Responsive Menu
Add more content here...

Tập 316 – Tịnh Độ Đại Kinh Khoa Chú 2014

 

TỊNH ĐỘ ĐẠI KINH KHOA CHÚ 2014-2017
(Giảng lần thứ 4)

PHẨM 24: TAM BỐI VÃNG SANH:

Ba Bậc Vãng Sanh

Tập 316

Hòa thượng Tịnh Không chủ giảng.

Giảng tại: Tịnh Tông Học Viện Australia.

Thời gian: Ngày 4 tháng 3 năm 2016.

Dịch giả: Minh Tâm và Thích Thiện Trang.

 

          Kính chào: Chư vị Pháp sư, quý vị đồng học, mời an tọa.

          Mời xem Đại Kinh Khoa Chú, trang 751, đếm ngược đến dòng thứ ba:

    願生其國“Nguyện sanh kỳ quốc”(Nguyện sanh nước ấy). Đoạn đề mục nhỏ này là “tu đức nguyện sanh”. Hôm trước đã giảng “tu chư công đức” rồi. Hôm nay, chúng ta học tiếp câu sau cùng: “Nguyện sanh kỳ quốc”, 亦即第十八願中:所有善根,心心迴向,願生我國“diệc tức đệ thập bát nguyện trung: Sở hữu thiện căn, tâm tâm hồi hướng, nguyện sanh ngã quốc”(cũng chính là trong nguyện thứ 18: đem tất cả thiện căn, tâm tâm hồi hướng, nguyện sanh nước con), ba câu này là văn nguyện của nguyện thứ 18 trong 48 nguyện. Tiếp theo nguyện 19, 復以善根迴向,願生我國“phục dĩ thiện căn hồi hướng, nguyện sanh ngã quốc”(Lại đem thiện căn hồi hướng, nguyện sanh nước con), có thể thấy ‘nguyện sanh nước con’ không chỉ ở nguyện 18, mà nguyện 19 cũng có. Phía sau còn có nguyện 21, 與第二十一願中,至心迴向,欲生極樂,無不遂者“dữ đệ nhị thập nhất nguyện trung, chí tâm hồi hướng, dục sanh Cực Lạc, vô bất toại giả”(và trong nguyện thứ 21 nói: chí tâm hồi hướng, mong sanh Cực Lạc, không ai mà không được toại ý), ‘mong sanh Cực Lạc’ chính là ‘nguyện sanh nước con’, ý nghĩa như nhau. Còn có nguyện thứ 22, trong nguyện 22 có:發菩提心,厭患女身,願生我國. 如是諸願中“Phát Bồ-đề tâm, yếm hoạn nữ thân, nguyện sanh ngã quốc. Như thị chư nguyện trung”(Phát Bồ-đề tâm, chán ngán thân nữ, nguyện sanh nước con. Trong các nguyện ấy), trong 48 nguyện có 4 nguyện nói đến, trong các nguyện đó: 皆以發願迴向,求生淨土為勸也“giai dĩ phát nguyện hồi hướng, cầu sanh Tịnh-độ vi khuyến dã”(Đều khuyên: phát nguyện hồi hướng, cầu sanh Tịnh-độ). Ở trong kinh văn, chúng ta có thể thấy được, có thể lãnh hội được, A Di Đà Phật hết lời khuyên bảo, khuyên nhủ chúng ta cầu sanh Tịnh-độ.

          Tiếp theo còn dẫn Kinh A Di Đà.《阿彌陀經》曰:眾生聞者,應當發願,願生彼國“A Di Đà Kinh viết: Chúng sanh văn giả, ưng đương phát nguyện, nguyện sanh bỉ quốc”(Kinh A Di Đà nói: Chúng sanh nghe những lời trên đó, cần nên phát nguyện, nguyện sanh nước ấy). Tiếp đó vẫn là kinh văn của Kinh Di Đà, 若有信者,應當發願,生彼國土。又云:若有人已發願、今發願、當發願,欲生阿彌陀佛國者,是諸人等,皆得不退轉於阿耨多羅三藐三菩提“nhược hữu tín giả, ưng đương phát nguyện, sanh bỉ quốc độ. Hựu vân: Nhược hữu nhân dĩ phát nguyện, kim phát nguyện, đương phát nguyện, dục sanh A Di Đà Phật quốc giả, thị chư nhân đẳng, giai đắc bất thoái chuyển ư A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề”(Nếu ai có niềm tin, thì cần nên phát nguyện, sanh về nước ấy. Lại nói:  Nếu có người đã phát nguyện, đang phát nguyện, sẽ phát nguyện, muốn sanh về cõi nước đức Phật A Di Đà, thì những người ấy, đều được không thoái chuyển nơi đạo Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác). Trong Kinh Di Đà có ba đoạn như vậy. 可見願生其國實為往生極樂之關鍵“Khả kiến nguyện sanh kỳ quốc thực vi vãng sanh Cực Lạc chi quan kiện”(Có thể thấy rằng: nguyện sanh nước ấy chính là mấu chốt của vãng sanh Cực Lạc). Tại sao vậy? Thế giới này quá khổ rồi. Đặc biệt chúng ta sanh vào thời hiện nay, chúng tôi hồi tưởng xã hội 30 năm trước, là đáng yêu hơn nhiều so với bây giờ, không có nhiều tai nạn như vậy, trong xã hội không có nhiều xung đột như vậy. Chúng ta đi ngược thêm 30 năm, chính là 60 năm trước, thì càng tốt hơn 30 năm trước! Người nước ta gọi 30 năm là một thế, quý vị xem thế, chữ ‘thế’ trong ‘thế giới’, một thế là ba lần mười, 30 năm gọi là một thế. Chính chúng tôi nhớ lại 30 năm trước đây, thêm 30 năm trước nữa, xã hội lúc đó an định hơn hiện nay, người hài hòa với người.

          Ở trong kinh Phật nói với chúng ta, lúc đức Thích Ca Mâu Ni Phật xuất hiện ở thế gian, vào 3000 năm trước, tuổi thọ trung bình của con người là 100 tuổi. Trong kinh nói với chúng ta, qua mỗi 100 năm giảm đi một tuổi, con người thế giới ngày nay, tuổi thọ trung bình là 70 tuổi. Thời đại đó của đức Phật là 100 tuổi, còn hiện nay là 70 tuổi, 100 năm giảm một tuổi, thời mạt pháp của Thích Ca Mâu Ni Phật về sau còn hơn 8000 năm, thọ mạng của con người ngắn nhất là 10 tuổi, sẽ xuất hiện vào thời kỳ mạt pháp của Thích Ca Mâu Ni Phật, lúc ngắn nhất là 10 tuổi. Lúc 10 tuổi thì xã hội đó như thế nào? Trong xã hội, người nhìn thấy người thì muốn giết rồi, trở thành kiểu như vậy, lúc nào cũng tiên hạ thủ vi cường, con người đều diệt sạch hết. Chúng ta từ 30 năm này, tỉ mỉ mà quan sát 30 năm, có tin được lời nói này trong kinh hay không? Có. Thế nhưng xã hội ngày nay, xuất hiện một hiện tượng rất khác thường. Đó chính là, người có tuổi thọ dài: 80 tuổi, 90 tuổi, 100 tuổi, càng lúc càng nhiều hơn. Lão Cư sĩ Hoàng Niệm Tổ nói với chúng ta, đây là một hiện tượng tốt, hiện tượng này giống như cổ nhân Trung Hoa nói là ánh sáng lóe lên, có, nhưng điều này không phải bình thường. Vì sao nói là hiện tượng tốt? Bởi có lẽ Phật pháp còn sẽ hưng thịnh một thời kỳ. Có khả năng hay không? Có khả năng. Phật giáo Hán-truyền, chúng ta xem ra dường như đã suy, người học tập rất ít rồi, thế nhưng Nam-truyền, một vùng Đông Nam Á, Phật giáo Tiểu-thừa, dường như rất thịnh. Phật giáo Tạng-truyền cũng vẫn khá, tôi biết Phật Học Viện Ngũ Minh của Tạng-truyền, trong Phật Học Viện này có học sinh Hán-truyền, xuất gia tại gia, nghe nói có một, hai ngàn người, học tập rất như Pháp. Điều này khiến cho chúng ta thấy được sanh tâm hoan hỷ, Đại-thừa Hán-truyền có người truyền thừa, đây là hiện tượng tốt. Thế nhưng tổng ‘biến số’ này dù sao vẫn không bằng ‘hằng số’, ‘hằng số’ đó chính là kiếp giảm, 100 năm giảm một tuổi. Sau khi thời mạt pháp của Thích Ca Mâu Ni Phật hết rồi, Pháp-vận của Thế Tôn mất hết ở thế giới này, thì Phật pháp còn có người để hoằng truyền hay không? Có, đọc Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện thì biết thôi. Trong kinh ấy có ghi chép, sau khi Phật pháp diệt rồi, tiếp theo thì Bồ-tát Di Lặc vẫn chưa đến thị hiện thành Phật, khoảng thời gian này rất dài, trong khoảng thời gian dài này không có Phật trụ thế, Bồ-tát Địa Tạng thay Phật cứu độ chúng sanh khổ nạn. Địa Tạng là đại nguyện, nên chúng ta tin tưởng rằng: Đại Bi Quán Âm Bồ-tát, Đại Trí Văn Thù Bồ-tát, Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ-tát, đều sẽ hiệp trợ Địa Tạng Bồ-tát giáo hóa chúng sanh ở thế gian này, đợi đến khi ngài Di Lặc từ trời Đâu-suất giáng xuống thị hiện thành Phật.

          Chúng ta hôm nay gặp được Pháp môn hết sức thù thắng này, đức Thích Ca Mâu Ni Phật, đức A Di Đà Phật: hết lời khuyên bảo chúng ta, nên phát nguyện cầu sanh Thế giới Cực Lạc, sanh đến Thế giới Cực Lạc thì tương đương với thành Phật rồi. Người Thế giới Cực Lạc, có điểm tốt đầu tiên, là vô lượng thọ. Trong mười pháp giới, sáu đường đều có sanh diệt, còn Thế giới Cực Lạc không có sanh diệt, người vãng sanh hóa sanh trong hoa sen, hoa nở thấy Phật. Trong ao Thất Bảo của Thế giới Cực Lạc, công phu chuyển thức thành trí của quý vị viên mãn rồi, thì chuyển tám thức thành bốn trí, không sanh không diệt, là vô lượng thọ. Đạt được sự gia trì bởi uy thần bổn nguyện của A Di Đà Phật, đồng thời cũng được công đức tu học từ vô lượng kiếp đến nay của A Di Đà Phật bảo hộ cho quý vị, làm cho trí huệ, thần thông, đạo lực của quý vị dường như không sai khác với Phật, cho nên nói tương đương với thành Phật. Phật có thần thông, có thể phân thân, hóa thân, vô lượng vô biên vô số vô tận, để làm gì? Đi đến các cõi Phật ở trong mười phương tiếp dẫn người nguyện sanh nước ấy, tiếp dẫn những chúng sanh này đến Thế giới Cực Lạc. Cho nên, sự thị hiện tiếp dẫn của A Di Đà Phật, số lần hóa thân trong mỗi giây đồng hồ, thì chúng ta đều không có cách nào tưởng tượng được. Đừng nói một phút, một giây đồng hồ, mà trong một niệm tế, ý niệm vi tế, Bồ-tát Di Lặc nói với chúng ta, sanh diệt trong A-lại-da có 32 ức trăm ngàn niệm, cũng chính là 320 ngàn tỷ. Một niệm, thời gian bao lâu? Cực kỳ ngắn ngủi, một búng tay có 32 ức trăm ngàn niệm, ý niệm vi tế như vậy, mỗi một ý niệm có một vị hóa Phật, phân thân của A Di Đà Phật, đến khắp pháp giới hư không giới tiếp dẫn chúng sanh. Lời thật trong kinh, lời khuyến khích như vậy quá nhiều quá nhiều rồi. Vãng sanh đến Thế giới Cực Lạc, đó là Phật Bồ-tát bảo đảm quý vị một đời thành tựu, không thể vãng sanh thì không có được bảo đảm. Nói cách khác, nếu nghiệp chướng nặng, thì khổ báo trong ba đường không có cách thoát khỏi. Khổ báo trong ba đường là thật khổ, không phải là giả đâu.

          Kinh văn tiếp theo, 往生果德“Vãng sanh quả đức” (Quả đức vãng sanh), đây không phải là tu trên nhân địa, mà là báo đức trên quả địa. Trong kinh nói với chúng ta ba sự việc, thứ nhất, 臨終佛現“lâm chung Phật hiện”(lâm chung Phật hiện), đây là quả đức của vãng sanh, lúc lâm chung A Di Đà Phật hiện thân, quý vị sẽ thấy Ngài đến tiếp dẫn quý vị vãng sanh. Thứ hai, 隨佛化生“tùy Phật hóa sanh”(theo Phật hóa sanh), Phật cầm hoa sen trên tay, hoa sen đó chính là do công đức niệm Phật của quý vị mà được thành tựu. Quý vị niệm Phật hiệu càng nhiều, thì hoa sen càng lớn, quang sắc càng đẹp. Công phu niệm Phật sâu hay cạn, liên quan đến hoa sen lớn hay nhỏ, và quang sắc của hoa sen. Điều tốt đẹp này, là điều đáng được truy cầu. Hãy buông xuống toàn bộ công danh phú quý của thế gian, vì sao vậy? Bởi không đem đi được, một món cũng không đem đi được, đó gọi là nghiệp chướng. Phải buông xuống nghiệp chướng, phải đề khởi Phật hiệu, mới có thể theo Phật hóa sanh, theo Phật đến Thế giới Cực Lạc, trong ao thất bảo hoa nở thấy Phật, là hóa sanh. Lúc hoa nở đó, thân tướng của quý vị giống với A Di Đà Phật, Thế giới Cực Lạc là thế giới bình đẳng. Điểm tốt thứ ba, cũng là quả đức, 「智德自在」「智慧勇猛,神通自在」Trí đức tự tại. Trí tuệ dũng mãnh, thần thông tự tại”(Trí đức tự tại. Trí huệ dũng mãnh, thần thông tự tại), quý vị xem 8 chữ đó. Trí huệ hiện tiền, trí huệ như thế nào? Trí huệ giống như Phật viên mãn hiện tiền, là đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh mà trong Phật giáo Trung Hoa nói, là trí huệ Bát-nhã trong Tự-tánh lưu lộ ra ngoài. Về thần thông, thần thông là từ trong Tự-tánh lưu lộ ra, từ trong tâm thanh tịnh bình đẳng hiện ra. Cho nên tâm chúng ta phải thanh tịnh, phải bình đẳng, thì có thể phát thần thông. Thanh tịnh bình đẳng cũng là Thiền-định, tâm thanh tịnh hiện tiền là A-la-hán, Bích-chi-Phật, có tiểu thần thông, tiểu thần thông vượt qua trời người trong sáu đường. Trời dục-giới, trời sắc-giới, trời vô-sắc-giới đều có thần thông, nhưng so với người vãng sanh Thế giới Cực Lạc thì kém xa rồi, không sánh được. Tâm bình đẳng hiện tiền là đại thần thông, là chỗ chứng đắc của Bồ-tát, thần thông rốt ráo viên mãn là chứng đắc trên quả địa Như Lai. Chúng ta xem kinh văn:

【此等眾生。臨壽終時。阿彌陀佛與諸聖眾。現在其前。】 “Thử đẳng chúng sanh. Lâm thọ chung thời. A Di Đà Phật dữ chư Thánh chúng. Hiện tại kỳ tiền”(Những chúng sanh ấy, khi mạng sắp hết, thì A Di Đà Phật cùng chư Thánh chúng hiện ra trước mặt). Kinh văn không khó hiểu, chúng ta xem chú giải của Niệm lão. 臨壽終時“Lâm thọ chung thời”(khi mạng sắp hết), thọ mạng chúng ta hết rồi, “A Di Đà Phật”, và những vị cùng đến tiếp dẫn với A Di Đà Phật, đó là與諸聖眾“dữ chư Thánh chúng”(cùng chư Thánh chúng), những người ấy là đời quá khứ, hay đời hiện tại đều có duyên với quý vị, quý ngài niệm Phật vãng sanh rồi, vãng sanh từ sớm, sớm hơn chúng ta, bây giờ chúng ta mới đi được, quý ngài và A Di Đà Phật đều đến tiếp dẫn. Vì vậy phải ghi nhớ, sanh đến Thế giới Cực Lạc, nơi đó sẽ không cô quạnh, sẽ không cô đơn, tại sao vậy? Vì người thân, bạn bè cùng đồng chí hướng của quý vị quá nhiều quá nhiều rồi, vô lượng kiếp đến nay kết thiện duyên ác duyên với chúng ta, cũng gặp được tất cả rồi. Ác duyên làm sao cũng ở bên đó? Bởi vì họ hối cải tu thiện, họ niệm Phật cũng thành công rồi, cũng đã đến Thế giới Cực Lạc. Cho nên đều đi theo A Di Đà Phật đến tiếp dẫn, đều thấy hết tất cả, tất cả đều vui mừng! Tâm oán hận đó hoàn toàn không còn nữa, đều hóa giải hết rồi. Đoạn kinh văn năm câu này, 此正第二十臨終接引願之成就,彌陀願海所惠“thử chánh đệ nhị thập lâm chung tiếp dẫn nguyện chi thành tựu, Di Đà nguyện hải sở huệ”(Đây chính là thành tựu của nguyện thứ 20: Lâm chung tiếp dẫn, là ân huệ của biển nguyện Di Đà), ân huệ này chính là ân huệ cho chúng ta, cho chúng ta điều gì? 真實之利也“Chân thật chi lợi dã”(Lợi ích chân thật), là lợi ích thực sự nhất, khiến cho chúng ta vĩnh viễn thoát khỏi sáu đường luân hồi, thoát khỏi mười pháp giới, vãng sanh đến Thế giới Cực Lạc gần gũi A Di Đà Phật.

          稱讚淨土經》云:是善男子,或善女人,臨命終時,無量壽佛,與其無量聲聞弟子,菩薩眾俱,前後圍繞,來住其前“Xưng Tán Tịnh Độ Kinh vân: Thị thiện nam tử, hoặc thiện nữ nhân, lâm mạng chung thời, Vô Lượng Thọ Phật, dữ kỳ vô lượng Thanh-văn đệ tử, Bồ-tát chúng câu, tiền hậu vi nhiễu, lai trụ kỳ tiền”(Kinh Xưng Tán Tịnh Độ nói: Thiện nam tử hoặc thiện nữ nhân ấy, lúc mạng sắp hết, Vô Lượng Thọ Phật với vô lượng đệ tử Thanh-văn của ngài, cùng chúng Bồ-tát, vây quanh bốn phía, đứng ở trước mặt). Đây là tình huống lúc bấy giờ, tình huống Phật đến tiếp dẫn, họ đã thấy được, họ nhìn thấy rồi, đi theo quý ngài rồi, không kịp nói chúng ta biết những sự việc này. Họ cũng nghĩ không cần thiết báo cho biết thêm nữa. Tại sao vậy? Vì trong kinh điển nói rất nhiều, Phật giới thiệu rồi, họ làm chứng minh cho chúng ta. Đặc biệt hiển thị, 慈悲加祐,令心不亂“từ bi gia hựu, linh tâm bất loạn”(Từ bi gia hộ, khiến tâm bất loạn), câu nói này cực kỳ quan trọng. Kinh Xưng Tán Tịnh Độ chính là Kinh A Di Đà do Đại sư Huyền Trang dịch. Kinh A Di Đà có hai bản dịch, hiện nay chúng ta lưu thông là bản do Đại sư Cưu Ma La Thập phiên dịch, Đại sư Huyền Trang vào đời Đường lại phiên dịch một lần nữa. Tại sao phải dịch lại nữa? Chính là 8 chữ này: 慈悲加祐,令心不亂“từ bi gia hựu, linh tâm bất loạn”(Từ bi gia hộ, khiến tâm bất loạn). Tám chữ này trong bản Đại sư La Thập phiên dịch không có, 8 chữ này vô cùng quan trọng. Vì sao quý vị có thể vãng sanh? Ngũ nghịch thập ác, lúc mạng sắp hết, mà một niệm, mười niệm đều được vãng sanh, nhờ vào điều gì? Nhờ vào A Di Đà Phật từ bi gia hộ, khiến tâm chúng ta không loạn, câu nói này quá quan trọng rồi! Chính chúng ta niệm Phật, mà chưa niệm đến nhất tâm bất loạn, không sao, không có vấn đề gì, đến lúc lâm chung A Di Đà Phật từ bi gia hộ, thì chúng ta được nhất tâm bất loạn. Câu nói này quan trọng, nếu chúng ta thật sự nghe hiểu, nghe tỏ tường rồi, sẽ tin tưởng, không hoài nghi nữa, thì lòng tin vãng sanh Thế giới Cực Lạc của chúng ta đầy đủ, không còn nghi ngờ nữa, công phu niệm Phật của chúng ta không đạt đến cấp bậc đó cũng không quan trọng, khi Phật gia trì bảo hộ, thì chúng ta đạt được rồi.

          Chúng ta xem tiếp kinh văn bên dưới, vẫn là kinh văn trong bản dịch của Đại sư Huyền Trang, 既捨命已,隨佛眾會“ký xả mạng dĩ, tùy Phật chúng hội”(Đã xả mạng rồi, liền theo Phật và hội chúng), xả mạng chính là chúng ta vãng sanh, thân thể này không cần nữa, thế giới này cũng không cần nữa, buông xuống tất cả, theo Phật đến Thế giới Cực Lạc, nhập vào đại hội bên đó. Quý vị nhập vào hội nào? Chúng hội rất là nhiều người, quý vị nhập hội nào? Nhập vào hội tương ưng với công phu niệm Phật của chính quý vị. Tuyệt đại đa số người là sanh Phàm-thánh-đồng-cư-độ. Thế giới Cực Lạc có bốn độ ba bậc chín phẩm, chính là chúng hội này. Chúng hội của A Di Đà Phật, bất luận là hội nào, quý vị đều nhìn thấy A Di Đà Phật đang làm chủ trì, giống như chúng ta hội họp ngày nay, A Di Đà Phật làm chủ tịch, quý vị đều nhìn thấy được Ngài, thật không thể nghĩ bàn. Chúng ta ở đây khó thấy được Phật, đến Thế giới Cực Lạc, bất luận ở đâu quý vị đều có thể thấy Phật, bất luận lúc nào mà quý vị có vấn đề, đều có thể đến trước Phật thỉnh giáo liền, Phật dạy cho quý vị ngay ở trong hội. Thù thắng hơn thế giới chúng ta đây quá nhiều rồi. Khoa học kỹ thuật ở thế giới chúng ta đây có phát triển hơn nữa, cũng không có cách nào đạt đến cảnh giới của Phật. Nơi như vậy không thể không đi, không đi thì sai lầm rồi. 生無量壽極樂世界清淨佛土“Sanh Vô Lượng Thọ Cực Lạc thế giới thanh tịnh Phật độ”(Sanh sang cõi Phật Vô Lượng Thọ Thế giới Cực Lạc thanh tịnh).

經中,慈悲加祐、令心不亂,是為淨宗之心髓。因佛力加被,行人心始不亂“Kinh trung, từ bi gia hựu, linh tâm bất loạn, thị vi Tịnhtông chi tâm tủy. Nhân Phật lực gia bị, hành nhân tâm thủy bất loạn”(Trong kinh: ‘từ bi gia hộ, khiến tâm bất loạn’, chính là tâm tủy của Tịnh-tông. Nhờ Phật lực gia bị, nên tâm hành nhân mới bắt đầu không loạn), tâm quý vị mới bắt đầu không loạn, là do được Phật gia bị. 於是十念相續,便得往生。故稱淨土為果教,是他力法門,是易行道,是普被萬類之慈航,均在是也“Ư thị thập niệm tương tục, tiện đắc vãng sanh. Cố xưng Tịnh-độ vi quả giáo, thị tha lực pháp môn, thị dị hành đạo, thị phổ bị vạn loại chi từ hàng, quân tại thị dã”(Do đó mà mười niệm liên tục, liền được vãng sanh. Nên xưng Tịnh-độ là quả giáo, là Pháp môn tha lực, là đường dễ đi, là thuyền từ độ khắp muôn loài, toàn ở điểm này vậy). Mấy câu nói này giúp cho chúng ta đoạn sạch nghi hoặc rồi. Người niệm Phật hiện nay, chúng ta hỏi một câu: quý vị có nắm chắc vãng sanh không? Hỏi một trăm người, thì trăm người đều lắc đầu; hỏi ngàn người, thì ngàn người đều lắc đầu: không có nắm chắc. Đọc được kinh văn này, thì dứt lòng nghi rồi, hỏi quý vị có nắm chắc hay không? Có. Sự chắc chắn này của quý vị từ đâu đến vậy? Lúc sắp mạng chung, A Di Đà Phật từ bi gia hộ, khiến tâm bất loạn, là dựa vào kinh văn này, kinh văn này chính là bằng chứng chúng ta vãng sanh. Giống như ngày nay chúng ta ra nước ngoài du lịch, lúc kiểm tra hộ chiếu ở hải quan, trên hộ chiếu có mấy câu này, có đoạn nói này, vậy thì nhất định qua cửa, không còn gì để nói, thuận lợi qua cửa.

    更顯此不可思議之他力“Cánh hiển thử bất khả tư nghị chi tha lực”(Đây càng hiển bày tha lực không thể nghĩ bàn), không phải dựa vào chính mình, toàn dựa vào A Di Đà Phật. Cảm ơn sự giới thiệu của Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, Ngài đem pháp môn này giới thiệu cho chúng ta, giảng rõ ràng như vậy, giảng tỏ tường như vậy cho chúng ta, để cho chúng ta đọc được đoạn kinh văn này, mới thực sự dứt hết lòng nghi ngờ. Nếu như không dứt nghi ngờ, thì nghi ngờ sẽ phát sinh chướng ngại, quả thật có rất nhiều người lúc lâm chung vì một niệm nghi ngờ mà không thể vãng sanh. Đại sư Huyền Trang từ bi, ngài biết trong bản phiên dịch của Đại sư La Thập đã sót câu này, chúng ta tin tưởng trong nguyên văn có câu này, trong kinh điển chữ Phạn có. Thế nhưng Phật thuyết Kinh Vô Lượng Thọ, đã giảng rất nhiều lần, không phải một lần, bản dịch ở Trung Hoa có 12 loại, rất đáng tiếc bảy loại trong đó đã thất truyền, ngày nay còn lưu lại năm loại. Trong chữ Tây Tạng, trong chữ Mông Cổ có lẽ có nhiều hơn chúng ta, giáo thọ Kim của Nội Mông nói cho tôi biết, trong Đại Tạng Kinh chữ Mông Cổ, Kinh Vô Lượng Thọ có mười mấy loại phiên bản không giống nhau. Tôi hy vọng họ có thể đem tất cả mười mấy loại này dịch sang chữ Hán, cho Tịnh-độ-tông chúng ta làm tham khảo. Chúng ta biết được càng nhiều, biết được càng tỉ mỉ, càng rõ ràng, thật sự giúp đỡ chúng ta đoạn nghi sanh tín, giúp đỡ chúng ta dứt nghi, kiên định nguyện vọng cầu vãng sanh, điểm này quan trọng hơn tất cả.

          Đại sư Ngẫu Ích nói đúng rồi, là lời nói chân thật, vãng sanh được hay không hoàn toàn ở có tín nguyện hay không, có tín có nguyện thì nhất định được sanh. Vãng sanh đến Thế giới Cực Lạc, phẩm vị cao thấp, đó là do công phu niệm Phật sâu hay cạn, đó là sự việc thứ hai, không phải việc đầu tiên, việc đầu tiên là phải được vãng sanh, thật sự đến được Thế giới Cực Lạc, đây là việc quan trọng nhất. Sau khi đến Thế giới Cực Lạc, thì chia chúng ta đến lớp nào để tu học không quan trọng, bất luận ở cấp lớp nào, sau cùng đều chứng được Phật quả rốt ráo viên mãn, như vậy tốt! Vì vậy, không cần phải tranh với người việc này, người niệm Phật thật sự làm được ‘không tranh với người, không cầu ở đời’. Chúng ta học Đại sư Liên Trì, Đại sư Ngẫu Ích, vãng sanh đến Thế giới Cực Lạc, phẩm vị ra thế nào thì chúng ta mới hài lòng? Đại sư Ngẫu Ích nói: hạ-hạ-phẩm vãng sanh Phàm-thánh-đồng-cư-độ thì tôi hài lòng rồi. Chúng ta phải học tập điều này, chúng ta triệt để buông xuống. Chúng ta đến Thế giới Cực Lạc, từ lớp nhỏ, học từ lớp nhỏ bé, thầy hướng dẫn là A Di Đà Phật, A Di Đà Phật đích thân đến giảng dạy, chúng ta học từ nơi căn bản nhất, tốt! Có rất nhiều người là chen ngang vào lớp, không phải không có, chúng ta tán thán tùy hỷ những người ấy, chúng ta không nên học theo họ. Tại sao vậy? Họ có khả năng chen ngang lớp, nếu chúng ta học họ, chen ngang mà không được, thì đánh mất cơ hội rồi, ngay cả năm thứ nhất lớp thấp bé cũng không kiếm được, thiệt thòi này là quá lớn rồi. Cho nên chúng ta phải thật tỉnh táo, phải làm rõ ràng, làm sáng tỏ, nguyện vọng của chúng ta thấp nhất, đi vào từ năm thứ nhất của tiểu học, là đáng tin cậy. Quả đức thứ hai là: ‘Theo Phật hóa sanh’. Mời xem kinh văn:

          【經須臾間。即隨彼佛往生其國。便於七寶華中自然化生。】 “Kinh tu du gian. Tức tùy bỉ Phật vãng sanh kỳ quốc. Tiện ư thất bảo hoa trung tự nhiên hóa sanh”(Trong một khoảnh khắc, thì theo đức Phật ấy vãng sanh cõi đó, liền tự nhiên hóa sanh trong hoa thất bảo). Quý vị thấy thù thắng biết bao. Chúng ta xem chú giải, 『七寶華中,自然化生』,「此云自然化生者,表非胎卵濕化四生中之化生“thất bảo hoa trung, tự nhiên hóa sanh, thử vân tự nhiên hóa sanh giả, biểu phi thai noãn thấp hóa tứ sanh trung chi hóa sanh”(Tự nhiên hóa sanh trong hoa thất bảo. Tự nhiên hóa sanh nói ở đây, tỏ rõ không phải là hóa sanh trong tứ sanh: thai, noãn, thấp, hóa). Với thế giới chúng ta, chúng ta nói động vật hoặc nói sinh vật, sanh ra ở thế giới này, chúng được sanh ra thế nào? Có thai sanh, có noãn sanh, có thấp sanh, có hóa sanh, trong thế giới này có bốn loại đó. Thế nhưng hóa sanh của Thế giới Cực Lạc không giống với thế giới chúng ta đây, thế giới chúng ta hóa sanh phải đầy đủ điều kiện, điều kiện của chúng không đầy đủ, chúng không thể hóa sanh. Nói cách khác, đầy đủ điều kiện thì không phải tự nhiên, không phải tự nhiên thì như thế nào? Dùng ngôn ngữ nhà Phật để nói: do nghiệp lực, không rời khỏi nghiệp lực. Còn tự nhiên hóa sanh thì không có nghiệp lực, nghiệp của họ lúc đó đều tiêu hết rồi. Khi nào tiêu hết nghiệp? Là ở trong khoảnh khắc đó. Khoảnh khắc là thời gian rất ngắn, là từ nơi này của chúng ta, họ rời khỏi con người thế gian, buông xuống sáu đường luân hồi, buông xuống mười pháp giới, ngồi trong hoa sen, A Di Đà Phật mang hoa sen này đến Thế giới Cực Lạc, đặt vào trong ao Thất Bảo. Trải qua khoảng thời gian không phải rất lâu, hoa nở thấy Phật, nghiệp chướng của họ tiêu mất hết. Nếu nghiệp chướng chưa tiêu hết thì hoa của họ chưa nở, hoa nở thấy Phật là nghiệp tiêu rồi, tất cả những tội nghiệp tạo tác từ vô thỉ kiếp đến nay không còn nữa, bất luận là nghiệp ác, nghiệp thiện đều tiêu hết. Nghiệp ác không tiêu không ra khỏi ba đường ác, nghiệp thiện không tiêu không ra khỏi ba đường thiện, tất cả nghiệp thiện ác đều phải tiêu trừ, đều phải tiêu sạch sẽ. Đây là ở hoa sen, quý vị ở trong hoa sen thời gian này không lâu, trong khoảnh khắc, từ thế giới chúng ta đây đến Thế giới Cực Lạc, đã vượt qua 10 vạn ức cõi nước Phật, hoa nở thấy Phật.

          Chúng ta lại xem tiếp theo là Niệm lão trích dẫn kinh văn của Kinh Pháp Hoa, 如《法華文句》云:《胎經》云“Như Pháp Hoa Văn Cú vân: Thai Kinh vân”(Như sách Pháp Hoa Văn Cú ghi: Thai Kinh nói:), Thai Kinh là do Phật nói, trong sách Văn Cú dẫn đoạn này, 蓮華生者,非胎卵濕化之化生也“Liên hoa sanh giả, phi thai noãn thấp hóa chi hóa sanh dã”(Liên hoa hóa sanh, chẳng phải là hóa sanh trong thai noãn thấp hóa vậy), không phải là hóa sanh mà thế gian chúng ta nói, hóa sanh mà chúng ta nói là đầy đủ điều kiện, Thế giới Cực Lạc không phải vậy, là tự nhiên hóa sanh, thêm phía trước chữ ‘tự nhiên’. Các cõi nước Phật đều là tự nhiên hóa sanh, vì sao vậy? Tất cả cõi nước chư Phật đều phải tiêu nghiệp mới được vãng sanh, không có đới nghiệp, chỉ có Thế giới Cực Lạc là đới nghiệp thôi, A Di Đà Phật giúp quý vị tiêu nghiệp. Toàn dựa vào Phật, không nhờ Phật không được, không nhờ Phật thì không thể vãng sanh. Phải nhờ vào định, ngày ngày niệm Phật chính là ngày ngày nương vào Phật, một niệm sai rồi, vọng tưởng khởi, thì ý niệm đó rời xa A Di Đà Phật rồi, vì vậy Phật hiệu câu này nối tiếp câu kia là nương vào định. Giống như Đại đức từ xưa đến nay, ngoài việc ăn cơm ngủ nghỉ, là không đề khởi Phật hiệu, Phật hiệu dừng lại; ăn xong rồi, tỉnh dậy rồi, lập tức tiếp tục Phật hiệu. Điều này cũng có thể nói là tịnh niệm tương kế, cầu sanh Tịnh-độ.

          Ngay cả ăn cơm ngủ nghỉ cũng không dừng Phật hiệu, đó là người công phu thành phiến mới có thể làm được, người sơ học chúng ta không làm được. Người công phu thành phiến làm được, đây là bước đầu, giai đoạn đầu thành tựu công phu niệm Phật, thành tựu ở giai đoạn này, thì A Di Đà Phật sẽ đến báo tin tức cho quý vị, hoặc là báo mộng cho quý vị, trong mơ thấy Phật, hoặc là nhập định, quý vị thấy Phật trong định. Quý vị đang niệm Phật, niệm mệt rồi, xếp bằng tĩnh tọa, trong miệng không có niệm, mắt cũng nhắm lại, nhưng Phật hiệu không dừng, trong tâm không ngừng Phật hiệu, lúc này công phu thật thành thục rồi, A Di Đà Phật sẽ hiện tiền, sẽ đến nói quý vị biết, thọ mạng của quý vị còn bao nhiêu năm. Giống như Pháp sư Oánh Kha ngày trước, Phật nói thầy ấy biết, thọ mạng của thầy còn 10 năm, sau 10 năm thọ mạng hết rồi, Phật sẽ đến đón thầy. Ngài Oánh Kha bỗng nhiên thông minh, đây là người xuất gia mà không ác nào không làm, không giữ thanh quy, không trì giới luật, đã tạo ác nghiệp rất sâu dày. Ngài có một điểm tốt lớn nhất, là ngài tin nhân quả báo ứng, xem qua giới luật, suy xét khởi tâm động niệm, ngôn ngữ hành động của chính mình, tự xác định cho chính mình, nhất định đọa địa ngục Vô Gián. Nghĩ đến địa ngục Vô Gián ngài liền sợ, cho nên ngài thỉnh giáo trong nhóm người đồng học, có cách nào cứu được ngài hay không? Thì có một bạn đồng học tặng ngài một quyển Vãng Sanh Truyện để ngài xem, sách này có thể cứu thầy. Sau khi ngài đã đọc Vãng Sanh Truyện, thì phát tâm cầu sanh Tịnh-độ, đã niệm Phật ba ngày ba đêm, không ngủ không nghỉ, niệm đến mệt mỏi rã rời, ba ngày không ăn cơm, ba ngày không ngủ nghỉ, dốc sức liều mạng! Thành tắc linh, chí thành cảm thông, cảm ứng A Di Đà Phật hiện đến, nói cho ngài biết chân tướng sự thật. Ngài Oánh Kha nói: con không cần 10 năm thọ mạng nữa, con đi theo Ngài bây giờ. Tại sao vậy? Nếu con sống thêm 10 năm nữa, thì tánh xấu của con rất nặng, không chịu được những cám dỗ của ngoại cảnh, không biết lại làm bao nhiêu tội nghiệp, nên con đi theo Ngài bây giờ. Phật đồng ý với ngài, ba ngày sau đến tiếp dẫn, quả nhiên ngày thứ ba thì ngài thật sự đi rồi. Chứng minh cho chúng ta: Phật không vọng ngữ, chứng minh cho chúng ta thật có A Di Đà Phật, thật có Thế giới Cực Lạc, thật có lục đạo luân hồi, thật có quả báo địa ngục, cũng là hiện thân thuyết pháp cho chúng ta thấy. Cho nên cõi nước chư Phật không mang nghiệp, không mang nghiệp là thuộc về tự nhiên hóa sanh. Mấy lời này ở trong Thai Kinh.

          Chúng ta lại xem tiếp, 又亦非《涅槃經》所謂之濕生。彼經云:庵羅樹女等,因樹華而生,名為濕生“Hựu diệc phi Niết Bàn Kinh sở vị chi thấp sanh. Bỉ kinh vân: Am La Thọ nữ đẳng, nhân thọ hoa nhi sanh, danh vi thấp sanh”(Lại cũng chẳng phải thấp sanh được nói trong Kinh Niết Bàn. Kinh ấy nói: cô gái như Am La Thọ vân vân, dựa vào hoa cây mà sanh, cũng gọi là thấp sanh), ẩm thấp. Những loại nào? Đó là những thần cây, bởi vì hoa của cây, hoa có độ ẩm, độ ẩm rất cao, họ do đó mà sanh ra, chính là trong thai noãn thấp hóa, phía trước Thai Kinh nói là hóa sanh, chỗ này nói là thấp sanh. 蓋穢土草木常有濕氣,庵羅樹女等托此濕氣而生,乃名濕生。今淨土中,蓮華與人俱是同時而有,自然化現,不藉濕氣,故亦非濕生也“Cái uế độ thảo mộc thường hữu thấp khí, Am la thọ nữ đẳng thác thử thấp khí nhi sanh, nãi danh thấp sanh. Kim Tịnh-độ trung, liên hoa dữ nhân câu thị đồng thời nhi hữu, tự nhiên hóa hiện, bất tạ thấp khí, cố diệc phi thấp sanh giả”(Bởi vì trong uế độ, hoa cây thường có độ ẩm, cô gái như Am La Thọ vân vân dựa vào độ ẩm đó mà sanh, chính là thấp sanh. Còn trong Tịnh-độ, hoa sen và người đồng thời mà có, tự nhiên hóa hiện, không dựa vào độ ẩm, nên chẳng phải là thấp sanh). Đây là người vãng sanh đến Thế giới Cực Lạc, họ không thuộc về thấp sanh, không thuộc hóa sanh. Ở đây đã giải thích rõ ràng cả thai sanh, noãn sanh, thấp sanh, hóa sanh rồi.

          Tự nhiên hóa sanh, tự nhiên hóa sanh tốt! Trong Tự-tánh không có chướng ngại, Tánh-đức của họ sẽ hiện tiền, tương tự với người đã khai ngộ. Đại triệt đại ngộ trong Tông-môn, giống như Đại sư Huệ Năng, khi Đại sư Huệ Năng còn ở đời, số đệ tử mà ngài dạy bảo rất nhiều, trong số đệ tử có hơn 40 người đạt được cảnh giới đại triệt đại ngộ, cũng chính là ngang bằng cảnh giới với Đại sư Huệ Năng. Ngũ tổ Hòa thượng Hoằng Nhẫn, cả đời chỉ truyền được một người, là Đại sư Huệ Năng, ngài được truyền y bát. Bấy giờ Đại sư Huệ Năng độ hơn 40 người, y bát đó làm sao truyền? Vì thế không truyền y bát nữa, mà truyền pháp, không truyền y bát. Hơn 40 người ấy đều là đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh, là một thời cực hưng thịnh của Thiền-tông. Từ Ấn Độ đã truyền 28 đời đều là đơn truyền, đến Trung Hoa, đời thứ 28 là Tổ sư Đạt Ma, là sơ Tổ ở Trung Hoa, lại đơn truyền được sáu đời, đến đời thứ sáu, không ngờ rằng dưới hội của Đại sư Huệ Năng, người đại triệt đại ngộ nhiều như vậy. Cho nên dưới hội của ngài lại chia thành năm tông, là tông phái nhỏ, phương pháp mà các vị ấy dùng không giống nhau, đều có thể đạt đến viên mãn rốt ráo, Phật pháp ở Trung Hoa là hết sức thù thắng. Trí huệ khai mở rồi, thì thần thông hiện tiền.

【智慧勇猛。神通自在。】『智慧勇猛』,「謂智慧明了銳利,能破煩惱憍慢賊軍,故云勇猛“Trí huệ dũng mãnh, thần thông tự tại. Trí huệ dũng mãnh, vị trí huệ minh liễu nhuệ lợi, năng phá phiền não kiêu mạn tặc quân, cố vân dũng mãnh”(Trí huệ dũng mãnh, thần thông tự tại. Trí huệ dũng mãnh, là trí huệ sáng suốt nhạy bén, phá được quân giặc phiền não kiêu mạn, nên gọi là dũng mãnh). Mặt trái của trí huệ chính là phiền não, dùng kiêu mạn làm đại biểu cho phiền não. Kiêu là kiêu ngạo, mạn là tự đại, đem nó ví dụ là quân giặc, dùng trí huệ để chiếu phá được. 如《智度論》云:智慧箭勁利,破憍慢諸賊“Như Trí Độ Luận vân: Trí huệ tiễn kính lợi, phá kiêu mạn chư tặc” (Như Luận Trí Độ nói: Trí huệ là mũi tên cứng sắc bén, phá được các giặc kiêu mạn), đây là hai câu nói trong Đại Trí Độ Luận. Lại dẫn Kinh Duy Ma nói: 以智慧劍,破煩惱賊“Dĩ trí huệ kiếm, phá phiền não tặc”(Dùng kiếm trí huệ, phá giặc phiền não), đều là dùng tỷ dụ. 又《心地觀經》云:法寶猶如智慧利劍,割斷生死,離繫縛故 “Hựu Tâm Địa Quán Kinh vân: Pháp bảo do như trí huệ lợi kiếm, cát đoạn sanh tử, ly hệ phược cố”(Kinh Tâm Địa Quán cũng nói: Pháp bảo giống như thanh kiếm trí huệ sắc bén, nên cắt đứt được sanh tử, lìa khỏi hệ phược). Hệ phược là danh từ thay thế của phiền não, phiền não ví như dây thừng, đã trói buộc quý vị lại, khiến quý vị không thể động đậy, mất đi tự do. Đó là giải thích cho câu đầu tiên.

          Tiếp theo, “thần thông tự tại”, 神通無礙也。如經云能於掌中持一切世界等也“Thần thông vô ngại dã. Như kinh vân năng ư chưởng trung trì nhất thiết thế giới đẳng dã”(là thần thông vô ngại, như trong kinh nói: có thể nắm tất cả thế giới trong bàn tay). Những điều này đều thuộc về thị hiện thần thông, sự việc này là thật chứ không phải giả. Bàn tay, trong lòng bàn tay, trong bàn tay là gì? Không phải một địa cầu này, một thế giới là nói khu vực giáo hóa của một vị Phật, trong kinh nói là tam thiên đại thiên thế giới. Trong bàn tay này có thể nắm được gì? Nắm được vô lượng chư Phật, tất cả đại thiên thế giới của chư Phật đều ở trong bàn tay của Như Lai. Ai có thể làm được? Chư Phật Như Lai chứng được quả vị rốt ráo, quý Ngài làm được. Trong câu nói này còn có ý nghĩa rất sâu, đó ý nghĩa là gì? Nói chúng ta biết, chúng ta phải lãnh hội được. Tất cả thế giới từ đâu mà đến? Đại sư Huệ Năng đã nói ra đáp án, ngài ở trước mặt ngũ Tổ, ngài đã minh tâm kiến tánh, tánh là dạng gì, ngài đã nói năm câu, 20 chữ đã giải quyết hết toàn bộ vấn đề này rồi. Ngũ Tổ vừa nghe, thật khai ngộ rồi, liền trao y bát cho ngài, không giảng Kinh Kim Cang nữa, vì ngài thông hết rồi. Câu nói sau cùng của ngài là: “Nào ngờ Tự-tánh, có thể sanh vạn pháp”, câu nói này quan trọng, câu nói này đã giải quyết tất cả vấn đề của thế gian rồi. Thế gian chúng ta đây, tất cả vạn vật trên địa cầu này, bao gồm con người đang cư ngụ trên địa cầu, từ đâu mà đến? Rốt cuộc là quay về sự việc gì? Đại sư Huệ Năng đã thấy được rồi, làm rõ ràng, làm sáng tỏ rồi, là do Tự-tánh của chúng ta biến hiện ra. Tự-tánh là gì? Là chân-tâm, chân-tâm của chúng ta, tâm chân thành đã biến hiện ra. Trọn cả vũ trụ, tất cả pháp, tất cả thế giới, có quan hệ gì với chúng ta? Là một thể. Cho nên trong Thiền tông có một câu nói, 識得一,萬事畢“thức đắc nhất, vạn sự tất”(biết được một, xong vạn sự). Nếu quý vị thực sự nhận biết được một điều này, nhận thức được rồi, vốn tất cả là do chính tâm chúng ta biến hiện ra, trọn cả vũ trụ đã giải quyết, vấn đề gì cũng được giải quyết, không có vấn đề nữa.

          Dạy học của Phật pháp, tâm của chúng ta ngày nay, tâm chúng sanh là tất cả tâm, vọng niệm tạp niệm vô lượng vô biên, đều là do một tâm đó mà biến hiện ra. Cho nên việc dạy bảo của Phật, sau cùng đều dạy chúng ta quy nhất, quy nhất thì giải quyết vấn đề rồi. Chúng ta đến Thế giới Cực Lạc, đến Thế giới Cực lạc cuối cùng quy nhất, nhất đó là gì? Nhất đó là Thường-tịch-quang-độ, trong đó thứ gì cũng không có, là ánh sáng chiếu khắp, không có thời gian, không có không gian. Thời gian không gian đều là giả, không phải là thật. Trong chân-tâm không có thời gian, không có không gian, không có vật chất, cũng không có ý niệm. Nhà khoa học nói, vật chất là từ ý niệm mà sản sinh ra. Phật nói với chúng ta, đến chung cuộc thì vật chất không còn nữa, ý niệm không còn nữa, tất cả hiện tượng tự nhiên cũng không còn nữa, chính là tịch-quang, quay về Thường-tịch-quang. Thường-tịch-quang là Pháp-thân của Phật, Pháp-thân của chúng ta cũng là Thường-tịch-quang, cùng là một thân, cùng là một thể, chúng ta còn hại người được hay sao? Dù là một con muỗi con kiến, chúng cũng là do Tự-tánh của chúng ta sanh ra biến ra, nếu giết chúng thế không phải là giết Tự-tánh của chính mình hay sao? Đạo lý này sâu, sâu vô hạn, rộng vô biên, sâu rộng vô lượng vô biên.

          Phật pháp cầu minh tâm kiến tánh, kiến tánh thành Phật. Nếu chúng ta biết dụng công, bất luận cách thức nào, công phu đều nói là cầu không bị quấy nhiễu. Tự-tánh không bị bất kỳ quấy nhiễu nào, cho nên nó mãi mãi là thanh tịnh. Câu nói đầu tiên của Đại sư Huệ Năng là: ‘Nào ngờ Tự-tánh, vốn tự thanh tịnh’; vả lại nó không sanh không diệt, nó không có sanh diệt, nó là vĩnh hằng, không sanh không diệt; nó là đầy đủ vạn hữu, nó là cái gì? ‘Có thể sanh vạn pháp’, nếu nó không đầy đủ vạn pháp, thì làm sao nó có thể sanh pháp? Nên nó đầy đủ vạn pháp. Vô lượng vô biên cõi nước chư Phật Như Lai không rời Tự-tánh, không rời Pháp-thân, nó chính là Pháp-thân. Điều gọi là Pháp-thân, chính là bản thể nói trong triết học, nó là bản thể của vũ trụ vạn hữu, nó có thể sanh, có thể hiện. Vũ trụ không phải là thật có, là giả có, gặp được duyên thì nó sanh, là được sanh, không có duyên nó không hiện, không hiện không thể nói nó không có, hiện rồi không thể nói nó có. Phải từ từ lắng tâm để thể hội, đây là cảnh giới của Pháp-thân Bồ-tát, người đại triệt đại ngộ và Phật Đà.

          Học Phật chính là phải nâng lên cao, càng lên cao càng có vị đạo, vị đạo đây là gì? Là pháp vị. Pháp vị là vị gì? Không phải chua ngọt đắng cay mặn nhạt, không phải vậy! Là chúng ta không có cách nào tưởng tượng được. Chỗ này nếu dùng miêu tả để nói với chư vị chính là pháp hỷ sung mãn, câu đầu tiên Khổng tử nói là: ‘không gì vui bằng’, niềm vui sướng! Từ trong nội tâm, chính là từ trong Tự-tánh, Tánh-đức trong Tự-tánh, đức đầu tiên chính là tâm hoan hỷ, chính là tâm từ bi. Cho nên công phu của quý vị đến trình độ nào, thì có thể nhìn thấy từ trên từ bi của quý vị, từ bi của quý vị đến đẳng cấp nào, thì công phu của quý vị đến đẳng cấp đó. Từ bi của Phật là bình đẳng, từ bi của Bồ-tát không bình đẳng, có chia cấp bậc, A-la-hán lại thấp một cấp, trời người không bằng A-la-hán, trời dục-giới không bằng trời sắc-giới, sáu đường luân hồi chúng ta không bằng trời dục-giới, rất nhiều đẳng cấp. Cho nên pháp hỷ sung mãn, mỗi một đẳng cấp không giống nhau. Bồ-tát có 52 đẳng cấp. Nguyện vọng lớn nhất của người tu hành là gì? Không ngừng nâng lên cao, trong đây thực sự có lên có xuống. Đến khi chỉ có nâng lên cao không hạ xuống nữa, đó là Đăng-địa Bồ-tát được nói trong Kinh Hoa Nghiêm, Địa-thượng Bồ-tát, chỉ có nâng cao không có hạ xuống. Đó là nắm tất cả thế giới trong bàn tay.

          Chúng ta lại xem tiếp theo, 又《觀經》中詳明上輩之三品“Hựu Quán Kinh trung tường minh thượng bối chi tam phẩm”(Trong Quán Kinh đã nói rõ ba phẩm của bậc thượng). Tiếp theo là trích lục Nghĩa Sớ của ngài Gia Tường, là chú giải do Đại sư Gia Tường làm, chú giải của Kinh Quán Vô Lượng Thọ, 「第一謂上品上生。發菩提心,修行經七日,則生彼國。見彼佛身,聞說妙法,則悟無生法忍。當知此是七地無生也Đệ nhất v thượngphẩm thượngsanh. Phát Bđề tâm, tu hành kinh thất nhật, tắc sanh bỉ quốc. Kiến bỉ Phật thân, văn thuyết diệu pháp, tắc ngộ vô-sanh pháp-nhẫn. Đương tri thử thị thất địa vô-sanh dã”(Thứ nhất là thượng-phẩm thượng-sanh, là phát tâm Bồ-đề, tu hành qua bảy ngày, thì sanh nước ấy, thấy thân đức Phật ấy, nghe thuyết diệu pháp, liền ngộ vô-sanh pháp-nhẫn. Nên biết đó là vô-sanh của bậc thất-địa), đây là từ thất-địa trở lên. Thượng phẩm thượng sanh, phát Bồ-đề tâm, tu hành bao lâu? Bảy ngày, thì họ sanh đến Thế giới Cực Lạc rồi. Hoa nở thấy Phật, thấy Phật nghe thuyết diệu pháp, họ liền ngộ vô-sanh pháp-nhẫn, là chứng đắc vô-sanh pháp-nhẫn, đó là người thượng-phẩm thượng-sanh. Nên biết đây là vô-sanh của thất-địa, phẩm vị tối cao như vậy. Chúng ta tin được hay không? Trong đây phải ghi nhớ: có phát tâm Bồ-đề, có tu hành qua bảy ngày, nghe Phật thuyết pháp thì chứng vô-sanh pháp-nhẫn. Phật thuyết pháp gì? Phật không có định pháp để thuyết, Phật nói pháp chính là khế cơ với quý vị, chỗ mấu chốt mà quý vị chưa thể thông đạt, còn chướng ngại, Phật vừa nói thì khiến quý vị mở gút được, hốt nhiên đại ngộ. Phải công phu thường ngày, công phu thường ngày là gì? Đại sư Chương Gia nói với tôi, tất cả công phu chỉ cần bốn chữ thì bao gồm cả rồi, ‘nhìn thấu, buông xuống’ là bao gồm toàn bộ rồi. Nói cách khác, có chướng ngại sinh ra, thì nếu không phải là chưa buông xuống, thì là chưa nhìn thấu. Nhìn thấu là trí huệ, buông xuống là công phu. Buông xuống tương ưng với Tánh-đức, nhìn thấu tương ưng với Tự-tánh Bát-nhã. Tự-tánh vô lượng trí huệ, vô lượng công đức. Buông xuống có thể tương ưng với vô lượng công đức. Nhìn thấu có thể tương ưng với vô lượng trí huệ.

          Trong Đại-thừa giáo, thì điều quan trọng nhất là dạy chúng ta biết ‘không’, biết ‘có’, thế nào là ‘không’, thế nào là ‘có’, đây là trí huệ. ‘Không’, ý nghĩa rất sâu, chúng ta không có phương pháp, cái ‘không’ mà chúng ta nhận thức là: ‘tất cả đều không có’ gọi là ‘không’, không phải vậy! Vậy là hoàn toàn sai rồi. ‘Không’ mà chẳng không, ‘có’ mà chẳng có, điều này thì khó rồi, ngay cả ‘không’ và ‘có’ đều chẳng có, điều này khó hiểu nữa! Nói ‘không’ nói ‘có’ thì quý vị có khái niệm, khái niệm này cũng không có, hoàn toàn không có khái niệm của ‘không’ và ‘có’, thì quý vị mới nhập vào được Tự-tánh. ‘Không’ là thể, ‘có’ là dụng, từ thể khởi dụng, nếu quý vị chấp trước có cái ‘không’, thì sai rồi! Làm sao quý vị có khái niệm ‘không’? Bởi không có khái niệm của văn tự, không có khái niệm của ngôn ngữ. Nghe kinh phải biết nghe, biết nghe là thế nào? Là không dính tướng ngôn ngữ. Chúng ta nên nghe thế nào? Nghe nghĩa lý hàm chứa trong ngôn ngữ, nghe điều này. Sự nghe của người thông thường, là nghe những điều đã giải thích trong ngôn ngữ của quý vị, không liên quan chút nào với Tánh-đức. Cho nên người biết nghe, người biết xem, xem kinh, người biết xem không dính tướng văn tự; nghe kinh, người biết nghe không dính tướng của âm thanh ngôn ngữ. Không dính tướng, phải công phu từ đâu? Công phu ở trong cuộc sống hàng ngày, mắt thấy sắc, tất cả sắc pháp này không chướng ngại quý vị, không quấy nhiễu quý vị. Chúng ta thấy sắc thì động tâm, động tâm là mê rồi, khởi tâm động niệm vậy thì mê rồi, sau khi mê rồi thì có: tôi yêu, tôi sân hận, tôi thích, tôi không thích; sâu thêm một chút là: tôi muốn chiếm hữu, tôi không muốn chiếm hữu, tất cả tạp niệm đều xuất hiện. Đây là gì? Gọi là nghiệp chướng, đó là tạo nghiệp.

          Chư vị phải hiểu rằng, khởi tâm động niệm liền tạo nghiệp, sát đạo dâm vọng, những hành vi không thiện này bắt đầu từ khởi tâm động niệm. Cho nên khởi tâm động niệm, là ý đã tạo nghiệp; ngôn ngữ phát ra, là khẩu tạo nghiệp rồi; động tác của thân thể, là thân tạo nghiệp rồi. Ý tạo nghiệp đầu tiên, khẩu, thân, từng chút từng chút, mà chính chúng ta hoàn toàn không thể phát giác. Nghiệp thiện cảm ba đường thiện, nghiệp ác cảm ba đường ác, đến khi nào quả báo hiện tiền? Khi thọ mạng hết rồi. Thọ mạng hết rồi, người cả đời làm thiện, thì người cõi trời đến đón quý vị, đi đến cõi trời. Trở lại cõi người thì đi đầu thai, tìm được cha mẹ của quý vị, cha mẹ đều là người có duyên, không có duyên với quý vị thì quý vị sẽ không tìm họ. Duyên này có bốn loại: báo ân, báo oán, đòi nợ, trả nợ. Không có bốn loại duyên này, sẽ không trở thành người một nhà. Nên phải nhận thức được người trong một nhà, phải làm sao ứng xử quan hệ cho tốt, biến quan hệ trong quá khứ không tốt trở thành quan hệ tốt, đó gọi là tu thân, tu thân sau đó mới có thể tề gia, tề gia mới có thể trị quốc.

          Nói tóm lại, điều đáng quý nhất là đem trí huệ trong Tự-tánh, đức hạnh trong Tự-tánh dẫn phát ra, dẫn ra từng chút một, thì quý vị cảm thấy rằng vô cùng vui vẻ, đó gọi là không gì vui bằng, pháp hỷ sung mãn, thật dẫn ra rồi. Niềm vui này không có cách gì hình dung được, chỉ có quý vị đã nhập cảnh giới này, thì quý vị mới thể hội được; quý vị chưa nhập cảnh giới đó, thì quý vị không cách nào hình dung, không thể hội được. Điều này là thật, không phải giả. Phật dạy cho chúng ta những điều này, Nho dạy cho chúng ta những điều này, Đạo dạy cho chúng ta những điều này. Cho nên với ba nhà Nho Thích Đạo ấy: Khổng tử, Lão tử, Thích Ca Mâu Ni Phật, cách nhìn của tôi với quý ngài là như nhau. Nếu ở Ấn Độ, người ta nhìn thấy Lão tử, Khổng tử, thì sẽ gọi quý ngài là đức Phật; nếu Thích Ca Mâu Ni Phật sanh ở Trung Hoa, thì chúng ta gọi Ngài là Thánh nhân. Danh xưng không giống nhau, nhưng quý ngài là người cùng một đẳng cấp, lời quý ngài nói ra là lời nói cùng một đẳng cấp. Chúng ta khế nhập một chút, từ từ thì thể hội được là một chứ không phải là hai.

     Chúng ta lại xem tiếp điều thứ hai, 第二,上品中生。不必讀誦大乘經。但善解義理,深信因果,不謗大乘Đệ nhị, thượngphẩm trungsanh. Bất tất độc tụng Đạithừa kinh. Đãn thiện giải nghĩa lý, thâm tín nhân quả, bất báng Đại-thừa”(Thứ hai, thượng-phẩm trung-sanh, thì không cần đọc tụng kinh Đại-thừa, nhưng khéo giải nghĩa lý, tin sâu nhân quả, không phỉ báng Đại-thừa). Những điều kiện này, ở đây thấp hơn một cấp so với bên trên. Hay người thông thường chúng ta nói là thiên phú không giống nhau, quý vị đến nơi này để được thân người, để sanh ra, thì thượng thiên phú cho quý vị căn tánh không giống nhau. Người thượng căn hiếm có, họ nghe pháp liền khai ngộ. Người bậc trung không cần học tập kinh điển Đại-thừa, thế nhưng câu tiếp theo rất quan trọng, “khéo giải nghĩa lý”, đây là nói người đó rất thông minh, thiên phú rất cao, tuy họ không có học qua, nhưng quý vị nói thì họ nghe hiểu được, hơn nữa họ có thể lý giải, họ có độ sâu, loại người này dễ dạy. Còn có hai sự việc, đó là đức hạnh, điều thứ nhất là tin sâu nhân quả, thứ hai là không phỉ báng Đại-thừa. Nếu như không tin nhân quả, hủy báng Đại-thừa, thì người này lạc vào ma đạo rồi; họ cũng có thể sanh thiên, trên trời thuộc về A-tu-la, La-sát, thuộc về loại này. Chúng ta thường nói họ có trí huệ, họ có biện tài, họ có phước báo, nhưng sai ở chỗ họ không tin nhân quả, hủy báng Đại-thừa.

          此功德願生彼國“Thử công đức nguyện sanh bỉ quốc”(Đem công đức này nguyện sanh nước ấy), họ có những công đức này, không phỉ báng Đại-thừa là đức; tin sâu nhân quả, khéo giải nghĩa lý là trí huệ, đem công đức này nguyện sanh nước kia, gặp được thiện duyên, người khác khuyên họ tín nguyện trì danh, cầu sanh Thế giới Cực Lạc, họ có thể tiếp nhận, họ có thể tin tưởng, họ chịu niệm Phật, 即得往生彼國七寶池中大蓮華中“tức đắc vãng sanh bỉ quốc thất bảo trì trung đại liên hoa trung”(liền được vãng sanh trong hoa sen lớn ở ao Thất Bảo nơi cõi nước ấy). Rất thù thắng, không phải không thù thắng, trong hoa sen lớn, hoa sen của họ rất lớn. 經一宿則開“Kinh nhất túc tắc khai”(trải qua một đêm thì hoa nở), hoa nở rất nhanh, một đêm thì nở rồi. Sau đó經一小劫,得無生法忍。此亦是七地無生。前上品見佛聞法,則得無生。今中品經一小劫得無生也“kinh nhất tiểu kiếp, đắc vôsanh phápnhẫn. Thử diệc thị thất địa vôsanh. Tiền thượng-phẩm kiến Phật văn pháp, tắc đắc vô-sanh. Kim trung-phẩm kinh nhất tiểu kiếp đắc vô-sanh dã”(trải qua một tiểu kiếp, chứng đắc vô-sanh pháp-nhẫn, đó cũng là vô-sanh của thất-địa. Bậc thượng-phẩm ở trước thấy Phật nghe pháp, liền chứng đắc vô-sanh. Bậc trung-phẩm này trải qua một tiểu kiếp mới chứng đắc vô-sanh). Vô-sanh này cũng là vô-sanh pháp-nhẫn, nhưng họ phải tu một tiểu kiếp ở Thế giới Cực Lạc, không nhanh giống như thượng-phẩm thượng-sanh, thượng-phẩm trung-sanh trải qua một đêm thì hoa nở, ở nơi đó trải qua khoảng một tiểu kiếp thì chứng đắc vô-sanh pháp-nhẫn, đây cũng là vô-sanh của thất-địa. Hàng thượng-phẩm ở trước thấy Phật nghe pháp, liền được vô-sanh, còn bậc trung-phẩm này trải qua một tiểu kiếp mới đạt vô-sanh vậy. Quả vị đạt được là bình đẳng, nhưng thời gian lâu mau khác nhau, thượng-phẩm thượng-sanh nhanh hơn nhiều, đến Thế giới Cực Lạc liền thành tựu; còn thượng-phẩm trung-sanh phải đợi một tiểu kiếp, mới đạt được địa vị giống như người vãng sanh thượng-phẩm thượng-sanh.

          第三,上品下生“Đệ tam, thượng-phẩm hạ-sanh”(thứ ba là thượng-phẩm hạ-sanh), Ở đây đều là nói trong thượng-phẩm, ba phẩm: thượng trung hạ, có ba loại vãng sanh. 此人亦信因果,不謗大乘。彼國華中一日一夜乃開“Thử nhân diệc tín nhân quả, bất báng Đạithừa. Bỉ quốc hoa trung nhất nhật nhất dạ nãi khai”(Người ấy cũng tin nhân quả, không phỉ báng Đại-thừa, ở trong hoa sen cõi đó qua một ngày một đêm thì hoa mới nở). Đến Thế giới Cực Lạc, không phải đến đó thì hoa nở liền, nói rõ bậc thượng-phẩm thượng-sanh phía trước đến Thế giới Cực Lạc thì hoa nở liền, người của thượng-phẩm hạ-sanh đến Thế giới Cực Lạc còn phải cách một ngày một đêm hoa mới nở. Sau khi hoa nở, 復經三小劫得百法明門,住歡喜地“phục kinh tam tiểu kiếp đắc bách pháp minh môn, trụ hoan hỷ địa”(Lại trải qua ba tiểu kiếp mới đắc bách pháp minh môn, trụ bậc hoan-hỷ-địa). Hoan-hỷ-địa là sơ-địa, cũng chính là nói, chỗ chứng đắc của họ cũng xem là khá rồi, một ngày một đêm thì hoa nở, cũng rất là nhanh. Họ cần trải qua ba tiểu kiếp mới được bách pháp minh môn, trụ hoan-hỷ-địa, hoan-hỷ-địa là sơ-địa. Hai bậc trước đều là thất-địa, đắc vô-sanh pháp-nhẫn; còn họ đến hoan-hỷ-địa, tức là sơ-địa, 初地無生,故知前上品是七地無生」。「又《彌陀疏鈔》更謂上上品往生中,最上者可至八地Sơđịa vôsanh, cố tri tiền thượngphẩm thị thấtđịa vôsanh. Hựu Di Đà Sớ Sao cánh vị thượng-thượng-phẩm vãng sanh trung, tối thượng giả khả chí bát-địa”(Vô-sanh của sơ-địa, nên biết rằng bậc thượng-phẩm ở trước là vô-sanh của thất-địa. Thêm nữa sách Di Đà Sớ Sao cho rằng trong vãng sanh thượng-thượng-phẩm, thì người cao nhất có thể đến bát-địa), đây là lời của Đại sư Liên Trì, ở đây trích lục văn của sách Sớ Sao. 鈔》云:則上上品中,從一地以至八地,已容多品,餘可知矣」。「可見上輩往生,見佛聞法,即悟無生,可登八地,足證智慧勇猛也“Sao vân: Tắc thượngthượngphẩm trung, tùng nhấtđịa dĩ chí bátđịa, dĩ dung đa phẩm, dư khả tri hĩ. Khả kiến thượngbối vãng sanh, kiến Phật văn pháp, tức ngộ vôsanh, khả đăng bátđịa, túc chứng trí huệ dũng mãnh dã”(Sớ Sao nói: trong thượng-thượng-phẩm, mà có từ nhất-địa cho đến Bát-địa, thì đã gồm nhiều phẩm, có thể biết như vậy! Có thể thấy: vãng sanh bậc thượng, thấy Phật nghe pháp, liền ngộ vô-sanh, có thể lên đến Bát-địa, đủ chứng minh trí huệ dũng mãnh vậy). Nói nhiều như vậy là vì câu nói này, nói quý vị biết trí huệ dũng mãnh.

          Ba phẩm vãng sanh này, trên cơ bản chúng ta đã hiểu rồi. Người thượng-phẩm thượng-sanh đến Thế giới Cực Lạc, thì hoa nở thấy Phật, nghe pháp ngộ vô-sanh pháp-nhẫn; thượng-phẩm trung-sanh là sanh đến hoa sen lớn trong ao Thất Bảo ở cõi ấy, hoa này trải qua một đêm mới nở, là trải qua một đêm; Thượng-phẩm hạ-sanh là một ngày một đêm thì hoa nở. Hoa nở không giống nhau, thượng-phẩm thượng-sanh đến đó hoa liền nở, thượng-phẩm trung-sanh thì cách một đêm, thượng-phẩm hạ-sanh thì qua một ngày một đêm, quả báo khác nhau. Di Đà Sớ Sao là trước tác của Đại sư Liên Trì, nói được càng thù thắng hơn trong đây, thượng-thượng-phẩm có thể đến Bát-địa, trong Quán Kinh và Nghĩa Sớ chỉ nói đến Thất-địa, sai biệt một đẳng cấp. Đoạn văn sau trong Di Đà Sớ Sao của Đại sư Liên Trì nói được rất hay, trong thượng-thượng-phẩm có từ nhất-địa đến Bát-địa, siêu vượt quá nhiều rồi, còn lại bậc trung, bậc hạ, những bậc phía sau ấy; đây là bậc thượng vãng sanh, còn có bậc trung, bậc hạ, gồm: trung-thượng-phẩm, trung-trung-phẩm, trung-hạ-phẩm, hạ-thượng-phẩm, hạ-trung-phẩm, hạ-hạ-phẩm. Nếu mọi người hỏi tôi, tôi sẽ trả lời với mọi người: tôi thích giống Đại sư Ngẫu Ích, Đại sư Ngẫu Ích chỉ hy vọng hạ-phẩm bậc-hạ. Cũng chính là nói, chúng ta đến Thế giới Cực Lạc bắt đầu từ lớp thấp bé, tôi đi vào từ nơi đó, tiếp nhận sự dạy bảo của A Di Đà Phật, ngay cả cắm gốc rễ cũng là để A Di Đà Phật cắm gốc rễ cho tôi, tốt! Nguyện vọng này nhất định sẽ thành tựu viên mãn. Chân thật trong việc học Phật, đến Thế giới Cực Lạc cũng không tranh với người, cũng ‘không tranh với người, không cầu ở đời’, chúng ta từ lớp nhỏ nhất, từng bậc từng bậc từ từ nâng lên. Vì vô lượng thọ, thọ mạng dài, không sao cả. Họ nôn nóng thành tựu, tôi không gấp, vững vàng chắc chắn, tốt! Đây là nói rõ trí huệ dũng mãnh của Thế giới Cực Lạc.

          Đoạn tiếp theo đây, 舉德以勸“Cử đức dĩ khuyến”(Nêu đức để khuyến khích), đây là Thế Tôn khuyến khích chúng ta. Cơ hội này khó gặp được, trăm ngàn muôn kiếp khó gặp được, khó khăn lắm mới gặp được, gặp được rồi thì nhất thiết đừng bỏ lỡ, trong một đời này nhất định phải thành tựu, không thành tựu thì thật là đáng tiếc! Ba đường không thể đi, một khi đọa tam đồ là năm ngàn kiếp, lời Phật nói, Phật không hù dọa người, lời Phật nói là lời chân thật. Một khi không cẩn thận rớt vào tam đồ, trong tam đồ có luân chuyển, sẽ không ra được tam đồ, thời gian bao lâu? Năm ngàn kiếp, thật đáng sợ! Chúng ta không mong bị khổ nạn đó, đời này phải quyết vượt qua, nương theo kinh giáo tu hành để vượt qua, tích lũy công đức để vượt qua. Chúng ta tích công lũy đức, giúp đỡ những chúng sanh khổ nạn lìa khổ được vui, đây đều là việc tốt, việc tốt này chúng ta không cầu phước báo trời người, thậm chí chúng ta cũng không cầu phước báo hiện nay, toàn tâm toàn sức làm việc tốt, tất cả đều hồi hướng cầu sanh Thế giới Cực Lạc, điều này quan trọng. Ở trong đây có hai đoạn, đoạn một là舉德“cử đức”(nêu đức). Mời xem kinh văn:

    【是故阿難。其有眾生欲於今世見阿彌陀佛者。】“Thị cố A-nan. Kỳ hữu  chúng sanh dục ư kim thế kiến A Di Đà Phật giả”(Vì thế A Nan, nếu có chúng sanh mong ngay đời này thấy A Di Đà Phật).

Đã là kinh văn viết rồi, thì chúng ta tin tưởng là thật, không phải giả, nói cho chúng ta biết sự việc gì? Chúng ta ở đời hiện tại này, chúng ta muốn thấy A Di Đà Phật. Thì làm thế nào mới thấy được? Lão Hòa thượng Hải Hiền làm ra tấm gương cho chúng ta, ngài là một câu Phật hiệu niệm đến cùng, từ sáng đến tối trong tâm không rời Phật hiệu, trong miệng không rời Phật hiệu. Có khi niệm ra tiếng, có lúc không ra tiếng, thấy miệng ngài đang động, gọi là Kim Cang Trì; cũng có lúc không động, không động, nhưng trong tâm không gián đoạn Phật hiệu, câu này nối tiếp câu kia, tích lũy như vậy. Tôi tin rằng 3 năm đến 5 năm thì thấy Phật rồi. Ngài đã niệm câu Phật hiệu này 92 năm, tôi tin tưởng ngài thấy Phật, thấy Thế giới Cực Lạc tuyệt đối không chỉ 10 lần, tất nhiên là trên 10 lần. Ngài niềm tin kiến cố, tâm nguyện kiên định, tín nguyện đầy đủ. Ngài đối với thế gian này không chút lưu luyến, sống ở thế gian này để làm gì? Sống ở thế gian này là vì A Di Đà Phật đã căn dặn ngài, nếu không thì đã sớm vãng sanh rồi. Phật thấy ngài tu hành tốt như vậy, nên chỉ thị cho ngài ở lại thế gian này, để làm tấm gương tốt cho đệ tử nhà Phật, đặc biệt phải làm tấm gương tốt cho đệ tử Tịnh-tông, bởi vì đệ tử Tịnh-tông là có nguyện mong sanh sang Thế giới Cực Lạc. Đệ tử nhà Phật nhiều, nhưng không nhất định ai cũng muốn vãng sanh, trong đồng tu học Phật, cầu phước báo trời người vẫn là chiếm đại đa số. Quý vị muốn cầu sanh thiên, thì Phật thật giúp cho quý vị sanh thiên; cầu phước báo, thì thật sự giúp cho quý vị được phước báo, không phải là không đạt được, ‘trong cửa nhà Phật, có cầu tất ứng’, chúng ta phải ghi nhớ câu này. Quả báo không gì thù thắng hơn là cầu vãng sanh, tại sao vậy? Bởi vãng sanh đến Thế giới Cực Lạc, thì một đời chắc chắn thành Phật, điều này quá là khó được.

          Chúng ta xem chú giải của Niệm Lão, 欲於今世見阿彌陀佛,此指現在以及當來一切眾生“dục ư kim thế kiến A Di Đà Phật, thử chỉ hiện tại dĩ cập đương lai nhất thiết chúng sanh”(Mong ngay đời này thấy A Di Đà Phật, đây là chỉ cho tất cả chúng sanh ở hiện nay và đương lai), đương lai là tương lai, tất cả chúng sanh ở hiện tại và tương lai, 欲於當世親自眼見阿彌陀佛也“dục ư đương thế thân tự nhãn kiến A Di Đà Phật dã”(Mong ngay đời này đích thân tận mắt thấy A Di Đà Phật), có nguyện vọng như vậy, 《觀經》謂上品上生者,阿彌陀如來,與觀世音、大勢至,無數化佛,百千比丘聲聞大眾,無量諸天,七寶宮殿。觀世音菩薩執金剛臺,與大勢至菩薩,至行者前“Quán Kinh vị thượngphẩm thượng-sanh giả, A Di Đà Như Lai, dữ Quán Thế Âm, Đại Thế Chí, vô số hóa Phật, bách thiên Tkheo Thanhvăn đại chúng, vô lượng chư thiên, thất bảo cung điện. Quán Thế Âm Bồ-tát chấp Kim Cang đài, dữ Đại Thế Chí Bồ-tát, chí hành giả tiền”(Quán Kinh nói: thượng-phẩm thượng-sanh, thì A Di Đà Như Lai cùng Quán Thế Âm, Đại Thế Chí, vô số hóa Phật, trăm ngàn đại chúng Tỳ-kheo Thanh-văn, vô lượng chư thiên, cung điện bảy báu. Quán Thế Âm Bồ-tát tay cầm đài Kim Cang, cùng Đại Thế Chí Bồ-tát đến trước hành giả), hành giả chính là người niệm Phật vãng sanh, hai vị Bồ-tát ấy đến trước mặt người vãng sanh. 阿彌陀佛放大光明,照行者身“A Di Đà Phật phóng đại quang minh, chiếu hành giả thân”(A Di Đà Phật phóng ánh sáng lớn, chiếu thân hành giả), Phật chiếu ánh sáng đến. 與諸菩薩,授手迎接“Dữ chư Bồ-tát, thọ thủ nghinh tiếp”(Cùng chư Bồ-tát, đưa tay tiếp đón), không những A Di Đà Phật dắt tay quý vị, còn có rất nhiều rất nhiều Bồ-tát đều vẫy tay đón tiếp, ngày nay chúng ta nói là vỗ tay, đưa tay rủ xuống đón tiếp quý vị. Quán Âm Thế Chí những vị ấy, 讚歎行者,勸進其心。行者見已,歡喜踊躍“tán thán hành giả, khuyến tiến kỳ tâm. Hành giả kiến dĩ, hoan hỷ dũng diệu”(Khen ngợi hành giả, khuyến tấn tâm người ấy. Hành giả thấy rồi, hoan hỷ hớn hở), thật hoan hỷ, không phải giả hoan hỷ.

          Thượng-phẩm thượng-sanh, quý vị đọc thấy miêu tả trong đoạn kinh văn này, lúc quý vị vãng sanh được trịnh trọng như vậy, thì càng phải nỗ lực. Ai chắc được như vậy? Đừng có quên tấm gương của lão Hòa thượng Hải Hiền, ngài chính là vãng sanh thượng-phẩm. Lúc ngài đi không cần người trợ niệm, ngài nói dựa vào người khác trợ niệm không đáng tin, tôi tự mình niệm Phật vãng sanh, không cần các vị đâu. Ngài đi vào buổi tối, buổi tối đi lúc nào không ai biết, sáng sớm ngày hôm sau phát hiện đã đi rồi. Ban ngày của ngày vãng sanh đó, ngài đã làm việc cả ngày, bên cạnh chùa có một vườn rau lớn, ngài đi làm đất, đi tưới nước, đi nhổ cỏ, đã làm cả ngày, đến khi mặt trời xuống núi ngài mới kết thúc công việc. Người khác bèn khuyên lão Hòa thượng: Được rồi! Nên nghỉ ngơi thôi! Lão Hòa thượng nói: Được, sắp xong rồi, sau khi xong rồi thì tôi không làm nữa. Lời này cũng là hai ý: hôm nay tôi làm xong, ngày mai tôi sẽ không làm nữa, vì ngày mai vãng sanh rồi. Nên quý vị nghe lời nói của lão Hòa thượng, mỗi câu nói đều có ý nghĩa bên trong, dùng cách này để truyền đạt tin tức, sau khi ngài đi rồi mọi người nhớ ra, từ rất sớm đã nói rõ ràng, nói tỏ tường cho chúng ta rồi.

          Quý vị thấy cảnh này rất trịnh trọng, cung điện thất bảo, vô lượng chư thiên trời người, ngài Quán Âm Thế Chí, ngài Quán Âm cầm đài Kim Cang, là bảo tọa của họ, Đại Thế Chí Bồ Tát đến trước hành giả. A Di Đà Phật phóng quang, chiếu quang minh đến, Bồ-tát đưa tay đón tiếp, khen ngợi hành giả, khích lệ tâm hành giả. Hành giả thấy rồi, hoan hỷ hớn hở. 自見其身乘金剛臺,隨從佛後。如彈指頃,往生彼國“Tự kiến kỳ thân thừa Kim Cang đài, tùy tòng Phật hậu. Như đàn chỉ khoảnh, vãng sanh bỉ quốc”(Tự thấy thân mình ngồi đài Kim Cang, theo sau đức Phật, trong khoảng khảy ngón tay, sanh sang cõi ấy). Chúng ta để đoạn văn này buổi học sau sẽ bắt đầu đọc từ chỗ này, ôn tập thêm mấy lần, để ấn tượng chúng ta càng sâu sắc. Hy vọng chính chúng ta phát nguyện, giống như Bồ-tát, học theo ngài Hải Hiền, chúng ta phải đi theo sau quý ngài, không thể lạc hậu, dũng mãnh tiến lên. Thời gian hôm nay hết rồi, chúng ta học tập đến đây thôi.

 

( Hết tập 316)

Nguyện đem công đức này
Hướng về khắp tất cả
Đệ tử cùng chúng sanh
Đều sanh nước Cực Lạc
Chóng viên thành Phật quả
Rộng độ khắp chúng sanh.

Nam Mô A Di Đà Phật.

Trả lời 0