TỊNH ĐỘ ĐẠI KINH KHOA CHÚ
2014 (Giảng lần thứ 4)
PHẨM 6: PHÁT ĐẠI THỆ NGUYỆN
Phát Thệ Nguyện Rộng Lớn
Tập 177
Hòa thượng Tịnh Không chủ giảng.
Giảng tại: Hiệp Hội Giáo Dục Phật Đà Hồng
Kông.
Thời gian: Ngày 8 tháng 2 năm 2015.
Ban biên dịch: Hoa Tạng Huyền Môn.
Dịch giả: Diệu Hiệp
Kính chào chư vị
Pháp sư, chư vị đồng học, mời an tọa, mời an tọa. Thỉnh mọi người cùng tôi quy
y Tam Bảo:
A-xà-lê tồn niệm,
ngã đệ tử Diệu Âm, thỉ tùng kim nhật, nãi chí mạng tồn, quy y Phật Đà, lưỡng
túc trung tôn, quy y Đạt Ma, ly dục trung tôn, quy y Tăng Già, chư chúng trung
tôn. (3
lần).
Mời xem Đại
Kinh Khoa Chú, trang 459, chúng ta bắt đầu xem từ hàng thứ hai:
寂靜者,離煩惱曰寂,絕苦患曰靜,即涅槃之理。《資持記》曰:寂靜即涅槃理也。又《往生要集上》曰:一切諸法,本來寂靜,非有非無 “Tịch tĩnh giả, ly phiền não viết tịch, tuyệt khổ
hoạn viết tĩnh, tức Niết-Bàn chi lý. Tư Trì Ký viết: Tịch tĩnh tức Niết-Bàn
lý dã. Hựu Vãng Sanh Yếu Tập Thượng viết: Nhất thiết chư pháp, bổn lai tịch
tĩnh, phi hữu phi vô” (Tịch tĩnh, lìa phiền não gọi là tịch, dứt khổ
nạn gọi là tĩnh, chính là lý thể của Niết-Bàn. Sách Tư Trì Ký nói rằng: Tịch
tĩnh là lý thể của Niết-Bàn. Lại nữa, trong Vãng Sanh Yếu Tập quyển thượng nói
rằng: Tất cả các pháp, vốn dĩ tịch tĩnh, chẳng có chẳng không). Câu nói này vô cùng quan trọng, mong rằng mọi
người hãy nhớ kỹ. Tất cả các pháp vốn dĩ tịch tĩnh, chẳng có chẳng không, đây
chính là thật tướng các pháp, chân tướng của tất cả pháp, bản lai diện mục của
tất cả pháp. Nếu như chúng ta có việc vẫn chưa buông xuống được, hãy đọc câu này thêm vài lần. Đặc
biệt chú trọng “chẳng có chẳng không”, cũng có nghĩa là tất cả pháp là hư ảo,
không phải là thật, quý vị không có được gì cả, bao gồm thân mạng của chính
chúng ta, toàn là giả. Thế giới, vạn pháp, tất cả đều chẳng có chẳng không. Vì
sao nói là chẳng không? Chúng ta sẽ nhớ đến, Di Lặc Bồ-tát nói cho chúng ta biết
tất cả vạn pháp của toàn vũ trụ, thời gian tồn tại ở thế gian này là bao lâu? Một
phần 2 triệu 240 ngàn tỷ giây. Nói cách khác, một giây, sanh diệt hết 2 triệu
240 ngàn tỷ lần. Lần nào là quý vị? Đây là chân tướng, cho nên nói là “chẳng có”.
Cũng “chẳng không”, nó có thể hiện tướng. Thời gian hiện tướng quá ngắn! Chúng
ta dường như không có chút cảm giác nào, một phần 2 triệu 240 ngàn tỷ giây ở
ngay trước mắt. Tất cả pháp, đều được sinh ra trong tần suất cao như vậy, niệm
trước diệt rồi thì niệm sau sinh ra, tốc độ nhanh đến mức chúng ta không thể tưởng
tượng nổi, đây chính là chân tướng sự thật. Cho nên quý vị tưởng rằng nó có là
hoàn toàn mê rồi, hoàn toàn sai rồi. Vì vậy, người hiểu rõ thì tâm của họ tịch
tĩnh, họ không chấp-trước có, cũng không chấp-trước không, hai bên có và không
đều đã buông xả, như vậy gọi là vốn dĩ tịch tĩnh.
諸根者,眼、耳、鼻、舌、身、意等六根。今此六根,同歸寂靜 “Chư căn giả, nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý đẳng lục
căn. Kim thử lục căn, đồng quy tịch tĩnh” (Các căn là: Sáu căn mắt, tai, mũi,
lưỡi, thân, ý. Nay sáu căn này cùng trở về tịch tĩnh). Lần trước chúng ta đã học đến đây, bây giờ
chúng ta tiếp tục xem phần dưới. Sáu căn của người nào cùng trở về tịch tĩnh?
Pháp-thân Bồ-tát, Thiền tông Trung Hoa nói minh tâm kiến tánh, chính là cảnh giới
này. Kiến tánh rồi, tâm của họ là tịch tĩnh. Tịch là tịch diệt, tĩnh là thanh tịnh.
Niệm lão trích dẫn Kinh Hoa Nghiêm để nói rõ cho chúng ta biết: 如《華嚴經》曰:觀寂靜法,離諸痴闇 “Như Hoa Nghiêm Kinh viết: Quán tịch tĩnh
pháp, ly chư si ám” (Như trong Kinh Hoa Nghiêm nói: Quán pháp tịch
tĩnh, lìa các ngu si tăm tối). Si là khởi tâm động niệm, ám là phân-biệt chấp-trước, thật sự thấy được
tất cả pháp là tịch tĩnh thì tự nhiên sẽ không chấp-trước, không phân-biệt, sẽ không
khởi tâm động niệm. Toàn là giả, toàn là không, hoàn toàn không đạt được. Tất cả
pháp, tất cánh không, bất khả đắc, vô sở hữu. Đây là thật, không giả chút nào.
更有進者 “Cánh hữu tiến giả” (Càng
tiến vào hơn), tiến thêm
một bước mà nói, 世尊釋迦牟尼 “Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni”, hai chữ Mâu Ni chính là tịch tĩnh, có nghĩa
là tịch mặc và tịch tĩnh. Chúng ta biết 名可名,非常名;道可道,非常道 “danh khả danh phi thường danh, đạo khả đạo
phi thường đạo” (tên có thể gọi được, chẳng phải là tên thường; đạo có thể gọi được, chẳng phải là đạo thường), người xưa nước ta biết điều này, Phật pháp Đại-thừa
cũng vậy. Phật có danh hiệu hay không? Không có, Bồ-tát có danh hiệu hay không?
Cũng không có. Danh hiệu của Phật từ đâu có? Tánh đức của Tự-tánh, từ đây mà
có. Tất cả danh hiệu là tánh đức, Tự-tánh vốn có, danh hiệu của Bồ-tát là tu đức,
tánh và tu là một, không phải hai. Công đức của danh
hiệu không thể nghĩ bàn, đều là vì tất cả chúng sanh ở nơi này, lúc này cần, Phật
liền lấy tên này làm danh hiệu, danh hiệu chính là tông chỉ dạy học của Phật Bồ-tát,
là cơ sở căn bản của giáo dục. Người trên trái đất này không có tâm từ bi, cho
nên dùng Thích Ca, Thích Ca có nghĩa là nhân từ, thông thường dịch là năng
nhân, Ngài có thể nhân từ, đối đãi nhân từ với mọi người. Mâu Ni, Mâu Ni là tịch
diệt, là đối với chính mình. Đối với chính mình phải tịch diệt, tịch tĩnh, đối
với người phải đại từ đại bi, danh hiệu của Phật chính là ý này. Niệm Phật
không thể không hiểu nghĩa, không hiểu nghĩa thì uổng công niệm rồi. Niệm niệm
hồi quang phản chiếu, chúng ta phải giống như Thế Tôn, dùng tâm từ bi vô tận đối
đãi với tất cả chúng sanh, như vậy là học Phật. Vì vậy, tông chỉ tu học của Phật
là trên danh hiệu này. Mâu Ni là tịch tĩnh, thanh tịnh tịch diệt. Trong Hợp Sớ
Kinh Nhân Vương quyển thượng, trong quyển chú giải này giải thích chữ “Mâu Ni”:
牟尼者,名也。此云寂默。三業俱寂默也 “Mâu Ni giả, danh dã. Thử vân tịch mặc.
Tam nghiệp câu tịch mặc dã” (Mâu Ni là tên, nơi này gọi là tịch mặc, là
ba nghiệp đều tịch mặc). Thân
khẩu ý; thân tịch mặc là yên tĩnh bất động; khẩu tịch mặc là không có lời nói;
ý tịch mặc là không có ý niệm; đây gọi là ba nghiệp thân khẩu ý.
Trong Kinh Lý Thú Ba La Mật giải
thích rằng: 牟尼者,寂靜義。身口意寂靜,故稱牟尼。身口意寂靜,正是今經中諸根寂靜。而寂靜正是涅槃之理體也 “Mâu Ni giả, tịch tĩnh nghĩa. Thân
khẩu ý tịch tĩnh, cố xưng Mâu Ni. Thân khẩu ý tịch tĩnh, chánh thị kim kinh
trung chư căn tịch tĩnh. Nhi tịch tĩnh chánh thị Niết-Bàn chi lý thể dã (Mâu Ni
nghĩa là tịch tĩnh. Thân khẩu ý tịch tĩnh nên gọi là Mâu Ni. Thân khẩu ý tịch
tĩnh chính là các căn tịch tĩnh được nói trong kinh này, mà tịch tĩnh chính là
lý thể của Niết-Bàn). Làm thế nào mới chứng được Đại-bát Niết-bàn? Thân khẩu ý đều tịch tĩnh chính
là Đại-bát Niết-bàn. Chúng ta đã chứng được chưa? Vẫn chưa. Vì sao vậy? Vì thân
khẩu ý chúng ta tịch tĩnh chỉ là tạm thời, chưa đoạn gốc. Thời gian tạm thời rất
ngắn, chỉ vài phút, vài giây. Có được vài giờ tịch tĩnh thì công phu này đã khá
lắm rồi, vọng niệm này lại dấy khởi, khởi vọng niệm thì tâm không còn thanh tịnh.
Tâm là chủ tể của thân, tâm không thanh tịnh, ngữ, thân đều không thanh tịnh, bị
phiền-não tập-khí làm ô nhiễm rồi.
Các căn tịch tĩnh đã nói trong kinh,
các căn tịch tĩnh chính là khế nhập cảnh giới minh tâm kiến tánh. Vì sao vậy? Vì
họ không khởi tâm động niệm, không phân-biệt chấp-trước, hiểu rõ và thấu triệt
tất cả các pháp, đây là trí huệ, trí huệ vốn có của Tự-tánh, rõ ràng sáng tỏ,
tường tận thấu suốt, thân khẩu ý của chính mình như như bất động. Bất động ở
đâu? Nó không có thân thể, không có hiện tượng vật chất, cũng không có ý niệm, tức
là không có hiện tượng tâm lý, cũng không có hiện tượng tự nhiên, hoàn toàn không
có, hình dạng đó là gì? Pháp môn Tịnh tông nói rất hay, đó gọi là Thường-tịch-quang.
Thường là vĩnh hằng bất biến, không sanh không diệt; tịch là tịch tĩnh mà trong
đây nói đến, còn thể, thể gì vậy? Là Pháp-thân, lý thể của tất cả vạn pháp
trong vũ trụ, tất cả vạn pháp là từ Pháp-thân hiện ra, tuy là từ đó hiện ra,
nhưng trước nay chưa từng phân-biệt, trước nay chưa từng động qua; quang chính
là hình dung Pháp-thân, Pháp-thân có hình dạng gì? Là một mảng quang minh. Tất
cả mọi lúc, mọi nơi, không nơi nào không có, đây là Pháp-thân của chư Phật Như
Lai và Pháp-thân Bồ-tát, từ trong Pháp-thân hiện ra Báo-thân, hiện Ứng-thân, hiện
Hóa-thân. Báo-thân, Ứng-hóa-thân đều không phải là thật. Đối với phàm phu chúng
ta mà nói, Ứng-hóa-thân là giả, có sanh diệt; Báo-thân không có sanh diệt,
Báo-thân là thật. Báo-thân, Báo-độ, chúng ta gọi đó là nhất-chân pháp-giới, cõi
của Ứng-hóa-thân, chúng ta gọi là mười pháp-giới, lục đạo luân hồi.
Mười pháp-giới, lục đạo luân hồi là
giả, trong Kinh Kim Cang hình dung hay nhất, vô cùng thỏa đáng, “mộng, ảo, bọt,
bóng”. Mộng có hay không? Chúng ta đều đã từng nằm mộng, nghĩ đến thế giới trước
mắt chúng ta là một giấc mộng, hình như là có, nhưng trên thực tế thì không tìm
được dấu vết nào. Lợi ích của kinh giáo ở chỗ này, khiến chúng ta hiểu rõ, có
khái niệm rồi, dần dần buông bỏ phân-biệt chấp-trước. Là giả, quý vị phân-biệt
nó, quý vị chấp-trước nó, gọi là tạo nghiệp. Người nào không tạo nghiệp nữa?
Người minh tâm kiến tánh không tạo nghiệp nữa, vì sao vậy? Vì họ không có phân-biệt,
tất nhiên là không có chấp-trước, chấp-trước là từ phân-biệt sinh ra. Pháp-thân
Bồ-tát không chỉ không phân-biệt chấp-trước, mà khởi tâm động niệm cũng không
còn. Vậy tại sao không thể trở về Thường-tịch-quang? Bởi vì Ngài chưa đoạn tập
khí vô-thỉ vô-minh, đoạn vô-thỉ vô-minh, tức là đoạn khởi tâm động niệm rồi, vẫn
còn tập-khí của khởi tâm động niệm, cần phải đoạn sạch tập-khí, vậy thì không thấy
Thật-báo độ nữa. Thật-báo độ từ đâu có? Từ tập-khí vô-thỉ vô-minh mà có. Đoạn sạch
tập-khí thì Thường-tịch-quang hiện tiền, tự nhiên sẽ hòa vào Thường-tịch-quang.
Vào Thường-tịch-quang rồi thì thân thể của quý vị lớn thế nào? Khắp pháp-giới
hư-không-giới chính là thân thể của quý vị, cho nên gọi là Pháp-thân. Ở Thật-báo
độ gọi là Báo-thân, ở mười pháp-giới và lục đạo gọi là Ứng-hóa-thân, ý nghĩa của
danh từ này, chúng ta sẽ dần dần lãnh hội được. Pháp-thân là thật, Báo-thân, Ứng-hóa-thân
đều là giả. Báo-thân có ẩn có hiện, không có sanh diệt. Ứng-hóa-thân có sanh có
diệt, không chỉ lục đạo luân hồi có sanh có diệt, mà Tứ-thánh pháp-giới cũng có
sanh diệt, vì sao vậy? Vì không thể chuyển thức thành trí, vẫn dùng A-lại-da. Tứ-thánh
pháp-giới dùng đúng, chúng sanh trong lục đạo luân hồi dùng thiên, dùng lệch rồi.
Chẳng thể không biết những chân tướng sự thật
này, vì sao vậy? Quý vị không biết thì quý vị không thể nào dụng công, công phu
không đắc lực. Quý vị hiểu rõ rồi, 84 ngàn Pháp môn, bất luận là Pháp môn nào
thì công phu cũng đắc lực, cho nên gọi là Pháp môn bình đẳng, không có cao thấp.
Do đó, tịch tĩnh chính là lý thể của
Niết-Bàn, cho nên chúng ta biết được, mục tiêu cuối cùng của Đại-thừa giáo là Đại-bát
Niết-bàn, chứng được quả Phật rốt ráo viên mãn. Đại-bát Niết-bàn là gì? Các căn
tịch tĩnh, sáu căn đối với cảnh giới sáu trần không khởi tâm động niệm, như như
bất động, đây là các căn thật sự tịch tĩnh, thật sự minh tâm kiến tánh rồi, các
căn tịch tĩnh chính là minh tâm kiến tánh. Mà tịch tĩnh chính là lý thể của Niết-Bàn,
tịch tĩnh chính là thiền-định. Nhất định phải biết nghĩa rộng của thiền-định,
không phải là nghĩa hẹp. Theo nghĩa hẹp: Tu thiền được định gọi là thiền-định;
theo nghĩa rộng: Tu bất kỳ Pháp môn nào, tám vạn bốn ngàn Pháp môn, vô lượng Pháp
môn, tất cả đều là thiền-định, cho nên mới nói Pháp môn bình đẳng, không có cao
thấp.
Xem đoạn tiếp theo: 由於遠離分別之妄惑,諸根寂靜,契入涅槃之理。故續曰:決定成等正覺,證大涅槃 “Do ư viễn ly phân biệt chi vọng hoặc,
chư căn tịch tĩnh, khế nhập Niết-Bàn chi lý. Cố Tục viết: Quyết định thành Đẳng
Chánh-giác, chứng Đại Niết-Bàn” (Do đã xa lìa phân biệt vọng hoặc, các căn tịch
tĩnh, khế nhập lý thể của Niết-bàn. Nên nói tiếp: Nhất định thành Đẳng Chánh-giác, chứng Đại Niết-bàn).
Kinh văn khẳng định như vậy, “nhất định
thành”. Đẳng Chánh-giác chính là Chánh-đẳng Chánh-giác, Pháp-thân Đại sĩ, sau
cùng chứng Đại Niết-bàn thành Phật. Câu “thành Đẳng Chánh-giác” phía trước là cấp
bậc của Bồ-tát viên mãn rồi, Đẳng-giác Bồ-tát; câu “chứng Đại Niết-Bàn” phía
sau là rốt ráo viên mãn, chứng được quả vị Diệu-giác trong Kinh Hoa Nghiêm nói,
không còn cấp bậc nào hơn nữa, rốt ráo viên mãn. Ba chữ “nhất định thành” trong kinh, ba chữ này quan trọng,
không có chút nghi hoặc nào. Nguyện của A Di Đà Phật đã phát ra ở nhân địa, nếu
không thực hiện nguyện này thì Ngài không thành Phật, hiện nay Ngài đã thành Phật
ở thế giới Tây Phương Cực Lạc mười kiếp rồi, hay nói cách khác, nguyện nào Ngài cũng thực hiện rồi. Đặc biệt là nguyện thứ 12: Nhất định thành Chánh-giác; nguyện thứ 13: Quang
minh vô lượng; nguyện thứ 15: Thọ mạng vô lượng; nguyện thứ 17: Chư Phật xưng
tán; nguyện thứ 18: Mười niệm chắc chắn vãng sanh; Đại sư Thiện Đạo nói năm nguyện
này là nguyện chủ yếu trong 48 nguyện, đại nguyện chân thật nhất trong 48 nguyện,
rất quan trọng.
Trong chú giải, 等正覺,乃無上正等正覺之略稱。大涅槃,亦佛果之名,譯為入滅 “Đẳng Chánh-giác, nãi Vô-thượng
Chánh-đẳng Chánh-giác chi lược xưng. Đại Niết-Bàn, diệc Phật quả chi danh, dịch
vi nhập diệt” (Đẳng Chánh-giác là cách gọi tắt của Vô-thượng
Chánh-đẳng Chánh-giác. Đại Niết-bàn cũng là tên của quả vị Phật, dịch là nhập
diệt). Tôi chia làm hai để nói, Chánh-đẳng
Chánh-giác là quả vị cao nhất của Bồ-tát, Đẳng-giác Bồ-tát, Chánh-đẳng
Chánh-giác, thăng cấp lên thì không gọi là Bồ-tát nữa, gọi là Phật, tên gọi của
Bồ-tát đến Chánh-đẳng Chánh-giác, đây là đỉnh cao nhất rồi, thăng cấp lên là Diệu-giác
Như Lai, Đại-bát Niết-bàn, nói như vậy cũng rất rõ ràng. Đại Niết-bàn, tên của
quả vị Phật, dịch là nhập diệt. Nhập là khế nhập, diệt là đã diệt hết phiền-não
tập-khí rồi, không còn nữa. 具云般涅槃 “Cụ vân Bát–Niết-Bàn” (Nói đầy đủ là bát-niết-bàn), thông thường nói là Niết-bàn, âm đầy đủ của tiếng Phạn là Bát-niết-bàn, phía
trước có chữ Bát. Chữ “Bát” này nghĩa là gì? Nước ta gọi là “viên”, tức là viên
mãn, cho nên khi phiên dịch theo nghĩa, có thể dịch thành viên tịch, viên mãn
thanh tịnh tịch diệt, đây là Pháp-thân Như Lai. 以義充法界,德備塵沙曰圓 “Dĩ nghĩa sung
pháp-giới, đức bị trần-sa viết viên” (Vì nghĩa khắp
pháp-giới, đức nhiều như trần-sa, nên gọi là viên), ý nghĩa của viên, từ
trên nghĩa lý mà nói, thân của các Ngài, Pháp-thân, Pháp-thân là khắp pháp-giới
hư-không-giới. Từ đức, đức chính là Pháp-thân khởi tác dụng rồi, ví như cát
sông Hằng, giống như số cát sông Hằng vậy, vô cùng vô tận, các Ngài có đủ vô lượng
trí huệ, vô lượng đức năng, vô lượng tướng hảo, nên gọi là viên, không thiếu
sót gì cả. Chư Phật Như Lai nói với quý vị cũng không thể nói rõ, cần phải khế
nhập rồi mới biết, khế nhập chính là nhập diệt được nói ở đây. Quý vị khế nhập,
diệt là tất cả phiền-não tập-khí đều không còn nữa, như vậy là viên tịch, tiếng
Phạn gọi là Niết-bàn.
體窮真性(本體窮盡於真如法性) “Thể cùng chân-tánh (Bản-thể cùng tận ư chân-như
Pháp-tánh)” (Thể cùng chân-tánh [Bản-thể
cùng tận Chân-như Pháp-tánh]), cảnh giới này chính là Chân-như, chính là
Pháp-tánh, chính là Bản-tánh, chính là Tự-tánh, với sự việc này Phật đã nói ra
mấy chục danh từ như: Chân-như, Bản-thể đều nói về nó. Vì sao Phật nói nhiều
như vậy? Đây là sự vi diệu của dạy học, phương pháp thù thắng của dạy học, dạy
quý vị hiểu biết được ý nghĩa của nó, đừng chấp-trước tướng danh tự, danh tự là
giả. Trong Luận Đại Thừa Khởi Tín, Mã Minh Bồ-tát dạy chúng ta học Phật, học
như thế nào? Nghe kinh “lìa tướng ngôn thuyết”, không chấp-trước, không phân-biệt
tướng ngôn thuyết; “lìa tướng danh tự”, danh từ, thuật ngữ đều là giả thiết, để
thuận tiện cho việc dạy học, Phật đã dùng những pháp phương tiện này, không thể
chấp-trước, chấp-trước là sai rồi; “lìa tướng tâm duyên”, tâm duyên, chúng ta
nghĩ đó có nghĩa là gì, không nên nghĩ, nghĩ là sai rồi. Quý vị vừa nghĩ thì thế
nào? Rơi vào A-lại-da, không phải tánh-đức; không nghĩ đến thì tự nhiên sẽ hiểu
rõ nghĩa, đây là tánh-đức. Người học giảng kinh, bất luận là tại gia hay xuất
gia cũng có sự trải nghiệm này, trước khi giảng kinh phải chuẩn bị bài, phải
chuẩn bị đầy đủ, sau khi lên giảng đài rồi, có lúc khế nhập cảnh giới, thật sự
nói ra pháp vi diệu, mà bản thân cũng không biết. Lão Hòa thượng Đế Nhàn là vị
Pháp sư giảng kinh, sau khi khế nhập cảnh giới, trong các thính chúng, có cư sĩ
Giang Vị Nông ghi chép lại cho ngài, sau khi giảng xong, cư sĩ Giang đưa bút ký
cho ngài xem, ngài hỏi cư sĩ Giang: “Những lời này là tôi nói sao?” “Đúng vậy,
không sai”. “Sao có thể nói hay vậy chứ?” Bản thân ngài cũng cảm thấy ngạc
nhiên. Đó là gì vậy? Khi ấy đã nói mà chính mình không biết, hoàn toàn từ Tự-tánh
lưu lộ ra một cách tự nhiên. Cần phải như thế nào? Một sát-na tâm thanh tịnh, một
sát-na quên mình; trí huệ, đức năng, tướng hảo của Tự-tánh sẽ lưu lộ ra. Tôi thấy
những người thật sự nghiêm túc học tập kinh giáo, lên đài giảng đều có sự trải
nghiệm này, thầy Lý có sự trải nghiệm này, chúng tôi cũng có sự trải nghiệm
này.
Cho nên thầy dạy
cho chúng tôi bí quyết học kinh, giữ lấy bốn chữ “chí thành cảm thông”, thông
là không còn chướng ngại nữa, thông hiểu hết nghĩa lý của kinh giáo. Dùng
phương pháp nào để thông hiểu? Học thì khó thông hiểu, học là phải dùng đầu óc
của thế gian, dùng A-lại-da, dùng ý-thức, như vậy không thể thông hiểu, chỉ có
thể học được tri thức, học được bề ngoài. Phải dùng cách gì? Phải dùng cảm ứng.
Như thế nào mới được cảm ứng? Thành, chân thành đến tột cùng gọi là chí thành,
học tập lời dạy của thánh hiền, học tập Phật Bồ-tát là bí quyết chân thật. Thầy
truyền dạy cho chúng tôi, bản thân chúng tôi nỗ lực làm được hai chữ này, làm
được chí thành. Làm thế nào? Từ mặc áo ăn cơm phải dùng tâm chí thành, công việc
phải dùng tâm chí thành, đối nhân tiếp vật, khởi tâm động niệm đều chí thành.
Điều đầu tiên của chí thành là không được tự lừa mình, chẳng phải là không lừa
dối người khác, mà là không được lừa dối chính mình. Có lúc có thể lừa dối người
khác, đó là phương tiện mà. Một người thợ săn đuổi theo một con thú săn, muốn
giết nó, bắt lấy nó, đuổi đến ngã ba đường, ở ngã ba đường có người nhìn thấy,
Bồ-tát nhìn thấy rồi, lúc này con thú đã chạy đi mất, thợ săn hỏi, hỏi Ngài có
nhìn thấy không? Nhìn thấy rồi. Chạy về phía nào vậy? Chạy về phía này. Vậy là
lừa dối họ. Vì sao phải lừa dối họ? Để tránh cho họ tạo nghiệp sát, cũng cứu được
con vật nhỏ đó, không vì chính mình. Cho nên, trong tất cả mọi lúc, mọi nơi, mọi
cảnh duyên, cảnh là hoàn cảnh vật chất, duyên là hoàn cảnh nhân sự, đều phải
dùng tâm chân thành, không sợ thiệt thòi. Có rất nhiều người không dám dùng tâm
chân thành vì sợ thiệt thòi. Không nên sợ thiệt thòi. Phật Bồ-tát thường nói,
người xưa cũng thường nói: “Thiệt thòi là phước”, thiệt thòi càng lớn, phước
báo sau này sẽ càng lớn. Không sợ người khác lừa mình, không sợ người khác hủy
báng, không sợ người khác hãm hại, không sợ gì cả, vậy là quý vị dùng tâm chân
thành. Chân thành, Phật Bồ-tát hằng ngày đều nhìn thấy quý vị, tất cả thiện thần
luôn ở bên cạnh quý vị, quý vị sợ gì? Nếu không chân thành, không chân thành
thì bên cạnh quý vị không phải là Phật Bồ-tát, mà là yêu ma quỷ quái. Đây là
chân tướng sự thật.
Tiếp theo nói,
thể cùng Chân-tánh, Bản-thể cùng tận Chân-như Pháp-tánh, đây là giải thích trên
văn tự. Thể này là Pháp-thân, là lý thể, khắp pháp-giới hư-không-giới, thật sự
là bặt đường ngôn ngữ, dứt lối tâm hành. 妙絕相累 “Diệu tuyệt tướng
lụy”, câu này thọ dụng, nếu quý vị không được thể cùng tận Chân-tánh, vậy thì
quý vị không cách nào đoạn diệt hết tất cả hiện tượng vướng mắc. Vướng mắc này
là sự quấy nhiễu mà hiện nay chúng ta nói. Tướng này là hiện tượng, trong khắp
pháp-giới hư-không-giới, hiện tượng vật chất, hiện tượng tinh thần, hiện tượng
tự nhiên, ba loại lớn này. Quý vị có bị nó lây nhiễm không? Có bị nó quấy nhiễu
không? Có! Người như vậy là thế nào? Là phàm phu. Mọi người phải dụng công phu
từ chỗ này, gọi là tu hành, tu là tu sửa, hành là hành vi. Hành vi sáu căn của
chúng ta trong cảnh giới sáu trần sai lầm rồi, sai lầm thế nào? Nhìn thấy liền phân-biệt,
liền chấp-trước, liền có thích, có ghét, đây là người như thế nào? Là một phàm
phu tiêu chuẩn, không thể ra khỏi lục đạo luân hồi. Tiểu-thừa tu sửa một phần
hành vi, không chấp-trước nữa, vì sao vậy? Biết được là giả, biết được tất cả
pháp, tất cánh không, bất khả đắc. Cho nên ý niệm chiếm hữu đối với vật chất
không còn nữa, biết rằng chiếm hữu không được, thời gian nó tồn tại ở thế gian
là bao lâu? Một phần 2 triệu 240 ngàn tỷ giây, làm sao quý vị có thể chiếm hữu
được? Không thể được. Ngày nay chúng ta nói là một giây, thời gian một giây rất
dài, thoáng chốc trôi qua rồi, có thể kéo lại một giây này không? Không thể kéo
lại, ý niệm sau lại tiếp tục dấy khởi, quá nhanh rồi! Chúng ta phải thường
xuyên quán tưởng điều này để quán tất cả vạn pháp trong vũ trụ. Đại sư Huệ Năng
nói: “Nào ngờ Tự-tánh có thể sanh ra vạn pháp”, vạn pháp được sanh ra như vậy.
Vạn pháp có hay không? Không thể nói là không có, cũng không thể nói là có, quý
vị nói có, nó không tồn tại nữa, quý vị nói không có, nó thật sự tồn tại trong
một phần 2 triệu 240 ngàn tỷ giây, nó thật có. Chúng ta cảm giác có một thứ gì
đó, có một hiện tượng, nghĩ thử xem, ít nhất là nửa giây, nửa giây sanh diệt
bao nhiêu lần? 1 triệu 120 ngàn tỷ lần, đơn vị là giây, một phần 1 triệu 120
ngàn tỷ giây, trong nửa giây. Chúng ta sẽ nhìn thấy một khái niệm, nhìn thấy có
một cây, có một người, có một căn nhà, thấy rõ được hình dạng gì? Không thấy
rõ, quá nhanh rồi, không thấy rõ. Quý vị nghĩ xem nửa giây, 1 phần một triệu
120 ngàn tỷ giây, chúng ta chỉ nhìn thấy một cảnh tượng mơ hồ, đây là chân tướng
sự thật. Chân tướng sự thật này đã được nhà cơ học lượng tử hiện nay chứng minh
rồi.
Làm sao Phật biết
được? Thậm thâm thiền-định, thật sự nhìn thấy cảnh giới này, trong kinh Đại-thừa,
Phật thường nói là Bát-địa trở lên, minh tâm kiến tánh vẫn chưa được, minh tâm
kiến tánh tiếp tục thăng cấp, thăng cấp đến Bát-địa. Những người nào minh tâm
kiến tánh? Lấy Kinh Hoa Nghiêm làm tiêu chuẩn, Viên-giáo Sơ-trụ thì khai ngộ,
minh tâm kiến tánh rồi, khai ngộ là cấp bậc thứ nhất, Sơ-trụ, thăng cấp lên Nhị-trụ,
Tam-trụ, Tứ-trụ, đến Thập-trụ, Thập-trụ lại thăng cấp lên, Thập-hạnh, Thập-hạnh
tiếp tục thăng cấp lên, Thập-hồi-hướng, Thập-hồi-hướng tiếp tục thăng cấp lên,
Thập-địa, Thập-địa vẫn phải bắt đầu từ Sơ-địa, Nhị-địa, Tam-địa, mãi cho đến
Bát-địa, nhìn thấy hiện tượng của A-lại-da rồi, quý vị liền biết được công phu
thiền-định này sâu biết mấy! Tiêu chuẩn này của Bát-địa khó. Đại sư Huệ Năng
khai ngộ rồi, có chứng được Bát-địa hay không, điều đó rất khó nói. Bồ-tát ở Thật-báo-trang-nghiêm
độ, có 41 cấp bậc, từ Sơ-trụ đến Đẳng-giác, đều ở nơi này, Thật-báo độ. Đoạn hết
một phẩm tập-khí phiền-não sanh tướng vô-minh sau cùng rồi, sẽ không thấy thế
giới này, không còn nữa. Vậy thì xuất hiện thế giới nào? Thường-tịch-quang,
nhìn thấy Thường-tịch-quang rồi. Cõi Thường-tịch-quang, Đẳng-giác Bồ-tát cũng
không nhìn thấy, phải từ quả vị Đẳng-giác trở lên, đoạn hết một chút tập-khí
vô-minh sau cùng, thì Thường-tịch-quang hiện tiền rồi, không thấy Thật-báo độ nữa.
Cho nên Thật-báo độ không có sanh diệt, nó có ẩn hiện, có duyên thì hiện, không
có duyên thì ẩn rồi. Nó có ẩn hay không? Nó sẽ không thường ẩn, vì sao vậy?
Duyên đầy đủ, còn có Đẳng-giác Bồ-tát phải tu hành ở cõi này, trong Thường-tịch-quang
thì hiện Thật-báo độ, Như Lai trong Thường-tịch-quang hiện Báo-thân, Báo-thân,
Báo-độ, ở chung với những vị Bồ-tát minh tâm kiến tánh, giúp Bồ-tát thăng cấp.
Chúng ta hiểu
rõ, hiểu thông suốt những sự thật này thì phương châm của chúng ta, phương hướng
học tập, mục tiêu học tập sẽ được ổn định. Chúng ta có phương hướng, có mục
tiêu, đó chính là lão Hòa thượng Hải Hiền đã nói: Phải chuyên, phải nhất thì
quý vị có thể đạt được. Không thể chứng được quả vị cao nhất, thì Viên-giáo
Sơ-trụ là được rồi, Sơ-trụ như thế nào? Đến thế giới Cực Lạc theo A Di Đà Phật,
làm đệ tử của A Di Đà Phật. Ở thế giới Cực Lạc tốt, hoàn cảnh sinh sống, hoàn cảnh
cư trú, hoàn cảnh học tập vô cùng thù thắng, trong tất cả cõi nước chư Phật khắp
pháp-giới hư-không-giới, cõi nước tốt nhất là thế giới Cực Lạc của A Di Đà Phật.
Chúng ta thật may mắn, ngay trong đời này có cơ hội tốt như vậy, phải nắm bắt.
Phải buông xuống tất cả pháp thế gian và xuất thế gian, không buông xuống thì
tâm không chuyên, niệm không nhất, rất khó thành tựu; tâm phải chuyên, tâm phải
nhất, dễ dàng thành tựu. Chúng ta thấy lão Hòa thượng Hải Hiền, lão Hòa thượng
Hải Khánh, cũng thấy được mẹ của lão Hòa thượng Hải Hiền, các ngài làm biểu
pháp cho chúng ta, nếu quý vị thấy rõ rồi, hiểu thấu rồi thì buông xả vạn
duyên, vì sao vậy? Vì các ngài làm được, tôi cũng có thể làm được. Những việc
không làm được, những việc canh cánh trong lòng còn quá nhiều, nên không buông
xả được. Những việc canh cánh trong lòng đều là giả, không có gì là thật. Thật
thì không cần, lại cần cái giả, vậy thì chúng ta đáng phải chịu tội, quý vị có
thể trách người khác sao? Cho nên “diệu tuyệt tướng lụy”, thật vi diệu, “tuyệt”
là vĩnh viễn không còn chấp tướng, không còn phân-biệt tướng, không khởi tâm động
niệm nữa, đối với tất cả tướng đều không khởi tâm động niệm, người này liền
thành Phật, tối thiểu là Viên-giáo Sơ-trụ Bồ-tát, Biệt-giáo Sơ-địa, đạt đến cảnh
giới này rồi.
Đây là nghĩa của
chữ “tịch”. Trong ngoặc đơn có một câu: 微妙而斷絕諸相之累 “Vi diệu nhi đoạn tuyệt chư tướng chi lụy” (Đoạn tuyệt sự vướng mắt vào các tướng một cách vi
diệu), không còn chịu sự ảnh hưởng của nó nữa. Nghĩa của chữ “tịch” này nói rất
hay.
Tiếp theo,
trích dẫn Hiền Thủ Tâm Kinh Lược Sớ của Đại sư Hoa Nghiêm Hiền Thủ, chú giải
Bát Nhã Tâm Kinh nói rằng: 涅槃,此云圓寂 “Niết-bàn, thử vân viên
tịch” (Niết-bàn, ở đây gọi là
viên tịch). Viên là viên mãn, tịch là tịch diệt. 謂德無不備稱圓 “Vị đức vô bất bị xưng viên” (Nghĩa là: không đức nào không trọn đủ nên gọi là
viên), trong Kinh Bát Nhã thường nói: Trí huệ viên mãn, đức năng viên mãn, tướng
hảo viên mãn, ba sự viên mãn đều ở thế giới Cực Lạc. 障無不盡 “Chướng vô bất
tận” (Không chướng nào chẳng
hết sạch), tất cả chướng ngại đều không còn nữa. 大涅槃者,指大乘之涅槃,揀非小乘。大乘涅槃,具法身、般若、解脫之三德;有常、樂、我、淨之四義;離分段、變易二生死,具(具是具足)無邊之身智,是大乘涅槃 “Đại Niết-bàn giả, chỉ Đại-thừa chi
Niết-bàn, giản phi Tiểu-thừa. Đại-thừa Niết-bàn, cụ Pháp-thân, Bát-nhã, Giải-thoát
chi tam đức; hữu thường, lạc, ngã, tịnh chi tứ nghĩa; ly phân-đoạn, biến-dịch
nhị sanh tử, cụ (cụ thị cụ túc) vô biên chi thân-trí, thị Đại-thừa Niết-bàn” (Đại Niết-bàn
là chỉ Niết-bàn của Đại-thừa, phân biệt chẳng phải của Tiểu-thừa. Niết-bàn của
Đại-thừa, đầy đủ ba đức: Pháp-thân, Bát-nhã, Giải-thoát; có bốn nghĩa: thường,
lạc, ngã, tịnh; lìa hai loại: phân-đoạn-sanh-tử, biến-dịch-sanh-tử, cụ (cụ là đầy
đủ) thân-trí vô biên, là Niết-bàn của Đại-thừa). Quý vị đã đạt được tất cả rồi. Phân-đoạn-sanh-tử,
trong lục đạo có; biến-dịch-sanh-tử, trong lục đạo cũng có; người tu Nhị-thừa
có biến-dịch-sanh-tử, không có phân-đoạn-sanh-tử, lục đạo phàm phu có cả hai loại
sanh tử. Phân-đoạn là từng giai đoạn, từng giai đoạn, giống như chúng ta hiện
nay, từ khi ra đời đến lúc 80, 90 tuổi qua đời, một đoạn này, gọi là phân-đoạn.
Biến-dịch thì mỗi ngày đều có, chúng tôi dùng lời trong kinh để nói, chính là một
giây có 2 triệu 240 ngàn tỷ sanh diệt, đây là biến-dịch, nó đang thay đổi, thay
đổi từng thứ một, đây là biến-dịch-sanh-tử, biến-dịch-sanh-tử rất vi tế. Ai có?
A-la-hán trở lên đều có, cũng tức là Tứ-thánh pháp-giới trong mười pháp-giới
có, có biến-dịch-sanh-tử, không có phân-đoạn-sanh-tử; Thanh-văn, Duyên-giác, Bồ-tát,
Phật, đây là Tứ-thánh pháp-giới, hay nói cách khác, đây
là hiện tượng trong mười pháp-giới. Vãng sanh đến Thật-báo-trang-nghiêm độ của chư Phật Như Lai, thì không
còn hai loại sanh tử này nữa, gọi là Pháp-thân Bồ-tát. Vì vậy, đây là Niết-Bàn
của Đại-thừa. 至於二乘,則三德之中僅具解脫,四義之中唯常樂淨,但離分段,仍有變易生死,灰身滅智,是為小乘涅槃 “Chí ư Nhị-thừa, tắc tam đức chi
trung cận cụ giải thoát, tứ nghĩa chi trung duy thường lạc tịnh, đãn ly phân-đoạn,
nhưng hữu biến-dịch-sanh-tử, khôi thân diệt trí, thị vi Tiểu-thừa Niết-bàn” (Đối với
hàng Nhị-thừa, trong ba đức chỉ có Giải-thoát, trong bốn nghĩa chỉ có thường, lạc,
tịnh; chỉ lìa phân-đoạn-sanh-tử, vẫn còn biến-dịch-sanh-tử, khôi thân diệt trí,
là Niết-bàn của Tiểu-thừa). Ý nghĩa khác nhau. Người Tiểu-thừa có thường, có lạc, có tịnh, không có
ngã; trong thường lạc ngã tịnh thì ngã vẫn chưa đoạn. Đại-thừa đã đoạn rồi, sau
khi đoạn rồi, trong bốn loại, chân ngã hiện tiền, thường lạc ngã tịnh hiện tiền
rồi. Ngã có nghĩa là gì? Là đại tự tại. Người Tiểu-thừa thật sự được tiểu tự tại,
không được đại tự tại.
Đây là nguyện thứ 12: Nhất định
thành Chánh-giác. Niệm lão chú giải rất hay, trích dẫn kinh điển. Chúng ta đọc
rồi làm sao thực tiễn trong cuộc sống, trong công việc, trong đối nhân tiếp vật?
Hữu hiệu nhất, đơn giản nhất, chúng ta có thể làm được là nhất tâm chuyên niệm
A Di Đà Phật, trong tâm chỉ có A Di Đà Phật, ngoài A Di Đà Phật ra thì không có
gì cả, tốt!
Xem tiếp nguyện thứ 13 bên dưới,
cũng là nguyện vô cùng quan trọng, Đại sư Thiện Đạo gọi là năm nguyện chân thật,
nguyện thứ hai trong năm nguyện: “Quang minh vô lượng”, quang minh là trí huệ. Mời xem kinh văn:
【我作佛時。光明無量。普照十方。絕勝諸佛。勝於日月之明。千萬億倍。】 “Ngã tác Phật thời, quang minh vô lượng, phổ chiếu
thập phương, tuyệt thắng chư Phật, thắng ư nhật nguyệt chi minh, thiên vạn ức bội”
(Khi con thành Phật, quang minh vô lượng, chiếu
khắp mười phương, vượt hơn chư Phật, sáng hơn cả ánh sáng của mặt trời, mặt
trăng ngàn vạn ức lần).
Chương ở trang bên phải là “hữu chương”, hữu
chương là chương thứ bảy, trong chương này có hai nguyện, nguyện thứ 13: Quang
minh vô lượng, nguyện bên dưới, nguyện thứ 14: Tiếp xúc quang minh được an lạc. Chúng ta xem
nguyện thứ 13 trước. Đoạn trên nói rõ, “ngàn vạn ức lần”, 以上 “dĩ thượng” (trở lên), đoạn kinh văn này là nguyện thứ 13: Nguyện
quang minh vô lượng. 若有眾生以下,為第十四觸光安樂願。第十三與第十五壽命無量願,淨影稱為攝法身願,以其攝法身成就也。《甄解》以此二願,為真報身之德,又謂此光壽無量二願為方便法身大悲之本 “Nhược hữu chúng sanh dĩ hạ, vi đệ thập tứ xúc
quang an lạc nguyện. Đệ thập tam dữ đệ thập ngũ thọ mạng vô lượng
nguyện, Tịnh Ảnh xưng vi nhiếp Pháp-thân nguyện, dĩ kỳ nhiếp Pháp-thân thành tựu
dã. Chân Giải dĩ thử nhị nguyện, vi chân Báo-thân chi đức, hựu vị thử quang thọ
vô lượng nhị nguyện vi phương tiện Pháp-thân đại bi chi bổn” (Từ “nếu
có chúng sanh” trở xuống là nguyện thứ 14: Nguyện tiếp xúc quang minh được an lạc.
Nguyện thứ 13 và nguyện thứ 15: Nguyện thọ mạng vô lượng, ngài Tịnh Ảnh gọi là
nguyện nhiếp Pháp-thân, dùng sự nhiếp hóa này để thành tựu Pháp-thân. Sách Chân
Giải dùng hai nguyện này làm đức của
Báo-thân chân thật, lại nói hai nguyện quang thọ vô lượng này là gốc đại bi của
phương tiện Pháp-thân). Chúng
ta xem tiếp, 蓋無量壽則豎窮三際,佛身常住,眾生有依;無量光則橫遍十方,德用遍周,攝化無盡;故為大悲方便之本,報身之實德也 “cái vô lượng thọ tắc thụ cùng tam tế,
Phật thân thường trụ, chúng sanh hữu y; vô lượng quang tắc hoành biến thập phương, đức dụng biến chu, nhiếp
hóa vô tận; cố vi đại bi phương tiện chi bổn, Báo-thân chi thật đức dã” (bởi vì vô lượng thọ thì tận cùng ba đời theo chiều dọc, Phật thân thường trụ, thì chúng
sanh có nơi nương
tựa; vô lượng quang là biến khắp mười phương theo chiều ngang, đức dụng trọn khắp,
nhiếp hóa vô tận; cho nên gọi là gốc
của đại bi phương tiện, là thật đức của Báo-thân). Chúng ta đọc đến chỗ này.
Nguyện thứ 13 và nguyện thứ 15:
Quang minh vô lượng, thọ mạng vô lượng, đều là hai nguyện trong năm nguyện
chân thật do Đại sư Thiện Đạo nói. Tịnh Ảnh Sớ nói rất hay, quang minh vô lượng
là nguyện nhiếp Pháp-thân, vì sao vậy? Dùng sự nhiếp hóa để thành tựu
Pháp-thân, quang minh chính là Pháp-thân, chiếu khắp mọi nơi, khắp mọi lúc, không chỗ nào là không chiếu đến, Pháp-thân là Bản-thể của tất cả các pháp, tất cả các
pháp không thể rời khỏi Pháp-thân. Thể này không cách nào hình dung được, thời
của người xưa khó, hiện nay có khoa học kỹ thuật, những thứ này ở trước mắt
chúng ta, màn ảnh của tivi, màn hình của máy vi tính, chúng ta mở nó ra nhìn thấy
gì? Một vùng ánh sáng, rồi
bấm tín hiệu của nó thì hình ảnh hiện ra. Một vùng ánh sáng này ví như
Thường-tịch-quang, bấm chọn kênh chính là có thể sanh ra vạn pháp, vạn pháp là
giả, pháp sanh diệt, sát-na sanh diệt, quang minh là thật, quang minh không
sanh không diệt. Chúng ta không nhìn thấy sự sanh diệt của quang minh, thật ra
nó cũng là sanh diệt, chúng tôi ví nó như Thường-tịch-quang, Thường-tịch-quang
thật sự không sanh không diệt, ánh sáng của màn hình tivi, đó vẫn là pháp sanh
diệt, nhưng không dễ gì nhìn ra được, hình ảnh thì dễ dàng nhìn ra. Sanh diệt
và không sanh diệt hòa vào nhau, phàm phu chúng ta không có khả năng phân-biệt.
Ai có thể phân biệt? Người giác ngộ có thể phân-biệt, người giác ngộ phân-biệt biết
đó là giả, không bị quấy nhiễu. Phàm phu không biết nó là giả, nên bị quấy nhiễu,
quý vị nhìn thấy nó cười thì quý vị cũng cười, nó khóc thì quý vị cũng khóc,
quý vị bị nó quấy nhiễu rồi, quý vị bị nó ảnh hưởng; bị quấy nhiễu, bị ảnh hưởng
là sai rồi. Phật dạy chúng ta tu hành, chính là trong cảnh giới này, từ giả tướng
mà nhận thức được Bản-thể, nó có Bản-thể không sanh không diệt, đó là gì vậy?
Tánh. Ở đâu? Ở trong sáu căn. Trong Kinh Lăng Nghiêm, Thế Tôn khai thị cho vua
Ba Tư Nặc, đoạn kinh văn đó nói về đạo lý này. Đạo lý này rất khó nói, chứng
minh điều gì? Thân chúng ta là tướng sanh diệt, nhưng trong đó vẫn còn thứ
không sanh không diệt, đó là thật.
Ví dụ mà Phật nêu ra, mắt của quý vị thấy, công
năng nhìn thấy là thật, vì sao vậy? Vì nó không sanh không diệt, Phật nêu ra ví
dụ, hỏi vua Ba Tư Nặc: Lần đầu tiên ông nhìn thấy sông Hằng là bao nhiêu tuổi?
Ông nói lúc ba tuổi, mẹ dắt ông đến lạy thủy thần, đi ngang qua sông Hằng, lần
đầu tiên nhìn thấy. Phật liền dùng việc này để làm ví dụ, Phật nói: Ông lớn
thêm mười tuổi, năm 13 tuổi nhìn thấy sông Hằng này, sông Hằng thay đổi rồi, tướng
biến đổi rồi, Khả năng có thể thấy đó của ông có khác biệt hay không? Vua Ba Tư
Nặc nói: Không có khác biệt, con có thể nhìn thấy. Vậy thì năm 20 tuổi, 30 tuổi,
40 tuổi, đến hôm nay, bây giờ đã 62 tuổi, cái khả năng thấy của ông về sông Hằng
có khác hay không? Không khác. Còn cảnh giới bên ngoài? Cảnh giới bên ngoài
khác rồi, năm nào cũng có sự biến đổi. Bị biến đổi là giả, không biến đổi là thật.
Cho nên thân thể này của ông là giả, khả năng thấy, khả năng nghe, khả năng biết,
khả năng ngửi, khả năng nếm, căn tánh của sáu căn này là thật. Vì sao vậy? Vì
nó không bị cảnh giới bên ngoài ảnh hưởng. Tuổi tác của chúng tôi đã cao, mắt
không hữu dụng nữa, nhìn ra bên ngoài hoa cả mắt, nhìn không rõ, đó là gì? Đó
là căn, không phải tánh, căn có vấn đề rồi, chúng tôi đeo mắt kính chẳng phải
là rõ rồi sao? Đây không phải là vấn đề của tánh, tánh không có vấn đề, căn
cũng biến đổi theo tuổi tác. Vua Ba Tư Nặc nghe hiểu, hiểu rồi rất hoan hỷ, thì
ra tôi không sanh không diệt, thân thể của tôi có sanh diệt, tôi, căn tánh sáu
căn của tôi không sanh không diệt. Sanh diệt sẽ hư hoại, không sanh không diệt
sẽ không hư hoại, ông hiểu được đạo lý này.
Chúng ta xem, mắt có thể thấy, tai có thể nghe,
mũi có thể ngửi, lưỡi có thể nếm, thân có thể chạm, ý có thể biết, căn tánh của
sáu căn này chính là Chân-tánh, chính là Bản-tánh. Nếu không bị ô nhiễm, thật sự
buông bỏ vọng-tưởng, phân-biệt, chấp-trước thì năng lượng căn tánh của sáu căn
này là vô lượng trí huệ, vô lượng đức năng, vô lượng tướng hảo. Nó không mất
đi, chỉ là trước mắt có chướng ngại, chướng ngại chính là phiền-não tập-khí, phiền-não
tập-khí nảy sinh là do không hiểu rõ chân tướng, không hiểu rõ là mê hoặc, mê
hoặc thì không có trí huệ, từ đây mà nảy sinh ra. Vì sự mê hoặc này, nên họ tạo
nghiệp, nghiệp có nhiễm và tịnh, có thiện và ác. Hoàn toàn tu tịnh nghiệp, xa
lìa tất cả sự ô nhiễm, tốt! Đây chính là Bồ-tát, Nhị-thừa. Nếu bị ô nhiễm rồi,
trong ô nhiễm có thiện ác, trong thanh tịnh không có thiện ác, trong ô nhiễm có
thiện ác, thiện thì đến ba đường thiện trong lục đạo, ác thì tạo thành ba đường
ác trong lục đạo. Do đó, lục đạo từ đâu mà có? Lục đạo từ ô nhiễm mà có. Cái gì
ô nhiễm? Ý ô nhiễm rồi, ý-thức-thứ-sáu ô nhiễm, Mạt-na ô nhiễm rồi. Mạt-na là gốc
rễ của sự ô nhiễm, căn nguyên của sự ô nhiễm, ảnh hưởng đến ý-thức-thứ-sáu, tạo
nghiệp rồi. Cho nên Mạt-na gọi là ý ô nhiễm, thức-thứ-bảy, nó ô nhiễm, bản thân
của nó là gì? Tứ đại phiền-não luôn bên mình, ý căn là tứ đại phiền-não biến hiện
ra. Thứ nhất là ngã, chấp-trước có ngã, có ngã thì có ngã ái, ngã ái là tham;
ngã mạn, ngã mạn là sân; ngã si, si là ngu si, tam độc phiền não, còn có nghi
ngờ, nghi ngờ là gì? Nghi ngờ là gốc của ngu si.
Chúng ta tu hành phải nắm được gốc rễ, tìm được
gốc rễ rồi, bắt tay từ gốc rễ thì rất nhanh, hữu hiệu. Không nghi ngờ, anh gạt
tôi, gạt tôi cũng không nghi ngờ. Quý vị xem Hòa thượng Lão Đức, có một đoạn đã
viết rất rõ, người ta gạt ngài, tảng đá này có Phật, ngài thấy Phật thì lạy Phật,
không có Phật thì ngài không lạy, người ta nói trên tảng đá này có Phật, kêu ngài
dập đầu với tảng đá, ngài dập đầu thành một cục u lớn, con người thật thà đến
thế; nói phân bò, trong phân bò có Phật, ngài dập đầu đến nỗi cả đầu đều là
phân bò. Con người đần độn như vậy! Ngài thật sự thành Phật rồi. Ngài thành Phật
cũng không thể nghĩ bàn, đều là biết trước ngày giờ, tự tại vãng sanh. Vãng
sanh hai năm rồi, những người ở thôn quê này, có một hôm ở Hán Khẩu, trên đường
đi gặp ngài, trên đường phố (đường đi) gặp ngài, ngài vẫn là hình dáng cũ, vác
một túi vải, giống như Hòa thượng Bố Đại vậy, vác một túi vải đến khắp nơi hóa
duyên. Người thôn quê liền hỏi ngài, đều gọi ngài là Hòa thượng Lão Đức, Hòa
thượng Lão Đức quay lại nhìn, họ nói sao ngài ở chỗ này? Hóa duyên! Cùng con trở
về nhà được không? Mọi người về trước đi, qua vài ngày tôi mới về. Trở về quê
nhà, những người này kể lại việc gặp được ngài Lão Đức ở Vũ Hán cho mọi người
nghe, điều này kỳ lạ, ngài Lão Đức đã viên tịch hai năm trước rồi, sao có thể gặp
được? Không phải một mình anh ấy nhìn thấy, có vài người cùng lúc nhìn thấy,
đúng là ngài. Lại đi đào phần mộ lên, trong phần mộ không thấy ngài, chứng minh
anh ta nhìn thấy là thật, không phải hoa mắt. Đây là gì vậy? Không nghi ngờ.
Không nghi ngờ là họ không ngu si, người thông thường chúng ta nhìn thấy ngài hình
như đần độn, nhưng ngài không ngu si, ngài thật sự có trí huệ. Người khác cho rằng
ngài là Hòa thượng đần, thường làm trò đùa để trêu chọc ngài, ngài hoàn toàn
cho là thật. Cả đời chưa từng nghi ngờ, đối với tất cả mọi người, tất cả việc
và vật đều không nghi ngờ. Không nghi ngờ chính là trí huệ chân thật, phàm phu
không biết, không có ngạo mạn thì không có sân hận; tâm sân, tâm sân chính là
ngạo mạn, trung tâm của tham là tình chấp, vì vậy đoạn tham, sân, si thì đoạn từ
đâu? Đoạn tham từ trong tình chấp, đoạn sân từ trong ngạo mạn, đoạn si từ không
nghi ngờ. Điều này rất quan trọng.
Ngài Tịnh Ảnh gọi là nguyện nhiếp Pháp-thân,
dùng sự nhiếp hóa này để thành tựu Pháp-thân. Sách Chân Giải lấy hai nguyện này
làm đức của Báo-thân chân thật, chính là hai nguyện “quang minh vô lượng” và
“thọ mạng vô lượng”, quang minh là Trí-huệ-thân, thọ mạng vô lượng là
Pháp-thân, Pháp-thân quang minh vô lượng, thọ mạng vô lượng, tuy là không có
hình tướng, nhưng có thể hiện tất cả hình tướng, có thể hiện ra vạn pháp. Khi Đại
sư Huệ Năng khai ngộ nói rất hay, bốn câu đầu là hình dung về lý thể của
Pháp-thân, câu sau cùng là nói tác dụng của Pháp-thân. Tác dụng, có thể sanh ra
vạn pháp; lý thể, thanh tịnh. Câu đầu tiên là “nào ngờ Tự-tánh vốn tự thanh tịnh”,
thứ nhất là thanh tịnh, thứ hai là không sanh không diệt, “vốn không sanh diệt”,
thứ ba là “vốn tự sẵn đủ”, chính là Pháp-thân có đủ tất cả trí huệ, đức năng,
tướng hảo, không phải từ bên ngoài mà có. Cho nên trong kinh Đại-thừa có một
câu nói: “Ngoài tâm không có pháp”, câu này nói rất hay, tất cả các pháp đều từ
tâm mà tự nhiên hiện tiền. Câu thứ tư “vốn không dao động”, đây chính là định,
Tự-tánh vốn định, chưa từng dao động, chưa từng lung lay. Điều này khiến chúng
tôi nghĩ đến, vì sao tám vạn bốn ngàn Pháp môn, vô lượng Pháp môn đều tu định,
chính là tu “vốn không dao động”, định đến sau cùng tương ưng với “vốn không
dao động”, chính là trở về Tự-tánh vốn định, câu này chính là Tự-tánh vốn định.
Quý vị cần phải trở về Tự-tánh vốn định, thì trí huệ của Tự-tánh, đức năng, tướng
hảo của Tự-tánh liền có thể hiện tiền, quý vị sẽ được đại tự tại, độ hóa chúng
sanh trong mười pháp-giới không có chướng ngại, bất luận là chúng sanh hỏi vấn
đề gì quý vị đều có thể giải đáp, đây là trí huệ mà Tự-tánh vốn sẵn đủ, thần
thông vô lượng vô biên, không có chướng ngại. Cho nên từ những kinh điển này,
chúng ta gộp lại để xem thì có thể lãnh hội được Phật pháp Đại-thừa là lấy minh
tâm kiến tánh làm điểm cuối của việc học tập, minh tâm kiến tánh thì tốt nghiệp
rồi, chính là đưa quý vị trở về Tự-tánh. Phật có cho chúng ta pháp gì không?
Không có, kiến tánh mà quý vị chứng được toàn là do Tự-tánh vốn có. Phật không
có pháp nào có thể cho người khác, tất cả các pháp mà Phật đã thuyết, thì ra là
Tự-tánh vốn tự sẵn đủ, kiến tánh thì khai phá ra, điểm này quan trọng hơn hết.
Cho nên trong sách Chân Giải nói, quang thọ vô
lượng, quang vô lượng, thọ vô lượng, là gốc của đại bi phương tiện Pháp-thân,
phương tiện Pháp-thân chính là Báo-thân, cũng có thể gọi là Ứng-hóa-thân, tất cả
đều là phương tiện Pháp-thân, đại từ đại bi độ Bản-thể của chúng sanh, thật đức
của Báo-thân. 故知願中自誓光壽無量,實為一切眾生悉皆光壽無量 “Cố tri nguyện trung tự thệ quang thọ vô lượng, thật vị
nhất thiết chúng sanh tất giai quang thọ vô lượng” (Cho
nên biết được thệ nguyện quang thọ vô lượng, thật sự vì giúp cho tất cả chúng
sanh đều được quang thọ vô lượng), ý nghĩa của câu nói này rất sâu. Ngài Pháp Tạng phát hai thệ nguyện này:
Quang minh vô lượng, thọ mạng vô lượng, thật ra là làm tấm gương cho tất cả
chúng sanh. Vì sao vậy? Ngài giác ngộ rồi, chúng sanh chưa giác ngộ, chúng sanh
và Phật là một thể, chúng sanh và Phật không hai. Quang thọ của Phật vô lượng,
quang thọ của tất cả chúng sanh cũng vô lượng, không có ngoại lệ, gặp được A Di
Đà Phật thì giống như thấy được Pháp-thân của chính mình, vạn đức vạn năng,
không cách nào hình dung được. Khi nào mới chứng được? Vãng sanh đến thế giới Cực
Lạc liền chứng được. Vậy có thể không vãng sanh sao?
Đại đức cổ xưa, những vị thiện tri thức tiền bối
đều dạy chúng ta, nhắc nhở chúng ta, nếu như đời này không thể vãng sanh Tịnh-độ,
thì quý vị có thể giữ được thân người hay không? Làm thế nào giữ được thân người?
Cả đời của quý vị giữ Ngũ giới Thập thiện đều có thể đạt được 60, 70 phần trăm thì
quý vị được thân người; đạt được 80, 90 phần trăm thì quý vị có thể sanh lên trời,
trời Dục-giới, quý vị không ra khỏi lục đạo luân hồi. Được phước báo trời người,
quý vị thử nghĩ xem mình còn bị mê hoặc hay không? Đây là sự thật. Nếu như sau
khi được thân người lại mê rồi, khi còn nhỏ không có hoàn cảnh tốt, không gặp
được Phật pháp thì quý vị sẽ bị đọa lạc. Kiến-tư phiền-não của con người rất dễ
khởi hiện hành, lục đạo phàm phu không khống chế được, thân-kiến, biên-kiến, kiến-thủ,
giới-thủ (người nước ta gọi là thành kiến, thành kiến là tự cho mình là đúng),
tà-kiến, có thể đoạn được không? Tư-hoặc là tham sân si mạn nghi, hễ nhiễm phải
những điều này thì tạo nghiệp, tạo nghiệp thiện, không rời khỏi ba đường thiện;
tạo ác, không rời khỏi ba đường ác. Ba đường thiện, ba đường ác đều để tiêu
nghiệp, ba đường thiện tiêu phước báo, tiêu nghiệp thiện; ba đường ác là tiêu
nghiệp ác.
Không thể tạo nghiệp, câu “không thể tạo nghiệp”
này nói rất dễ, nhưng không dễ gì làm được. Chúng ta thử hỏi xem, có thể tha thứ
cho người đã hãm hại ta, người đã sỉ nhục ta, người đã hủy báng ta hay không?
Có thể không? Không thể, không thể thì oan oan tương báo. Nhất định phải tha thứ
cho họ, vì sao phải tha thứ cho họ? Vì họ là phàm phu, họ không hiểu rõ chân tướng
sự thật. Chân tướng là gì? Chân tướng là giả. Tôi, bạn và họ đều là giả, không
phải là thật. Quý vị hãm hại thế nào cũng chỉ là hãm hại thân giả, không thể
hãm hại linh-tánh. Linh-tánh là thật, linh-tánh không sanh không diệt, đó là
chân-ngã, tương ưng với Tự-tánh, thân này không tương ưng với Tự-tánh. Tám thức
và 51 tâm-sở đều không phải là thật, là ảo tướng biến hiện ra do mê mất
Chân-tánh. Ai mê vậy? Chính mình mê rồi. Hay nói cách khác, tất cả đều là tự
làm tự chịu, sao quý vị có thể trách người khác chứ? Quý vị thật sự thấy rõ, thấy
tường tận, đối với tất cả những người hãm hại ta, thậm chí như vua Ca Lợi cắt đứt
thân của tiên nhân, cũng cười rồi bỏ qua thôi. Nhẫn Nhục tiên nhân cảm tạ vua
Ca Lợi, vì sao lại cảm tạ? Vua giúp Ngài sớm được thành Phật. Nhẫn nhục tiên nhân chính là tiền thân
của Thích Ca Mâu Ni Phật, vua Ca Lợi thành tựu Thích Ca Mâu Ni Phật, giúp
cho Thích Ca Mâu Ni Phật thành Phật sớm hơn. Cho nên Thích Ca Mâu Ni Phật phát
nguyện, sau này ta thành Phật thì độ ngài đầu tiên. Ngài là Tôn giả Kiều Trần
Như – đệ tử của Thế Tôn, Phật giữ lời hứa, năm vị Tỳ-kheo ở vườn Lộc Uyển, ngài
là người đầu tiên khai ngộ khi Phật thuyết Pháp môn Tứ-đế, chứng quả A-la-hán.
Cho nên không thể oán trách người khác, điều này
quan trọng hơn hết. Học Phật mà không thể thông qua ải này, thì quý vị gặp khó
khăn rồi! Ải nào cũng phải vượt qua, thật sự giống như chư Phật Như Lai đại từ
đại bi, thương xót tất cả chúng sanh. Tất cả chúng sanh vốn là Phật, do mê mất
Tự-tánh mà trở thành như vậy. Giống như đứa trẻ không hiểu chuyện, lấy nắm đấm
để đấm quý vị vài cái, quý vị vẫn đánh một trận với chúng sao? Quý vị 80 tuổi rồi,
chúng mới ba tuổi, ông cụ 80 tuổi sẽ đánh nhau với đứa trẻ ba tuổi sao? Không
thể nào. Vì vậy, người học Phật khác với người không học Phật, người học Phật
hiểu rõ chân tướng sự thật, điều này cao minh, thật sự thấu triệt. Người thế
gian đạt đến cảnh giới cao nhất, chẳng qua là nhận biết nhân quả, không tạo tội
nghiệp, vì sao tôi tha thứ cho họ? Để tránh sau này phải oan oan tương báo, đây
là Thánh hiền ở thế gian. Thánh hiền xuất thế gian hoàn toàn là một thể. Răng cắn
trúng lưỡi rồi, lưỡi vẫn tìm răng để tính sổ sao? Điều này không thể nào, vì
sao vậy? Là một thể. Từ đâu thấy được một thể? Nhớ kỹ một câu nói của Lục Tổ:
“Nào ngờ Tự-tánh có thể sanh ra vạn pháp”, đây là một thể, vạn pháp là cả vũ trụ,
từ đâu có? Tự-tánh sanh ra. Phải thừa nhận điều này, tất cả chúng sanh với ta
là một thể, tâm từ bi từ Tự-tánh lưu lộ ra, thật sự yêu thương, thật sự yêu
thương cả người hại ta, họ mê rất sâu nên đáng thương vô cùng, ta mê ít hơn họ,
vậy ta phải tha thứ cho họ. Nếu họ không tha thứ cho ta, họ vẫn tiếp tục hãm hại
thì cứ mặc họ. Hại chết rồi rất tốt, vì sao? Được đến thế giới Cực Lạc rồi, quý
vị xem họ làm việc tốt, đưa tiễn tôi đến thế giới Cực Lạc sớm hơn. Lúc nào cũng
chỉ có từ “cảm ơn” này, không có oán hận. Quý vị hiểu rõ chân tướng sự thật thì
tâm cảm ơn sẽ sanh khởi. Quý vị nói xem học Phật có lợi ích gì? Lợi ích chính
là điều này, thật sự hiểu rõ, thông suốt thật tướng các pháp.
Tiếp theo, Niệm lão trích dẫn Luận Vãng Sanh,
câu nói này cũng rất hay, 《往生論》云:三種莊嚴入一法句。一法句者,謂清淨句 “Vãng Sanh Luận vân: Tam chủng trang nghiêm nhập nhất pháp cú. Nhất
pháp cú giả, vị thanh tịnh cú” (Luận
Vãng Sanh nói: Ba loại trang nghiêm nhập một câu pháp, một câu pháp gọi là câu
thanh tịnh), câu thanh tịnh chính là trí huệ chân thật,
Pháp-thân vô vi. Chúng ta rất quen thuộc về Luận Vãng Sanh, ba loại trang
nghiêm này là y-báo trang nghiêm, có 17 loại, chánh-báo có khách có chủ, chủ là
Phật, A Di Đà Phật, có 8 loại, khách là Bồ-tát, mỗi vị Bồ-tát vãng sanh đến thế giới Cực Lạc,
có 4 loại, tổng cộng là 29 loại. Thế giới Cực Lạc vô cùng thù thắng trang
nghiêm, trong Luận Vãng sanh, Thiên Thân Bồ-tát đã tổng kết thành ba loại trang
nghiêm lớn, chính là ba loại, y-báo, chánh-báo: thầy, học trò; trong chánh-báo
có thầy, có học trò. Tu Tịnh-độ phải cẩn thận kỹ càng, thế giới Cực Lạc thật sự
giống như trường học, trường học thập toàn thập mỹ. Thế giới Cực Lạc không có tổ
chức của chính phủ, không có Thượng Đế, không có tổng thống, cũng không có sĩ
nông công thương, trong kinh không có nói. Cho nên thế giới Cực Lạc chỉ có hai
kiểu người: Một là thầy, hai là học trò; thầy là A Di Đà Phật, học trò là mười
phương thế giới, nghe được Phật Bồ-tát giảng kinh thuyết pháp, giới thiệu thế
giới Cực Lạc, nhận biết được rồi, thật tin, phát nguyện cầu sanh, những người
vãng sanh đến thế giới Cực Lạc là học trò trong chánh-báo. Vô cùng thù thắng
trang nghiêm, hết sức tốt đẹp, không cách nào hình dung được, Phật cũng nói không hết, nhưng tổng
quy “nhập một câu pháp”, một câu pháp này chính là trí huệ chân
thật, Pháp-thân vô vi, 全歸真實智慧無為法身 “toàn
quy chân thật trí huệ vô vi Pháp-thân” (toàn bộ quy về trí huệ chân thật, Pháp-thân vô vi),
nhiếp trọn rồi.
故《甄解》曰:若約佛所證,則四十八願皆入光壽法身 “Cố
Chân Giải viết: Nhược ước Phật sở chứng, tắc tứ thập bát nguyện giai nhập quang
thọ Pháp-thân” (Cho
nên sách Chân Giải nói: Nếu giản lược lại những điều Phật đã chứng thì 48 nguyện đều nhập quang thọ Pháp-thân).
Quang là thân trí huệ, thọ
là thân hình tướng, có hình tướng hay không? Có, hình tướng này không phải là
tướng-phần của A-lại-da. Chúng sanh trong mười pháp-giới, bao gồm Phật Bồ-tát
trong mười pháp-giới, thân tướng đều là tướng-phần của A-lại-da, cảnh-giới-tướng
của A-lại-da. Thế giới Cực Lạc không có, vãng sanh đến thế giới Cực Lạc, thể chất
chuyển biến rồi, chuyển biến ở đâu? Chúng tôi nghĩ chắc hẳn là chuyển biến
trong hoa sen.
Mỗi người vãng sanh, chúng tôi đọc được, lãnh hội
được những lời trong kinh, tối thiểu đều gặp được A Di Đà Phật ba lần. Nếu quý
vị không gặp được A Di Đà Phật, quý vị không biết thế giới Cực Lạc ở đâu, thì
quý vị tìm không được, nhất định cần Phật đến tiếp dẫn. Lần gặp đầu tiên, là
công phu niệm Phật của quý vị đạt được tiêu chuẩn nhất định, Phật tiếp nhận rồi, đây là gì? Là công phu thành phiến, đức Di Đà hiện thân
cho quý vị thấy, đến truyền tin cho quý vị, nói cho quý vị biết, thọ mạng của
quý vị còn bao lâu nữa, đến lúc đó Phật sẽ đến tiếp dẫn. Tâm của quý vị an định
rồi, thế giới Cực Lạc đã ghi tên rồi, báo danh rồi, đây là lần đầu tiên gặp Phật.
Lần thứ hai gặp Phật, khi thọ mạng sắp hết, Phật đến thông báo cho quý vị, giao
ước thời gian với quý vị, ngày nào đó đến gặp quý vị, thậm chí còn nói rõ là mấy
giờ mấy phút. Lần thứ ba gặp Phật là Phật đến tiếp dẫn quý vị. Đây đều là trong
Kinh Lăng Nghiêm nói, hiện tiền thấy Phật, “nhớ Phật niệm Phật, hiện tiền tương
lai, nhất định thấy Phật”. Khẳng định có ba lần. Lần thứ hai đến thông báo,
giao ước thời gian với quý vị, nhiều nhất là ba tháng, ít nhất là bảy ngày. Một
tháng, bảy ngày là chuyện rất bình thường, thường thấy được. Ba tháng thì tương
đối ít một chút, có, chúng tôi thấy rồi. Khi tôi ở Singapore, lão lâm trưởng Trần
Quang Biệt của Cư Sĩ Lâm, ông biết trước thời gian ba tháng, ông viết vào tờ giấy
là mùng bảy tháng tám, ngày vãng sanh của ông, ông đã viết mười mấy lần, không
ai dám hỏi ông, chính là vãng sanh vào ngày đó, ông viết hồi ba tháng trước.
Tương lai thấy Phật, là vãng sanh đến thế giới Cực Lạc, hoa nở thấy Phật, đó là
tương lai. Ba lần đầu gặp Phật là khi quý vị vẫn còn hơi thở, vẫn còn sống
trong thế gian này, Phật đến thông báo với quý vị.
Trong đĩa phim lão Hòa thượng Hải Hiền, chúng
tôi nhìn thấy rất rõ, nghe giảng cũng rất rõ ràng. Công phu của ngài đến nơi đến
chốn rồi, vô cùng hiếm có, một câu Phật hiệu, đoạn hết kiến-tư, trần-sa,
vô-minh phiền-não rồi, không phải là hàng phục, mà ngài đoạn hết rồi, đại triệt
đại ngộ, minh tâm kiến tánh, Tịnh-độ tông nói là lý-nhất-tâm-bất-loạn. Khi nào
thì đạt được? Tôi xem đi xem lại, xem tới xem lui, xem vài chục lần, tôi cho rằng
vào khoảng 40 tuổi. Được lý-nhất-tâm-bất-loạn, nghĩ Phật thì Phật hiện tiền.
Cho nên ngài đã gặp Phật bao nhiêu lần? Cách nói bảo thủ nhất của tôi, chắc chắn
là hơn mười lần. Trong cảnh giới của ngài, muốn gặp Phật thì Phật hiện tiền. Phật
hiện tiền phải biết là “đương xứ xuất sanh, tùy xứ diệt tận”, Phật ở đâu? Phật
không rời khỏi chúng ta, Phật là Thường-tịch-quang, Thường-tịch-quang chiếu khắp
mọi lúc, khắp mọi nơi, quý vị nghĩ đến Phật thì Phật liền hiện tiền, quý vị
không nghĩ đến Phật thì Phật biến mất, không thấy nữa. Cho nên chính ngài cũng
nói: Nhiều lần thỉnh cầu Phật dẫn ngài đi, nhưng Phật không dẫn ngài đi. A Di
Đà Phật nói với ngài: Con tu rất tốt, tu rất tốt, ở thế gian này thêm vài năm,
làm tấm gương sáng cho mọi người, làm biểu pháp, làm tấm gương sáng cho người học
Phật, làm tấm gương sáng cho người tu Tịnh-độ cầu vãng sanh, làm tấm gương mẫu
mực.
Cho nên tôi xem đĩa phim của ngài, đã xem ba
mươi mấy lần rồi, tôi liền nói với mọi người, đĩa phim này chính là Kinh Vô Lượng
Thọ, là tổng kết của Kinh Vô Lượng Thọ. Chúng ta phải dùng tâm thái này để xem,
đó không chỉ là đĩa phim thông thường, không phải là khai thị thông thường. Mỗi
ngày xem ba lần, một năm không gián đoạn thì xem được một ngàn lần rồi, đọc
sách ngàn lần, tự hiểu nghĩa kia, một ngày niệm mười ngàn tiếng Phật hiệu, thời
gian một năm, ta nắm chắc phần vãng sanh thế giới Cực Lạc rồi. Điều này rất hiếm
có! Pháp hỷ sung mãn, vô cùng hoan hỷ. Tôi khuyên mọi người, đây là thật, không
phải là giả, đến khi quý vị xem hiểu đĩa phim đó rồi, nhận ra rồi, thì quý vị sẽ
biết lời tôi nói là thật.
Phía dưới trích dẫn sách Chân Giải, Tổ sư Tịnh tông
Nhật Bản nói, “nếu giản lược những điều Phật đã chứng thì 48 nguyện đều nhập
quang thọ Pháp-thân”, phải lãnh hội ý này một cách cẩn thận kỹ càng. 蓋謂極樂依正,只是彌陀法身之流現也 “Cái vị Cực Lạc y chánh, chỉ thị Di Đà Pháp-thân chi lưu
hiện dã” (Bởi vì nói y-báo, chánh-báo của thế giới Cực Lạc chỉ là
do Pháp-thân của đức Di Đà lưu hiện), là thật, không phải giả, đây là chân tướng sự thật. Trái đất, hệ Mặt Trời,
hệ Ngân hà, vũ trụ này của chúng ta hiện nay, là Pháp-thân của chính mình lưu
hiện. Chúng ta có Pháp-thân hay không? Có, nhưng mê mà không giác, không phải
là mê rồi thì không có, vẫn có! Chúng ta mê hoặc điên đảo, đặc biệt là kiến-tư phiền-não,
quan điểm sai lầm, là kiến-hoặc; cách nghĩ sai lầm, là tư-hoặc, chính là do kiến-tư
phiền-não biến hiện ra lục đạo luân hồi, chúng ta bị nhốt trong lục đạo không
thể ra khỏi, càng rơi càng sâu. Tám vạn bốn ngàn Pháp môn cứu không nổi, trên
nguyên lý mà nói thì không thành vấn đề, bất kỳ pháp nào chỉ cần chuyên nhất
thì có thể minh tâm kiến tánh. Nhưng một người, dùng sự chuyên và nhất quá ít rồi,
không thể nói là không có. Có người như vậy nhưng họ không nói, người chân thật
tu hành, họ xa cách thành thị, đi vào trong núi sâu rồi, ở trong sơn động, sống
đời sống của người nguyên thủy, họ được đại tự tại, tôi tin rằng người như vậy
không ít, họ vẫn ở thế gian này của chúng ta. Họ thật tu, chúng ta được thơm lây,
chúng ta được phước báo từ họ, vì sao? Trên thế giới có nhiều người tạo tội
nghiệp nặng như vậy, vẫn có thể tồn tại, nhờ ai? Nhờ những người tu hành ấy. Nếu
không có những người tu hành ấy, thì những tai nạn nghiêm trọng sẽ hủy diệt
loài người. Chúng ta phải cảm ơn những người chân thật tu hành ấy. Người hiện
nay không chỉ không cảm ơn mà còn hủy báng, vừa rồi tôi đã nói, hủy báng họ, họ
vẫn đại từ đại bi, tuyệt đối không giảm bớt phần nào, đây là Phật Bồ-tát, đây
là người thật sự giác ngộ.
故四十八願全顯法身 “Cố tứ thập bát nguyện toàn hiển Pháp-thân” (Cho
nên 48 nguyện toàn hiển hiện Pháp-thân). Nhà cơ học lượng tử ngày nay nói cho chúng ta biết, niệm
lực không thể nghĩ bàn. 48 nguyện toàn hiển hiện Pháp-thân, toàn là nhờ nguyện
lực của đức Di Đà, cũng tức là niệm lực của 48 nguyện đó. Tự-tánh lưu hiện ra,
chính là thế giới Cực Lạc, bốn cõi ba bậc chín phẩm, tiếp dẫn tất cả chúng sanh
hữu duyên ở khắp pháp-giới hư-không-giới. Thế nào gọi là hữu duyên? Quý vị tin
tưởng, không nghi ngờ, quý vị thật làm, chính là người hữu duyên, trong đời này
chắc chắn vãng sanh. Còn nghi ngờ, không muốn tu Pháp môn này, là vô duyên với
A Di Đà Phật. Vô duyên, thì Phật sẽ kết duyên với quý vị, kết duyên thế nào? Đời
này của quý vị, nghe được một tiếng Phật hiệu, A Di Đà Phật, thấy được kinh điển
của A Di Đà Phật, thấy được tượng A Di Đà Phật, gọi là 一歷耳根,永為道種 “nhất lịch nhĩ căn, vĩnh thành đạo chủng” (một
khi nghe qua tai, mãi thành hạt giống đạo), trong A-lại-da thức có A Di Đà Phật, đây là gieo hạt giống,
đời sau lại được thân người, lại gặp được Phật pháp, quý vị sẽ được thăng cấp,
lòng tin tăng trưởng rồi. Cho nên mọi lúc mọi nơi, hết thảy đều là Phật đang tiếp
dẫn chúng sanh, đang giúp đỡ chúng sanh. Ân đức này không thể nào hình dung được,
còn ân đức nào lớn hơn ân đức này chứ? Tìm không được ân đức nào lớn hơn. Thời
gian hôm nay hết rồi, chúng ta học tập đến đây thôi.
(Hết tập 177)
Nguyện đem công đức này
Hướng về khắp tất cả
Đệ tử cùng chúng sanh
Đều sanh nước Cực Lạc
Sớm viên thành Phật quả
Rộng độ khắp chúng sanh.
Nam Mô A Di Đà Phật.