được. Vì sao vậy? Vì tất cả những điều tốt đẹp trong mấy ngàn năm của Trung Hoa
đều ghi chép trong Tứ Khố Toàn Thư, ghi chép trong Đại Tạng Kinh, hai bộ văn hiến
này, biết được văn ngôn văn chữ Hán của Trung Hoa thì quý vị có khả năng đọc,
quý vị có khả năng hấp thụ. Ở trên nền tảng này, quý vị tiếp tục phát dương
quang đại thì quý vị có thể cứu thế giới, quý vị có thể cứu nhân loại, đây là sự
nghiệp thật sự vĩ đại. Làm quan thì không thực hiện được, phát tài cũng không
thực hiện được, chỉ có từ bỏ quan và tài. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni từ bỏ rồi,
quý vị xem cả đời Ngài ăn một bữa giữa ngày, nghỉ một đêm dưới cây, khi vãng
sanh (khi ra đi) không phải là ở trong phòng, mà ở trong rừng cây, Ngài làm tấm
gương cho chúng ta xem. Triệt để buông xuống dục vọng, tâm mới thanh tịnh, mới
bình đẳng, mới đại triệt đại ngộ, không gì không biết, không gì không thể. Chư
Phật Như Lai làm sự nghiệp gì? Dạy học, tất cả chư Phật đều dạy học, Bồ-tát vẫn
làm những sự nghiệp khác, đức Phật thì không có, đức Phật chính là một giáo
viên nghèo, không có tích trữ gì cả.
Hiện nay muốn học Phật, người chân thật học
Phật, chúng ta phải nhớ đến đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni
sống đời sống du mục, không có đạo tràng, vì sao vậy? Vì tâm luôn ở trong đạo.
Ngài không có những thứ thất tình ngũ dục của thế gian, Ngài đều buông hết rồi,
Ngài không có lo nghĩ. Thể lực của chúng ta ngày nay không bằng đức Phật, đức
Phật ở dưới cây, không sợ gió thổi mưa rơi, mặt trời chiếu, Ngài không sợ, thật
sự là thân kim cang bất hoại. Nếu bây giờ chúng ta đến dưới cây ngồi một đêm,
thì ngày thứ hai vào phòng bệnh chăm sóc đặc biệt rồi, không được, nghiệp chướng
của chúng ta nặng, thân thể không bằng đức Phật. Có phương pháp, có thể dùng lều
nhỏ Mông Cổ, lều nhỏ Mông Cổ rất nhẹ, một người ở, vậy thì được rồi, tâm không
còn ý niệm nào khác, vẫn có thể làm được: ăn một bữa giữa ngày. Vì vậy, đạo
tràng vàng ngọc huy hoàng thì có thể xây dựng, để cúng Phật, khi giảng kinh có
thể đến đó giảng, buổi tối khi ngủ thì nên ở ngôi nhà tranh nhỏ, ăn uống thì có
thể khất thực. Hiện nay cũng có thể không cần khất thực, tôi nhìn thấy ở Sri
Lanka, phương pháp ở Sri Lanka hay, Pháp sư của họ có rất nhiều vị ở sơn động,
đào hang động ở trên núi, ở trong hang núi đó, ăn cơm, buổi trưa mỗi ngày có
người đưa cơm cho họ. Bởi vì trong thôn đó đều biết được nơi đó có người đang
tu hành ở đó, họ luân phiên, ví dụ nói có 20 nhà, luân phiên mỗi một nhà, mỗi
ngày một nhà, quý vị đưa cơm cho Pháp sư, các ngài cũng không ra ngoài. Phương
pháp này rất hay, tôi tin chúng ta đều có thể làm được. Quý vị tìm ngọn núi,
tìm một nơi nhỏ để tu hành. Ban đầu đức Phật Thích Ca Mâu Ni ở vườn Lộc Dã độ
năm vị Tỳ-kheo, nếu như chúng ta có năm người xuất gia ở cùng với nhau, năm Tỳ-kheo,
năm chiếc lều nhỏ, rất tốt, sống đời sống như vậy, buông xuống vạn duyên. Một bộ
kinh, một Pháp môn, không nên học quá nhiều, thâm nhập một môn, huân tu lâu
dài.
Lão Hòa thượng Hải Hiền thị hiện cho chúng
ta, [là] phương pháp tu hành tốt nhất hiện nay. Ngài trồng trọt, mảnh đất đó là
đất hoang, không có chủ, ở nơi đó khai hoang mảnh đất nhỏ, trồng một ít lương
thực, trồng một ít rau cải, chính mình cũng có thời gian lao động, hoạt động
gân cốt, thật sự là việc tốt. Một câu Phật hiệu niệm đến cùng, mãi niệm đến
khai ngộ, niệm đến đại triệt đại ngộ. Ngài có thể làm được, tôi nghĩ mỗi người
đều có thể làm được. 天下無難事 “Thiên hạ vô nan sự” (Trên đời không có việc gì khó), câu này do ngài nói, 只怕心不專“chỉ phạ tâm bất chuyên” (chỉ sợ tâm không chuyên), chỉ cần tâm chuyên nhất, vĩnh viễn bất động,
vĩnh viễn không lung lay, thì họ thành công rồi. Năm người ở cùng nhau, mỗi người
học một bộ kinh, một người giảng, bốn người nghe, giảng xong lần một thì giảng
lần hai, giảng lần hai xong thì giảng lần ba, giảng lần ba xong thì giảng lần bốn,
cứ giảng tiếp mãi như vậy, giảng đến một ngàn lần, tôi tin không có người nào
không khai ngộ. Đạo tràng Phật chân thật lại xuất hiện ở thời đại này rồi. Trước
đây chúng tôi từng thảo luận, nhưng không làm được, rất đáng tiếc. Ở Hong Kong,
ba mươi năm trước, Pháp sư Tẩy Trần ở Đông Bắc, mối quan hệ của chúng tôi rất tốt,
đến Hong Kong thường xuyên gặp gỡ, chúng tôi nói đến vấn đề này. Tôi nói: Pháp
sư, thầy là bậc trưởng bối, thầy dẫn đầu, thầy phát động, tôi nhất định làm
theo. Nói rất hay, nhưng vừa về Hong Kong thì quên mất rồi. Đất Đại Lục Trung
Hoa lớn, đông người, tôi đưa ra kiến nghị này. Phương pháp này thật sự có thể
thực hành được, tìm một chỗ rất yên tĩnh trong núi. Không có dấu chân người,
cách thôn xóm không xa lắm, đồng tu trong thôn xóm thật sự phát tâm đến cúng dường,
tôi tin sẽ có người phát tâm đến cúng dường. Đồng tu cúng dường, giống như cách
thức hiện nay của chúng tôi, đây là một xã khu nhỏ, mười mấy đồng học niệm Phật
chúng ta, mỗi người đều mua một căn nhà ở đây, mười mấy người chúng ta, vậy là
có Tăng đoàn, năm Tỳ-kheo, chúng ta đến cúng dường năm vị ấy. Mười mấy gia đình
này của chúng ta luân phiên nhau dâng cúng dường, Pháp sư chuyên tâm dụng công,
không cần ra ngoài khất thực, chúng ta đưa cơm đến đó, tốt! Nếu không dùng
phương pháp này thì Phật pháp không thể hưng thịnh, tương lai Phật pháp sẽ biến
chất, biến thành gì? Biến thành thế gian pháp, biến thành một học thuyết của đức
Phật Thích Ca Mâu Ni, không thể được định, không thể khai ngộ, không thể chứng
quả, biến chất rồi. Chỉ cần đồng học trẻ tuổi thật sự phát tâm, tôi tin nhất định
được Tổ tiên phù hộ, Tam Bảo gia trì, hạnh và nguyện khế hợp với nhau thì nhất
định có thể đạt được kết quả, quý vị có hạnh có nguyện.
Câu cuối cùng này là trong 48 nguyện, mỗi
nguyện đều có, ở đây là tổng thuyết 得是願,乃作佛,不得是願,不取無上正覺 “đắc thị
nguyện, nãi tác Phật, bất đắc thị nguyện, bất thủ Vô thượng Chánh giác” (được nguyện này mới làm Phật, [nếu]
không được nguyện này thì không giữ ngôi Vô thượng Chánh giác). Đây là nguyện
do đích thân A Di Đà Phật phát ra lúc bấy giờ, nguyện của con được thực hiện
thì con thành Phật, không được thực hiện thì thề không thành Phật. Hiện nay
Ngài thành Phật rồi, chứng tỏ mỗi nguyện trong 48 nguyện đều được thực hiện,
không có nguyện nào là giả dối. Thế giới Cực Lạc thật sự không có ba đường ác,
người vãng sanh đến Thế giới Cực Lạc, cho dù là đến cõi nước phương khác để
giáo hóa chúng sanh, thì các ngài cũng vĩnh viễn không đọa vào ba đường ác,
nguyện này được thực hiện rồi. 故曰:不取無上正覺。以下各願(四十八願),簡為不取正覺 “Cố viết:
Bất thủ Vô thượng Chánh giác. Dĩ hạ các nguyện (tứ thập bát nguyện),
giản vi bất thủ Chánh giác” (Cho nên nói: Không giữ ngôi Vô thượng Chánh giác. Các nguyện bên
dưới (48 nguyện), giản lược thành “không giữ ngôi Chánh giác”), chỉ dùng
năm chữ này. Năm chữ này đại biểu cho “được nguyện này mới làm Phật, không
được nguyện này thì không giữ ngôi Vô thượng Chánh giác”, câu sau giản lược
chính là không giữ ngôi Vô thượng Chánh giác, [là] câu này.
Hai nguyện đầu tiên thù thắng, lìa cứu cánh
khổ. Đức Phật thị hiện ở thế gian giáo hóa chúng sanh, vì sao vậy? Phải biết điều
này. Chúng ta học Phật, rất vất vả, học Phật vì điều gì? Vì lìa tất cả khổ, được
rốt ráo vui, vì điều này. Vậy chúng ta học Phật, có lìa khổ được chưa? Có được
niềm vui chưa? Điều này phải hỏi chính mình. Ở thế gian điều gì là khổ? Sanh
lão bệnh tử khổ, cầu bất đắc khổ, oán tắng hội khổ, ái biệt ly khổ, ngũ ấm sí
thạnh khổ, sanh tử luân hồi khổ, có thoát được hay chưa? Niềm vui rốt ráo, vô
lượng trí huệ, vô lượng đức năng, vô lượng tướng hảo, không có phiền não lo
nghĩ, pháp hỷ sung mãn, có đạt được hay không? Vãng sanh Thế giới Cực Lạc thì
thật sự đạt được, vui! Quý vị phải nhớ, Pháp sư Hải Hiền đạt được rồi, từ sáng
đến tối đều rất hoan hỷ, pháp hỷ sung mãn. Ngài sống những ngày tháng như thế
nào vậy? Vì sao lại hoan hỷ như vậy? Vì nhìn thấy người nào cũng tốt, việc gì
cũng tốt, không có Phân biệt, không có Chấp trước, đây chính là công phu, đây
là thật sự thọ dụng, đây là điều chúng ta phải học. Vì vậy, chúng ta có được
Chú Giải tường tận như vậy của lão Cư sĩ Hoàng Niệm Tổ, lại thấy lão Hòa thượng
Hải Hiền trong sinh hoạt, trong công việc, trong đối nhân xử việc tiếp vật, làm
ra tấm gương cho chúng ta xem, phước báo này lớn biết mấy! Từ xưa đến nay, có mấy
người có thể gặp được việc này? Quý vị xem, có người hội tập kinh, có người soạn
chú giải, lại có người biểu diễn cho chúng ta xem, nếu đời này không thành tựu
thì gọi là oan uổng. Đối với thế gian này mê hoặc, điên đảo, lưu luyến, [là] khổ!
Thấy rõ ràng, thấy thấu suốt, biết rõ Thật tướng các pháp, tâm địa thanh tịnh,
chỉ có một vị A Di Đà Phật, ngoài A Di Đà Phật ra thì điều gì cũng buông xuống,
điều gì cũng trừ sạch, tâm là tâm thanh tịnh, là tâm bình đẳng, thanh tịnh bình
đẳng sanh trí huệ, sao lại không vui vẻ được! Không còn chút lưu luyến đối với
thế gian này, có thể ra đi bất kỳ lúc nào, ra đi rất vui vẻ, ở lại đây cũng rất
vui vẻ, đây gọi là được tự tại.
Chúng ta xem chương thứ hai của đại nguyện,
chương thứ hai chia thành tám đoạn. Dưới đây là tám khoa, đây là khoa thứ nhất,
là nguyện thứ ba 身悉金色願 “thân tất kim sắc nguyện” (nguyện thân đều là sắc vàng), chúng ta xem kinh văn:
【我作佛時。十方世界所有眾生。令生我剎皆具紫磨真金色身。】 “Ngã tác Phật thời,
thập phương thế giới sở hữu chúng sanh, linh sanh ngã sát giai cụ tử ma chân
kim sắc thân” (Khi con làm Phật, tất cả chúng sanh trong mười
phương thế giới, nếu sanh vào cõi nước của con thì đều có thân tử ma chân kim sắc).
Trong chương này có ba nguyện, có ba lời nguyện.
Chúng ta xem Chú Giải của Niệm lão, 十方世界所有眾生。令生我剎皆具紫磨真金色身 “thập phương thế
giới sở hữu chúng sanh, linh sanh ngã sát giai cụ tử ma chân kim sắc thân” (tất cả chúng
sanh trong mười phương thế giới, nếu sanh vào cõi nước của con thì đều có thân
tử ma chân kim sắc), đây là kinh văn, 是為第三身悉金色願。生彼土者,身皆紫磨真金之色。真金色者,蓋為如來之身色。善導大師曰:諸佛欲顯常住不變之相,是故現黃金色 “thị vi đệ tam
thân tất kim sắc nguyện. Sanh bỉ độ giả, thân giai tử ma chân kim chi sắc. Chân kim sắc giả, cái vi Như Lai chi thân sắc.
Thiện Đạo Đại sư viết: Chư Phật dục hiển thường trụ bất biến chi tướng, thị cố
hiện huỳnh kim sắc” (đây
là nguyện thứ ba: Nguyện thân đều là sắc vàng. Người sanh về cõi ấy, thân đều
là tử ma chân kim sắc. Chân kim sắc: đại khái là sắc thân của đức Như Lai. Đại
sư Thiện Đạo nói: Chư Phật muốn hiển bày tướng thường trụ bất biến nên hiện sắc
vàng kim). Năm thứ kim loại: Vàng, bạc, đồng, sắt, thiếc, [trong] năm thứ
kim loại này, chỉ có vàng không bị ảnh hưởng bởi oxy hóa, màu sắc của vàng
không thay đổi. Quý vị xem, bạc đồng sắt thiếc đều bị oxy hóa, oxy hóa thì nó
biến thành màu đen, biến thành màu xám, nhất định phải loại bỏ, vàng thì không
thay đổi. Cho nên thân sắc vàng kim tượng trưng cho sắc tướng của các ngài
không thay đổi, sắc tướng gì? Mãi mãi tươi trẻ. Điều này không dễ dàng, người
chúng ta sẽ lão hóa, có sanh lão bệnh tử, thân thể này mỗi ngày đều biến đổi,
các ngài không biến đổi, cho nên sắc vàng kim tượng trưng cho bất biến. Ngạn ngữ
nhà Phật ở Trung Hoa có câu nói: 菩薩菩薩,年年十八 “Bồ-tát Bồ-tát,
niên niên thập bát” (Bồ-tát
Bồ-tát, năm nào cũng mười tám), người hoan hỷ! Có thể làm được không? Được,
mãi mãi vui vẻ. Vì sao vậy? Vì lo âu có thể làm con người già đi, người có lo
nghĩ thì lão hóa rất nhanh. Chúng tôi đều là người từng trải, kinh nghiệm rất
phong phú, trong số các đồng học, bạn bè của tôi, có rất nhiều người là nhân
viên làm việc trong chính quyền nhà nước, khi họ giữ chức vụ có việc làm, họ
quên mất tuổi tác của mình, chuyên tâm trong công việc, mỗi ngày rất vui vẻ. Đến
lúc nghỉ hưu rồi, rời khỏi công việc thì họ lo nghĩ: tôi già rồi, anh xem không
thể đi làm nữa rồi. Già rồi già rồi, hằng ngày nghĩ già rồi, thật sự là già đi
mỗi ngày, một năm không gặp, nhìn thấy họ giống như bộ dạng của mười năm không
gặp, sao lại già đi nhanh như vậy? Hiện nay chúng tôi hiểu rõ đạo lý này, người
xưa nói憂能使人老 “ưu năng sử nhân lão” (lo âu có thể khiến con người già đi), đức Phật nói với chúng ta là相由心生 “tướng do tâm sanh”, vì sao vậy? Vì trước đây quý vị không niệm
già, không nghĩ đến già, bây giờ luôn nghĩ đến già, tôi là người già, phải có sự
đãi ngộ của người già, sức khỏe của người già, chăm sóc sức khỏe cho người già,
họ nghĩ đến già, cho nên họ già rồi. Nếu quý vị không nghĩ những điều này,
không nghĩ đến, thì họ không già.
Hòa thượng Hải Hiền tuy già, nhưng thể lực của
ngài bình thường, giống như thanh niên vậy, không nghĩ đến già. Hằng ngày, đến
giờ thì ra ruộng làm việc, trồng lương thực, trồng rau, trồng cây, đây là sự
nghiệp cả đời của ngài, làm mỗi ngày. Trồng cây, tổng cộng trồng mấy vạn cây, một
đời ngài thích làm việc này, 112 tuổi. Phải nhớ, hôm ngài vãng sanh là vãng
sanh vào buổi tối, còn ban ngày? Ban ngày làm lụng cả ngày, ở trong vườn rau.
Vườn rau đó rất lớn, san bằng đất, làm đất, tưới nước, nhổ cỏ cho rau, làm từ
sáng đến tối, làm cả ngày. Làm mãi đến khi trời tối, hoàng hôn rồi, mặt trời xuống
núi rồi, có một số người nhắc nhở lão Hòa thượng: Trời tối rồi, có thể nghỉ
ngơi rồi, ngày mai làm tiếp! Lão Hòa thượng trả lời rằng: Sắp rồi, tôi làm sắp
xong rồi, làm xong rồi thì tôi không làm nữa. Mọi người nghe lời nói này cũng
không để ý, đến ngày hôm sau ngài vãng sanh, nghĩ lại câu nói sau cùng này của
lão Hòa thượng, trong lời nói có hàm ý, ngài biết trước ngày giờ ra đi, hôm nay
ngài làm xong rồi, tối hôm nay vãng sanh thì không cần phải làm nữa. Đó là ngày
cuối cùng, ngài cũng không nghỉ ngơi một chút. Quý vị xem, mọi người nhớ về
ngài, trong một tháng trước khi vãng sanh, ngài đi khắp nơi thăm bạn bè cũ, đi
lại thăm hỏi, chào từ biệt! Ngôi chùa trước đó từng ở, đạo tràng xuất gia, ngài
đều đến thăm qua, đến chào hỏi, từ biệt với mọi người, thật tuyệt diệu! Chính
mình biết được ngày nào ra đi, giống như cô Lưu Tố Thanh vậy, mấy giờ mấy phút
rất rõ ràng, rất tường tận, đến lúc đó thì A Di Đà Phật đến rồi, đến tiếp dẫn
ngài vãng sanh. Quý vị xem tự tại biết bao, thong dong biết mấy! Quý vị xem,
người đều có sanh lão bệnh tử khổ, ngài không có lão khổ, 112 tuổi, không có
lão khổ, không có bệnh khổ, không có tử khổ, nói đi liền đi. Trong một đời,
chúng ta thấy được, ngài không có cầu bất đắc khổ, ngài không có oán tắng hội
khổ, ngài đối người thảy đều bình đẳng, xem người khác đều là Phật Bồ-tát, Nhẫn
nhục Ba-la-mật. Người thông thường tán thán ngài, điều mà người khác không thể
nhẫn thì ngài nhẫn được, người khác không chịu làm thì ngài chịu làm, chịu khổ
chịu khó, ngài lại rất cần cù. Hơn 100 tuổi mà còn trèo lên cây, có một số liên
hữu đến thăm lão Hòa thượng, ngài dựng thẳng chiếc thang, trèo lên cây hái trái
hồng, hái xuống tặng cho mọi người dùng. Việc gì ngài cũng tự làm, không cần
người khác chăm sóc.
Cho nên chúng tôi nghĩ đến làm thế nào để Phật
pháp tiếp nối về sau, đây là vấn đề lớn. Nếu như không có người chân thật tu
hành, tình trạng học thuật vẫn tiếp diễn như thế thì biến chất cả rồi. Trong
nhà Phật có một câu nói: 佛法無人說,雖智莫能解 “Phật pháp vô nhân thuyết, tuy trí mạc năng giải” (Phật pháp không người thuyết, dù trí chẳng
thể hiểu), câu nói này vô cùng quan trọng. Do ai nói ra? Người khai ngộ
nói, phải là người Đại triệt Đại ngộ, Minh tâm Kiến tánh nói ra, vậy thì không
có chút sai sót nào. Vì sao vậy? Vì Phật pháp là từ Tự Tánh lưu xuất ra, người
kiến Tánh, Tự Tánh là một, cho nên các ngài biết, các ngài sẽ không giảng sai.
Lịch đại Tổ sư Đại đức của Trung Hoa đều là người khai ngộ, mới có thể chú sớ,
người không khai ngộ thì không thể chú sớ. Hiện nay không còn người khai ngộ nữa,
những lời nói, các trước tác đều là ý của chính mình. Cho nên cách này của ngài
Hoàng Niệm Tổ hay, hoàn toàn dùng kinh luận để giải thích kinh văn này, không
dám dùng [ý] mình. Chúng tôi tin Hoàng Niệm lão không phải là người thông thường,
vì sao ngài lại làm như vậy? Vì làm cho người đời sau xem, người đời sau muốn
chú sớ thì dùng phương pháp này được. Dùng phương pháp của chính mình để chú
thì quý vị phải chịu trách nhiệm, đó thật sự là 錯下一個字轉語,墮五百世野狐身 “thác hạ nhất cá tự chuyển ngữ, đọa ngũ bách thế dã hồ thân” (dùng sai chỉ một chữ chuyển ngữ, đọa năm
trăm đời thân chồn hoang). Người xưa có trường hợp này, không thể giảng
sai, khi giảng sai thì biết bao nhiêu người tu sai, điều này rất đáng sợ. Cho
nên trước khi khai ngộ, nguyện vọng của chính mình là nhất định cầu khai ngộ. Cầu
khai ngộ, cầu được định, quyển kinh này hay, vì sao vậy? Vì trình bày rất rõ
ràng, cầu điều gì? Cầu tâm thanh tịnh, cầu tâm bình đẳng, chữ giác sau cùng là
khai ngộ rồi. Thanh tịnh là định, bình đẳng cũng là định, do giới được định, do
định khai ngộ. Điều này không chỉ riêng đức Phật Thích Ca Mâu Ni dạy cho chúng
ta, mà trong kinh Ngài nói tất cả Bồ-tát trong mười phương ba đời thành Phật
cũng không ngoại lệ, đều đi lộ trình này, Tam học Giới Định Huệ. Giới là gì? Giữ
quy tắc. Quy tắc gì? 一門深入,長時薰修 “Nhất môn thâm nhập, trường thời huân tu” (Thâm nhập một môn, huân tu lâu dài),
讀書千遍,其義自見 “độc thư thiên biến, kỳ nghĩa tự kiến” (đọc sách ngàn lần, tự hiểu nghĩa kia),
đây là quy củ. Quý vị không giữ quy củ này thì quý vị không thể được định,
không thể được định thì không thể khai ngộ, chẳng thể không biết điều này.
Vì vậy, nguyện thứ ba, đây là chứng quả,
thành Phật rồi, sanh đến Thế giới Cực Lạc thì xem như thành Phật, thành Phật mới
có thân tử ma chân kim sắc, chưa thành Phật thì không có. Sanh đến Thế giới Tây
Phương Cực Lạc, Hạ hạ phẩm vãng sanh tại Phàm Thánh Đồng Cư độ, cũng là thân tử
ma chân kim sắc. Đây là điều không nghe nói đến trong mười phương thế giới,
hoàn toàn là oai thần bổn nguyện của A Di Đà Phật gia trì, ân đức của ngài Di
Đà đối với chúng sanh quá lớn, chúng sanh báo ân như thế nào? Chăm chỉ niệm Phật,
vãng sanh Thế giới Cực Lạc chính là báo đáp ân Phật, chỉ có phương pháp này có
thể báo đáp, ngoài phương pháp này ra thì không có bất kỳ phương pháp nào có thể
báo đáp ân Phật. Chúng ta phải toàn tâm toàn ý giới thiệu Phật pháp cho mọi người,
đặc biệt là Pháp môn này, vì sao vậy? Vì [tu] Pháp môn này thì quý vị có thể
thành tựu, đảm bảo quý vị có thể thành tựu. [Tu] những Pháp môn khác thì không
thể đảm bảo, [vì] đoạn phiền não quá khó. Pháp môn này đới nghiệp vãng sanh,
mang theo phiền não mà vãng sanh, dễ dàng; ai cũng có phần, chỉ cần quý vị thật
làm. Lời nói của lão Hòa thượng rất có ý vị, ngài thường nói: “Trên đời không
việc khó, chỉ sợ tâm không chuyên”, sau cùng lại bổ sung thêm một câu: “Thật sự
không khó”, chỉ cần chuyên tâm, chuyên tâm thì không khó. Tạp tâm thì khó rồi,
điều gì cũng muốn học, điều gì cũng muốn tốt, vậy thì khó rồi. Ngài chỉ niệm một
câu Phật hiệu, thật dễ dàng, thật sự không khó. Chúng ta phải học theo ngài, nắm
chắc câu Phật hiệu này, mọi lúc mọi nơi cũng không đánh mất Phật hiệu, trong miệng
không niệm thì trong tâm niệm, phải hình thành thói quen này.
Tiếp theo trích dẫn những điều mà Đại sư Thiện
Đạo nói: 善導大師曰:諸佛欲顯常住不變之相,是故現黃金色 “Thiện Đạo
Đại sư viết: Chư Phật dục hiển thường trụ bất biến chi tướng, thị cố hiện hoàng
kim sắc” (Đại
sư Thiện Đạo nói: Chư Phật muốn hiển bày tướng thường trụ bất biến, cho nên hiện
sắc vàng kim). Vàng, lấy ý nghĩa bất biến. 日溪師曰(日本):此標中道實相色 “Nhật Khê Sư viết (Nhật Bản): Thử tiêu trung đạo Thật tướng sắc” (Sư Nhật Khê (Nhật Bản) nói: Màu này tượng
trưng cho màu thật tướng của trung đạo). Vàng kim tượng trưng cho Thật tướng
của trung đạo, chọn lấy ý nghĩa này. 今此大願,欲令一切往生之人,同佛身相,皆真金色,此顯生佛不二,真實平等。故《會疏》曰:是故願言,我國人民,純一金色,無有好惡,彼我平等,情絕違順 “Kim thử đại nguyện,
dục linh nhất thiết vãng sanh chi nhân, đồng Phật thân tướng, giai chân kim sắc,
thử hiển sanh Phật bất nhị, chân thật bình đẳng. Cố Hội Sớ viết: Thị cố nguyện
ngôn, ngã quốc nhân dân, thuần nhất kim sắc, vô hữu hảo ố, bỉ ngã bình đẳng,
tình tuyệt vi thuận” (Đại nguyện này đây, muốn cho tất cả những
người vãng sanh có thân tướng giống với Phật, đều là chân kim sắc, điều này hiển
bày chúng sanh và Phật không hai, chân thật bình đẳng. Vì vậy trong sách Hội Sớ
nói: Cho nên nguyện rằng: Nhân dân trong cõi nước con, chỉ một sắc vàng, không
có tốt xấu, ta và người bình đẳng, dứt hết tình chấp về vi thuận). Dụng ý lời nguyện
này của A Di Đà Phật thật sự là ở chỗ này, vì sao vậy? Vì chúng sanh trong mười
phương thế giới, chúng sanh trong sáu đường hoặc chúng sanh trong mười pháp giới,
chúng sanh chưa Minh tâm Kiến tánh, thân tướng, thọ mạng của họ tùy theo phước
đức của mình đã tu mà có khác biệt. Người tu phước đức nhiều thì tướng mạo đẹp,
thọ mạng dài, những việc làm trong một đời đều được như ý, những người có phước
đức như vậy không ít. Mặc dù trong đời quá khứ tu có phước đức, nhưng nếu không
có trí huệ, thì họ sẽ bị phước báo làm mê, đi hưởng phước rồi, hưởng phước mà
không biết tu phước, hưởng hết phước rồi thì đến đường ác. Người hưởng phước
thì sự thọ dụng vật chất của họ phong phú hơn người khác, đáng sợ nhất là sát
sanh ăn thịt, người nghèo muốn ăn nhưng không có, người giàu sang thì ngày nào
cũng ăn, điều này rất phiền phức, vậy thì oán thân trái chủ biết bao nhiêu?
Chúng tôi đã nhìn
thấy rất nhiều, khi người khác bị bệnh, khi tử vong, oán thân trái chủ tìm đến
đòi mạng. Tôi có người bạn xuất gia, Pháp sư Quảng Hóa, trước khi xuất gia thầy
là quân nhân, quản lý tài vụ, cho nên xài tiền dễ dàng. Khi đó thầy ở Đài Loan,
mỗi ngày ăn một con gà, suốt mấy năm, một năm là 360 sinh mạng, ba năm là hơn một
ngàn sinh mạng. Về sau, tuy thầy ấy xuất gia, trì giới rất nghiêm, mọi người đều
ca ngợi thầy ấy là vị Pháp sư giỏi, giảng kinh dạy học, mở Viện Phật học, mời
tôi đến dạy học, tôi ở với thầy ấy một khoảng thời gian. Tôi thấy thầy ấy chống
cây gậy, chân không thuận tiện, đi lại bất tiện, hỏi thầy ấy là nguyên nhân gì?
[Thầy ấy nói] lúc tắm trong nhà tắm bị té ngã. Sao lại té ngã? Nhìn thấy trong
phòng tắm đều là gà, bay qua bay lại trong phòng tắm, đến mổ thầy, thầy liền
tránh qua né lại, trượt ngã, thành tàn tật. Thầy ấy nói với tôi, thầy ấy nói đó
là nghiệp chướng của tôi, tội nặng mà báo nhẹ, nếu tôi không học Phật, thì e rằng
cả mạng cũng không còn. Nửa đời sau thầy ấy ngồi xe lăn, trước khi vãng sanh thầy
ấy đến thăm tôi, ngồi trên xe lăn, tôi thấy thầy ấy rất đáng thương, chảy nước
mũi, chảy nước bọt. Nghiệp nhân quả báo chẳng sai chút nào, thầy ấy xuất gia rồi,
[nếu] không xuất gia thì nhất định đọa địa ngục. Cho nên tôi khuyên thầy ấy niệm
Phật cầu sanh Tịnh Độ, trong kinh đã giảng rất rõ ràng, những oán thân trái chủ
ấy, quý vị có thể vãng sanh thì họ đều có công đức, quý vị hồi hướng công đức
niệm Phật cho họ. Một con gà là một sinh mạng, quý vị giết chúng, quý vị ăn
chúng, khi ấy chưa học Phật, sau khi học Phật thì hiểu rõ rồi, cũng phóng sanh,
cũng sám hối, nhưng quá nhiều rồi, không phải là vài con, vài chục con, mà hơn
ngàn con. Quý vị xem, mấy năm đó, đời sống trong quân đội, người khác nhìn thấy
thì ngưỡng mộ, đâu biết được về sau có quả báo thê thảm như vậy.
Cho nên người giàu
sang dễ tạo tội nghiệp, mà bản thân không biết. Đặc biệt là người hiện nay
không tin Phật pháp, không tin nhân quả báo ứng, không tin có đời sau, việc gì
cũng dám làm, vấn đề rất nghiêm trọng, thật nguy hiểm! Đây không phải là lời
nói đùa, không phải lời giả dối. Đức Phật từ bi, tận tình khuyên bảo mà nói rõ tình trạng của lục đạo luân hồi cho
chúng ta, tạo nghiệp thì [phải] chịu báo. Chúng ta phải biết ơn, phải cung kính
mà lắng nghe, phải tiếp nhận, thảy đều tiếp nhận, đoạn ác tu thiện. Không chỉ
là không thể tạo những điều ác này, mà ngay cả ý niệm cũng không thể động, nhìn
thấy tất cả chúng sanh thì chắp tay gọi Bồ-tát. Đây là thật, không phải giả. Bất
luận họ ở cõi nào, chúng ta đều biết ơn, họ đều đang biểu pháp, hiển bày chân
tướng sự thật cho chúng ta xem. Bản thân chúng ta nhìn thấy rõ ràng, sáng tỏ rồi,
nghĩ thông rồi, thật sự là đoạn tất cả ác, sanh tất cả thiện, mỗi phút mỗi giây
đều giữ tâm giúp đỡ người khác, giữ ý niệm giúp chúng sanh lìa khổ, tương ưng với
Phật đạo. Nếu vẫn còn oán hận người khác thì sai rồi. Oán người khác, hận người
khác, quý vị tổn thương họ ba phần, tương lai chính mình sẽ chịu bảy phần nhân
quả báo ứng. Người khác hủy báng, người khác gây chướng ngại, đều phải tha thứ,
thậm chí là hãm hại, cũng phải tha thứ cho họ, vì sao vậy? Họ đáng thương, họ
không hiểu được chân tướng sự thật. Chúng ta tha thứ cho họ, không có ý niệm trả
thù, không có ý niệm tổn hại họ, nhưng nghiệp mà họ đã tạo là tánh tội, bản thân
vẫn có tội, họ vẫn phải đọa, điều này thì không còn cách nào. Cũng giống như
Tiên sinh Chương Thái Viêm đến tham quan địa ngục Bào Lạc, tiểu quỷ đưa ông đi,
đến hiện trường ông không nhìn thấy, ông mới bỗng nhiên hiểu rõ rồi, những gì
trong kinh Phật nói, ông không có nghiệp lực ấy, không có nghiệp lực ấy thì quý
vị không nhìn thấy. Trong Kinh Địa Tạng nói rất rõ ràng, địa ngục thì chỉ có
hai hạng người nhìn thấy: Một là người chịu tội, là do nghiệp lực của họ biến
hiện ra; hai là Bồ-tát, duyên được độ của họ chín muồi rồi, Bồ-tát không thể từ
bỏ, Bồ-tát sẽ đến địa ngục để độ họ. Căn tánh thấp thì độ họ từ trong địa ngục
lên cõi súc sanh, hoặc độ họ đến cõi người, cõi trời; thiện căn Tịnh Độ chín muồi
thì họ ở địa ngục có người nhắc nhở họ, họ có thể nhớ lại, họ có thể phát nguyện,
phát nguyện vào lúc ấy, cầu sanh Thế giới Tây Phương Cực Lạc, niệm một câu A Di
Đà Phật thì họ có thể vượt khỏi. Địa ngục khổ, Bồ-tát không từ bỏ địa ngục. Ngạ
quỷ khổ, súc sanh khổ, chư Phật Bồ-tát ứng hóa ở trong đó, đến giáo hóa họ, nên
dùng thân gì để được độ thì [các ngài] hiện thân ấy, quán sát thiện căn, phước
đức, nhân duyên của họ, nên dạy họ Pháp môn gì thì [các ngài] dạy họ Pháp môn ấy.
Vì vậy, đức Phật không có thân tướng nhất định, không có cách nói nhất định,
không có định pháp để nói, hoàn toàn là 隨眾生心,應所知量 “tùy chúng sanh tâm, ứng sở tri lượng” (tùy tâm của chúng sanh mà ứng hiện phù hợp
với khả năng nhận biết của họ), phải hiểu rõ đạo lý này.
Bản thân chúng ta đối với Phật pháp, đặc biệt
là đối với Tịnh tông, phải tràn đầy tín tâm, tuyệt đối không nghi ngờ. [Đối với]
nhân tình thế sự của thế gian thì tùy thuận là được, tùy thuận khiến mọi người
sanh tâm hoan hỷ, chính mình có được lợi ích không? Có khi có, có khi thì hoàn
toàn không có. Bất luận là có hay không cũng hoan hỷ, học cách không bị cảnh giới
bên ngoài quấy nhiễu, điều này tốt. Ngoại cảnh quấy nhiễu thì ta tùy duyên, có
nhận hay không? Không nhận, không nhận chính là bản thân không cảm nhận những sự
quấy nhiễu đó, đây là sự thật. Phải đầy đủ tín tâm, tuyệt đối không thể có chút
nghi ngờ. Vì vậy, câu cuối cùng trong Hội Sớ nói rất hay: 情絕違順 “tình tuyệt vi thuận”, tình là tình chấp, lìa khỏi, hoặc là điều làm ta không vui, hoặc là
điều đúng với tâm ý ta, không có, không có chính là bình thường, cũng không có
hoan hỷ, cũng không có oán hận. Người khác đưa thức ăn đến, trước đây, lão Cư
sĩ Lý Bỉnh Nam, chúng tôi sống chung mười năm, thầy từ bi, họ đã nấu chút thức
ăn điểm tâm, thầy nhất định sẽ ăn hết trước mặt họ, hoan hỷ. Thức ăn có độc,
người nấu không biết, cũng không phải là hại thầy, họ thật sự sơ suất. Thầy vừa
nếm mùi vị thì đã biết, nhưng không sao, ăn rồi buổi tối lập tức uống thuốc giải,
thầy là bác sĩ đông y, thầy biết được, cho nên thầy mang theo thuốc giải trên
người, thật tuyệt diệu! Hằng thuận chúng sanh, tùy hỷ công đức. Vì vậy, trong
sinh hoạt thường ngày, người khác có cúng dường, có người đến tiếp đãi, có người
có tâm thiện, có người vô ý, chúng ta thảy đều tiếp nhận, thảy đều dùng một tâm
thái tốt nhất, chuyển biến thành “tình tuyệt vi thuận”, cảnh giới này tốt, cảnh
giới này chính là không bị cảnh giới bên ngoài quấy nhiễu. Chính mình đối với cảnh
giới bên ngoài, bình thường phải quán Không, phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng,
hư vọng thì lìa khỏi vi thuận. Vi thuận là cảm nhận của chúng ta, vi là cảm nhận
không tốt, thuận là cảm giác vui vẻ, không có, không có vi thuận, tất cả đều
bình thường, vẫn cứ nắm vững câu Phật hiệu, Phật hiệu không gián đoạn, buông xuống
hết thảy vi thuận. Ngài Hải Hiền làm được rồi, quý vị xem ngài nói, không có gì
mà hoan hỷ, không có gì mà vui mừng, không có, thảy đều bình đẳng, thấy gì cũng
hoan hỷ, thấy gì cũng vui vẻ, thuận cảnh thì vui vẻ, nghịch cảnh cũng vui vẻ,
việc tốt vui vẻ, việc xấu cũng vui vẻ, hoàn toàn không bị ngoại cảnh quấy nhiễu,
công phu này tốt, đáng để chúng ta học tập. 《會疏》之說,正顯中道實相之義 “Hội Sớ chi thuyết, chánh hiển trung đạo Thật tướng chi nghĩa” (Cách nói trong Hội Sớ, chính là hiển bày
nghĩa Thật tướng của trung đạo). Hội Sớ là trước tác của Đại đức Tịnh tông ở
Nhật Bản, nói rất hay, Bồ-tát vĩnh viễn trụ ở trung đạo. Trung đạo của người niệm
Phật chúng ta chính là A Di Đà Phật, trong tâm có A Di Đà Phật chính là an trụ ở
trung đạo, ngoài A Di Đà Phật ra thì buông xuống tất cả cảnh giới thuận nghịch,
đều không đắm nhiễm, vậy thì đúng rồi.
Tiếp theo, nguyện thứ tư, 三十二相願 “tam thập nhị tướng nguyện” (nguyện ba mươi hai tướng):
【三十二種大丈夫相。】 “Tam thập nhị chủng
đại trượng phu tướng” (Ba mươi hai tướng đại trượng phu).
Cách nói này là quyền thuyết, đến Thế giới Cực
Lạc thì phát hiện không chỉ có 32 tướng. Giống như ví dụ về ba xe trong Kinh Pháp Hoa vậy, rất có ý vị.
Ví dụ trong Kinh Pháp Hoa, trưởng giả giàu sang có mấy đứa con, ở trong nhà bị
cháy, làm thế nào để con mình rời khỏi nơi ấy? Ông liền nói với các con, ngoài
cửa có rất nhiều đồ chơi mà các con muốn chơi, có xe bò, có xe dê, có xe hươu.
Những đứa trẻ ấy nghe xong rồi đều chạy ra bên ngoài, chạy ra ngoài rồi. Sau
khi chạy ra ngoài, không có xe dê, không có xe hươu, chỉ có xe bò. Ngài ví xe
bò như Đại thừa, ví xe hươu như Trung thừa, ví xe dê như Tiểu thừa, đến lúc sau
thì bình đẳng, đều cho chúng Đại thừa như nhau, chọn ý này. Thật sự đến Thế giới
Tây Phương Cực Lạc, tình hình không phải như vậy, Thế giới Tây Phương Cực Lạc
hoàn toàn là pháp Nhất thừa, thành Phật rồi. Thành Phật không phải là 32 tướng
tốt 80 vẻ đẹp, 32 tướng tốt 80 vẻ đẹp là vào thời cổ Ấn Độ, đức Phật Thích Ca
Mâu Ni thị hiện ra. Thời cổ Ấn Độ cho rằng 32 tướng 80 vẻ đẹp là đại phước báo
rất hiếm có ở nhân gian, chỉ có đức Phật có, chỉ có Chuyển luân Thánh vương có,
người thông thường không thể có, chọn ý nghĩa này. Chúng ta đọc được trong Quán
Kinh, là thật, không phải giả, A Di Đà Phật hiện thân gì? Thân có tám vạn bốn
ngàn tướng, mỗi tướng có tám vạn bốn ngàn vẻ đẹp, mỗi vẻ đẹp có tám vạn bốn
ngàn quang minh, trong mỗi ánh quang minh đều có chư Phật Bồ-tát đang giảng
kinh dạy học, giáo hóa chúng sanh. Ở trên thân ấy nhìn thấy cả vũ trụ, trang
nghiêm vô cùng! 32 tướng 80 vẻ đẹp này là tùy tục mà nói, tùy thuận quý vị, quý vị
cho rằng đây là tướng tốt, thì đức Phật hiện tướng tốt, trên thực tế, đến Thế
giới Cực Lạc thì thù thắng hơn tướng này không chỉ ngàn vạn lần, đây là điều mà
chúng ta cần phải biết. Được rồi, thời gian hôm nay hết rồi, chúng ta học tập đến
đây thôi.
(Hết tập 170)
Nguyện đem công đức này
Hướng về khắp tất cả
Đệ tử cùng chúng sanh
Đều sanh nước Cực Lạc
Sớm viên thành Phật quả
Rộng độ khắp chúng sanh.
Nam Mô A Di Đà Phật.