TỊNH ĐỘ ĐẠI KINH KHOA CHÚ 2014-2017
(Giảng lần thứ 4)
PHẨM 9: VIÊN MÃN THÀNH TỰU:
Thành Tựu Viên Mãn
Tập 240
Hòa thượng Thích Tịnh Không chủ giảng.
Giảng tại: Hiệp Hội Giáo Dục Phật Đà Hồng Kông.
Thời gian: Ngày 24 tháng 08 năm 2015.
Dịch giả: Như Lộ.
Giảo chánh: Thích Thiện Trang.
Kính chào chư vị
Pháp sư, chư vị đồng học, kính mời ngồi. Mời mọi người cùng tôi quy y Tam Bảo: “A-xà-lê
tồn niệm, ngã Đệ tử Diệu Âm, thỉ tùng kim nhật, nãi chí mạng tồn, quy y Phật-Đà,
lưỡng túc trung tôn, quy y Đạt-Ma, ly dục trung tôn, quy y Tăng-Già, chư chúng
trung tôn” (3 lần).
Mời xem Đại kinh
Khoa Chú, trang thứ 583, hàng thứ tư từ trái sang, bắt đầu xem câu thứ hai:
上明諸佛唯因一大事因緣,開示悟入佛之知見,而出現於世“Thượng minh chư Phật
duy nhân nhất đại sự nhân duyên, khai thị ngộ nhập Phật chi tri kiến, nhi xuất
hiện ư thế” (Ở trên làm sáng tỏ chư Phật chỉ
vì một đại sự nhân duyên, [là] khai thị ngộ nhập tri kiến của Phật, mà hiện ra ở
đời). Đoạn này rất quan trọng, vì sao đức Phật Thích Ca Mâu Ni: [lại] đến
thế gian này? Ngài đến [để] làm gì? Đáp án chính là ở câu kinh văn này. Đức Phật nói
được rất cụ thể, không phải một mình Ngài, [mà là] tất cả chư Phật Như Lai: bao
gồm cả Bồ-tát đến nhân gian này, dùng Ứng thân, Hóa thân. Ứng thân, [thì] giống
như đức Phật Thích Ca Mâu Ni là Ứng thân, [Ngài] cũng đến đầu thai, cũng trải
qua mười tháng mang thai, sanh ra: không khác với người phàm thông thường của
chúng ta, là thị hiện Tám tướng Thành đạo. Đến [để] làm gì? Đến [bởi] có một đại
sự, gọi là đại sự nhân duyên, là vì việc này mà đến. Đại sự nhân
duyên là việc gì? Nói cho đơn giản một chút, sáng tỏ một chút [để] mọi người dễ
hiểu, chính là lìa khổ được vui. Chúng sanh ở thế gian này quá khổ, đức Phật giúp
chúng ta lìa khổ, giúp chúng ta được vui, chính là vì sự việc này mà đến. Khổ
do đâu đến? Khổ [là] do mê hoặc. Chúng ta không biết gì: đối với chân
tướng sự thật của thế gian này cả, hoàn toàn dựa vào vọng tưởng, ý niệm của
chính mình, cho nên mê thôi. Mê rồi [thì] không biết được chân tướng, sau khi
mê rồi [thì] chúng ta nghĩ sai, thấy sai, nói sai, làm sai, những sai lầm này
chiêu lấy quả báo khổ. Vui từ đâu đâu đến? Nếu đều làm rõ ràng: làm minh bạch đối
với chân tướng: của vạn sự vạn vật trong vũ trụ nhân sinh, thì quý vị [sẽ được]
vui. Vì sao vậy? Bởi không bị hoàn cảnh quấy nhiễu nữa, đã được tự tại.
Cho nên đức Phật hiểu rõ chân tướng sự thật, đều không có chút sai lầm nào, đã tìm được
nguyên nhân, dùng cách nào [để] giúp chúng ta giải quyết? Dùng phá mê khai ngộ.
Khai thị ngộ nhập mà chỗ này nói, chính là phá mê khai ngộ, khai đạo cho chúng
ta. Khai đạo [nhưng] chúng ta vẫn nghe không rõ ràng, xem kinh [nhưng] không rõ
ràng, nghe giảng [nhưng] nghe không rõ ràng, nhất định phải [được] Phật chỉ thị,
chỉ ra từng việc một, vì vậy chúng ta đây mới hoảng nhiên Đại ngộ, mới sáng tỏ
rồi. Sau khi sáng tỏ, đều buông xuống tất cả sai lầm, liền nhập tri kiến Phật, cùng
đồng tri kiến với Phật, Chánh tri Chánh kiến, nhất định không có sai lầm.
Khổ, nguồn gốc của
khổ là lục đạo luân hồi. Lục đạo có thật, người ở thế gian: không phải [chỉ có]
mỗi đời này là hết rồi, không phải, sau khi chết rồi lại đi đầu thai nữa, lâu
dài trong đầu thai, lâu dài trong luân hồi. Đầu thai [thì] chính mình đã không
làm chủ, ai làm chủ vậy? Không phải Phật Bồ-tát, cũng không phải Ngọc hoàng Đại
đế, cũng không phải vua Diêm la, người nào làm chủ? Nghiệp của chính mình tạo
làm chủ, Khởi tâm Động niệm Vọng tưởng, lời nói việc làm của chính mình tạo
nghiệp, nghiệp có thiện [có] ác, tạo ra là thiện nghiệp, thì thiện nghiệp dẫn dắt
quý vị đến ba đường thiện; [còn] tạo ra là ác nghiệp, thì ác nghiệp sẽ dẫn dắt
quý vị: đến địa ngục,
ngạ quỷ, súc sanh, đó [là] ba đường ác. Đời đời kiếp kiếp vô lượng kiếp đến
nay, chúng ta cũng không có cách nào: vượt thoát lục đạo luân hồi. Đức Phật đại
từ đại bi, cứu khổ cứu nạn, giúp chúng ta thoát khỏi lục đạo luân hồi, đây gọi là
lìa cứu cánh khổ, thật sự đã lìa khổ; Vãng sanh đến thế giới Cực Lạc, vậy [là]
được vui rốt ráo, niềm vui này sẽ không mất đi nữa. Dùng phương pháp gì? Dùng dạy
học. Đức Phật
Thích Ca Mâu Ni vì chúng ta mà biểu diễn: thân hành ngôn giáo, ‘thân hành’ là
làm ra tấm gương cho chúng ta xem, quý vị thấy, 19 tuổi Ngài rời khỏi gia đình,
Ngài là Vương tử, nếu Ngài không xuất gia [thì] Ngài làm Quốc vương. 19 tuổi xuất
gia, từ bỏ Vương vị, từ bỏ đời sống vinh hoa phú quý, vì sao phải từ bỏ? Bởi phải
vì chúng sanh: [mà] thật sự làm ra công việc cứu hộ, giúp chúng sanh: lìa cứu
cánh khổ, được vui rốt ráo. Nếu không làm ra tấm gương, [thì] chúng ta không
tin tưởng, Ngài cần phải làm cho chúng ta xem, chúng ta thấy được đó [là] thật,
không phải là giả, thì tin tưởng thôi.
Xuất gia, xa lìa
Phiền não chướng. Đức Phật giảng cho chúng ta, chúng ta không thể Minh tâm Kiến
tánh, không thể hiểu rõ chân tướng sự thật, [bởi do] hai chướng ngại lớn: thứ
nhất là Phiền não, thứ hai là Sở tri. Những gì biết đều không phải là trí huệ,
[mà là] tri thức, vả lại trong đó [có] rất nhiều [điều] là sai lầm, không phải
chính xác; Xuất gia là buông xuống Phiền não chướng. Ngài làm ra tấm gương cho
chúng ta: là tầng lớp tri thức, ở trong xã hội này: tầng lớp tri thức chiếm đại
đa số, ảnh hưởng lớn nhất, cho nên Ngài biểu diễn là một tầng lớp tri thức. Sau
khi xuất gia [thì đi] tham học, vào thời đại đó, Ấn Độ là đất nước tôn giáo, là
đất nước triết học, Ngài đã học tất cả tông phái tôn giáo, Ngài cũng học qua học
phái triết học, học hết 12 năm, [cho] đến [năm] 30 tuổi. Thật sự siêng năng nỗ
lực cầu học, qua 12 năm đó [Ngài] đã sáng tỏ hoàn toàn, tôn giáo không thể giải
quyết vấn đề, giải quyết vấn đề gì? Vấn đề thoát khỏi lục đạo luân hồi. Lìa cứu
cánh khổ, được vui rốt ráo, tôn giáo không làm được, triết học, khoa học cũng
không làm được, từ bỏ thôi, [năm] 30 tuổi đã từ bỏ, [sự] từ bỏ đó là biểu diễn
buông xuống Sở tri chướng. Sau khi buông xuống [thì Ngài] làm gì? Đến dưới cội
cây lớn [để] nhập định, cây ấy tên là cây Tất-bát-la, đức Phật nhập
định ở dưới cội cây này, ban đêm thấy sao sáng, [Ngài] Đại triệt Đại ngộ, chính
là Minh tâm Kiến tánh, kiến Tánh thành Phật, giải quyết vấn đề rồi. [Ngài] đã bắt
đầu dạy học, trở lại vườn Lộc Dã, [ở] vườn Lộc Dã vẫn còn năm vị đồng học, khi
Ngài xuất gia, phụ mẫu lo lắng, đã phái năm người [theo] chăm sóc
Ngài, năm người ấy chính là: năm vị Tỳ-kheo được độ đầu tiên, Tôn giả Kiều Trần
Như dẫn đầu. [Ngài] đến vườn Lộc Dã tìm được năm người ấy, giảng cho họ nghe: cảnh
giới khai ngộ của chính Ngài, họ nghe hiểu, nghe sáng tỏ rồi, [thì ngài] Kiều Trần
Như chứng quả A-la-hán, các vị khác chứng Sơ quả, Nhị quả, đã xuất hiện
Tăng đoàn Phật giáo trên địa cầu.
Đức Thế Tôn tiến
hành dạy học, chẳng có ngơi nghỉ, đã dạy 49 năm, 79 tuổi [Ngài] qua đời,
giảng kinh dạy học 49 năm. Ngài cũng là lập ra lớp dạy học, hiện nay chúng ta gọi
là mở lớp học, có lớp Sơ cấp, lớp Trung cấp, lớp Cao cấp. Đầu tiên giảng
A Hàm, 12 năm, [là] lớp Sơ cấp, Tiểu học. 12 năm ấy là nền tảng, dạy chính là
luân lý đạo đức, nhân quả, giáo dục Thánh hiền. Sau 12 năm [lại] nâng lên, lớp
Trung cấp, dạy Phương Đẳng. Đã dạy Phương Đẳng 8 năm, ‘phương’ là phương tiện, ‘đẳng’ là bình
đẳng, giảng những đại đạo lý này. Sau 8 năm [đó], hợp lại với phía trước thành
20 năm, 20 năm [ấy] đều là thực hiện giáo dục cắm rễ. Lớp [mà] thật sự dạy
chúng ta là lớp thứ ba, lớp Cao cấp, lớp học này 22 năm, đức Thế Tôn dạy
học 49 năm, gần như là một nửa thời gian, [từ] đây biết được giai đoạn ấy: là đức
Phật chủ yếu giáo hóa chúng sanh, giúp chúng sanh thật sự giải quyết vấn đề, 22
năm Bát-nhã. 8 năm sau cùng là giảng làm sao [để] thành Phật, làm sao [để]
thành Phật, ý nghĩa chính là: làm sao tu đến rốt ráo viên mãn, giống như Ngài, việc
này phải [mất] 8 năm. Vì thế cộng lại [là] thành 49 năm. 8 năm ấy giảng Pháp
Hoa, lấy Pháp Hoa làm chủ. Pháp Hoa giảng điều gì? [Giảng] con đường thành Phật.
Bát-nhã là Bồ-tát đạo, A Hàm là A-la-hán đạo, đã tốt nghiệp gọi là A-la-hán, Phương
Đẳng [là] tiến vào Bồ-tát đạo, Bát-nhã viên mãn, tiến vào Pháp Hoa, đạo thành
Phật. Cho nên đó là có thứ lớp, từ từ giúp chúng ta nâng cao. Tất cả chúng sanh
trước giờ là Phật, hết thảy chúng sanh đều có trí huệ đức tướng của Như Lai, giúp
chúng ta thật sự: lìa cứu cánh khổ, được vui rốt ráo. Ngài là làm giáo dục, không
phải làm tôn giáo, phải nhận thức rõ ràng, phải làm [cho] sáng tỏ điểm này.
Đức Thế Tôn, [là]
nhà giáo dục vĩ đại nhất trên thế giới. Tôi là từ lối này mà tiến vào, 26 tuổi:
tôi học Triết học với Giáo sư Phương Đông Mỹ, trong chuyên đề sau cùng của Triết
Học Khái Luận: thầy Phương giảng: Triết học trong kinh Phật, nói với
tôi: Đức Phật Thích Ca Mâu Ni là nhà triết học vĩ đại nhất trên thế giới,
kinh điển Đại thừa là đỉnh cao của triết học toàn thế giới, học Phật là hưởng
thụ tối cao của đời người, tôi là như thế mà tiến vào cửa. Lúc đầu hiểu lầm
cho rằng Phật giáo là mê tín, cho rằng đó là Đa thần giáo, không có ý định tiếp
cận, chẳng muốn đến gần. Cho nên trước giờ cũng không đến chùa, thấy việc đó,
[thì cho] đó là mê tín, không ngờ chúng tôi đã làm sai. Thầy nói với tôi, 200
năm trước: chùa miếu am đường lớn nhỏ của Phật giáo Trung Hoa, người ở trong ấy:
đều là có đạo
đức, người có học vấn, họ thật sự có thể giáo hóa chúng sanh. 200 trăm năm gần
đây [thì] suy rồi, mọi người không học kinh giáo, đem kinh giáo
đặt ở một bên: [để] đi làm Kinh sám Phật sự, làm việc cho quỷ thần, đã đánh mất
giáo dục cao cấp vốn có: của Phật giáo. Cho nên tôi thường nói, Phật giáo trong
xã hội hiện giờ, chí ít có sáu loại: thứ nhất, giáo dục của đức Phật Thích Ca
Mâu Ni, giáo dục của đức Phật, mô hình này rất ít, chẳng thấy nhiều nữa; loại hình
thứ hai chính là vì quỷ thần mà phục vụ, ‘rất phổ biến Phật giáo tôn giáo’; loại
hình thứ ba, Phật giáo học thuật, trong khoa Triết học [của trường] Đại học:
còn dùng kinh Phật [để] mở khóa học, xem kinh Phật như một môn Triết học để
nghiên cứu, đó là vào thời xưa: Phật giáo gần như là bình đẳng với Triết học, nói
đó là Phật giáo [cũng] được, [mà] nói đó là Triết học cũng được, đều chấp nhận,
[được] đại chúng trong xã hội công nhập rộng rãi, đó là học thuật; loại hình thứ tư, [là] hiện thời xuất hiện Phật
giáo xí nghiệp, giống như công ty, có tổng công ty, có rất nhiều công ty chi
nhánh, thậm chí còn xuyên quốc gia, đó là Phật giáo xí nghiệp; Vẫn còn một
loại hình, Phật giáo tham quan du lịch; loại hình cuối cùng, [là] Phật giáo tà
giáo, giương ngọn cờ Phật giáo, [nhưng] lừa gạt tín đồ thiện lương. Có sáu loại
này, phải ghi nhớ, chúng ta là học loại nào?
Thời trẻ tôi may
mắn biết được Đại sư Chương Gia, đó là một trong Tứ đại Lạt-ma của Trung Hoa, chia
ra ở Mông Cổ, Tây Tạng. [Ở] Tây Tạng Tiền Tạng là Đạt Lai, Hậu Tạng là Ban Thiền,
Nội Mông chính là Đại sư Chương Gia, Ngoại Mông [là] Triết Bố Tôn Đan Ba. Tôi
theo ngài ba năm, thì ngài viên tịch. Mỗi tuần gặp mặt một lần, thời gian
[ngài] cho tôi: là [từ] một đến hai tiếng đồng hồ, nền tảng học Phật của tôi: là
do ngài thiết lập cho tôi. Tôi [ở] một mình tại Đài Loan, không có quyến thuộc,
vì vậy ngài khuyên tôi xuất gia, mong tôi học đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Hai quyển
sách đầu tiên: mà ngài chỉ định bảo tôi đọc, [là] Thích Ca Phổ, [và] Thích Ca
Phương Chí, do người triều nhà Đường viết, có ở trong Đại Tạng Kinh. Nội dung
quyển sách này [nói] gì? Nói [về] cuộc đời của đức Phật Thích Ca Mâu Ni, giống
như truyện ký. Đại sư nói với tôi, ‘con muốn học Phật [thì] phải nhận biết đức
Phật Thích Ca Mâu Ni, nếu không nhận thức về Ngài, [thì] con sẽ đi đường vòng, vậy
mất mát lớn rồi. Nhất định phải nhận biết đức Phật Thích Ca Mâu Ni, thì mới sẽ
không đi đường vòng’, điều dạy dỗ này tốt, khiến chúng ta hoan hỷ tiếp nhận. Sau khi đọc
rồi, mới hiểu được, vậy thì dùng lời hiện nay mà nói, đức Phật Thích Ca Mâu Ni
là người như thế nào? Theo cách nói hiện giờ, [thì] Ngài là nhà giáo dục xã hội
đa nguyên văn hóa. Ngài là thân phận gì? Đó là người: làm nghĩa vụ giáo dục xã
hội đa nguyên văn hóa. Dạy học cả đời, chẳng có ngơi nghỉ một ngày, không nhận
học phí, vả lại tâm lượng rất lớn, có thể bao dung, không phân biệt quốc gia,
không phân biệt dân tộc, cũng không phân biệt tôn giáo tín ngưỡng, chỉ cần quý
vị muốn học, thì Ngài sẽ dạy [cho] quý vị. Bất kể thời gian dài hay ngắn, Ngài
chẳng có ép buộc, thật là không cự tuyệt người đến, chẳng giữ lại người đi, dạy
người cả đời, đó là sự nghiệp của đức Phật.
Trong kinh điển
nói ‘Phật sự’, chính là sự việc giáo hóa chúng sanh, chư vị phải biết điều này.
Loại Pháp hội Phật sự siêu độ đó: [là] rất muộn mới có, trong thời đức Phật
không có, khi Phật giáo truyền đến Trung Hoa, đại khái vào trước thời nhà Đường
cũng không có, sau triều nhà Đường: thỉnh thoảng một năm có một-hai lần. Giống
như ngày nay chúng ta tổ chức hoạt động Tế tổ, một năm ba lần, chúng ta sắp xếp
thời gian vào: Thanh minh, Trung Nguyên, Đông chí, [trong] ba ngày lễ này,
chúng ta làm lễ Tế tổ, đề xướng đạo hiếu. Loại nghi thức tế tổ này rốt cuộc là
vì nguyên nhân gì, bắt đầu [từ] khi nào, lúc tôi còn trẻ mới xuất gia: từng thỉnh
giáo với một vị lão Pháp sư, lão Pháp sư Đạo An ở Đài Loan. Ngài ấy rất khó được,
trước kia ở Đài Loan: tổ chức một giảng tòa Đại chuyên Phật học, ngài mời tôi đảm
nhiệm chủ giảng. Có lần tôi hỏi ngài, Kinh sám Phật sự: [là] do người nào hưng
khởi? Hưng khởi [từ] khi nào? Ngài nói với tôi: (đại khái ngài cũng không có nắm
chắc), có lẽ là lúc niên hiệu Khai Nguyên, Đường Minh Hoàng triều nhà Đường. Phi
tần Dương Quý Phi của Đường Minh Hoàng, mọi người đều biết, dẫn phát loạn An Lộc
Sơn, nhà Đường gần như mất nước, nhờ vào những tướng quân như Quách Tử Nghi:
[đã] dẹp yên động loạn này. Ở mỗi chiến trường: Minh Hoàng xây dựng một chùa miếu,
gọi là chùa Khai Nguyên. Hiện tại chùa miếu này: vẫn còn [được] lưu lại không ít,
[là] chùa Khai Nguyên. Chùa Khai Nguyên đó chính là: [để] truy điệu quân dân tử
vong, quân dân đã mất trong chiến loạn, thỉnh người xuất gia làm cầu nguyện một
lần, đại khái chính là hưng khởi như thế. Đất nước đề xướng truy điệu: người tử
nạn trong quá khứ, cho nên người già đã qua đời ở dân gian, cũng thỉnh Pháp sư
để đọc kinh làm siêu độ, nên biết là hưng khởi như vậy. Thêm nữa, vào thời điểm
ấy, muốn thỉnh mời người xuất gia đến làm cầu nguyện: cũng không phải là việc dễ
dàng, phần lớn đều là quan sang người quý, bình dân thông thường không có khả
năng. Như thế mà từ từ hưng khởi lên, đến thời Minh Thanh đã rất phổ biến, sau
giữa đời nhà Thanh, có rất nhiều chùa miếu: cũng đã buông xuống kinh giáo,
chuyên môn làm sự việc này, vì sao làm việc này? Bởi việc này có thể kiếm tiền,
là sự nghiệp kinh doanh kiếm lời, mỗi lần Phật sự sẽ [được] bao nhiêu cúng dường.
Không biết tự viện am đường của Phật giáo: trước kia đều là trường học, điện thờ
là phòng học. Chúng ta phải biết điều này.
Chúng ta [đã] làm
rõ ràng, làm sáng tỏ gốc rễ, thì chúng ta hạ quyết định tâm, chúng ta phải học
giáo dục của đức Phật Thích Ca Mâu Ni, vậy thì đúng rồi. Giáo dục của đức Phật
Thích Ca Mâu Ni trong kinh điển, không thể rời khỏi kinh điển, kinh điển [thì]
phải có thầy dạy. [Vào] độ tuổi ấy, [là] lúc tôi còn trẻ, xuất gia tại gia vẫn
còn một số vị thầy tốt, số người không nhiều, chúng tôi rất vinh hạnh đã gặp được,
tôi gặp được ba vị thầy, học tập với thầy 13 năm. Do Tiên sinh Phương Đông Mỹ
khai sáng, [thầy] là nhà triết học, không phải là tín đồ Phật giáo, Giáo sư của
Đại học Đài Loan. Thầy học được rất tốt, cuối đời dùng kinh Phật mở khóa học
trong trường Đại học, thầy từng giảng Phật học Đại thừa, Triết học Hoa Nghiêm, đã
mở mấy môn học lớn, cuối đời gần như tất cả chương trình học đều là kinh Phật, vô
cùng khó được. Tôi theo Đại sư Chương Gia ba năm, theo lão Cư sĩ Lý Bỉnh Nam 10
năm, kinh giáo chủ yếu là: [được] hoàn thành ở ngay trong 10 năm [học với] thầy
Lý. Bây giờ thì sao? Bây giờ không còn nữa, hiện nay học Phật rất khó. Quý vị
muốn học với tôi, [tuy] tuổi đã lớn, nhưng mỗi ngày, tôi vẫn không mong [để] luống
qua, ít nhất có hai giờ: chúng ta cùng nhau học tập kinh điển. Chúng ta chọn
ra, tất cả kinh: mà đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã thuyết trong 49 năm, chúng ta
chọn lấy phần tinh hoa, một bộ quan trọng nhất, [là] Kinh Vô Lượng Thọ. Vào trước
đó, tôi từng giảng Kinh Hoa Nghiêm, đã giảng hơn 4000 giờ, đây là kinh lớn bậc
nhất của nhà Phật. Cổ Đại đức nói rất hay Kinh Vô Lượng Thọ, đó là trung bản
Hoa Nghiêm, Kinh A Mi Đà: là tiểu bản Hoa Nghiêm. Không [còn] đủ thời gian nữa,
tương lai ngày sau không nhiều, [nên] sau 85 tuổi: tôi buông xuống Hoa Nghiêm, chuyên
giảng Kinh Vô Lượng Thọ, tự lợi lợi tha. Tự lợi, [là] chuyên tâm nhất ý cầu
sanh Tịnh Độ, không có ý niệm khác, đồng thời đối với có người hứng thú, muốn học
Tịnh Độ, [thì] chúng ta có thể cùng nhau học tập. Chúng ta dùng internet, dùng
truyền hình vệ tinh, toàn thế giới đều có thể xem được, phương pháp này tốt. Cả
đời đức Phật Thích Ca Mâu Ni chẳng có xây dựng đạo tràng, tôi sáng tỏ ý nghĩa của
Ngài, [nên] chuyên tâm ở trong tu hành, [chứ] không phân tâm. [Trong] đời này của
tôi, thầy đã bảo tôi học đức Phật Thích Ca Mâu Ni, tôi đã học được điểm này, cả
đời không xây dựng đạo tràng. Cả đời làm được không tranh với người, không cầu ở
đời, dùng tâm thanh tịnh để học Phật, quý vị mới có thể có thu hoạch. Tâm địa
không thanh tịnh, [thì] dùng công phu suốt một đời cũng không học được, nhiều
nhất [là] học được một chút thường thức bên ngoài, không thể nhập môn. Nhập môn
phải buông xuống vạn duyên, phải buông xuống tất cả lục đạo, mười pháp giới, mới
có thể khế nhập.
Trong Kinh Pháp
Hoa: nói rất rõ ràng sự việc này, dùng tám chữ: 開示悟入佛之知見 “khai thị ngộ nhập Phật chi tri kiến” (khai thị ngộ nhập tri kiến của Phật), đức Phật đến thế
gian để làm sự việc này. Khai là mở ra, mở ra điều gì? Mở ra Tâm Tánh của chính
mình, hoặc là chúng ta nói Chân Tâm. Có Chân Tâm còn có Vọng tâm, phàm phu lục
đạo dùng Vọng tâm; Thanh văn, Duyên giác dùng Chân Tâm, dùng phần ít; Bồ-tát
dùng Chân Tâm, dùng phần nhiều, cao hơn so với A-la-hán; Pháp thân Bồ-tát mới
dùng Chân Tâm, đó gọi là Đại triệt Đại ngộ, Minh tâm Kiến tánh, kiến Tánh thành
Phật, Phật ấy chính là Pháp thân Bồ-tát. Cho nên mở ra cánh cửa Tâm Tánh, tất
cả kinh Đại thừa mà đức Thế Tôn đã nói: đều là giúp chúng ta mở ra Tâm Tánh. [Tùy
theo sự] mê hoặc của mỗi người mà vào cạn-sâu khác nhau, duyên cũng không như
nhau, cho nên đức Phật vì chúng ta: [mà] mở 84 ngàn Pháp môn, do chính quý vị
chọn lấy. Chọn ra khẩu vị thích hợp [với] chính mình, là điều mà chính mình ưa
thích, [thì việc] học tập sẽ trở nên khá dễ dàng. Chính mình không thích, chẳng
hứng thú, [thì việc] học tập thành ra rất vất vả, rất khó khăn, không nhập vào
được, thì quý vị buông xuống, để chọn lấy Pháp môn khác. Đức Phật nói với chúng
ta: 法門平等,無有高下 “Pháp môn bình đẳng, vô hữu cao hạ” (Pháp môn bình đẳng, không có cao thấp), quý vị xem Pháp
môn nào quý vị có thể vào, quý vị rất dễ dàng tiến vào, thì quý vị chọn lấy
Pháp môn đó, dạy phương pháp cho chúng ta.
[Trong] đời này,
tôi cũng đã thay đổi mấy lần, sau cùng hiểu ra được những Pháp môn đó, Hoa
Nghiêm, Pháp Hoa, Lăng Nghiêm, đều yêu thích những Đại kinh Đại luận ấy, chỉ có
thể đến ngộ, [chứ] không nhập vào được. Không nhập vào được, [thì] không đạt được
thọ dụng chân thật, cuối cùng làm sao đây? Từ trong Hoa Nghiêm, Lăng Nghiêm, Pháp
Hoa, phát hiện Tịnh Độ. [Trong] Kinh Hoa Nghiêm Mười đại Nguyện vương sau cùng:
của Bồ-tát Phổ Hiền dẫn về Cực Lạc, tôi là từ đây mà tin tưởng Tịnh Độ, đã
không nghi ngờ nữa, từ chỗ này thật sự: quyết trọn một lòng để học Pháp môn
này, nhưng vẫn là yêu thích đọc Kinh Hoa Nghiêm. Đến năm 85 tuổi, chính mình cảm
giác tương lai ngày sau không nhiều, sợ bỏ lỡ vãng sanh, [nên] đã buông xuống
Hoa Nghiêm, tập trung vào Kinh Vô Lượng Thọ, chọn lấy bản Hội Tập của Hạ Liên
công, chọn lấy Tập Chú của ngài Hoàng Niệm Tổ, chuyên tu chuyên hoằng. Vì sao vậy?
Bởi đây là có nắm chắc. Hai điều kiện vãng sanh đến thế giới Cực Lạc, [là] thật
sự tin tưởng có thế giới Tây Phương Cực Lạc, không phải giả, thật sự có A Mi
Đà Phật, A Mi Đà Phật phát 48 đại nguyện, tiếp dẫn chúng sanh có duyên
trong khắp pháp giới hư không giới, thế nào gọi là có duyên? Thật tin, thật muốn
vãng sanh, đó là có duyên. Điều này với tôi mà nói [là] rất khế cơ, tôi rất ưa
thích, không tìm phiền phức. Đây là thật sự đơn giản, thật sự dễ dàng, công phu
niệm Phật: là vãng sanh đến thế giới Cực Lạc: phẩm vị cao hay thấp. Ghi nhớ,
điều kiện vãng sanh: chính là tín, nguyện; Niệm Phật thì sao? Niệm Phật là phẩm
vị cao hay thấp: sau khi vãng sanh, là sự việc như thế.
Nếu quý vị hỏi
tôi: Pháp sư, ngài mong phẩm vị nào, thì ngài thỏa mãn? Tôi [sẽ] nói với quý vị:
Hạ hạ phẩm vãng sanh cõi Phàm Thánh Đồng Cư, thì tôi rất mãn nguyện rồi. Tại
sao vậy? Bởi tôi phát tâm đến thế giới Cực Lạc: học tập với A Mi Đà Phật, tôi
muốn học một chương trình giảng dạy hoàn chỉnh, đó chính là từ lớp 1 Tiểu học:
học đến Viện nghiên cứu. Lớp 1 Tiểu học: chính là Hạ hạ phẩm vãng sanh cõi Phàm
Thánh Đồng Cư, đến thế giới Cực Lạc vô lượng thọ, có được chính là thọ mạng, ở
thế giới Cực Lạc: A Mi Đà Phật cắm rễ cho tôi, vậy thì gốc rễ cắm được nhất
định [sẽ] tốt. Cho nên tôi không muốn xen lớp, tôi là muốn bắt đầu học từ đầu, từ
Tiểu học, Trung học, Đại học, Viện nghiên cứu, tôi muốn cách học như thế. Đó là
thật sự có nắm chắc. Tôi cũng không cầu Công phu Thành phiến, tôi cũng không cầu
Nhất tâm Bất loạn, tôi chỉ cần thật tin nguyện thiết, một niệm, mười niệm lúc sắp
mạng chung: đức Phật đều đến tiếp dẫn. Lời này là do đức Phật nói, chính A Mi
Đà Phật nói, đức Phật không có vọng ngữ. Vì thế nếu quý vị: đã gặp được Pháp
môn này, [thì] ai nấy [đều] có phần, người nào [cũng] thành tựu viên mãn. Chúng
ta đi con đường này: vô cùng vững chắc, không tranh với người. Họ muốn tranh phẩm
vị, [nhưng] ngay cả phẩm vị, tôi cũng không tranh, rất thật thà đến thế giới Cực
Lạc: chăm chỉ học tập, vậy thì đúng rồi. [Về] điều này, tôi cũng không phải là
người đầu tiên, tôi là theo sau Tổ sư Đại đức, Đại sư Liên Trì như vậy, Đại sư
Ngẫu Ích cũng như vậy, đây đều là những vị thầy [mà] kính ngưỡng nhất, bội phục
nhất ngay trong tâm trí của chúng tôi.
Đã nói rõ ràng
nhân duyên của đức Phật xuất hiện ở đời. 佛之開示,既是佛之知見,故唯有諸佛乃能如實知之 “Phật chi khai thị, ký thị Phật chi
tri kiến, cố duy hữu chư Phật nãi năng như thật tri chi” (Khai thị của Phật, đã là tri kiến của Phật, nên chỉ có chư
Phật mới biết như thật được điều đó). Đó là giải thích với chúng ta, đức Phật
giảng những kinh ấy, [trong] 49 năm đã nói: nhiều Pháp môn, phương pháp như thế,
những phương pháp ấy đều là con đường thành Phật. Thành thật mà nói, ai có thể
nghe hiểu được hoàn toàn? Có thể rõ ràng ý nghĩa của Phật? Vậy người đó cũng
thành Phật rồi, họ mới biết; Nếu người đó chưa thành Phật, [thì] họ không thể
‘biết như thật điều đó’. Pháp môn Tịnh tông hay, không biết cũng có thể vãng
sanh, tôi chỉ cần tin tưởng có thế giới Cực Lạc, có A Mi Đà Phật, không có mảy
may nghi ngờ nào, thì đầy đủ điều kiện vãng sanh. [Đối với] kinh
luận khác, chúng ta có phải thật sự: như trong kệ khai kinh đã nói: 願解如來真實義 “Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa” (Nguyện giải nghĩa chân thật của Như Lai), đây chính là
‘biết như thật điều đó’ mà chỗ này nói hay không? Không dám nói. Người nào có
thể nói ‘biết như thật điều đó’? [Người] Đại triệt Đại ngộ, Minh tâm Kiến tánh,
mới có thể nói. Hiện giờ chúng ta có một người, [là] lão Hòa thượng Hải Hiền, ngài
là ‘biết như thật được điều đó’. Vì sao vậy? Bởi ngài niệm đến Lý nhất tâm Bất
loạn, Lý nhất tâm Bất loạn: bằng với Đại sư Huệ Năng, chính là Đại triệt Đại ngộ,
Minh tâm Kiến tánh. Vì vậy ngài đối với kinh giáo của chư Phật, ngài không biết
chữ [nhưng] quý vị đọc cho ngài nghe, ngài có thể ‘biết như thật được điều đó’;
Người đọc không biết, [nhưng] ngài biết, không phải là người phàm. Người phàm
biết được, [thì] biết một chút phần nhỏ mà thôi, chẳng thể biết được hoàn toàn.
Cả đời này, chúng
tôi đã dùng không ít thời gian: ở trong kinh giáo Đại thừa, điều mà đạt được là
như vậy mà thôi. Chúng tôi may mắn, đi trở lại đường chính rồi, đã lòng vòng một
vòng, [mới] quay trở về Tịnh Độ, chúng tôi mới có nắm chắc, mới có niềm tin. Đã
muốn đến thế giới Cực Lạc, đến thế giới Cực Lạc, [thì] ngay cả thân thể này
cũng không thể mang theo, cũng phải buông xuống thân thể, huống là vật ngoài
thân. Mọi người phải biết điều này, muốn vãng sanh, [thì phải] buông xuống tất
cả thân tâm thế giới, vậy mới có thể vãng sanh, còn một điều lo lắng chưa buông
xuống cũng không được. Cho nên chúng ta phải học Bồ-tát, học Bồ-tát điều
gì? Học [sự] buông xuống của Bồ-tát. Mọi lúc, mọi nơi, tất cả hành vi, hoặc
là nói công việc. Có thể làm, [nhưng] không để ở trong tâm, đó là thật buông xuống.
Trong tâm không thể có; trong tâm [mà] chẳng buông xuống, [thì] không đến được
thế giới Cực Lạc, vậy thì đáng tiếc rồi. Nhất định phải buông xuống, buông cho
thật sạch sẽ, học được điểm này thì tốt rồi. Cũng có thể dùng một câu Phật hiệu,
câu Phật hiệu là giúp chúng ta buông xuống, đó chính là chỉ để Phật hiệu vào
trong tâm, [mà] không để vào điều gì khác, bất kể là thiện là ác, là nhiễm là tịnh,
là thế gian pháp là Phật pháp, đều buông xuống tất cả. Trong Kinh Kim Cang nói
với chúng ta: 法尚應捨,何況非法 “Pháp thượng ưng xả, hà huống phi
pháp” (Pháp còn phải xả, huống là chẳng phải pháp),
‘pháp’ ấy là Phật pháp. Trước đây tôi học Hoa Nghiêm, học Pháp Hoa, học Lăng
Nghiêm, học Viên Giác, học Pháp tướng Duy Thức, học được rất nhiều, thảy đều đã
buông xuống. Hiện tại trong tâm chỉ có A Mi Đà Phật, ngoài A Mi Đà Phật ra,
điều gì cũng không có, vậy mới có thể vãng sanh. Cũng không thể tiêm nhiễm: tất
cả pháp thế gian và xuất thế gian, để tâm thanh tịnh của chúng ta hiện ra. Năm
chữ trên tựa đề kinh: 清淨平等覺 “Thanh tịnh Bình đẳng Giác” (Thanh tịnh Bình đẳng Giác), đó là công phu tu học, công
phu này là nói chung, không phải nói riêng Tịnh Độ, tất cả Pháp môn Đại-Tiểu thừa
đều bao gồm ở trong ấy. Tâm thanh tịnh là A-la-hán, Bích-chi-phật; tâm bình đẳng
là Bồ-tát; giác là Pháp thân Bồ-tát, cũng chính là Phật. Vãng sanh đến thế
giới Cực Lạc: được điều gì? Cũng [là] ở trên tựa đề kinh, thứ nhất: Đại thừa, Đại
thừa là vô lượng trí huệ chân thật, mà Tự Tánh vốn có; Vô lượng thọ là phước đức, dùng vô
lượng thọ: để làm đại biểu [cho] vô lượng phước đức; Trang nghiêm chính là tự tại,
tốt đẹp, vui vẻ. Quý vị thấy, lìa khổ được vui, vãng sanh đến thế giới Cực Lạc:
đã đạt được: ‘Đại thừa Vô lượng thọ Trang nghiêm’, chứng đắc rồi. Chúng ta dùng
điều gì [để] chứng đắc? [Dùng] tín, nguyện, niệm Phật, sẽ chứng được vô lượng
thọ.
Tiếp theo nói: 眾生在情見中,起心動念皆是妄想分別。故佛雖有種種譬說 “Chúng sanh tại tình kiến trung, khởi tâm động niệm giai thị Vọng
tưởng Phân biệt. Cố Phật tuy hữu chủng chủng thí thuyết” (Chúng sanh ở trong tình kiến, khởi tâm động niệm đều là Vọng
tưởng Phân biệt. Nên tuy Phật có đủ loại thí dụ lời nói), như [ví dụ] ‘ba
loại xe’ trong Kinh Pháp Hoa nói, 但眾生於佛之知見如聾如盲,不能真實解了 “Đãn chúng sanh ư Phật chi tri kiến
như lung như manh, bất năng chân thật giải liễu” (Nhưng chúng sanh đối với tri kiến Phật như điếc như mù,
không thể chân thật hiểu rõ). Chúng ta xem thấy lời này rồi, [mới] thấy ra
[sự] từ bi vô tận: của lão Cư sĩ Hoàng Niệm Tổ. Hiện nay chúng ta cùng nhau học
tập, chúng ta có lớp học tập này, cách một ngày tham gia khóa học một lần, đồng
học lớp học tập: đem báo cáo tâm đắc của chính mình viết ra: để cúng dường đại
chúng, cùng chia sẻ với mọi người, để chúng ta có thể lãnh hội được có khế nhập,
thật sự đã có nghe hiểu. Có khế nhập thì khó được, là khích lệ rất lớn đối với
chúng ta. 《圓覺經》云 “Viên Giác Kinh vân” (Trong Kinh Viên
Giác nói), đây cũng là một bộ kinh lớn, Đại sư Tông Mật có chú giải phong
phú [như]: Viên Giác Kinh Đại Sớ, Viên Giác Kinh Lược Sớ, có rất nhiều loại. Kinh
ấy cùng tính chất với Lăng Nghiêm, [là] khai trí huệ. Trong kinh này có mấy câu
kinh văn, chỗ này có bốn câu, 未出輪迴而辨圓覺 “vị xuất luân hồi nhi biện viên
giác” (chưa ra khỏi luân hồi mà biện viên giác),
‘biện’ là phân biệt, 彼圓覺性即同流轉。“Bỉ Viên giác tánh tức đồng lưu chuyển” ([thì] Tánh viên giác ấy liền cùng lưu chuyển). Đây là
nói rõ điều gì? Nói rõ phàm phu thông thường chúng ta chưa khai ngộ, chưa ra khỏi
luân hồi, phàm phu trong sáu đường, nếu nói cho quý vị điều gì là ‘Viên giác’, [thì]
quý vị nghe rồi, có điều hiểu điều không, quý vị ở ngay trong khái niệm: ‘Tánh
viên giác’, ‘Tánh’ là Bản thể, Lý thể của ‘Viên giác’, liền cùng lưu chuyển, ‘lưu
chuyển’ chính là lục đạo luân hồi. 此顯思量分別不能解了圓覺 “Thử hiển tư lương phân biệt bất
năng giải liễu Viên giác” (Đây [là] hiển bày [dùng]
suy xét phân biệt [thì] không thể hiểu rõ Viên giác). Chúng ta đều là dùng
Ý thức Thứ sáu [để] suy nghĩ, một khi rơi vào suy nghĩ thì không được rồi. Vì
sao vậy? Bởi là tri kiến của phàm phu, không phải là Phật Bồ-tát. Nói với
chúng ta, Phật Bồ-tát không có suy nghĩ. Cho nên đọc xong một biến kinh,
không cần suy nghĩ, sáng tỏ thì là sáng tỏ, chẳng sáng tỏ, [thì] càng nghĩ càng
sai, không thể nghĩ, trực giác, không thể bẻ cong, đó là trí huệ. Khi nào có thể
đạt được? [Khi] tâm địa có một chút thanh tịnh thì có thể đạt được. Vì vậy rất
nhiều đồng học có cảnh giới đó, không khó. Chính chúng ta chăm chỉ học tập, đặc
biệt là người học giảng kinh, giảng đến 10 năm, sẽ xuất hiện cảnh giới này. Nghe
giảng kinh, đọc kinh, nếu nghe giảng kinh đến 10 năm, mỗi ngày không gián đoạn,
không cần nhiều, mỗi ngày hai tiếng, mười năm không gián đoạn, họ sẽ có chỗ ngộ,
họ nghe kinh, đọc kinh đều sẽ có chỗ ngộ, điều này cũng rất đáng quý.
Tiếp theo nêu ra
Thiền sư Nam Tuyền, ngài nói câu này, nói rất hay, 喚作如如,早變了也 “hoán tác ‘Như như’, tảo biến liễu dã” (hoán
tác như như, tảo biến liễu dã). [Trong] dấu ngoặc giải thích rằng: 說出個如如,其真實義早已變失了 “thuyết xuất cá như như, kỳ
chân thật nghĩa tảo dĩ biến thất liễu” (nói ra [hai chữ]
‘như như’, [thì] nghĩa chân thật ấy sớm đã thay đổi mất rồi), không phải là
‘như như’ nữa, hai chữ ‘như như’: chỉ có thể ngầm hiểu, không thể truyền bằng lời.
Nếu tâm địa của quý vị thanh tịnh, không có ô nhiễm, bình thường thường xuyên
có huân tu trong Phật pháp, một khi nghe đến hai chữ này liền hiểu rõ, đây là
nói điều gì? ‘Như như’. Tướng như Tánh ấy, Tánh như Tướng ấy, chúng ta đem vàng
tỉ dụ cho ‘như’, Thể của ‘như’, đồ vật bằng vàng, [là] tướng, dùng vàng làm đồ
vật bằng vàng, vàng chính là đồ vật bằng vàng, đồ vật bằng vàng chính là vàng, đó
gọi là ‘như như’, là một không phải hai, quý vị dễ dàng hiểu được ví dụ này. Sau
đó lại nói với quý vị, Đại sư Huệ Năng nói được hay, 何期自性,能生萬法 “hà ký Tự Tánh, năng sanh vạn pháp” (nào ngờ Tự Tánh, có thể sanh vạn pháp). Vạn pháp là gì?
[Là] vũ trụ, vũ trụ viên mãn, không có chút thiếu sót nào, vũ trụ đó viên mãn. Trong
Phật pháp chúng ta nói: biến pháp giới hư không giới, đó là điều mà đức Phật
nói trong kinh. Vạn sự vạn vật trong khắp pháp giới hư không giới, đến từ đâu? Trong
Kinh Hoa Nghiêm nói: 唯心所現,唯識所變 “Duy tâm sở hiện, duy thức sở biến” (Do tâm mà hiện,
do thức mà biến). Tâm, Chân Tâm, chính là Tự Tánh, giống với Đại sư Huệ
Năng nói, 何期自性,能生萬法 “hà ký Tự
Tánh, năng sanh vạn pháp” (nào ngờ Tự Tánh, có thể
sanh vạn pháp). Tự Tánh có thể sanh có thể hiện, toàn vũ trụ, bao gồm thân
thể của chính mình, [cũng] do Tự Tánh hiện. Người nào biết được Tự Tánh? Người
thấy Tánh biết được. Quý vị chưa thấy Tánh [nên] không biết được vấn đề này, người
thấy Tánh biết. Vì thế người thấy Tánh, quý vị nên hỏi họ, Tánh như thế nào? Người
ấy tùy nghi diễn ra một cử chỉ, là thật, không phải là giả. Lão Hoà thượng làm
chứng minh cho người ấy, người ấy thật sự kiến Tánh, ngay tại lập tức, lập tức
là được. Đó là thật, không phải giả.
Vì sao nói: nói
ra ‘như như’ thì [nghĩa] sớm đã biến đổi? Bởi quý vị đã khởi phân biệt, quý vị
đã khởi lên chấp trước, liền thay đổi rồi, quý vị sẽ không nghe hiểu: lời mà Phật
Bồ-tát, La-hán nói nữa. Quý vị nghe rồi [nhưng] không có Phân biệt, không có Chấp
trước, không có Khởi tâm Động niệm, vậy thật sự là ‘như như’, quý vị Đại triệt
Đại ngộ ở ngay trong hai chữ này, pháp hỷ đã sung mãn. Tại sao vậy? Bởi thấy được
chân tướng rồi. Sau khi thấy được, từ đó về sau chẳng bị mê nữa. Từ chỗ nào mà
thấy? [Từ] không khởi tâm động niệm nữa. Đó là gì? Phật tri Phật kiến. Thấy sắc,
thấy được rất rõ ràng, thấy được rất minh bạch, không khởi tâm không động niệm,
Khởi tâm Động niệm còn chẳng có, đương nhiên [cũng] không có Phân biệt, không
có Chấp trước, đó chính là Chân Tâm, dùng Chân Tâm. Chư Phật Bồ-tát là như vậy,
ngoài điều này ra [thì] không có sai khác với chúng ta. Chúng ta khác với các
Ngài, chúng ta thấy sắc nghe tiếng: khởi tâm động niệm, phân biệt chấp trước. ‘Các
Ngài chẳng khởi tâm động niệm’, sáu căn tiếp xúc cảnh giới sáu trần: không khởi
tâm không động niệm, không phân biệt, chẳng chấp trước, người đó liền thành Phật,
người đó ‘như như’. Chúng ta xem ‘như như’ ấy, ‘như như’: một là Tánh, một là Tướng,
Tướng như Tánh, Tánh như Tướng, đó là gì? Đó đều [là] khởi tâm động niệm, Phân
biệt Chấp trước, đấy là phàm phu trong sáu đường đang nói ‘như như’, không phải
Bồ-tát Đại thừa. Bồ-tát Đại thừa giảng ‘như như’, không có Khởi tâm Động niệm,
không có Phân biệt Chấp trước, các ngài vĩnh hằng bất biến.
故云非語言分別之所能知 “Cố vân phi ngữ ngôn phân biệt chi sở năng tri” (Nên nói chẳng phải [dùng] ngôn ngữ phân biệt mà có thể biết
được). Trong Đại Thừa Khởi Tín Luận nói với chúng ta, sáu căn tiếp xúc cảnh
giới sáu trần, không Khởi tâm không Động niệm là Phật; Khởi tâm Động niệm, không
có Phân biệt Chấp trước, là Bồ-tát; Khởi tâm Động niệm, có Phân biệt, không
có Chấp trước, là A-la-hán; phàm phu trong sáu đường, thảy đều đầy đủ Khởi tâm
Động niệm, Phân biệt Chấp trước. Phật, Bồ-tát, La-hán, phàm phu: chính là
hình thành như vậy, quý vị là ở trên cấp bậc nào, chính quý vị vô cùng rõ ràng,
vô cùng sáng tỏ. [Trong] Đại Thừa Khởi Tín Luận, Bồ-tát Mã Minh dạy chúng ta:
nghe kinh: lìa Tướng ngôn thuyết, lìa Tướng danh tự, lìa Tướng tâm duyên, đó
chính là Bồ-tát. Đọc kinh: lìa Tướng văn tự, chẳng có phân biệt đối với văn
chữ, cũng là không Khởi tâm không Động niệm, không Phân biệt chẳng Chấp trước, đó
là Pháp thân Bồ-tát đang đọc kinh. Đọc được vô cùng rõ ràng, không có đọc sai
một chữ nào, [cũng] chẳng có đọc sót một câu nào, đọc như thế có lợi ích gì? Sẽ
đắc định. Đọc Kinh Vô Lượng Thọ được niệm Phật Tam-muội, Tam-muội sẽ khai ngộ,
Đại triệt Đại ngộ, sẽ khởi tác dụng như vậy. Nếu chúng ta đọc kinh: [mà] có
phân biệt, có chấp trước, [thì] phàm phu dựa vào [việc] đọc kinh Phật, đọc suốt
một đời [cũng] sẽ không khai ngộ, chẳng đắc Tam-muội. Vì sao vậy? Bởi bên
trong, họ vẫn xen tạp khởi tâm động niệm, Vọng tưởng Phân biệt Chấp trước, họ
còn có những điều này, tâm không thanh tịnh, tâm không bình đẳng. Cho nên tất cả
kinh mà đức Phật đã nói, hết thảy kinh mà Bồ-tát đã nói, những Chú giải mà Tổ
sư Đại đức đã trước tác, tất cả đều chẳng phải là: ‘[dùng] ngôn ngữ phân biệt
mà có thể biết được’. Đây là nói lời thật, không phải nói lời giả.
當知此之一件大事,言語道斷,心行處滅 “Đương tri thử chi nhất kiện đại sự, ngôn ngữ đạo đoạn, tâm hành
xứ diệt” (Nên biết đây là một việc đại sự, dứt đường
ngôn ngữ, hết chỗ tâm hành). Đây là đại sự, đại sự này, [là] phàm phu thành
Phật. Thành Phật như thế nào? ‘Ngôn ngữ đạo đoạn’, [là] nói trên tướng; trên
tâm thì sao? [Thì] ‘tâm hành xứ diệt’. ‘Hết chỗ tâm hành’ là không khởi tâm
không động niệm, ‘dứt đường ngôn ngữ’ là không phân biệt chẳng chấp trước. Người
ấy có biết hay không? Người ấy thật sự biết, điều gì cũng biết. Người ấy nói ra
thì quý vị vẫn không hiểu, giống như hiện nay chúng ta xem kinh Phật, [nhưng] rốt
cuộc chẳng hiểu ý nghĩa nào trong ấy cả. Tại vì sao chúng ta không hiểu? Bởi
chúng ta đã khởi tâm động niệm. Khởi tâm động niệm là chướng ngại, là mê hoặc, chúng
ta phân biệt chấp trước, vì vậy càng mê càng sâu, càng nghĩ càng sai, là tri kiến
của phàm phu, không phải tri kiến của Bồ-tát.
法藏果覺,實非語言之所能宣,亦非眾生生滅心、思量分別之所能及 “Pháp Tạng quả giác, thật phi ngữ
ngôn chi sở năng tuyên, diệc phi chúng sanh sanh diệt tâm, tư lương phân biệt
chi sở năng cập” (Quả giác của ngài Pháp Tạng, thật
chẳng phải là [dùng] ngôn ngữ mà có thể tuyên thuyết, cũng chẳng phải [dùng]
tâm sanh diệt của chúng sanh, suy xét phân biệt mà có thể đạt tới). Đây là
nói [về] Bồ-tát Pháp Tạng, Bồ-tát Pháp Tạng là người thế nào? [Ngài] đã sớm
thành Phật rồi. Cũng như đức Phật Thích Ca Mâu Ni, [Ngài] đã thành Phật từ kiếp
lâu xa, [trong] giai đoạn này: đúng lúc gặp được rất nhiều người trên địa cầu, có
không ít người có duyên phận với Ngài, có duyên thì chẳng thể không chiếu cố, có
duyên thì cảm ứng đạo giao. Cho nên nơi này, người có duyên rất nhiều, chúng
sanh có cảm, Ngài tự nhiên có ứng, cảm ứng đạo giao, Ngài đến thôi. Nên dùng
thân nào được độ thì hiện thân ấy, hiện ra Ứng thân, thân [cũng] như phàm phu
chúng ta, được phụ mẫu sanh ra, từ nhỏ lớn lên, lại từ cường tráng đến già đi,
có sanh có tử, trụ thế 80 năm. Người Trung Hoa tính tuổi ta, người nước ngoài
nói 79 tuổi, người Trung Hoa nói 80 tuổi. Trong 80 năm, làm ra đủ loại thị hiện
cho chúng ta, rồi sau giảng kinh dạy học 49 năm, đức Phật Thích Ca Mâu Ni vì
chúng ta mà biểu diễn. [Ngài] có duyên với chúng sanh, mọi người cũng có duyên,
duyên [thì] có cạn-sâu khác nhau. Vì vậy, có những người theo Phật: 10 năm, 20
năm, đã khai ngộ; Có người theo Phật 30 năm- 40 năm, đã khai ngộ; Có [người] rất
thông minh, một-hai năm thì khai ngộ. Sau khi ngộ rồi, nơi nào người ấy có
duyên, người ấy lại đi giáo hóa chúng sanh nữa, đại đa số học trò: của đức Phật
Thích Ca Mâu Ni: đều là giáo hóa chúng sanh [ở] bốn phương tám hướng. Giáo hóa
chúng sanh, đều không từ bỏ người nào cả, một người cũng phải dạy, [nên] gọi là佛氏門中,不捨一人 “Phật thị môn trung, bất xả nhất nhân” (trong hàng đệ tử Phật, không bỏ một người). Đó là thật,
không phải giả. Nhưng đức Phật ở thế gian có lợi ích, cho dù học trò: đều đã đi
đến nơi nào đó để giảng kinh dạy học, [thì] mỗi năm nhất định phải: ở cùng một
chỗ với đức Phật ba tháng, An cư Kiết hạ. Ba tháng đó là mùa mưa của Ấn Độ, ra
ngoài không thuận tiện, cho nên mọi người không ra ngoài, tất cả đều trở về
theo đức Phật Thích Ca Mâu Ni, đức Phật giảng kinh thuyết pháp cho mọi người, giáo
dục tiến tu, giúp mọi người lại hướng thượng nâng cao, mỗi năm tổ chức một lần.
Giáo dục của đức Phật thật sự: vô cùng hoàn mỹ, hoàn thiện, nghĩ được thật chu
đáo, học trò dạy học ở bên ngoài, làm sao [để] giúp họ nâng cao, lớp học này
chính là nâng cao, mỗi năm nâng lên, các vị đồng học trở về giao lưu: cảm tưởng
tâm đắc với nhau, cũng có thể giúp mọi người nâng cao.
Vì vậy ở đây
chúng ta thấy được: [ngài] Pháp Tạng là quả giác. Người như vậy nhiều, không
ít, nếu chúng ta có duyên gặp được, sau khi gặp được phải nhận biết, phải nhất
định theo họ, đó đều là duyên phận. 實非語言之所能宣 “Thật phi ngữ ngôn chi sở năng
tuyên” (Thật sự chẳng phải ngôn ngữ mà có thể tuyên
thuyết), rất khó giảng được rõ ràng. 亦非眾生生滅心 “Diệc phi chúng sanh sanh diệt tâm” (Cũng chẳng phải tâm sanh diệt của chúng sanh), phàm phu,
phiền phức của phàm phu hiện nay, [là] tâm của phàm phu, tên gọi trong Phật
giáo là A-lại-da, chính là vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, đây chính là
tâm sanh diệt, niệm trước diệt niệm sau sanh. 思量分別之所能及 “Tư lương phân biệt chi sở năng cập” (Suy xét phân biệt mà có thể đạt tới), ‘suy xét’ là chấp
trước, Mạt-na thức, ‘phân biệt’ là Ý thức Thứ sáu, ‘tâm sanh diệt’ là A-lại-da,
tam tâm nhị ý. Đức Phật nói công năng của tam tâm nhị ý này rất lớn, đều có thể
duyên [đến] tất cả vũ trụ, nhưng mà không duyên đến Tự Tánh. Cho nên phương
pháp của tông Pháp Tướng, [là] chuyển thức thành trí, chuyển tám thức thành bốn
trí, chuyển lại rồi thì thành công. Mỗi người vãng sanh: sanh đến thế giới Cực
Lạc sẽ chuyển thức thành trí, [nhưng] không phải công phu tu hành của chính quý
vị, hoàn toàn là [do] uy thần bản nguyện: của A Mi Đà Phật gia trì. Chuyển
lúc nào? vào lúc quý vị lâm chung, đã buông xuống thân thể, không cần nữa, ngồi
lên hoa sen: (chính là thần thức ngồi lên hoa sen), hoa sen liền khép lại, đức
Phật mang hoa sen này đến thế giới Cực Lạc, đặt ở trong ao Thất bảo, hoa nở thấy
Phật liền chuyển thức thành trí. Chính mình không biết, bất tri bất giác, quý vị
thấy [mình] ngồi trong hoa sen, được Phật lực gia trì, đến thế giới
Cực Lạc thì chuyển thôi. Vì thế ở thế giới Cực Lạc, đức Phật nói,
quý vị có thể nghe hiểu được, quý vị sẽ không hiểu sai nghĩa ấy, vì sao vậy? Bởi
chính mình cũng không khởi tâm không động niệm. Phật không có khởi tâm động niệm
mà nói ra, thính chúng cũng không có khởi tâm động niệm, rất là tự nhiên tâm
tâm phù hợp với nhau. Giảng đường đó của đức Mi Đà là vô cùng thù thắng trang
nghiêm, chẳng ai có thể sánh được.
在凡夫分上,語言不能知,無語亦不能知;分別不能知,無分別亦不能知 “Tại phàm phu phân thượng, ngữ ngôn
bất năng tri, vô ngữ diệc bất năng tri; phân biệt bất năng tri, vô phân biệt diệc
bất năng tri” (Phàm phu ở trong phân biệt, lời
nói chẳng thể biết được, [mà] không lời nói cũng chẳng thể biết được; phân biệt
chẳng thể biết được, [mà] không phân biệt cũng chẳng thể biết được), đây đều là lời
thật. 法藏究竟法身妙果,唯有如如與如如智 “Pháp Tạng cứu cánh Pháp thân Diệu
quả, duy hữu Như như dữ Như như trí” (Pháp thân Diệu
quả cứu cánh của [ngài] Pháp Tạng, chỉ có Như như và Như như trí). ‘Như
như’ là chuyển tám thức, ‘Như như trí’ là thành tứ trí, đó là đã nhập vào, [là]
khai thị ngộ nhập đã nói phía trước, đấy là đã nhập vào. Đến thế giới
Cực Lạc mới vào được, ở thế giới này của chúng ta, nếu [dùng] trí mà vào, [thì]
chẳng nhập vào được, tại sao vậy? Bởi không có Như như trí. ‘Như như trí’: là trí
huệ Bát-nhã vốn có trong Tự Tánh, Pháp thân Diệu quả cứu cánh của [ngài] Pháp Tạng,
Vì thế ‘duy hữu Như như dữ Như như trí’, 故非凡情所能測 “cố phi phàm tình sở năng trắc” (nên chẳng phải tình kiến của phàm phu mà có thể đo lường được),
phàm phu không có năng lực này.
Lại xem đoạn tiếp
theo đây, 誓願成就 “Thệ nguyện thành tựu” (Thành tựu thệ
nguyện).
【所發誓願。圓滿成就。】“Sở phát thệ nguyện,
viên mãn thành tựu” (Thệ nguyện đã phát, thành tựu
viên mãn).
‘Thệ nguyện’ này
là 48 nguyện, Ngài đã dùng 48 nguyện: [để] gia trì tất cả chúng sanh có duyên
trong mười phương thế giới. 『圓滿』“Viên mãn” là, 圓妙具足也 “viên diệu cụ túc dã” (là viên diệu đầy đủ). ‘Viên’ chính là viên mãn, vi diệu
đầy đủ, đó là Tánh đức của Tự Tánh, chính là điều mà chúng ta thường nói, khi
Đại sư Huệ Năng khai ngộ nói rất hay, 何期自性,本自具足 “hà kỳ Tự Tánh, bổn tự cụ túc” (nào ngờ Tự Tánh, vốn tự đầy đủ), chính là viên mãn đầy
đủ, chính là viên mãn vi diệu đầy đủ, là vốn có trong Tự Tánh, không phải đến từ
bên ngoài. Viên mãn vi diệu là thế nào? [Là] vô lượng trí huệ, vô lượng đức
năng, vô lượng tướng hảo, thảy đều đầy đủ. [Trong] giáo lý Đại thừa đức Phật
thường nói: 法外無心,心外無法 “Pháp ngoại vô tâm, tâm ngoại vô
pháp” (Ngoài pháp không có tâm, ngoài tâm không có
pháp), toàn bộ đều là Tự Tánh xưa nay có. Trong Kinh Hoa Nghiêm nói: 一切眾生皆有如來智慧德相 “Nhất thiết chúng sanh giai hữu Như Lai trí huệ đức tướng” (Tất cả chúng sanh đều có trí huệ đức tướng của Như Lai),
hoàn toàn bình đẳng với Phật. Chúng ta sai là sai ở đã mê mất Tự Tánh, thật ra
Tự Tánh không có mất đi, [chỉ] mê thôi, [nên] quý vị không biết, Tự Tánh chẳng
khởi tác dụng. Sau khi ngộ rồi, giống như đã tìm lại được Tự Tánh, trước giờ
chưa từng rời khỏi, chẳng nơi nào không có, chẳng lúc nào không có, Tự Tánh là
Bản thể của tất cả pháp, hết thảy pháp rời khỏi Tự Tánh [thì] không thể kiến lập.
『成就』 “Thành tựu” là, 嘉祥《法華論疏》云:具足無餘 “Gia Tường Pháp Hoa Luận Sớ vân: cụ
túc vô dư” (Pháp Hoa Luận Sớ của ngài Gia Tường
nói: đầy đủ không thiếu sót), ‘cụ túc’ chính là viên mãn, 不可破壞,故云成就 “bất khả phá hoại, cố vân thành tựu” (không thể phá hoại được, nên gọi là thành tựu), chẳng
có điều gì có thể phá hoại, [nên] gọi là thành tựu, tất cả pháp viên mãn. 又《往生論註》曰:依本法藏菩薩四十八願 “Hựu Vãng Sanh Luận
Chú viết: y bổn Pháp Tạng Bồ-tát tứ thập bát nguyện” (Thêm nữa, Vãng Sanh Luận Chú ghi: căn cứ theo 48 nguyện của
Bồ-tát Pháp Tạng), bản nguyện, 今日阿彌陀如來自在神力。願以成力,力以就願。願不徒然,力不虛設。力願相符,畢竟不差,故曰成就。“Kim nhật A Mi Đà Như Lai tự tại thần lực. Nguyện dĩ thành lực,
lực dĩ tựu nguyện. Nguyện bất đồ nhiên, lực bất hư thiết. Lực nguyện tương phù,
tất cánh bất sái, cố viết thành tựu” (Hiện tại A Mi
Đà Như Lai thần lực tự tại. Nguyện để thành tựu lực, lực để thành tựu nguyện.
Nguyện chẳng rỗng không, lực chẳng hư dối, Nguyện lực hợp nhau, chung quy không
khác biệt, nên nói là thành tựu). Mấy câu này nói rất hay, đã nói rõ
ràng đơn giản tỉ mỉ [sự] thành tựu [ấy]. A Mi Đà Phật thần lực tự tại, câu
này [là] nói tổng quát. Thần lực được đại tự tại, những thần lực nào? Cũng là
điều mà được nói tiếp theo, 48 nguyện đã thành tựu viên mãn, nguyện đã thành tựu
lực, dùng lực này: [để] gia trì tất cả chúng sanh có duyên trong mười phương thế
giới, tiếp dẫn họ đến thế giới Cực Lạc. Lực thành tựu rồi, lực tương ưng với
nguyện, nguyện không phải giả, nguyện là thật, lực không phải hư dối, có nguyện
có lực, lực và nguyện hợp nhau, chung quy chẳng khác biệt, vậy mới có thể tiếp
dẫn tất cả chúng sanh, thành tựu quả vị Phật viên mãn ở thế giới Cực Lạc, đó gọi là thành tựu.
又《法華經普賢勸發品》云:若善男子、善女人,成就四法,於如來滅後,當得是法華經 “Hựu Pháp Hoa Kinh Phổ Hiền Khuyến
Phát Phẩm vân: Nhược Thiện nam tử, Thiện nữ nhân, thành tựu tứ pháp, ư Như Lai
diệt hậu, đương đắc thị Pháp Hoa Kinh” (Thêm nữa, trong
Phẩm [Bồ Tát] Phổ Hiền Khuyến Phát của Kinh Pháp Hoa nói rằng: nếu Người thiện
nam, Người thiện nữ, thành tựu bốn pháp, vào lúc sau khi Như Lai diệt độ, [thì]
chắc chắn sẽ [gặp] được Kinh Pháp Hoa này). Kinh Pháp Hoa là giảng thành Phật,
thế giới Cực Lạc chính là thành Phật, cho nên thế giới Cực Lạc: không khác với
Pháp Hoa. Nếu Thiện nam tử, Thiện nữ nhân thành tựu bốn pháp, tiếp theo nêu ra
bốn điều kiện, sau khi Như Lai diệt độ, [thì] quý vị cũng có duyên gặp được
Kinh Pháp Hoa. [Từ] sau khi đức Phật Thích Ca Mâu Ni diệt độ đến nay, chiếu
theo cách tính của Trung Hoa, đức Phật diệt độ đến năm nay: [là] 3042 năm, Kinh Pháp Hoa vẫn
còn ở thế gian, người có duyên quý vị có thể gặp được. 一者,為諸佛護念 “Nhất giả, vi chư Phật hộ niệm” (Một là được chư Phật hộ niệm). Chúng ta làm sao để được
chư Phật hộ niệm? Thật sự có thể làm được: tín nguyện trì danh mà tông Tịnh Độ
đã đề xướng, thì quý vị được chư Phật hộ niệm, Kinh Vô Lượng Thọ nói rất rõ
ràng, bốn chữ này do Đại sư Ngẫu Ích đề xuất, tín nguyện trì danh. 二者,植眾德本 “Nhị giả, thực chúng đức bổn” (Hai là
trồng các gốc đức). Thế nào là gốc đức? Gốc đức chính là A Mi Đà Phật, danh
hiệu này của A Mi Đà Phật vạn đức trang nghiêm, tất cả Bồ-tát bao gồm ngài
Văn Thù, ngài Phổ Hiền, kể cả đức Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật của chúng ta, tất
cả đều là do niệm Phật sanh Tịnh Độ mà thành Phật, đó là ‘đức bổn’ thật sự. 三者,入正定聚 “Tam giả, nhập Chánh định tụ” (Ba là vào Chánh định tụ). Chánh định, [là] định tâm vào
trong tín nguyện trì danh, cũng sẽ không dao động nữa, cũng sẽ không bỏ mất nữa.
Giống như lão Hòa thượng Hải Hiền, 92 năm làm ra tấm gương cho chúng ta xem, Sư
phụ đã dạy ngài một câu A Mi Đà Phật: một mạch niệm liên tục, thì ngài thật
làm. 92 năm chỉ một câu Phật hiệu, từ sáng đến đêm, [niệm] lớn tiếng, nhỏ tiếng,
niệm thầm, chưa từng để lỡ mất, nhập Chánh định tụ. Trong tâm ngoài câu Phật hiệu
này ra, không có vọng tưởng, không có tạp niệm, niệm câu Phật hiệu này đến Công
phu Thành phiến, niệm đến Sự nhất tâm Bất loạn, niệm đến Lý nhất tâm Bất loạn. Công
phu Thành phiến không sanh [vào] cõi Đồng Cư, mà ít nhất là Hạ phẩm Hạ sanh ở
cõi Phương Tiện, đến thế giới Cực Lạc [là] xen lớp rồi, không phải bắt đầu học từ
Tiểu học, chí ít cũng là Trung học Cơ sở năm thứ nhất; nếu công phu tốt, niệm đến
Sự nhất tâm Bất loạn, đó là vãng sanh bậc thượng ở cõi Phương Tiện; niệm đến Lý nhất
tâm, vãng sanh thế giới Cực Lạc là cõi Thật Báo Trang Nghiêm, Pháp thân
Bồ-tát, Chánh định tụ.
Không thể để xen
tạp, không thể để tạp loạn, một vị thầy, một bộ kinh. Một vị thầy, là ai vậy? Tôi
đề cử lão Cư sĩ Hoàng Niệm Tổ cho chư vị. Kinh của ngài giảng, Chú giải Kinh Vô
Lượng Thọ: chính là do ngài giảng, chú giải bộ kinh này, ngài đã dùng 83 loại
kinh luận, 110 loại Chú sớ của Tổ sư Đại đức, vì vậy Chú giải này của ngài là Tập
chú, [là] Chánh tri Chánh kiến. Vẫn còn một Trước tác, loại sau cùng nhất trong
cuối đời của ngài, [là] Tịnh Tu Tiệp Yếu Báo Ân Đàm, nên đọc, trong đó đã nói
rõ ràng, nói sáng tỏ Phật giáo thường thức, có Đại thừa, có Tiểu thừa, có Tông
môn, có Giáo hạ, có Hiển giáo, có Mật giáo. Nếu quý vị muốn phần nào hiểu rõ một
chút, thì trong Báo Ân Đàm ấy: thảy đều đã nói đến, đã đầy đủ Phật
học thường thức, giúp chúng ta có năng lực ứng phó, người khác đến hỏi chúng
ta, ít nhiều chúng ta có thể nói được mấy câu, chẳng đến nỗi hoàn toàn không hiểu.
Khó được! Vị thầy ấy là đủ rồi, ngài là Thượng sư Mật tông, chúng ta học Tịnh Độ
với ngài, một vị thầy. Một bộ kinh điển, [là] Kinh Vô Lượng Thọ; một bộ Chú giải,
[là] Chú Giải của Hoàng Niệm lão; lại thêm Tịnh Tu Tiệp Yếu Báo Ân Đàm; thêm nữa
[là]: Vĩnh Tư Tập về lão Hòa thượng Hải Hiền, ngài là làm chứng minh cho chúng
ta, giúp chúng ta kiên định tín tâm, giúp chúng ta kiên định nguyện tâm, chắc
chắn sanh Tịnh Độ. Mỗi ngày phải nghe giảng kinh, cũng nên thường xuyên nghe
hai loại đó, chớ để quên mất, càng nghe càng hoan hỷ.
四者,發救一切眾生之心。“Tứ giả, phát cứu nhất thiết chúng
sanh chi tâm” (Bốn
là: phát tâm cứu tất cả chúng sanh). Đây chính là tâm Bồ-đề,
‘chúng sanh vô biên thệ nguyện độ’. Hiện nay chúng sanh đã quá khổ, vì sao trên
địa cầu: lại biến thành như vậy? Lần này ở Liên Hiệp Quốc: tôi gặp được Đại sứ
Tòa thánh Vatican Roma: ở Liên Hiệp Quốc, chúng tôi giao lưu với nhau, họ nói một
câu, [mà] tôi rất bội phục, hiện nay động loạn của toàn thế giới, nguyên nhân
thật sự chính là [ở] hai chữ: ‘vô tri’. Nói được hay, ‘vô tri’, [nên] mới nghĩ
sai, nói sai, làm sai, cảm đến quả báo bất thiện này. Đó là giống như Phật pháp nói, Phật pháp đề xướng phá mê khai ngộ,
chưa khai ngộ, chưa phá mê, thì chẳng phải là ‘vô tri’ ư? Họ nói hai chữ, đức
Phật nói bốn chữ, ‘phá mê khai ngộ’. Chúng sanh thật sự phá mê rồi, thì không
có tai nạn nữa, đã khai ngộ, thì được vui, thân tâm vui vẻ, gia đình hạnh phúc, sự
nghiệp viên mãn, xã hội an định, đất nước giàu mạnh, thiên hạ thái
bình, thật quá tốt! Nhưng gốc rễ đó [là] cần phải phá mê khai ngộ.
上《法華》云成就四法,當得法華經。今則法藏大士,所發一切誓願,悉皆圓滿成就。故得如實安住,具足莊嚴、威德廣大、清淨佛土。“Thượng Pháp Hoa vân thành tựu tứ
pháp, đương đắc Pháp Hoa Kinh. Kim tắc Pháp Tạng Đại
sĩ, sở phát nhất thiết thệ nguyện, tất giai viên mãn thành tựu. Cố đắc như thật
an trụ, cụ túc trang nghiêm, uy đức quảng đại, thanh tịnh Phật độ” (Thành tựu bốn pháp mà được Kinh Pháp Hoa nói trên, chắc chắn
sẽ [gặp] được Kinh Pháp Hoa. Ở đây thì Đại sĩ Pháp Tạng, tất cả thệ nguyện đã
phát, thảy đều thành tựu viên mãn. Nên đắc như thật an trụ, đầy đủ trang
nghiêm, uy đức rộng lớn, thanh tịnh cõi Phật). Bốn câu cuối cùng đó là quả.
Quả này nói điều gì? Chính là nói thế giới Tây Phương Cực Lạc. Thế giới Tây
Phương Cực Lạc thành tựu thế nào? Là 48 nguyện đã phát của A Mi Đà Phật, nguyện
nguyện đều [được] thực hiện, nguyện nguyện đều đã thành tựu, thế giới Tây
Phương Cực Lạc thành tựu viên mãn, cho nên đạt được quả báo này. ‘Như thật an
trụ’, đó là chân thật, mười phương thế giới là giả, là pháp sanh diệt, thế giới
Cực Lạc không phải là pháp sanh diệt, cho nên cõi ấy vô lượng thọ, người vô lượng
thọ, hoa cỏ cây cối đều vô lượng thọ, núi sông đất đai cũng là vô lượng thọ; ‘cụ
túc trang nghiêm’, trong Kinh này giới thiệu được rất nhiều; ‘uy đức quảng đại,
thanh tịnh Phật độ’, bốn câu này [là] tán thán thế giới Tây Phương Cực Lạc. Thời
gian hôm nay hết rồi, chúng ta học tập đến đây thôi.
(Hết tập 240)
Nguyện đem công đức này
Hướng về khắp tất cả
Đệ tử cùng
chúng sanh
Đều sanh nước
Cực Lạc
Nhanh viên thành Phật quả
Rộng độ khắp chúng sanh.
Nam Mô A Mi Đà Phật.