TỊNH ĐỘ ĐẠI KINH KHOA CHÚ 2014 (Giảng
lần thứ 4)
PHẨM THỨ 6: PHÁT ĐẠI THỆ NGUYỆN
Phát Thệ Nguyện Rộng Lớn
Tập 197
Hòa thượng Tịnh Không chủ giảng.
Giảng tại: Hiệp Hội Giáo Dục Phật Đà Hồng Kông.
Thời gian: Ngày 14 tháng 6 năm
2015.
Ban biên dịch: Hoa Tạng Huyền Môn.
Dịch giả: Diệu Hiệp.
Kính chào chư vị Pháp sư, chư vị đồng học, mời an tọa. Thỉnh mọi người cùng
tôi quy y Tam Bảo: A-xà-lê tồn niệm, ngã đệ tử Diệu Âm, thỉ tùng
kim nhật, nãi chí mạng tồn, quy y Phật Đà, lưỡng túc trung tôn, quy y Đạt Ma,
ly dục trung tôn, quy y Tăng Già, chư chúng trung tôn. (3 lần)
Mời xem Đại Kinh Khoa
Chú, trang 501, đếm ngược đến hàng thứ ba, bắt đầu xem từ câu cuối cùng:
行道,經行也。乃天台常行之三昧。乃於行道時誦經也 “Hành đạo, kinh hành dã, nãi
Thiên Thai thường hành chi tam-muội, nãi ư hành đạo thời tụng kinh dã” (Hành đạo nghĩa là kinh hành, là tam-muội mà Thiên Thai tông thường thực
hành, là tụng kinh vào lúc hành đạo). Nhà Thiên Thai ở núi Thiên Thai tỉnh Triết Giang, các vị Tổ sư Đại đức
xưa đề xướng hành đạo tụng kinh. Việc hành đạo này, người thế gian chúng ta gọi
là tản bộ, là sự vận động rất tốt, niệm chú, tụng kinh vào lúc tản bộ. Hiện nay
rất đáng để đề xướng, người hiện nay công việc bận rộn, rất ít vận động, cho
nên việc hành đạo này có lợi ích rất lớn đối với rèn luyện thân thể. Đặc biệt
là lúc hành đạo, không có tạp-niệm, không có vọng-tưởng, khoa học kỹ thuật hiện
nay tiến bộ, có thể nghe kinh, chuyển Kinh Pháp Hoa, Kinh Hoa Nghiêm thành sách
nói, khi kinh hành có thể nghe kinh. Kinh hành một tiếng, một tiếng rưỡi, đối với
thân tâm đều tốt, một tiếng rưỡi này hoàn toàn đang nghe kinh, công đức nghe
kinh và đọc kinh là như nhau. Dùng phương pháp này tốt, vì sao vậy? Không đọc
sót, không đọc sai kinh. Một bộ kinh, có dài và ngắn khác nhau, ngắn thì nửa tiếng,
mấy chục phút, dài thì không nên hơn hai tiếng. Phương pháp này đáng để đề xướng,
rất dễ áp dụng.
Tiếp theo giảng về 鐘 “chung”, chuông, tiếng Phạn gọi
là kiền-chùy, đây là dịch ra từ tiếng Ấn Độ, là pháp khí trong nhà Phật, hoặc
chúng ta gọi đó là nhạc cụ, nhạc cụ sử dụng trong tán tụng, có chuông, có trống.
乃鳴集之法器 “Nãi minh tập chi pháp
khí” (Là pháp khí của tín hiệu tập hợp), đánh chuông là tập hợp
đại chúng, giống như vào lớp ở trường học vậy, thông báo cho học sinh mau chóng
vào lớp. Đánh chuông lại có công đức thù thắng. Trong Kinh Tăng Nhất A Hàm nói:
若打鐘時,一切惡道諸苦,並得停止 “Nhược đả chung thời, nhất
thiết ác đạo chư khổ, tịnh đắc đình chỉ” (Vào lúc đánh chuông, tất
cả nỗi khổ trong đường ác, đều được dừng lại). Chúng sanh trong ba đường ác
nghe được tiếng chuông, họ có thể tạm dừng chịu khổ. Trong quyển thứ sáu của Phật
Tổ Thống Ký có vài câu như vầy: 人命將終,聞鐘磬聲,增其正念 “Nhân mạng tương chung,
văn chung khánh thanh, tăng kỳ chánh niệm” (Người sắp mạng chung,
nghe tiếng chuông khánh, tăng thêm chánh niệm của họ). Cho nên khi trợ niệm phải
có mõ, phải có khánh, hai loại này là đủ rồi, khánh là thuộc về chuông khánh,
mõ chuông khánh tăng thêm chánh niệm của họ, tiêu trừ vọng-tưởng tạp-niệm của họ.
Đồng học tu Tịnh-độ, nhất tâm chuyên chú Phật hiệu, có đồng tu ở bên cạnh trợ
niệm, khuyên họ niệm theo, vẫn còn hơi sức thì [niệm] ra tiếng, không còn hơi sức
thì niệm thầm, có lợi ích rất lớn đối với họ.
語如鐘聲者 “Ngữ như chung thanh giả”
(Lời nói như tiếng chuông), đây là nói âm thanh của
người thuyết pháp giống như hồng chung vậy, vài câu dưới đây để miêu tả âm
thanh này, 中正宏廣,持續遠聞 “trung chánh hoành quảng, trì tục viễn văn” (trung chánh lớn vang,
duy trì truyền xa). Chúng tôi nghĩ đến thời xưa, đại chúng tụ hội không có
loa phóng thanh, mà đạo tràng của Thích Ca Mâu Ni Phật ở vùng ngoại ô, không có
tường thành, có bao nhiêu người? Có hơn ba ngàn người. Đệ tử thường tùy có 1250
người, không phải thường tùy, tụ hội trong một lúc, theo Phật một ngày hai
ngày, ba ngày năm ngày, chúng tôi tin người như vậy sẽ rất nhiều. Cho nên Tăng
đoàn đó của Phật, tôi tin sẽ không ít hơn ba ngàn người.
Trong kinh sách ghi chép,
năm xưa Khổng phu tử dạy học ở đời, có ba ngàn Đệ tử, chúng tôi tin Thích Ca
Mâu Ni Phật chắc hẳn cũng có sự tụ hội lớn như vậy. Âm thanh đó quan trọng hơn
tất cả. Âm thanh này từ đâu đến? Từ trong tâm chân thành cung kính sanh ra, đây
là tánh đức của Tự-tánh. Mắt, có thể nhìn thấy ở xa rõ ràng, cũng nhìn thấy ở gần
rõ ràng, tai có thể nghe xa, có thể nghe được âm thanh rất xa, đây là tâm địa
thanh tịnh. Ngài thuyết pháp, âm thanh của Ngài cũng có thể truyền xa, không cần
có thiết bị hỗ trợ. Hiện nay tiện lợi rồi, thiết bị phóng thanh rất đầy đủ, thậm
chí đạo tràng hàng vạn người cũng có thể đạt được hiệu quả rất tốt.
Tiếp theo là nói tác dụng
của âm thanh, 震醒長夜,警覺昏迷 “chấn tỉnh trường dạ, cảnh giác hôn mê” (rung động thức tỉnh đêm
dài, cảnh giác hôn mê), đây là tác dụng thứ nhất. Mấy hôm trước, tôi
nhận được một phần báo cáo, của chùa Lai Phật gửi đến, còn có một máy ghi hình,
là dựa thân của bên đó, ghi hình lại những gì người bị dựa thân đã nói, tổng cộng
có hơn 30 phút. Nói với chúng ta, lão Hòa thượng Hải Hiền dùng tinh thần thể lực
cả đời, 92 năm biểu pháp cho chúng ta, có mấy ai tin? Cho nên lão Hòa thượng
rơi lệ, Phật Bồ-tát thở dài. Người đến chùa Lai Phật đã nhiều hơn, nhiều hơn
lúc trước, đều đến tham quan du lịch, không phải đến cầu pháp. Nửa tiếng này,
37 phút, hoàn toàn nói với chúng tôi tình trạng nhà Phật trong xã hội hiện nay,
Đệ tử Phật đã vứt bỏ Phật pháp rồi, thật sự đang tạo sự đấu tranh kiên cố.
Trong kinh nói với chúng
ta: 一切法從心想生 “Nhất thiết pháp tùng tâm tưởng sanh” (Tất cả pháp từ tâm tưởng
sanh), 相由心生 “tướng do tâm sanh”, 境隨心轉 “cảnh tùy tâm chuyển”, kinh văn này rất quan
trọng. Ngày nay chúng ta sinh sống trong hoàn cảnh nào? Sự động loạn của xã hội,
từ xưa đến nay, trên trái đất này, từ xưa đến nay chưa từng có sự động loạn như
hiện nay, trong lịch sử không có. Những tai biến này trên trái đất, chúng ta
nói là thiên tai, cũng là việc không tìm thấy trong lịch sử thời xưa. Nguyên
nhân từ đâu ra? Tư tưởng, ngôn hành hiện nay của chúng ta hoàn toàn trái ngược
với lời dạy của cổ Thánh tiên Hiền, với lời dạy của Phật Bồ-tát, tạo thành hoàn
cảnh sinh sống hiện nay của chúng ta. Ngày nay, hoằng pháp cũng khó khăn hơn bất
kỳ thời đại nào trong lịch sử, không có ai nghe, không có ai tin, người hiện
nay tin khoa học kỹ thuật, những điều này rất thực tế. Không biết làm người,
không biết thế nào gọi là nhân nghĩa đạo đức, không biết thế nào gọi là nhân ái
hòa bình. Trong nhà Phật, Ngũ giới Thập thiện, chúng ta nói là Tam quy, Ngũ giới,
Thập thiện, có còn hay không? Thật sự không còn nữa. Thật sự học Phật, Tam quy,
bất luận quý vị tu học tông phái nào, Pháp môn nào cũng cần phải tuân thủ, không
tuân thủ Tam quy thì không phải là Đệ tử Phật.
Chúng ta học tập kinh
giáo, vừa mở đầu thì trước tiên đọc Tam quy y, nhắc nhở mọi người, Phật là gì vậy?
Phật là Tự-tánh giác, Pháp là Tự-tánh chánh, Tăng là Tự-tánh tịnh; giác, chánh,
tịnh. Trong Đàn Kinh, Đại sư Lục tổ Huệ Năng truyền trao Tam quy y cho người
khác, ngài không phải giảng quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng, mà ngài nói là
quy y giác, quy y chánh, quy y tịnh. Vào lúc đó, Phật pháp truyền đến Trung Hoa
bảy trăm năm, thời gian bảy trăm năm không được xem là dài, cũng không ngắn, Phật
giáo truyền thừa ở Trung Hoa dần dần có sự thiên lệch, nếu không thì tại sao Đại
sư Huệ Năng không dạy người khác đọc quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng? Vì mọi
người nhất định sẽ hiểu sai về lời giải thích, quy y Phật thì sẽ nghĩ đến tượng
Phật bằng đất sét, bằng gỗ; quy y Pháp thì sẽ nghĩ đến kinh điển, quy y Tăng
thì sẽ nghĩ đến người xuất gia, điều này sai rồi, điều này hoàn toàn trái ngược
với ý nghĩa ban đầu của quy y. Mà là gì? Mà là quy y giác chánh tịnh, quy y Tự-tánh
Tam Bảo. Những hình tượng Phật Bồ-tát, kinh điển, người xuất gia được thờ cúng
trong tự viện, đây gọi là trụ trì Tam Bảo. Tự-tánh Tam Bảo là thật, ý nghĩa của
Tam quy y là khiến chúng ta từ trụ trì Tam Bảo trở về Tự-tánh Tam Bảo. Nhìn thấy
tượng Phật thì nghĩ đến Tự-tánh giác, Tự-tánh vốn giác.
Vì sao lại mê? Vì sao
không giác? Đây là một niệm không giác nên có vô-minh, từ vô-minh sanh ra tam-tế
lục-thô. Sự không giác này chính là vọng-tâm, là Tự-tánh mê rồi, nên gọi là
không giác, danh từ Phật học gọi là A-lại-da. Tam-tế-tướng của A-lại-da: nghiệp-tướng,
chuyển-tướng, cảnh-giới-tướng; nghiệp-tướng chính là không giác. Không giác, đó
là sự dao động, Tự-tánh là bất động, Đại sư Huệ Năng nói với chúng ta: 何期自性,本無動搖 “Hà kỳ Tự-tánh, bổn vô động
dao” (Nào ngờ Tự-tánh vốn không dao động), Tự-tánh bất động,
không dao động. Hễ vừa dao động thì gọi là A-lại-da, dao động thì có sanh diệt;
không dao động thì không sanh không diệt, đó là thật. Chúng tôi nói dễ hiểu hơn
một chút, Tự-tánh chính là chân-tâm, A-lại-da là vọng-tâm, vọng-tưởng, phân-biệt,
chấp-trước đều từ A-lại-da dấy khởi, vọng-tưởng là thức-thứ-tám, chấp-trước là
Mạt-na-thức, phân-biệt là ý-thức-thứ-sáu và năm thức đầu. Phật đã giảng rõ
ràng, giảng sáng tỏ trong kinh, chúng ta phải thật sự hiểu được, phải có thể
lãnh hội được, biết được học Phật như thế nào để đạt được công đức và lợi ích
thù thắng của Phật pháp, giúp chúng ta giải thoát, đây là mục đích học Phật, giải
trừ phiền-não, thoát ly lục đạo luân hồi. Lại thăng cấp lên, thoát ly mười
pháp-giới, trở về Tự-tánh, trở về Tự-tánh thì thành Phật rồi, mục tiêu học Phật
của chúng ta ở chỗ này, hằng ngày đều không thể quên.
Tịnh tông cũng không ngoại
lệ, Tịnh tông là tín nguyện trì danh, cầu sanh Tịnh-độ, sanh Tịnh-độ chính là
trở về Tự-tánh, đây là phương tiện thiện xảo không gì sánh bằng. A Di Đà Phật từ
bi đến tột cùng, mở ra Pháp môn này, Ngài nghĩ ra rồi, mở ra Pháp môn này. Phật
Phật đạo đồng, Phật và Phật hoàn toàn bình đẳng, không hề khác biệt, nhưng những
vị Phật khác không nghĩ đến, Ngài nghĩ đến rồi, Ngài thành tựu Pháp môn này,
cho nên chư Phật tán thán. Chư Phật độ chúng sanh, độ như thế nào? Tiến cử họ đến
thế giới Cực Lạc, đến thế giới Cực Lạc, A Di Đà Phật đến dạy họ, nhất định
thành Phật trong một đời, thì chư Phật rất nhẹ nhõm. Phật ở mười phương thế giới,
giống như Thích Ca Mâu Ni Phật vậy, giảng kinh dạy học trong một đời, kinh gì
cũng giảng, ứng cơ thuyết pháp. Những người vãng sanh đến thế giới Cực Lạc, đến
thế giới Cực Lạc đều được gọi là Bồ-tát, những vị Bồ-tát này có khả năng phân
vô lượng vô biên thân. Phân thân làm gì? Phân thân đến cõi nước của mười phương
chư Phật, kết duyên với Phật, đến lạy Phật cúng dường, nghe kinh nghe pháp. Sự
phân thân này của các ngài thật hữu hiệu, vô lượng vô biên thân, cúng dường vô
lượng vô biên Phật, quý vị nói xem phước báo đó lớn thế nào, nghe tất cả chư Phật
giảng kinh thuyết pháp, trí huệ được viên mãn rất nhanh. Phải nhận biết được chỗ
này, khắp pháp-giới hư-không-giới không có nơi thứ hai [như vậy], phải nhận biết
rõ ràng, quyết định phải phát nguyện cầu sanh Tịnh-độ, một đời viên mãn thành
Phật.
Kinh này giảng hay, giảng
thấu triệt, đặc biệt là Chú Giải của lão Cư sĩ Hoàng Niệm Tổ, kinh là hội tập
mà nên, chú giải cũng là hội tập mà thành. Cả đời Thế Tôn giảng rất nhiều kinh,
có lúc cũng nói đến Tịnh-độ, Niệm lão hội tập lại tất cả những kinh luận nói đến
Tịnh-độ vào đây, 83 bộ kinh luận, kinh luận giảng về Tịnh-độ, tất cả đều hội tập
vào đây, thật sự, kinh này là sự thu thập về Tịnh-độ. Cả đời Niệm lão đến sau
cùng, vào cuối đời, trước khi vãng sanh, đã làm một bài báo cáo, bài này báo
cáo sự tổng kết cả đời học Phật của ngài, chính là Tịnh Tu Tiệp Yếu Báo Ân Đàm.
Tịnh Tu Tiệp Yếu là trước tác của thầy, [chính là] lão Cư sĩ Hạ Liên Cư, cũng
là trước tác sau cùng của ngài trước khi vãng sanh. Vào cuối đời, Niệm lão dùng
phương thức trò chuyện, không chút ràng buộc, tán gẫu chuyện thường ngày với mọi
người để giải thích bộ Tịnh Tu Tiệp Yếu này, quá hay! Hiện nay chúng tôi sắp xếp
lại viết thành văn chương, còn tìm được một đồng học đọc văn chương này từ đầu
đến cuối một lần, làm thành sách nói. Lần này Hồ Tiểu Lâm đến đây nhìn thấy rồi,
nghe được vài đoạn, bội phục đến năm vóc sát đất, là thật, không phải giả.
Chúng ta tu Tịnh-độ tông,
chúng ta học một bộ kinh này, các kinh khác đều không học, nếu quý vị hỏi tôi
giới thiệu một bộ sách cho quý vị, tôi nhất định sẽ giới thiệu Báo Ân Đàm cho
quý vị, bộ này bảo đảm quý vị vãng sanh thế giới Cực Lạc. Phạm vi mà ngài đã
nói đến trong đó là tất cả kinh giáo mà Thích Ca Mâu Ni Phật đã nói trong 49
năm gồm: Hiển giáo Mật giáo, Tông môn Giáo hạ, đều bao gồm hết thảy trong đó,
không sót một pháp nào, quá hiếm thấy, thật khó có được. Tôi gọi đó là ba bảo vật
của Tịnh tông chúng ta. Bảo vật thứ nhất: Chú giải Kinh Vô Lượng Thọ của Niệm
lão; bảo vật thứ hai: Tịnh Tu Tiệp Yếu Báo Ân Đàm; bảo vật thứ ba: Vĩnh Tư Tập
của lão Hòa thượng Hải Hiền, là ba bảo vật hiện nay của Tịnh tông chúng ta, đầy
đủ ba bảo vật. Nếu quý vị không thể thành tựu thì quý vị không thể trách người
khác được, quý vị phải trách bản thân nghiệp chướng tập-khí quá nặng. Vì sao vậy?
Đã nói rõ ràng như vậy mà quý vị vẫn nghe không hiểu, quý vị còn bán tín bán
nghi, vọng-tưởng tạp-niệm của quý vị còn nhiều như vậy. Đời này không đến được,
nhất định sẽ làm chuyện lục đạo, lại đánh một vòng trong lục đạo thì không biết
[đến] năm nào tháng nào, không phải là chuyện đùa.
Đọa vào lục đạo có được
lại thân người, nói về thời gian thì phải rất nhiều kiếp, quý vị mới có lại cơ
hội được thân người. Đời này, ba bảo vật này đều ở trước mặt chúng ta, sao
chúng ta có thể lơ là, sao có thể không nghiêm túc? Suy cho cùng thì người
nghiêm túc quá ít, Phật Bồ-tát đều rơi lệ, thật sự gọi là chúng sanh khó độ, họ
không thể tiếp nhận. Họ thật sự là tính tình nông nổi, nông nổi đến cùng cực,
thậm chí là họ cũng không cách nào an tĩnh trong vài phút. Bảo họ chuyên chú,
thời gian chuyên chú thường là khoảng 15 phút, sau 15 phút thì không thể chuyên
chú nữa, vậy thì làm sao học đạo được? Người có thể chuyên chú vài tiếng, mười
mấy tiếng, thì không có người nào không thành tựu. Tấm gương đều ở trước mắt
chúng ta, những điều quý giá, nếu quý vị có thể thấy được, có duyên phận này,
nhìn thấy rồi, nghe được rồi, phải có tâm chân thành cung kính học tập theo họ.
Lúc trước, tôi nhớ là lần
trước, Pháp sư Tự Liễu có một phần báo cáo, viết hay, chúng ta cũng đã học tập
rồi. Điều chủ yếu nhất trong đó, nhắc nhở chúng ta một câu, vì sao công phu tín
nguyện trì danh của chúng ta không đắc lực? Vì không biết tử sanh là việc lớn,
không hay không biết đối với việc này. Nếu có thể biết được sự thật này, thì
quý vị còn dám buông lung không? Cả đời Đại sư Ấn Quang dán chữ “chết” ở trên
trán, quý vị xem quan phòng của ngài, không lớn, tôi đã đến tham quan. Trên bàn
chỉ thờ một tượng Phật, là A Di Đà Phật, một cặp đèn cầy, một cái mõ, khánh, một
cái lư hương, một ly nước cúng Phật, ngoài ra thì không còn gì nữa. Phía sau tượng
Phật, đích thân lão Pháp sư viết một chữ “chết”, chữ lớn, để chính mình lúc nào
cũng nhìn thấy được, tôi sắp chết rồi, lúc này phải làm sao? Còn lưu luyến gì nữa?
Thật sự là buông xuống vạn duyên, nhất tâm xưng niệm A Di Đà Phật, hoàn toàn thực
hiện câu nói này trong Kinh Vô Lượng Thọ: 發菩提心,一向專念 “Phát Bồ-đề tâm, nhất hướng
chuyên niệm” (Phát tâm Bồ-đề, nhất hướng chuyên niệm). Phát tâm Bồ-đề là gì?
Thật sự tin có Tịnh-độ, có A Di Đà Phật, thật sự phát nguyện cầu sanh Tịnh-độ.
Chân tín thiết nguyện chính là tâm Vô-thượng Bồ-đề, do Đại sư Ngẫu Ích nói, nhất
tâm xưng niệm liền được vãng sanh, Đại sư Ngẫu Ích nói hay. Không cần công phu
thành phiến, không cần nhất-tâm-bất-loạn, trong kinh nói rất rõ ràng, rất dễ hiểu,
chỉ cần tín nguyện trì danh, cầu sanh Tịnh-độ, Phật liền đến tiếp dẫn quý vị.
Ngày nay chúng ta công
phu không đắc lực, là [vì] không buông xuống, tạp-niệm quá nhiều, vọng-tưởng
quá nhiều, dục vọng quá nhiều, phiền-não tập-khí quá nặng. Đừng nói là Tổ sư đến,
chúng ta không thể quay đầu, mà đức Thích Ca, Di Đà đích thân đến, e rằng chúng
ta vẫn không thể quay đầu. Vì sao vậy? Nếu như có thể quay đầu thì Ngài thật sự
sẽ đến, Ngài không ra vẻ, chúng ta thật lòng khẩn cầu, Ngài liền gặp mặt chúng
ta, hiện thân cho chúng ta thấy. Vì vậy, phải buông xuống tất cả, tối thiểu, ta
không có cách giúp người khác vãng sanh, bản thân chúng ta cũng phải vãng sanh
Tịnh-độ, nhất định phải nắm bắt cơ hội, duyên phận trong đời này thật vững chắc.
Cho nên quý vị xem, “rung
động thức tỉnh đêm dài, cảnh giác hôn mê”, chúng ta vẫn luôn ở trong hôn mê,
không thể cảnh giác. Một khi thọ mạng hết rồi, quý vị có nghĩ đến lập tức là lục
đạo luân hồi hay không? Lục đạo luân hồi đến cõi nào? Trong sự tưởng tượng của
tôi, thành phần [vào] cõi địa ngục là nhiều nhất. Vì sao vậy? Vì chúng ta gặp
được pháp tốt như vậy, nhưng không nghiêm túc tu hành, tội này rất nặng. Không
gặp được thì không sao, họ không có duyên phận. Chúng ta gặp được rồi, gặp được
rồi nhưng không thể y giáo phụng hành, trong đời này không thể giải thoát, vãng
sanh thành Phật, còn làm chuyện lục đạo, vậy chúng ta có thể nghĩ thử xem,
chúng ta khẳng định có tạo tác nghiệp địa ngục. Ngay trong lúc học Phật đã tạo
nghiệp địa ngục mà chính mình không biết. Chúng ta có chướng ngại người khác học
Phật không? Có khiến người khác trong Phật pháp mà sanh khởi nghi hoặc, thoái
chuyển tín tâm không? Nếu như có, thì đây chính là nhân của địa ngục. Chúng ta
không nghiêm túc y giáo phụng hành, khiến người bên ngoài nhìn thấy dáng vẻ này
của chúng ta, “anh xem học Phật kìa, là giả, không phải thật”, tội danh này
chính là địa ngục. Cho nên đừng cho rằng học Phật nhất định sẽ vãng sanh thế giới
Cực Lạc, sẽ không đọa địa ngục. Trang cuối cùng trong Đại Thế Chí Viên Thông
Chương Sớ Sao, Pháp sư Từ Vân Quán Đảnh liệt kê 100 loại quả báo của người niệm
Phật, đầu tiên chính là địa ngục. Ngài nói hay, nói có lý, chúng ta không thể
không biết, không thể không có sự cảnh giác.
Tiếp theo lại nói: 引生善心,停息諸苦。音聲功德,並如鐘也 “Dẫn sanh thiện tâm,
đình tức chư khổ. Âm thanh công đức, tịnh như chung dã” (Dẫn sanh tâm thiện, chấm
dứt các khổ. Công đức và âm thanh đều như [tiếng] chuông). Tiếng chuông, âm thanh
khác cũng có, công đức giảng kinh, công đức niệm Phật, công đức niệm chú, đều
có lợi ích thù thắng không gì sánh bằng. Ở chỗ này nói dẫn sanh tâm thiện, có dẫn
dắt phát khởi tâm thiện của chúng ta không, có giúp chúng ta chấm dứt các khổ,
tức là lìa khổ được vui không? Lìa khổ được vui, hiện nay liền đạt được, thật sự
khế nhập cảnh giới, pháp hỷ sung mãn, hoan hỷ. Tiếp theo lại nói: 又鐘身鑄有真言、種子字、大乘經偈 “Hựu chung thân chú hữu
chân ngôn, chủng tử tự, Đại-thừa kinh kệ” (Thân chuông lại có đúc
chân ngôn, chủng tử tự, kinh kệ Đại-thừa), trên chuông nhất định
có những thứ này. Chân ngôn chính là chú, như Chú Vãng Sanh, Tịnh-độ tông thường
dùng chú này, thông thường thì dùng Chú Đại Bi là nhiều nhất; chú phổ biến
trong Tạng truyền, chúng ta có thể thấy được ở mọi nơi, [là] Lục Tự Đại Minh Chú.
Còn có khắc kinh kệ Đại-thừa. Đánh một tiếng chuông, những kinh chú này theo âm
thanh mà truyền xa, pháp âm khắp pháp-giới, phổ độ tất cả chúng sanh. Vì vậy, 鳴鐘一聲,即如轉誦鐘身所具一切顯密經法 “minh chung nhất thanh,
tức như chuyển tụng chung thân sở cụ nhất thiết Hiển Mật kinh pháp” (đánh một tiếng chuông,
giống như chuyển tụng tất cả kinh pháp Hiển Mật đầy đủ trên thân chuông). Cái chuông này tôi
chưa từng thấy, nhưng tôi có nghe người khác nói qua, các vị Đại đức ngày xưa từng
nói. Chuông lớn trên Đại điện của Hiền Thủ tông ở Đại Lục, văn tự được đúc
trong đó là một bộ Kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm, đúc ở trên chuông, vậy
đánh một tiếng là một bộ Kinh Hoa Nghiêm. Không ít, [đúc] Kinh Pháp Hoa cũng
nhiều, theo Thiên Thai tông, Thiên Thai tông là Kinh Pháp Hoa. Đạo tràng Mật
tông đa phần là thần chú. Cho nên đánh một tiếng chuông, thật sự là chánh pháp
truyền xa.
Dùng điều này để ví dụ
cho người thuyết pháp, 一一聲中,皆寓無量妙義 “nhất nhất thanh trung,
giai ngụ vô lượng diệu nghĩa” (trong mỗi một tiếng đều gởi gắm vô lượng diệu
nghĩa). Đánh một tiếng chuông, vô lượng diệu nghĩa, người thuyết
pháp cũng như vậy. Cho nên người thuyết pháp phải dùng chân-tâm, tối thiểu là
không có danh văn lợi dưỡng, xa lìa thất tình ngũ dục. Lìa thất tình ngũ dục rồi,
đương nhiên vẫn còn tập-khí, tuy rằng tùy duyên, gọi là hằng thuận chúng sanh,
nhưng trong tâm không lưu lại ấn tượng, điều này quan trọng hơn tất cả, cũng tức
là không để trong tâm. Phàm phu trong lục đạo, sáu căn tiếp xúc với cảnh giới
sáu trần đều để trong tâm, cho nên tâm của họ là ô nhiễm. Người chân thật tu
hành thì họ tu gì? Người tu hành này thật sự có công phu, họ không để trong
tâm, tâm địa họ thanh tịnh. Lão Hòa thượng Hải Hiền biểu pháp này cho chúng ta,
từ sáng đến tối, quanh năm suốt tháng, trong tâm ngài chỉ có A Di Đà Phật,
ngoài A Di Đà Phật ra thì không có gì cả. Ngài tiếp xúc với đại chúng, thảy đều
hoan hỷ, nét mặt rạng rỡ, hằng thuận chúng sanh, tùy hỷ công đức, trong tâm
không nhiễm một bụi trần, đây gọi là công phu chân thật, đây là người tu hành
chân chánh. Những điều Phật dạy chúng ta, chúng tôi dùng Tịnh tông của chúng ta
để nói, Tam phước, Lục hòa, Tam học, Lục độ, Mười đại nguyện vương, tất cả đều
được thực tiễn ngay trong cuộc sống, thực tiễn trong công việc, thực tiễn trong
đối người xử việc tiếp vật, tâm như thế nào? Không nhiễm, không để trong tâm, vậy
thì đúng rồi. Tâm, giữ gìn thanh tịnh, bình đẳng, giác đã nói trong kinh này, để
trong tâm thì mê rồi, thì ô nhiễm rồi, thì không bình đẳng, thì mê rồi; không để
trong tâm, tâm vĩnh viễn là thanh tịnh bình đẳng giác. Mọi lúc mọi nơi đều giữ
gìn, trong tâm chỉ có một vị A Di Đà Phật, ngoài ra thì không có gì cả.
Người thuyết pháp, người
thuyết pháp tu hành như vậy, trong từng tiếng nói của họ có vô lượng diệu nghĩa,
là thật, không giả chút nào, chúng ta có thể hoàn toàn thể hội từ trong Báo Ân
Đàm của Hoàng Niệm lão. Quý vị nghe Báo Ân Đàm, càng nghe càng thú vị, không muốn
ngừng lại, có sức mạnh nhiếp thọ lớn như vậy. Khiến quý vị nghe đến pháp hỷ
sung mãn, khiến quý vị nghe đến đoạn nghi sanh tín, khiến quý vị nghe đến sẽ giống
hệt như ngài, nhất tâm chuyên niệm A Di Đà Phật.
Chúng ta xem tiếp kinh
văn dưới đây, chương thứ 17 trong 24 chương, nguyện thứ 35 trong 48 nguyện: 一生補處願 “Nhất sanh bổ xứ nguyện”
(Nguyện một đời làm bậc bổ xứ). Mời xem kinh văn:
【我作佛時。所有眾生。生我國者。究竟必至一生補處。】 “Ngã tác Phật thời, sở hữu
chúng sanh, sanh ngã quốc giả, cứu cánh tất chí nhất sanh bổ xứ” (Khi con thành Phật, tất cả chúng sanh sanh đến cõi nước con, cứu cánh nhất định đạt đến nhất sanh bổ xứ).
Đây là kinh văn. 右章中 “Hữu chương trung” (Trong chương này), xem chú giải, 所有眾生 “sở hữu chúng sanh” (tất cả chúng sanh), chú ý hai chữ 所有 “sở hữu” (tất cả), vì sao vậy? Vì bao gồm
chúng ta trong đó, chỉ cần chúng ta chân tín thiết nguyện, thì chúng ta có phần
trong “tất cả chúng sanh” này. Vãng sanh đến thế giới Cực Lạc, lợi ích mà quý vị
có được là “cứu cánh nhất định đạt đến nhất sanh bổ xứ”, quý vị chắc chắn thành
Phật. 是為第卅五 “Thị vi đệ tạp ngũ” (Đây là nguyện thứ 35), nguyện thứ 35, 一生補處願 “nhất sanh bổ xứ nguyện”
(nguyện một đời làm bậc bổ xứ). 一生補處者,以一轉生補佛處 “Nhất sanh bổ xứ giả, dĩ
nhất chuyển sanh bổ Phật xứ” (Nhất sanh bổ xứ: vì một lần chuyển sanh thì bổ
sung vào ngôi Phật), quý vị làm hậu bổ Phật ở đó, nơi nào có duyên với quý vị,
Phật ở nơi đó thị hiện nhập Bát-niết-bàn rồi, thì quý vị liền đến nơi đó để bổ
sung vào chỗ của vị Phật ấy, quý vị ở nơi đó dự khuyết, giống như Phật Thích Ca
vậy, không khác biệt. Ở thế giới hiện nay của chúng ta, 如今 “như kim”, cũng như ngày nay, 兜率內院中之彌勒大士 “Đâu Suất nội viện trung
chi Di Lặc Đại sĩ” (Di Lặc Đại sĩ trong nội viện trời Đâu Suất), Di Lặc Bồ-tát, 一生即補佛位 “nhất sanh tức bổ Phật vị”
(một đời liền bổ sung ngôi vị Phật). Ngài ở trời Đâu Suất,
thọ mạng hết rồi, Ngài liền giáng sanh đến trái đất này, thành Phật trên trái đất
này. Thế Tôn là vị Phật thứ tư trong hiền kiếp, Ngài Di Lặc là vị Phật thứ năm
trong hiền kiếp, bổ sung ngôi vị Phật. Đây chính là câu nói trong Kinh Pháp Hoa:
餘有一生在,當成一切智 “Dư hữu nhất sanh tại,
đương thành Nhất-thiết-trí” (Chỉ còn một đời nữa, sẽ thành Nhất-thiết-trí), Nhất-thiết-trí chính
là Phật. Ngài còn một đời, hiện nay ở trời Đâu Suất, cần phải hết thọ mạng trên
trời Đâu Suất, Ngài vừa hạ sanh liền làm Phật, liền thành Phật. Cho nên Ngài chỉ
còn một đời nữa sẽ thành Nhất-thiết-trí, 是名一生補處 “thị danh nhất sanh bổ xứ”
(gọi là nhất sanh bổ xứ).
又如《會疏》曰:一生補處者,是等覺位。尚有一生無明 “Hựu như Hội Sớ viết: Nhất
sanh bổ xứ giả, thị Đẳng-giác vị. Thượng hữu nhất sanh vô-minh” (Lại như sách Hội Sớ nói: Nhất sanh bổ xứ là quả vị Đẳng-giác, vẫn còn một sanh vô-minh), nên nói đầy đủ là một
phần sanh tướng vô-minh, 未破。故曰一生。此品無明,其力最大。唯此後心,以金剛智破之,即補妙覺之位,故曰補處 “vị phá, cố viết nhất sanh. Thử phẩm vô-minh, kỳ lực
tối đại. Duy thử hậu tâm, dĩ kim cang trí phá chi, tức bổ Diệu-giác chi vị, cố
viết bổ xứ” (chưa phá, nên gọi là nhất sanh. Sức của phẩm vô-minh này
là lớn nhất. Chỉ [còn] tâm sau cùng này, dùng trí kim cang phá trừ, liền bổ
sung vào quả vị Diệu-giác, nên gọi là bổ xứ). Trong Hội Sớ nói rất
rõ ràng, nói rất tường tận, nhất sanh bổ xứ là Đẳng-giác Bồ-tát. Trong Kinh Hoa
Nghiêm, 41 vị Pháp-thân Đại sĩ, bắt đầu từ Thập-trụ, Thập-trụ, Thập-hạnh, Thập-hồi-hướng,
Thập-địa, 40 cấp bậc này, trên Thập-địa chính là Đẳng-giác, tức là hậu bổ Phật.
Quả vị Đẳng-giác vẫn còn một phẩm vô-minh chưa phá, ở đây nói là một sanh
vô-minh, đầy đủ, tức là nói một cách chi tiết, là một phần sanh tướng vô-minh
chưa phá. Quý vị xem danh từ này, sanh tướng. Tiếp theo nói “sức của phẩm
vô-minh này là lớn nhất”, năng lượng của nó lớn nhất. Lớn ở chỗ nào? Trong
Đàn Kinh, Đại sư Huệ Năng nói với chúng ta, có thể sanh ra vạn pháp, chính là
phẩm này, gọi là sanh tướng vô-minh. Tướng là hiện tượng, hiện nay chúng ta nói
là hiện tượng vật chất, hiện tượng tinh thần, hiện tượng tự nhiên, danh từ
trong Phật pháp là cảnh-giới-tướng, cảnh-giới-tướng chính là, cảnh-giới-tướng của
A-lại-da chính là vật chất. Chuyển-tướng chính là ý niệm. Vật chất từ đâu mà có?
Là từ Tự-tánh lưu lộ ra. Tự-tánh lưu lộ ra là chân thật, là bình đẳng, nhưng
trong đó có A-lại-da khởi tác dụng, A-lại-da chuyển biến cảnh giới này rồi, cho
nên biến nhất-chân pháp-giới thành mười pháp-giới, thành lục đạo luân hồi. Đây
là sự việc như thế nào? Chính là tâm tưởng sanh, tâm tưởng là Mạt-na, Ý-thức,
chính là hai thức này tạo thành.
Cho nên Phật pháp giảng
rất rõ ràng, hoàn toàn tương ưng với những gì nhà khoa học hiện nay nhìn thấy.
Trong Phật giáo không có chủ tạo vật, không nói đến thần, không có, Phật giảng
Tự-tánh, giảng chân-tâm, vọng-tâm. Chân-tâm có thể sanh có thể hiện, vọng-tâm
có thể biến, biến những gì sanh ra từ chân-tâm thành mười pháp-giới, thành lục
đạo luân hồi, hoàn toàn là do ý niệm biến. Cho nên Phật nói “tất cả pháp từ tâm
tưởng sanh”, và chúng tôi giảng đến “tướng do tâm sanh, sắc do tâm sanh, tướng
tùy tâm chuyển”, điều này rất quan trọng. Ngày nay, trái đất mà chúng ta sinh sống,
chúng ta nhìn thấy hiện tượng này rồi, chính mắt nhìn thấy, chính tai nghe được,
như thế nào? Loạn thành một khối, không có chút trật tự nào. Vì sao vậy? Ý niệm
của chúng ta loạn thành một khối, tư tưởng của chúng ta loạn thành một khối, khởi
tâm động niệm đánh mất chánh tri chánh kiến rồi, tà tri tà kiến, xem tà tri tà
kiến là chánh tri chánh kiến, biến thành thế giới hiện nay. Vào thời xưa ở
Trung Hoa, triều đại Hán Đường thịnh thế, làm thế nào mà thành tựu được? Những
điều của ba nhà Nho Thích Đạo đều thực tiễn trong lòng người, đều thực tiễn
trong hành động, đoan chánh ba nghiệp của chúng sanh, tốt! Những hành vi của ba
nghiệp gần với Bồ-tát, đây chính là thịnh thế mà lịch sử lưu truyền, thái bình
thịnh thế, cũng là do ý niệm chuyển.
Chúng ta hiểu rõ đạo lý
này, thì biết có thể cứu được thế giới này hay không? Được, tai nạn nghiêm trọng
hơn cũng cứu được. Cứu như thế nào? Tiến sĩ Branden nói hay, cư dân trên trái đất
đều có thể giác ngộ, bỏ ác dương thiện, đoan chánh tâm niệm, trật tự trên trái
đất liền được khôi phục, không thấy tai nạn trên trái đất nữa. Lời nói của ông,
kinh Phật có thể chứng minh cho ông, ông là một nhà khoa học, ông nói lời này
vào năm 2011, nói ở Sydney. Vào lúc đó, nhà khoa học tổ chức một hội nghị ở
Sydney, báo cáo của họ đưa ra kết luận, là thật, không phải giả, chỉ cần thay đổi
ý niệm, từ trường của trái đất liền thay đổi. Đây chính là tướng do tâm sanh, cảnh
tùy tâm chuyển, tâm tốt rồi thì không có gì không tốt, mọi thứ đều tốt; [nếu]
tâm không tốt thì tai nạn sẽ nhiều. Quý vị xem, trong kinh Phật nói với chúng
ta, tai nạn từ đâu mà có? Nạn nước, do tâm tham chiêu cảm, có ai trên thế giới
hiện nay không tham? Mà tâm tham này không có chừng mực. Không có chừng mực thì
tham chiêu cảm nạn nước, vậy thì hồng thủy trong tương lai không có chừng mực,
cả mặt đất sẽ bị chìm ngập.
Trước đây tôi ở
Toowoomba nước Úc, thành phố này ở trên đỉnh núi, tuyệt đối không thể nào có nạn
lụt, vậy mà năm ngoái lại xảy ra nạn lụt một lần, còn chết vài người, tổn thất
rất nghiêm trọng. Tôi không ở nơi đó, về sau tôi gặp được thị trưởng, tôi thỉnh
giáo ông, nạn lụt này ở Toowoomba là việc như thế nào? Ông nói với tôi, mưa quá
lớn, quá nhanh, tuy là ở trên đỉnh núi, nhưng trong một lúc nước không thể chảy
xuống được. Một tiếng đồng hồ đã chảy sạch, không còn nữa, cho nên thời gian [xảy
ra] nạn lụt rất ngắn, một tiếng đồng hồ, nhưng tổn thất rất nghiêm trọng, nước
ngập một tầng lầu. Đây cũng là lòng người chiêu cảm. Những năm nay, chúng tôi
đã ở đó 13 năm, mỗi tối thứ bảy đều có buổi dạ tiệc ấm áp. Cùng với những bạn
bè ấy, đặc biệt là mười mấy tôn giáo ở đó, họ cũng sẽ đến chỗ tôi để dùng cơm tối,
đến trò chuyện hoặc giảng vài câu cho đại chúng. Tôn giáo đoàn kết với nhau,
lòng người trở nên thiện lành. Mọi người đều có nguyện vọng, chúng tôi làm
thành phố này trở thành thành phố thị phạm hài hòa đa nguyên văn hóa đầu tiên
trên thế giới. Có ý niệm này, nơi này sẽ không còn tai nạn, thật hiếm có! Hoạt
động của chúng tôi ở Paris lần này, Đoàn đại biểu Tôn giáo Toowoomba đã tham
gia, làm báo cáo trong đại hội, hơn nữa chủ động mời những Đại sứ, Đại biểu đó
của Liên hiệp quốc đến Toowoomba để tham quan, để khảo sát, để chỉ giáo, tốt!
Cho nên nếu hôm nay quý
vị hỏi: nơi nào an toàn? Quý vị xem nơi nào mà trong lòng người: phân lượng
tham sân si mạn nghi không cao, thì tai nạn ở nơi đó ít. Nếu như năm loại này,
trong Phật pháp gọi là năm độc, tham sân si mạn nghi, năm độc, ý niệm xấu nhất,
nếu năm loại này rất nghiêm trọng, dân số rất nhiều, đều chấp-trước rất cứng chắc,
thì tai nạn ở nơi đó nặng. Đây là trong kinh, Phật nói với chúng ta, chúng tôi
học tập nhiều năm như vậy đích thật có thể hội, thật sự có cảm ứng. Vì vậy, quốc
thái dân an phải chú trọng điều gì? Phải chú trọng giáo dục luân lý, đạo đức,
nhân quả, chỉ cần dạy tốt ba sự giáo dục này, khu vực ấy sẽ ít tai nạn, đây là
chân lý, tìm được chứng cứ trong lịch sử. Quốc gia, địa phương phải chú trọng
giáo dục luân lý, giáo dục đạo đức, giáo dục nhân quả, chỉ cần làm tốt ba sự
giáo dục này thì thiên hạ thái bình. Đây là điều mà mỗi đế vương trong các triều
đại của Trung Hoa đều biết, nếu họ xem trọng thì xã hội an định, phồn vinh; nếu
họ lơ là thì sẽ xuất hiện hỗn loạn. Nếu bản thân không tuân thủ luân lý đạo đức
thì sẽ tạo thành loạn thế, quốc gia này sẽ diệt vong, chính quyền sẽ có người
chiếm đoạt thay thế. Người đoạt được chính quyền, họ nhất định khôi phục giáo dục
luân lý, đạo đức, nhân quả, họ nhất định sẽ khôi phục, chỉ cần họ vừa khôi phục
thì lại có một giai đoạn thịnh thế ổn định và hòa bình lâu dài xuất hiện. Chúng
tôi thấy được trong lịch sử, đây không phải là giả.
Cho nên Đẳng-giác Bồ-tát,
quý vị xem, vấn đề của các Ngài chính là một phần sanh tướng vô-minh sau cùng,
vừa phá phần này thì không còn tướng nữa. “Chỉ tâm sau cùng này, dùng trí
kim cang phá trừ”, đây là điểm cuối cùng của Bồ-tát, thành thật mà nói đây
là tập-khí vô-minh, vô-minh đã phá từ lâu, [còn] tập-khí vô-minh. Tập-khí rất
khó đoạn, thật sự cần phải có trí huệ kim cang. Phá một phẩm sanh tướng vô-minh
sau cùng, liền bổ sung vào quả vị Diệu-giác, Ngài liền thành Phật, Phật được gọi
là Diệu-giác. Bồ-tát cấp bậc cao nhất được gọi là Đẳng-giác, giống với Diệu-giác,
nhưng chưa đến Diệu-giác, giống với Diệu-giác, gọi là Đẳng-giác. Cho nên gọi là
bổ xứ, Ngài là hậu bổ Phật.
若依密教 “Nhược y Mật giáo” (Nếu căn cứ vào Mật
giáo), những điều trong Mật giáo nói, 一者,一實之理。於密宗初地菩薩之位,先得淨菩提心。自此一實,出生無量之三昧總持門,漸次增長至於第十地 “nhất giả, nhất thật chi lý. Ư Mật tông Sơ-địa Bồ-tát
chi vị, tiên đắc tịnh Bồ-đề tâm. Tự thử nhất thật, xuất sanh vô lượng chi
tam-muội tổng trì môn, tiệm thứ tăng trưởng chí ư đệ Thập-địa” (thứ nhất là lý của nhất
thật. Đối với địa vị Sơ-địa Bồ-tát của Mật tông, trước tiên được tịnh tâm Bồ-đề.
Từ nhất thật này, xuất sanh vô lượng môn tổng trì tam-muội, dần dần tăng trưởng
đến đệ Thập-địa), đây là cách nói trong Mật tông. Lý của nhất thật, lý
này dùng “nhất” để biểu thị, Phật pháp thường dùng, người xưa của Trung Hoa
cũng thường dùng, quý vị xem Thuyết Văn Giải Tự, chữ đầu tiên chính là chữ “nhất”,
nhất sanh vạn pháp, vạn pháp không lìa khỏi lý nhất thật. Nhất là gì? Nhất là
chân-tâm, nhị chính là vọng-tâm. Nhất tâm có thể sanh có thể hiện, nhị tâm có
thể biến, nhị tâm biến quý vị thành, quý vị xem, biến Thật-báo độ thành mười
pháp-giới, thành lục đạo luân hồi, vọng-tâm có thể biến. Nhất tâm có thể sanh bất
biến, người ở thế giới Cực Lạc đều là nhất tâm, nhất tâm chuyên niệm, đến thế
giới Cực Lạc rồi vẫn là nhất tâm chuyên niệm, mãi mãi không lìa khỏi nhất tâm,
chúng ta phải hiểu đạo lý này. Sau khi hiểu rõ thì chúng ta làm ngay bây giờ, bồi
dưỡng nhất tâm của chúng ta ngay bây giờ, tận hết khả năng mà buông xuống thế
duyên, không chỉ buông xuống thế duyên, mà cũng phải buông xuống Phật duyên. Đối
với Phật, chúng ta chỉ giữ gìn bốn chữ: tín, nguyện, trì danh. Bốn chữ này là Đại
sư Ngẫu Ích nêu ra, quá hay rồi, đơn giản rõ ràng. Thật tin, tin Tây Phương thật
sự có thế giới Cực Lạc, tin thế giới Cực Lạc thật sự có A Di Đà Phật, điều này
không phải là giả, còn lại đều là giả, điều này không phải giả, điều này là thật.
Tín nguyện này hợp lại chính là tâm Vô-thượng Bồ-đề.
Tiếp theo, chúng ta tu
như thế nào? Nhất hướng chuyên niệm, một phương hướng là Tây Phương, một mục
tiêu là thân cận A Di Đà Phật, chuyên niệm A Di Đà Phật thì đúng rồi. Quý vị
xem Pháp môn này dễ biết mấy, đại đạo đơn giản nhất. Câu A Di Đà Phật này,
Hoàng Niệm lão đã nói hết trong Tịnh Tu Tiệp Yếu Báo Ân Đàm rồi, một câu Phật
hiệu đầy đủ tất cả pháp, đầy đủ danh hiệu của tất cả chư Phật, đầy đủ danh hiệu
của tất cả Bồ-tát, tập hợp tất cả kinh điển mà Phật đã nói, bất luận là Đại-thừa
Tiểu-thừa, Hiển giáo Mật giáo, hoàn toàn nằm trong Phật hiệu, không sót một chữ.
Cho đến công đức trí huệ vô lượng vô biên của tất cả chư Phật trong mười phương
ba đời, cũng ở trong một câu Phật hiệu này, chỉ cần quý vị niệm câu Phật hiệu
này thì niệm tất cả rồi, khắp pháp-giới hư-không-giới, quý vị không sót một điều.
Cho nên nói công đức của Phật hiệu không thể nghĩ bàn, quý vị có thể không niệm
sao? Quý vị còn niệm gì? Niệm gì cũng không sánh bằng câu Phật hiệu này, đây là
thật không phải giả.
Cho nên trong Mật tông
nói, quả vị Sơ-địa Bồ-tát, Sơ-địa Bồ-tát minh tâm kiến tánh rồi, trước tiên được
tịnh tâm Bồ-đề, thanh tịnh tâm Bồ-đề. Từ “nhất thật” này, xuất sanh vô lượng
môn tổng trì tam-muội, vì sao vậy? Trong một câu Phật hiệu chính là vô lượng
Pháp môn tổng trì tam-muội, không thiếu điều gì. Dần dần nâng cao đến Thập-địa,
Sơ-địa, Nhị-địa, Tam-địa, Tứ-địa đến Thập-địa. Tiếp theo có ngoặc đơn, đây là
Thập-địa của Mật giáo, khác với Thập-địa của Hiển giáo. 更有第十一地 “Cánh hữu đệ Thập-nhất-địa”
(Lại có đệ Thập-nhất-địa), Thập-nhất-địa chính là
Phật địa. 以一轉生補佛處,是名一生補處 “Dĩ nhất chuyển sanh bổ Phật xứ, thị danh nhất
sanh bổ xứ” (Vì một lần chuyển sanh thì bổ sung vào ngôi Phật, đây gọi
là nhất sanh bổ xứ). Hậu bổ Phật, Phật địa này là hậu bổ Phật, Ngài vừa chuyển
sanh thì thành Phật rồi. Nơi ở của Bổ xứ Bồ-tát chính là trời Đâu-suất, Đâu-suất
có nghĩa là gì? Biết đủ, biết đủ mới có thể thành Phật, không biết đủ thì mãi
mãi không thể thành Phật. Biết đủ thế nào? Buông xuống triệt để, thân tâm thanh
tịnh, không có chút ô nhiễm, không có đối đãi, không có đối lập, tất cả pháp
trong khắp pháp-giới hư-không-giới đều bình đẳng, không có cao thấp, đây là bổ
xứ Bồ-tát. Bổ xứ Bồ-tát được đại hoan hỷ, quý vị xem tướng mà Di Lặc Bồ-tát thị
hiện là tướng hoan hỷ, đó là gì? Đó là pháp hỷ sung mãn. Nếu quý vị không hiểu
được ý nghĩa của pháp hỷ sung mãn thì quý vị hãy nhìn Di Lặc Bồ-tát. Từ đây thể
hội được pháp hỷ sung mãn, thật sự hoan hỷ, thật sự vui vẻ, lìa khổ được vui,
lìa rốt ráo khổ, được rốt ráo vui. Đây gọi là nhất sanh bổ xứ.
Tiếp theo, 如《大疏六》曰 “như Đại Sớ Lục viết” (Như quyển thứ sáu của Đại
Sớ nói), Đại Sớ này chính là Đại Nhật Kinh Sớ, quyển thứ sáu, 今此經宗 “kim thử kinh Tông” (tông của kinh này), kinh này là Kinh Đại
Nhật, tông là tông chỉ, 言一生者,謂從一而生也 “ngôn nhất sanh giả, vị
tùng nhất nhi sanh giả” (nói: nhất sanh là từ một mà sanh ra), nhất sanh này là từ nhất
mà sanh, 初得淨菩提心時,從一實之地,發生無量無邊三昧總持門。如是一一地中,次第增長,當知亦爾。迄至第十地滿足。未至第十一地 “sơ đắc tịnh Bồ-đề tâm thời,
tùng nhất thật chi địa, phát sanh vô lượng vô biên tam-muội tổng trì môn. Như thị nhất nhất địa
trung, thứ đệ tăng trưởng, đương tri diệc nhĩ. Hất chí đệ Thập-địa mãn túc. Vị
chí đệ Thập-nhất-địa” (khi mới được tịnh tâm Bồ-đề, từ địa vị nhất thật,
phát sanh vô lượng vô biên môn tổng trì tam-muội. Trong mỗi một địa vị như vậy,
thăng cấp theo trình tự, phải biết tích lũy như vậy. Mãi đến đệ Thập-địa đầy đủ,
chưa đến đệ Thập-nhất-địa), Ngài vẫn chưa đến Thập-nhất-địa. Điều mà chỗ
này nói đến, là trong Kinh Hoa Nghiêm giảng, chúng ta tu như thế nào? Chúng ta
đọc hết Kinh Hoa Nghiêm rồi, sau cùng Thập đại nguyện vương của Phổ Hiền Bồ-tát
dẫn về Cực Lạc, chúng tôi trở về Tịnh-độ từ Hoa Nghiêm rồi. Đây là bản ý của
Hoa Nghiêm, là đường tắt để thành Phật của Hoa Nghiêm. Quý vị đọc kỹ 53 lần
tham vấn của ngài Thiện Tài, ngài thị hiện cho chúng ta sự tu học của Tịnh tông,
thật sự giống như lão Hòa thượng Hải Hiền thị hiện cho chúng ta vậy. Lão Hòa
thượng Hải Hiền thị hiện cho chúng ta cũng là 53 lần tham vấn, nam nữ già trẻ,
các ngành các nghề trong xã hội này, đây chính là 53 vị thiện tri thức. Tiếp
xúc với họ, qua lại với họ, khuyên bảo họ niệm Phật, giúp họ sanh Tịnh-độ, đây
là ngài Thiện Tài. Lão Hòa thượng Hải Hiền làm rất giống, chúng ta phải tỉ mỉ
thể hội được, hiểu rõ dụng tâm của lão Hòa thượng.
Sơ-địa của Mật giáo thì
minh tâm kiến tánh, kiến tánh thành Phật rồi, từ Sơ-địa mãi đến Thập-địa, thăng
cấp lên từng địa vị một, trong kinh nói hay, từ lý của nhất thật phát sanh vô
lượng vô biên môn tổng trì tam-muội, hai chữ “nhất thật” này quan trọng. Nhất,
chân thật, nhất chính là chân thật, chân thật chính là nhất. Tu hành dùng gì để
tu? Dùng nhất thật để tu hành. Cho nên chúng ta trong đời sống thường ngày,
sinh hoạt, công việc, đối nhân tiếp vật phải dùng chân thành, chân thành chính
là nhất. Nhị thì không chân thành, nhị thì có đối lập, nhị thì có thiện ác, nhị
thì có thị phi, đó là pháp thế gian, “nhất” vượt khỏi thế gian. Câu “phát sanh
vô lượng vô biên môn tổng trì tam-muội” này là đức dụng của nhất thật, nhất thật
có thể sanh có thể phát vô lượng vô biên môn tổng trì tam-muội. Vô lượng vô
biên tam-muội là gì? Ngay trong vô lượng vô biên pháp, không khởi tâm không động
niệm thì gọi là tam-muội; tất cả pháp hoàn toàn thông đạt thấu suốt, gọi là tổng
trì. Trong Pháp môn niệm Phật của Tịnh tông, vô lượng vô biên tổng trì tam-muội
chính là câu Phật hiệu này. “Trong mỗi một địa vị như vậy, thăng cấp theo
trình tự, phải biết tích lũy như vậy”. Dùng nhất thật thành thói quen rồi,
từ đây không ngừng thăng cấp lên cao, từ Nhất-địa thăng cấp đến Nhị-địa, Nhị-địa
thăng cấp lên Tam-địa, Tam-địa thăng cấp lên Tứ-địa, cứ thăng cấp mãi đến Thập-địa,
thăng cấp theo trình tự, đến Thập-địa thì viên mãn rồi. Ngài vẫn chưa thể đến
Thập-nhất-địa.
爾時,從一實境界 “Nhĩ thời, tùng nhất thật
cảnh giới” (Lúc này, từ cảnh giới nhất thật), cảnh giới nhất thật là
Thật-báo-trang-nghiêm độ. Trong Kinh Hoa Nghiêm đã nói, Thật-báo độ này là thế
giới Hoa Tạng, trong Tịnh tông, đây chính là thế giới Cực Lạc, Thật-báo-trang-nghiêm
độ của thế giới Cực Lạc. 具足發生一切莊嚴 “Cụ túc phát sanh nhất
thiết trang nghiêm” (Phát sanh đầy đủ tất cả sự trang nghiêm), đây là tự nhiên, tất cả
sự trang nghiêm này chính là y chánh trang nghiêm của thế giới Cực Lạc. Trong
Luận Vãng Sanh nói với chúng ta, y-báo có 17 loại, chánh-báo, Phật có tám loại,
Bồ-tát vãng sanh có bốn loại. Sự trang nghiêm này đều là từ Tự-tánh lưu lộ ra,
không có khởi tâm động niệm. 唯少如來一位,未得證知。更有一轉法性生即補佛處 “Duy thiểu Như Lai nhất
vị, vị đắc chứng tri. Cánh hữu nhất chuyển Pháp-tánh sanh tức bổ Phật xứ” (Chỉ thiếu một quả vị
Như Lai, chưa được chứng biết. Có thêm một lần chuyển Pháp-tánh sanh liền bổ
sung vào ngôi vị Phật), đây gọi là nhất sanh bổ xứ. Vẫn phải thăng lên
một bậc, Thập-địa Bồ-tát, Thập-địa Bồ-tát lại thăng cấp lên, đây chính là một lần
chuyển Pháp-tánh sanh, đây chính là Đẳng-giác Bồ-tát, bổ sung vào ngôi vị Phật.
故名一生補處 “Cố danh nhất sanh bổ xứ”
(nên gọi là nhất sanh bổ xứ).
Đoạn tiếp sau đây, trích
dẫn lời của Đại sư Đàm Loan, ngài nói: 極樂菩薩或可不從一地至一地,而頓登補處 “Cực Lạc Bồ-tát hoặc khả
bất tùng Nhất-địa chí Nhất-địa, nhi đốn đăng bổ xứ” (Bồ-tát ở Cực Lạc có thể
không từ một địa vị lên một địa vị, mà nhanh chóng lên bậc bổ xứ). Nói thế nào cũng được,
đều có thể nói thông suốt, vì sao vậy? Sự việc về mặt Pháp-tánh không thể nghĩ
bàn, không chỉ phàm phu chúng ta không cách nào nghĩ được, mà La-hán, Bồ-tát
cũng không thể nghĩ bàn. Ngài Đàm Loan thật sự là Tổ sư Tịnh tông của chúng ta,
chúng tôi tin đây là đại triệt đại ngộ. Căn tánh của chúng sanh không như nhau,
có độn căn, có lợi căn, căn tánh không lanh lợi thì giống như leo thang vậy,
leo lên từng bậc từng bậc; căn tánh mãnh lợi thì họ có thể một bước đi lên. Giống
như biểu diễn võ thuật vậy, họ luyện thành công, chúng ta đi lên cao phải dùng
cầu thang, họ thì không cần, họ một bước thì có thể leo lên rồi. 言十地階次者,是釋迦如來,於閻浮提,一應化道耳 “Ngôn Thập-địa giai thứ
giả, thị Thích Ca Như Lai, ư Diêm Phù Đề, nhất ứng hóa đạo nhĩ” (Nói cấp bậc Thập-địa là
Thích Ca Mâu Ni Phật ở Diêm Phù Đề nói ra trong một thời kỳ ứng hóa mà thôi). Từng thứ cấp, từng cấp
bậc của Thập-địa, Thích Ca Như Lai đối với chúng sanh trên trái đất chúng ta,
chúng sanh trên trái đất không cao, không dễ dàng thể hội được, nguyên nhân là
như vậy. 他方淨土,何必如此 “Tha phương Tịnh-độ, hà tất như thử” (Tịnh-độ phương khác, cần
gì như vậy).
Thế giới vô lượng vô
biên, vô lượng vô biên chúng sanh, nghiệp lực, tập-khí [của họ] khác nhau,
không như nhau, cho nên Phật thuyết pháp, vì sao nói 84 ngàn Pháp môn? 84 ngàn
là tượng trưng cho vô lượng, là bởi vì ứng cơ thuyết pháp, chúng sanh thích gì
thì quý vị nói cho họ điều đó. Trong cảm nhận của tôi, người sáng lập tất cả
tôn giáo trên toàn thế giới, cho đến như các vị thời xưa của Trung Hoa, Phục
Hi, Thần Nông, Nghiêu Thuấn Vũ Thang, Hoàng Đế, đều là đại triệt đại ngộ, Phật
Bồ-tát tái lai. Người Trung Hoa thích Thánh nhân, ngài liền dùng thân phận
Thánh nhân xuất hiện. Những gì các ngài nói, những gì để lại, ngài học với ai?
Trên lịch sử không có ghi chép, thầy của các ngài là ai? Do khai ngộ. Ngạn ngữ
có câu nói: 無師自通 “vô sư tự thông” (không có thầy mà tự
thông), quý vị có tin không? Không có thầy mà tự thông. Quý vị
xem ở Trung Hoa, phần sau lịch sử có ghi chép, Đại sư Huệ Năng không có thầy mà
tự thông. Trước mắt chúng ta, lão Hòa thượng Hải Hiền không có thầy mà tự thông,
Phật pháp của ngài là ai dạy ngài? Ngài cũng chưa từng học qua, ngài không có
thầy, vì sao điều gì ngài cũng biết? Quý vị hỏi ngài, ngài đều có thể giải đáp
cho quý vị, không có vấn đề gì làm khó được ngài, không có thầy mà tự thông.
Cách dạy học của Phật, tất cả kinh mà Thích Ca Mâu Ni Phật đã giảng, do ai dạy
Ngài vậy? Ngài ở đời đã học tôn giáo Ấn Độ, là Triết học của Ấn Độ, hết thảy
Ngài đều không dùng đến. Chẳng phải là thị hiện cho chúng ta xem không có thầy
mà tự thông sao? Làm thế nào mới có thể thông? Trì giới, thiền-định, khai huệ.
Cho nên năm 30 tuổi, tất cả những gì Ngài đã học được từ trong tôn giáo, những
gì học được từ trong học phái Triết học thì hoàn toàn buông xuống, đến dưới cây
Bồ-đề để nhập định, khai ngộ trong định. Khai ngộ chính là minh tâm kiến tánh,
kiến tánh thành Phật, thành Phật chính là thành tựu Nhất-thiết-trí, điều gì
Ngài cũng biết, hơn nữa chắc chắn không có sai lầm. Những điều của thế gian thì
hoặc có thể vẫn có sai lầm, những gì từ Tự-tánh lưu lộ ra thì chắc chắn không
có sai lầm.
Xã hội hiện nay, khiến
cho không ít người cảm thấy hoang mang, người thế hệ trước qua đời rồi, người
biết được văn hóa truyền thống, học tập văn hóa truyền thống đều không còn ở thế
gian nữa, hiện nay chúng ta gặp phải khó khăn rồi, văn hóa truyền thống của
chúng ta học với ai? Vấn đề này là vấn đề của cả thế giới, mấy người trong
chúng ta tin không có thầy mà tự thông? Họ không có thầy, họ nói họ tự thông rồi,
họ nói năng lung tung thì quý vị làm sao? Khó! Không có thầy mà tự thông phải
có nền tảng rất tốt, đặt nền tảng từ chỗ nào? Luân lý, đạo đức, nhân quả, đặt nền
tảng từ đây. Người này thật sự có đức hạnh, tâm địa thanh tịnh, dục vọng rất
ít, tâm bi rất sâu, thật sự có tấm lòng cứu khổ cứu nạn của Bồ-tát, tỉ mỉ mà
quan sát, họ có Ngũ giới, Thập thiện không? Có Tam học, Lục độ không? Có Mười
nguyện Phổ Hiền không? Từ chỗ họ có thể thấy được những điều này, thì chúng ta
tin họ không có thầy mà tự thông; nếu không nhìn thấy những điều này thì là giả,
đây không phải là thật. Chúng ta không thể không biết điều này.
Nhất định phải có đức hạnh,
quý vị xem cổ Thánh tiên Hiền, bất luận là Trung Hoa hay nước ngoài, chúng ta lấy
năm khoa này để quan sát, hết thảy đều phù hợp. Luân lý, quan hệ giữa người với
người, quan hệ giữa người với vạn vật trong trời đất, là một thể. Từ một thể
lưu lộ ra vô duyên đại từ, đồng thể đại bi, lòng yêu thương vô điều kiện. Sự
yêu thương này, yêu thương của Thượng Đế, yêu thương của Thần Thánh, trong đó
không có tâm tư lợi, trong đó không có cái tôi. Người như vậy, họ ở trong tĩnh
lặng, tức là trong lúc tĩnh tọa, họ sẽ được định, sẽ khai ngộ. Vì sao chúng ta
không thể được định? Vì ngồi ở đó suy nghĩ lung tung, vọng niệm quá nhiều, tạp-niệm
quá nhiều, tập-khí quá nặng, cho nên không thể được định, không thể khai ngộ.
Chúng ta không làm rõ ràng, làm sáng tỏ những sự việc này thì đến bước đường
cùng; làm rõ ràng, làm sáng tỏ rồi thì con đường phía trước có một tia sáng. Bản
thân chúng tôi không còn kịp nữa, người trẻ tuổi rất nhiều, tìm kiếm trong những
người trẻ tuổi, chắc chắn có, có Phật Bồ-tát tái lai, khẳng định có. Những người
tái lai này, bẩm sinh thì có đức hạnh, hình như đức hạnh là do trời sinh. Chúng
ta phải cho họ cơ hội, chúng ta phải giúp đỡ họ, khiến họ từ từ trưởng thành,
khiến họ thành tựu, giúp họ trở về Tự-tánh, giúp họ đại triệt đại ngộ. Chúng
tôi có lòng tin có thể làm được điều này.
Cho nên tiếp theo tổng kết,
鸞師之說,深顯極樂菩薩圓解圓修 “Loan sư chi thuyết,
thâm hiển Cực Lạc Bồ-tát viên giải viên tu” (cách nói của Đại sư Đàm
Loan, hiển thị sâu sắc Bồ-tát ở Cực Lạc viên giải viên tu), lời nói này hay. Vãng
sanh thế giới Cực Lạc, giải, đối với tất cả pháp đều thông đạt thấu suốt, là
viên. Các ngài tu cũng là viên tu, tu một là tu tất cả, trong một có tất cả,
trong tất cả có một, “một” chính là tín nguyện trì danh, “tất cả” chính là tất
cả Pháp môn mà chư Phật Như Lai Thế Tôn đã thuyết đã tu, vô lượng vô biên. Một
nơi là tất cả nơi, tất cả nơi là một nơi. 故生彼國者,皆不退轉 “Cố sanh bỉ quốc giả,
giai bất thoái chuyển” (Nên người sanh về cõi nước ấy đều không thoái
chuyển). Sanh đến thế giới Tây Phương Cực Lạc, chữ “đều” này rất
quan trọng, tất cả đều là không thoái chuyển, không có người nào thoái chuyển.
Đây là vì sao vậy? Chúng ta biết, công đức oai thần bổn nguyện không thể nghĩ
bàn của A Di Đà Phật gia trì. Ở thế giới Cực Lạc không có điều kiện thoái chuyển,
mọi thứ đều giúp quý vị thăng cấp, không có thứ gì làm quý vị thụt lùi. Không
giống như thế gian này của chúng ta, ngũ dục lục trần là dụ hoặc lớn nhất, tâm
của quý vị có chút không kiên định thì đọa lạc rồi, thì thoái chuyển rồi. Thế
giới Cực Lạc không có duyên này, không có điều kiện này, muốn thoái chuyển cũng
không thể thoái chuyển, cảnh giới sáu trần mà sáu căn của quý vị tiếp xúc đều
là giúp quý vị thăng cấp. Sao có thể không đi đến nơi đó? Cho nên 頓超階次,圓證補處 “đốn siêu giai thứ, viên
chứng bổ xứ” (nhanh chóng vượt qua cấp bậc, viên chứng bổ xứ), viên chứng, chứng được
địa vị của Đẳng-giác Bồ-tát. 深顯彌陀大願,妙德難思 “Thâm hiển Di Đà đại
nguyện, diệu đức nan tư” (Hiển thị sâu sắc đại nguyện của đức Di Đà, đức
vi diệu khó nghĩ bàn), công đức vi diệu không cách nào tưởng tượng được.
Đoạn này của Pháp sư Đàm
Loan nói hay, đã bỏ sót ngài trong Tổ sư nhà Phật. Hạ Liên công, Hoàng Niệm lão
đều hy vọng bổ sung ngài vào, ngài Đàm Loan là tổ thứ hai, ngài Đạo Xước là tổ
thứ ba, ngài Thiện Đạo là tổ thứ tư. Vị trí Tổ sư của chúng ta nên có hai vị
này, không thể thiếu. Thời gian hôm nay hết rồi, chúng ta học tập đến đây thôi.
(Hết tập 197)
Nguyện đem công đức này
Hướng về khắp tất cả
Đệ tử cùng chúng sanh
Đều sanh nước Cực Lạc
Sớm viên thành Phật quả
Rộng độ khắp chúng sanh.
Nam Mô A Di Đà Phật.