TỊNH ĐỘ ĐẠI KINH KHOA CHÚ 2014-2017
(Giảng lần thứ 4)
Phẩm Thứ 8: Tích Công Luỹ Đức
Tập 219
Chủ giảng: Hòa thượng Thích Tịnh Không.
Giảng tại: Hiệp hội Giáo dục Phật Đà Hong Kong.
Thời gian: Ngày 25 tháng 7 năm 2015.
Dịch giả: Diệu Thương.
Giảo chánh: Thích Thiện Trang.
Kính thưa chư vị Pháp sư, chư vị đồng học, mời ngồi. Mời mọi người cùng tôi quy y Tam Bảo:
“A-xà-lê tồn niệm, ngã Đệ tử Diệu Âm, thỉ tùng kim nhật, nãi chí mạng tồn, quy y Phật-Đà, lưỡng túc trung tôn, quy y Đạt-Ma, ly dục trung tôn, quy y Tăng-Già, chư chúng trung tôn”(3 lần).
Mời xem Đại Kinh Khoa Chú, trang 550, trang 550, xem từ hàng thứ 6:
住真實慧…莊嚴妙土 “Trụ Chân thật huệ…trang nghiêm Diệu độ” (Trụ Chân thật huệ…trang nghiêm Diệu độ), hai câu kinh văn này, trong chú giải của Niệm lão nói, 是極樂淨土之大本,普賢妙行之綱宗 “ thị Cực Lạc Tịnh Độ chi đại bản, Phổ Hiền diệu hạnh chi cương tông”(là cội nguồn lớn của Tịnh Độ Cực Lạc, cương yếu tông chỉ của diệu hạnh Phổ Hiền), có thể thấy sự quan trọng của hai câu kinh văn này. Thế giới Tây Phương Cực Lạc được xưng là Tịnh Độ, Tịnh Độ được hình thành như thế nào? Do từ đâu đến? Là trụ Chân thật huệ, trang nghiêm Diệu độ, cõi ấy thành tựu rồi. Nói cách khác, trái đất này của chúng ta có thể xây dựng được giống Thế giới Cực Lạc hay không? Câu trả lời là chắc chắn, có thể. Chỉ cần những chúng sanh sống ở trên trái đất này, có thể trụ Chân thật huệ, có thể trang nghiêm Diệu độ, thì nơi đây không khác với Thế giới Cực Lạc. Cho nên chúng ta đối với việc quan sát xưa nay ở trong và ngoài nước, xem khoảng thời kỳ đó của vùng ấy là thịnh thế hay loạn thế, thì quý vị xem đại chúng sống ở đó, họ nghĩ những gì, họ nói những gì, và họ làm những gì, thì hoàn toàn hiểu rõ thôi.
Thế giới Cực Lạc, chúng ta đã học nhiều năm như vậy, vậy rốt cuộc cõi đó là nơi như thế nào? Nói thật ra là một trường học. Nơi ấy không phải là quốc gia, A Mi Đà Phật không phải là Quốc vương, không phải là Thiên chủ, từ trước đến nay nơi đó không có nói đến tổ chức chính trị, không có, không có tổ chức Chính phủ, cũng không có thiết lập các cấp quan viên lãnh đạo, không có, không nhìn thấy Sĩ Nông Công Thương, chỉ nhìn thấy có người đi học, không có người canh tác, không có công nhân, không có người làm kinh doanh, vô cùng đơn giản. Ở đó chỉ có hai kiểu người, một là thầy, hai là học trò, thầy là A Mi Đà Phật, còn học trò, tất cả [người] vãng sanh Thế giới Cực Lạc trong mười phương Thế giới, những Bồ-tát ấy đều là học trò. Chỉ có thầy và học trò, cho nên cõi ấy là một đạo tràng. Đạo tràng đó thù thắng trang nghiêm không gì sánh bằng, là do tự nhiên, tại sao vậy? Bởi tâm người vô cùng tốt, ngôn luận tốt, hành vi tốt, đều là lấy A Mi Đà Phật làm tấm gương.
A Mi Đà Phật, chư Phật đều khen ngợi, xưng tán Ngài là光中極尊,佛中之王“Quang trung cực tôn, Phật trung chi vương”. Hai câu này là lời khen ngợi, Phật với Phật là bình đẳng, nào có cao thấp, chư Phật khen ngợi đối với Ngài, tại vì sao? Vì nguyện của Ngài phát rất lớn, các chư Phật khác vẫn chưa nghĩ đến, nhưng Ngài nghĩ đến rồi. Không những nghĩ đến, mà Ngài làm được rồi. Vì sao xây dựng đạo tràng đó? Vì để giúp đỡ những chúng sanh trong mười phương tu hành chứng quả. Hai chữ chúng sanh này là nghĩa rộng, hàng Bồ-tát trở xuống đều gọi là chúng sanh, gọi là chúng sanh chín Pháp giới. Chín Pháp giới là Bồ-tát, Duyên giác, Thanh văn, bên dưới là Lục đạo, hợp lại là chín Pháp giới. Chín Pháp giới này đều là đối tượng mà Ngài giáo hóa.
Thế giới đó rộng lớn, vì sao? Vì xứng Tánh, nói cách khác, giống như trong Tướng tông đã giảng, hễ là người đến Thế giới Cực Lạc thì mỗi người đều chuyển Thức thành Trí, chính là chuyển tám Thức thành bốn Trí. Cũng chính là nói, hiện nay chúng ta dùng tâm là hai tâm, một là Chân Tâm, hai là Vọng tâm. Chân Tâm có hay không? Có, không có mất đi, chỉ là hiện tại Chân Tâm không quản việc, không khởi tác dụng, còn Vọng tâm quản việc. Chúng ta đều nghe lệnh từ Vọng tâm, chính là Sáu căn: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý nghe lệnh từ Vọng tâm. Vọng tâm là gì? Là tâm mà khởi tâm động niệm, tâm ấy chính là Vọng tâm. Còn Chân Tâm, Chân Tâm không khởi tâm không động niệm, Chân Tâm là Bản thể của Vọng tâm, Chân Tâm cũng không rời khỏi Vọng tâm. Chỉ là hiện nay chúng ta mê rồi, đã mê Chân Tâm, hoàn toàn nghe lệnh từ Vọng tâm, vậy mới tạo nghiệp. Còn Chân Tâm không có tư tưởng, không có Khởi tâm, không có Động niệm, không có Phân biệt, không có Chấp trước. Chúng ta phải dùng Chân tâm, chính là hạ công phu ở chỗ này, chúng ta thấy sắc, nghe âm thanh, đưa hai thứ này làm đại biểu thì đủ rồi, nhìn được rõ ràng, nhìn được sáng tỏ, đó là trí huệ, không có Khởi tâm Động niệm, không có Phân biệt Chấp trước, đó chính là Chân Tâm làm việc. Hàng phàm phu, nhìn rõ ràng rồi, nghe rõ ràng rồi, nhưng họ khởi tâm động niệm, phân biệt chấp trước, thì đây là hàng phàm phu. Phải làm rõ ràng khái niệm phàm Thánh này.
Trong Kinh Hoa Nghiêm nói: 一切眾生本來是佛 “Nhất thiết chúng sanh bổn lai thị Phật” (Tất cả chúng sanh vốn là Phật), vốn đều là không khởi tâm không động niệm, không phân biệt không chấp trước, vốn đều là như vậy, đó chính là Phật. Đức năng, đức năng của Chân Tâm, là không gì không biết, không gì không hiểu, là vạn đức vạn năng, đầy đủ tất cả. Trong kinh nói rõ ràng với chúng ta: có thể sanh vạn pháp. Ngay cả Đại sư Huệ Năng cũng khẳng định câu nói này rồi, câu nói sau cùng [khi] ngài khai ngộ nói là: 何期自性,能生萬法“Hà kỳ Tự Tánh, năng sanh vạn pháp”, toàn bộ vũ trụ từ đâu đến? Là do ý niệm sanh ra. Nếu không có ý niệm thì không có Mười pháp giới, Mười pháp giới là do ý niệm sanh ra, không phải là thật. Tại sao vậy? Vì nếu do Chân Tâm biến hiện, vậy thì đó là thật, thật là Thật Báo Trang Nghiêm độ, Thường Tịch Quang độ, Thường Tịch Quang là Bản thể của Chân Tâm, một vùng quang minh, trong đó cũng không có thứ gì. Ngày nay chúng ta nói về hiện tượng, không có hiện tượng vật chất, còn hiện tượng tâm lý, chính là ý niệm, cũng không có, cũng không có hiện tượng tự nhiên. Mặc dù không có thứ gì, nhưng nó cũng có thể hiện mọi thứ, có thể hiện ba loại hiện tượng. Khi nào thì hiện? Có duyên thì hiện, không có duyên thì không hiện. Thế nào là duyên? Chúng ta tu hành, tu đến Đại triệt Đại ngộ, Minh tâm Kiến tánh. Đó chính là duyên.
Mặc dù chúng ta đã Minh tâm Kiến tánh, là Pháp thân Bồ-tát, đã chuyển tám Thức thành bốn Trí, đó không phải phàm phu, là Phật, là Phật thật, không phải là Phật giả. Tuy là Phật thật, nhưng không phải là vị Phật thật viên mãn, vì sao? Vì chưa đoạn Tập khí Vô minh. Phiền não có Tập khí, quý vị xem, Kiến tư Phiền não có Tập khí, Trần sa Phiền não có Tập khí. A-la-hán có bản lĩnh, đã đoạn Kiến tư Phiền não, nhưng đoạn chưa được Tập khí, vì rất khó đoạn Tập khí. Thế nào là Tập khí? Đại đức xưa có một tỉ dụ, tỉ dụ này cũng là được nói trong Kinh, trong kinh dùng bình rượu làm tỉ dụ. Rượu đựng trong bình rượu, đã đổ rượu sạch sẽ, lau sạch sẽ trong đó, thực sự không còn giọt nào nữa, nhưng ngửi thấy còn có mùi rượu, mùi rượu đó chính là Tập khí. Vậy có cách đoạn hay không? Không có cách. Vậy làm thế nào? Đừng để ý nó, thời gian lâu rồi thì sẽ không có nữa, mở nắp bình rượu ra để ở đó, để nửa năm, để một năm, đi ngửi lại, thì không còn nữa, chính là đạo lý như vậy.
Cho nên, chúng ta vãng sanh Thế giới Tây Phương Cực Lạc, cho dù niệm đến Lý nhất tâm Bất loạn, là cảnh giới này, thì sanh cõi Thật Báo, cõi Thật Báo là Chân Tâm hiện tướng, Chân Tâm khởi tác dụng hiện tướng. Tướng do Chân Tâm hiện, tướng đó không phải là tướng sanh diệt, hiện nay tướng này của chúng ta, tướng là do Châm Tâm hiện, nhưng Chân Tâm không làm chủ, mà Vọng tâm làm chủ. Cho nên hoàn toàn là Vọng tâm, chính là ý niệm khống chế tất cả pháp, ý niệm không chỉ khống chế chính mình, mà còn khống chế ý niệm, khống chế hiện tượng vật chất, khống chế hiện tượng tự nhiên. Đây cũng là chân tướng sự thật, đều phải làm rõ ràng, làm sáng tỏ, sau đó chúng ta tu hành rốt cuộc là tu điều gì, thì quý vị mới không bị sai lầm, quý vị thật tu. Thật tu chính là công đức của Tự Tánh tự nhiên lưu xuất ra, đây là Trí huệ chân thật, là Chân thật Chi tế, Chân thật Chi tế chính là tướng chân thật, là chân tướng của vũ trụ nhân sanh, đó không phải là giả, quý vị làm rõ ràng, làm sáng tỏ rồi, đó là Phật. Sau khi làm rõ ràng, làm sáng tỏ rồi, thì không nhiễm mảy trần, lời thông thường của chúng ta nói, quý ngài nhất định sẽ không để trong tâm. Để trong tâm là phàm phu, là mê rồi, Vọng tâm làm chủ chính là để ở trong tâm, Chân Tâm thì không để ở trong tâm, nhìn được thấu tỏ hơn người khác, nghe được rõ ràng hơn người khác, một âm thanh, một động tác, trong đó đã bao hàm vô lượng nghĩa.
Vãng sanh đến Thế giới Cực Lạc, trụ cõi Thật Báo, là cõi Thật Báo của A Mi Đà Phật, ở nơi đó để làm gì? Ở cõi đó chính là để đoạn Tập khí, không có cách đoạn Tập khí, không cần để ý nó, tùy nó đi. Cần thời gian bao lâu? Ba a-tăng-kỳ kiếp, thì không có nữa, nếu không có Tập khí thì thật sự thành Phật rồi, trở về Thường Tịch Quang, đây là thành tựu viên mãn. Trở về Thường Tịch Quang thì khởi tác dụng hay không? Là khởi tác dụng, tất cả chúng sanh có cảm, cầu quý vị thì quý vị đều biết. Mặc dù trong tâm quý vị đều không có, nhưng tất cả chúng sanh, nếu họ niệm quý vị, nghĩ đến quý vị, cầu quý vị, cầu quý vị giúp đỡ họ, chúng sanh có cảm thì quý vị tự nhiên liền có ứng. Cho nên Thường Tịch Quang có ứng, Thường Tịch Quang ở đâu? Không chỗ nào mà không ở, không lúc nào mà không có, quang minh chiếu khắp, mắt thường của chúng ta nhìn không thấy.
Quang, trong kinh giảng vô lượng quang, rất hay, là vô lượng quang thật sự. Mắt thường của chúng ta chỉ có thể nhìn một bộ phận cực nhỏ trong vô lượng quang, chúng ta có thể hiểu đạo lý này. Hiện nay nhà Khoa học nói với chúng ta, bình thường chúng ta hay nói nhất là tia X-quang, tia tử ngoại, chúng ta nhìn không thấy, nhưng có ở đó không? Có. Chúng ta có thể nhìn thấy trong sóng ánh sáng đó chỉ có một đoạn này, sóng ánh sáng dài hơn thì nhìn không thấy, sóng ánh sáng đó ngắn hơn thì cũng nhìn không thấy. Cho nên thực sự là vô lượng quang. Đến khi nào thì nhìn thấy? Là tùy theo công phu của quý vị: nâng lên cao, càng ngày nhìn được càng nhiều. Hiện nay nhà Khoa học khẳng định, không gian thực sự có 11 chiều không gian, chúng ta là ở không gian ba chiều, cộng thêm thời gian chính là không gian bốn chiều. Trên thực tế, chúng ta không có tiến vào được thời gian, chỉ có ba chiều, còn bốn chiều và năm chiều thì chúng ta nhìn không thấy được. Về Lục đạo, dựa theo cách nói của nhà Khoa học chính là: không cùng tầng không gian, vậy nếu căn cứ theo nhà Phật để nói, nhà Phật giảng Mười pháp giới, chính là mười loại không cùng tầng không gian, giảng thông được điều này. Tầng cao có thể nhìn thấy tầng thấp, còn tầng thấp không nhìn thấy tầng cao, chúng ta có khái niệm này.
Cho nên, quan trọng nhất của tu hành chính là quan tâm ở Khởi tâm Động niệm. Chúng ta nên mong không tạo nghiệp, chúng ta nên mong sám trừ nghiệp chướng, có Khởi tâm Động niệm, [vì] chúng ta là phàm phu, đây là không cách nào ngăn ngừa. Hơn nữa chúng ta căn bản không thể hiểu ý niệm vi tế trong Khởi tâm Động niệm, chúng ta không cách nào nắm bắt, không có biện pháp khống chế. Vậy vi tế đến mức độ nào? Dựa theo cách nói của Bồ-tát Di Lặc, chúng ta đổi thành ngôn ngữ của người thời nay, trong một giây, giống như hình ảnh, thấy hình ảnh, thấy bao nhiêu lần trong một giây? Là 2 triệu 240 ngàn tỷ lần, đơn vị là ngàn tỷ. Màn hình trên tivi này của chúng ta, sắc tướng ấy, là bao nhiêu lần trong một giây? Là 100 lần, 1 giây 100 lần mà chúng ta đã nhìn thấy giống như là thật sự, còn có thể khống chế, một trăm lần đó. Nếu nâng cao đến 2 triệu 240 ngàn tỷ lần, thì không cách nào rồi. Hiện tượng này ở đâu? Là ở ngay trước mắt chúng ta, chúng ta nhìn thấy tất cả hiện tượng, bao gồm thân thể của chính mình, ngay cả đối với Khởi tâm Động niệm của chính mình, bao gồm tất cả ở trong đó, đều là hiện tượng sóng dao động được sinh ra bởi tần số này.
Hiện nay hiện tượng vật chất được nhà Khoa học khám phá rồi, báo cáo của nhà Khoa học giống với lời Phật giảng trong kinh, phàm sở hữu tướng, giai thị hư vọng. Cho nên nhà Khoa học nói với chúng ta, tôi xem báo cáo của ông Max Plank nước Đức, vị này là thầy của ông Albert Einstein, cả đời ông chuyên nghiên cứu Cơ học Lượng tử, nghiên cứu Thế giới Vi mô, chính là vật chất cuối cùng là gì, được ông khám phá rồi. Vấn đề này đại khái là sự việc của 100 năm trước, hoàn toàn giống với điều được giảng trên kinh Phật. Trên kinh Phật giảng được rõ ràng hơn ông ấy, là từ đâu đến? Do từ ý niệm. Sóng ý niệm sinh ra ảo tướng, những ảo tướng này tập trung ở một chỗ, chúng ta cho rằng đó là vật chất. Bao nhiêu tập hợp ở một chỗ khiến chúng ta nhìn thấy sự tồn tại của nó? Trong kinh nói với chúng ta về tần số này, trong kinh đức Phật giảng chính là một búng tay, một búng tay, một búng tay có bao nhiêu ý niệm? Có 32 ức trăm ngàn niệm. 32 ức, trăm ngàn là 10 vạn, 32 ức nhân cho 10 vạn, là 320 ngàn tỷ. Một búng tay có 320 ngàn tỷ hình ảnh, hình ảnh vật chất, tuổi thọ tồn tại của hình ảnh vật chất này, là bao lâu? Chính là một phần 320 ngàn tỷ giây. Một búng tay đã có 320 ngàn tỷ, tập trung ở một chỗ nhiều như vậy, trong một giây có thể búng bảy lần, nhân cho 7 chính là 2 triệu 240 ngàn tỷ lần. Chúng ta không có cách nào khống chế, ngay cả tivi chúng ta cũng không cách nào khống chế rồi, [dù] tivi mới là 100 lần trong một giây.
Ở trong một giây, nếu chúng ta dùng tivi để làm ví dụ, để làm thí nghiệm này, hình ảnh trong màn hình này của tôi, dưới tốc độ trong 1% giây, chúng ta dùng nút bấm để ghim hình lại, hiện tượng này là 1% giây, chúng ta sẽ nhìn thấy hiện tượng gì? Chỉ nhìn thấy ánh sáng lóe lên, trong ánh sáng có gì thì tất cả đều không nhìn thấy. Không nhìn thấy sắc tướng, cũng không nghe thấy âm thanh, vì nó quá nhanh, nên chúng ta theo không kịp. Nếu được mười mấy lần tập trung đồng thời, thì chúng ta nhìn thấy một vài nhận thức rồi. Một phần mười giây thì chúng ta sẽ có nhận thức. Một phần 10 giây nhìn thấy là thế nào? Là một tia sáng. Trong ánh sáng là gì? Trong ánh sáng giống như có cây cối, có nhà cửa, giống như có, mà không dám kết luận. Tại vì sao? Vì nó quá nhanh. Nếu là 1 phần 5 giây, thì rõ ràng rồi, quý vị sẽ nhìn thấy trong hình ảnh đó có cây cối hoa cỏ, có sông núi đất đai, có người, có người nam, có người nữ, nhưng không biết diện mạo đó trông như thế nào, vì nó quá nhanh, nên nhìn không kịp.
Cho nên thị lực của mắt chúng ta rất kém, không thể so sánh với Phật Bồ-tát, Phật Bồ-tát có định công. Giống như Bồ-tát Di Lặc, với một giây 2 triệu 240 ngàn tỷ đó, Bồ-tát Di Lặc nhìn thấy, điều này tuyệt vời. Trong kinh đức Phật thường nói bậc Bát địa trở lên, quý vị tu hành chứng được địa vị Bát địa Bồ-tát, thì quý vị nhìn thấy thôi. Không cần dùng máy móc, cũng không cần dùng số học để suy luận, đều không cần thứ gì cả, quý vị nhìn được vô cùng rõ ràng, hiểu rõ thấu tỏ vũ trụ này. Là xa, xa không có giới hạn, có thể nhìn thấy quá khứ hiện tại tương lai. Không có thời gian và không gian nữa. Thời gian và không gian là giả, là do trong Vọng tưởng của chúng ta sanh ra, không phải là thật.
Đức Phật dạy chúng ta: là chúng ta cần quay về Tự Tánh, chúng ta cần hồi phục vô lượng trí huệ, vô lượng đức năng, vô lượng tướng hảo, chính mình hồi phục, thì mới có thể giúp đỡ người khác hồi phục, đây là giáo dục của đức Phật. Giáo dục của đức Phật thật sự giúp đỡ chúng ta, đây là không có cách nào tưởng tượng, là hạnh phúc nhất, mỹ mãn nhất, là cuộc sống viên mãn nhất, đã tràn đầy trí huệ đức năng, sáu loại thần thông, kỳ diệu không gì sánh bằng. Ngày nay chúng ta đến nước Mỹ, ngồi lên máy bay phải bay 10 tiếng đồng hồ, nếu quý vị là Bát địa Bồ-tát, quý vị suy nghĩ muốn đến nước Mỹ, thì người đã ở nước Mỹ, đã đến rồi. Không cần một giây, mà còn vô cùng an toàn, không động đến bất kỳ người việc vật nào, thì quý vị đã đến rồi. Người khác khởi tâm động niệm thì quý vị biết, là Tha tâm thông, quý vị nhìn người, nhìn chúng sanh trong Lục đạo, đều nhìn rõ ràng mỗi người. Thiện ác đã tạo trong đời này của họ, những gì đã tạo trong đời trước, đời trước nữa, những gì họ đã tạo trong vô lượng kiếp trước, quý vị nhìn thấy tất cả. Không những nhìn thấy về trước, mà cũng nhìn thấy về sau, về sau vẫn chưa đến, ngày mai vẫn chưa đến, ngày mai chưa đến [mà] các ngài nhìn thấy rồi. Tại vì sao? Vì các ngài đã đột phá giới hạn của thời gian không gian, nên các ngài có thể nhìn thấy quá khứ, có thể nhìn thấy tương lai, có thể nhìn thấy Thế giới này, có thể nhìn thấy phương khác, các ngài biết Diệu độ của chư Phật, các ngài đến Thế giới Cực Lạc rất dễ dàng. Cho nên 48 nguyện của A Mi Đà Phật, năm nguyện sau cùng, đặc biệt vì những vị Bồ-tát ấy mà phát nguyện. Những vị Bồ-tát ấy không đến Thế giới Cực Lạc nhưng thành tựu là bình đẳng so với Thế giới Cực Lạc, tại vì sao? Vì các ngài được bổn nguyện của A Mi Đà Phật gia trì. Cho nên trường học Thế giới Cực Lạc đó, quý vị đến thì rất tốt, không đến cũng tốt, bất luận quý vị tu hành ở chỗ nào, thì A Mi Đà Phật đều gia trì quý vị. Quý vị chỉ cần thật tin thật nguyện, chỉ cần chịu niệm câu Phật hiệu này, thì đều được gia trì, là sự gia trì không thể nghĩ bàn.
Cho nên, hai câu này hay! Đây là căn bản của Tịnh Độ Cực Lạc, chính là hai câu này, là cương yếu tông chỉ của diệu hạnh Phổ Hiền, hạnh Bồ-tát, đức Phổ Hiền là viên mãn. Quý vị xem chữ Phổ này, tâm lượng vô cùng lớn, bao dung khắp Hư không Pháp giới, bao gồm quá khứ vị lai, nhà Phật giảng mười phương ba đời, bao gồm tất cả. Mười phương ba đời là chính mình, mười phương ba đời là một nhà, các ngài gọi là gì? Chính là Phổ Hiền, Phổ Hiền viên mãn chính là Phật, chính là Như Lai, chưa đến viên mãn là Bồ-tát. Diệu hạnh, Khởi tâm Động niệm, ngôn ngữ tạo tác đều tương ưng với hai chữ Phổ Hiền này, đó chính là gì? Cảnh giới của các ngài chính là ba đời mười phương, không bỏ qua chỗ nào. Hạnh của ngài có mười cương lĩnh, gọi là Mười nguyện Phổ Hiền. Nguyện thứ nhất là lễ kính, cho nên nếu Bồ-tát không tu hạnh Phổ Hiền thì không thể thành Phật, quý vị không tốt nghiệp được, không lấy được học vị cao nhất, gọi là禮敬諸佛 “Lễ kính Chư Phật”. Chư Phật là ai? Tất cả chúng sanh vốn là Phật, quý vị có thể không lễ kính sao? Người đó phỉ báng ta, người đó sỉ nhục ta, người đó ức hiếp ta, người đó làm hại ta, thì ta vẫn cần lễ kính họ sao? Cần. Tại vì sao? Vì họ vốn cũng là Phật, hiện tại họ mê hoặc điên đảo, đã mê mất Tự Tánh, tuy làm nhiều việc sai như vậy, nhưng tương lai họ vẫn sẽ thành Phật, đây là thật không phải giả. Chúng ta chịu oan uổng, chúng ta chịu những tai họa này, thì không sao cả, quý vị thật sự hiểu được: phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng, thì tai họa ở trước mắt [mà] quý vị vui vẻ vô cùng, quý vị vượt qua rồi, đây là hạnh Phổ Hiền.
Đối với bất cứ điều gì, không chỉ đối người, mà đối với chúng sanh Lục đạo, đối với súc sanh, đối với muỗi kiến, đối với lang sói hổ báo, đối với Quỷ đạo, đối với Địa ngục, thảy đều cung kính. Tại vì sao? Vì biết những chúng sanh Hữu tình đó vốn là Phật, tương lai cũng sẽ thành Phật. Chỉ là sau khi mê mất Tự Tánh, thì họ đã tạo nhiều ác nghiệp rồi, họ đã đọa lạc đến nơi đó. Từ đây có thể biết, Thiên đường, Địa ngục là bình đẳng, Thiên đường là tiêu phước báo, phước báo của quý vị tu quá lớn rồi, thì đến đó để hưởng phước, để tiêu phước báo. Còn Địa ngục là tội nghiệp của quý vị đã tạo quá nặng, thì tiêu tội nghiệp, một bên tiêu phước báo, một bên tiêu tội nghiệp. Bên trong Tự Tánh, đều không có phước báo và tội nghiệp, có tội nghiệp thì không thể thành Phật, có phước báo cũng không thể thành Phật, quý vị đến Thiên đường để hưởng phước.
Tự Tánh là thanh tịnh, không nhiễm mảy trần, không có thiện ác, không có ô nhiễm, là thanh tịnh, không có Phân biệt, là bình đẳng, không có mê hoặc, đó là giác ngộ. Đây là Tự Tánh. Cho nên Phật pháp cho dù là Tông môn hay Giáo hạ, 84 ngàn Pháp môn, bao gồm Tịnh Độ, là cùng một mục tiêu, Minh tâm Kiến tánh, đều là hướng về mục tiêu này, hăng hái tiến bước hướng về mục tiêu này. Tu thế nào? Thầy bảo tôi: nhìn thấu, buông xuống, điều này là do Đại sư Chương Gia nói với tôi. Tôi gặp người xuất gia, lần đầu tiên, là năm 26 tuổi, có người bạn giới thiệu tôi quen biết Đại sư Chương Gia. Tôi đã gặp ngài, câu đầu tiên tôi đã thỉnh giáo ngài là: Tiên sinh Phương Đông Mỹ giới thiệu Phật pháp cho con, con biết Phật pháp là Triết học cao cấp, là môn mà mỗi người cần nên học tập. Tôi nói trong Phật pháp có cách nào để chúng con rất nhanh khế nhập hay không? Tôi hỏi vấn đề này. Sau khi đưa ra, thì ngài nhìn tôi, tôi nhìn ngài, đã nhìn bao lâu? Đã nhìn hơn nửa tiếng đồng hồ. Sau hơn nửa tiếng đồng hồ, thì đã nói một câu: có. Tôi đợi lâu như vậy, có, tinh thần lập tức hăng hái, thì ngài lại không nói nữa. Qua khoảng bảy tám phút, thì nói cho tôi sáu chữ: 看得破,放得下 ”khám đắc phá, phóng đắc hạ“ (nhìn được thấu, buông được xuống).
Tại sao khi tôi vừa hỏi thì không trả lời tôi? Mười mấy năm sau, tôi mới bỗng nhiên đại ngộ, tâm tính thanh niên chúng tôi phập phồng, tâm tính phập phồng thì không nói với quý vị, vì nói ra cho quý vị thì không có tác dụng, nghe vào tai này, lại ra tai kia. Nhìn tôi nửa tiếng đồng hồ: đó là tu định, đè xuống toàn bộ tập khí tâm tính phập phồng đó, mới nói cho tôi. Nói một chữ: có. Tinh thần của chúng tôi lại khởi lên, cảm xúc đó lại khởi lên, lại khởi dòng tâm tư, thì ngài lại không nói nữa. Lần thứ hai đợi tôi lại tĩnh lặng xuống, thật sự là tâm bình khí hòa, lại nói với quý vị. Như vậy nói với quý vị, thì cả đời quý vị sẽ không quên. Cho nên bây giờ thầy tìm không được học trò, đến đâu để tìm một người học trò thật thà, nghe lời, thật làm. Có thể dùng tâm chân thành, tâm thanh tịnh, tâm cung kính hướng về thầy để cầu pháp. Không có, tìm không được. Cầu pháp là việc lớn, là việc lớn bậc nhất của đời người, nếu quý vị muốn siêu vượt Lục đạo luân hồi, siêu vượt Mười pháp giới, thì đây không phải là chuyện nhỏ, là thành Phật làm tổ.
Tổ sư Đạt Ma đến Trung Hoa, quý vị xem Nhị tổ cầu pháp với ngài, vào mùa đông. Tổ sư Đạt Ma đang ngồi thiền, Nhị tổ đứng ở bên ngoài, tuyết rơi, tuyết thậm chí đã đến đầu gối. Ngài Đạt Ma biết hay không? Biết, [nhưng] xem thành ý của Nhị tổ. Là có chút thành ý như vậy, liền hỏi Nhị tổ: ông đứng ở trong tuyết lâu như vậy, vất vả như thế, cần gì tự làm khổ mình? Nhị tổ nói ngài cầu pháp. Ngài Đạt Ma nói cầu pháp là việc lớn. Thái độ này của ông vẫn không được. Lúc đó trên người Hòa thượng đều mang giới đao, ngài rút giới đao ra, tự mình chém cánh tay đó xuống, cúng dường cánh tay lên Tổ sư Đạt Ma. Tổ sư Đạt Ma nhìn hình dáng đó của Nhị tổ, ngay cả thân mạng con cũng không cần nữa, con thật đến để cầu pháp. Đến lúc đó, sau khi chém đứt cánh tay ấy, ngài vẫn cứ là phàm phu, thế vẫn là đau đớn, không có cách, chỉ có thể nhẫn nại, tâm không an. Tổ sư Đạt Ma hỏi ngài: ông muốn cầu điều gì? Tâm con không an, cầu Tổ sư an tâm cho con. Tổ sư Đạt Ma nghe được rồi, thì đưa tay ra: ông tâm đem ra đây, ta an cho ông. Hiện nay đắp tượng của ngài Đạt Ma đều là đắp kiểu tượng này, quý vị xem ngài Đạt Ma đưa tay ra, ngài nói ông đem tâm ra, ta an cho ông. Lúc này Nhị tổ hồi quang phản chiếu đi tìm, thì tìm không được, tâm ở đâu? Trả lời một câu: 我覓心了不可得 “Ngã mích tâm liễu bất khả đắc”(Con đã tìm tâm nhưng không thể được). Con tìm không thấy tâm ở chỗ nào? Tổ sư Đạt Ma nhắc nhở một câu: 與汝安心竟“Dữ nhữ an tâm cánh” (an tâm cho ông đã xong), ta an tâm của ông xong rồi. Ngài liền bỗng nhiên đại ngộ, ngộ này chính là Đại triệt Đại ngộ, nên truyền Y bát cho ngài. Đây là đại sự, đại sự nhân duyên, truyền pháp nào có qua loa như thế, cho nên khó [tìm] học trò.
Tiên sinh Phương Đông Mỹ nói với tôi, 64 năm trước, lúc tôi 26 tuổi. Năm đó chúng tôi chỉ nghĩ đến: Tiên sinh dạy học ở Đại học Đài Loan, chúng tôi có hứng thú sâu dày với Triết học, nên muốn nghe tiết học của thầy, mục đích ở chỗ này, chỉ muốn nghe tiết học của thầy. Thầy trả lời bức thư của tôi, hẹn tôi gặp ở nhà thầy. Nói với tôi, trường học bây giờ, thầy không giống thầy, học trò không giống học trò, nếu anh đến trường nghe giảng, thì anh sẽ vô cùng thất vọng. Tôi nghe những lời này giống như dội gáo nước lạnh, thầy hoàn toàn đã từ chối, cho nên lúc đó vẻ mặt hẳn là rất ủ rũ, rất khổ sở. Chúng tôi đã im lặng bảy- tám phút, thầy bảo tôi: như vậy được rồi, chủ nhật hàng tuần anh đến nhà tôi, chúng ta hẹn từ 9 giờ rưỡi đến 11 giờ rưỡi, tôi lên lớp cho anh hai tiếng. Môn Triết học của tôi là học ở nhà thầy, không phải ở trường. Vì sao thầy phải làm như vậy? Vì chúng tôi cung kính với thầy, chân thành với thầy, có sự chân thành cung kính. Nói cách khác, sinh viên trong trường, không có dáng vẻ chân thành cung kính giống tôi. Không có nữa, thì thầy giảng nhưng họ nghe không vào, giảng uổng rồi, không bằng không giảng, không phải thầy không dạy. Một người chúng tôi đây, chủ nhật thầy còn dùng hai tiếng đồng hồ để dạy môn này cho tôi, thì quý vị hiểu được, thầy thật muốn dạy, nhưng tìm không được học trò. Đây là chúng tôi cầu học cầu đến trước mặt thầy.
Cho nên tôi cũng thường xuyên nhắc đến chuyện này, để khuyến khích đồng học, nếu tôi cùng người xưa, với đời trên của chúng ta, chính là đi so sánh với thế hệ của thầy, thì sự chân thành cung kính của chúng tôi có, nhưng không đủ. Sự chân thành cung kính của các ngài đối với thầy chí ít được bảy tám mươi phần, tôi có thể được bao nhiêu phần? Tôi nói với quý vị, nhiều nhất là tôi chỉ có thể được 30 phần. Nếu bảy tám mươi phần thì tìm không thấy nữa, 30 phần cũng chỉ là miễn cưỡng. Sinh viên trong Đại học ngày nay, kiểu cung chân thành cung kính đó đối với thầy, có chừng ba phần thì không tệ rồi, đây mới là ranh giới giữa đoạn tuyệt và tiếp nối trong sự tồn vong của Văn hóa Truyền thống. Không phải là thầy không dạy, mà đầu tiên là cần học trò muốn học, nếu học trò thật học, thì Phật Bồ-tát đều hóa thân đến để dạy quý vị. Cho nên không sợ không có thầy, chân thành thì có cảm ứng, phải hiểu đạo lý này. Chúng ta muốn học, mà không có thầy, đó là tâm của chúng ta không chân thành, không có tâm cung kính, cho nên không cách nào cảm động những vị thầy ấy.
Chúng ta đối với thầy, thầy trò như cha con, con của thầy không khác với anh em ruột của chúng ta, mãi mãi nên chăm sóc. Cho nên trước đây làm thầy, vì sao dạy học trò nghiêm túc như vậy? Vì học trò có thành tựu, thì con cháu nhà thầy được có người chăm sóc. Hiện nay không còn sư đạo nữa, không còn con cái hiếu thuận cha mẹ nữa, cũng không còn học trò tôn kính thầy nữa, đây là điều mà chúng ta lo lắng. Chúng tôi nhìn thấy học trò tốt, có tâm chân thành học tập, có tâm cung kính, tôn trọng với bài học của chính mình, tôn trọng thầy, hữu ái với đồng học, chúng tôi sẽ toàn tâm toàn lực giúp đỡ học trò ấy, quá khó được rồi! Học trò như vậy, quý vị chiếu cố học trò ấy, học trò ấy sẽ có thành tựu, quý vị không dạy uổng công.
Thầy kiểm tra học trò, đây chính là kiểm tra trước mặt. Tôi học Phật 5 năm mới quen thầy Lý, là do lão Cư sĩ Chu Kính Trụ và Pháp sư Sám Vân giới thiệu, là hai người giới thiệu. Tôi đến Đài Trung, mang theo thư giới thiệu đến Đài Trung gặp thầy Lý. Thầy Lý gặp cũng rất hoan hỉ, cho tôi ba điều quy ước, nói với tôi: nếu anh có thể tiếp nhận ba điều kiện này, thì tôi thâu nhận anh làm học trò. Nếu anh không thể tiếp nhận, thì mời anh tìm người khác cao minh hơn. Là ba điều gì? Điều thứ nhất là: những gì trước đây anh đã học thì tôi không thừa nhận. Tôi đã nói với thầy những gì trước đây tôi đã học, là cùng Đại sư Chương Gia và Tiên sinh Phương Đông Mỹ, tôi chỉ có hai người thầy, không phức tạp. Không được, thầy vẫn không thừa nhận, muốn từ hôm nay trở đi, học lại từ đầu, không thừa nhận điều trước đây. Đó là điều thứ nhất. Còn điều thứ hai, là đọc sách, bất luận là đọc sách thế gian hay kinh sách Phật, nếu không được sự đồng ý của thầy thì không được xem. Đó là điều thứ hai, phải là sách do ngài chỉ định thì mới có thể xem. Điều thứ ba, là nghe giảng kinh, lúc đó vẫn có Pháp sư, Cư sĩ đến Đài Trung, đi qua bên đó để giảng kinh, không cho phép đi nghe, chỉ có thể nghe mình thầy.
Có thể tiếp nhận ba điều kiện này hay không? Lúc đó tôi đã suy nghĩ mấy phút, rồi tiếp nhận. Thầy nói: được, có kỳ hạn, không phải không có kỳ hạn, bao lâu? 5 năm. Đến sau này tôi mới hoàn toàn hiểu rõ, thời xưa thầy dạy đồ đệ, 5 năm học giới chính là ba điều này. Ba điều này là thế nào? Điều thứ nhất, không thừa nhận tất cả những gì trước đây của quý vị, không phải là điều đó không tốt, không phải điều đó có sai lầm, mà không thừa nhận quý vị, thì quý vị có thể chuyên tâm học, chỉ có thể nghe thầy. Quý vị không thể nói: “Thầy ơi, cách nói trước đây Đại sư Chương Gia thế này”, điều này thì phiền phức lớn rồi. Cách nói của Tiên sinh Phương Đông Mỹ thế này, thầy không thừa nhận, con phải nghe ta. Mới dễ dạy, thật sự mới có thể thâm nhập một môn. Đọc sách gì cũng như vậy, trước đây quý vị đọc, xem kinh, thầy đều không tính, do thầy chỉ định, chỉ định bản kinh, chỉ định chú sớ. Nghe kinh thì chỉ có thể nghe mình thầy giảng kinh.
Tôi tuân thủ ba điều đó của thầy, ba tháng thì tôi báo cáo với thầy, có hiệu quả, tôi rất hoan hỉ, vì sao? Đầu óc sáng tỏ rồi. Quý vị xem, không được nghe, không được xem, đương nhiên quý vị cũng không được tùy tiện nói lung tung, thì phiền não sẽ nhẹ thôi. Sau nửa năm, thì tôi vô cùng bội phục phương pháp đó của thầy. Sau này tôi đến Singapore, nói đến chuyện này với Pháp sư Diễn Bồi, Pháp sư Diễn Bồi nói: lúc nhỏ Pháp sư, Pháp sư xuất gia từ nhỏ, mười mấy tuổi, với lão Hòa thượng Đế Nhàn cũng là ba điều này. Thì tôi mới biết đây không phải là của riêng thầy Lý, mà là sư thừa được nói bởi cổ nhân trước đây. 5 năm học giới, cho nên kỳ hạn của thầy là 5 năm. 5 năm thì gốc rễ này đã cắm xuống, đã vững chắc, thì đều có thể xem tùy ý, nghe tùy ý, quý vị có năng lực phân biệt tà chánh, phân biệt đúng sai, quý vị sẽ không bị bên ngoài dụ hoặc. Có năng lực này, thì yên tâm rồi, quý vị có thể xem bất cứ thứ gì, có thể nghe bất cứ điều gì. Thế nhưng [khi] tôi đến 5 năm, tôi vẫn nói với thầy: con tuân thủ tiếp 5 năm. Thầy cười với tôi. Tôi tuân thủ thêm 5 năm, cắm gốc càng vững chắc hơn. Thầy như vậy – đến đâu để tìm? Có thể gặp – không thể cầu, nếu quý vị thật làm, thì thầy thật dạy.
Khi tôi đến, thầy mở một lớp học kinh, bồi dưỡng nhân tài giảng kinh, có hơn 20 học trò, muốn tôi tham gia, nhưng tôi không dám đi. Tôi đến học kinh giáo, chứ tôi không dám đến học giảng kinh giáo. Thầy nói: con đi tham quan một chút, xem một chút tốt rồi. Tôi nói: xem một chút thì có thể, dẫn tôi đi. Buổi học đó tan thì tôi nói với thầy: con có thể tham gia. Học trò trong lớp đó của thầy, thì Cư sĩ Chu Phi là người có bằng cấp cao nhất, hiện nay cũng không còn nữa, vị ấy đã học hai năm Đại học, đó là người bằng cấp cao nhất, là một người, hai người có bằng cấp Trung học Phổ thông, vậy là ba người, còn lại chính là tốt nghiệp Trung học Cơ sở, người tốt nghiệp Tiểu học chiếm một nửa, tốt nghiệp Tiểu học. Hơn nữa có một vị lớn tuổi nhất, là 60 tuổi. 60 tuổi, tốt nghiệp Tiểu học [vẫn] học giảng kinh, còn giảng được hay, lên đài giảng được đạo lý rõ ràng, thính chúng đều hoan hỉ, pháp duyên thù thắng. Điều này là thế nào? Là cho chúng tôi sự khích lệ rất lớn, tôi vẫn còn tốt nghiệp Trung học Cơ sở.
Tuy lúc nhỏ thời gian thất học là dài, nhưng đi trên đường nhiều, người xưa nói: đọc vạn quyển sách, đi vạn dặm đường, tuy lúc đó tôi chưa đọc vạn quyển sách, nhưng vạn dặm đường thì đi rồi. Trong tám năm kháng chiến, tôi đã đi 10 tỉnh, đã đi khắp phía Nam sông Trường Giang, là hai chân này đi, thấy được nhiều, kinh nghiệm phong phú, lãnh hội rất sâu về khổ vui của đời người. Cho nên thích một mình tĩnh tọa, ở dưới cây ven sông, khi tôi mười mấy tuổi thì thích tĩnh tọa như vậy, ở đó suy nghĩ vấn đề, ở đó tìm đáp án. Những vấn đề đó đều bắt nguồn từ lúc còn nhỏ, lúc niên thiếu, ở quê hương, quê hương chúng tôi được một chút tiện lợi, hưởng được ánh sáng của phái Đồng Thành, trẻ em ở dưới quê đều học Tư thục. Ba tuổi tôi chuyển từ Kim Ngưu đến Bạch Hồ, sống ở trong nhà của cô, cô của tôi được gả đến nơi đó, nhà họ Uyển, đó là một gia tộc lớn. Lúc đó, 10 người anh em của họ không ở riêng, là đại gia đình, cả trên lẫn dưới còn có hơn 100 người, dù đã suy rồi. Nhà của chính tôi đã không còn nữa, sống ở trong nhà của cô. Trong nhà họ có nhà thờ tổ, trong nhà thờ tổ mở Tư thục. Cho nên tôi đã ở lại nhà thờ tổ của họ một năm, ấn tượng rất sâu sắc. Tôi thích đại gia đình, người một nhà của đại gia đình, là mấy trăm người, trên dưới tương thân tương ái, có quy củ, có gia quy, có gia huấn. Đệ Tử Quy là phần chung ở trong gia quy của đại gia đình khi xưa, chính là bất kỳ gia đình nào đều phải tuân thủ. Ngoài điều này ra còn có các mục bổ sung, đó là gì? Là chỉ trong nhà họ có, đọc sách, vì học phái khác nhau, sự nghiệp, ngành nghề khác nhau, cho nên họ có quy củ khác thêm ở phía sau. Thật là thứ tốt.
Nhà là đơn vị nền móng của đất nước, trị gia rồi, đất nước liền thái bình, thì không có vấn đề nữa, nhà chỉnh tề rồi sau đất nước yên ổn, đất nước yên ổn rồi sau thiên hạ thái bình. Lý niệm, phương pháp, hiệu quả, kinh nghiệm này: có mấy ngàn năm lịch sử ở nước ta. Nếu trái đất này muốn khôi phục đến an định hài hòa, vậy thì giống như lời ông Joseph Toynbee đã nói, cần khôi phục lại học thuyết Khổng Mạnh của nhà Nho, khôi phục lại Phật pháp Đại thừa, trở về giống kiểu phương thức sinh hoạt ngày xưa của nước ta. Cách vật, trí tri, thành ý, chánh tâm, tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ, đây là nhân sinh hạnh phúc nhất, mỹ mãn nhất của đời người, ở nước ta, không ở nước ngoài, thế gian đây chỉ có một nhà này. Cho nên nước ta không thể mất, Tổ tiên tích đức sâu dày, Tổ tiên phù hộ, Tam Bảo gia trì, chúng Thần đều chiếu cố, đều phù hộ nơi này, bất kể là Tôn giáo nào. Vì sao? Vì Thần yêu thương người đời, đây là thật không phải giả. Cho nên dựa theo giáo huấn của cổ Thánh tiên Hiền để làm, để học tập. Thì quý vị sẽ được Tổ tiên phù hộ, được chúng Thần gia trì. Vì sao? Vì hiện nay ít, quá ít rồi. Vào ngày trước thì nhiều, mọi người đều học, một hai người không hiếm lạ, hiện nay đều không có nữa, cho nên người không đạt chuẩn cũng rất hiếm lạ, cũng đều được nhờ rồi. Chúng ta phải có tín tâm ở chỗ này, phải đầy đủ niềm tin.
Tiếp theo, 本經《禮供聽法品》阿彌陀如來開示十方來臨之正士曰 “bổn Kinh LễCúng Thính Pháp Phẩm A Mi Đà Như Lai khai thị thập phương lai lâm chi Chánh sĩ viết” (trong Phẩm Lễ Cúng Thính Pháp của Kinh này: A Mi Đà Như Lai khai thị cho Chánh sĩ đến từ mười phương rằng). Đây là mười phương mới vãng sanh đến Thế giới Cực Lạc, A Mi Đà Phật tổ chức nghi thức khai giảng long trọng với mọi người, khai thị trong đây. Chánh sĩ, Cư sĩ tại gia gọi là Chánh sĩ. 通達諸法性,一切空無我。專求淨佛土,必成如是剎 “Thông đạt chư Pháp tánh, nhất thiết Không vô Ngã. Chuyên cầu tịnh Phật độ, tất thành như thị sát”(Thông đạt các Pháp tánh, tất cả Không vô Ngã. Chuyên cầu tịnh cõi Phật, mong thành như cõi ấy). Quý vị xem, đây là khai thị với mọi người, thuyết điều gì? Là nói rõ Thế giới Cực Lạc được thành tựu như thế nào? Nguyên nhân chính, là 48 nguyện của A Mi Đà Phật, nguyên nhân tiếp theo, là mỗi một người vãng sanh đến Thế giới Cực Lạc, những vị ấy: bất luận quý vị là cấp bậc gì, đều cần nên lấy 48 nguyện làm nguyện vọng của mình, [là] duyên. Nhân là A Mi Đà Phật, còn duyên là những người vãng sanh chúng ta, chúng ta chung một lý niệm, chung một phương hướng với A Mi Đà Phật, đều học giáo huấn của A Mi Đà Phật, vậy thì được rồi, ở đạo tràng của Ngài thành tựu viên mãn Phật đạo.
Thông đạt chư Pháp tánh, Minh tâm Kiến tánh, công phu niệm Phật: chính là dùng một câu A Mi Đà Phật, giống như lão Hòa thượng Hải Hiền. Tôi xem Vĩnh Tư Tập về ngài, tôi có thể lãnh hội được: khi nào ngài được Công phu Thành phiến. 20 tuổi ngài xuất gia, là niệm đến cùng một câu Phật hiệu, 20 tuổi xuất gia, ngài là thật thà, nghe lời, thật làm, là học trò khó được nhất, ngài là đạt tiêu chuẩn, không những đạt tiêu chuẩn, mà ngài là điểm số cao. Nhiều nhất là 5 năm, chính là 25 tuổi được Công phu Thành phiến. Được Công phu Thành phiến thì nâng lên rồi, sanh Phương Tiện Hữu Dư độ, ngài không ở Đồng Cư độ. Lại thêm 10 năm, nhiều nhất là 15 năm. Thì được Sự nhất tâm Bất loạn, Lý nhất tâm Bất loạn. Vậy thì sanh Thật Báo Trang Nghiêm độ. Đó chính là thông đạt các Pháp tánh, tất cả Không vô Ngã, ngài làm được hai câu này rồi, địa vị ngang bằng giống với Đại sư Huệ năng. Tôi tin rằng: khoảng chừng 40 tuổi, ngài đạt được cảnh giới này, ngài sanh đến Thế giới Cực Lạc là Thật Báo Trang Nghiêm độ, là Pháp thân Bồ-tát.
Tất cả Không vô Ngã là chân tướng sự thật, vạn pháp đều Không, trong Kinh Kim Cang giảng, ở nước ta Kinh Kim Cang được lưu hành nhiều nhất, là bởi vì Lục tổ Đại sư Huệ Năng khai ngộ ở trong bộ Kinh này, thuận tiện đối với quán chiếu. Hai câu trong Kinh giảng quá hay rồi, 凡所有相,皆是虛妄 “phàm sở hữu tướng, giai thị hư vọng”, chính là tất cả Không vô Ngã, cùng một ý nghĩa. Nếu quý vị hiểu rõ chân tướng sự thật, quý vị liền không để những thứ này trong tâm, thì phiền não quý vị nhẹ, trí huệ liền tăng. Hiểu rõ chân tướng sự thật, tất cả Không vô Ngã, cũng chính là tất cả hiện tượng đều là hư vọng, câu kệ sau nói được càng hay, 一切有為法,如夢幻泡影 “nhất thiết Hữu vi pháp, như mộng huyễn bào ảnh”, Hữu vi là có sanh có diệt, quý vị xem động vật có sanh già bệnh chết, thực vật có sanh trụ dị diệt, khoáng vật, sông núi đất đai có thành trụ hoại không, ngay cả tinh cầu cũng có sanh có diệt, hệ Mặt trời cũng có sanh diệt, hệ Ngân hà cũng có sanh diệt, đây là nhà Khoa học nói với chúng ta. Hễ là thứ có sanh có diệt đều là mộng huyễn bọt bóng, đều là giả, đều không phải là thật.
Chư Pháp Tánh, Tánh sanh các pháp, Pháp Tánh là thật, Pháp Tánh là Không vô Ngã. Pháp Tánh không có hiện tượng, không có hiện tượng vật chất, không có hiện tượng tinh thần, cũng không có hiện tượng tự nhiên, nhưng Pháp Tánh khởi tác dụng, có thể sanh ra tất cả hiện tượng. Cho nên Đại sư Huệ Năng nói: 何期自性,能生萬法 “Hà kỳ Tự Tánh, năng sanh vạn pháp”, không ngờ rằng Tự Tánh có thể sanh cả thảy vũ trụ. Cả thảy vũ trụ là do Tự Tánh sanh, do Tự Tánh hiện, nhưng do A-lại-da biến. Tự Tánh sanh, Tự Tánh hiện là Thật Báo độ, còn không sanh không hiện là Thường Tịnh Quang Tịnh độ, chúng ta phải làm rõ ràng điều này. A-lại-da như vậy, A-lại-da có thể biến, đem Tịnh độ được sanh bởi Tự Tánh, là Thật Báo độ, biến thành Mười pháp giới, biến thành Lục đạo Luân hồi. Lục đạo Luân hồi và Mười pháp giới hoàn toàn là giả, tuyệt đối không thể chấp trước, nếu chấp trước thì sai rồi.
Vãng sanh Thế giới Tây Phương Cực Lạc, thật tuyệt vời! Không chỉ siêu vượt Lục đạo, mà còn siêu vượt Mười pháp giới. Thế giới Tây Phương có Phàm Thánh Đồng Cư độ, chúng ta đây là Phàm Thánh Đồng Cư độ, chúng ta đây là Phàm Thánh Uế độ, ô nhiễm, ô nhiễm nghiêm trọng, còn Thế giới Cực Lạc là Phàm Thánh Đồng Cư Tịnh độ, trong đó không có ô nhiễm. Không những không có ô nhiễm, mà trong cõi Đồng Cư cũng không có sanh diệt, người là vô lượng thọ, tất cả vạn vật, cây cối hoa cỏ bốn mùa luôn đầy sức sống, nơi đó chỉ có mùa xuân, không có mùa hạ, mùa thu, mùa đông, không có, là khí hậu tốt nhất, hoa cỏ cây cối đều không sanh không diệt. Cho nên chúng ta cần phải đi đến nơi đó, hơn nữa nhất định thành tựu.
Một-hai tháng trước, cha của Tổng giám đốc Tạ ở Triều Châu, người là người thiện, người tốt, con trai là lãng tử hồi đầu, hành Bồ-tát đạo, cả đời ông chưa nghe qua kinh, cũng chưa từng niệm Phật, con trai khuyên ông, thì ông lắc đầu. Con trai rất lo lắng, nếu cha không thể vãng sanh Thế giới Cực Lạc, thì lại đi vào Lục đạo Luân hồi nữa, phải làm sao? Sau cùng, hai giờ trước khi ông ấy dứt hơi thở, con trai đến thăm ông ấy, khuyên cha rằng: cha, thật có Thế giới Cực Lạc, cha tin hay không? Người cha gật đầu. Thế giới Cực Lạc thật có A Mi Đà Phật, cha có tin không? Người cha cũng gật đầu. Nhìn thấy cha gật đầu, ông ấy nói được, con niệm Phật, cha niệm theo con. Niệm hơn một tiếng đồng hồ, thì người cha đi rồi, tướng lành hiếm có, ba ngày sau nhập liệm, toàn thân mềm mại, còn mềm mại hơn lúc còn sống. Hơn 1000 người nhìn thấy, có nhìn thấy ánh sáng, có ngửi thấy mùi thơm đặc biệt, tướng lành không thể nghĩ bàn. Vị ấy đến biểu pháp, truyền đạt điều gì? Truyền đạt nguyện thứ 18, lúc sắp mạng chung, mười niệm chắc chắn sanh. Làm chứng minh cho chúng ta, không khó. Then chốt của điều này chính là chân tín, thiết nguyện, quý vị có thật sự tin tưởng, thật mong muốn đến Thế giới Cực Lạc, thân cận A Mi Đà Phật, làm học trò của A Mi Đà Phật. Giống như là một trường Đại học Phật giáo, đến nơi đó để làm Phật. Chủ tu của trường Đại học ấy chính là Kinh Vô Lượng Thọ, câu Phật hiệu A Mi Đà Phật này, còn môn bổ sung, là 84 ngàn Pháp môn, mỗi môn đều đầy đủ, nếu quý vị thích học môn nào, thì A Mi Đà Phật sẽ giảng cho quý vị môn đó, là cảnh giới không thể nghĩ bàn.
專求淨佛土,必成如是剎 “Chuyên cầu tịnh Phật độ, tất thành như thị sát”(Chuyên cầu tịnh cõi Phật, mong thành như cõi ấy), quý vị xem: thành tựu này, không chỉ là do A Mi Đà Phật thành tựu, mà mỗi chư vị vãng sanh đều thêm ngói thêm gạch ở đó, để cõi Tịnh Độ ấy, cõi nước Phật ấy, trên thực tế chính là đạo tràng đó, trang nghiêm không gì sánh được, vĩnh viễn trang nghiêm. Bốn câu đây, 道破淨土真因。與今所云一味無差,互為表裡。蓋一切空無我,仍求淨土者,是真實慧也 “đạo phá Tịnh Độ chân nhân. Dữ kim sở vân nhất vị vô sai, hỗ vi biểu lý. Cái nhất thiết Không Vô ngã, nhưng cầu Tịnh Độ giả, thị Chân thật huệ dã” (nói rõ nhân chân thật của Tịnh Độ. Cùng một vị không khác với điều được nói ở đây, trong ngoài trở thành lẫn nhau. Bởi tất cả Không vô Ngã, dựa vào cầu Tịnh Độ, là Chân thật huệ). Thật nhìn thấu rồi, nhìn thấu là trí huệ, còn buông xuống là công phu. Nhìn thấu mà thật có thể buông xuống, thì đó là thật nhìn thấu. Có nhìn thấu, nhưng vẫn còn chuyện chưa có buông xuống, thì đó là nhìn thấu giả, đó không phải là thật. Đây là năm xưa, Đại sư Chương Gia nói với tôi, nhìn thấu nào có chuyện không thể buông xuống? Chỉ cần quý vị chưa buông xuống, thì quý vị lập tức quay đầu là bờ, phải nói với chính mình là chưa nhìn thấu, không phải là thật nhìn thấu. Thật nhìn thấu, là trong tâm không đều không có chút mảy may ý niệm. Phải thật nhìn thấu mới có tác dụng, không phải là thật nhìn thấu, thì quý vị chưa có buông xuống, chính là quý vị chưa đoạn được lo lắng phiền não của quý vị, điều này có chướng ngại vô cùng lớn đối với Trí huệ chân thật, quý vị vẫn sanh phiền não, quý vị không sanh trí huệ. Khen ngợi quý vị, tâng bốc quý vị, mà quý vị tâm bình khí hòa, không có cho rằng mình rất vinh quang, mình rất cao quý, không có ý niệm này, đó [là] công phu. Hủy báng quý vị, hãm hại quý vị, [cũng] không có chút oán hận. Tu hành là tu ngay trong sinh hoạt hàng ngày, nếu rời xã hội đại chúng thì quý vị đến nơi nào để tu, trí huệ và công phu, đều ở trong xử sự đãi người tiếp vật mà tu thành.
Ở trong suy nghĩ của chúng ta, tất cả chúng sanh đều là Phật, đều nên lễ kính. Lễ kính không phải là hình thức, trên hình thức là lễ kính của cúi lạy, đó là quy củ trong nhà Phật, ở bên ngoài không có cần thiết điều này. Thầy nói với tôi, là Đại sư Chương Gia nói: Phật pháp trọng thực chất chứ không trọng hình thức, câu này nói rất hay. Thực chất là thế nào? Thực chất là thật, quý vị thật không có để ở trong tâm, thì đó là thực chất. Những thứ bên ngoài là hình thức, hình thức là biểu diễn cho người khác xem, là khuyên người khác tôn sư trọng đạo. Quý vị xem, tôi cung kính Phật Bồ-tát như vậy, hi vọng quý vị cũng có thể cung kính. Là khuyên người, là biểu diễn trên sân khấu, không phải là thật. Thật chính là trong tâm vô cùng sạch sẽ, chân thành, cung kính, thanh tịnh, đây là thật.
Thật tu, tổng cương lĩnh ở ngay trên đề Kinh, năm chữ trên đề Kinh: 清淨平等覺 “Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác”, thanh tịnh là A-la-hán; Bình đẳng là Bồ-tát; Giác là Pháp thân Bồ-tát, giác là Đại triệt Đại ngộ, Minh tâm Kiến tánh, là Pháp thân Bồ-tát. Nếu hoàn toàn không có, là phàm phu. Chúng ta khởi tâm động niệm vẫn còn sanh phiền não, có thiện có ác, có lấy có bỏ, đây chính là phiền não, còn có những phiền não này, thì sanh cõi Đồng Cư. Nếu không có Chấp trước nữa, thì giống A-la-hán, sanh cõi Phương Tiện; Bình đẳng, thì sanh Thượng thượng phẩm của cõi Phương Tiện; Nếu giác rồi, giác rồi chính là Minh tâm Kiến tánh, thì sanh cõi Thật Báo. Những chìa khoá ấy là phẩm vị của quý vị khi đến Thế giới Cực Lạc, quý vị đi xếp lớp thì xếp vào lớp nào. Thế giới Tây Phương Cực Lạc có Tiểu học, Trung học, Đại học, Nghiên cứu sinh, nơi đó là một trường học. A Mi Đà Phật là Hiệu trưởng, Bồ-tát Quan Âm là Giáo vụ trưởng, Bồ-tát Đại Thế Chí là Huấn đạo trưởng, nơi đó không có người quản lý, nơi đó không cần người quản lý, nơi đó chỉ cần hai chức vụ này thì đủ rồi. Đến cõi đó, đảm bảo quý vị một đời viên mãn thành Phật.
Khởi tác dụng khi thành Phật, giống như A Mi Đà Phật. Chúng ta có lý do để tin tưởng, những vị Phật Thế Tôn thành Phật trong Thế giới Cực Lạc, tôi tin rằng có vô cùng rất nhiều, chính mình cần xây dựng cõi nước Phật hay không? Không cần, dùng Thế giới Cực Lạc làm cõi Phật của chính mình, tôi tin rằng nhất định rất nhiều, A Mi Đà Phật sẽ không từ chối. Quý vị thành Phật rồi, quý vị đến nơi nào, Thế giới nào để thành Phật, đó là có duyên, có duyên cũng có thể không đi, ở Thế giới Cực Lạc, luôn ở Thế giới Cực Lạc. Luôn ở tại Thế giới Cực Lạc giáo hóa tất cả chúng sanh trong mười phương, các ngài có năng lực này, phân thân đi, hóa thân đi, còn chân thân của chính mình thì như như bất động. Điều này là sự trang nghiêm thật không gì sánh được của Thế giới Cực Lạc. Vậy nếu quý vị hỏi tôi, thì tôi sẽ nói với quý vị, sau khi tôi đến Thế giới Cực Lạc, tôi sẽ mãi mãi ở bên đó, tôi nhất định sẽ không rời khỏi, thành Phật cũng không rời khỏi. Dùng Ứng Hóa thân, đức Phật Thích Ca Mâu Ni là ứng hóa đến, ở Thế giới này của chúng ta, Đại sư Trí Giả của tông Thiên Thai, là đức Phật Thích Ca Mâu Ni tái lai, Đại sư Vĩnh Minh Diên Thọ, và Đại sư Thiện Đạo là A Mi Đà Phật tái lai, các ngài là hóa thân đến.
Sự nghiệp của cả đời này, từ tám tướng thành đạo, đều là thị hiện cho phàm phu xem, hi vọng phàm phu có thể học tập. Đại sư Chương Gia khuyên tôi xuất gia, tôi đã tiếp nhận, đó là duyên. Nhân là gì? Nhân là tám năm kháng chiến, tôi nhìn thấy những cảnh nhà tan cửa nát thê thảm, tôi thấy quá nhiều rồi, tôi nhìn thấy nỗi khổ của chúng sanh, chiến tranh là tai nạn. Cho nên trong đầu suy nghĩ: làm sao có thể khiến cho thế gian này mãi mãi không có tai nạn, chúng tôi biết suy nghĩ vấn đề này, vĩnh viễn không có tăng thêm chiến tranh, chịu những nỗi khổ này. Năm xưa chính tôi thất học, đã học một năm Sơ Trung, thì thất học, vì sao thất học? Do nộp không nổi học phí nên thất học, chịu đựng gian khổ lớn như vậy. Cho nên tôi thường luôn nghĩ, đất nước cần có một chế độ như thế nào, để các học sinh đang học, không vì kinh tế gia đình mà đánh mất cơ hội đi học, tôi suy nghĩ điều này. Nghĩ ra cách gì? Là quốc gia đảm nhiệm, giống như nuôi dưỡng quân đội, có thể thu thuế giáo dục lên người dân, thuế giáo dục có thể thu 1 phần 10, 1 phần 10 thu nhập của quý vị, thuế này là thuế giáo dục của quốc gia, làm chi phi giáo dục, không thể dùng, không được làm bất cứ chuyện gì khác. Người giàu có thì quyên góp nhiều, người nghèo thì quyên góp ít, người cơ cực có thể không cần quyên góp, con em của họ giống nhau, học từ Tiểu học đến Đại học, tôi nghĩ ra phương pháp như vậy, tôi còn thấy được: ở Sri Lanka.
Tôi đến thăm Sri Lanka, Tổng thống tiếp đón tôi, hình như lần thứ nhất tôi đi chín ngày, chín ngày gặp Tổng thống bốn lần, lần lâu nhất là hơn ba tiếng đồng hồ, ăn cơm cùng nhau. Tôi biết học sinh của Sri Lanka, từ nhỏ nhập học, là quốc gia nuôi dưỡng, tất cả chi phí là của quốc gia, tôi thỉnh giáo với Tổng thống: khoản chi tiêu của chính phủ đất nước quý vị có phải là đặt giáo dục ở vị trí hàng đầu? Ông ấy nói đúng vậy. Đúng rồi, kiến quốc quân dân, giáo học vi tiên, thật khó được, cần nên như vậy. Đặt giáo dục ở vị trí đầu tiên của đất nước, tôn sư trọng đạo, để mỗi học sinh, từ học sinh mẫu giáo, đều sẽ không thất học. Quốc gia cần phải đặc biệt tôn trọng, phải đãi ngộ đặc biệt đối với Nhân viên làm giáo dục, vì sao? Vì dạy học rất vất vả, cả đời tham gia vào sự nghiệp giáo dục, hiến dâng cuộc đời vì thế hệ sau, dạy tốt người thế hệ sau, điều này trọng đại biết bao, quốc thái dân an. Bởi vì không tôn trọng thầy cô, thì người thật có tâm nguyện sẽ không theo nghề nghiệp này, đi kiếm tiền rồi, vấn đề này nghiêm trọng, đời này của quý vị tính qua được không tệ, nhưng đời sau thì xong rồi. Chúng ta phải tính toán lâu dài, phải suy nghĩ đến đời sau, nếu đời sau tốt thì chúng ta tốt, đời sau tốt hơn, thì chúng ta cũng tốt hơn.
Quốc gia nên lo lắng đến, đều phải bồi dưỡng mọi kiểu nhân tài, quan trọng nhất chính là cán bộ lãnh đạo đất nước, nước ta vô cùng coi trọng. Quý vị xem lịch sử, các triều đại Đế vương, vào ngày mà Đế vương nhậm chức, thì đạo chiếu thư đầu tiên là gì? Họ ngồi đến trên vị trí đó, thì việc đầu tiên là gì? Là lập Thái tử, bồi dưỡng người nối nghiệp, là việc lớn đầu tiên. Tuyển chọn thầy giáo ưu tú nhất của đất nước [để] dạy Thái tử, Thái tử có bạn cùng học, những người bạn cùng học đó chính là quần thần tiếp nối, đại khái đều là những con cháu của Văn võ Bá quan Tam công Cửu khanh, con em ưu tú nhất cùng học, để họ từ nhỏ đã ở cùng một nơi, hai bên hiểu rõ lẫn nhau. Việc này, sau khi Hoàng thượng băng hà, thì truyền vị trí cho Thái tử, triều đình của họ đã có sẵn, đều có người của các ngành, đều có người kế tục tốt nhất. Cho nên đất nước ổn định và hòa bình lâu dài. Quý vị xem thời cận đại, quý vị xem gần nhất là Khang Hi, Ung Chính, Càn Long, quý vị cứ xem ba triều vua này, họ thật là dùng tâm bồi dưỡng, tạo thành sự thịnh thế của triều Thanh, 150 năm. Thời gian đó, Đế quốc Đại Thanh là số 1 trên thế giới, không ai có thể so sánh.
Đặt giáo dục ở hàng đầu, đối với giáo dục quốc dân, luân lý, đạo đức, nhân quả, đặc biệt là nhân quả, thật sự hiểu được nhân quả, sẽ không dám khởi ác niệm, thì làm sao có thể làm việc xấu? Nghèo khổ hơn nữa cũng không thể đi trộm cắp, họ có thể chịu được, họ làm ăm mày, họ cũng không thể làm kẻ trộm cắp. Cho nên giáo dục vô cùng quan trọng, chỉ cần thực hiện tốt giáo dục, thì vấn đề gì cũng được giải quyết. Giáo dục đã thất bại, thì xã hội này liền động loạn, thì tai nạn đặc biệt nhiều. Nước ta có bảo vật, có thể cứu quốc gia, có thể cứu thế giới. Tôi hi vọng sau 10 năm, văn hóa truyền thống Trung Hoa phổ cập đến toàn thế giới. Cho nên ông Joseph Toynbee nói, thế kỷ 21 là thế kỷ của người Trung Hoa, thời gian tôi ở nước ngoài lâu, bạn bè cũng rất nhiều. Hơn nữa đều là người có địa vị rất cao, tôi nói chuyện cùng với họ, tôi phải hóa giải băn khoăn lo lắng trong lòng họ. Người Trung Hoa thống nhất cả thế giới, không phải là chính trị, không phải là vũ lực, không phải là kinh tế thương mại, không phải khoa học kỹ thuật, vậy là gì? Là văn hóa. Văn hóa gì? Hiện nay chúng tôi vô cùng cụ thể, Quần Thư Trị Yếu, chính là bộ sách này. Quý vị cũng có thể xem, hi vọng người trên toàn thế giới đều đọc bộ sách này, xây dựng nhận thức chung, thì thế giới sẽ hòa bình, thì thái bình thôi.
Chúng ta phải: chung sống hòa thuận, đối đãi bình đẳng, cùng tồn cùng vinh, tôi dùng 12 chữ này, mọi người đều hoan hỉ, không có một ai phản đối. Đều hi vọng Quần Thư Trị Yếu có thể phiên dịch thành chữ viết của đất nước họ, hiện tại đã có sáu loại rồi, có tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Đức, hình như là tiếng Tây Ban Nha, tiếng Nhật, có người Nhật Bản phiên dịch thành tiếng Nhật. Chúng tôi hi vọng, nước ta có Trường ngoại ngữ, tìm ai phiên dịch? Bảo học sinh Trường ngoại ngữ, họ đến phiên dịch, họ phiên dịch thì cần đọc bộ này. Để mỗi người họ, Trường ngoại ngữ tương lai thì làm về công tác ngoại giao, có thể đi dạy người nước ngoài, phái đến [làm] Đại sứ của quốc gia nào, chính là Bộ trưởng Giáo dục của quốc gia đó, phương pháp này vô cùng tuyệt vời, đến dạy văn hóa truyền thống Trung Hoa. Văn hóa truyền thống Trung Hoa là thuộc về toàn nhân loại, không phải một quốc gia, một dân tộc, mà toàn nhân loại. Quý vị xem sách cổ Trung Hoa, Trung Hoa rất ít nói quốc gia, nói ra là thiên hạ, chúng ta phải hiểu được điều này. Điều mà ông Joseph Toynbee tán thưởng nhất chính là tâm lượng rộng mở, bao dung của người Trung Hoa, họ không ức hiếp dân tộc khác. Ông ấy nêu lên một ví dụ tiêu biểu. Phật giáo là văn hóa Ấn Độ truyền đến Trung Hoa, không những họ không tiêu diệt Phật giáo, mà còn giúp Phật giáo phát dương quang đại, đây là người Trung Hoa có thể làm được, thông thường nếu không có sự độ lượng lớn đó thì họ làm không được.
Cho nên, bộ sách này nhất định phải phiên dịch thành nhiều chữ viết nước ngoài, giao cho trường Đại học Ngoại ngữ thì dễ làm thôi. Tôi nhớ tôi có một năm theo cùng ông Abdurrahman Wahid thăm Trung Quốc, Chủ tịch Giả Khánh Lâm tiếp đón chúng tôi. Lúc đó phiên dịch chính là sinh viên tiếng Indonesia của trường Ngoại ngữ, đã cử một sinh viên theo tôi, làm phiên dịch giúp tôi, cho nên đây là cách làm rất hay. Từ xưa Trung Hoa giảng: Quân, Thân, Sư; Quân, là người lãnh đạo; Thân, là cha mẹ, phải chăm sóc cha mẹ, nuôi dưỡng cha mẹ; Sư, là thầy, mỗi người đều có sứ mệnh Quân Thân Sư. Nhân viên ngoại giao sống ở quốc gia nước ngoài, hiện nay hầu như địa phương đều có Học viện Khổng Tử, Đại sứ danh chính ngôn thuận đến ủng hộ Học viện Khổng Tử, Học viện Khổng Tử chính là nơi dạy học truyền thống của Trung Hoa. Nếu rốt cuộc có một mạng internet, hoặc là Đài truyền hình, mấy người có thể giảng rất tốt, thì người cả nước được hưởng lợi, thiên hạ làm sao có thể không thái bình? Vấn đề gì cũng có thể hóa giải, đây là học thuật Trung Hoa, văn hóa Trung Hoa.
Chúng ta xem câu tiếp theo đây, cầu Tịnh Độ là Chân thật huệ, 專求淨佛土,安住一切空者,是真莊嚴國土也 “chuyên cầu tịnh Phật độ, an trụ nhất thiết Không giả, thị chân trang nghiêm Quốc độ dã”(chuyên cầu tịnh cõi Phật, an trụ trong tất cả Không, là thật sự trang nghiêm cõi nước), ý nghĩa trong câu này sâu. Chuyên cầu cõi Phật thanh tịnh, cần làm việc này, câu này chính là bốn câu của vị Trương Tái: 為天地立心,為生民立命,為往聖繼絕學,為萬世開太平 “vị thiên địa lập tâm, vị sinh dân lập mệnh, vị vãng Thánh kế tuyệt học, vì vạn thế khai thái bình” (vì trời đất lập tâm, vì nhân dân lập mệnh, vì Thánh xưa nối tiếp sự học đã dứt, vì vạn đời khai thái bình), chuyên cầu Phật Tịnh độ. An trụ tất cả Không, tất cả Không là gì? Là làm, sau khi làm xong thì không nên đặt ở trong tâm, tâm địa thanh tịnh bình đẳng giác, đây chính là an trụ tất cả Không. Tất cả Không chính là thanh tịnh bình đẳng giác, điều này hay! Đây là Phật Bồ-tát, đây là Thánh Hiền Quân tử, cũng chính là nói, tuyệt đối không có tự tư tự lợi, tuyệt đối không có danh văn lợi dưỡng. Vậy ai làm? Phật làm, Bồ-tát làm. Là làm mà không làm, không làm mà làm, còn phải làm được nghiêm túc hơn người khác, sau khi làm xong thì không nhiễm mảy trần, là làm mà không làm. Không làm không phải là không làm. Làm và không làm được đánh dấu bằng nhau, vậy thì đúng rồi.
Chuyên cầu tịnh Phật độ, an trụ tất cả Không, là thật sự trang nghiêm cõi nước, Thế giới Cực Lạc là được thành tựu như vậy. Phật Bồ-tát nhiều, Thánh Hiền nhân nhiều, đến khắp nơi đều có thể nghe được giảng kinh dạy học, [còn] chia sẻ thì càng không cần nói nữa, mọi lúc mọi nơi, người quý vị đã gặp được, thấy được đều đang chia sẻ tâm đắc khi nghe A Mi Đà Phật giảng kinh. Là một tấm gương tốt trong trường học, đây là trang nghiêm cõi nước Phật. A Mi Đà Phật, trong Kinh A Mi Đà giảng rất hay, Ngài ở Thế giới Cực Lạc làm gì? Là nay thị hiện đang thuyết pháp. Cho nên cách nhìn của tôi, ở Thế giới Cực Lạc A Mi Đà Phật thuyết pháp là không gián đoạn, không có gián đoạn. Đức Phật giảng kinh gì? Kinh nào cũng giảng. Tôi ở giảng đường đức Mi Đà, tôi muốn nghe Hoa Nghiêm, thì tôi nghe được chính là Kinh Hoa Nghiêm, tôi muốn nghe Pháp Hoa, thì tôi nghe được chính là Kinh Pháp Hoa. Cho nên trong giảng đường ấy có ngàn vạn kinh luận, muốn nghe gì thì đều có thể nghe được, không thể nghĩ bàn. Vậy nếu quý vị không nghe đến khi tốt nghiệp, thế nào gọi là tốt nghiệp? Là nghe đến Đại triệt Đại ngộ, Minh tâm Kiến tánh gọi là tốt nghiệp, nếu quý vị không nghe đến trình độ này, thì quý vị sẽ không rời khỏi giảng đường, nói cách khác, vãng sanh Thế giới Cực Lạc, khi tiến vào giảng đường là phàm phu, khi rời khỏi giảng đường thì thành Phật rồi, thì tốt nghiệp rồi, quý vị nói nhanh biết bao! Sau khi tốt nghiệp, phần lớn là đến Thế giới phương khác để làm Phật, xem Thế giới nào có duyên với mình, mà không có đức Phật giáo huấn, thì các ngài liền đi, cần dùng thân Phật độ được, liền hiện thân Phật mà thuyết pháp cho. Tất cả là Ứng Hóa thân, còn chân thân ở Thế giới Cực Lạc, không có rời khỏi, có năng lực này.
無生可度,終日度生 “Vô sanh khả độ, chung nhật độ sanh” (Không có học trò được độ, cả ngày độ sanh), độ sanh là dạy học, học trò vốn là Phật, cho nên không có học trò được độ, nhưng cả ngày độ sanh, mỗi ngày vô cùng nghiêm túc giúp những chúng sanh ấy trở về Tự Tánh, giúp họ đoạn phiền não, nuôi lớn trí huệ, trở về Tự Tánh, viên thành Phật đạo, là làm việc này. Làm mà không làm, không làm mà làm, không có bất cứ điều kiện kiện gì, A Mi Đà Phật như vậy, mỗi người vãng sanh đều như vậy. 莊嚴佛國,佛國離相 “Trang nghiêm Phật quốc, Phật quốc ly tướng”(Trang nghiêm cõi Phật, lìa tướng cõi Phật), không chấp trước tướng, tâm địa trong sạch không nhiễm mảy trần. 建立水月道場,大作夢中佛事 “Kiến lập thủy nguyệt đạo tràng, đại tác mộng trung Phật sự”(Kiến lập đạo tràng trăng trong nước, thường làm Phật sự trong mộng), đây là khen ngợi, dùng ẩn dụ. Thủy nguyệt, có hay không? Mặt trăng trong nước, có hay không? Không thể nói có, cũng không thể nói không. Phật sự là dạy học, nhất định phải biết điều này, sự nghiệp của đức Phật Thích Ca Mâu Ni, 49 năm dạy học không gián đoạn, đây gọi là Phật sự. Trong chùa ngày nay, làm Kinh sám gọi là Phật sự, đức Phật Thích Ca Mâu Ni, chưa từng làm Kinh sám lần nào, cho nên Kinh sám không phải là Phật sự. Coi Kinh sám làm Phật sự, khiến rất nhiều người nảy sinh hiểu lầm đối với Phật giáo, những điều này đều phải phân biệt cho rõ ràng. Có thể nói Kinh sám, không thể nói Kinh sám là Phật sự.
遠離二邊,妙契中道 “Viễn ly Nhị biên, diệu khế Trung đạo” (Xa rời Nhị biên, khéo hợp Trung đạo), quý vị xem có cần thực hiện giáo dục hay không? Cần làm, đang vô cùng nghiêm túc nỗ lực làm, sau khi làm rồi, thì tâm địa sạch sẽ, không nhiễm mảy trần, khéo khế hợp Trung đạo. Làm và không làm được đánh dấu bằng nhau, làm mà không làm, không làm mà làm, đây là Trung đạo. 圓修圓證,彈指圓成 “Viên tu viên chứng, đàn chỉ viên thành” (Viên tu viên chứng, thoáng chốc viên thành), những người tu hành ở Thế giới Cực Lạc, thực sự dùng tuyệt vời bốn chữ này, tu hành ở Thế giới Cực Lạc là viên tu viên chứng. Vì sao? Vì trong một môn có tất cả môn, tất cả môn chính là một môn. Quý vị không nhất định theo Kinh Vô Lượng Thọ, đều có thể học bất cứ môn gì, học Hoa Nghiêm: được, học Thiên Thai: được, học Du Già Sư Địa Luận cũng được, bất kể học điều gì, thì một chính là tất cả, tất cả chính là một. Thật sự là quý vị thích học môn nào thì học môn đó, thành tựu là hoàn toàn bình đẳng, thông một kinh thì thông tất cả kinh, thông một bộ luận, thì đều thông tất cả luận, kinh luận là một thể. 故曰:此即彌陀大願之本,普賢大行之宗也 “Cố viết: thử tức Mi Đà đại nguyện chi bổn, Phổ Hiền đại hạnh chi tông dã” (Cho nên nói: đây chính là cội nguồn của đại nguyện đức Mi Đà, là tông chỉ của đại hạnh đức Phổ Hiền). Tông chỉ của đức Phổ hiền, gốc đại nguyện của đức Mi Đà, chính là viên tu viên chứng, đàn chỉ viên thành. Đàn chỉ, búng ngón tay, thời gian lâu như thế, thì quý vị thành tựu viên mãn rồi. Đây là thật không phải là giả, khó tin, là pháp khó tin.
蓋明真實之體,方起真實之慧。住真實之慧,故能開化顯示真實之際,如珠發光,還照珠體。“Cái minh Chân thật Chi thể, phương khởi Chân thật Chi huệ. Trụ Chân thật Chi huệ, cố năng khai hóa hiển thị Chân thật Chi tế, như châu phát quang, hoàn chiếu châu thể”(Bởi sáng tỏ Thể chân thật, mới khởi Huệ chân thật. Trụ Chân thật huệ, nên có thể khai hóa hiển thị Chân thật Chi tế, như viên châu phát sáng, chiếu trở lại thân viên châu). Câu này nói rất hay, nhấn mạnh sự quan trọng của Trí huệ Chân thật, bên trong kinh văn: từ trụ Chân thật huệ đến trang nghiêm Diệu độ. Thật có Trí huệ Chân thật, Ngài mới có thể dạy học, ở trong Phật pháp nói là Pháp sư, người khác xưng quý vị là thầy, tự xưng là Đệ tử, thầy và Đệ tử, là quan hệ thầy trò, quý vị lấy gì dạy người ta? Họ học được gì ở đây? Thể Dụng này là trí huệ, không phải thứ khác, cho nên có thể khai thị. Hóa, hóa là thành quả của giáo dục, thay đổi khí chất, chuyển phàm thành Thánh, chuyển ác thành thiện, chuyển mê thành ngộ, gọi là hóa. Nếu rốt cuộc không thay đổi, mà chỉ dạy, thì không lấy ra được thành tích. Khai hóa này, quý vị thật lãnh hội được rồi, chính là hiển thị Chân thật Chi tế, hiển thị Chân thật Chi tế chính là Minh tâm Kiến tánh. Chân thật Chi tế là Bổn Tánh, hiển thị chính là đã sáng tỏ, Minh tâm Kiến tánh. Đây là đức Phật và Pháp thân Bồ-tát có năng lực khai thị, giúp đỡ quý vị chuyển mê thành ngộ, Minh tâm Kiến tánh. Tiếp theo có một tỉ dụ, như viên châu phát ra ánh sáng, chiếu trở lại thân viên châu, giống như dạ minh châu mà người xưa đã nói, dạ minh châu tỏa ánh sáng, chiếu cảnh giới bên ngoài, cũng chiếu đến chính nó. Đây là Minh tâm Kiến tánh, không chỉ hoàn toàn thông đạt sáng tỏ đối với chính mình, mà cũng thông đạt sáng tỏ đối với người khác, đối với cả thảy vũ trụ, thấu tỏ tất cả quá khứ hiện tại tương lai.
故極樂水鳥樹林一色一香,悉皆圓明具德 “Cố Cực Lạc thủy điểu thụ lâm nhất sắc nhất hương, tất giai Viên Minh Cụ Đức”(Nên mỗi sắc mỗi hương của nước chim rừng cây ở Cực Lạc, thảy đều Viên Minh Cụ Đức). Đây là giảng về Thế giới Cực Lạc, đến bên đó có thể nhìn thấy được. Không chỉ Phật Bồ-tát viên minh đầy đủ các đức, mà ngay cả thực vật, khoáng vật, hoa cỏ cây cối ở bên đó tất cả đều viên minh đầy đủ các đức, vì sao? Vì quý vị nhìn thì có thể khai ngộ, quý vị ngửi hương thì có thể khai ngộ. Thế giới khác không có, Thế giới Cực Lạc viên mãn đầy đủ. 復因一一是彌陀大覺真心,果覺妙德。一一又是我等當人自心本具之如來智慧德相。“Phục nhân nhất nhất thị Mi Đà đại giác Chân Tâm, quả giác diệu đức. Nhất nhất hựu thị ngã đẳng đương nhân tự tâm bổn cụ chi Như Lai trí huệ đức tướng”(Lại bởi mỗi mỗi là Chân Tâm đại giác của đức Mi Đà, là diệu đức của quả giác. Mỗi mỗi lại là trí huệ đức tướng của Như Lai mà chính tâm mỗi người chúng ta vốn đủ). Trong Kinh Hoa Nghiêm đã nói, tất cả chúng sanh đều có trí huệ đức tướng của Như Lai, chỉ là hiện nay quý vị mê, nên không hiện ra. Một khi quý vị giác ngộ, một khi quý vị sáng tỏ, thì đều phục hồi tất cả. Cho nên, trí huệ không phải do cầu từ bên ngoài, mà là trong Tự Tánh vốn có, đức năng cũng không phải là do cầu ở bên ngoài, cầu từ bên ngoài là rất có hạn, quý vị học được, là quý vị vốn có. Không chỉ có đủ đức năng, mà còn đầy đủ vô lượng tướng hảo, quý vị xem: trí huệ, đức tướng, đức năng tướng hảo, là vốn đủ. Chỉ cần buông xuống chướng ngại, để Chân Tâm của chính mình hiện tiền, Chân Tâm khởi tác dụng chính là trí huệ đức tướng của Như Lai, hoàn toàn bình đẳng với chư Phật.
Thời gian hôm nay đã hết, chúng ta học tập đến đây.
(Hết tập 219)
Nguyện đem công đức này
Hướng về khắp tất cả
Đệ tử cùng chúng sanh
Đều sanh nước Cực Lạc
Sớm viên thành Phật đạo
Rộng độ khắp chúng sanh.
Nam Mô A Mi Đà Phật.
#HoathuongTinhKhong #tinhdodaikinhkhoachu2014