TỊNH ĐỘ ĐẠI KINH KHOA CHÚ 2014 -2017
(Giảng lần thứ 4)
Phẩm Thứ Hai: Đức Tuân Phổ Hiền
Tập 75
Hòa thượng Thích Tịnh Không chủ giảng.
Giảng tại: Hiệp Hội Giáo Dục Phật Đà Hồng Kông.
Thời gian: Ngày 13 tháng 7 năm 2014.
Dịch giả: Như Hòa
Giảo chánh: Thích Thiện Trang.
Kính chào chư vị Pháp sư, chư vị đồng học, kính mời ngồi. Mời mọi người cùng tôi quy y Tam Bảo:
A-xà-lê tồn niệm, ngã Đệ tử Diệu Âm, thỉ tùng kim nhật, nãi chí mạng tồn, quy y Phật-Đà, lưỡng túc trung tôn; Quy y Đạt-Ma, ly dục trung tôn; Quy y Tăng-Già, chư chúng trung tôn. (3 lần)
Mời xem Đại Kinh Khoa Chú, trang thứ 295, bắt đầu xem câu cuối cùng của hàng thứ 2 từ trái qua:
《甄解》於此,更有闡明。文曰:初列賢護等十六正士者,彰此法不以出家發心為本。次列他方來者,彰十方佛土中,悉以此法為出世大事故,共來精進求此法。“Chân Giải ư thử, cánh hữu xiển minh. Văn viết: “Sơ liệt Hiền Hộ đẳng thập lục Chánh sĩ giả, chương thử pháp bất dĩ xuất gia phát tâm vi bổn”. Thứ liệt tha phương lai giả, chương thập phương Phật độ trung, tất dĩ thử pháp vi xuất thế đại sự cố, cộng lai tinh tấn cầu thử pháp” (Sách Chân Giải đối với điều này, càng làm sáng tỏ hơn. Văn nói: đầu tiên xếp nhóm 16 vị Chánh sĩ ngài Hiền Hộ, biểu lộ pháp này không lấy phát tâm xuất gia làm gốc. Tiếp sau nêu ra những vị ở phương khác đến, tỏ rõ trong cõi Phật mười phương, đều dùng pháp này làm nguyên nhân của đại sự xuất thế, cùng đến tinh tấn cầu pháp này). Buổi trước chúng ta học đến chỗ này. Sách Chân Giải nói rất hay, ngài Hoàng Niệm Tổ nói ở đây, 此議甚得經旨,蓋在家修行最宜持名念佛也 “Thử nghĩa thậm đắc Kinh chỉ, cái tại gia tu hành tối nghi Trì danh niệm Phật dã” (Nghĩa này rất đạt được Tông chỉ của Kinh, đại khái tu hành tại gia thích hợp nhất là Trì danh niệm Phật). Câu này giảng được rất rõ ràng rất sáng tỏ, trong sách Chân Giải đã nói, ngay trong chúng tại gia: xếp nhóm 16 vị Chánh sĩ ngài Hiền Hộ, những vị này đều là Bồ-tát tại gia. Tỏ rõ trong cõi Phật mười phương, tất cả chư Phật Như Lai ở mười phương Thế giới, giáo hóa chúng sanh khổ nạn trong sáu đường, Tịnh tông [là] khế cơ nhất, thành tựu dễ nhất. Kinh này thực tế giảng đó là để phổ độ chúng sanh, cho dù tạo Ngũ nghịch Thập ác, mà chân thật sám hối, tín nguyện trì danh, đều có thể vãng sanh. Cho nên nói thích hợp nhất của tu hành tại gia, thích hợp là cần thiết, nên cần nhất là chọn trì danh niệm Phật. 十方大士悉來聽法 “Thập phương Đại sĩ tất lai thính pháp” (Mười phương Đại sĩ đều đến nghe pháp), câu này hoàn toàn chỉ cho Đẳng giác Bồ-tát, biểu thị sự thù thắng của Pháp môn này, 實為大事因緣 “thật vi đại sự nhân duyên” (thực sự là đại sự nhân duyên), đại sự nhân duyên này: chính là liễu sanh tử ra khỏi Tam giới, đây là việc lớn. Việc lớn rốt ráo là một đời viên mãn thành Phật, vãng sanh Thế giới Tây Phương Cực Lạc không chỉ ra khỏi Lục đạo Luân hồi, mà còn ra khỏi Mười Pháp giới. Sanh đến Thế giới Tây Phương Cực Lạc, được sự gia trì bởi uy thần bổn nguyện của A Mi Đà Phật, làm A-duy-Việt-trí Bồ-tát, đây chính là thành Phật. Bất kể chư vị sanh đến Thế giới Tây Phương Cực Lạc: là ở cấp bậc nào, [trong] bốn độ ba bậc chín phẩm, bậc thấp nhất [là] vãng sanh Hạ hạ phẩm của Phàm Thánh Đồng Cư độ: cũng là A-duy-Việt-trí Bồ-tát, điều này không thể nghĩ bàn; Nói cách khác, Thế giới Tây Phương Cực Lạc là bình đẳng thành Phật, Pháp vi diệu thù thắng không gì bằng. Trong tất cả kinh, đức Phật chưa có nói như vậy, chỉ có bộ Kinh này, cho nên bộ Kinh này xác thực là Kinh đệ nhất, Pháp môn đệ nhất của tất cả chư Phật Bồ-tát độ chúng sanh thành Phật đạo.
Người nào có thể thành tựu? Người thành tựu nhiều, người thành tựu hiện nay cũng không ít, huống hồ thời xưa. Điều kiện là tin, thực sự tin có Thế giới Cực Lạc, phương tây có Thế giới Cực Lạc, thực sự tin có A Mi Đà Phật, chân thật phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ, đây chính là tâm Vô thượng Bồ-đề. Lời này là của Đại sư Ngẫu Ích: nói với chúng ta, dạy bảo chúng ta, chúng ta phải ghi nhớ. Trong Kinh giáo Đại thừa, đức Phật thường nói: 人身難得,佛法難聞 “Nhân thân nan đắc, Phật pháp nan văn” (Thân người khó được, Phật pháp khó nghe), thân người khó được, chúng ta đời này được thân người; Phật pháp khó nghe, chúng ta nghe được, không chỉ nghe được, mà còn nghe được Pháp môn Tịnh Độ. Không những nghe được Pháp môn Tịnh Độ, mà chúng ta còn gặp được lão Cư sĩ Hạ Liên Cư vì chúng ta mà hội tập Kinh Vô Lượng Thọ, Bản Hội Tập được hội tập rất hay, lịch sử trước kia không có. Kinh Phật vừa mới truyền đến Trung Hoa, khi phiên dịch thì có hội tập, chư vị xem sự trả lời câu hỏi của ngài Pháp sư Hoằng Lâm, giảng giải vô cùng rõ ràng. Không những hội tập được rất viên mãn, không có một chút thiếu sót, mà có thể nói bộ Kinh Vô Lượng Thọ này là nổi tiếng bậc nhất trong sự phiên dịch hội tập của kinh Phật, thật sự mỗi một chữ đều là Kinh văn của bản dịch gốc, không có thay đổi một chữ nào; [Những gì] trong năm bản dịch gốc có, bản này hoàn toàn đầy đủ, không có thiếu sót; Tất cả những điều trùng lặp đều thay đổi thành đơn giản, tinh yếu, không những tuy là tinh yếu, mà mỗi câu mỗi chữ đều là nguyên văn của Kinh điển, khiến cho người ta không nói [được] lời nào, là chân Kinh!
Vì sao đức Phật tuyên giảng nhiều lần? Tôi từng đưa ra báo cáo với chư vị ở phần trước, chúng ta xem thấy Bồ-tát Di Lặc trong ba hội Long Hoa. Năm xưa [khi] đức Thích Ca Mâu Ni Phật, trụ thế 80 năm ở Thế giới này, về hội, hội này chính là một lần mở lớp dạy học, đức Thích Ca Mâu Ni Phật mở lớp dạy học tổng cộng hơn 300 hội, chính là hơn 300 lần, với mỗi lần, thời gian dài ngắn không cố định, đối tượng thính chúng không như nhau, cho nên giảng kinh có sự chênh lệch. Đặc biệt thể hiện trong bộ Kinh này, Đại đức xưa nói với chúng ta, ít nhất đức Phật giảng bộ Kinh này: lặp lại ba lần trở lên. Xem được từ đâu? Xem được từ nguyện văn trong phần kinh văn bản dịch gốc, nguyện văn là chắc chắn không thể dịch sai, tuy nhiên có hai loại trong năm bản là [có] 24 nguyện, có hai loại là 48 nguyện, có một loại là 36 nguyện, cho dù phiên dịch như thế nào, cũng sẽ không thể có những sai sót này. Nếu là 48 [nguyện], thì năm loại bản cũng phải là 48 [nguyện]; 24 [nguyện], năm loại bản cũng phải là 24, không thể có sự chênh lệch lớn như vậy. Cho nên điều này là do đức Phật đã nhiều lần tuyên giảng, không phải do vấn đề của kiết tập, không phải do vấn đề của phiên dịch, mà đức Phật giảng vốn là không giống nhau, khi ngài A Nan kiết tập [đã] y theo lời nguyên gốc được giảng mà giảng lại để ghi chép lại, [và] lưu truyền cho đời sau. Đọc cả năm bản này thì khó khăn, cho nên cần phải có hội tập. Sự hội tập, từ khi phiên dịch kinh Phật đến Trung Hoa thì đã từng xuất hiện, lúc đó không gọi là hội tập, mà gọi là hợp kinh, chính là hợp mấy loại kinh lại, chính là ý nghĩa hội tập mà thời hiện nay nói.
Ba hội Long Hoa, ba hội này, tôi tin rằng hội thứ nhất là giảng cho Bồ-tát, đối tượng là Bồ-tát; Đối tượng của hội thứ hai là Tiểu thừa, Thanh văn, Duyên giác; Đối tượng của hội thứ ba là chúng sanh Lục đạo, có lẽ là ba hội này. Ngay trong ba hội đó cũng sẽ giảng Kinh Vô Lượng Thọ, bởi vì với Kinh Vô Lượng Thọ thì căn cơ như thế nào cũng đều khế hợp, đều dung nạp, phàm phu học Kinh này, một đời có thể thành Phật, thì hàng Nhị thừa, Bồ-tát còn phải nói ư? Chư vị nói người Thượng thượng thừa còn cần học điều này không? Chúng ta xem thấy ở trong Kinh Hoa Nghiêm, các ngài Văn Thù, Phổ Hiền do thế nào mà thành tựu? Do phát nguyện vãng sanh Thế giới Tây Phương Cực Lạc mà thành tựu, vậy thì người căn tánh Thượng thượng cần phải học. Lại huống hồ ở phần cuối của Kinh Hoa Nghiêm, các ngài Phổ Hiền, Văn Thù: Mười đại Nguyện vương dẫn về Cực Lạc. Đó là những người nào? Toàn là Pháp thân Đại sĩ, Pháp thân Đại sĩ của Thế giới Hoa Tạng, hai vị Phổ Hiền, Văn Thù dẫn đầu, dẫn dắt các ngài đến Thế giới Tây Phương Cực Lạc để tham học, thỉnh giáo với đức A Mi Đà Phật, vậy còn có điều gì [để] nói? Từ Đẳng giác Bồ-tát đến chúng sanh Địa ngục đều được độ bình đẳng, điều này rất tuyệt vời! Không dễ dàng gặp được, gặp được rồi mà nếu bỏ lỡ ngay trước mặt, đó là thật sự đáng tiếc. Gặp được thì làm thế nào? Nhất định phải giống như lão Hòa thượng Hải Hiền buông xuống vạn duyên. Gặp được thì tâm định lại, không còn Vọng tưởng nữa, một phương hướng, một mục tiêu, chính là cầu sanh Thế giới Cực Lạc, thân cận A Mi Đà Phật, đây chính là thành tựu chính mình. Ngoài ra chúng ta phải báo ân của Phật, 上報四重恩,下濟三途苦 “Thượng báo Tứ trọng ân, hạ tế Tam đồ khổ” (trên đền bốn ân nặng, dưới cứu khổ Tam đồ), chúng ta phát nguyện này, dùng Pháp môn nào để để giúp đỡ chúng sanh thành tựu? Chính là dùng Pháp môn này. Nếu không phải dùng Pháp môn này, thì lão Cư sĩ Hạ Liên Cư, lão Cư sĩ Hoàng Niệm Tổ không cần thiết đến Thế giới này, kể cả lão Hòa thượng Hải Hiền cũng không dùng biểu pháp khổ nhọc như thế. Từ chỗ này chúng ta có thể lãnh hội được lòng từ bi vô tận của chư Phật Bồ-tát, phương tiện vô cùng tận, ở khắp mọi nơi khuyên bảo chúng ta, phải tin sâu không nghi, phải kiên định phát nguyện cầu vãng sanh, thật sự ngay trong đời thành tựu viên mãn, chúng ta được độ thật sự, thì nguyện của chư Phật Bồ-tát được viên mãn rồi. Đại sự nhân duyên không có nhiều hơn hội này, hội này là đại sự nhân duyên ngay trong đại sự nhân duyên.
Tiếp theo là giảng về 16 vị Chánh sĩ, các ngài đều là, ngoại trừ ngài Hiền Hộ ra, các ngài khác đều đến từ Thế giới phương khác. Chúng ta xem Chú giải của Niệm lão, 「又賢護表如來善護念諸菩薩」“hựu Hiền Hộ biểu Như Lai thiện hộ niệm chư Bồ-tát” (thêm nữa Hiền Hộ biểu thị Như Lai khéo hộ niệm chư vị Bồ-tát), biểu là biểu pháp, ý nghĩa của tên này hay, Như Lai khéo hộ niệm chư vị Bồ-tát. 「一乘願海,六字洪名, 三根普被,萬類齊收, 正是賢護之義」。“Nhất thừa nguyện hải, lục tự hồng danh, tam căn phổ bị, vạn loại tề thâu, chánh thị Hiền Hộ chi nghĩa” (Biển nguyện Nhất thừa, sáu chữ hồng danh, trùm khắp ba căn cơ, thu nhiếp vạn loại, chính là ý nghĩa của Hiền Hộ). Hiền Hộ ý nghĩa là gì? Nhất thừa, [là] cao nhất trong Phật pháp. Chúng ta thường nói Đại thừa, Tiểu thừa, Tiểu thừa là A-la-hán, Đại thừa là Bồ-tát. Nhất thừa là gì? Nhất thừa chính là thành Phật. Nguyện là nguyện của Như Lai, biển là ý nghĩa to lớn, đại nguyện, nguyện này rộng lớn không có giới hạn. Chư Phật đều mong muốn tất cả chúng sanh thành Phật nhanh chóng, dùng phương pháp nào? Sáu chữ Nam Mô A Mi Đà Phật. Lão Hòa thượng Hải Hiền làm ra tấm gương tốt nhất cho chúng ta. Ngài không biết chữ, trải qua cả đời vô cùng vất vả. Sống ở nông thôn, không phải phú nông mà là bần nông, [ngài có] năm anh chị em. Lúc ngài 12 tuổi gặp phải hạn hán, nạn hạn hán này [khiến] mùa màng mất hết, làm thế nào? Cha [ngài] đi xin ăn, đi xin ăn nuôi gia đình, chư vị nói vất vả biết bao. Rất không may, trên đường gặp phải Thổ phỉ, [cha ngài] bị Thổ phỉ đánh chết. Sau đó chúng ta nghĩ xem mẹ ngài vất vả biết bao, dẫn năm người con, nuôi cả năm người con khôn lớn. Hình như Ngài Hải Hiền là người con thứ ba, bên trên ngài có một anh trai, một chị gái. Vì thế từ nhỏ chưa từng đi học, nên không biết chữ. 20 tuổi, cả nhà ngài đều học Phật, đều tin Phật, mẹ ngài bàn bạc với ngài, khuyên ngài xuất gia. Bản tính của ngài thật thà, nghe lời, thật làm, người vô cùng hiền hậu, thành thật, cung kính, tuy chưa từng đi học, nhưng là người con hiếu, tiếp nhận lời khuyên nhủ của mẹ. Mẹ [ngài] cũng là ăn chay từ nhỏ. Sau khi xuất gia, Sư phụ Truyền Giới của ngài, Pháp danh là Truyền Giới, Hòa thượng Truyền Giới xem thấy thanh niên trẻ này thành thật, nghe lời, thông minh, siêng năng, người như vậy không dễ tìm, vì sao? Bởi vì đầy đủ điều kiện này [thì] dễ dạy, người như vậy chắc chắn được thành tựu. Cho nên xuống tóc cho ngài, rồi dạy ngài một câu: Nam Mô A Mi Đà Phật, dạy ngài một mạch mà niệm. Ngài nghe lời, câu Phật hiệu này đã niệm được 92 năm; 20 tuổi Sư phụ dạy ngài, thì ngài bắt đầu niệm, 112 tuổi vãng sanh, đã niệm 92 năm. 92 năm là không chuyển hướng, không chuyển hướng là ý nghĩa gì? Không có xen tạp, không có thay đổi, thật sự một câu Phật hiệu niệm tới cùng.
Niệm đến cảnh giới nào? Đĩa CD này là do đồ đệ của ngài là Pháp sư Ấn Chí gửi đến Hông Kong cho tôi, tôi đã xem 30 mấy lần, hình như khoảng nửa tháng, xem được 30 lần, tôi nhìn ra được, ngài thật sự là chứng được Lý nhất tâm Bất loạn trong Tịnh tông. Lý nhất tâm Bất loạn, cảnh giới này với Đại triệt Đại ngộ, Minh tâm Kiến tánh trong Thiền tông là cùng một cảnh giới, cảnh giới như nhau; Nói cách khác, đức Thích Ca Mâu Ni Phật thành Chánh Giác dưới cây Bồ-đề, Đại triệt Đại ngộ, Minh tâm Kiến tánh, thị hiện là cảnh giới này. Thời nhà Đường, Đại sư Lục tổ Huệ Năng của Thiền tông, nghe giảng Kinh Kim Cang ở trong phòng Phương trượng của Ngũ tổ, nghe đến應無所住而生其心 “ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” (nên không chỗ trụ liền sanh tâm ấy), ngài bỗng nhiên Đại ngộ, nói ra năm câu, năm câu nói ấy chính là Luận văn, Luận văn tốt nghiệp. Câu thứ nhất nói: 「何期自性,本自清淨」 “Hà kỳ Tự Tánh, bổn tự Thanh tịnh” (Nào ngờ Tự Tánh, vốn tự Thanh tịnh); Câu thứ hai: 「何期自性,本不生滅」“Hà kỳ Tự Tánh, bổn bất sanh diệt” (Nào ngờ Tự Tánh, vốn không sanh diệt), đó [là] ngài chứng đắc rồi; Câu thứ ba: 「何期自性,本自具足」“Hà kỳ Tự Tánh, bổn tự cụ túc” (Nào ngờ Tự Tánh, vốn tự đầy đủ); Câu thứ tư: 「何期自性,本無動搖」“Hà kỳ Tự Tánh, bổn vô động dao” (Nào ngờ Tự Tánh, vốn không dao động), vốn không dao động là Đại định, Tự Tánh vốn định, Tự Tánh chính là Chân Tâm, Chân Tâm là không động, Vọng Tâm là động; Câu cuối cùng: 「何期自性,能生萬法」“Hà kỳ Tự Tánh, năng sanh vạn pháp” (Nào ngờ Tự Tánh, có thể sanh vạn pháp). Sau khi Hòa thượng Ngũ tổ Hoằng Nhẫn nghe xong, [nói] được rồi, không cần nói nữa, con tốt nghiệp rồi, sẽ truyền cho con y bát. Minh tâm Kiến tánh, kiến Tánh thành Phật, Tánh là kiểu dáng thế nào, năm câu nói này nói rất rõ ràng rất sáng tỏ. Lão Hòa thượng Hiền công cũng đạt đến cảnh giới này. Chư vị muốn hỏi là khi nào ngài đạt đến? Cả đời ngài chưa từng nói với ai, vãng sanh cũng không nói.
Tôi thấy một đĩa CD gần đây nhất được chuyển đến ngày hôm qua, xem được những câu bị bỏ sót ở phần trước, đã bổ sung vào trong đĩa này rồi, những câu này vô cùng quan trọng. Lão Hòa thượng tự mình nói, tôi lớn tuổi rồi, hơn 100 tuổi, sống ở thế gian này rất phiền phức, phiền phức cho người khác, không tốt, ngài muốn vãng sanh, đối với thế gian này một chút vướng víu cũng không còn nữa, buông được sạch sẽ. Cho nên ngài nói, linh hồn của tôi: đến Thế giới Cực Lạc thành tựu thôi, cũng nói đến sự thành tựu của ngài: tương lai sẽ truyền khắp toàn thế giới, có mấy câu nói như vậy. Đây là ở trên đĩa CD hiện tại chúng tôi không xem thấy, có lẽ là khi ngài nói, là nói cho những Cư sĩ, người ta dùng máy ghi âm ghi lại được, còn ghi được cả ngày tháng, hiện tại đã bổ sung vào đây, chúng ta sẽ giới thiệu điều này đến toàn thế giới. Cho nên tôi khuyên mọi người, với đĩa CD này, phải coi đó như Kinh Vô Lượng Thọ để mà đối đãi, một ngày xem ba lần, niệm 10 ngàn tiếng Phật hiệu, một năm là 1000 biến, hơn 300 vạn tiếng Phật hiệu, công đức này đủ để vãng sanh Thế giới Cực Lạc rồi, thì thành công thôi.
Mấu chốt ở chỗ buông xuống được, nếu vẫn còn vướng víu buông không xuống thì đi không nổi, phải thật sự buông xuống. Thành Phật là việc lớn, lão Hòa thượng thường nói, thứ khác toàn là giả, không có thứ gì là thật, Lục đạo, mười Pháp giới đều là một giấc mộng. Trên Kinh Kim Cangnói rất hay, là lời thật, không phải lời giả, 一切有為法,如夢幻泡影,如露亦如電,應作如是觀 “nhất thiết Hữu vi pháp, như mộng huyễn bào ảnh, như lộ diệc như điện, ưng tác như thị quán” (tất cả pháp Hữu vi, như mộng huyễn bọt ảnh, như sương cũng như chớp, hãy nên quán như thế). Ghi nhớ câu nói này trong Kinh Kim Cang, sáu căn khởi tâm động niệm ở trong cảnh giới sáu trần, thì chư vị hãy nhớ đến bài kệ này. Tôi nhớ hồi còn trẻ: khi sống ở Đài Bắc, tôi đã đem bài kệ này trong Kinh Kim Cang, in ở trên giấy trong suốt, in thành tờ nhỏ, tôi tặng cho mọi người, bảo mọi người dán trên ti vi, xem ti vi thì nhớ bốn câu kệ này,「一切有為法,如夢幻泡影,如露亦如電,應作如是觀」“nhất thiết Hữu vi pháp, như mộng huyễn bào ảnh, như lộ diệc như điện, ưng tác như thị quán” (tất cả pháp Hữu vi, như mộng huyễn bọt ảnh, như sương cũng như chớp, hãy nên quán như thế). Là giả, không phải thật, Thế giới này là giả, mười Pháp giới cũng là giả, buông xuống tất cả, nhất tâm chuyên cầu Thế giới Tây Phương Cực Lạc, chuyên niệm A Mi Đà Phật. Đến Thế giới Cực Lạc thân cận A Mi Đà Phật, thì một đời thành Phật, không có gì nhanh hơn việc này. Cho nên「六字洪名,三根普被」“lục tự hồng danh, tam căn phổ bị” (sáu chữ hồng danh, trùm khắp ba căn). Ba căn: người Thượng thượng căn, Pháp thân Bồ-tát; Người căn cơ bậc trung, Tam thừa Bồ-tát; Hạ căn, Lục đạo phàm phu. Thâu nhiếp tất cả, cho nên gọi là「萬類齊收」“vạn loại tề thâu” (thâu nhiếp muôn loại), không sót mất người nào, đây gọi là Hiền Hộ. Đức hiệu Hiền Hộ rộng lớn không có biên tế, giống như biển lớn, độ sâu đó không có đáy, độ rộng đó không có bờ mé. Cổ nhân Trung Hoa cho rằng, 「大而無外,小而無內」“Đại nhi vô ngoại, tiểu nhi vô nội” (lớn đến không có bên ngoài, nhỏ đến không có bên trong), cũng là khen ngợi đức tánh tốt đẹp. Đây là biểu pháp của Bồ-tát Hiền Hộ.
「又善思惟」“Hựu Thiện Tư Duy” (Thêm nữa ngài Thiện Tư Duy), đây là vị Bồ-tát thứ hai, Thiện Tư Duy Bồ-tát,「表正智明了,深信佛慧,並表法藏因地五劫思惟,結得大願之勝因」“biểu chánh trí minh liễu, thâm tín Phật huệ, tịnh biểu Pháp Tạng nhân địa ngũ kiếp tư duy, kết đắc đại nguyện chi thắng nhân” (biểu thị trí huệ sáng suốt đúng đắn, tin sâu trí huệ Phật, đồng thời biểu thị tư duy năm kiếp khi còn địa vị tu nhân của ngài Pháp Tạng, kết thành được nhân thù thắng của đại nguyện). Gặp được Phật pháp, có thể tin, có thể phát nguyện, chịu niệm Phật, người ấy chính là người có trí huệ lớn. Đồng thời biểu pháp thứ hai của ngài, là thể hiện đức A Mi Đà Phật khi còn ở địa vị tu nhân, chưa thành Phật, hành Bồ-tát đạo, lúc tu hành, tư duy năm kiếp. Ngài có đại nguyện, mong phổ độ chúng sanh, thỉnh giáo với thầy có phương pháp nào không? Thầy dạy ngài, con nghiêm túc đi tham học. Đến đâu để tham học? [Đến] các cõi nước của tất cả chư Phật trong mười phương. Mục đích tham học, là bỏ điều dở của người khác, chọn lấy điều hay của người khác, điều tốt trong cõi nước chư Phật mười phương, con ghi nhớ tất cả, con cảm thấy không thực sự tốt thì không cần điều đó, tương lai Đạo tràng được thành tựu của con (Thế giới Cực Lạc là Đạo tràng của ngài) là vô cùng thiện, vô cùng đẹp, vượt hơn cõi nước của tất cả chư Phật, mà trở thành Đạo tràng số một ngay trong cõi nước của tất cả chư Phật. Cho nên chư Phật Bồ-tát khen ngợi A Mi Đà Phật là:「光中極尊,佛中之王」 “Quang trung cực tôn, Phật trung chi vương” (Tôn quý nhất trong các ánh sáng, là vua trong chư Phật), là do vậy mà có. Ngài đã dùng bao nhiêu thời gian? Năm kiếp. Tư duy chính là khảo sát; Lập lên được, tổng kết thành 48 nguyện. Đây là nhân duyên thù thắng của Thế giới Cực Lạc, không có sự tham học này thì không thể có Thế giới Cực Lạc, đây là [điều] mà chư Phật Như Lai chưa có tưởng tượng đến, Ngài đã nghĩ đến rồi.
Thứ ba, 「慧辯才」 Huệ Biện Tài Bồ-tát,「表明信佛慧,辯才無礙」 “biểu minh tín Phật huệ, biện tài vô ngại” (tỏ rõ sáng suốt tin trí huệ của Phật, biện tài vô ngại). Minh là sáng suốt, không phải mê tín, minh là có trí huệ chân thật, có trí huệ chân thật [mới] tin trí huệ của Phật. Trí huệ của Phật là viên mãn, biện tài của Phật là vô ngại, thật sự cừu địch không lật đổ được. Vô ngại biện tại là do bên trong tự Tánh vốn tự đầy đủ, không phải do từ bên ngoài, học không được điều này, chỉ có Minh tâm Kiến tánh thì đạt được, chính là 「演慈辯、授法眼、常以法音覺諸世間之義」“diễn biện tài, thọ Pháp nhãn, thường dĩ pháp âm giác chư thế gian chi nghĩa” (nghĩa của diễn biện tài, truyền trao Pháp nhãn, thường dùng pháp âm [để] giác ngộ thế gian) được nói trong Kinh. Phật Bồ-tát vào mọi lúc, mọi nơi, chúng sanh có cảm thì các Ngài có ứng. Các Ngài ứng thân để làm sự việc gì? Chính là biểu diễn, diễn là biểu diễn, là thân giáo, từ bi, biện tài; Thọ là ban cho người khác trí huệ, giúp người khác phá mê khai ngộ, giúp người khác học được trí huệ. Phải tin điều này mới được. Đức Phật dạy chúng ta thế nào? Lý niệm tương đồng, phương pháp cũng tương đồng với Tổ tông, với Cổ thánh tiên Hiền, nhưng không tương đồng với Khoa học hiện nay. Lý niệm của Ngài là thâm nhập một môn, huân tu lâu dài; Phương pháp của Ngài là đọc sách ngàn biến, tự thấy nghĩa ấy. Đúc kết thành một câu để nói, thì ngạn ngữ đã nói rằng: 「熟能生巧」 “Thục năng sanh xảo” (Thành thục có thể sanh tài nghệ). Nhất định phải thành thạo mọi thứ, quen thuộc rồi thì trí huệ hiện tiền, biện tài sẽ hiện tiền, thần thông sẽ hiện tiền. Điều đáng sợ nhất là tâm không thanh tịnh, tâm không thanh tịnh thì không thành một việc nào. Cho nên tựa đề Kinh của chúng ta, tựa đề của Kinh nói về Tự Tánh, Tự Tánh là như thế nào? Thanh tịnh, Bình đẳng, Giác. Đây chính là Chân Tâm, xưa nay vốn có. Tâm Thanh tịnh của chúng ta hiện tại bị ô nhiễm rồi, bị ô nhiễm bởi danh văn lợi dưỡng rồi, bị ô nhiễm bởi Ngũ dục Lục trần rồi, bị ô nhiễm bởi tập khí phiền não rồi, cho nên học pháp thế gian thì vẫn gắng gượng, học pháp xuất thế gian thì học không được, là giả, học cả đời cũng không phải thật sự, đời sau vẫn là trong Lục đạo Luân hồi. Điều cao sâu hơn Thanh tịnh chính là Bình đẳng, có Bình đẳng thì chắc chắn được Thanh tịnh, có Thanh tịnh thì chưa chắc được Bình đẳng. Tâm Thanh tịnh là A-la-hán chứng được, Tiểu thừa A-la-hán, Bích-chi-phật, chứng được tâm Thanh tịnh, [nhưng] không Bình đẳng. Tại vì sao không Bình đẳng? Bởi các ngài vẫn còn Phân biệt, vẫn còn Khởi tâm Động niệm. Không Phân biệt, không Khởi tâm, không Động niệm, [thì] tâm Bình đẳng hiện tiền. Bình đẳng đạt đến trình độ này chính là Đại triệt Đại ngộ, Minh tâm Kiến tánh, chính là chữ Giác. Giác chính là Giác ngộ triệt để, kiến Tánh thành Phật. Cho nên năm chữ này, Thanh tịnh là A-la-hán, Bình đẳng là Bồ-tát, Giác là Phật, học Phật thì không học điều này sao? Bắt đầu từ đâu? Bắt đầu từ Thanh tịnh. Không thể đảo lộn trình tự này, hễ đảo lộn thì hoàn toàn tiêu rồi, nhất định điều thứ nhất là Thanh tịnh, điều thứ hai là Bình đẳng, điều thứ ba là Triệt ngộ, mới có thể thường dùng pháp âm, đây chính là giảng kinh dạy học, giảng kinh dạy học là giác chư thế gian. Chư thế gian này chính là Mười Pháp giới, chính là Lục đạo, giúp đỡ chúng sanh Mười Pháp giới, giúp chúng sanh Lục đạo giác ngộ quay đầu, là ý nghĩa này.
Vị tiếp theo đây,「觀無住,(見《唐譯》。《魏譯》作空無)」“Quán Vô Trụ, (kiến Đường Dịch. Ngụy Dịch tác Không Vô)” (Quán Vô Trụ, thấy trong bản Đường Dịch. Trong bản Ngụy Dịch là Không Vô), Không Vô chính là ý nghĩa của Quán Vô Trụ, 「表經中譬善幻師現眾異相,於彼相中實無可得」“biểu Kinh trung thí thiện huyễn sư hiện chúng dị tướng, ư bỉ tướng trung thật vô khả đắc” (biểu thị trong kinh là thí như nhà ảo thuật giỏi hiện nhiều tướng lạ, ở trong tướng đó thật không có đạt được). Ngài Quán Vô Trụ dạy cho chúng ta, chư vị có thể quán, nhưng phải vô trụ. Quán thể hiện điều gì? Mắt thấy sắc, thấy chính là quán, tai nghe âm thanh, nghe chính là quán, mũi ngửi mùi, ngửi chính là quán, lưỡi nếm vị, nếm chính là quán, chính là Lục căn đối với cảnh giới sáu trần, dùng một chữ gọi là quán. Mắt thấy sắc, chư vị khởi tâm động niệm, phân biệt chấp trước, thuận theo ý của mình [thì] khởi tham ái, không chỉ tham ái, mà còn muốn tiến một bước, muốn chiếm hữu thứ đó, muốn đạt được thứ đó, thì sẽ sanh phiền não, đây là tâm trụ tướng rồi, chư vị động ý niệm rồi, đây là gì? Đây gọi là tạo nghiệp. Nghiệp có thiện có ác, nếu là nghiệp thiện, duy trì ở trong Luân lí Đạo đức, nhà Phật nói về Giới luật, ở trong tiêu chuẩn đó gọi là nghiệp thiện, nghiệp thiện thì cảm được ba đường thiện, sau khi sanh đến đời sau chư vị đi hưởng phước trong ba đường thiện, chư vị tạo được nghiệp thiện; Nếu là nghiệp ác, thì đời sau sẽ đi vào Tam ác đạo. Gặp phải tài sắc danh lợi, làm trái với Luân thường, làm trái với Nghĩa lí, chư vị chiếm hữu thứ đó [muốn] có điều đó, là tạo nghiệp ác; Dùng tâm ngay thẳng, hợp tình, hợp lí, hợp pháp, chư vị chiếm hữu điều đó, ấy là nghiệp thiện. Cho dù chư vị [tạo] nghiệp gì, chung quy một câu nói là: chư vị [đang] tạo nghiệp Luân hồi, ba đường thiện với ba đường ác là nghiệp Luân hồi, sai rồi, làm sao có thể làm việc này chứ?
Phật Bồ-tát ứng hóa ở thế gian này, sáu căn tiếp xúc với cảnh giới sáu trần như thế nào? Vô trụ, không có để cảnh giới này trong tâm, cho nên các Ngài có khả năng giáo hóa chúng sanh, các Ngài có khả năng xử lí được chính xác. Về Lý Sự, giảng rõ ràng, nói sáng tỏ cho chư vị, dấu vết trong tâm đều không dính, chính là nói nhất định không thể để điều đó trong tâm, đây gọi là công phu. Người tu hành đến mức có công phu, chính là công phu đắc lực rồi, đây là thật sự có thọ dụng. Công phu đắc lực thế nào? Không tạo nghiệp, đời sau họ chắc chắn ở Tây Phương Cực Lạc, họ nhất định không tạo Luân hồi nữa. Ở thế gian này cho dù chịu oan uổng như thế nào, chịu thiệt thòi như thế nào, bị tổn hại như thế nào, đều không để ở trong tâm. Để trong tâm là tạo nghiệp, tại vì sao? Bởi vì chư vị sẽ khởi lên oán hận, chư vị sẽ khởi lên trả thù, đó chính là đời đời kiếp kiếp không xong không hết được, báo đi báo lại, đó thật sự là mê hoặc điên đảo. Cho nên phải giống như lão Hòa thượng có thể nhẫn chịu, người ta đánh ngài hai bạt tai, có thể nhẫn chịu; Người ta nhổ nước bọt vào mặt ngài, có thể nhẫn chịu, ngài không so đo với họ. Đó là gì? Không tạo nghiệp Luân hồi, căn bản không được để ở trong tâm. Lão Hòa thượng nói những lời đó là cho chúng ta nghe, lòng dạ của ngài trong sạch, không có nhiễm trước mảy may nào. Về Nhẫn nhục, ngay cả tướng của nhẫn nhục cũng không có, trong tâm của ngài tự tại biết bao, pháp hỉ sung mãn. Trong tâm chỉ có một câu Phật hiệu, ngoài câu Phật hiệu ra, thứ gì cũng không có, chúng ta phải học tập điều này. Hàng ngày chúng ta xem, đến ngày nào đó thật sự xem hiểu được, thật sự xem hiểu chính là chư vị giác ngộ rồi, chư vị mới có thể ứng dụng được ngay trong đời sống thường ngày. Chư vị thật sự được tự tại, chư vị thật sự giải thoát rồi, giải thoát ở trong tài sắc danh lợi, giải thoát ở trong Ngũ dục Lục trần, không tạo nghiệp nữa, chắc chắn đạt được Thế giới Cực Lạc rồi.
Đạt được, cảnh giới thứ nhất là Công phu Thành phiến, chính là công phu thành một phiến mà Hòa thượng Hiền công đã biểu diễn. Một phiến này không có vọng niệm, không có tạp niệm, chỉ có một câu Phật hiệu, đều buông xuống thứ khác, đó gọi là Thành phiến, vẫn chưa đoạn Kiến tư Phiền não. Lúc đó, A Mi Đà Phật sẽ hiện thân nói với chư vị, chính là nói chư vị có điều kiện này, chính là có cơ hội thấy Phật rồi, đức Phật sẽ đến nói với chư vị, thọ mạng quý vị còn bao nhiêu, đến khi thọ mạng chư vị hết, đức Phật đến tiếp dẫn chư vị vãng sanh. Chư vị rất rõ ràng, rất sáng tỏ, bằng với đã ghi tên ở Thế giới Tây Phương Cực Lạc rồi, đến lúc đó, đức Phật sẽ đến tiếp dẫn chư vị đi. Lúc ấy có một hạng người, họ không cần thọ mạng nữa, thỉnh cầu với A Mi Đà Phật thọ mạng [con] không cần nữa, dẫn con đi bây giờ, có được không? Được. Chư vị thật sự thỉnh cầu, A Mi Đà Phật cũng sẽ dẫn chư vị đi, ước định thời gian cho chư vị, khi nào [Ngài] đến tiếp dẫn chư vị vãng sanh. Thí dụ như thế rất nhiều. Lão Hòa thượng Hải Hiền là người như thế, tố chất như vậy: vượt qua người bình thường, thật thà, nghe lời, thật làm, tâm chân thành, tâm thanh tịnh, tâm cung kính, ngài có ba tâm này. [Theo] đánh giá của tôi, nhiều nhất ba năm, ngài 20 tuổi thì Sư phụ dạy ngài niệm Phật, 23-24 tuổi thì ngài đã niệm được công phu này, niệm được công phu này chính là thấy A Mi Đà Phật. Đây là do Bồ-tát Đại Thế Chí nói, 「憶佛念佛,現前當來必定見佛」“ức Phật niệm Phật, hiện tiền đương lai tất định kiến Phật” (nhớ Phật niệm Phật, hiện tại tương lai nhất định thấy Phật), đây là hiện tại thấy Phật, thân thể chư vị còn sống. Hiện tiền thấy Phật, Sơ tổ Tịnh tông chúng ta là Đại sư Huệ Viễn trong đời bốn lần [thấy Phật]. Thông thường người niệm Phật vãng sanh nói chung chí ít [thấy Phật] ba lần, lần thứ nhất, chính là nói Phật đến thọ ký cho chư vị, nói cho chư vị biết khi nào vãng sanh, khi nào đến tiếp dẫn chư vị, còn bao nhiêu năm nữa, báo tin cho chư vị, đây là lần thứ nhất; Lần thứ hai là trước lúc vãng sanh, thông thường là ba tháng, ba tháng hoặc là một tháng, hoặc là nửa tháng, Phật đến rồi, nói cho chư vị biết ngày tháng chính xác, [để] chư vị chuẩn bị tốt hậu sự; Đến lúc đó, chính là ngày đó vãng sanh, Ngài đến tiếp dẫn chư vị, chư vị cũng chưa dứt hơi thở, [đó] gọi là hiện tiền. Cho nên hiện tiền thấy Phật, thông thường cũng là ba lần.
Cư sĩ Lưu Tố Thanh biểu diễn cho chúng ta, cô là phát nguyện cầu vãng sanh, cô còn 10 năm thọ mạng [nhưng] cô không cần nữa, muốn làm biểu pháp này cầu vãng sanh cho mọi người thấy. Cầu vãng sanh, thật sự vãng sanh. Cho nên em gái của cô [là] cô Lưu Tố Vân, hình như là trước đó tám ngày, nghe được một âm thanh, âm thanh này là một dãy chữ số, là 2012 -11- 21-12. Cô ghi lại dãy số [này], đưa cho chị gái cô. Chị gái cô nhìn thấy cười, đem dãy số [này] cất đi. Đó là gì? Đó là ngày tháng. Đức Phật không có trực tiếp hiện tướng cho cô, mà hiện tướng cho em gái cô, để em gái cô nói với cô; Không có nhìn thấy tượng Phật, nhưng nghe được âm thanh. 2012 là năm, 11 là tháng mười một, 21 là ngày tháng: ngày hai mươi mốt, 12 là mười hai giờ, không sai một chút nào, chính là Phật đến tiếp dẫn cô. Ngày hôm đó, cô có cười có nói cùng với mọi người, nói rất vui vẻ, thời gian vừa đến, thì cô nói với mọi người: đức Phật đến tiếp dẫn tôi, chư vị nhìn không thấy, [nhưng] tôi nhìn thấy. Đức Phật mang hoa sen đến, tôi sẽ trèo lên hoa sen, chư vị nhìn động tác của tôi, cô nắm chặt trên tay chân trèo lên hoa sen, để mọi người nhìn thấy. Leo lên ngồi ổn định rồi, hoa sen liền khép lại, thì [mọi người] nhìn không thấy nữa, thấy đi rồi, liền dứt hơi thở, chư vị thấy trước đó một giây cô ấy hoạt bát nhanh nhẹn, thời gian chuẩn như vậy, đều không sai một phút một giây, thật sự đi rồi, tác chứng chuyển cho chúng ta. Tâm này của cô cũng là do ngẫu nhiên phát, cô Lưu Tố Vân ở trước mặt cô thường nói, Tam chuyển Pháp luân này, đức Phật Thị chuyển cho chúng ta, Tổ sư Đại đức, Đại đức thời xưa, lão Hoàng Niệm hiện tại làm Chú Giải này là Khuyến chuyển, cô nói tốt nhất có người có khả năng làm Tác chứng chuyển, chứng minh, thì lòng tin mọi người chúng ta sẽ định thôi, sẽ không hoài nghi nữa. Chị gái cô nói với cô, được, việc này để chị làm. Mới một tháng thôi, một tháng trước cô phát tâm để làm, một tháng thì cô đã đi. Cho nên là thật sự, không giả một chút nào.
Vô Trụ, trong chữ viết bên dưới nói,「表經中譬善幻師」“biểu kinh trung thí thiện huyễn sư” (biểu thị thí dụ thiện huyễn sư ở trong kinh), nhà ảo thuật làm ảo thuật, thời xưa gọi là thiện huyễn sư,「現眾異相」 “hiện chúng dị tướng” (hiện các tướng lạ), những ảo thuật được biến ra này hoàn toàn là giả, không có một thứ nào là thật, xem thấy rất giống, giống y như thật, trên thực tế đều không thể đạt được tất cả. Thực sự, hiện tượng ở trước mắt chúng ta hiện tại không thể được, không có một thứ gì là thật. Bồ-tát Di Lặc nói với chúng ta rất rõ ràng, rất sáng tỏ, trong khoảng một gảy ngón tay [có] 32 ức trăm ngàn niệm. Các nhà Cơ học Lượng tử ngày nay nói với chúng ta, hiện tượng vật chất trong cả Vũ trụ, năm căn đằng trước chúng ta, mắt tai mũi lưỡi thân, những hiện tượng được cảm nhận cũng là giả, đều là ảo tướng được sanh ra ngay trong tần số cao của ý niệm. Tần số này cao đến mức độ nào? Chính là 32 ức trăm ngàn niệm, đơn vị là trăm ngàn, trăm ngàn là mười vạn, 32 ức nhân với mười vạn, thành 320 ngàn tỉ, trong một búng tay này. Một giây có thể búng mấy lần? Có người nói với tôi có thể búng được bảy lần, đó lại nhân với bảy, trong một giây, 320 ngàn tỉ nhân 7, thành 2 triệu 100 ngàn tỉ, trong một giây. Một giây sanh diệt bao nhiêu lần? 2 triệu 100 ngàn tỉ lần. Sự việc này phát sanh ở ngay trước mắt chúng ta, chính ở ngay lúc này, chúng ta cũng không có chút gì cả cảm giác gì, cho rằng tướng giả đều là thật. Đây là vì sao? Nhìn sai rồi, đem mộng cho là thật, nằm mộng ở trong mộng [mà] không biết nằm mộng, sau khi tỉnh rồi, cũng tìm không được dấu vết. Chúng ta cũng như vậy, nếu khi chúng ta vừa giác ngộ, có A-la-hán, sự giác ngộ đó thì thoát khỏi Lục đạo Luân hồi rồi, tỉnh giấc mộng Lục đạo Luân hồi rồi, trong Lục đạo tìm không được nữa, đều không có dấu vết. Cho nên để cảnh mộng đó ở trong tâm [là] đặc biệt sai lầm lớn, đây là nguyên nhân thực sự tại sao phàm phu sáu đường vô lượng kiếp đến nay không thể thoát khỏi Lục đạo, bởi vì họ đem mộng huyễn bào ảnh làm chân thật, bị lừa lớn rồi.
Đức Phật đã giảng cho chúng ta, chúng ta sáng tỏ rồi, chúng ta có thể buông xuống được không? Không thể. Vì sao vậy? Bởi vì tập khí quá nặng, thời gian ô nhiễm quá lâu, vô lượng kiếp ô nhiễm đến nay, đâu có thể dễ dàng buông xuống được. Vậy người nào dễ dàng buông xuống? Là người Thượng thượng căn, đó không phải người phàm, đó là người tái lai. Mỗi một người vãng sanh, cho dù họ dùng phương pháp gì để niệm Phật vãng sanh, thật sự vãng sanh đều không phải là người phàm. Trên kinh Đại thừa nói với chúng ta, mỗi một người vãng sanh đều là trong đời quá khứ vô lượng kiếp đến nay, đời đời kiếp kiếp đều là Đệ tử của Phật, trong đời này gặp được Pháp môn này, được sự gia trì của tất cả chư Phật Như Lai, họ sanh khởi tín tâm, sanh khởi nguyện tâm, buông xuống vạn duyên, họ vãng sanh được. Lời nói này rất có đạo lí. Vậy chính chúng ta phải hiểu, trên Lý nói rất rõ ràng, trên Sự thì chính chúng ta phải nỗ lực, nỗ lực làm gì? Buông xuống, không có gì khác, buông xuống thì đi làm Phật; Không buông xuống, thì nhất định phải biết: là tiếp tục tạo Lục đạo Luân hồi. Vậy chúng ta nghĩ xem, chúng ta muốn tiếp tục tạo Lục đạo Luân hồi, hay là muốn buông xuống, để vãng sanh Thế giới Cực Lạc, thân cận A Mi Đà Phật? [Muốn vậy] thì phải buông xuống tình chấp, phải buông xuống tài sắc danh lợi, nói đến cuối cùng, [đều] buông xuống tất cả thân tâm thế giới, trong tâm chỉ có A Mi Đà Phật, ngoài A Mi Đà Phật ra, thứ gì cũng không có, giống như Hòa thượng Hải Hiền, chư vị nhập vào cảnh giới của ngài rồi, ngài cũng có thể gia trì chư vị. Cho nên thật sự phải hiểu rõ, sự thật thật tướng là tất cả pháp không thể đạt được, bao gồm thân thể của chúng ta, thân thể chúng ta cảm thấy dường như là tồn tại, trên thực tế cũng là một giây 2 triệu 100 ngàn tỉ lần sanh diệt, 2 triệu 100 ngàn tỉ lần, trong một giây. Trên Kinh Kim Cang nói với chúng ta,「過去心不可得,現在心不可得,未來心不可得」 “quá khứ tâm bất khả đắc, hiện tại tâm bất khả đắc, vị lai tâm bất khả đắc” (tâm quá khứ không thể đạt được, tâm hiện tại không thể đạt được, tâm tương lai không thể đạt được). Nghĩa sâu trong này chính là nói với chúng ta, mọi hiện tượng là giả, không nên chấp trước, chấp trước là sai rồi.
「亦表法藏永劫因行,說空無相無願之法」 “Diệc biểu Pháp Tạng vĩnh kiếp nhân hạnh, thuyết Không Vô tướng Vô nguyện chi pháp” (Cũng tỏ rõ nhân hạnh trong kiếp lâu xa của ngài Pháp Tạng, thuyết pháp: Không, Vô tướng, Vô nguyện). Tỳ-kheo Pháp Tạng thành Phật rồi, giống như Bồ-tát Quán Thế Âm được nói trong “Phẩm Phổ Môn”, cần dùng thân Phật để độ được họ, thì hiện thân Phật để thuyết pháp cho, cần dùng thân Bồ-tát để độ được họ, bèn hiện thân Bồ-tát mà thuyết pháp cho. 32 Ứng thân, chính là một câu nói cuối cùng mà Lục tổ Đại sư đã nói: 「能生萬法」“năng sanh vạn pháp” (có thể sanh vạn pháp). Năng sanh là do tự nhiên sanh, không phải có ý nghĩa sanh, nếu lời nói có ý nghĩa thì ngài là phàm phu, phải biết điều này. Pháp thân Bồ-tát không khởi tâm, không động niệm, thì ý nghĩa đến từ đâu? Làm sao mà sanh ra? Là chúng sanh có cảm, thì tự nhiên có ứng. Tùy theo tâm chúng sanh, ứng sở tri lượng, chúng sanh nghĩ Phật thì hiện thân Phật, là do ý nghĩ của họ; Đức Phật có ý nghĩ hay không? Đức Phật không có ý nghĩ, hiện rất tự nhiên. Họ nghĩ Bồ-tát thì hiện thân Bồ-tát, họ tưởng trời người thì hiện thân trời người, họ nghĩ tướng gì thì hiện tướng đó. Họ dừng ý nghĩ, thì tướng diệt đi, tự nhiên không còn nữa. Nghĩ A Mi Đà Phật, thì A Mi Đà Phật hiện tiền, có phải A Mi Đà Phật đến đây từ Thế giới Cực Lạc không? Không phải vậy, ngay đó sanh ra, tùy nơi diệt mất. A Mi Đà Phật từ trước đến nay không có rời khỏi chúng ta, cho nên đức Phật không có đến đi, hiện thân ở trước mặt [nhưng] không có đến, bỗng nhiên biến mất rồi nhưng Ngài không có diệt, không có sanh diệt, sanh diệt là tướng giả. Cho nên Phật Bồ-tát hiện thân có thể thuyết: Không, Vô tướng, Vô nguyện, Tam không Tam-muội.
Tiếp theo vị thứ năm, 「神通華」 “Thần Thông Hoa” Bồ-tát, 「表從神通力,集萬行之德華,以自莊嚴,具足方便,成就眾生。如經云:遊步十方,行權方便」 “biểu tùng Thần thông lực, tập vạn hạnh chi đức hoa, dĩ tự trang nghiêm, cụ túc phương tiện, thành tựu chúng sanh. Như kinh vân: du bộ thập phương, hành quyền phương tiện” (tỏ rõ từ sức Thần thông, tụ lại hoa đức của vạn hạnh, để tự trang nghiêm, đầy đủ phương tiện, thành tựu chúng sanh. Như Kinh nói rằng: du bộ mười phương, hành quyền phương tiện), hai câu này là đến từ Bồ-tát Thần Thông Hoa. Bồ-tát hiện thân giáo hóa chúng sanh, đây là sức Thần thông. Thần thông, trí huệ vô lượng vô biên, do từ đâu mà có? Do tu Lục độ Vạn hạnh trong vô lượng kiếp, khi công đức viên mãn [thì] ngài có loại năng lực này. Chư vị xem, một là tự trang nghiêm, thành tựu Báo thân Bồ-tát, lại đầy đủ phương tiện, thành tựu chúng sanh, cảm ứng đạo giao với tất cả chúng sanh có duyên [trong] mười phương Thế giới. Du bộ thập phương, đây chính là mười phương Thế giới chỉ cần chúng sanh có duyên với ngài, chúng sanh khởi tâm động niệm, thì ngài sẽ hiện tướng, dùng phương tiện biến hóa của thần thông. Thời gian dài, [thì] dùng Ứng thân, đức Thích Ca Mâu Ni Phật ở trong thế gian của chúng ta, trụ thế 80 năm, [là dùng] Ứng thân, trong thời gian ngắn, [là dùng] Hóa thân. Giống như lão Hòa thượng Hư Vân triều sơn, [ngài] từ Phổ Đà ba bước một lạy lạy đến Ngũ Đài Sơn, lạy Bồ-tát Văn Thù, năm đó ngài 47 tuổi, lộ trình ấy đi hơn 3 năm mới đến, ba bước một lạy. Trên đường đi bị bệnh hai lần, đều là ở nơi hoang vắng, chỗ không có người [qua lại]. Lúc đó vô cùng nguy hiểm, thì gặp được người ăn xin, người ăn xin ấy đã cứu ngài; Lúc bị bệnh lần thứ hai, lại gặp được người ăn xin ấy. Người ăn xin ấy là ai? Là Hóa thân của Bồ-tát Văn Thù. Đến khi ngài khỏi bệnh, thì không thấy người ăn xin nữa, đi rồi. Hòa thượng Hư Vân không biết, đến Ngũ Đài Sơn, ngài nói với mọi người sự việc trải qua trên đường, gặp được người ăn xin có tâm tốt giúp đỡ ngài, người ăn xin nói ngài ấy là người ở Ngũ Đài Sơn, ngài ấy nói người ở Ngũ Đài Sơn đều biết ngài ấy. Kết quả hỏi ra thì không có ai biết, Sư phụ xuất gia trong [chùa] nói cho ngài biết, đó chính là Hóa thân của Bồ-tát Văn Thù, [ngài] mới bỗng nhiên hiểu ra. Đó là Hóa thân, Hóa thân có thể sống với người hơn một tháng, chư vị không biết người đó là giả, đến [khi] lão Hòa thượng khỏi bệnh thì đi, tìm không thấy người đó nữa. Cho nên cần dùng Ứng thân, hay cần dùng Hóa thân cũng rất tự tại, tất cả là hằng thuận chúng sanh, không có ý nghĩ cho chính mình.
Có ý nghĩ cho chính mình, đó chính là phàm phu, đó là tạo nghiệp rồi. Chỉ cần có chính mình, ghi nhớ, là chư vị đang tạo nghiệp. Thiện ác đều là nghiệp, Lục đạo đều phải trả, nghiệp thiện cảm vào ba đường thiện, chư vị [hưởng] phước báo, chư vị ở trong đó hưởng phước, hưởng phước chính là quả báo, quả báo nghiệp thiện của chư vị; Nếu tạo tác tội nghiệp, đó chính là hiện Tam đồ, đó là khổ, chư vị phải đi chịu khổ chịu nạn, chịu khổ chịu nạn là quả báo khổ, tất cả là quả báo. Nói cách khác, tốt nhất là đừng tạo nghiệp Lục đạo Luân hồi. Làm thế nào để không tạo? Hành thiện hay tạo ác, nhưng đừng để ở trong tâm, chính là không tạo. Người không tạo thì tâm thanh tịnh hiện tiền thôi, tâm thanh tịnh hiện tiền chính là chứng quả, quả Tiểu thừa. Đồng thời Thần thông cũng hiện tiền, Sơ quả thì có Thiên nhĩ, Thiên nhãn thông; Nhị quả lại thêm Tha tâm, Túc mạng, bốn loại Thần thông; Tam quả thêm Thần thông biến hóa, Thần túc thông; Tứ quả lại thêm Lậu tận thông, đoạn sạch Kiến tư Phiền não rồi. Cho dù tại gia hay xuất gia, nên học Pháp môn này. Người tại gia tu hành thành công cao hơn người xuất gia, vì sao vậy? Bởi vì người xuất gia rời xa cảnh giới, chư vị được tâm thanh tịnh, người tại gia không rời xa, tâm thanh tịnh của họ cao hơn nhiều so với người xuất gia. Trên Kinh này, nhóm 16 vị Bồ-tát Đẳng giác tại gia, Bồ-tát tại gia; Còn xuất gia thì chỉ có ba người [là], ngài Phổ Hiền, Văn Thù, Di Lặc làm biểu pháp xuất gia, chỉ là ba vị. Nhóm ngài Hiền Hộ là bình đẳng với ngài Văn Thù, ngài Di Lặc. Cho nên phải hiểu đạo lí này, chư vị hiểu rõ đạo lí này, thì không dám coi thường người tại gia, để chúng ta nuôi dưỡng thành một thói quen tốt, là khiêm tốn, tôn trọng người khác, đây là đức hạnh, đây là thiện nghiệp. Ngạo mạn, ghen ghét, đó là ác nghiệp, độc nhất ngay trong ác nghiệp, cho nên nghiệp ác đó sẽ cảm được là Địa ngục.
Tiếp theo vị thứ sáu là 「光英」“Quang Anh” Bồ-tát, 「表光明英發,又經中無量光、無邊光、無礙光等,光中極尊」 “biểu quang minh anh phát, hựu Kinh trung Vô Lượng Quang, Vô Biên Quang, Vô Ngại Quang đẳng, quang trung cực tôn” (biểu thị quang minh tốt đẹp sáng rỡ, thêm nữa [là] Vô Lượng Quang, Vô Biên Quang, Vô Ngại Quang v.v… tôn quý nhất trong các ánh sáng ở trong Kinh), đây cũng là ý nghĩa của Quang Anh. Trong Kinh nói rất nhiều, quang biểu thị cho trí huệ, vô lượng trí huệ, vô biên trí huệ, vô ngại trí huệ.
Vị thứ bảy, 「寶幢」Bảo Tràng Bồ-tát, 「(見《唐譯》。《魏譯》作智幢),表智慧殊勝猶如寶幢」 “(kiến Đường Dịch. Ngụy Dịch tác Trí Tràng), biểu trí huệ thù thắng do như Bảo Tràng” (thấy trong bản dịch thời Đường. Bản dịch thời Ngụy là Trí Tràng, biểu thị trí huệ thù thắng giống như tràng báu). Tràng là lá cờ, thời xưa treo ở trên cột cờ, thông báo cho đại chúng bên ngoài, là hôm nay Đạo tràng có hoạt động. Treo tràng phan là giảng kinh, mọi người nhìn thấy tràng phan treo trên cột cờ, thì biết hôm nay Đạo tràng có Pháp sư giảng kinh, người ưa thích nghe kinh thì họ sẽ tới; Tấm biển là cờ hiệu, cờ hiệu là làm Pháp hội. Hạng mục trong Pháp hội cũng rất nhiều, khoa mục rất nhiều, kỉ niệm chư Phật Bồ-tát: có thể làm Pháp hội; Sám trừ nghiệp chướng: cũng là Pháp hội; Tu cúng dường cũng có thể làm Pháp hội, cho nên đây là hoạt động bình thường của chùa chiền. Phật pháp là Đạo [tôn trọng] thầy, chỉ nghe đến học, không nghe đến dạy, hoạt động của chúng ta không thể không thông báo tới người khác, nhưng chúng ta không thể đi mời họ đến, mời họ đến thì họ không cho là ý tốt, không phải là do tự động, mà phải là họ tự động đến. Làm sao chuyển tin tức tới cho họ? Tràng phan treo trên cột cờ, dùng thứ này, để cho người ở xa nhìn thấy thì họ sẽ biết được, họ tự động đến. Dạy học thời nay thực sự không giống như dạy học của người thời xưa, người thời xưa có đức hạnh, có học vấn đều khiêm tốn, không dám ngồi vào vị trí thầy, không giống người thời nay, hiện nay trường học dùng chiêu sinh, người thời xưa không dám, chiêu sinh như vậy vẫn còn được. Cho nên phương tiện thiện xảo của người thời xưa, thông báo chư vị, nhưng không khuyên chư vị đến, hoàn toàn là tự động tự phát, vì sao vậy? Bởi vì [làm vậy] thì chư vị mới có tâm chân thành, có tâm cung kính. [Nếu] miễn cưỡng đến, thì chư vị không có sự chân thành, không có sự cung kính, đến rồi cũng không đạt được lợi ích.
Vị thứ tám, 「智上」“Trí Thượng” Bồ-tát, 「(見《唐譯》。《魏譯》作慧上),表經中無等無倫最上勝智」 “(kiến Đường Dịch. Ngụy Dịch tác Huệ Thượng), biểu kinh trung Vô đẳng Vô luân Tối thượng Thắng trí” (thấy trong bản dịch thời Đường. Bản dịch thời Ngụy là Huệ Thượng, biểu thị Vô đẳng Vô luân Tối thượng Thắng trí ở trong kinh), trí thượng này thể hiện trí huệ cao nhất, biểu thị ý nghĩa này. 「威德廣大不思議智」“Uy đức Quảng đại Bất tư Nghì trí” (Uy đức Quảng đại Bất tư Nghì trí), năm loại trí huệ trên quả địa Như Lai: đây nói được hai loại, đến kinh văn phần sau, chúng ta sẽ đọc đến. 「如是無上妙智超出一切,故名智上」 “Như thị Vô thượng Diệu trí siêu xuất nhất thiết, cố danh Trí Thượng” ( Trí huệ vi diệu Vô thượng như vậy vượt qua tất cả, nên gọi là Trí Thượng). Những trí huệ, đức năng, tướng hảo này: đều là do Tự Tánh vốn có, không phải do từ bên ngoài, bên ngoài không có một pháp nào. Vì sao vậy? Bởi vì tất cả pháp không rời Tự Tánh, toàn là do Tự Tánh biến hiện. Thật sự, Đại sư Huệ Năng nhìn thấu được, 「何期自性,能生萬法」“hà kỳ Tự Tánh, năng sanh vạn pháp”, hà kỳ là không có nghĩ đến, không có nghĩ đến Tự Tánh có thể sanh vạn pháp. Bản thể của vạn pháp chính là Tự Tánh, cho nên vạn pháp với chính chúng ta là một không phải hai. Đây là nghĩa bí mật sâu xa nhất trong Đại thừa giáo, học Đại thừa phải khế nhập từ chỗ này, biết tất cả chúng sanh là một thể với ta, sau đó là gì? Vô duyên Đại từ, Đồng thể Đại bi, Đại từ Đại bi tự nhiên lưu lộ ra, tác dụng của Chân Tâm lưu lộ ra: chính là Từ bi. Tâm chân thành yêu thương bảo vệ tất cả chúng sanh, quan tâm tất cả chúng sanh, chăm sóc tất cả chúng sanh, giúp đỡ tất cả chúng sanh, thành tựu tất cả chúng sanh, không có lí do thứ hai, chúng sanh là một thể với ta. Chúng sanh mê, mê thứ gì? Không nhìn thấy được Thật tướng này, chúng sanh hiện nay đối lập với nhau, không phải một thể, là đối lập. Đối lập chính là xấu rồi, đối lập thì sẽ cạnh tranh, thì sẽ đấu tranh, thì sẽ chiến tranh, đến cuối cùng thì cùng vào chỗ chết. Trên thực tế cùng nhau chết hết thì không phải là xong rồi, nếu là xong rồi, thì không còn việc gì nữa; Cùng nhau chết hết, đời sau lại đến, đây là trên Kinh Nhân Quả đã nói oan oan tương báo, đời đời kiếp kiếp không xong không hết, là làm trò đùa này rồi, thì khổ không nói nên lời! Chính là không biết sự thật Thật tướng, sự thật Thật tướng là một thể, biết là một thể, thì cũng không còn việc gì nữa, cũng không còn ý niệm gì nữa. Trí huệ vi diệu Vô thượng như vậy vượt qua tất cả, nên gọi là Trí Thượng.
Vị thứ chín,「寂根」“Tịch Căn” Bồ-tát,「《會疏》云:寂滅境智,諸根清淨,故名寂根」 “Hội Sớ vân: tịch diệt cảnh trí, chư căn thanh tịnh, cố danh Tịch Căn” (trong sách Hội Sớ nói: cảnh trí tịch diệt, các căn thanh tịnh, nên gọi là Tịch Căn). Nhà Phật thường nói sáu căn thanh tịnh, không nhiễm một bụi trần, chính là ý nghĩa này. Tịch là tịch diệt, tịch diệt điều gì? Cảnh giới mà sáu căn đối đãi là tịch diệt, chính là sắc thanh hương vị xúc pháp, sáu trần. Lục căn tiếp xúc với cảnh giới bên ngoài: không nhiễm sáu trần, vì sao vậy? Bởi vì biết sáu trần là giả, không phải thật, không để ở trong tâm là thanh tịnh, để ở trong tâm là bị ô nhiễm rồi. Không bị ô nhiễm một chút nào, cho nên gọi là Tịch Căn, căn tịch tịnh rồi. 「《甄解》云:境智寂滅,根本嚴淨,云寂根」 “Chân Giải vân: cảnh trí tịch diệt, căn bổn nghiêm tịnh, vân Tịch Căn” (Trong sách Chân Giải nói: cảnh trí tịch diệt, căn bản trang nghiêm thanh tịnh, nói là Tịch Căn). Cảnh trí tịch diệt, trí là nhìn thấu, tịch là buông xuống, nhìn thấu buông xuống; Căn bản trang nghiêm thanh tịnh, căn bản chính là Lục căn, cho nên gọi là Tịch Căn. 「今據本經中《真實功德品》云:究竟菩薩諸波羅蜜,而常安住不生不滅諸三摩地。正表寂為根本,照用無窮。照而常寂,故表壽命無量」 “Kim cứ bổn Kinh trung Chân Thật Công Đức Phẩm vân: cứu cánh Bồ-tát chư Ba-la-mật, nhi thường an trụ bất sanh bất diệt chư Tam-ma-địa. Chánh biểu tịch vi căn bổn, chiếu dụng vô cùng. Chiếu nhi thường tịch, cố biểu thọ mạng vô lượng” (Đây là y theo Phẩm Chân Thật Công Đức trong Kinh này nói: Bồ-tát cứu cánh các Ba-la-mật, và luôn an trụ các Tam-ma-địa không sanh không diệt. Chính là biểu thị tịch là căn bản, tác dụng chiếu soi không cùng tận. Chiếu mà thường tịch, cho nên biểu thị thọ mạng vô lượng), đây là ý nghĩa của Vô lượng thọ. Chúng ta phải học tập chỗ này, Ba-la-mật của Bồ-tát, quy nạp lại chính là sáu Ba-la-mật: Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định, Bát-nhã, sáu loại lớn này. Phải học tập như thế nào? Phải luôn an trụ trong chư Tam-ma-địa không sanh không diệt, chư là nhiều, Tam-ma-địa là Chánh định. Mắt thấy sắc, nhìn được rất rõ ràng, rất sáng tỏ, mà không có Khởi tâm Động niệm, không khởi tâm, không động niệm gọi là Tam-ma-địa, Định; Nhìn được rõ ràng hiểu rõ là trí huệ, chiếu kiến. Phàm phu hễ nhìn thì khởi tâm động niệm, thì phân biệt chấp trước, điều này gọi là thói xấu, thói xấu ô nhiễm nghiêm trọng. Sáu căn đối với cảnh giới sáu trần, họ khởi tâm động niệm, ăn món gì thì coi trọng mùi vị, coi trọng dinh dưỡng, mặc đồ thì coi trọng chất liệu, hiện nay rất nhiều người coi trọng thương hiệu, đây đều là tạo nghiệp. Vì chính mình, tạo nghiệp tương đối nhẹ một chút; Nếu làm hại người khác, thì tạo nghiệp nặng. Trưởng ban Cao hôm nay ở đây, chưa đi, ngài cho tôi biết một thông tin, là do chúng sanh dựa thân tiết lộ, người con gái ăn mặc rất lộ liễu ở bên ngoài, sẽ thu hút tư tưởng xấu của người khác, quả báo đều là ở Địa ngục, đó là nghiệp ác. Chư vị nói tôi không có làm việc xấu, quần áo của chư vị mặc lộ liễu chính là việc xấu, bản thân chư vị không biết, tương lai khi đọa Địa ngục thì hối hận không kịp, khi đó muộn rồi, không kịp nữa rồi. Chúng ta có thể khuyên người ta được không? Không thể khuyên, khuyên rồi họ oán giận, họ nói chúng ta là cổ hủ, không theo kịp với thời đại. Đây là thời đại nào? Thời đại của Địa ngục, thật sự là chúng ta không có theo kịp. Cho nên cách ăn mặc của phụ nữ ngày nay, [như] nữ Tu sĩ của Thiên Chúa Giáo, Cơ Đốc Giáo, cách ăn mặc của phụ nữ của Đạo Hồi, đó là đẹp nhất, phần đầu, toàn bộ cơ thể đều che kín hết, thật phù hợp, đẹp. Chúng ta chứng kiến ở trên phố, không thể làm gì, hết cách. Từ trên nhân thì nhìn thấy quả báo, từ trên quả thì nghĩ đến nhân hạnh, nghiệp nhân quả báo tơ hào không sai. Cho nên trong tịch có chiếu, trong Huệ có Định. Tịch làm căn bản, tịch là buông xuống, tác dụng chiếu soi không cùng tận. Phải biết chiếu mà thường tịch, tốt, biểu thị thọ mạng vô lượng. Vô lượng thọ đồng thời cũng chính là vô lượng quang, từ trên Thể nói là vô lượng thọ, nói từ trên Dụng là vô lượng quang. Bởi vì trí huệ đến do từ Định, cho nên Định là Thể của Huệ, muốn cầu trí huệ thì trước tiên phải trì Giới, nhân Giới đắc Định, nhân Định khai Huệ.
Tiếp theo vị thứ mười, 「信慧」 Tín Huệ Bồ-tát, 《會疏》云:信心智慧,永斷疑網 “Hội Sớ vân: tín tâm trí huệ, vĩnh đoạn nghi võng” (Trong sách Hội Sớ nói: niềm tin trí huệ, mãi mãi đoạn dứt lưới nghi), đây là giải thích rõ sự quan trọng của niềm tin. Thế giới ngày nay hỗn loạn, trên toàn bộ lịch sử dường như chưa từng có sự nghiêm trọng như hiện giờ. Do nguyên nhân gì tạo thành? Mất lòng tin rồi. Chư vị xem, tin là huệ, còn không tin? Không tin chính là mê, huệ trở thành mê, tin lại trở thành hoài nghi. Hoài nghi từ mê hoặc mà ra, lòng tin từ trí huệ mà ra, hiện tại thế gian này không có trí huệ, tâm nghi đặc biệt nặng. Những năm nay, chúng tôi có duyên tham gia một số Hội nghị Quốc tế, đều là do Liên Hợp Quốc chủ đạo, Hội nghị Hòa Bình Thế Giới. Chúng tôi cũng không ít lần đưa ra chủ đề báo cáo, giới thiệu văn hóa truyền thống tốt đẹp của nước nhà, đặc biệt là nói về đức tính trong đó, đưa ra nội dung báo cáo. Thính chúng chủ yếu là Đại sứ các nước trong Liên Hợp Quốc, nghe thấy đều rất tán thán, đều hoan hỉ, nhưng không tin, tan cuộc họp, [họ] nói với tôi, thưa Pháp sư! Ngài giảng rất hay, nhưng đó là lý tưởng, làm không được. Sự thật này là cú sốc nghiêm trọng nhất đối với tôi, vậy tôi đến tham gia hoạt động này, không phải đến một cách vô ích ư? Nghĩ một hồi lâu, làm thế nào có thể để họ thể tin? Đó chính là chư vị phải làm ra cho họ thấy, họ xem thấy rồi, họ sẽ không nói nữa. Cho nên trong quá khứ, chúng tôi làm thực nghiệm ở Thị trấn Thang Trì là vì Liên Hợp Quốc mà làm, là muốn để cho họ tin tưởng. Chúng tôi làm thành công rồi, những người ấy nghe được không dám không tin tưởng, nhưng vẫn còn có nghi ngờ. [Còn] nghi ngờ, [nên] báo cáo của chúng tôi chưa thể dừng lại, luôn luôn khiến họ huân tập, không thể để một chút tín căn đó của họ đoạn mất, phải bồi dưỡng họ. Xấp xỉ mười năm rồi, có hiệu quả, bây giờ tôi hiểu được, nên có hơn 30 vị Đại sứ, chưa được 40 người, có hơn 30 người, có mấy phần tin tưởng được. Đặc biệt lần này Chủ tịch đến thăm Châu Âu, [ông] phát biểu tại tổ chức Unesco ở Paris nước Pháp, sau khi phát biểu xong, có rất nhiều vị Đại sứ nói với tôi, họ có niềm tin rồi, tin thế giới này tương lai vẫn sẽ có hòa bình. Rất khó được, thật sự không dễ dàng!
Vậy chúng ta phải củng cố thêm lòng tin cho họ, xây dựng lòng tin lại lần nữa, dùng phương pháp gì? Giáo dục, dạy học làm đầu. Kinh giáo Đại thừa thường nói, chư Phật Như Lai「今現在說法」“kim hiện tại thuyết pháp” (nay thị hiện đang thuyết pháp), câu nói này quan trọng hơn bất cứ điều gì. Làm thế nào để xã hội ổn định? Làm thế nào để hài hòa? Chỉ cần làm được kim hiện tại thuyết pháp, thì vấn đề gì cũng được giải quyết. Thời xưa trong vùng nông thôn hẻo lánh cũng có tú tài nghèo đang giảng kinh thuyết pháp, bây giờ muốn giảng kinh thuyết pháp càng thuận tiện. Tôi thường nói, tôi nói thật không phải là giả, hóa giải vấn đề chính là giảng kinh thuyết pháp, không phải làm thứ khác. Hiện nay Quốc gia có ti vi, đưa việc giảng kinh thuyết pháp lên ti vi, 24 giờ đều phát, có người thích xem thì xem, người càng ngày càng đông, tôi tin nửa năm đến một năm, thì thái bình trên toàn địa cầu, vấn đề gì cũng được giải quyết. Hi vọng mỗi Tôn giáo đều đưa ra giảng kinh thuyết pháp, thì có thể nhận được hiệu quả. Đây là biểu pháp đã làm cho chúng ta khi còn tại thế của đức Thích Ca Mâu Ni Phật. Cả đời Ngài đã làm những việc gì? Ngoài giảng kinh thuyết pháp ra, Ngài cũng không làm bất cứ việc gì. 30 tuổi khai ngộ, sau khi khai ngộ thì dạy học, 79 tuổi viên tịch, giảng kinh thuyết pháp 49 năm, không có một ngày gián đoạn. Ngài là người như thế nào? Nhà giáo dục, là một người làm công tác giáo dục văn hóa xã hội đa nguyên tình nguyện. Ngài không thu tiền của người ta, không thu học phí, không cầu cúng dường, người đến thì không từ chối, người đi thì không giữ lại, cả đời dạy học. Chúng ta phải học tập theo Ngài. Học tập điều gì? Học tập dạy học, sau khi chính mình học thành, phải đem kinh giáo của chính mình thực hiện vào đời sống, thực hiện vào công việc, thực hiện xử sự đối người tiếp vật, sau đó dạy học. Hiện nay phương pháp dạy học tốt nhất chính là dùng ti vi, dùng Intenet, không có chướng ngại, người ta mở máy tính thì xem được, đều thuận tiện hơn bất kỳ điều gì. Một Quốc gia muốn ổn định, muốn hòa hợp, muốn hóa giải chiến tranh, hóa giải tất cả xung đột, thì phương pháp này là pháp vi diệu số một. Đây là chúng tôi đã làm nhiều năm như vậy, đóng góp phần kinh nghiệm, hiệu quả này cho người lãnh đạo của mỗi Quốc gia, người lãnh đạo của mỗi khu vực. Hôm nay Huyện trưởng huyện Đào Viên đến thăm tôi, tôi khuyên ông [lấy việc] dạy học làm đầu, dạy điều gì? Dạy sách Quần Thư Trị Yếu là tốt. Do chúng tôi yêu cầu cấp bách, thầy dạy sách Quần Thư Trị Yếu, thực sự có thể giảng được những thứ này rõ ràng, giảng được tường tận, giảng được thấu triệt, thì tất cả chúng sanh hết thảy đều học tốt, công đức này vô lượng.
Tốt rồi, hôm nay thời gian hết rồi, chúng ta học tập đến đây.
(Hết tập 75)
Nguyện đem công đức này
Hướng về khắp tất cả
Đệ tử cùng chúng sanh
Đều sanh nước Cực Lạc
Sớm viên thành Phật đạo
Rộng độ khắp chúng sanh.
Nam Mô A Mi Đà Phật.
#HoathuongTinhKhong #tinhdodaikinhkhoachu2014