Responsive Menu
Add more content here...

Tập 207 – Tịnh Độ Đại Kinh Khoa Chú 2014

TỊNH ĐỘ ĐI KINH KHOA CHÚ 2014 (Ging ln th 4)

PHM TH 7: TẤT THÀNH CHÁNH GIÁC

NHẤT ĐỊNH THÀNH CHÁNH GIÁC

Tp 207

Chủ giảng: Hòa thượng Thích Tnh Không.

Ging ti: Hip Hi Giáo Dc Pht Đà Hng Kông.

Thi gian: Ngày 5 tháng 7 năm 2015.

Dịch gi: Diu Hip.

Gio chánh: Thích Thin Trang.

Kính chào chư vị Pháp sư, chư vị đồng học, mời an tọa. Thỉnh mọi người cùng tôi quy y Tam Bảo:

A-xà-lê tồn niệm, ngã Đệ tử Diệu Âm, thỉ tùng kim nhật, nãi chí mạng tồn, quy y Phật Đà, lưỡng túc trung tôn; Quy y Đạt Ma, ly dục trung tôn; Quy y Tăng Già, chư chúng trung tôn. (3 lần)

Mời xem Đại Kinh Khoa Chú, trang 527, đếm ngược đến hàng thứ ba, bắt đầu xem từ câu thứ hai, bắt đầu xem từ hàng thứ ba, câu thứ hai:

極樂世界無量清淨莊嚴,全顯當人自性。心作心是,理事無礙 “Cực Lạc Thế giới vô lượng thanh tịnh trang nghiêm, toàn hiển đương nhân Tự Tánh. Tâm tác tâm thị, Lý S vô ngại” (Vô lượng thanh tnh trang nghiêm ca Thế giới Cực Lạc đều hiển bày Tự Tánh ca mỗi người. Tâm tác tâm thị, Lý S vô ngại). Chúng ta xem câu này, đây là ca ngợi về Thế giới Cực Lạc. Thế giới Cực Lạc từ đâu mà có? Rốt cuộc là có hay không? Đây là vấn đề tồn tại một cách phổ biến. Không ít tôn giáo đều cho rằng vạn vật trong vũ trụ là do Thần sáng tạo ra, do Đấng tạo hóa tạo ra, do Thượng Đế tạo ra. Trong Phật pháp không có cách nói này, nói được rõ ràng nhất, sáng tỏ nhất, đơn giản nhất, là Đại sư Huệ Năng – Tổ sư đời thứ sáu của Thiền tông chúng ta. Ngài nói như thế nào? Ngài nói: 何期自性,能生萬法 “Hà kỳ Tự Tánh, năng sanh vạn pháp” (Nào ngờ Tự Tánh có thể sanh ra vạn pháp), dịch sang bạch thoại của chúng ta hiện nay là: không ngờ Tự Tánh có thể sanh ra vạn pháp. Vạn pháp trong vũ trụ này từ đâu mà có? Do Tự Tánh sở sanh, sở hiện. Là thật hay giả? Đến ngày nay, được nhà Cơ học Lượng tử chứng minh rồi. Ba bí mật của vũ trụ, mang đến sự nghi hoặc cho đại chúng ở thế gian này, đặc biệt là nhà Triết học, nhà khoa học, biết bao nhiêu người đang nghiên cứu vấn đề này. Nguồn gốc của vũ trụ, khoa học nói là [từ] vụ nổ lớn, vụ nổ lớn, vẫn còn rất nhiều vấn đề không thể giải thích được, tạm thời giữ cách nói này. Phật giáo không nói vậy, Phật giáo nói là do Tự Tánh của chúng ta mê rồi biến hiện ra. Tự Tánh là gì? Đại sư Huệ Năng Minh tâm Kiến tánh, miêu tả Tự Tánh cho chúng ta biết, đây chính là báo cáo sự thành tựu tu học của ngài, cũng tức là luận văn tốt nghiệp của ngài. Năm câu nói, bốn câu trước miêu tả về Tự Tánh, hình dạng của Tự Tánh, câu sau cùng nói có thể sanh ra vạn pháp, [là] sự khởi tác dụng của Tự Tánh.

Tự Tánh là thanh tịnh, tuyệt đối không có ô nhiễm. Trước đây nghe lời này, chúng ta nghe qua cũng rất khó hiểu được, người thông thường nghe thấy cũng rất khó lý giải được ý nghĩa mà ngài nói là gì. Người hiện thời chúng ta nghe câu nói này, cảm nhận rất sâu, vì sao vậy? Vì mọi thứ hiện nay đều là ô nhiễm, ngay cả rau cải mà chúng ta ăn cũng bị ô nhiễm, lúa gạo bị ô nhiễm, ruộng đất nông canh bị ô nhiễm, nước bị ô nhiễm, chúng ta bị những thứ ô nhiễm này làm đầu óc mơ màng, đây rốt cuộc là việc như thế nào? Trong kinh Phật nói với chúng ta, Tự Tánh không có ô nhiễm, ô nhiễm từ đâu ra? Tự Tánh mê mất thì gọi là Vô minh, nói là một niệm không giác nên sanh Vô minh. Vô minh là gì? Danh từ trong Phật học gọi là A-lại-da, trong Bản thể của Tự Tánh không có điều này. Bản thể Tự Tánh là một mảng quang minh. Lão tử nói hay: 道可道,非常道;名可名,非常名 “Đạo khả đạo, phi thường đạo; Danh khả danh, phi thường danh”. Hai câu nói này, nếu không phải là Minh tâm Kiến tánh thì không nói ra được. Vì vậy, tôi nói các vị đại Thánh của Trung Hoa: Khổng tử, Mạnh tử, lão Trang, các ngài đều Minh tâm Kiến tánh, ở Ấn Độ gọi là Phật-đà, gọi là Pháp thân Bồ-tát, ở Trung Hoa gọi là Thánh nhân, Hiền nhân, đại Thánh đại Hiền, đại Thánh chính là đức Phật, đại Hiền chính là Bồ-tát, Pháp thân Bồ-tát, mới có thể nói ra được. Thế gian này thật sự có Phật Bồ-tát ra đời, người phương Tây, chúng ta xem tôn giáo phương Tây, quý vị có thể nói Chúa Giê-su không phải Đại triệt Đại ngộ sao? Thánh Muhammad không biết chữ, [nhưng] nói ra một bộ Kinh Koran, người bên cạnh ghi chép lại cho ngài, đều là Đại triệt Đại ngộ! Biết chữ hay không biết chữ cũng không sao, Đại sư Huệ Năng cũng không biết chữ. Đến ngày nay, ngay trước mặt chúng ta, vãng sanh vào năm ngoái, lão Hòa thượng Hải Hiền vãng sanh vào tháng 1 năm 2013, không biết chữ, chưa từng đi học, [nhưng] Đại triệt Đại ngộ. Chúng ta vẫn còn may mắn, sống cùng ngài trên trái đất này một khoảng thời gian. Thế gian này có người kiến Tánh, chỉ là ngài không chịu nói, vì sao không chịu nói? Vì duyên khác nhau. Vào thời đức Phật Thích Ca Mâu Ni thì có thể nói, giảng kinh dạy học 49 năm, có thể nói. Quý vị xem, Đại sư Huệ Năng, không có duyên thù thắng như vậy, ngài còn phải đến nhóm thợ săn để ẩn náu 15 năm, đợi cơ duyên chín muồi rồi mới bước ra hoằng pháp lợi sanh. Rất có thành tựu, dưới pháp hội của ngài có hơn 40 người khai ngộ, “không tiền tuyệt hậu”, trước Đại sư không có sự hưng thịnh như vậy, sau thời ngài mãi đến ngày nay cũng không thấy được.

Cũng như trong Phẩm Phổ Môn của Kinh Pháp Hoa đã nói, 32 ứng hóa của Bồ-tát Quán Thế Âm, nên dùng thân nào độ được thì [ngài] hiện thân ấy, tự tại; Nên dùng phương pháp gì để độ được thì [ngài] nói cho họ biết phương pháp đó. Ở Trung Hoa, giảng luân lý đạo đức, [vì] người Trung Hoa thích; Ở Ấn Độ, giảng Đại thừa, Tiểu thừa, [vì] người Ấn Độ thích. [Ở] Ấn Độ thì xuất hiện bằng thân phận Phật Bồ-tát, ở Trung Hoa thì xuất hiện bằng [thân phận] Thánh Hiền nhân, ở phương Tây thì dùng tôn giáo, sứ giả của Chúa, của Thượng Đế xuất hiện, đều là thích ứng với lòng người. Vì vậy, đức Phật không có định pháp để nói, đức Phật cũng không có thân phận nhất định để thị hiện, thân gì ngài cũng thị hiện, 32 ứng hóa của Bồ-tát Quán Âm là 32 thân phận khác nhau, là tượng trưng, trong mỗi ứng hóa đều vô lượng vô biên, chúng sanh vô lượng vô biên, căn tánh đều khác nhau. Cho nên những người Đại triệt Đại ngộ, [thì với] những kinh điển mà các ngài đã nói, chúng ta quan sát, đọc tụng kỹ càng, sẽ phát hiện trên cơ bản là giống nhau, phương hướng và mục tiêu gần như đều nhất trí. Tôn giáo đưa quý vị đến Thiên đường, có quá nhiều Thiên đường, vì sao vậy? Vì nghiệp mà chúng sanh đã tạo không như nhau. Thế giới Cực Lạc cũng là một Thiên đường, Thế giới ấy rất thù thắng, là đại nguyện do A Mi Đà Phật đã phát ra. Đại nguyện này hi hữu, chư Phật Như Lai tuy là phước đức và trí huệ như nhau, nhưng không nghĩ ra, A Mi Đà Phật đã nghĩ ra rồi. Đây là vô cùng từ bi, có phương pháp gì có thể giúp chúng sanh khổ nạn trong Lục đạo ở khắp Pháp giới Hư không giới, một đời thoát khỏi Lục đạo luân hồi, thành tựu đạo Vô thượng? Nguyện này quá hi hữu, quá hiếm lạ, chư Phật không nghĩ ra, Ngài đã phát đại nguyện này! Cũng bởi vì lý do này, cho nên chư Phật Như Lai tán thán Ngài: 光中極尊,佛中之王 “Quang trung cực tôn, Phật trung chi vương” (Quang minh tôn quý nhất, là vua trong chư Phật).

Chư Phật Như Lai thấy Ngài thành tựu rồi, có cần phải tranh đua với Ngài không? Ngài có thể tạo ra Thế giới Cực Lạc, tôi cũng có thể nhẫn nại kiến tạo, đây là sự thật, không giả chút nào. Chẳng phải càng nhiều Thế giới Cực Lạc càng tốt sao? Nhưng lại không biết không cần nhiều Thế giới Cực Lạc, chỉ cần một Thế giới là đủ. Vì sao vậy? Quý vị biết Thế giới Cực Lạc lớn thế nào không, khắp Pháp giới Hư không giới! Cho nên A Mi Đà Phật vừa phát nguyện, thì tất cả chư Phật đều cùng hưởng thụ được rồi. Chúng ta đây là ở đâu? Chúng ta ở trong Thế giới Cực Lạc. Thế giới Cực Lạc cách chúng ta mười vạn ức cõi nước Phật, đó là cách nói phương tiện của đức Phật, nói ví dụ so sánh. Còn thực tế? Thực tế thì ở ngay nơi này. Như vậy mọi người mới hiểu được, chư Phật Như Lai hoan hỉ tán thán, không cần phải tranh đua. Quý vị xem điều kiện đơn giản biết mấy, chỉ cần tín nguyện thì có thể vãng sanh. Trong Yếu Giải, Đại sư Ngẫu Ích nói rất hay, có thể vãng sanh hay không hoàn toàn do có tín nguyện hay không, quý vị thật sự tin, quý vị không nghi ngờ. Người như vậy rất hiếm có, không dễ gì tìm được, thật sự vừa nghe liền tiếp nhận, không nghi ngờ, tin tưởng, tin rằng thật sự có Thế giới Cực Lạc, thật sự có A Mi Đà Phật, thì họ có đủ điều kiện vãng sanh rồi. Chỉ cần nguyện ấy rất khẩn thiết: tôi nhất định phải vãng sanh, thì đức Phật chắc chắn đến tiếp dẫn quý vị; Quý vị có nghi ngờ thì Ngài không đến đâu. Phẩm vị cao hay thấp, đó là công phu niệm Phật sâu hay cạn, là hai việc khác nhau. Cho nên Đại sư Ngẫu Ích không phải là người đơn giản, thị hiện ở thế gian, [là] Tổ sư đời thứ chín của Tịnh Độ tông chúng ta, người đầu triều Thanh cuối triều Minh. Nói với chúng ta, đây là có người hỏi ngài: ngài cầu sanh Tịnh Độ, phẩm vị nào thì ngài hài lòng? Ngài nói với người khác, tôi chỉ cần Hạ hạ phẩm vãng sanh thì tôi mãn nguyện rồi. Đây là dạy cho chúng ta, [tăng thêm] tín tâm cho chúng ta, đừng tranh những danh vị đó, không cần, chỉ cần vãng sanh là được rồi. Vì sao vậy? Vì chỉ cần vãng sanh đến Thế giới Cực Lạc, đến Thế giới Cực Lạc được 48 nguyện của A Mi Đà Phật gia trì, thảy đều là A-duy-Việt-trí Bồ-tát, là bình đẳng. Có giai cấp hay không? Có, nhưng trên thực tế, trên thực tế là bình đẳng. Đến Thế giới Cực Lạc thì trí huệ bình đẳng, thần thông đạo lực bình đẳng, tất cả thọ dụng đều bình đẳng, bình đẳng với ai? Bình đẳng với A Mi Đà Phật. Không cách nào tưởng tượng được, bình đẳng với Bồ-tát, La-hán thì đã không tệ rồi, mỗi một người đến Thế giới Cực Lạc, [dù] Hạ hạ phẩm vãng sanh cũng bình đẳng với A Mi Đà Phật. Thân tướng bình đẳng, đây là thật sự bình đẳng, tướng mạo đều như nhau, được tạo ra từ cùng một khuôn mẫu với A Mi Đà Phật, phàm phu chúng ta không cách nào phân biệt được, nhìn thấy [ở] Thế giới Cực Lạc đều là A Mi Đà Phật; Người ở Thế giới Cực Lạc tuyệt đối không nhầm lẫn, các ngài có Thần thông, các ngài nhìn thấy rất rõ ràng.

\全顯當人自性 “Toàn hiển đương nhân Tự Tánh” (Đều hiển bày Tự Tánh ca mỗi người), câu này quan trọng, Thế giới Cực Lạc từ đâu mà có? Từ Tự Tánh của mỗi người. A Mi Đà Phật dẫn đầu, chúng ta phát nguyện giống như Ngài, sanh tâm giống như Ngài, làm việc giống như Ngài, vì vậy nơi đó bình đẳng. Bốn chữ phía sau quá quan trọng, đây là y cứ lý luận của Phật pháp Đại thừa, 心作心是 “tâm tác tâm thị”, chính là bốn chữ này. Được trích từ trong Quán Kinh, đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã nói cho Hoàng hậu Vi Đề Hi, 是心是佛,是心作佛 “thị tâm thị Phật, thị tâm tác Phật” (tâm này là Phật, tâm này làm Phật), nguyên văn là tám chữ. Phật chính là Chân Tâm của chúng ta, Chân Tâm chính là Phật, cho nên tâm này là Phật, tâm này làm Phật, là Chân Tâm, không phải Vọng tâm. Chúng sanh trong Lục đạo của chúng ta hiện nay, dùng tâm gì? Vọng tâm, Vọng tâm là A-lại-da, A-lại-da làm chủ. Còn Chân Tâm? Chân Tâm không hiện nữa. Còn hay không? Còn. Chân Tâm đứng sang một bên rồi, Vọng tâm ở ngay giữa, cho nên gọi là mê hoặc điên đảo, đảo ngược chân vọng. Biến thành gì? Biến thành Lục đạo luân hồi, Lục đạo luân hồi là từ đây mà có. Tâm hiện thức biến, có thể hiện ra Lục đạo, có thể hiện ra Mười pháp giới là Chân Tâm, trong đó nảy sinh nhiều sự biến hóa như thế là Vọng tâm, Vọng tâm biết biến, không biết hiện, biết biến. Vì vậy, hiển hiện của Chân Tâm gọi là Pháp giới Nhất Chân, chính là Thật Báo Trang Nghiêm độ trong bốn độ. Ai cư trú ở đó? Pháp thân Bồ-tát, được gọi là Pháp thân Bồ-tát chính là Minh tâm Kiến tánh, Đại triệt Đại ngộ, là nơi ở của các ngài. Người ở nơi đó được vô lượng thọ, tất cả vạn vật đều là vô lượng thọ, cây cối hoa cỏ vĩnh viễn không tàn úa rơi rụng, chúng không có sanh diệt, chúng không có biến hóa, chúng là thật. Tất cả những gì có biến hóa là giả, quý vị xem cảnh giới được tiếp xúc bởi sáu căn của chúng ta ngày nay, thảy đều là pháp sanh diệt, niệm trước diệt rồi niệm sau sanh, niệm sau nối tiếp niệm trước, sẽ không gián đoạn. Nhưng chúng ta phải biết, nhà khoa học nói với chúng ta, kinh Phật nói với chúng ta, sự sanh diệt của Khởi tâm Động niệm, mỗi một sự sanh diệt đều là riêng biệt, tuyệt đối không có hai ý niệm nào tương đồng, đây chính là giả. Vì vậy, thế giới được cảm nhận trong giác quan của chúng ta là tương tự tương tục, không phải thật sự tương tục, thật sự tương tục thì trước và sau như nhau, nhưng không phải, chỉ tương tự tương tục, hình như là tương tục, thật ra là mỗi niệm đều riêng biệt.

Tần số của ý niệm nhanh như thế nào? Trong Kinh Bồ-tát Xử Thai có một đoạn kinh văn, đức Phật Thích Ca Mâu Ni hỏi Bồ-tát Di Lặc, nói phàm phu chúng ta, phàm phu Lục đạo, khởi lên một ý niệm, 心有所念 “tâm hữu sở niệm”, ý niệm này, 幾念幾相識耶 “kỷ niệm kỷ tướng thức da”, đây là kinh văn, nguyên văn trong kinh. Tâm hữu sở niệm, chúng ta nói một ý niệm, một ý niệm này có bao nhiêu ý niệm vi tế? Chúng ta không hiểu được điều này, có bao nhiêu ý niệm vi tế; Có bao nhiêu tướng, tướng chính là hiện tượng vật chất; Có bao nhiêu thức, thức chính là chủng tử lưu lại trong A-lại-da thức, đức Phật đã hỏi ba việc. Câu trả lời của Bồ-tát Di Lặc, 彌勒言:拍手彈指之頃 “Di Lặc ngôn: phách thủ đàn chỉ chi khoảnh” (Bồ-tát Di Lặc nói: trong khoảng vỗ tay, khảy ngón tay), một khảy ngón tay, một khảy ngón tay có bao nhiêu niệm? 三十二億百千念 “Tam thập nhị ức bách thiên niệm” (32 ức trăm ngàn niệm). Một khảy ngón tay này, chúng ta [trong] một giây, hiện nay dùng giây làm đơn vị, một giây có thể khảy bao nhiêu lần? Người trẻ tuổi có thể lực tốt, họ nói với tôi có thể khảy bảy lần. 32 ức trăm ngàn, trăm ngàn là mười vạn, 32 ức nhân cho mười vạn, thành 320 ngàn tỷ. Bồ-tát Di Lặc trả lời, một khảy ngón tay này [có] 320 ngàn tỷ ý niệm. Đức Phật hỏi bao nhiêu niệm? Chỉ trong thời gian một khảy ngón tay, có 320 ngàn tỷ ý niệm. Một giây nhân cho bảy, thì bằng 2 triệu 240 ngàn tỷ, trong một giây. Những điều nói đến trong đó, niệm là ý niệm, Khởi tâm Động niệm, tần số ý niệm cao như vậy, ý niệm nào là ta? Tướng cũng nhiều như thế, tướng là từ đâu mà có? Là ảo tướng sanh ra từ sóng dao động của ý niệm, không phải là thật. Đây là nhà Cơ học Lượng tử hiện nay nói với chúng ta, bí mật của vũ trụ được vạch trần rồi.

Khoa học cũng không dễ dàng, đó là dùng Toán học, dùng thiết bị quan sát mà thấy được. Đức Phật nói rõ hơn, sáng tỏ hơn nhà khoa học, cho nên nhà khoa học bội phục kinh Phật đến năm vóc sát đất, sao Ngài biết được vậy? Không có khoa học kỹ thuật, làm sao Ngài biết được? Đức Phật không dùng những vật bên ngoài, Ngài dùng nội công, dùng Thiền định. Hiểu rõ triệt để cả vũ trụ, chính là khoa học, Triết học đạt đến cứu cánh viên mãn, trong nhà Phật nói là người như thế nào? Bát địa trở lên. 52 cấp bậc Bồ-tát trong Kinh Hoa Nghiêm, năm cấp bậc cao nhất đều thấy được, tâm ấy thật sự là thanh tịnh đến tột bậc, “tịnh cực quang thông”, quang này là quang minh của trí huệ, soi thấy, soi thấy cả vũ trụ, rõ ràng sáng tỏ, thông suốt thấu triệt. Bát địa, Cửu địa, Thập địa, Đẳng giác, Diệu Giác, năm cấp bậc này, không phải chỉ riêng cấp bậc Phật nhìn thấy, mà năm cấp bậc nhìn thấy. Thất địa trở xuống thì không được, biết được có sự việc này, nhưng không đích thân nhìn thấy, Bát địa là đích thân nhìn thấy. Nhà khoa học hiện nay đã vạch trần bí mật đầu tiên rồi, vật chất là gì? Đáp án là vốn dĩ không có thứ này, thứ này hoàn toàn là ảo tướng. Vì vậy, trong Kinh Kim Cang nói rất hay, 凡所有相皆是虛妄 “phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng” (những gì có tướng đều là hư vọng), 一切有為法,如夢幻泡影 “nhất thiết Hu vi pháp, như mộng huyễn bào ảnh” (tất cả pháp Hu vi như mộng, ảo, bọt, bóng), ví dụ so sánh này rất hay. Mọi người đều có kinh nghiệm nằm mộng, quý vị xem, trong mộng có hay không, hình như đều là thật, sau khi tỉnh mộng rồi, cũng không tìm được dấu vết. Hiện nay chúng ta ở trong vũ trụ này chính là đang nằm mộng, biết được chính mình đang nằm mộng, vậy là giác ngộ rồi; Không biết chính mình đang nằm mộng, vậy là mê hoặc. Phật giáo trong thế gian này, mục đích dạy mọi người là gì? Mục đích chính là giúp quý vị giác ngộ, trước tiên là Tiểu ngộ, rồi đến Đại ngộ, sau cùng là Triệt ngộ, Triệt ngộ thì thành Phật. Thành Phật là gì? Trở về Tự Tánh, quý vị vốn là Phật, không hiếm lạ một chút nào, trở về bản lai diện mục của quý vị thì giáo học của đức Phật viên mãn rồi.

Đến khi nào ta mới có thể viên mãn thành Phật? Không nhất định, mỗi người không giống nhau, căn tánh khác biệt, đây là thiện căn phước đức khác nhau, [người] có thiện căn phước đức thì nhanh, không có thiện căn phước đức thì cứ từ từ. Nhiều đời nhiều kiếp, đức Phật cũng không rời khỏi chúng ta, Ngài luôn dõi theo chúng ta, luôn nghĩ cách giúp đỡ chúng ta, vấn đề là chúng ta chịu tiếp nhận, chúng ta chịu tiếp nhận một phần thì Ngài giúp một phần; Chịu tiếp nhận mười phần thì Ngài giúp mười phần, ứng cơ thuyết pháp, thật tuyệt diệu! Vì vậy, chúng ta có mấy phần thành tín, trong Ấn Quang Đại sư Văn Sao nói rất hay: “Một phần thành kính được một phần lợi ích, mười phần thành kính được mười phần lợi ích”, quý vị vạn phần thành kính thì quý vị được vạn phần lợi ích, được vạn phần lợi ích, vậy thì ngay trong đời này nhất định vãng sanh, vãng sanh chắc chắn thành Phật, nhanh! Phải dùng tâm chân thành, phải dùng tâm cung kính. Ở đất nước chúng ta, thành kính là nguồn gốc của văn hóa truyền thống. Trong văn tự nước ta, thông thường là dùng hiếu, kính để biểu thị. Đức Phật dùng từ này cũng hay vô cùng, chân thành, chân thành đến tột bậc, chí thành cảm thông.

Thời xưa, con cái đối với cha mẹ là chân thành suốt đời, hiện nay không còn nữa, hiện nay không có ai dạy. Thời xưa thì cha mẹ dạy, thầy giáo dạy, trưởng bối dạy, người lớn đều dạy, bất luận ở nơi đâu, thấy trẻ em không thành thật, thì sẽ kêu chúng đến để dạy bảo chúng. Khi chúng tôi còn nhỏ thường xuyên gặp được, các bạn nhỏ chơi với nhau, trong nông thôn, cũng kết đội kết nhóm, ba người, năm người ra ngoài chơi, đi chơi trên núi, đi chơi bên bờ hồ, đi chơi bên bờ sông, gây sự với nhau, cãi nhau, người lớn đi đường ở gần đó: các bạn nhỏ qua đây qua đây, đều nghe lời bước đến, rất ngoan ngoãn tiếp nhận lời dạy của người lớn, bị cha mẹ của chúng tôi nhìn thấy, mau chóng đến cảm ơn người khách ấy. Hình như đều cần phải quản, con trẻ là thế hệ sau, ai nấy đều có trách nhiệm. Hiện nay không còn nữa, hiện nay không dám quản, quản thì sẽ gây ra họa mất. Phương pháp duy nhất, ở nước ngoài thì báo cảnh sát, để cảnh sát quản lý. Thế giới này thay đổi rồi, những năm nay biến đổi quá lớn, thời kỳ kháng chiến còn tạm, khái niệm luân lý đạo đức nhân quả vẫn còn tương đối sâu, nhưng sau thế chiến thứ hai, sau khi thắng lợi, sáu bảy mươi năm này thay đổi quá lớn, khiến chúng ta không cách nào tưởng tượng được.

心作心是 “Tâm tác tâm thị”, bốn chữ này hay, vì sao Thế giới lại biến thành Cực Lạc? Do chân thành, cung kính, tâm thiện, nghiệp thiện tạo thành. Đức Mi Đà thuần thiện, người vãng sanh cũng thiện theo, A Mi Đà Phật là do nghiệp lực của chính mình biến hiện, mỗi người vãng sanh là cộng nghiệp với A Mi Đà Phật biến hiện, điều này không phải giả. Trái đất này trước mắt chúng ta vì sao lại trở thành tệ như vậy? Do nghiệp bất thiện biến hiện. Sau thế chiến thứ hai, có người nào không theo đuổi giàu sang? Dục vọng bành trướng, tăng đến mức không có điểm dừng, cho nên chỉ cần đạt được mục đích mà bất chấp thủ đoạn, tạo nên hiện tượng ngày nay. Phát tài rồi, như thế nào? Khổ, không vui, giàu mà không vui, chẳng bằng nghèo mà vui. Quý mà bất an, quý là làm quan, địa vị cao rồi, địa vị rất cao, nhưng tâm bất an. Vẫn là tâm tác tâm thị, câu này giải quyết tất cả rồi. Trong kinh, đức Phật dạy chúng ta, trong Kinh Hoa Nghiêm nói: 應觀法界性,一切唯心造 “Ưng quán Pháp giới tánh, nhất thiết duy tâm tạo” (Nên quán tánh Pháp gii, tất cả do tâm tạo), trong kinh Đại thừa thường nói: 一切法從心想生 “Nhất thiết pháp tùng tâm tưởng sanh” (Tất cả pháp từ tâm tưởng sanh), 相由心生,色由心生 “tướng do tâm sanh, sắc do tâm sanh”, sắc tướng đều chỉ cho vật chất, tâm ở đây chính là ý niệm.

Thế giới Cực Lạc thuần tịnh thuần thiện, người vãng sanh, không có người nào có niệm ác, mang niệm ác đến Thế giới Cực Lạc thì niệm ác tự nhiên được hóa giải, vì sao vậy? Vì không có duyên. Ví dụ như quý vị đến Thế giới Cực Lạc, [ở] Thế giới Cực Lạc thì quý vị vẫn có hưởng thụ, hưởng thụ vẫn là có tâm tham, vậy vì sao tâm tham không khởi lên được? Bởi vì tất cả sự hưởng thụ đều theo ý nguyện của mình, quý vị nghĩ thì điều đó ở ngay trước mặt. Nghĩ vàng, vàng ở trước mặt, nhìn thấy rồi như thế nào? Không có chỗ dùng, không dùng thì không cần nữa. Muốn ăn, cơm nước, món hợp khẩu vị nhất, bày đầy đủ trên bàn; Lại nghĩ, hiện nay tôi không cần những thứ này nữa, chỗ chúng ta cần, nơi đó không cần, người không cần dùng thứ này để bảo dưỡng thân thể, vừa không cần thì không còn gì nữa, ngay cả chén đũa cũng không cần dọn. Cho nên tâm tham đó không khởi lên được, ăn mặc đi lại thảy đều tự tại.

A Mi Đà Phật, quý vị xem năng lực của Ngài rất lớn, A Mi Đà Phật phân thân vô lượng vô biên, đến vô lượng vô biên cõi nước chư Phật để tiếp dẫn chúng sanh. Chúng sanh chân thật niệm Phật vãng sanh Thế giới Cực Lạc, tâm chúng ta vừa mới khởi, A Mi Đà Phật nhận được rồi, nhận được thì liên hệ với quý vị, quý vị có thọ mạng, đợi khi thọ mạng quý vị hết rồi, Ngài đến tiếp dẫn; Nếu quý vị không cần thọ mạng nữa, con muốn đi ngay bây giờ, Ngài thật sự đến, Ngài liền đưa quý vị đi; Có thể phân vô lượng vô biên thân. Mỗi một người vãng sanh đều có năng lực giống với Phật, chúng ta cũng có thể phân vô lượng vô biên thân, chúng ta phân thân làm gì? Chúng ta phân thân đến mười phương Thế giới để lạy Phật; Lạy Phật, cúng Phật là tu phước báo, nghe Phật giảng kinh thuyết pháp là khai trí huệ. Phân thân vô lượng vô biên, đến mười phương Thế giới để học tập, phước huệ song tu, sự thành tựu đó quá nhanh rồi. Ở chỗ chúng ta đây đọc một bộ Đại Tạng Kinh cả đời không hết, đến Thế giới Cực Lạc, một ngày, không đến một ngày thì đọc hết rồi; Không cần đọc, đức Phật giảng cho chúng ta nghe, chúng ta ở đó nghe, phân thân, vô lượng vô biên phân thân, không cần đến một ngày thì đã viên mãn. Thế giới Cực Lạc tốt là tốt ở những chỗ này, không có chướng ngại, tự tại vô ngại.

Chúng ta xem tiếp hàng bên dưới, 水鳥樹林,宣流正法 “thủy điểu thọ lâm, tuyên lưu Chánh pháp” (nước, chim, cây, rừng: tuyên lưu Chánh pháp). Khoáng vật ở Thế giới Cực Lạc, động vật ở Thế giới Cực Lạc, rừng cây ở Thế giới Cực Lạc đều đang thuyết pháp. Vì vậy, ở Thế giới Cực Lạc, những gì mắt nhìn thấy, tai nghe được, mũi ngửi được, thân tiếp xúc được đều là Chánh pháp, không có điều gì không giúp quý vị trở về Tự Tánh, Đại triệt Đại ngộ, Minh tâm Kiến tánh, là một Đạo tràng như vậy. Đạo tràng ấy quá tốt đẹp, quá hiếm có! Ở Thế giới Cực Lạc, quý vị xem âm thanh, tai nghe được; Sắc, mắt thấy được; Hương, mũi ngửi được; Thảy đều có ánh sáng. Ánh sáng là chiếu khắp, 悉增道念“tất tăng đạo niệm” (đều tăng niệm đạo), đều là giúp chúng ta thăng cấp. Vì vậy, ở Thế giới Cực Lạc thì quý vị sẽ không thoái chuyển, quý vị sẽ không giải đãi, quý vị sẽ không lười biếng. 重重無盡,自在無礙,全是圓明具德 “Trùng trùng vô tận, tự tại vô ngại, toàn thị Viên Minh C Đức” (Trùng trùng vô tận, tự tại vô ngại, đều là Viên Minh C Đức), viên là viên mãn, minh là quang minh, đầy đủ vạn đức, 不可思議 “bất khả tư nghị” (không thể nghĩ bàn), chúng ta không cách nào tưởng tượng. Đây là nói về hiện tượng.

Tiếp theo nói với chúng ta, 舉體是事事無礙法界 “cử thể thị Sự Sự Vô Ngại Pháp giới” (toàn thể là Pháp giới Sự Sự Vô Ngại), toàn thể ở trong Tứ Vô Ngại Pháp giới, Sự Sự Vô Ngại là đạt đến cứu cánh viên mãn, không có chướng ngại, ở chỗ chúng ta có rất nhiều chướng ngại, ở Thế giới Cực Lạc không có chướng ngại. 復以聞名便登不退 “Phục dĩ văn danh tiện đăng Bt thoái” (Lại vì nghe danh hiệu liền lên ngôi v Bt thoái), đây là trong 48 nguyện chúng ta đã học, nghe được danh hiệu của A Mi Đà Phật, việc tu hành chứng quả của quý vị liền được không thoái chuyển. 見樹契悟無生 “Kiến thọ khế ngộ Vô sanh” (Thấy cây khế ngộ Vô sanh), ở Thế giới Cực Lạc là cây báu, [với] mỗi một cây, quý vị đều thưởng thức vô tận, cây đều phóng quang, trong quang minh đều có thể thấy được cõi nước chư Phật khắp mười phương, nhìn thấy chư Phật đang giảng kinh thuyết pháp, cũng nhìn thấy chúng sanh đang tạo nghiệp, thấy được toàn bộ trong quang minh của cây. Thấy cây khế ngộ Vô sanh, giúp quý vị khai ngộ, giúp quý vị hiểu rõ chân tướng. 十念必生淨土 “Thập niệm tất sanh Tịnh Độ” (Mười niệm chắc chắn sanh Tịnh Độ), câu này quan trọng, là cốt lõi của Tịnh Độ, nguyện thứ 18.

Hai tháng trước, cha của Tổng giám đốc Tạ vãng sanh, biểu pháp cho chúng ta “mười niệm chắc chắn vãng sanh”. Cha của anh cả đời không niệm Phật, không có tu Tịnh Độ, tuy là một người đại thiện, làm việc tốt, nhưng không có hứng thú gì đối với Pháp môn Niệm Phật Tịnh Độ. Con trai tin, học Phật rồi, khuyên ông, ông đều lắc đầu. Nay đến lúc lâm chung, con trai ông sốt ruột, nếu không thể vãng sanh Tịnh Độ, luân hồi trong Lục đạo thì phiền phức, đến đời nào mới có thể rời khỏi? Cho nên hai tiếng trước khi vãng sanh, tức là hai tiếng trước khi tắt thở, lần sau cùng khuyên cha của anh, thật sự có Thế giới Cực Lạc, cha có tin được không? Cha anh ấy gật đầu, không lắc đầu, mà gật đầu. Anh rất vui mừng, lại nói với ông, thật sự có A Mi Đà Phật. Cha của anh cũng gật đầu. Được rồi, con niệm Phật, cha niệm theo con. Chỉ hai tiếng đó thì cha anh ấy vãng sanh rồi, tướng tốt hi hữu, hôm đó hơn một ngàn người có mặt, ngửi thấy mùi hương lạ, nhìn thấy ánh sáng, nhìn thấy hoa sen. Toàn thân mềm mại, ba ngày sau nhập liệm ông, ba ngày rồi nhưng toàn thân mềm mại, cảm động được rất nhiều rất nhiều người, hành thiện tích đức tốt như vậy, ra đi tốt như vậy.

Câu tiếp theo, 凡夫例登補處,此皆十方國土之所無,極樂同居所獨有 “phàm phu lệ đăng Bổ xứ, thử giai thập phương quốc độ chi sở vô, Cực Lạc Đồng Cư sở độc hữu” (hàng phàm phu theo đó lên ngôi Bổ xứ, đây đều là điều không có trong cõi nước mười phương, riêng Đồng Cư độ ở Cực Lạc có thôi). Đây chính là nghe danh [được] bất thoái, thấy cây liền khai ngộ, là ngộ Vô sanh Pháp nhẫn, Vô sanh Pháp nhẫn trong ba Pháp nhẫn, mười niệm chắc chắn vãng sanh. Phàm phu sanh đến Thế giới Cực Lạc, trí huệ, thần thông, đức tướng của họ bình đẳng với Bổ xứ Bồ-tát, những điều này không có trong mười phương Thế giới, chỉ riêng Đồng Cư độ ở Cực Lạc có, không nói đến Phương Tiện độ, Thật Báo độ, Thường Tịch Quang độ ở Thế giới Cực Lạc, không nói đến, mà [nói] thấp nhất là Phàm Thánh Đồng Cư độ. Vốn dĩ những điều này đều là Thật Báo độ mới có, Phương Tiện Hữu Dư độ không có, Đồng Cư độ tất nhiên càng không có. Hiện nay, Đồng Cư độ có, liền nói với chúng ta, trên lý thì Thế giới Cực Lạc có cấp bậc, có giai cấp, trên sự thì bình đẳng, điều này không thể nghĩ bàn. 故云無上殊勝超世之願也 “Cố vân vô thượng thù thắng siêu thế chi nguyện dã” (Nên gọi là nguyện vô thượng thù thắng siêu thế). 48 nguyện này là vô thượng thù thắng, vượt hơn Thế giới của tất cả chư Phật, không thể nghĩ bàn.

Chúng ta xem phần tiếp theo, 必至無上道 “tất chí Vô thượng Đạo” (nhất định đạt đến Đạo Vô thượng). Chữ必 “tất”, chữ này là khẳng định hoàn toàn, không có một chút nghi ngờ nào, quý vị nhất định, 至 “chí” chính là đạt đến, quý vị nhất định đạt đến, 無上道 “Vô thượng Đạo” chính là viên mãn thành Phật. Thứ nhất là dạy chúng ta vãng sanh, vãng sanh đến Thế giới Cực Lạc, quý vị nhất định đạt đến Vô thượng Đạo. Tiếp theo Niệm lão giải thích cho chúng ta, 道者,菩提也 “Đạo dã, Bồ-đề dã” (Đạo tức là Bồ-đề). Vô thượng Đạo chính là Vô thượng Bồ-đề, điều chứng được trên quả địa Như Lai. 如來所得之道 “Như Lai sở đắc chi đạo” (Đạo mà đức Như Lai chứng đắc) gọi là Bồ-đề, 更無有能超越而居其上者,故曰無上道 “cánh vô hữu năng siêu việt nhi cư kỳ thượng giả, cố viết Vô thượng Đạo” (không có đạo nào có thể vượt qua và cao hơn quả vị ấy na, nên gọi là Vô thượng Đạo), không còn cao hơn nữa, Ngài đạt đến đỉnh điểm rồi, không còn ai cao hơn Ngài nữa, đây chính là A Mi Đà Phật. Mỗi một người vãng sanh đến Thế giới Cực Lạc, tương lai thành Phật, thành vị Phật như thế nào? Thành vị Phật hoàn toàn tương đồng với A Mi Đà Phật, điều này là chắc chắn đúng. A Mi Đà Phật gia trì viên mãn cho quý vị, 48 nguyện không thiếu một nguyện nào, sự gia trì của 48 nguyện, gia trì một cách viên mãn, nhất định thành tựu. Quý vị còn đến đâu để tìm, không còn tìm được nơi nào tốt như vậy nữa. Vì vậy, thật sự làm rõ ràng, làm sáng tỏ thì một lòng một dạ, tôi chỉ [tu] một môn này, đối với chính mình.

Đối với xã hội, đối với đại chúng, nếu như có duyên, chúng ta có thể tận tâm tận lực báo đáp ơn, báo đáp ơn chúng sanh, báo đáp ơn chư Phật. Đức Phật yêu thương chúng sanh, quý vị xem, nhà Phật nói, đức Phật đối với chúng sanh, 無緣大慈,同體大悲 “vô duyên đại từ, đồng thể đại bi”. Bi là cứu khổ, vì sao phải cứu khổ? Vì chúng sanh cùng một thể với ta; Từ là ban vui, giúp họ hạnh phúc, giúp họ vui vẻ. Vô duyên đại từ, không có điều kiện, vì sao vậy? Vì một thể, còn có điều kiện gì chứ! Hoàn toàn khẳng định lời Trang tử đã nói: 天地與我同根,萬物與我一體 “Thiên địa dữ ngã đồng căn, vạn vật dữ ngã nhất thể” (Trời đất cùng một gốc vi ta, vạn vật là một thể vi ta), là thật, không giả chút nào. Vì vậy, vô duyên đại từ, đồng thể đại bi, từ trong Tự Tánh lưu xuất ra, chúng sanh cần chúng ta giúp đỡ, chúng ta toàn tâm toàn lực giúp họ. Họ không thể tiếp nhận, không thể tiếp nhận thì chúng ta đừng quan tâm đến họ, đây gọi là Phật độ người có duyên. Họ có thể tiếp nhận thì gọi là có duyên, họ không muốn tiếp nhận, đây chính là không có duyên.

Trái đất hiện nay, bởi vì khoa học kỹ thuật phát triển, nên giao thông tiện lợi, thông tin phát triển, điều này trước đây không có, trái đất biến thành một thôn trang, thôn địa cầu, quan hệ giữa người với người vô cùng mật thiết, nếu không chú trọng luân lý đạo đức nhân quả, mà còn chú trọng cạnh tranh, đấu tranh, chiến tranh, vậy thì chỉ một con đường chết. Hiện nay không thể chiến tranh, cuối đời của Tiến sĩ Toynbee, những năm 1970 ông đã tham quan Nhật Bản ba lần, nói rất nhiều về vấn đề này, hằng ngày ông nghĩ, làm thế nào giúp thế giới này chấm dứt chiến tranh, ông chỉ nghĩ đến việc này. Ông nghĩ rất hay, làm thế nào để các quốc gia trên thế giới không còn chiến tranh với nhau nữa? Tức là thống nhất. Tôi tin ý niệm này, linh cảm này của ông là được khai quật từ lịch sử Trung Hoa. Quý vị xem, cuối đời nhà Chu, 500 năm Xuân Thu Chiến Quốc, là thời loạn, nhân dân rất đau khổ. Sau cùng, Tần Thủy Hoàng thống nhất, ông không được trải qua những ngày tháng tốt đẹp, 15 năm thì mất nước. Nhà Hán thay thế nhà Tần, thật sự thống nhất lớn, từ đó về sau, các nước chư hầu đó không còn chiến tranh nữa. Phương pháp này hay, cho nên ông nghĩ đến, làm thế nào để cả thế giới thống nhất, trở thành một quốc gia thì sẽ không có chiến tranh, vĩnh viễn sẽ không dùng đến vũ khí hạt nhân nữa.

Nhưng sự việc trái với ý nguyện, trước thế chiến thứ hai, quốc gia chủ quyền trên trái đất đại khái vẫn chưa đến 100 nước, sau chiến tranh thì rất nhiều quốc gia từ bỏ thuộc địa, độc lập rất nhiều, biến thành 140 mấy quốc gia chủ quyền, quốc gia chủ quyền này càng nhiều thì càng phiền phức, sợ nảy sinh xung đột, dẫn đến đại chiến. Cho nên nhiều lần nói ai thống nhất? Người Trung Hoa. Vì sao người Trung Hoa thống nhất? Người Trung Hoa thống nhất giống như sự thống nhất thời nhà Chu, sự thống nhất của Hạ Thương Chu là thống nhất văn hoá, không phải dùng chiến tranh, cũng không phải dùng chính trị. Tên gọi của mỗi quốc gia đều tồn tại, tên gọi của khu vực, không phải là thống nhất chính trị, không phải là thống nhất quân sự, cũng không phải là khoa học kỹ thuật, cũng không phải là kinh tế tài chính, không phải những điều này, mà là gì? Văn hóa. Đặc biệt là nhà Tần, nhà Tần thống nhất chữ viết, dùng chữ Triện, sự thống nhất thật sự là vào thời nhà Hán, nhà Hán dùng Tiểu Triện, sau đó diễn biến thành Lệ Thư, chữ Khải. Văn hóa thống nhất, văn ngôn thống nhất. Hiện nay, ở các địa phương trong đất nước Trung Hoa có rất nhiều tiếng địa phương, đó đều là tiếng nói của các nước nhỏ thời xưa, ngôn ngữ của các nước nhỏ, nhưng nói chuyện thì không vấn đề gì, mỗi người nói tiếng của mình, viết thành văn tự thì hoàn toàn như nhau, đây là chữ viết thống nhất.

Vì vậy, hiện nay chúng tôi cũng nghĩ đến, những kinh điển của Phật giáo lưu truyền đến Trung Hoa rất nhiều, tôi đã từng hỏi thầy Phương, vì sao nguyên văn đều thất lạc, đều mất đi, hiện nay không tìm được nữa? Nguyên văn tiếng Phạn, vì sao không lưu giữ lại? Thầy đã nói với tôi một câu, thầy nói người Trung Hoa thời xưa khác với người Trung Hoa thời nay, người Trung Hoa thời xưa vô cùng tự hào, dịch thành văn ngôn văn của chúng ta thì có thể tồn tại mãi mãi. Con phải biết điều này, tiếng Phạn là chữ viết phiên âm, sau mấy trăm năm, người biết tiếng Phạn cũng đọc không hiểu, lời nói này rất có lý. Vì vậy, những học giả chuyên gia trên toàn thế giới, điều hay thì phải lưu truyền cho ngàn năm vạn đời, đều phải dịch sang văn ngôn văn của Trung Hoa để tiếp tục lưu truyền, đây là văn hóa.

Tiến sĩ Toynbee là người chuyên nghiên cứu lịch sử văn hóa thế giới, ông chia văn hóa thế giới thành 20 mấy loại, tốt nhất chính là văn hóa Đông Á. Trong văn hóa Đông Á thì Trung Hoa là chủ, còn có ba vệ tinh: Hàn Quốc, Nhật Bản, Việt Nam; Cho nên ông nói với người khác rất rõ ràng, bốn quốc gia này thống nhất thì có thể thống nhất toàn thế giới. Ba quốc gia ấy vào 200 năm trước, đều dùng văn ngôn văn chữ Hán của Trung Hoa, họ thật sự có được chữ viết của nước họ là sau chiến tranh, họ tự mình mới phát minh ra. Đó chính là trước thế chiến thứ hai, chữ viết của họ đều là văn ngôn văn của Trung Hoa, hiện nay muốn tìm lại thì cũng không khó. Tính cảnh giác của Hàn Quốc tương đối cao, hiện nay họ đề xướng rồi, chính phủ Nhật Bản vẫn chưa chính thức tuyên bố, tình hình Việt Nam thì tôi biết tương đối ít, ít tiếp xúc. Thật sự phải khôi phục, họ có nền tảng. Văn hóa thống nhất.

Còn có một điều, tôn giáo thống nhất, tôn giáo phải đoàn kết, tôn giáo phải trở về giáo dục, tôn giáo phải học tập lẫn nhau. Vì vậy, rất cần thiết Đại học Tôn Giáo, như vậy thì tôn giáo vĩnh viễn sẽ không nảy sinh mâu thuẫn, sẽ không có đấu tranh. Sự việc liên quan đến tôn giáo, lần này chúng tôi đến tham quan châu Âu, nhìn thấy rồi, người Anh cũng đã bắt đầu, [là] việc tốt. Hy vọng mỗi một tôn giáo đều có thể biên soạn kinh điển thành một quyển tinh hoa 360, để mọi người cùng nhau học tập. Phải kiến lập một Đạo tràng lớn, tất cả hoạt động tôn giáo đều ở một nơi, chúng tôi đã làm thực nghiệm điều này, thực nghiệm thành công rồi. Năm 1999, chúng tôi ở Singapore, không phải là ở một chỗ, mà hoạt động do mỗi tôn giáo tổ chức, những tôn giáo khác như chúng ta đều cử đại diện đến tham dự. Đương nhiên điều lý tưởng nhất là có một Đạo tràng lớn, tất cả tôn giáo đều đóng trụ sở trong đó, như mỗi một tôn giáo đều có một văn phòng làm việc. Trung tâm hoạt động hoàn toàn dùng phương thức phòng học, phòng học lớn và nhỏ khác nhau, quý vị đông người thì đến phòng học lớn, ít người thì đến phòng học nhỏ, hoạt động ở cùng một nơi, gặp nhau cũng đều chào hỏi, sẽ không nảy sinh xung đột. Tôn giáo đối với cả xã hội, chỉ có sự giúp đỡ về mặt tích cực. Tôi tin có không ít tôn giáo vẫn còn có Thánh huấn, trong Phật giáo chính là trước tác của Đại đức xưa. Như Ấn Quang Đại sư Văn Sao, Toàn Tập của ngài Liên Trì, Ngẫu Ích, có những tập sách từ những vị tổ của [tôn giáo] họ, trong đó là điều hay, cũng có thể trích ra thành 360. Cổ Thánh tiên Hiền, chúng ta đều cần phải học tập, đối với sự tu dưỡng thân tâm, gia đình hạnh phúc, sự nghiệp thành công của chính mình, đều có sự giúp đỡ, xã hội an định, quốc gia giàu mạnh, thiên hạ thái bình. Làm điều này thành công rồi, tôi tin trên trái đất sẽ xuất hiện ngàn năm thịnh thế, người ấy có phước báo. Hoàn toàn nhờ vào giáo dục, hoàn toàn nhờ vào giáo dục tôn giáo, tuyệt đối không thể lơ là đối với tôn giáo. Bắt tay tìm điểm chung, gác lại sự khác biệt, phần chung thì chúng ta học trước, phần khác biệt thì để về sau hãy nói, tôn giáo sẽ có thể đoàn kết rất nhanh, vậy thì có thể cống hiến về mặt tích cực cho xã hội.

Vô thượng Đạo chính là Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. 如《法華經.壽量品》:每自作是意,以何令眾生,得入無上道,速成就佛身 “Như Pháp Hoa Kinh – Thọ Lượng Phẩm: Mỗi tự tác thị ý, dĩ hà linh chúng sanh, đắc nhập Vô thượng Đạo, tốc thành tựu Phật thân” (Như trong Phẩm Thọ Lượng của Kinh Pháp Hoa nói: Mỗi người tự nghĩ vầy, làm sao khiến chúng sanh, được vào Vô thượng Đạo, mau thành tựu thân Phật). Đây là một bài kệ, “mỗi tự tác thị ý”, chính mình thường xuyên phải có ý niệm này, ý niệm này tốt, chư Phật luôn luôn có ý niệm này. Dùng phương pháp gì để giúp chúng sanh, “dĩ hà linh”, dùng phương pháp gì giúp chúng sanh, “đắc nhập Vô thượng Đạo”, rất nhanh chóng thành tựu được thân Phật, thành tựu Vô thượng Bồ-đề? Chúng ta biết, chính là Kinh Vô Lượng Thọ, chính là 48 nguyện, chính là tín nguyện trì danh, những gì đã nói trong Phẩm Thọ Lượng của Kinh Pháp Hoa chính là Pháp môn Tịnh Độ, đây là thật, không phải là giả. Pháp môn Tịnh Độ đặc biệt khó tin, nếu không giảng rõ ràng, không giảng thấu suốt; Giảng rõ ràng, giảng thấu suốt, còn phải giảng nhiều lần. Có một hạng người, họ có thể thành tựu trong một đời, tuy là không tin, nhưng họ thích nghe, nghe đi nghe lại không dừng, chỉ cần có một sở thích như vậy thì họ sẽ thành tựu. Vì sao vậy? Vì nhất định có một ngày họ thật sự làm sáng tỏ, họ liền hạ quyết tâm, buông xuống hết tất cả. Nếu giống với việc đọc sách thông thường, nghe vài lần thì không muốn nghe nữa, điều này tôi học rồi, trước đây học qua rồi, không muốn đọc nữa, vậy thì khó rồi.

Vì vậy, hiện nay có một bộ sách hay, giúp đỡ rất lớn đối với Tịnh tông, bộ sau cùng của lão Cư sĩ Hoàng Niệm Tổ, là do chính ngài nói, có không ít đồng học cầm theo máy ghi âm, ghi hình để đối chiếu, viết lại thành văn tự, Tịnh Tu Tiệp Yếu Báo Ân Đàm, phân lượng không lớn, đối với Đại thừa Tiểu thừa, Tông môn Giáo hạ, Hiển giáo Mật giáo, ngài đều nói đến, mỗi Pháp môn đến sau cùng đều quy về Tịnh Độ, thật tuyệt diệu! Quyển sách này có thể dẫn dắt chúng ta vào cửa. Sau khi thật sự vào cửa, quý vị làm sáng tỏ rồi, quý vị đọc thêm những kinh điển Đại thừa khác thì được, không phải không thể đọc, có thể đọc. Nhưng mục tiêu và phương hướng của chúng ta nhất định là đặt ở Thế giới Cực Lạc, A Mi Đà Phật, tôi phải đến Thế giới Cực Lạc, tôi phải thân cận A Mi Đà Phật, tôi phải bái A Mi Đà Phật làm thầy, làm Đệ tử của đức Mi Đà. Bốn câu đó trong Kinh Pháp Hoa, quý vị thật sự được thọ dụng. Nói đến ai? Chính là nói đến người ấy, bản thân chúng ta muốn thành tựu, cũng giúp người khác thành tựu, luôn nghĩ đến làm sao giúp chúng sanh tin Tịnh Độ, nhận biết Tịnh Độ, nương vào phương pháp Tịnh Độ mà tu hành, nhất định thành Vô thượng Đạo.

法藏菩薩亦復如是 “Pháp Tạng Bồ-tát diệc phục như thị” (Bồ-tát Pháp Tạng cũng lại như vậy), bởi vì bốn câu kệ được nói trong Kinh Pháp Hoa, Tỳ-kheo Pháp Tạng làm được rồi, Ngài欲令眾生至無上道 “dục linh chúng sanh chí Vô thượng Đạo” (mong giúp chúng sanh đạt đến Vô thượng Đạo). 至於必至者,可有二解 “Chí ư tất chí giả, khả hữu nhị giải” (Còn với từ “tất chí”, có hai cách giải thích), “tất chí” là nhất định có thể đạt được. Cách giải thích thứ nhất, 必至無上道者,本願主體也 “tất chí Vô thượng Đạo, bổn nguyện chủ thể dã” (“tt chí Vô thượng Đạo” là chủ thể của bổn nguyện). Bổn nguyện chính là 48 nguyện, chủ thể của 48 nguyện chính là một câu này, 48 nguyện giúp tất cả chúng sanh, nhất định đạt đến Vô thượng Đạo, nguyện nào cũng như vậy. Quý vị xem nguyện thứ nhất, là nói sanh đến Thế giới Cực Lạc, thân thể giống với A Mi Đà Phật, thân tử ma chân kim sắc, thân kim cang bất hoại, thật sự là vô lượng thọ, không phải là giả, thân kim cang bất hoại. Vì sao vậy? [Niệm] đầu tiên của phàm phu là thân thể của tôi, họ không có nghĩ gì khác, tôi mạnh khỏe là quan trọng, đặc biệt là tuổi trung niên trở lên, phải làm sao để bảo dưỡng thân thể, để không sinh bệnh. [Muốn] không sinh bệnh thì có phương pháp tốt, thân thể là vật chất, vật chất là tùy theo ý niệm mà chuyển, cảnh tùy tâm chuyển, tâm tốt thì không dễ dàng sinh bệnh. Tâm gì là tốt nhất? Làm sao giúp chúng sanh nhất định thành Vô thượng Đạo, ý niệm này tốt. Luôn luôn có ý niệm này, người ác thì ta cũng giúp họ, người hủy báng ta, người hãm hại ta, người gây phiền phức cho ta, người chướng ngại ta, chúng ta cũng đều phải giúp đỡ họ, phải dùng tâm bình đẳng. Vì sao vậy? Vì họ cũng “vốn là Phật”, nhưng mê sâu hơn ta. Ta rất may mắn, ban đầu ta cũng mê hoặc, nhưng ta giác ngộ rồi, ta quay đầu rồi; Họ vẫn chưa giác ngộ, họ vẫn chưa quay đầu, chúng ta phải dùng phương tiện thiện xảo giúp đỡ họ. Cách phổ biến nhất để giúp họ chính là hồi hướng cho họ, chúng ta giảng kinh, tu hành, niệm Phật, lạy Phật, đem những công đức này hồi hướng cho họ, hồi hướng rộng khắp. Lạy Phật tuyệt đối đừng bỏ sót một câu, sau cùng chúng ta phải thay tất cả chúng sanh khắp Pháp giới Hư không giới lạy Phật ba lạy, cầu sanh Tịnh Độ, hy vọng tất cả chúng sanh khắp Pháp giới đều cầu sanh Tịnh Độ, tâm lượng của chúng ta được mở rộng.

一一願中,皆以正覺自誓,如次之二句 “Nhất nhất nguyện trung, giai dĩ Chánh giác tự thệ, như thứ chi nhị cú” (Trong mỗi một nguyện, đều dùng lời tự thệ nguyện Chánh Giác, như hai câu tiếp theo), 斯願不滿足,誓不成等覺 “tư nguyện bất mãn túc, thệ bất thành Đẳng Giác” (không thỏa mãn nguyện này, thề không thành Đẳng Giác). [Ngài] nghĩ nguyện này rất sâu, nếu không thể thực hiện 48 nguyện thì Ngài không thành Phật. Bồ-tát Pháp Tạng thành Phật đã mười kiếp, chứng tỏ 48 nguyện của Ngài, mỗi nguyện đều được thực hiện, nguyện nào cũng thoả mãn rồi. Tiếp theo nói, 蓋四十八願,具體願文雖各有異 “cái tứ thập bát nguyện, cụ thể nguyện văn tuy các hữu dị” (về 48 nguyện, tuy nguyện văn cụ thể của mỗi nguyện có khác biệt), 48 nguyện, mỗi nguyện không như nhau, 但大願共本 “đãn đại nguyện cộng bổn” (nhưng đại nguyện cùng gốc), nguồn gốc của sự mong muốn chung, thật sự là 為入無上道同成正覺 “vị nhập Vô thượng Đạo đồng thành Chánh Giác” (vì vào Vô thượng Đạo, cùng thành Chánh Giác). Mỗi một nguyện đều vì điều này, sự việc là như vậy, cho nên nhất định đạt đến Vô thượng Đạo, chính là nguyện chung, cốt lõi của 48 nguyện, cùng thành Chánh Giác. 故《法華.勸持品》 “Cố Pháp Hoa – Khuyến Trì Phẩm” (Nên Phẩm Khuyến Trì của Kinh Pháp Hoa), trong đó có một câu như vầy: 我不愛身命,但惜無上道 “Ngã bất ái thân mạng, đãn tích Vô thượng Đạo” (Con chẳng quý thân mạng, chỉ tiếc Vô thượng Đạo). 是乃以無上道為大願之主體也 “Thị nãi dị Vô thượng Đạo vi đại nguyện chi chủ thể dã” (Đây là dùng Vô thượng Đạo làm chủ thể của đại nguyện). Đời này của chúng ta, muốn một đời được sanh đến Thế giới Cực Lạc một cách rất bình an, vững chắc thì phải phát nguyện này, không những phải phát nguyện, mà còn phải luôn để trong tâm. Thật sự không cần phải quý tiếc thân mạng, phát đại nguyện ở trên, vô cùng tự nhiên được oai thần bổn nguyện của A Mi Đà Phật gia trì, quý vị đồng tâm đồng nguyện với A Mi Đà Phật, thân thể của quý vị được A Mi Đà Phật chăm lo. Cũng có nghĩa là, A Mi Đà Phật muốn thân thể này của quý vị ở thế gian biểu pháp, làm tấm gương tốt cho người học Phật, làm tấm gương tốt cho người niệm Phật. Giống như lão Hòa thượng Hải Hiền thọ mạng dài như vậy, [là vì] biểu pháp.

Lão Hòa thượng Hải Hiền tuổi tác quá lớn, thể lực không đủ, tâm có dư nhưng sức chẳng đủ, muốn vãng sanh, cho nên đức Phật bèn giao hẹn với ngài, khi nào con nhìn thấy một quyển sách, quyển sách đó là “Nếu Muốn Phật Pháp Hưng, Chỉ Tăng Tán Thán Tăng”, con nhìn thấy quyển sách ấy thì Ta sẽ đến tiếp dẫn con vãng sanh. Vì vậy, khi ngài nhìn thấy quyển sách ấy, vui mừng vô cùng, chủ động yêu cầu người khác chụp hình cho ngài. Chụp xong tấm hình đó, hai ngày sau thì ngài ra đi rồi, không bị bệnh. Hôm ra đi, ngài còn làm việc cả ngày, ở trong vườn rau làm đất, nhổ cỏ, tưới nước, làm đến tối. Khi mặt trời xuống núi, người khác nói với ngài: Trời tối rồi, có thể nghỉ ngơi rồi. Lão Hòa thượng nói thế nào? Sắp rồi, tôi làm sắp xong rồi, làm xong thì tôi không cần làm nữa. Người khác nghe không hiểu lời nói của ngài, làm xong thì ngài vãng sanh đến Thế giới Cực Lạc, không ở bên này làm nữa, tự tại biết mấy, ra đi vào ban đêm. Vì vậy phải quý trọng Vô thượng Đạo, biểu pháp chính là quý trọng Vô thượng Đạo, làm cho người khác xem. Phải có trí huệ, phải có lòng nhẫn nại, biểu pháp một cách thành tựu viên mãn. Người khác nhìn thấy hiểu được thì tốt; Không hiểu được thì để sau này họ từ từ suy nghĩ, nhất định có một ngày họ sẽ giác ngộ, không cần gấp gáp. Chúng ta chỉ cần làm tấm gương tốt, không làm tấm gương xấu, điều này quan trọng hơn tất cả.

Chủ thể của đại nguyện là thành Vô thượng Đạo, Vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Thứ hai, 以無上道為大願之果也 “dĩ Vô thượng Đạo vi đại nguyện chi quả dã” (lấy Vô thượng Đạo làm quả của đại nguyện), cũng nói thông suốt được, 48 nguyện, nguyện nào cũng hy vọng thành Vô thượng Đạo. 《淨影疏》曰:得果決定 “Tịnh Ảnh Sớ viết: Đắc quả quyết định” (Trong Tịnh Ảnh Sớ nói: Nhất định được quả), tức là nhất định được quả, hy vọng tất cả chúng sanh đều có thể đạt đến Vô thượng Đạo, 故云必至無上道 “cố vân tất chí Vô thượng Đạo” (nên nói là chắc chắn đạt đến Vô thượng Đạo). Những chữ này vô cùng khẳng định, không có một chút nghi ngờ gì.

Chúng ta xem tiếp bài kệ bên dưới, 普令成佛 “Phổ Linh Thành Phật” (Rng Khiến Thành Phật). Mời xem kinh văn:

【復為大施主。普濟諸窮苦。令彼諸群生。長夜無憂惱。出生眾善根。成就菩提果。】 “Phục vi đại thí chủ, phổ tế chư cùng khổ, linh bỉ chư quần sanh, trường dạ vô ưu não, xuất sanh chúng thiện căn, thành tựu Bồ-đề quả” (Lại làm đại thí chủ, giúp khắp người nghèo khổ, khiến các chúng sanh ấy, vĩnh viễn không ưu não, xuất sanh các căn lành, thành tựu quả Bồ-đề).

Một bài rưỡi kệ, sáu câu, chúng ta xem Chú Giải của Niệm lão. 復為大施主,普濟諸窮苦 “Phục vi đại thí chủ, phổ tế chư cùng khổ” (Lại làm đại thí chủ, giúp khắp người nghèo khổ). 大施主者,於一切人行大施。至於所施者,為是財耶?法耶?淨影師云:法施化益,是謂法施。憬興師非之曰:欲濟貧苦,必財施故。是謂財施也。又《宗鏡錄九十五》曰:以無法財,名為貧窮。故知普濟貧苦,即須法財並施 “Đại thí chủ giả, ư nhất thiết nhân hành đại thí. Chí ư sở thí giả, vi thị Tài da? Pháp da? Tịnh Ảnh Sư vân: Pháp thí hóa ích, thị vị Pháp thí. Cảnh Hưng Sư phi chi viết: Dục tế bần khổ, tất Tài thí cố, thị vị Tài thí dã. Hựu Tông Cảnh Lục Cửu Thập Ngũ viết: Dĩ vô pháp tài, danh vi bần cùng. Cố tri phổ tế bần khổ, tức tu pháp tài tịnh thí” (Đại thí chủ là thực hành b thí ln với tất cả mọi người. Còn về những gì được thí, là tài hay là pháp? Sư Tịnh Ảnh nói: Pháp thí giáo hóa được lợi ích, đây gọi là Pháp thí. Sư Cảnh Hưng nói khác: Muốn giúp [người] nghèo khổ, ắt phải Tài thí, đây là Tài thí. Thêm nữa, trong quyển 95 của Tông Cảnh Lục nói: Vì không có pháp và tài nên gọi là bần cùng. Cho nên biết rng giúp khắp nghèo khổ thì cần phải bố thí cả pháp lẫn tài). Chúng ta xem đoạn này, vì sao vậy? Vì đây là điều chúng ta phải học, đây gọi là tu hành.

Chúng sanh từ vô lượng kiếp đến nay hình thành điều gì? Tham, sân, si, mạn, nghi, chính bởi vì như vậy, quý vị mới tạo Lục đạo luân hồi; Nếu không có năm thứ này, thì đã thoát khỏi Lục đạo luân hồi từ lâu rồi. Năm thứ này, trong Phật pháp gọi là năm độc, là gốc rễ của sanh tử luân hồi, chúng ta muốn ra khỏi Lục đạo luân hồi, vãng sanh đến Thế giới Cực Lạc, thì nhất định phải buông xuống những thứ này. Bên trong, phải tẩy trừ những thứ này sạch sẽ, không tham nữa, tâm liền thanh tịnh; Không sân hận, không nổi giận nữa. Vì sao vậy? Vì tham sân si mạn nghi này là năm gốc của địa ngục, đều là đọa địa ngục, chiêu cảm báo ứng không tốt, chính là tai nạn. Đức Phật nói với chúng ta, tâm tham chiêu cảm nạn nước; Sân hận chiêu cảm nạn lửa, núi lửa bùng nổ, nhiệt độ tăng lên, bất thường, đây đều là do sân hận gây ra; Ngu si chiêu cảm nạn gió, chúng ta thường thấy lốc xoáy ở Mỹ, rất nhiều, mỗi lần nổi lốc xoáy đều tổn thất vô cùng nghiêm trọng, nạn gió; Ngạo mạn chiêu cảm động đất; Nghi ngờ chiêu cảm núi lở đất lún, thường xuyên nghe nói đến điều này, mặt đất, thoáng chốc thì đất bị lún xuống dưới, đây là thuộc về nghi ngờ. Đây là tham sân si mạn nghi. Bên ngoài là: oán, hận, não, nộ, phiền, buông xuống điều bên ngoài, cũng phải buông xuống điều bên trong. Buông xuống oán hận não nộ phiền bên ngoài, cũng buông xuống tham sân si mạn nghi bên trong, tín nguyện trì danh, một niệm cũng được vãng sanh, chắc chắn sanh Tịnh Độ, đây chính là chân thật trì giới. Khi tôi mới học Phật, Đại sư Chương Gia dạy tôi, Phật pháp coi trọng thực chất không coi trọng hình thức. Mười chữ này đều là thực chất, chúng ta chẳng thể không biết, luôn luôn để ý, khi chúng dấy khởi thì tạo nghiệp rồi, phải tiêu diệt chúng.

Ở thế gian này, việc gạt người rất nhiều, chúng ta cũng đã bị mắc lừa rất nhiều lần, bị người khác lừa gạt, làm sao đây? Không đề cập đến, như không có việc đó, qua rồi thì thôi, chịu thiệt một lần cũng tăng thêm một chút kiến thức. Lần sau gặp phải thì có chịu thiệt không? Có lẽ vẫn sẽ chịu thiệt, nhưng biết là đang chịu thiệt, cố ý chịu thiệt, vì sao vậy? Vì [làm] tấm gương tốt của học Phật, dần dần khiến họ giác ngộ, dẫn họ đến cửa Phật, tin rằng họ sẽ giác ngộ, họ sẽ thức tỉnh. Thời cơ chưa đến thì không cần nhắc đến, nhắc đến thì chúng ta vẫn chưa quên đi ý niệm này, chịu thiệt mắc lừa cũng phải buông xuống, tâm địa thanh tịnh, chỉ có A Mi Đà Phật. Ngoài A Mi Đà Phật ra, điều gì cũng buông xuống, thanh tịnh bình đẳng giác hiện tiền, như vậy thật tuyệt vời! Đây chính là Vô thượng Đạo. Cơ hội mà đức Phật cho chúng ta, người khác gạt ta, lừa ta, dối ta, trêu chọc ta như thế nào, đều là cho ta cơ hội, ta ở đây tu Nhẫn nhục Ba-la-mật, tiêu diệt đi oán hận não nộ phiền. Quý vị có thể nghĩ theo hướng đi lên này thì quý vị sẽ biết ơn họ, nếu không [nhờ] họ thì làm sao biết được công phu của mình, không biết ta tu đến cảnh giới nào. Đây là đến khảo ta, ngày ngày đến khảo, ngày ngày thông qua, pháp hỷ sung mãn. Không có một câu nói oán trời trách người, không có ý niệm này, lợi ích chúng ta đạt được khi học Phật ở ngay chỗ này. Đời sống bất luận nghèo hay giàu cũng vui vẻ, hạnh phúc, phiền não giảm đi mỗi ngày, trí huệ tăng thêm mỗi ngày, [là] việc tốt.

Vì vậy, phải có đủ hai loại bố thí. Bố thí tài cần thiết, đặc biệt là người hiện nay thích tài, nếu quý vị không bố thí, hoặc là quý vị muốn lấy của họ, thì họ sẽ cách xa quý vị, càng ngày càng xa cách, không dám đụng đến quý vị. Quý vị phải thường xuyên, phải cho họ hết, thì họ đến gần, quan hệ kéo gần hơn, tốt. Trước tiên chúng ta bố thí, đến sau này họ sẽ báo đáp, họ cũng sẽ hiểu được lợi ích của bố thí, họ có thể dẫn dắt rất nhiều chúng sanh, học cách bố thí. Bố thí có thiệt thòi không? Không thiệt thòi, chắc chắn phát tài. Vì sao vậy? Tài từ đâu mà có? Từ bố thí mà có. Vì sao quý vị lại có nhiều của cải như vậy? Vì trong đời quá khứ, nhiều đời nhiều kiếp đã thích bố thí tài, mới tích lũy nhiều như vậy. Quý vị có làm mất tiền tài ấy hay không? Không mất được, quý vị bố thí hết, qua vài ngày lại có. Phạm Lãi thời Xuân Thu, người Trung Hoa nhớ rất rõ câu chuyện này, Phạm Lãi giúp Việt Vương Câu Tiễn khôi phục quốc gia, không dễ dàng! Quốc gia bị diệt vong rồi phục hưng lại, trên lịch sử có rất ít trường hợp này, Câu Tiễn thực hiện thành công rồi, Phạm Lãi ra sức lớn nhất. Phạm Lãi biết tính của Việt Vương Câu Tiễn, có thể cùng hoạn nạn, chẳng thể cùng giàu sang, khi hoạn nạn thì ông cần quý vị, đối với quý vị rất tốt, nói gì nghe nấy; Sau khi phục hưng thì ông sẽ ghét quý vị, cho nên làm sao? Trốn thoát thân. Văn Chủng không có trí huệ như Phạm Lãi, Văn Chủng với ông, hai quan lớn này giúp Câu Tiễn phục hưng quốc gia, kết quả là Văn Chủng bị Câu Tiễn ban kiếm để tự sát. Phạm Lãi thông minh, dẫn theo Tây Thi bỏ đi, đổi họ tên là Đào Chu Công, làm ăn buôn bán, tay trắng dựng cơ đồ, ba năm thì phát tài rồi. Phát tài, lấy tất cả của cải đem cứu giúp gia đình nghèo khổ, đều phân chia sạch sẽ, để lại một chút tiền vốn làm ăn, ba năm, lại phát tài. Tam tụ tam tán, sau khi phát tài thì tiếp tục cứu giúp người nghèo khổ, rồi làm lại từ đầu, lại phát tài. Trong mạng có tài, càng phát càng nhiều, càng nhiều thì bố thí càng nhiều. Cho nên người Trung Hoa gọi ông là Thần tài, người Trung Hoa thờ Thần tài là thờ Phạm Lãi, đây là chính xác. Phương nam xem Quan Công là Thần Tài, nhầm lẫn rồi, Thần tài Phạm Lãi là đúng, thích bố thí tài, không sai chút nào.

Trước kia tôi học Phật, thầy dạy tôi tu Bố thí. Hoằng pháp lợi sanh, không có tài cũng không được, tài từ đâu mà có? Từ bố thí mà có. Tôi nói tôi không có tiền bố thí. Thầy hỏi tôi, có một hào không? Tôi nói một hào thì được. Một đồng có được không? Một đồng cũng tạm được. Vậy thì con bố thí từ một hào, một đồng. Thật sự có hiệu quả! Nhu cầu đời sống rất có hạn, rất ít rất ít. Vì vậy cúng dường từ mười phương, chúng tôi dùng làm Phật sự. Phật sự là việc [giúp] chúng sanh giác ngộ, quan trọng nhất trong việc giúp chúng sanh giác ngộ chính là giúp chúng sanh tin Tịnh Độ, nguyện sanh Tịnh Độ, đây là việc lớn bậc nhất, đây là việc mà chư Phật Như Lai làm, [nếu] chúng ta chịu làm thì đi cùng một con đường với chư Phật Như Lai.

Vậy hiện nay chúng ta gặp được duyên phận này rồi, giúp cả thế giới, dùng gì để giúp? Đây là gợi ý của Tiến sĩ Toynbee cho chúng ta, phải dùng văn hóa Trung Hoa để giúp cả thế giới. Bảo điển của văn hóa Trung Hoa chính là Tứ Khố Toàn Thư, Tứ Khố Hội Yếu, hai bộ sách này, bảo điển này là Tổ tiên để lại từ ngàn vạn năm trước, dùng văn ngôn văn chữ Hán để viết lại. Năm xưa ở Đài Loan, người đọc sách ở Đài Loan, từ Đại Lục đến Đài Loan, cảm thấy Đài Loan được an toàn, nhờ vào đâu? Chính là nhờ vào bảo điển này ở Đài Loan. Nếu đánh mất bảo điển này thì nhân loại diệt vong, không phải là một quốc gia, mà là tổn thất không gì sánh bằng của cả nhân loại. Vì vậy, bảo điển này ở Đài Loan, Đài Loan có thể bảo toàn. Nhưng nếu một ngày nào đó xảy ra chiến tranh, bảo điển này bị mất, làm sao đây? Không có người nào không lo lắng, nhưng cũng không còn cách nào, vì sao vậy? Phân lượng quá lớn, giá thành quá cao, cửa hàng sách không muốn làm, cũng không thể thu vốn lại được. Vì vậy, giá tiền họ định ra thật sự là giá vốn, họ cũng không muốn kiếm tiền, mong rằng sách ấy có thể lưu truyền. In ấn số lượng ít, Nhà in Thương vụ in Toàn Thư, chỉ in 300 bộ, quá ít rồi; Nhà sách Thế Giới in Hội Yếu, in 200 bộ. Nhưng chúng tôi suy nghĩ, có nhiều bộ sách như vậy lưu truyền trên toàn thế giới, Thư viện Quốc Gia cất giữ, Thư viện của trường Đại học danh tiếng cất giữ, tai nạn lớn [đến] cũng không đến nỗi bị hủy diệt hoàn toàn, vẫn sẽ còn lưu lại vài bộ, dụng ý của chúng tôi là như vậy. Tôi đặt Tứ Khố Hội Yếu của Nhà sách Thế Giới, gần 300 bộ, đặt Toàn Thư của Nhà in Thương Vụ, 112 bộ, tôi làm việc này, tiền mà mười phương cúng dường cho tôi, tôi sử dụng như vậy.

Hiện nay tôi suy nghĩ, nếu sách này không có người đọc thì phải làm sao? Không có người hiểu được chữ Hán, văn ngôn văn, vậy chẳng phải là một đống giấy vụn sao? Không có tác dụng. Cho nên chúng tôi nghĩ ra Viện Hán học, mở Viện Hán học làm gì? Chính là chúng tôi giúp một số người trẻ tuổi chuyên học chữ Hán, học văn ngôn văn, sau 5 năm đến 10 năm, họ có khả năng đọc bộ sách ấy, có khả năng giảng giải bộ sách ấy, dịch ra văn bạch thoại, dịch ra văn bạch thoại là phổ cập đến cả thế giới, dịch ra các ngôn ngữ khác trên toàn thế giới, lưu truyền khắp thế giới. Việc lưu truyền cấp bách cần thiết chính là hai bộ, tinh hoa phân lượng ít, một bộ là Quần Thư Trị Yếu, một bộ là Quốc Học Trị Yếu. Quần Thư Trị Yếu là trị gia, là quản lý sự nghiệp của quý vị, quản lý xã hội, trị nước bình thiên hạ; Quốc Học Trị Yếu là về học vấn, là nghiên cứu học vấn, học vấn này chính là Tứ Khố, quan trọng hơn tất cả, điều này quá hiếm có! Hai bộ sách ấy không cần nhiều, có được 30 đến 50 người, cho nên học viên trong Viện hán học của chúng tôi, trọng chất lượng không trọng số lượng. Vì sao vậy? Vì tương lai chúng ta đều là thầy cô giảng dạy Tứ Khố Toàn Thư, chúng tôi chuyên đào tạo lĩnh vực này, tất cả thời gian, tinh lực của họ đều phải dùng vào việc này. Chúng tôi chú trọng Văn Tự học, cắm gốc rễ Văn Tự học, tiếp đó chính là giáo trình học tập, chính là hai bộ Trị Yếu: Quần Thư Trị Yếu và Quốc Học Trị Yếu, học hai bộ này. Sau khi học xong hai bộ này, Tứ Khố Toàn Thư không còn là vấn đề, cầm được chìa khóa trên tay rồi, họ liền có khả năng mở ra cánh cửa Tứ Khố. Việc đó cứ từ từ, sự nghiệp của ngàn năm vạn đời. Cứu sự nguy cấp, thật sự giúp thế giới giải quyết vấn đề, một bộ Quần Thư Trị Yếu là đủ rồi, vấn đề liền được giải quyết. Bộ sách ấy, trường đảng Trung Hoa xếp vào môn học bắt buộc, đó chính là lời của Toynbee đã nói, Trung Hoa dẫn đầu.

Chúng tôi khuyến khích người Hàn Quốc, khuyến khích người Nhật Bản, khuyến khích người Việt Nam, thật sự hạ công phu từ đây, mau chóng tìm lại Thuyết Văn Giải Tự, những sách cổ của Trung Hoa, những sách giáo khoa trong Tiểu học thời xưa, để học tập. Những sách giáo khoa đó đã áp dụng mấy ngàn năm, không xảy ra vấn đề, nhiều thời đại đều xuất hiện nhân tài, hiện nay không dùng nữa, xã hội trở thành như thế này. Vì vậy, chúng ta không cần phải biên soạn lại sách giáo khoa, người xưa, Tổ tiên để lại có sẵn rồi, Bách Gia Tánh, Thiên Tự Văn, thể loại sách này, tổng cộng có mười mấy hai mươi mấy loại, vậy thì đủ rồi. Dạy trẻ em thì cắm gốc rễ của văn tự, gốc rễ của văn ngôn, gốc rễ của luân lý đạo đức, gốc rễ của giáo dục Thánh Hiền, đều cắm gốc hết. Trước đây dạy tư thục, sự thành tựu trong dạy học ở tư thục cao hơn trường học hiện nay, thiết thực. Chúng tôi làm thử nghiệm, mở tư thục, Viện Hán học chính là tư thục, làm thử nghiệm. Sau khi thực nghiệm thành công, chúng tôi tin rằng sẽ có rất nhiều nhân sĩ trong xã hội ủng hộ, sẽ phát dương quang đại việc này. Thời gian hôm nay hết rồi, chúng ta học tập đến đây thôi.

(Hết tập 207)

Nguyện đem công đức này
Hướng về khắp tất cả
Đệ tử cùng chúng sanh
Đều sanh nước Cực Lạc
Sớm viên thành Phật quả
Rộng độ khắp chúng sanh.

Nam Mô A Mi Đà Phật.