Responsive Menu
Add more content here...

Tập 322 – Tịnh Độ Đại Kinh Khoa Chú 2014 

TỊNH ĐỘ ĐẠI KINH KHOA CHÚ 2014-2017

(Giảng lần thứ 4)

PHẨM 24: TAM BỐI VÃNG SANH:

Ba Bậc Vãng Sanh

Tập 322

Hòa thượng Tịnh Không chủ giảng.

Giảng tại: Tịnh Tông Học Viện Australia.

Thời gian: Ngày 5 tháng 4 năm 2016.

Dịch giả: Minh Tâm và Chân Hạnh Ánh

Giảo chánh: Thích Thiện Trang.

Ban Biên Dịch Hoa Tạng Huyền Môn.

 

Chư vị Pháp sư, chư vị đồng học, mời ngồi, mời ngồi, mời ngồi. Mời mọi Phật cùng tôi quy y Tam Bảo: “A-xà-lê tồn niệm, ngã Đệ tử Diệu Âm, thỉ tùng kim nhật, nãi chí mạng tồn, quy y Phật-Đà, lưỡng túc trung tôn, quy y Đạt-Ma, ly dục trung tôn, quy y Tăng-Già, chư chúng trung tôn” (3 lần).

          Mời xem Đại Kinh Khoa Chú, trang thứ 767, trang 767, xem từ câu thứ hai hàng thứ bảy: 按上之論點有三 “Án thượng chi luận điểm hữu tam”(Theo luận điểm trên có ba điều). Trong khoảng thời gian này, chúng ta có rất nhiều việc phức tạp, cho nên đã dừng mấy ngày. Thời gian dừng đã lâu, sợ mọi người đã quên hết phần giảng bên trên, nên chúng ta vẫn đọc từ phần trước, đọc từ hàng thứ nhất, tôi sẽ đọc qua, sau đó chúng ta giảng tiếp. Chú giải giải thích: 夢見彼佛,亦得往生。功德智慧,次如中輩者也“mộng kiến bỉ Phật, diệc đắc vãng sanh. Công đức trí huệ, thứ như Trung bối giả dã”(Mộng thấy đức Phật ấy, cũng được vãng sanh. Công đức trí huệ kém hơn người bậc Trung). Chúng ta xem chú giải. 夢見彼佛Mộng kiến bỉ Phật”(mộng thấy đức Phật ấy). Tiếp theo có hai cách giải thích, 其義稍異“kỳ nghĩa sảo dị” (ý nghĩa hơi khác nhau), hai cách nói này có chút khác nhau.

          Thứ nhất, 望西謂先是夢見,臨終時是眼見佛。疏曰:三輩俱有夢見眼見故“Vọng Tây vị tiên thị mộng kiến, lâm chung thời thị nhãn kiến Phật. Sớ viết: Tam bối câu hữu mộng kiến nhãn kiến cố” (Sư Vọng Tây cho rằng trước là mộng thấy, lúc lâm chung là chính mắt thấy Phật. Sớ nói rằng: Cho nên ba bậc đều có mộng thấy và tận mắt thấy), đều có. 《覺經》中說上輩云:於其臥睡中,夢見無量清淨佛 “Giác Kinh trung thuyết Thượng bối vân: Ư kỳ ngọa thùy trung, mộng kiến Vô Lượng Thanh Tịnh Phật” (Trong Giác Kinh nói về bậc Thượng như sau: trong lúc ngủ nghỉ, mộng thấy Vô Lượng Thanh Tịnh Phật), chính là A Di Đà Phật, 及諸菩薩、阿羅漢。其人壽命欲終時,無量清淨佛,則自與諸菩薩、阿羅漢,共翻飛行迎之“cập chư Bồ-tát, A-la-hán. Kỳ nhân thọ mạng dục chung thời, Vô Lượng Thanh Tịnh Phật, tắc tự dữ chư Bồ-tát, A-la-hán, cộng phiên phi hành nghinh chi” (và các Bồ-tát, A-la-hán. Lúc thọ mạng người ấy sắp hết, thì đích thân Vô Lượng Thanh Tịnh Phật, và các Bồ-tát, A-la-hán, cùng bay đến đón tiếp người ấy), có hiện tượng này. 中輩亦同夢見彼佛。往生先兆,臨終來迎。本願勝益,故俱應有。若無佛迎,本願虛設“Trung bối diệc đồng mộng kiến bỉ Phật. Vãng sanh tiên triệu, lâm chung lai nghinh. Bổn nguyện thắng ích, cố câu ứng hữu. Nhược vô Phật nghinh, bổn nguyện hư thiết”(Bậc Trung cũng mộng thấy đức Phật ấy. Là điềm báo trước vãng sanh, lúc lâm chung đến đón. Do bổn nguyện lợi ích thù thắng, nên phải có đủ. Nếu Phật không đến đón, thì bổn nguyện là dối bày), câu nói này rất quan trọng. Người vãng sanh lúc mạng sắp hết, chỉ cần có đủ hai điều kiện, chính là tin sâu nguyện thiết. Tin sâu, thật sự tin có thế giới Cực Lạc, thật sự tin có A Di Đà Phật, nhất định không có hoài nghi, đây chính là có đủ tín nguyện. Đại sư Ngẫu Ích nói rất hay, có thể vãng sanh hay không, quyết định ở có tín nguyện hay không. Nói cách khác, có tín có nguyện, chính là đã đầy đủ điều kiện vãng sanh. Công phu niệm Phật sâu cạn, nói niệm Phật công phu thành phiến, sự-nhất-tâm-bất-loạn, lý-nhất-tâm-bất-loạn, đây là công phu niệm Phật sâu cạn, vãng sanh thế giới Tây Phương Cực Lạc, phẩm vị cao thấp khác nhau. Đây đều là lời văn nguyện trong 48 nguyện, vô cùng rõ ràng trong lời văn nguyện, nhất định không phải giả. Cho nên lâm chung Phật đến tiếp dẫn, đây là sự việc tất nhiên, chúng ta nhất định không cần phải hoài nghi, chúng ta nên có đủ tin sâu nguyện thiết, [thì mới] đạt được thế giới Tây Phương Cực Lạc.

Trước đây đã từng có người, hỏi Đại sư Liên Trì, Đại sư Ngẫu Ích, đây là hai vị Đại đức Tịnh Tông những năm cuối triều Minh đầu triều Thanh, mà người đời sau đặc biệt hướng về, các ngài không phải người phàm. Đặc biệt chú giải Kinh Di Đà của Đại sư Ngẫu Ích, Đại sư Ấn Quang ca ngợi, cho dù cổ Phật tái lai, làm chú giải cho Kinh Di Đà cũng không thể vượt qua chú giải trên, kiểu ca ngợi này là tán thán đến tột cùng, không thể cao hơn nữa. Nói cách khác, Yếu giải của Đại sư Ngẫu Ích, không khác nào chính do A Di Đà Phật đến nói, đến chú giải, làm sao có sai lầm được? Chúng ta phải có tín tâm kiên định. Công phu niệm Phật sâu cạn không gấp rút. Thậm chí, đây đều là lời trong kinh nói, đều là lời trong nguyện văn, Ngũ nghịch Thập ác, lâm chung mười niệm, một niệm đều có thể vãng sanh. Trong bổn nguyện của A Di Đà Phật không hề nói, Ngũ nghịch Thập ác lâm chung, tôi không đến tiếp dẫn, không có nói lời này, [Ngài] chưa hề nói lời này, thế thì đương nhiên đến tiếp dẫn. Mỗi một người phát tâm, công phu tu hành khác nhau, cho nên lúc lâm chung thì phước báo khác nhau. Chúng ta nói như vậy mọi người càng dễ hiểu hơn. Phước báo sai khác một chút, trong mộng thấy Phật, chính mình còn có một số nghiệp chướng, Phật đến tiếp dẫn, cũng nói không rõ ràng. Có người đã nói ra, tôi thấy Phật đến đón tôi rồi; có người không có nói câu này, trên thực tế Phật cũng đón họ đi rồi, chắc chắn có rất nhiều. Chúng ta đều phải sáng tỏ, đều phải hiểu rõ những điều này, quan trọng nhất là gì? Tương lai lúc chính mình đi, chúng ta tranh thủ một chiêu này.

          Vãng sanh đến thế giới Cực Lạc, chư vị nói gia thân quyến thuộc của tôi, bất luận ở đường nào, bất luận ở cõi nước Phật nào, chư vị ở thế giới Cực Lạc đều nhìn thấy tất cả, đến thế giới Cực Lạc thì có điều tốt này, với lại chư vị còn có thể giúp đỡ họ. Đến thế giới Tây Phương Cực Lạc, được uy thần bổn nguyện của A Di Đà Phật, còn có công đức tu hành vô lượng kiếp của A Di Đà Phật gia trì chư vị, giúp trí huệ, thần thông, đạo lực của chư vị gần như xấp xỉ ngang bằng với A Di Đà Phật. A Di Đà Phật có thể hiện vô lượng vô biên thân, tiếp dẫn các Bồ-tát ở mười phương niệm Phật vãng sanh. Mỗi một vị vãng sanh, vãng sanh đến thế giới Cực Lạc, thông thường chúng ta đều xưng là Bồ-tát, Phàm Thánh Đồng Cư độ Hạ hạ phẩm vãng sanh cũng xưng Bồ-tát, trí huệ, thần thông, đạo lực của các ngài, được sự gia trì đó của Phật lực, 皆作阿惟越致菩薩“giai tác A-duy-việt-trí Bồ-tát”(Đều làm Bồ-tát A-duy-việt-trí). Câu nói này quan trọng. A-duy-việt-trí là gì? Là Pháp-thân Đại sĩ, thế giới Cực Lạc thù thắng là thù thắng ở chỗ này, mười phương thế giới không có, chỉ ở đó có, Phàm Thánh Đồng Cư độ Hạ hạ phẩm vãng sanh, cũng làm Bồ-tát A-duy-việt-trí. Nói cách khác, người vãng sanh qua thế giới Cực Lạc có cấp bậc hay không? Có, tam bối cửu phẩm, quả thực có cấp bậc, bốn độ ba bậc chín phẩm, thế nhưng đãi ngộ hoàn toàn là bình đẳng, tất cả đều là sự đãi ngộ của A-duy-việt-trí. Vậy thì rất thù thắng rồi, đãi ngộ là đãi ngộ của Pháp-thân Bồ-tát, sự đãi ngộ cao nhất, đãi ngộ như vậy. Cho nên trí huệ thần thông rất lớn, xấp xỉ với A Di Đà Phật, có năng lực phân thân. A Di Đà Phật phân vô lượng vô biên thân, đến mười phương thế giới tiếp dẫn chúng sanh, người vãng sanh đó thì phân thân làm gì? Chúng ta cũng phân vô lượng vô biên thân, học tập theo A Di Đà Phật; A Di Đà Phật tiếp dẫn chúng sanh, chúng ta phân vô lượng vô biên thân, đến mười phương vô lượng vô biên chư Phật sát độ, để bái Phật, cúng Phật, phước huệ song tu, đó là tu phước, nghe Phật giảng kinh thuyết Pháp là tu huệ, phước huệ song tu. Chư vị mong muốn làm thế nào, đều có thể viên mãn, không gì không viên mãn, chư vị không đến mười phương thế giới, cũng được, thì ở trong đại giảng đường của A Di Đà Phật, nghe A Di Đà Phật giảng kinh thuyết Pháp cũng giống nhau.

          Phật Phật đạo đồng, Phật Phật khen ngợi lẫn nhau. Chư Phật Như Lai không có vọng tưởng phân biệt chấp trước, mỗi một người vãng sanh đến thế giới Cực Lạc, thì không còn khởi tâm động niệm, vọng tưởng phân biệt chấp trước nữa. Không phải chúng ta có năng lực đoạn trừ, không phải, [mà là] uy thần bổn nguyện của A Di Đà Phật gia trì cho chư vị. Tuy có nhưng không khởi tác dụng, khởi tác dụng là trí huệ khởi tác dụng, là Phật lực gia trì khởi tác dụng. Điều này khiến chúng ta thật sự thể hội được: sự thù thắng không gì sánh được của thế giới Cực Lạc, làm cho chúng ta sanh khởi tâm cảm ân vô tận đối với đức Thích Ca Mâu Ni Phật, nếu không phải Ngài giới thiệu, thì chúng ta làm sao biết được? giới thiệu của chư Phật: là do nguyện lực của A Di Đà Phật, nguyện thứ 17 諸佛稱歎“chư Phật xưng thán”, xưng thán chính là giới thiệu, không có một đức Phật nào không giảng Kinh Vô Lượng Thọ, không có một Tôn Phật nào không giảng Kinh A Di Đà, Tịnh độ tam kinh đều là được tất cả chư Phật thường thuyết. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni trong đời nhiều lần tuyên giảng, không phải một lần, hai lần. Có thể thấy Pháp môn này quan trọng. Gặp được Pháp môn này, đời này chư vị nhất định thành tựu; Không gặp được Pháp môn này, thì khả năng chư vị thành tựu trong đời này là không nhiều, chỉ là nâng cao thiện căn phước đức [mà thôi], nếu muốn thoát ly sáu đường luân hồi, vãng sanh thế giới Cực Lạc, [thì] không dễ dàng.

Đoạn này, chúng ta xem lời trong kinh nói, thật nghiêm ngặt mà luận, sau khi mộng thấy, có thể thấy được Phật đến đón tiếp. Có người nói ra, có người không nói ra, đây là phước báo khác nhau. Lúc sắp đi rõ ràng, nói ra cảnh họ đã thấy, người ấy phước báo lớn, tại vì sao? Bởi ảnh hưởng [được] người khác, để cho người bên cạnh tăng trưởng lòng tin. Chính mình đã ra đi, không nói ra câu nào, đây là nghiệp chướng của chính mình nặng, họ không có phước này, thế nhưng họ đã vãng sanh, phước báo kém một chút so với hạng người phía trước. Cho nên bình thường cầu Phật gia trì, thường xuyên cầu Phật gia trì, hình thành thói quen, đến lúc mạng sắp hết, cũng cầu Phật gia trì, để chúng ta có tinh thần, có thể lực, nói rõ ràng cảnh giới lâm chung với mọi người. Trong hàng Đệ tử Phật, có cầu tất ứng. Ở đây trích dẫn trong Quán Kinh nói rất hay, 化佛來迎Hóa-Phật lai nghinh”(Hóa-Phật đến đón). Người ác còn vậy, huống là người thiện? Ngũ nghịch Thập ác lúc lâm mạng chung, chỉ cần lúc mạng sắp hết, không hồ đồ, đầy đủ tín nguyện, một lòng xưng niệm, một tiếng, mười tiếng đều có thể vãng sanh. Tạo nghiệp Ngũ nghịch Thập ác, lâm chung cũng có thể vãng sanh, huống hồ chúng ta tạo nghiệp không nặng như vậy, làm gì có đạo lý Phật không đến đón chứ!

          Cho nên chúng ta bây giờ, tiếp tục xem chú giải này. Theo luận điểm bên trên có ba [điểm], thứ nhất, 彼佛有臨終接引之本願。若於下輩,不來迎接,則有違本願故“bỉ Phật hữu lâm chung tiếp dẫn chi bổn nguyện. Nhược ư Hạ bối, bất lai nghinh tiếp, tắc hữu vi bổn nguyện cố”(đức Phật ấy có bổn nguyện lâm chung tiếp dẫn. Nên nếu với bậc Hạ, mà không đến nghinh tiếp, thì đã trái với bổn nguyện). Phật là chắc chắn sẽ không trái với bổn nguyện chính mình, Ngài nói được làm được, thế thì chúng ta có lý do tin tưởng, Phật nhất định đến đón. Thứ hai,觀經》下品,俱是惡人,佛尚來迎。今經下輩,俱是善士,焉能不迎“Quán Kinh Hạ phẩm, câu thị ác nhân, Phật thượng lai nghinh. Kim kinh Hạ bối, câu thị thiện sĩ, yên năng bất nghinh” (Hạ phẩm của Quán kinh, đều là người ác, Phật còn đến đón. Bậc Hạ của kinh này, đều là người lành, lẽ nào Phật lại không đón!). Chỗ này nói hay, rất phù hợp logic. Đức Phật ấy có nguyện lâm chung tiếp dẫn, Đức Phật ấy là A Di Đà Phật, trong 48 nguyện của Ngài có phát nguyện này, cho nên bậc Hạ vãng sanh, đương nhiên cũng đến tiếp đón, nếu không thì đã trái ngược với bổn nguyện rồi. Hơn nữa đã là Hạ phẩm trong Kinh Quán Vô Lượng Thọ, tất cả là người tạo Ngũ nghịch Thập ác, là nói những người ấy, Phật đều đến tiếp đón. Kim kinh, kim kinh là chỉ kinh này, bậc Hạ vãng sanh, đều là người thiện, không phải người tạo nghiệp ác, đâu có đạo lý không đến tiếp đón? Thứ ba, bản dịch đời Hán, bản dịch đời Ngô: ở trong năm bản dịch gốc, trong hai loại bản dịch này, chúng ta xem thấy, bậc Thượng, bậc Trung, 俱先夢佛,然後臨終見佛“câu tiên mộng Phật, nhiên hậu lâm chung kiến Phật”(đều trước mộng thấy Phật, sau đấy lúc lâm chung thấy Phật), trong kinh văn là cách nói như vậy, về hai bậc Thượng, Trung. Bây giờ đang nói đến Hạ bối vãng sanh, 亦應如是“diệc ưng như thị”(cũng phải như vậy), cũng phải đều là mộng thấy Phật trước, sau đó thấy Phật. 是故本經謂夢見,言其前者。《觀經》云見佛,指其後者也。此是一說。“Thị cố bổn kinh vị mộng kiến, ngôn kỳ tiền giả. Quán Kinh vân kiến Phật, chỉ kỳ hậu giả dã. Thử thị nhất thuyết.” (Vì vậy, kinh này nói “mộng thấy”, là nói về điều trước. Quán kinh nói thấy Phật, là nói điều sau. Ðây là một thuyết). Đây là cách giảng thứ nhất, đều có căn cứ.

          Thứ hai, 另一說如《會疏》謂確是佛迎,但彷彿似夢 “Lánh nhất thuyết như Hội Sớ vị xác thị Phật nghinh, đãn phảng phất tự mộng” (Một thuyết khác, như Hội Sớ nói thật là Phật đến đón, nhưng phảng phất như trong mộng). Thật sự Phật đến tiếp đón họ, đây chính là nghiệp chướng của chính mình nặng, có thấy được Phật hay không? Thấy được rồi, thấy được như thế nào? Giống như ở trong mộng, cũng chính là nói không được rõ ràng hoàn toàn, xác thực là thấy được. Nói đến chỗ này, trong đời sống hàng ngày, chúng ta phải biết đoạn ác tu thiện, mọi lúc, mọi nơi, không để chính mình có sanh khởi ác niệm. Mặc dù thấy được cảnh giới không tốt, nghịch cảnh ác duyên, hoàn cảnh không tốt, rất không hoan hỷ, thấy được một số đều là oán thân trái chủ, đều là đến gây phiền phức, chúng ta phải dùng tâm gì đối đãi? Niệm A Di Đà Phật. Niệm A Di Đà Phật là dùng Phật hiệu khống chế tâm của chính mình lại, phải khởi tâm thấy cảnh giới, là cảnh giới thế giới Cực Lạc, xem chúng sanh đều là A Di Đà Phật, [thì] tốt! Công đức này rất lớn, đây là thật tu hành, thật luyện bản lĩnh ở đó. Ngay trong mỗi niệm, tất cả người đều là A Di Đà Phật, tất cả cảnh giới đều là thế giới Tây Phương Cực Lạc. Tất cả pháp từ tâm tưởng sanh, xem chư vị nghĩ thế nào, vậy tại sao không nghĩ tốt mà lại nghĩ xấu? Tốt, xấu đều là từ tâm mà sanh ra. Bình thường luyện thành công phu hình thành thói quen rồi, đến lúc lâm mạng chung hữu dụng. Chư vị nhìn thấy cảnh giới rõ ràng, không phải dường như đang trong mộng, không phải, vô cùng rõ ràng vô cùng sáng tỏ, chư vị sẽ nhắn nhủ với mọi người được một cách rất rõ ràng, theo Phật đến thế giới Cực Lạc rồi.

          Tiếp theo, nêu từ Quán Kinh, 疏曰:夢見彼佛者,如《觀經》下三品人。命促剎那,獄火來現。雖佛來迎,彷彿不明,猶如夢中故“Sớ viết: Mộng kiến bỉ Phật giả, như Quán Kinh Hạ tam phẩm nhân. Mạng xúc sát-na, ngục hỏa lai hiện. Tuy Phật lai nghinh, phảng phất bất minh, do như mộng trung cố”(Sớ nói rằng: Mộng thấy đức Phật ấy, là như người ba phẩm Hạ ở Quán kinh. Sát-na mạng sắp hết, lửa địa ngục hiện đến. Tuy Phật đến đón, nhưng phảng phất không rõ, nên giống như trong mộng). Đây là nghiệp đã tạo rất nặng, công phu chính mình không đủ sâu, nếu đủ sâu, thì không nhìn thấy địa ngục. Trong mộng nhìn thấy địa ngục trước, tính cảnh giác rất cao, lập tức [niệm] một câu A Di Đà Phật này, thì địa ngục không còn nữa. Lúc ấy là thời điểm then chốt, công phu có thể thật sự đắc lực hay không, liên quan ấy rất lớn. Lúc này thật sự là tranh thủ từng phút từng giây, không có phút, phải là giây, mỗi giây đều phải tranh thủ, nhất định không được có ác niệm, không cho phép có ý niệm ác, có ý niệm ác thì không được, niệm niệm đều là A Di Đà Phật, không có niệm thứ hai. Thấy được tất cả cảnh giới, toàn là A Di Đà Phật, toàn là thế giới Cực Lạc, vậy thì tốt. 若不爾者,何至臨終,得安閑神遊乎?“Nhược bất nhĩ giả, hà chí lâm chung, đắc an nhàn thần du hồ?”(Nếu không như vậy, thì đến lúc lâm chung, sao thần thức an nhàn ra đi được?) Lúc mạng sắp hết, thuyết thứ hai này. 蓋謂《觀經》所示下品之人,臨終之時,地獄眾火,一時俱至,眾苦交逼。佛雖現前,但以神識不清,不甚明了。依稀彷彿,若在夢中。故云夢見彼佛也。若非有佛來迎者,焉能安閑有此十念,而隨佛神遊極樂也。 “Cái vị Quán Kinh sở thị Hạ phẩm chi nhân, lâm mạng chi thời, địa ngục chúng hỏa, nhất thời câu chí, chúng khổ giao bức. Phật tuy hiện tiền, đãn dĩ thần thức bất thanh, bất thậm minh liễu. Y hi phảng phất, nhược tại mộng trung. Cố vân mộng kiến bỉ Phật dã. Nhược phi hữu Phật lai nghinh giả, yên năng an nhàn hữu thử thập niệm, nhi tùy Phật thần du Cực Lạc dã”(Đại khái nói rằng: Quán kinh đã dạy, người thuộc Hạ phẩm, khi lúc lâm chung, các lửa địa ngục, cùng lúc hiện tới, chúng khổ cùng nhau bức bách. Tuy Phật hiện ra, nhưng thần thức không thanh tịnh, không thật rõ ràng. Tựa rất phảng phất, như trong giấc mộng; Nên nói là mộng thấy đức Phật ấy. Nếu không có Phật đến đón, thì sao được an nhàn có mười niệm ấy, mà theo Phật Thần đi về Cực Lạc). Những lời này rất quan trọng. Phật đến tiếp dẫn, chư vị thật đạt được rồi. 兩疏所辨雖異“Lưỡng sớ sở biện tuy dị” (Hai sớ phân tích tuy khác), cách nói của hai nhà này tuy khác nhau, 但謂下輩往生,亦有佛來迎是一。殊途同歸。故並引徵,以證斯旨。“đãn vị Hạ bối vãng sanh, diệc hữu Phật lai nghinh thị nhất. Thù đồ đồng quy. Cố tịnh dẫn trưng, dĩ chứng tư chỉ”(Nhưng nói bậc Hạ vãng sanh, cũng có Phật đến đón là giống nhau. Khác lối cùng về. Nên dẫn cả hai thuyết, để chứng minh ý đó). Những lời này đều là để cho chúng ta an tâm, bậc Hạ vãng sanh, Phật thật sự đến tiếp dẫn. Vấn đề, vẫn là trong đời sống bình thường, chúng ta phải thật sự biết được đoạn ác tu thiện, tích công lũy đức, công đức này, đặc biệt khi lâm chung thấy Phật, hiển thị cảnh giới không thể nghĩ bàn, chính mình hoan hỷ, khiến cho đại chúng bên cạnh ai cũng sanh tâm hoan hỷ, vậy công đức vô lượng.

Tiếp theo lại nói, 至於《觀經》下品三人,俱是惡人者。善導大師謂下品上生者,是造十惡輕罪凡夫人,下品中生,是破戒次罪凡夫人“Chí ư Quán Kinh Hạ Phẩm tam nhân, câu thị ác nhân giả. Thiện Đạo Đại sư vị Hạ phẩm Thượng sanh giả, thị tạo thập ác khinh tội phàm phu nhân, Hạ phẩm Trung sanh, thị phá giới thứ tội phàm phu nhân”(Cho đến người thuộc ba phẩm Hạ của Quán Kinh, đều là người ác. Đại sư Thiện Ðạo nói Hạ phẩm Thượng sanh, là người phàm phu tạo tội Thập ác nhẹ, Hạ phẩm Trung sanh, là người phá giới bậc tội tiếp theo). Việc phá giới này, bên trong bao gồm tại gia, xuất gia, hiện tượng này rất phổ biến. Tại gia đã thọ giới, đã thọ Tam quy Ngũ giới, đã thọ Bồ-tát giới, đã thọ Bát quan Trai giới, bao nhiêu người thật sự giữ được? Xuất gia càng không cần nói, có phá giới Sa-di hay không? Có phá giới Tỳ-kheo hay không? Giới Bồ-tát? Vậy y theo lời của Đại sư Thiện Đạo để nói, ngày nay người tại gia xuất gia vãng sanh, đại khái đều là Hạ phẩm, Hạ phẩm Thượng sanh, Hạ phẩm Trung sanh, Hạ phẩm Hạ sanh, đều thuộc về phẩm này. Tại sao dễ dàng phá giới như vậy? Vì hoàn cảnh quá là ác liệt. Trong đời sống hàng ngày, có mấy người không bị hoàn cảnh quấy nhiễu? Đó là người niệm Phật có công phu. Bất luận ở trong hoàn cảnh nào, chính là [như] tôi vừa nói đến, cũng là thường xuyên niệm niệm khuyên nhủ mọi người, đây cũng là khuyên chính mình, trong tâm chỉ có A Di Đà Phật, ngoài A Di Đà Phật ra, không để trong tâm bất kỳ điều gì. Có khởi ý niệm lên, thì nghĩ đến trong Kinh Kim Cang đã nói: 凡所有相,皆是虛妄“Phàm sở hữu tướng, giai thị hư vọng” (những gì có tướng, đều là hư vọng), thì không chấp trước nữa. 一切法 “Nhất thiết pháp” (Tất cả Pháp), tất cả pháp thế xuất thế gian, 無所有,畢竟空,不可得“Vô sở hữu, tất cánh không, bất khả đắc”, vậy mới có thể buông xuống được. Buông xuống thế nào? Thời thời khắc khắc, bất luận ở nơi nào, đều buông xuống tất cả.

          Buông xuống triệt để nhất, [là] thân, thân này không phải ta, buông xuống thân, không phải ta, ta đừng vì thân này mà phải nhọc lòng, mà tạo nghiệp. Ta có Chân ngã, Chân ngã ở đâu? Đến thế giới Cực Lạc thì thấy được Chân ngã rồi. Chân ngã không sanh không diệt, thân thể này của chúng ta là sanh diệt từng sát-na. Bồ-tát Di Lặc nói với chúng ta, một búng tay có 32 ức trăm ngàn niệm. Một ý niệm chính là một lần sanh diệt, niệm trước diệt rồi niệm sau sanh, niệm trước diệt niệm sau lại sanh, mãi mãi không ngừng, ngừng rồi thì không việc gì nữa, nó không ngừng. Thứ ấy trong kinh Phật gọi là A-lại-da, đã mê mất Chân ngã của Tự-tánh. Giác ngộ rồi, giác ngộ rồi thì gọi là Pháp thân, Pháp thân không có tướng, Pháp thân có thể hiện tất cả tướng, chứng được Pháp thân, đó là vô tướng mà vô bất tướng. Các ngài không chấp trước cả hai bên, không chấp trước vô tướng, cũng không chấp trước vô bất tướng, tại sao vậy? Bởi đều không đạt được, không thể đạt được giả tướng, cũng không thể đạt được sanh diệt, cũng không thể đạt tướng thật, tại sao vậy? Bởi thật sự nó không có tướng. Đó là gì? [Là] Thường Tịch Quang: cảnh giới cao nhất mà Tịnh tông nói. Thường Tịch Quang chính là Pháp thân, Thường chính là không sanh không diệt, Thường; Tịch là thanh tịnh, mãi mãi không có ô nhiễm, cũng chính là mãi mãi không bị bất kỳ hoàn cảnh nào quấy nhiễu; Thứ ba, là Quang, thể của nó là Quang. Ở chỗ nào? Không đâu không có, không lúc nào không có, chúng ta đều ở trong Thường Tịch Quang, chỉ là chính mình không có cảm giác được. Chứng đắc Thường Tịch Quang chính là viên mãn thành Phật rồi, người nào chứng được? Diệu Giác Như Lai được nói đến trong Tịnh Tông, đã chứng nhập Thường Tịch Quang rồi. Rất khó hiểu.

          Ngày nay chúng ta dùng khoa học kỹ thuật cao, dùng tivi phổ biến, chúng ta cùng nhau học tập, tôi thường xuyên dùng màn hình của tivi để thí dụ, thì mọi người dễ hiểu. Chúng ta mở màn hình lên là một màn ánh sáng, một màn sáng, ánh sáng này chính là Thường Tịch Quang, bên trong không có thứ gì. Bật kênh lên, thì nó vô bất tướng rồi, thì hiện tướng ra rồi, kênh là gì? Kênh là A-lại-da, A-lại-da là thế nào? Là đã động niệm, ý niệm vừa động thì tướng xuất hiện, là đã nhấn kênh rồi. Mấy người có thể ở trong các kênh biết được, tác dụng này là lúc màn hình và kênh: đồng thời xuất hiện, chúng ta nhìn thấy tướng này? Chúng ta đều nhìn thấy rồi, thế nhưng sức chú ý của chúng ta: đều ở trên hình tướng, không ở trên màn hình, nếu ở trên màn hình, thì chư vị biết được tướng này đều là không, căn bản là không tồn tại. Tần suất của nó quá cao rồi, tivi ngày nay chúng ta dùng, từng hình ảnh liên tiếp nối nhau, niệm trước diệt niệm sau sanh, nhanh bao nhiêu? Một giây 100 tấm. Cho nên chư vị không nhìn thấy nó nhấp nháy, nó là từng tấm từng tấm đang nhấp nháy, tần suất quá nhanh rồi, giống như là thật, kỳ thực nếu như là một tấm thì chư vị nhìn không thấy, chỉ có một tấm, một tấm qua đi, tiếp theo không còn nữa. Thế chư vị mở xem thử, 1% của giây, chư vị sẽ thấy được gì? Có một tia sáng: đột nhiên lóe lên một cái thì không còn nữa, thậm chí ngay cả tia sáng này cũng nhìn không thấy, chư vị đều không nhìn rõ ràng, có ấn tượng như thế, thế nhưng không rõ ràng, không biết điều gì cả, đó là toàn bộ hình ảnh.

 Bồ-tát Di Lặc nói với chúng ta, trong một giây, sanh diệt bao nhiêu lần? Không phải 100 lần, 100 lần quá chậm rồi. Bồ-tát Di Lặc nói với chúng ta, chúng ta tính ra, một giây là 2 triệu 240 ngàn tỷ lần. Tivi ngày nay một giây là 100 lần, mà tình hình thực tế của chúng ta, trong đời sống của chúng ta, mắt thấy sắc, tai nghe tiếng, trên thực tế tình hình này là một giây 2 triệu 240 ngàn tỷ lần, thì hoàn toàn không biết, đều cho rằng là thật, [nhưng] toàn là giả. Phải làm rõ ràng, làm sáng tỏ điều này, gọi là biết Không biết Có. Biết cả Không lẫn Có rồi, thì không chấp trước cả hai bên Không và Có, tại vì sao? Bởi hai bên đều không thể đạt được. Người chấp trước “Không” đi đến đâu? Đi đến trời Tứ Không, không ra khỏi sáu đường luân hồi, cảnh giới cao nhất trong sáu đường luân hồi là trời Tứ Không, đi đến nơi đó. Người chấp trước sắc tướng đi đến trời Sắc Giới, người còn có dục vọng, chính là vẫn còn thị phi nhân ngã, thì đến trời Dục Giới, dục của họ chưa đoạn. Trên kinh Phật nói rất rõ ràng, nói rất sáng tỏ, chính chúng ta ở tầng lớp nào, phải vô cùng rõ ràng. Cho nên với những thứ này, phải buông xuống tất cả, không dễ dàng, họ đã nuôi thành thói quen rồi, không phải hình thành một đời này, thói quen được hình thành từ nhiều đời nhiều kiếp [cả] vô lượng kiếp, không cách nào đoạn. 84 ngàn pháp môn, bất kỳ một pháp môn nào, cũng là đoạn phiền não, chứng Bồ-đề, nếu chư vị không đoạn thì chư vị không thể thành tựu. Cho nên chúng ta không có cách nào, là thật không phải giả.

 Tôi học Phật đã 65 năm, 30 năm đầu, tôi không tin tưởng Tịnh-độ, ý niệm đều là Đại kinh Đại luận, rất hứng thú với những kinh luận ấy, sau khi đã hơn 30 năm, [mà] không được, không thể đoạn mảy may phiền não tập khí nào. Chỗ này nói tới 53 tham học: trong Kinh Hoa Nghiêm, nhìn thấy ngài Văn Thù, Phổ Hiền đều phát nguyện cầu sanh thế giới Cực Lạc, tôi mới bị cảm động. Nói rõ ngài Văn Thù, Phổ Hiền không đến thế giới Cực Lạc, thì không thể dễ dàng thành tựu triệt để, các ngài làm sao thành tựu vậy? Vãng sanh đến thế giới Cực Lạc, vẫn là cầu A Di Đà Phật giúp đỡ, viên mãn thành tựu trong một đời, 10 đại nguyện vương dẫn về Cực Lạc. Tôi cũng đã quay đầu quy Cực Lạc rồi, lại gắn bó với bộ kinh này, nhìn thấy một phần lời tựa dài, ở phần trước quyển hội tập của Hạ Liên lão, thầy Lý nói với tôi, lời tựa dài đó là do ngài Mai Quang Hy viết. Mai Đại sĩ chính là Sư phụ của thầy Lý, việc Phật học của thầy là theo học với ngài Mai Quang Hy, cho nên nói nhìn thấy bài lời tựa này, hết sức thân thiết, nói với tôi rằng: tôi cũng đã xem liên tục nhiều lần, đã có lòng tin đối với pháp môn này. Đặc biệt là lời tán thán của Mai Đại sĩ, Tổ sư Đại đức xưa nay cũng đều có cách nói như vậy, Kinh Vô Lượng Thọ là trung bản Hoa Nghiêm, tỉ mỉ đối chiếu, là thật. Cho nên lúc đó tôi liền sáng tỏ rồi, nếu có nền tảng của Hoa Nghiêm, sẽ giảng sống động Kinh Vô Lượng Thọ, tại sao vậy? Bởi Hoa Nghiêm là Kinh Vô Lượng Thọ mà nói một cách cặn kẽ, Kinh Vô Lượng Thọ: là Kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm mà nói sơ lược, là lược thuyết, là một không phải hai. Tôi đã hoàn toàn làm rõ ràng điểm này rồi, thế giới Hoa Tạng chính là thế giới Cực Lạc, thế giới Cực Lạc chính là thế giới Hoa Tạng. Vào cửa từ thế giới Hoa Tạng rất khó, không thể mang theo nghiệp, phải đoạn dứt cả thảy Kiến-tư phiền não, chư vị mới đi vào được; Mà cửa của thế giới Cực Lạc ấy rộng, ba loại phiền não này, Trần-sa, Vô-minh, Kiến-tư phiền não, chưa đoạn phẩm nào cũng có thể vãng sanh, vậy quá thuận tiện rồi! Không những có thể vãng sanh, mà trên kinh còn nói rất rõ ràng, Ngũ nghịch Thập ác, khi mạng sắp hết, họ có thể tin có thể nguyện, niệm một tiếng Phật hiệu đều có thể vãng sanh, cũng có thể đi vào. Đi đâu tìm được Pháp môn này? Nói cách khác, pháp môn này, là vô cùng chân thật, phổ độ vô lượng vô biên chúng sanh một đời thành tựu, tìm không được cửa thứ hai. Môn nào cũng tốt, không có Pháp môn nào không tốt, người có 84 ngàn bệnh, Phật có tám muôn bốn ngàn đơn thuốc, đều có thể trị bệnh. Đây là bệnh nào cũng trị, vô cùng hữu hiệu, với lại trị được triệt để, chắc chắn không có tác dụng phụ, vậy đi đâu mà tìm?

Cho nên ngày nay, chúng ta đang khuyên nhủ một số các đồng tu, đi học văn hóa truyền thống Trung Hoa. Phật giáo là một khâu, một mắc xích quan trọng: trong văn hóa truyền thống Trung Hoa; từ sớm Phật giáo đã dung hòa thành một thể: với văn hóa truyền thống Trung Hoa, ba nhà Nho Thích Đạo, chúng ta không thể cho rằng không chính đáng. Đặc biệt là kinh luận Đại-thừa, ở Trung Hoa, hoàn toàn dùng văn ngôn văn của chữ Hán Trung Hoa phiên dịch ra. Tại sao vậy? Vì chỉ có phương tiện truyền đạt của Hán cổ, mới có thể vĩnh viễn truyền tiếp: muôn đời muôn muôn năm, không giả chút nào. Phạn văn không có năng lực này, Phạn văn là chữ viết phiên âm, 300 năm, ngôn ngữ thay đổi rồi, thì đọc không hiểu nữa. Cho nên những Cao tăng Đại đức có trí huệ ở Ấn Độ, mang kinh đưa đến Trung Hoa, dùng Văn ngôn văn của chữ Hán Trung Hoa làm công cụ truyền tải, thì sẽ lưu truyền mãi mãi. Cho nên thể văn cổ của chữ Hán quan trọng! Chư vị đọc lịch sử Trung Hoa, trong lịch sử Trung Hoa, ba đời Hạ Thương Chu, đặc biệt là nhà Chu. Ba đời này là làm thế nào thống nhất, mà xưng làm Thiên tử? Kỳ thực nước của họ rất nhỏ, nước của Chu Văn Vương, cũng không quá 100 dặm, chu vi 100 dặm, nhà Thương chỉ có 70 dặm, xưng làm vua. Nước chư hầu đều là nước độc lập, đều là nước chủ quyền, mấy trăm nước, cả lớn lẫn nhỏ. Thế nhưng đều học tập Chu thiên tử, tại vì sao? Bởi chính trị của ông ấy tổ chức được tốt, thật khiến người ngưỡng mộ, các nước cả lớn lẫn nhỏ đều học tập ông ấy, tôn kính, tôn xưng ông ấy làm Thiên tử, nguyên nhân là vậy.

Gần đây, đặc biệt là thời kỳ nửa sau thế kỷ 20, rất nhiều Học giả nước ngoài, đến Trung Hoa nghiên cứu Hán Văn, nghiên cứu văn tự của Trung Hoa, thể Văn cổ. Họ đã phát hiện, chữ Hán Văn ngôn văn của nước ta, là phát minh rất tuyệt vời. Chúng ta thừa nhận điều này, toàn thế giới mãi đến ngày nay, hết thảy toàn bộ phát minh, đều không có một thứ nào, có thể vượt qua Văn ngôn văn của chữ Hán, thật vĩ đại lắm! Hán cổ có thể đột phá thời gian, xưa nay có thể qua lại với nhau, ngàn vạn năm trước lão Tổ tông để lại cho chúng ta, những văn tự này nói với chúng ta, ngày nay chúng ta đọc hiểu được, không lạ lẫm, không có hiểu sai ý, thật siêu việt! Chúng ta truyền tiếp ngàn vạn năm sau, hậu nhân có được những văn tự này, thì giống như chúng ta, không có chút sai lầm nào. Thế gian có thứ nào quý giá hơn điều này? Không có rồi, đây gọi là của báu, quốc bảo thực sự. Ngàn vạn năm nay, trí huệ của lão Tổ tông, lý niệm của lão Tổ tông, phương pháp của lão Tổ tông, hiệu quả của lão Tổ tông, kinh nghiệm của lão Tổ tông, bao đời thế hệ tiếp tục tương truyền, người nước ta thật tuyệt vời! Chư vị đọc những sách này, thì chư vị là thần tiên, chư vị thông đạt tất cả, hiểu thấu tất cả, không hồ đồ. các dân tộc khác trên thế giới không có, chỉ nước ta có. Xưa kia là bốn quốc gia có, Trung Hoa là đầu nguồn, cùng với Trung Hoa, nước đầu tiên là Hàn Quốc, Hàn Quốc và Trung Hoa có lịch sử 3.000 năm, cũng chính là vào thời đại Xuân Thu, người Hàn Quốc đã có qua lại với Trung Hoa, có thể đến đời nhà Chu. Nhật Bản và Việt Nam, là 2.500 năm, thời Xuân Thu Chiến Quốc, thì họ có qua lại với Trung Hoa. Hoàn toàn, mấy ngàn năm ấy, các nước đó đều dùng chữ Hán, đều dùng Văn ngôn văn, đều đọc sách Trung Hoa. Phật giáo truyền đến Trung Hoa, Phật giáo của họ, từ Trung Hoa truyền qua, tất cả đều đọc kinh điển chữ Hán thể văn cổ. Cho nên ông Toynbee nói, văn hóa phương Đông, nếu bốn quốc gia này đoàn kết lại với nhau, họ có thể lãnh đạo toàn thế giới, có thể tạo thành ngàn năm thịnh thế trên cả trái đất, công đức vô lượng vô biên. Vì sao lại tạo thành tình trạng như vầy? Ngày nay bốn quốc gia này, đối với văn hóa truyền thống Trung Hoa, đều mất hết lòng tin rồi, đương nhiên người Trung Hoa dẫn đầu, người Trung Hoa không tin nữa, họ cũng hoài nghi rồi. Mười mấy vị Học giả đó của châu Âu thật tuyệt vời, họ mạnh mẽ lớn tiếng kêu gọi, phải phục hưng văn hóa Hán. Chỉ có văn hóa Hán có lợi ích lớn đối với nhân loại, đối với một đời người, khiến cuộc sống được hạnh phúc vui vẻ, là thật, không phải giả.

          Hạnh phúc vui vẻ không liên can đến địa vị, không liên quan đến của cải. Cho nên người đọc sách của Trung Hoa, đều nhắc đến 孔顏之樂“Khổng Nhan chi lạc”, là niềm vui của Khổng Tử, niềm vui của Nhan Hồi. Hai ngài chưa từng làm quan lớn, không có địa vị trong xã hội, cũng không có của cải, Khổng tử thuộc gia đình trung lưu, có thể gắng gượng duy trì [qua ngày]; Nhan Hồi thì càng tệ hơn, nghèo túng đến cùng cực, ba bữa cơm đều khó khăn. Thế nhưng bất luận vào lúc nào, bất luận ở chỗ nào, chư vị đều nhìn thấy Nhan Hồi gương mặt tươi cười, niềm vui đó của ngài đến từ đâu vậy? 學而時習之,不亦說乎“Học nhi thời tập chi, bất diệc duyệt hồ” (Học mà thường luyện tập, không phải vui lắm sao), đến từ việc học, việc học là đạo của Thánh Hiền, cổ Thánh tiên Hiền để lại. Khổng tử thuật lại mà không sáng tác, không tự làm ra thứ nào, toàn bộ là của cổ Thánh tiên Hiền để lại, ngài đã học được, ngài làm được rồi, vui vẻ! Tại sao phải học kinh điển Đại-thừa? Vì đáp án đều có trong kinh điển, bộ kinh nào cũng có. Chư vị xem, Phu tử đem điều tại sao phải học, đặt trong câu nói đầu tiên, 學而時習之,不亦說乎 “học nhi thời tập chi, bất diệc duyệt hồ”, có ý vị! Đức Phật Thích Ca Mâu Ni thì đặt sau cùng, một đầu một cuối đều là quan trọng nhất, chư vị xem kinh Phật đến sau cùng, một câu nói là gì? 皆大歡喜,作禮而去“Giai đại hoan hỷ, tác lễ nhi khứ” (đều đại hoan hỉ, làm lễ rồi lui). Tại sao phải học Phật? Bởi đều đại hoan hỉ! Bồ-tát Di Lặc làm đại diện, chư vị vào trong chùa, vào cổng chính, đầu tiên chư vị gặp được ai? Gặp Bồ-tát Di Lặc, gương mặt tươi cười, chào đón chư vị ngay cửa. Không vui lắm sao, đều đại hoan hỉ, chư vị muốn hay không? Chư vị chính mình được vui vẻ, cả nhà vui vẻ, cả nhà hạnh phúc, xã hội an định, quốc gia giàu mạnh, thiên hạ thái bình, chắc chắn không có chiến tranh, không có đấu tranh, không có cạnh tranh. Tất cả luân lý đạo đức, nhân quả, giáo dục Thánh Hiền đều vận dụng vào trong đời sống, vào trong công việc, xử việc đối người tiếp vật, [đều] vui vẻ! Đời người cần là gì? Chính là cần vui vẻ, vui vẻ là hạnh phúc. Tại sao phải học? Câu trả lời này hay nhất, chúng ta chính là vì nhìn thấy điều cần học này. Thật đấy, tôi học Phật là [được] thầy Phương: giảng Triết học Khái Luận cho tôi, giảng đến Triết học Kinh Phật thì nói với tôi, học Phật là sự hưởng thụ cao nhất của đời người. Vì sao tôi học Phật? Chính vì điều này mà học Phật, thầy không gạt tôi. Về sau tôi gặp được Đại sư Chương Gia, Đại sư Chương Gia khuyên tôi xuất gia, mong tôi học đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Sau khi tôi xuất gia lại đi thăm thầy Phương, vừa gặp mặt nhìn thấy, [liền nói] chú thật làm à? Tôi nói là phải thật làm, sự hưởng thụ cao nhất của đời người, nếu không làm, thế không phải đáng tiếc lắm sao! Lúc bấy giờ tôi xuất gia, không có một ai tán thành, đều nói tôi học Phật đến mê rồi, mê đến chỗ không biết là vì sao luôn, tại sao mê thành như vậy? Chỉ có một mình thầy Phương nói, đúng rồi, chú hoàn toàn làm đúng rồi! Không thể không đọc kinh sách, đặc biệt là Kinh Vô Lượng Thọ, sau khi học rồi, chư vị thật sư tin tưởng Tịnh-độ, thật sư tin tưởng một đời có thể giải thoát, chầm chậm từ từ dần dần, buông xuống tất cả trong đời sống, được đại tự tại, được đại hoan hỷ.

          Ở chỗ này, chúng ta tiếp tục xem câu dưới đây, 下品下生,是具造(就是具足的造)五逆等重罪凡夫人也“Hạ phẩm Hạ sanh, thị cụ tạo (tựu thị cụ túc đích tạo) Ngũ nghịch đẳng trọng tội phàm phu nhân dã”(Hạ phẩm Hạ sanh, là người phàm phu tạo đủ trọng tội (chính là tạo đầy đủ) Ngũ nghịch vân vân). Đại tội Ngũ nghịch, không có gì nặng hơn vầy. Thứ nhất giết mẹ ruột, thứ hai giết cha ruột, ngày xưa không có nghe nói qua, ngày nay thật có, mà còn thường xuyên nghe thấy. Thứ ba giết A-la-hán, A-la-hán có thần thông, chư vị không tìm được các ngài, A-la-hán là thầy, các ngài giáo hóa chúng sanh, cho nên A-la-hán đại diện cho thầy, giết hại thầy là tội nặng, Ngũ nghịch. Tội tiếp sau, làm thân Phật chảy máu. Phật là thầy Bổn Sư, phước đức lớn, có thần hộ pháp bảo vệ, chư vị không hại được Ngài, nhưng chư vị làm cho Ngài chảy một tí máu, bị một chút thương tích, thì có thể. Ở đây nói Đề Bà Đạt Đa muốn hại Phật, ông ấy biết đức Thích Ca Mâu Ni Phật, mỗi ngày đi khất thực trong thôn làng, đi ngang qua vách núi dựng đứng, ông ấy đặt tảng đá bên trên vách núi, Phật đi đến bên dưới, thì đẩy xuống, muốn giết chết Ngài, hộ pháp Vi Đà ngay lúc ấy, dùng chày kim cang ngăn được tảng đá, tảng đá vở ra, mảnh vở trúng vào chân Phật, chảy một ít máu, gọi là thân Phật chảy máu, câu chuyện có từ đó, đó là tội Ngũ nghịch. Tội sau cùng, là phá hòa hợp Tăng. Phá hoại Tăng đoàn, khiến cho người tu hành không thể thành tựu; Cũng chính là nói chướng ngại người tu hành: tự hành hóa tha, chướng ngại chính họ tu hành, chướng ngại họ giáo hóa chúng sanh, tội này cũng là nặng nhất.  Năm loại này, đọa Địa ngục Vô Gián, đây là tội nặng nhất. Tạo tội cực nặng như vậy, nếu chư vị vẫn còn một hơi thở, có người khuyên chư vị quay đầu, khuyên chư vị sám hối, chư vị thật lòng sám hối nhận sai, tín nguyện trì danh, vẫn là có thể vãng sanh.

          A Di Đà Phật, Phật pháp Đại-thừa, từ bi đến vô cùng, một đời tạo tội nghiệp, lâm mạng chung thời, một niệm chịu quay đầu thì được. Quay đầu chính là Phật, không quay đầu là yêu ma quỷ quái, quay đầu chính là Phật. Cho nên, chúng ta đối với người tạo Ngũ nghịch Thập ác, có dám xem thường hay không? Không dám. Tại sao vậy? Bởi đến lúc lâm chung, vừa gặp được Thiện tri thức, khi họ sám hối, thì họ đều vãng sanh thế giới Cực Lạc, chúng ta vẫn theo không kịp. Đây là lời thật, không phải lời giả. Làm sao chúng ta biết: tương lai họ có cơ hội hay không? Cho nên chư vị có thể suy nghĩ về điểm này, đối với người làm ác, chư vị cũng rất cung kính họ, chư vị cũng không dám tùy tiện phê bình họ. Vì vậy họ có điểm tốt, chúng ta tán dương; Họ có chỗ làm không đúng, quyết không đề cập, không đặt vào trong tâm. Đặt ở trong tâm, đặt việc ác của người khác vào trong tâm chúng ta, thì tâm này của chúng ta cũng biến thành ác rồi, việc này rất lớn, không được có cách làm như vậy. Nhất định không thể đặt ác hạnh, ác niệm, ác ngôn của người khác: vào tâm của chính mình; còn thêm phê bình người ấy, thì nghiệp đó của chư vị càng nặng hơn. Trong cặp mắt, từ sáng đến tối, nhìn thế giới này, điều gì cũng là tốt đẹp, người nào cũng là Phật Bồ-tát. Chư vị nhất định là Thượng phẩm Thượng sanh, không có ác niệm. Thế gian này do ý niệm tạo ra, do không ít người có ác niệm tạo ra, ngày nay chúng ta không tham gia vào đội ngũ của họ, chúng ta đứng ra ngoài, chúng ta nhìn rõ ràng rồi, tất cả là người thiện, tất cả là Phật Bồ-tát. Người ác là do một niệm mê hoặc tạo nghiệp, họ không phải thật sự ác, Bản tánh họ vốn thiện, không ác, ác là Tập tánh, là bị ô nhiễm bởi bất thiện bên ngoài, mà trở thành bất thiện.

          Đặc biệt là đặt điều bất thiện của người khác trong tâm, khiến cho chính mình trở thành bất thiện một nửa, vấn đề này rất nghiêm trọng, vả lại vô cùng phổ biến. Ở trong xã hội này ngày nay, bất luận ở nơi nào, bất luận vào lúc nào, chư vị đều có thể phát hiện, mà còn rất nhiều. Chính mình phải nhận biết rõ ràng, chính mình phải học Phật Bồ-tát, dùng Phật nhãn nhìn chúng sanh, vậy thì đúng rồi. Đời này chúng ta mới có thể được độ, có nắm chắc được độ, nắm chắc ở chỗ nào? Nắm chắc chính là ở thấy sắc nghe tiếng, lúc tiếp xúc đại chúng, cảnh giác rất cao, không đặt ác vào trong tâm, đặt trong tâm trong mắt đều là thiện, đều là việc tốt. Với người ác, học thái độ của Khổng Lão Phu tử thì được, 三人行,必有我師“tam nhân hành, tất hữu ngã sư” (Ba người cùng đi, chắc chắn có thầy ta). Ba người thì một người là chính mình, ngoài ra còn một người thiện, một người ác. Nhìn thấy người ác, nghĩ đến chính mình: có ác hạnh ác niệm giống như họ hay không? Có thì phải sửa, không có thì tránh, họ là thầy của ta. Người thiện, chúng ta nhìn thấy người thiện, nghĩ xem chính chúng ta có thiện hay không? Có thiện giống như họ hay không? Có, thì giữ chắc lại, giữ vững; Không có, thì nhanh chóng học tập. Cho nên người thiện người ác đều là thầy, người thiện người ác đều là Phật Bồ-tát, tốt! Thật học được việc ấy, thì bất luận ở trường hợp nào, chư vị đều đang nâng cao chính mình, đều đang tiến bộ. Chỗ này là Bồ-tát học xứ, tất cả thời tất cả nơi, chỉ cần biết.

          Đức Thế Tôn tại thế, người theo đức Thích Ca Mâu Ni Phật nhiều như thế. Sau khi đức Thế Tôn ra đi rồi, bao Cao tăng Đại đức các đời, có không ít [ngài] cũng đến địa vị của Phật Thích Ca, có do tu thành, có do Phật Bồ-tát tái lai, làm thị hiện cho chúng ta, để tiếp dẫn chúng ta. Phương tiện có nhiều cửa, cửa nào cũng tận thiện tận mỹ, vấn đề ở khế cơ. Chúng ta phải xem trọng khế cơ, tự biết chính mình là căn khí nào, chúng ta học pháp môn nào thì sẽ rất có thành tựu. Nếu như Pháp môn quá cao, quá khó học, thì chúng ta không phải căn cơ này, học cả đời không thể thành công, thế thì sai rồi. Giáo hạ khá phổ biến, có kinh điển có thể làm chỗ dựa, quá sâu rồi, chúng ta đổi sang cạn một tí, hoặc là tuần tự tiến dần, từ từ hướng lên trên, vậy rất tốt. Duy chỉ có tông môn Thiền tông, và Mật tông, hai tông này đặc thù, đều cần phải chân Thiện tri thức giúp đỡ chư vị, nếu không thì tẩu hỏa nhập ma, mà chính mình không biết, chính mình cho rằng đã thành tựu, kỳ thực sai rồi.

          Cho nên ba vị thầy đó của tôi, ngài Phương Đông Mỹ, Đại sư Chương Gia, cùng thầy Lý, đều cảnh cáo tôi, nhất định đừng đụng Thiền tông, đừng đụng Mật tông, tôi đã tiếp nhận lời nhắc nhở. Các ngài nói hai Tông này, không phải căn cơ của con, con không làm được. Cho nên tôi theo Đại sư Chương Gia ba năm, là những năm cuối đời của Đại sư Chương Gia, khi tôi theo Đại sư, ngài đã 65 tuổi, 68 tuổi thì ngài ra đi. Ngài nói cho tôi biết, học Mật, thì 20 năm đầu học Hiển giáo, tôi vẫn chưa học xong Hiển giáo, nên không thể học Mật. Tôi theo ngài ba năm, lúc bấy giờ ngài dạy tôi một câu chú ngữ, Lục Tự Đại Minh chú của Bồ-tát Quán Thế Âm, đây là thần chú phổ biến mọi người đều niệm, Om Ma Ni Padme Hum, đây là phát âm theo Tây Tạng. Tôi thỉnh giáo ngài, câu này có ý nghĩa gì? Trong Mật là không đồng ý nói ra, chỉ dạy chư vị niệm, không hiểu ý nghĩa. Không hiểu nghĩa làm sao hành? Mật tông phải quán tưởng, quán tưởng, tay kiết ấn, miệng niệm chú, tam Mật tương ưng, cho nên tôi đều hỏi rõ ràng. Ngài nói cho tôi biết, sáu chữ này, “om” là thân thể; 嘛呢 “ma ni” là hoa sen, trong kinh văn Trung Hoa chúng ta dịch thành ma ni, là hoa sen; 叭咪“padme” là bảo trì; “hum” là ý. Chư vị xem, chia ý nghĩa của chữ ra để giảng, thân, hoa sen, bảo trì, ý. Vậy chúng ta dùng Trung Văn để tổ hợp lại, thì rất dễ hiểu rồi, bảo trì tâm của chư vị, thân của chư vị, giống như hoa sen, ra khỏi bùn mà không nhiễm, ý nghĩa rất hay! Dạy tôi niệm câu này. Rất nhiều người niệm câu này, không biết ý nghĩa là gì, tôi là được Đại sư Chương Gia giải thích. Cho nên chúng tôi mới hiểu được, Mật chú là thật sự có Thượng sư giải thích cho chư vị, đều là câu hay nhất. Hay ở chỗ Mật của câu thần chú, chỗ hay của Mật, không để chư vị biết, tại sao vậy? Vì dễ dàng đắc định, chính là chỉ biết niệm câu chú này, thì đều quên hết tất cả vọng tưởng phân biệt chấp trước, là từ niệm chú mà được định. Thì giống như chúng ta đối với tầng lớp tri thức, ưa thích đọc sách, đọc sách ngàn lần, dùng đọc sách để tu Thiền định. Cho nên vô lượng pháp môn, Hiển giáo Mật giáo, Tông môn Giáo hạ tất cả [đều] tu định, chỉ có nhân Định khai Huệ, [thì] mục đích dạy học của Phật giáo mới đạt được. Cho nên Mật dễ đắc Định, không [nói] ý nghĩa. Đại sư Chương Gia lúc giảng thấu cho tôi, tôi [thấy] có ý nghĩa, họ niệm câu chú này không có ý nghĩa, tôi niệm câu này có ý nghĩa. Thông thường Thượng sư là không giảng, không nói cho chư vị, chỉ dạy chư vị niệm. Căn tánh của tôi, chư vị không giảng rõ ràng thì tôi hoài nghi, cho nên Đại sư Chương Gia từ bi, đã nói rõ ràng cho tôi rồi.

     Tiếp theo, 下輩之內,有多類故。《觀經》說惡。今說善人。故《覺經》(即《漢譯》)云:其三輩者,當斷愛欲,無所貪慕。“Hạ bối chi nội, hữu đa loại cố. Quán Kinh thuyết ác. Kim thuyết thiện nhân. Cố Giác Kinh (tức Hán Dịch) vân: Kỳ tam bối giả, đương đoạn ái dục, vô sở tham mộ”(Ở trong bậc Hạ, vì có nhiều loại. Quán Kinh nói người ác, kinh này nói người thiện. Nên Giác Kinh (tức bản dịch thời Hán) nói: người ba bậc ấy, phải đoạn ái dục, không có tham nghĩ). Tám chữ này rất quan trọng. Sở dĩ người ra không được sáu đường luân hồi, chính là [do] ái dục. Cho nên cổ Đại đức lại nói, 愛不重不生娑婆,念不一不生淨土“ái bất trọng bất sanh Ta Bà, niệm bất nhất bất sanh Tịnh-độ”(Ái dục không nặng không sanh Ta Bà, niệm không nhất không sanh Tịnh-độ). Nếu không đoạn ái dục này, thì không ra khỏi sáu đường luân hồi, đây là tầng sâu nhất trong tình chấp, vô lượng kiếp huân tu. Cho nên với người, Phật nói rất rõ ràng, có thể thấy được trong Bách Pháp Minh Môn, đó là sách nhập môn Pháp Tướng tông, 26 phiền não, sáu Căn bản phiền não; Tùy phiền não, Đại tùy, Trung tùy, Tiểu tùy tổng cộng 20 thứ. Tâm sở thiện, đây chính là nói, tâm phiền não là Tâm sở ác, không thiện, Tâm sở thiện chỉ có 11 thứ; Tâm sở ác có 26 thứ. Chư vị xem, chư vị là thiện nhiều hay ác nhiều? Cho nên người học xấu rất dễ, học tốt khó, không dễ dàng. Độ sâu dày của thiện căn, hoàn toàn xem ái dục, người ái dục mỏng [thì] thiện căn dày, người ái dục nặng, thiện căn mỏng. Độ sâu dày này dĩ nhiên là có liên quan, thế nhưng cũng không phải là liên quan tuyệt đối, liên quan tuyệt đối vẫn ở trong việc gặp duyên khác nhau, gặp được duyên rất thù thắng, thì dễ dàng thành công. Phật pháp giảng duyên, nhưng gặp duyên và thiện căn của chính mình, kiếp quá khứ nếu không có tu hành cũng rất khó khăn. Kiếp quá khứ có tu hành, gặp được duyên giống nhau thì thuận lợi rồi, quá khứ học pháp môn này, bây giờ lại tiếp tục, thì nâng lên rất nhanh; Pháp môn học trong đời quá khứ khác với đời này, thì nâng lên rất khó khăn. Phổ biến nhanh chóng, có thành tựu, chỉ có Tịnh-độ, chỉ có một môn này, môn này khó tin dễ hành. Chư vị xem thử, Đại sư Ngẫu Ích, nói pháp môn Tịnh độ tông này, thành bốn chữ, 信願持名“tín nguyện trì danh”. Thật tin thật nguyện, chịu niệm câu Phật hiệu này, bốn chữ thì giải quyết rồi, thì đã nói hết pháp môn này, có nói nhiều thêm, đều không rời khỏi bốn chữ này. Cho nên Đại sư Ấn Quang khen ngợi, cổ Phật tái lai cũng không có cách nào vượt qua cách nói trên, ngài đã nói hết rồi. Chúng ta phải xem trọng, chúng ta phải biết căn khí chính mình không đủ, đoạn phiền não khó, khai trí huệ cũng khó, thì dùng bốn chữ này, tuyệt! Phải dùng được đắc lực bốn chữ này, [thì] tất cả nguyện vọng của chư vị, có thể viên mãn trong đời này.

          Như lão Hòa thượng Hải Hiền, công phu niệm Phật của lão Hòa thượng Hải Hiền, công phu thành-phiến, tôi cho rằng trước 25 tuổi, công phu đã thành-phiến; sự-nhất-tâm-bất-loạn, nhiều lắm 30 tuổi; lý-nhất-tâm-bất-loạn, nhiều nhất 40 tuổi, nói cách khác, 40 tuổi thì ngài đã thành Phật rồi. Ngài không nói, bởi Sư phụ của ngài răn dạy ngài không được nói, ngài không nói. Chúng ta tin tưởng ngài sẽ không gạt người, ngài là nhiều lần thấy Phật, không ai hỏi ngài. Nếu tôi gặp được ngài, thì tôi sẽ hỏi câu đầu tiên rằng: ngài gặp Phật bao nhiêu lần rồi? Tôi tin rằng vượt qua 10 lần, có 92 năm [niệm Phật] mà! Từ công phu thành-phiến, lần đầu tiên thấy Phật, nói cách khác, lần đầu thấy Phật, về sau ước chừng 90 năm, tổng cộng trên 85 năm, thời gian lâu dài như vậy. Đại sư Huệ Viễn Sơ Tổ của chúng ta vào thời đại Đông Tấn, xây Niệm Phật đường đầu tiên ở Lô Sơn Giang Tây, đây là Tổ đình Tịnh Độ tông. Đại sư Viễn công thấy Phật bốn lần trong đời, vào lần sau cùng ngài đã nói ra, Phật đến tiếp dẫn ngài vãng sanh, ba lần trước đó thấy Phật, thấy được thế giới Cực Lạc, không nói với bất kỳ người nào, lần sau cùng này đến, thì đã vãng sanh, nói với mọi người thế giới Cực Lạc thật có. Lần thứ tư này, Phật đến tiếp dẫn, mà còn nhìn thấy người trong Liên Xã: vãng sanh trước ngài, tất cả bên cạnh A Di Đà Phật, cùng đến tiếp dẫn ngài, đều thấy được rồi. Cho nên lão Hòa thượng Hải Hiền, thời gian dài như vậy, tôi tin tưởng không chỉ 10 lần. Điều ấy làm chứng cho chúng ta, thật có, không phải là giả.

          Ngài có thể nhìn thấy, chúng ta cũng có thể nhìn thấy, chỉ cần chúng ta buông xuống vạn duyên, dứt trừ chướng ngại. Chướng ngại chính là vọng tưởng, phân biệt, tạp niệm, phân biệt chấp trước, những thứ này đã chướng ngại huệ căn chúng ta mất rồi, thật có thể buông xuống, thì trí huệ hiện tiền. Người người đều có trí huệ, cho nên chính chúng ta cũng có, chỉ cần chính mình chịu làm, y giáo phụng hành, thì đều có thể khôi phục. Sau khi khôi phục, tôi tin rằng: giống như Sư phụ của lão Hòa thượng Hải Hiền nói với ngài, sáng tỏ rồi, không được nói. Tại vì sao? Bởi thời đại khác nhau. Vào lúc đức Thích Ca Mâu Ni Phật có thể nói, chư vị nói ra, người khác tôn kính chư vị. Hiện nay không được, người ngày nay không tin, tin tưởng khoa học, bảo đem chứng cứ ra. Chư vị thấy được thế giới Cực Lạc, chư vị đem thế giới Cực Lạc ra cho tôi xem thử; Chư vị thấy được A Di Đà Phật, chư vị mời A Di Đà Phật đến, để cho tôi xem thử, gặp mặt thử. Nếu chư vị làm không được, thì họ nói chư vị nói càn nói bậy, lời tà ma mê hoặc đại chúng, tội danh đầy mình, phiền não lớn lắm rồi. Cho nên ở vào hoàn cảnh khác nhau, chỉ có thể để trong tâm. Đến khi sắp ra đi thì đến hiện tướng, vậy được, sau cùng biểu diễn một lúc cho chư vị xem, chư vị tin tưởng rồi, chư vị bới lông tìm vết, thì họ đi rồi, rời khỏi thế giới này rồi, không tìm thấy họ nữa. Cho nên ái dục, nhà Nho dạy chúng ta cách vật, vật chính là vật dục, phải vô sở tham mộ, không có hâm mộ, không có tham luyến, phải làm được điểm này, thì thật có thể buông xuống. Thứ hai, 慈心精進,不當瞋怒 “từ tâm tinh tấn, bất đương sân nộ”(tâm từ tinh tấn, không được sân nộ). Hy vọng chư vị cả đời này không nổi nóng, phải học công phu này, người có ác hơn, cũng phải tươi cười đón chào, học không nổi nóng, đó là công phu, luyện công. Trong nghịch cảnh không có sân khuể, trong thuận cảnh không có tham luyến, thuận cảnh nghịch cảnh, thiện duyên ác duyên: đều không quấy nhiễu chư vị nữa, chư vị đều có thể không động tâm nữa, đó là định công. Cho nên mỗi người cả đời ở trên thế gian này, không có một ai là đối lập, không đối lập với ai, họ đối lập với tôi, tôi không đối lập với họ, không có người oán hận, không có người và sự đối lập, tốt! Tâm thanh tịnh bình hòa, đây chính là hưởng phước, đây chính là hưởng thụ. 齋戒清淨“Trai giới thanh tịnh”, trai là tâm thanh tịnh, giới là giúp đỡ chư vị tâm thanh tịnh, thân tâm phải thanh tịnh, tương ưng với Tánh đức. Chư vị xem Đại sư Huệ Năng khai ngộ, câu đầu tiên nói, 何期自性,本自清淨“Hà kỳ Tự-tánh, bổn tự thanh tịnh” (nào ngờ Tự-tánh, vốn tự thanh tịnh), thanh tịnh là Tánh đức, không bị bên ngoài quấy nhiễu. 當一心念欲生無量清淨佛國“Đương nhất tâm niệm dục sanh vô lượng thanh tịnh Phật quốc” (Phải nhất tâm niệm mong sanh cõi Phật Vô Lượng Thanh Tịnh), đây chính là thế giới Cực Lạc. Chúng ta nhất tâm niệm Phật, hy vọng vãng sanh thế giới Cực Lạc, thế giới Cực Lạc là cõi Phật Vô Lượng Thanh Tịnh.

 蓋往生品類,萬別千殊。三輩九品,只是粗分“Cái vãng sanh phẩm loại, vạn biệt thiên thù. Tam bối cửu phẩm, chỉ thị thô phân”(Đại khái phẩm loại vãng sanh: muôn ngàn sai khác. Ba bậc chín phẩm, chỉ là chia sơ lược), đây là nói lời thật. Có phải chỉ có ba bậc chín phẩm hay không? Không chỉ vậy, phẩm loại rất nhiều, đây là phân chia sơ lược. Nói với chư vị về ba bậc chín phẩm này, sau đó chư vị biết vì sao, mỗi người và nghiệp mang theo của mỗi người khác nhau, thì làm sao họ bình đẳng được? Chúng ta nói đới nghiệp bao nhiêu, bao nhiêu này cũng là con số chung chung, trong nhiều còn có nhiều hơn, trong ít còn có ít hơn, vô lượng vô biên, người từ mười phương thế giới đi vãng sanh, cho nên ba bậc chín phẩm là phân chia sơ lược. Ngay trong Hạ phẩm này, 已類別無數。彼經明惡人,本經則指善士“Dĩ loại biệt vô số. Bỉ kinh minh ác nhân, bổn kinh tắc chỉ thiện sĩ” (đã chia ra vô số loại. Kinh kia nói rõ người ác, kinh này thì chỉ người thiện), những người này đều là người bậc Hạ vãng sanh, 如《漢譯》下輩之人,確是修善者也“như Hán Dịch Hạ bối chi nhân, xác thị tu thiện giả dã” (Như người bậc Hạ trong bản dịch đời Hán, thật là người tu thiện). Người Hạ phẩm vãng sanh trong Quán Kinh, lúc còn sống tuy là người ác, sau khi hoa nở đều là Đại-thừa.

          下品上生,經七七日蓮花乃敷“Hạ phẩm Thượng sanh, kinh thất thất nhật liên hoa nãi phu”(Hạ phẩm Thượng sanh, qua 49 ngày, hoa sen mới nở), thì hoa sen nở rồi, 經十小劫,得入初地 “Kinh thập tiểu kiếp, đắc nhập Sơ-địa”(qua mười tiểu kiếp, được nhập Sơ-địa), Sơ-địa là Pháp-thân Bồ-tát, chính là Bồ-tát A-duy-việt-trí. Bảy bảy 49 ngày hoa nở, mười tiểu kiếp, đây đều là nói cách tính thời gian: ở thế gian này của chúng ta, không phải nói thế giới Cực Lạc, người thế giới Cực Lạc không có khái niệm thời gian. Chúng ta có, tại sao chúng ta có? Bởi trái đất quay quanh mặt trời, đối mặt với mặt trời là ngày, quay lưng với mặt trời là đêm, 24 giờ quay một vòng, cho nên cảm thấy có ngày đêm. Thế giới Tây Phương Cực Lạc không có mặt trời, cũng không có mặt trăng, là một vùng ánh sáng, không có tối tăm. Cho nên chúng ta đến thế giới Cực Lạc, không còn khái niệm ban ngày ban đêm nữa; Những việc như tháng, ngày tháng, thế giới Cực Lạc cũng không có. thế giới Cực Lạc có hiện tượng rất phi thường, tất cả hiện tượng thì ở ngay tức khắc, phát tâm ngay lập tức, tu hành ngay lập tức, thành Phật cũng ngay lập tức. Thời gian, không gian là giả, không phải thật. Nơi này của chúng ta xem rất quan trọng, thế giới Cực Lạc không có ai nghĩ đến: có thời gian không gian nào, không nghĩ đến. Ở thế giới Cực Lạc, điều duy nhất chính là nghe kinh học tập, phạm vi học tập quá là lớn, biến pháp giới hư không giới đều là phạm vi hoạt động của chư vị. Cho nên chư vị sẽ phân thân đến mười phương cõi nước, giúp đỡ những người có duyên, vô số kiếp đến nay, mười phương thế giới, chúng ta đều đã từng sống qua, ở đó đều có người quen trong quá khứ, đều sẽ gặp được. Gặp mặt những người quen này, tự nhiên liền hiểu rõ, chư vị biết họ tu pháp môn gì, chư vị biết họ cần gì, chư vị có thể giúp đỡ họ, chư vị có thể nâng đỡ họ, chư vị có thể thành tựu cho họ; tương đồng với làm việc của A Di Đà Phật, cảnh giới không thể nghĩ bàn.

          Người Hạ phẩm Thượng sanh, 49 ngày hoa nở, mười tiểu kiếp chứng quả. Người Hạ phẩm Trung sanh, phải qua sáu kiếp, hoa sen mới nở. Kiếp số này, đều là cách tính ở thế giới của chúng ta đây. Hoa nở, 聞說大乘甚深經典,應時即發無上道心“Văn thuyết Đại-thừa thậm thâm kinh điển, ứng thời tức phát Vô Thượng đạo tâm” (nghe giảng kinh điển Ðại-thừa rất sâu, lập tức phát Vô Thượng đạo tâm), nghe Phật giảng kinh, thì đã phát tâm Vô Thượng Bồ-đề. Người Hạ phẩm Hạ sanh, phải đủ 12 đại kiếp, hoa sen mới nở, 聞法歡喜,應時即發菩提之心。嘉祥《觀經義疏》曰:上品修大乘因故,所以得大乘果。中品修小乘因故,還得小乘果。下品現在雖不修大乘善及小乘善。但彼臨終時,遇善知識,為說大乘妙法。以聞大乘故,得大乘果“Văn pháp hoan hỷ, ứng thời tức phát Bồ-đề chi tâm. Gia Tường Quán Kinh Nghĩa Sớ viết: Thượng phẩm tu Đại-thừa nhân cố, sở dĩ đắc Đại-thừa quả. Trung phẩm tu Tiểu-thừa nhân cố, hoàn đắc Tiểu-thừa quả. Hạ phẩm hiện tại tuy bất tu Đại-thừa cập Tiểu-thừa thiện. Đãn bỉ lâm chung thời, ngộ Thiện tri thức, vị thuyết Đại-thừa diệu pháp. Dĩ văn Đại-thừa cố, đắc Đại-thừa quả”(nghe pháp hoan hỷ, lập tức phát tâm Bồ-đề. Ngài Gia Tường viết trong Quán Kinh Nghĩa Sớ như sau: Thượng phẩm do tu nhân Ðại-thừa, nên đắc quả Ðại-thừa. Trung phẩm do tu nhân Tiểu-thừa, nên đắc quả Tiểu-thừa. Hạ phẩm tuy hiện tại không tu thiện của Ðại-thừa và thiện của Tiểu-thừa, nhưng lúc họ lâm chung, gặp Thiện tri thức, giảng cho diệu pháp Ðại-thừa. Do nghe Ðại-thừa, nên đắc quả Ðại-thừa). Chỗ này là nói với chúng ta, nhân quả báo ứng tơ hào không sai. Cho nên truyền bá Đại-thừa, cách truyền bá thế nào? Là một câu Phật hiệu thì được, khuyên người niệm một câu Phật hiệu, nói cho họ biết, công đức của một câu Phật hiệu này: là vô lượng vô biên. Đại-thừa Tiểu-thừa, Hiển giáo Mật giáo, Tông môn Giáo hạ, vạn thiện đồng quy, đều ở câu Phật hiệu này. Âm thanh Phật sự, nói đến viên mãn rốt ráo, chính là một câu Phật hiệu này. Khuyên người niệm câu Phật hiệu này, họ chịu niệm, thì công đức không thể nghĩ bàn, tương lai chắc chắn có thể chứng quả.

          Chúng ta xem thêm chú giải tiếp theo, 《阿彌陀經》謂執持名號,得生淨土之善男子、善女人“A Di Đà Kinh vị chấp trì danh hiệu, đắc sanh Tịnh-độ chi Thiện nam tử, Thiện nữ nhân” (Kinh A Di Ðà nói: Thiện nam tử, Thiện nữ nhân, chấp trì danh hiệu được sanh về Tịnh-độ), nêu những lời trong Kinh A Di Đà, 其人臨命終時,阿彌陀佛與諸聖眾,現在其前。正符本經三輩臨終見佛之說“kỳ nhân lâm mạng chung thời, A Di Đà Phật dữ chư Thánh chúng, hiện tại kỳ tiền. Chánh phù bổn kinh tam bối lâm chung kiến Phật chi thuyết”(người ấy lúc lâm chung, A Di Ðà Phật cùng các Thánh chúng: hiện ở trước mặt, thật phù hợp với thuyết ba bậc lâm chung thấy Phật của kinh này). Trong Kinh Di Đà cũng là nói như vậy, Phật và Thánh chúng, hiện ở trước mặt. 其它如《稱揚諸佛功德經》“Kỳ tha như Xưng Dương Chư Phật Công Đức Kinh”(Ngoài ra, như Kinh Xưng Dương Chư Phật Công Ðức), trong kinh đó lại nói, 若有得聞無量壽如來名者“Nhược hữu đắc văn Vô Lượng Thọ Như Lai danh giả” (Nếu có người được nghe danh hiệu của Vô Lượng Thọ Như Lai), đây chính là nói rõ người niệm Phật của Tịnh Độ tông, 命欲終時,一心信樂,念不忘捨,阿彌陀佛將諸眾僧,住其人前,魔終不能毀壞斯等正覺之心。“Mạng dục chung thời, nhất tâm tín nhạo, niệm bất vong xả, A Di Đà Phật tương chư chúng Tăng, trụ kỳ nhân tiền, ma chung bất năng hủy hoại tư Đẳng Chánh Giác chi tâm”(lúc mạng sắp hết, nhất tâm tin thích, niệm không quên rời, thì A Di Ðà Phật mang theo các chúng Tăng, ở trước người ấy, ma trọn không phá hoại được tâm Đẳng Chánh Giác của người đó). Chỗ này cũng làm chứng minh cho chúng ta. Đức Phật nói ở trong Kinh Xưng Dương Chư Phật Công Đức, nói rất rõ ràng, 若有得聞無量壽如來名者 “Nhược hữu đắc văn Vô Lượng Thọ Như Lai danh giả”(Nếu có người được nghe danh của Vô Lượng Thọ Như Lai), đây chính là họ có thể có cơ hội này, có duyên phận này, nghe được danh hiệu A Di Đà Phật. Vào lúc mạng chung, họ có thể một lòng tin tưởng, chữ “nhạo” này là ưa thích, ưa thích thế giới Tây Phương Cực Lạc, tôi muốn vãng sanh, chính là có tín, chữ “nhạo” này là nguyện, có tín có nguyện, niệm bất vong xả, niệm niệm không quên. A Di Đà Phật, “tương” là mang theo, A Di Đà Phật, mang theo rất nhiều rất nhiều người xuất gia, xuất hiện ở trước mặt họ. Những điều ác mà họ đã tạo trong quá khứ, yêu ma muốn tìm họ đòi mạng, muốn tìm họ báo thù, bởi vì họ niệm Phật, nên Phật ở trước mặt, những yêu ma này không thể thuận lợi, chính là không thể hủy hoại tâm Chánh Giác của họ, Phật ở nơi đó gia trì họ, bảo hộ họ. Điểm này cũng đã tăng thêm lòng tin của chúng ta.

          Lại trong Kinh Cổ Âm Vương nói, 若有四眾 “nhược hữu Tứ chúng”(Nếu có Tứ chúng), Tứ chúng chính là nam chúng nữ chúng xuất gia, và nam chúng nữ chúng tại gia, đó gọi là Tứ chúng. 能正受持彼佛名號“Năng chánh thọ trì bỉ Phật danh hiệu”(có thể thật sự thọ trì danh hiệu đức Phật ấy), đức Phật ấy là A Di Đà Phật, danh hiệu Phật ấy. 以此功德,臨欲終時,阿彌陀佛即與大眾往此人所,令其得見“Dĩ thử công đức, lâm dục chung thời, A Di Đà Phật tức dữ đại chúng vãng thử nhân sở, linh kỳ đắc kiến”(Do công đức ấy, lúc sắp lâm chung, A Di Ðà Phật liền cùng đại chúng đến chỗ người ấy, khiến cho được thấy), thần lực của A Di Đà Phật gia trì, khiến cho người lâm chung đó thấy được, thấy được A Di Đà Phật. Sự việc này, quá khứ hiện tại, trong và ngoài nước đều có xảy ra, làm thế nào có cơ duyên tốt như vậy? Nhân trồng trong đời quá khứ, vào lúc đó đã chín muồi rồi.

          Chúng tôi ở nước Mỹ một khoảng thời gian, có mấy vị Cư sĩ, thậm chí có một người tên Châu Quảng Đại, vẫn không thể gọi là Cư sĩ, ông ấy không có tín ngưỡng Tôn giáo. Bị ung thư thời kỳ cuối, Bác sĩ nói cho người nhà của ông biết, thọ mạng của ông sẽ không qua nổi một tháng, hãy chăm sóc tốt cho ông ấy, muốn ăn gì thì cho ông ăn. Người nhà, cả nhà không có tín ngưỡng Tôn giáo, lúc này Hội Phật giáo của chúng tôi, vừa mới thành lập một năm, tìm đến chúng tôi, hỏi có thể cứu hay không? Chúng tôi cử mấy vị đồng tu đi thăm, gọi điện thoại nói cho tôi biết, trường hợp này cực kỳ nghiêm trọng, là không cứu được. Tôi nói không cứu được thì khuyên ông niệm Phật, khuyên ông cầu sanh Tịnh-độ, nói với ông sự thù thắng của thế giới Cực Lạc, sự tốt đẹp của thế giới Cực Lạc. Ông ấy có thể tiếp nhận, rất hoan hỷ, nói với người nhà của ông, không cần tìm thuốc men, không cần tìm Bác sĩ, giúp đỡ ông niệm Phật cầu vãng sanh. Cho nên cả nhà và bốn vị đồng tu mà chúng tôi cử đi, đã niệm ba ngày, ba ngày ba đêm, lúc đi tướng lành hiếm có, thật sự niệm Phật vãng sanh rồi. Đó là gốc niệm Phật đã có từ trong đời quá khứ, lúc mạng sắp hết gặp duyên như vậy, ông có thể tiếp nhận, không có nghi ngờ, lúc bấy giờ tin tưởng. Cho nên bốn chữ tín nguyện trì danh này ông ấy đều có đủ tất cả rồi.

          Còn có mấy vị biết trước ngày giờ, vãng sanh tại nước Mỹ. Nữ chúng tại gia, bà cụ, phải là biết trước đó ba tháng, nếu không thì bà không làm ra được, áo tang của con trai, con dâu, cháu nội nhà bà, đều đã may xong hết. Cháu nội đi học, con trai con dâu đi làm, ban ngày thì bà ở trong nhà một mình, bà đã lo liệu xong tất cả hậu sự, quần áo tang chính bà tự may, viết một tờ di chúc. Ngày hôm ra đi, không nói cho người nhà biết, nói cho người nhà biết [thì] sợ phiền phức, tránh phiền phức. Lúc bà ngủ, bà không ngủ, ngồi xếp bằng, niệm Phật ra đi. Sáng sớm ngày hôm sau, bởi vì mỗi sáng sớm, bà phải lo bữa sáng cho người nhà, ngày đó cửa phòng của bà không mở, dường như bà chưa thức dậy, không ai nấu cơm sáng. Con trai bà mở cửa phòng ra, thấy mẹ ngồi trên giường, ngồi xếp bằng, nhìn thấy một số áo tang, di chúc đặt bên cạnh bà, di chúc đã ghi rất rõ ràng, thì mới biết bà đã đi rồi. Đó là rất cao minh, không lên tiếng, [nên] không chướng ngại. Cho nên con trai của bà vội vàng, gọi điện thoại cho một số bạn bè niệm Phật, báo cho biết sự việc này, mọi người đều đến xem, tán thán bà. Lúc đó có một cụ bà họ Cam, rất thân quen với tôi, chồng bà là Tướng quân, Thượng tướng, đã qua đời, con trai đi học ở Mỹ, cũng lấy được học vị tại Mỹ, thành gia lập nghiệp rồi, bà theo con trai. Tận mắt nhìn thấy, gọi điện thoại báo cho tôi biết, thật sự không phải giả, tín tâm đầy đủ. Đây đều không phải là quá khứ, mà hiện tiền, để chúng ta chính mắt nhìn thấy.

          Thí dụ về Lưu Tố Vân, đó lại là bằng chứng sống ở ngay trước mắt. Chị của cô ấy cầu nguyện vãng sanh, làm tấm gương cho chúng ta, làm tấm gương vãng sanh. Phát nguyện đó thì có cảm ứng với Phật, Phật nói cho cô ấy biết, thọ mạng cô vẫn còn 10 năm, cô ấy không cần 10 năm nữa, con muốn làm kiểu mẫu cho mọi người xem. Sức khỏe của cô ấy vốn không tốt, đã có bệnh, cô ấy đã làm tấm gương cho mọi người xem. Nói với mọi người thời gian vãng sanh, do A Di Đà Phật nói với cô ấy, cô tuyên bố với mọi người, ngày hôm đó, mọi người đều đến xem cô ấy, xem cô vãng sanh thế nào. Vừa nói vừa cười tán gẫu với mọi người, thời gian vừa đến, cô ấy nói tôi đi đây, thật đi rồi, cũng không sai một phút một giây, chứng thực điều này là sự thật. Không cần mười năm thọ mạng nữa, làm tấm gương cho chúng ta xem. Đó là làm tấm gương, cũng là em gái Lưu Tố Vân của cô ấy, tùy tiện đã nói một câu, cô ấy lại rất nghiêm túc. Người em gái nói pháp môn Tịnh độ, đáng tiếc không có người làm mẫu, vãng sanh lúc còn sống cho mọi người xem. Cô ấy nghe được, nói với em gái, chị làm, để chị làm, thì phát tâm như vậy. Một tháng, bàn giao hoàn tất tất cả hậu sự, phát nguyện cầu vãng sanh. Trên trời có âm thanh, không nhìn thấy hình, có âm thanh, Lưu Tố Vân nghe được, chính là ngày giờ, nói với cô ấy thời gian. Sau khi Lưu Tố Vân nghe xong, một dãy những con số đó, là 2, 0, 1, 2, 1, 1, 2, 1, 1, 2, một dãy số đó, 2, 0, 1, 2 là năm; 1, 1 là tháng 11; 2, 1 là ngày 21; phía sau còn có 1, 2, là 12 giờ. Cô ấy ghi lại những con số này, đưa cho chị cô ấy, chị cô ấy vừa nhìn, thì gật đầu rồi cất đi, là ngày đó vãng sanh. Tại chỗ có bốn, năm chục người, chính mắt nhìn thấy. Thật sự nghĩ không ra, tại sao vậy? Vì nói đùa, tán gẫu, lại không phải niệm Phật. Niệm Phật là tiễn vãng sanh, cô ấy lại không phải tiễn vãng sanh, vừa nói vừa cười, khi tới thời gian, thật đi rồi, nói với mọi người tôi đi đây, thì thật đi rồi. Cô ấy làm chứng chuyển cho chúng ta. Công phu của Lưu Tố Vân, cô ấy không lộ ra, trong tâm tôi nghĩ cô ấy có, không phải giả. Mỗi ngày 10 bộ Kinh Vô Lượng Thọ, thời khóa mỗi sáng của cô ấy là 10 bộ Kinh Vô Lượng Thọ, bây giờ mỗi lần cô ấy đọc là khoảng nửa giờ đồng hồ, 10 giờ có thể đọc 20 lần, 20 năm không gián đoạn, bền lòng, kiên nhẫn, không gián đoạn. Mỗi ngày hai, ba giờ thì thức dậy, ngủ sớm dậy sớm, tám, chín giờ ngủ; Hai, ba giờ thức dậy, sáng sớm đến hừng đông, làm xong toàn bộ thời khóa rồi. Đây đều làm ra tấm gương để cho chúng ta xem.

          Phía sau lại trích dẫn Kinh Hoa Nghiêm, 又《華嚴經》云:諸佛世尊有十種佛事。一者,若有眾生,專心憶念,則現其前。是均為本經之良證。“Hựu Hoa Nghiêm Kinh vân: Chư Phật Thế Tôn hữu thập chủng Phật sự. Nhất giả, nhược hữu chúng sanh, chuyên tâm ức niệm, tắc hiện kỳ tiền. Thị quân vi bổn kinh chi lương chứng”(Và Kinh Hoa Nghiêm dạy: Chư Phật Thế Tôn có mười loại Phật sự. Một là nếu có chúng sanh, chuyên tâm nhớ niệm, thì hiện trước họ. Đó đều là chứng minh xác thật cho kinh này). Chứng minh tốt nhất. Điều trong kinh Hoa Nghiêm nói, là thông thường, không có chỉ định là A Di Đà Phật. Chư Phật Thế Tôn có mười loại Phật sự, Phật sự là giúp đỡ chúng sanh giác ngộ, giúp đỡ chúng sanh việc liễu sanh tử xuất tam giới, đều là làm Phật sự. Đức Thích Ca Mâu Ni Phật một đời dạy học, sự nghiệp của đức Thích Ca Mâu Ni Phật là gì? Mở trường học, dạy học. Phật không có địa chỉ nhà trường, Phật giảng kinh dạy học ở dưới rừng cây, ở bên sông, không có nơi cố định, nhưng mỗi ngày dạy học không gián đoạn. Trải qua cuộc sống du mục, thật là được đại tự tại, ngày ăn một bữa, qua đêm dưới cây. Chư vị xem Phật giảng A Hàm 12 năm, là Tiểu học; Phương Đẳng tám năm, giống như Trung học; Bát Nhã là 22 năm, là Đại học; tám năm sau cùng giảng Pháp Hoa, tương đương với Nghiên cứu sinh, từ cạn đến sâu, đào tạo dần dần. Đây đều là làm tấm gương cho chúng ta, chúng ta nên học tập Phật.

          Cho nên Tôn giáo phải quay về giáo dục, vậy thì đúng rồi, Tôn giáo không phải mê tín. Tôn giáo phải quay về giáo dục, Tôn giáo phải học tập lẫn nhau. Nếu y theo văn tự của Trung Hoa, để giải thích hai chữ Tôn giáo, thì chính xác vô cùng, tôn là chủ yếu, quan trọng, tôn sùng, có ba nghĩa như vậy; Giáo là giáo dục, dạy học, giáo hóa. Hai chữ Tôn giáo gắn liền nhau, có thể nói là giáo dục chủ yếu, dạy học quan trọng, giáo hóa tôn sùng của nhân loại. Cho nên ông Toynbee nói, nhân loại không tách rời Tôn giáo, Tôn giáo là điều tất yếu của nhân loại. Văn hóa của nhân loại là Tôn giáo có trước, sau có Văn hóa. Nếu không có Văn hóa của Tôn giáo, thì Văn hóa ở trên thế giới này, nhiều nhất 200 năm đã tiêu mất rồi, Văn hóa mà có thể tồn tại lâu dài, đều là lấy Tôn giáo làm cơ sở. Câu này nói rất có đạo lý, có căn cứ. Văn hóa Trung Hoa lưu truyền đến ngày nay, chính là bởi vì có ba nhà Nho Phật Đạo, gốc rễ quá sâu rồi. Trên thế giới quá khứ cũng từng có Văn hóa cổ, không có cách bảo tồn lại, vì không có cơ sở Tôn giáo. Văn hóa không có cơ sở Tôn giáo còn có rất nhiều, họ là chuyên môn nghiên cứu, từng xuất hiện trên thế giới này. Trong 5.000 năm nay, từng xuất hiện hai mươi mấy loại Văn hóa khác nhau, đều là hai, ba trăm năm thì không còn nữa, ngày nay duy chỉ có Văn hóa Trung Hoa, lâu như vậy, mà vẫn tồn tại. Cho nên ngày nay chúng ta nghĩ đến, nếu chúng ta đánh mất Nho Phật Đạo, thì Văn hóa của chúng ta hết sức nguy cơ, có lẽ sẽ đoạn mất.

          Ba gốc Nho Phật Đạo, gốc của đức hạnh mà chúng ta đề xướng trước đây, nhất thiết phải học tập, phải tuân thủ. Đệ Tử Quy là gốc của Nho; Cảm Ứng Thiên là gốc của Đạo; Thập Thiện Nghiệp Đạo là gốc của Phật, nhất định phải học, không thể không học. Chư vị học gốc này, mới là người thiện, Thiện nam tử, Thiện nữ nhân trong kinh Phật, mới có phần của chư vị, chư vị không có gốc này, chư vị không phải Thiện nam tử, không phải Thiện nữ nhân. Còn việc dạy cũng có ba gốc, chúng tôi cũng chọn ra ba quyển đại diện. Nho, chúng tôi chọn Tứ Thư, Tứ Thư có thể đại diện cho toàn bộ nhà Nho, Nho học; Chúng tôi chọn Kinh Vô Lượng Thọ, chính là bộ kinh này, bản do lão Cư sĩ Hạ Liên Cư hội tập, đại diện cho Phật giáo; Đạo, Đạo Đức Kinh của Lão tử, có thể đại diện cho toàn bộ Đạo. Nói cách khác, ba bộ kinh sách này là bổn khoa, bổn khoa của Hán học, nhất thiết phải đọc, ba gốc này. Đây là ba gốc của Văn hóa, không thể không học. Có cơ sở này, lại hy vọng chư vị có thể trong Tứ Khố, thích loại nào, thì chuyên công một môn, dùng 10 năm công phu chuyên công, thích Kinh Dịch, thì chuyên công Kinh Dịch; thích Tả Truyện, thì chuyên công Tả Truyện. Chuyên công một môn, mười năm, thì chư vị sẽ trở thành: chuyên gia Học giả thực sự của khoa mục này, được đại thành tựu, là nhà Hán học bậc nhất trên thế giới. Chúng tôi tin tưởng, Nho Thích Đạo đều giảng, thông một kinh thì thông tất cả kinh, thông tất cả kinh, vẫn là hoằng dương một môn. Chuyên gia giống như vậy, có thể có mười mấy hai mươi người, thì thực sự phục hưng Văn hóa rồi. Làm sao bồi dưỡng chuyên gia? Phải dùng giáo trình cổ xưa, phương pháp cổ xưa, lý niệm cổ xưa, kinh nghiệm dạy học cổ xưa của Trung Hoa, mới có thể bồi dưỡng ra được. Dùng phương pháp lý niệm dạy học ngày nay, thế thì hoàn toàn sai rồi, không phải của Trung Hoa không tốt, là phương pháp sai. Cho nên chúng ta đối với người xưa, phải có tâm chân thành, phải có tâm cung kính, phải dùng tâm thanh tịnh tiếp nhận, tánh tình nóng nảy thì không học được gì, Đây là khẳng định. Thời gian hôm nay hết rồi, chúng ta học đến đây thôi.

(Hết tập 322)

Nguyện đem công đức này

Hướng về khắp tất cả

Đệ tử cùng chúng sanh

Đều sanh nước Cực Lạc

Sớm viên thành Phật quả

Rộng độ khắp chúng sanh.

Nam Mô A Di Đà Phật.

 

Trả lời 0