TỊNH ĐỘ ĐẠI KINH KHOA CHÚ 2014 – 2017
(Giảng lần thứ 4)
PHẨM THỨ BA: ĐẠI GIÁO DUYÊN KHỞI
Duyên Khởi Của Đại Giáo
TẬP 121
Chủ giảng: Đại lão Hoà thượng Thích Tịnh Không.
Giảng tại: Hiệp hội Giáo dục Phật Đà Hồng Kông.
Thời gian: Ngày 24 tháng 10 năm 2014.
Dịch giả: Vũ Văn Trà.
Giảo chánh: Thích Thiện Trang.
Kính
chào: chư vị Pháp sư, chư vị đồng học, kính mời ngồi. Mời mọi người cùng tôi
quy y Tam Bảo: 阿闍黎存念,我弟子妙音, 始從今日,乃至命存, 皈依佛陀,兩足中尊; 皈依達摩,離欲中尊; 皈依僧伽,諸眾中尊。 “A-xà-lê tồn niệm, ngã Đệ tử Diệu Âm, thỉ
tùng kim nhật, nãi chí mạng tồn, quy y Phật-Đà, lưỡng túc trung tôn; Quy y Đạt-ma, ly dục trung tôn; Quy y Tăng-già, chư
chúng trung tôn.” (Bạch
Thầy A-xà-lê thương xót! Con Đệ tử Diệu Âm, kể từ hôm nay, cho đến suốt đời, con
xin quy y Phật, lưỡng túc tôn; Con xin quy y
Pháp, ly dục tôn; Con xin quy y Tăng, chúng trung tôn). (3 lần)
Mời
xem Đại Kinh Khoa Chú, trang 352, trang 352, đếm ngược đến hàng thứ năm, bắt đầu
xem từ 「世尊」“Thế Tôn”:
「世尊,指釋迦牟尼佛。《淨影疏》曰:佛具眾德,為世尊重,故號世尊。」“Thế Tôn, chỉ Thích Ca Mâu Ni Phật.
Tịnh Ảnh Sớ viết: Phật cụ chúng đức, vi thế tôn trọng, cố hiệu Thế Tôn”(Thế
Tôn là chỉ đức Thích Ca Mâu Ni Phật. Trong Tịnh Ảnh Sớ
viết: đức Phật đầy đủ chúng đức, được thế gian tôn kính, nên xưng là Thế Tôn). Ở chỗ này, chúng ta nhất định cần phải biết, đức Phật đầy đủ
đức năng viên mãn, cũng chính là lời nói của: Đại sư Huệ Năng khi khai ngộ, 「何期自性,本自具足」“hà kỳ Tự Tánh, bổn tự cụ
túc”(nào ngờ Tự Tánh, vốn tự đầy đủ), chưa từng nghĩ đến Tự Tánh trước
nay đầy đủ. Đầy đủ điều gì? Đầy đủ vạn pháp, điều gì cũng chẳng thiếu khuyết. Vạn
không phải là chữ số, mà đại biểu viên mãn, không có điều gì chẳng đầy đủ. Đó
là Tự Tánh. Chính là trên kinh Đại thừa thường nói: 「心外無法,法外無心」“Tâm ngoại vô pháp, pháp ngoại vô tâm”(Ngoài tâm không
có pháp, ngoài pháp không có tâm), tất cả pháp đều là do tâm biến. Trên
Kinh Hoa Nghiêm đức Phật nói rất cụ thể, nói: 「一切眾生皆有如來智慧德相」“Nhất thiết
chúng sanh giai hữu Như Lai trí huệ đức tướng”(Tất cả chúng sanh đều có
trí huệ-đức-tướng của Như Lai). Ngài đem vạn pháp (tất cả pháp) chia làm ba
loại lớn, loại thứ nhất là trí huệ, loại thứ hai là đức năng, loại thứ ba là tướng
hảo. Tướng hảo hoàn toàn là từ trên vật chất mà nói, trong đức năng, ngày nay
chúng ta nói là tinh thần, khởi tâm động niệm, phương diện tinh thần này chính
là đức năng, phương diện vật chất là tướng hảo. Hiện nay, nhà Khoa học cũng
chia thành ba loại, thứ nhất là năng lượng; thứ hai là ý nghĩ, ý niệm; thứ ba
là vật chất, chia làm ba loại lớn này. Trong kinh Đại thừa gọi là: Tam tế tướng của A-lại-da, nhà khoa học gọi là
năng lượng, là Nghiệp tướng của A-lại-da; Tinh thần, ý niệm là Chuyển tướng của
A-lại-da; Vật chất là Cảnh giới tướng của A-lại-da, cũng chia thành ba loại. Ba loại này là Tự Tánh vốn đủ, không phải
đến từ bên ngoài.
Bởi vậy, đức Phật
thường dạy trên kinh: 「一切法從心想生」“Nhất thiết pháp tùng tâm tưởng sanh”(Tất cả pháp từ
tâm tưởng sanh). Câu nói này: đã được nhà Cơ học Lượng tử hiện đại chứng
minh. Tất cả pháp: quả thật là sanh ra từ ý niệm. Đức Phật lại nói: 「境隨心轉」“Cảnh tuỳ tâm chuyển”(Cảnh
chuyển theo tâm), cảnh là hoàn cảnh, không kể là hoàn cảnh vật chất hay là
hoàn tinh thần, đều là chuyển từ
ý niệm. Vì sao Thế giới Cực Lạc tốt đẹp như vậy? Là do ý niệm thuần tịnh thuần
thiện: trong Tự Tánh của chúng ta: biến hiện ra. Ngày nay, vì sao xã hội của thế
giới chúng ta đây: có nhiều tai nạn biến cố như thế? Đó là do tất cả ý niệm
không thiện, ý niệm không tịnh của chúng ta mà biến hiện ra. Hiện nay, thế giới
động loạn, tai nạn bất thường trên trái đất, chúng ta sống ở nơi đây: cảm thấy
vô cùng thống khổ, tâm trạng phiền não không yên, không định xuống được, đó là
nguyên nhân gì? Là trong Tự Tánh của chúng ta, Tự Tánh vốn là thanh tịnh, trước
nay là thuần tịnh thuần thiện, nhưng đã mê mất Tự Tánh, Tự Tánh là Chân Tâm, từ
trong Chân Tâm biến ra Vọng tâm, là A-lại-da. A-lại-da là giả, không phải là thật,
tại sao vậy? Vì là thật thì vĩnh hằng bất biến, còn A-lại-da có sanh có diệt.
Ý
niệm cực kỳ vi tế: là do chúng ta không phát giác được, tần số vô cùng cao. Chúng
ta căn cứ lời nói của Bồ-tát Di Lặc, Bồ-tát nói với chúng ta, ý niệm vi tế nhất,
sanh ra dưới tần số cao bao nhiêu? Bồ-tát nói 「一彈指有三十二億百千念」“nhất đàn chỉ hữu tam thập nhị ức bá
thiên niệm”(trong khảy ngón tay: có 32 ức trăm ngàn niệm). 32 ức
nhân 100 ngàn, 100 ngàn là 10 vạn, 32 ức nhân 10 vạn: tức là 320 ngàn tỷ, một
khảy tay này. Khoa học ngày nay của chúng ta: dùng đơn vị thời gian là giây, một
giây đó chúng ta có thể khảy bao nhiêu lần? Trước kia, tôi giảng đại khái là
năm lần, chúng tôi có thể cảm nhận được. Có người nói với tôi nhiều hơn, có thể
khảy bảy lần, tôi có thể tiếp nhận, vì sao? Bởi tuổi tôi đã cao không khảy nổi,
trong một giây có thể búng bốn lần, năm lần; Người trẻ tuổi, thể lực mạnh mẽ, thân
thể rất cường tráng, tôi tin tưởng họ có thể khảy được bảy lần. Bảy lần, 320
ngàn tỷ nhân bảy, 3, 7, 21, là 2 triệu 100 ngàn tỷ, 2 triệu 100 ngàn tỷ lần
trong một giây. Sóng dao động trong một giây: là 2 triệu 100 ngàn tỷ lần, chúng
ta không chút phát giác. Đó chính là gì? Là chân tướng sự thật ở trước mắt
chúng ta, ở dưới tần số cao đó: sanh ra chính là ảo tướng, căn bản là không thấy
được chân tướng, dù chân tướng ngay ở trước mắt. Nhà Khoa học cận đại, Khoa học
trên địa cầu này phát triển: khoảng 400 năm, kinh nghiệm tích lũy của 400 năm, người
đời sau nối tiếp thành quả của người trước, hướng thượng vươn lên. Đến 20 năm gần
đây: mới nghiên cứu được cửa ải thứ nhất, là hiện tượng vật chất. Vật chất đến
cuối cùng là gì, đã làm rõ ràng, làm sáng tỏ, hoàn toàn giống với lời Phật dạy
trong kinh. Những Khoa học gia này: vô cùng bội phục đối với kinh Phật. Họ suy
nghĩ, 3000 năm trước, đức Phật: không có khái niệm Khoa học Kỹ thuật, tại sao
Ngài biết được? Giảng còn kỹ càng hơn họ nói. Do đó chúng ta đã hiểu rõ, trong
Kinh Đại thừa: không chỉ có Triết học đỉnh cao, mà còn có Khoa học tiên tiến nhất.
Tần số 2 triệu 100 ngàn tỷ lần trong một giây: thì chúng ta không có cách gì nắm
giữ được, là ảo tướng, chúng ta căn bản không có biện pháp phát hiện.
Chúng
ta xem điện ảnh kiểu cũ, phim kiểu xưa: là do nguyên lý ảnh động tạo thành,
phim đèn chiếu. Ống kính của máy chiếu phim mở ra, thì tấm ảnh này chiếu trên
màn ảnh, lại đóng ống kính lại, thì đổi tấm thứ hai, khi mở ra nữa thì là tấm
tiếp theo, trong một giây [chiếu] 24 tấm. 24 tấm hình: thì đã đánh lừa được mắt
của chúng ta, mắt chúng ta xem được trên màn ảnh, hình ảnh này đang chuyển động,
như là thật vậy. Đó là thế nào? Là 1/24 giây. Vậy tôi muốn thấy thật tướng đó, thật
tướng chính là 1/24 giây, tôi chỉ xem một tấm ảnh, một tấm phim nhựa. Làm được,
chúng tôi đã làm thí nghiệm, chúng tôi mở ống kính ra, một bức ảnh, rồi đóng lại,
những tấm phim tiếp theo là bị bôi đen hết, không có [hình], bôi đen hoàn toàn,
chỉ để lại một tấm này, là 1/24 giây. Chúng ta có xem thấy không? Xem được. Xem
thấy gì? Thấy được một tia sáng lóe lên liền không còn nữa, trong ánh sáng đó: có
những gì thì không thấy rõ ràng, chỉ thấy được ánh sáng lóe lên. Trong ánh sáng
có hình ảnh, có hình ảnh hoàn chỉnh, nhưng chúng ta hoàn toàn không thấy được, vì
quá nhanh. Chúng ta cần phải ở trong tình hình thế nào? Là một nửa giây, cũng
chính là 12 tấm phim trong một giây, thì chúng ta có thể xem được, trong đó vừa
có cây, có người, có nhà cửa, có khái niệm như vậy, vừa thoáng hiện liền qua rồi,
xem kỹ không thấy nữa. Cho nên, năng lực của mắt không lớn. Khoa học Kỹ thuật
hiện nay có năng lực bắt kịp: một phần một triệu tỷ giây, có thể bị thấy được,
thấy rõ ràng, còn có thể chụp ảnh, đem ảnh chiếu ra, chúng ta có thể thấy được
chân tướng bên trong. Cho nên chân tướng ngay ở trước mắt, chúng ta không nghe
thấy, chúng ta không nhìn được, chúng ta không ngửi được, chúng ta không tiếp
xúc được, ngay cả Ý thức thứ sáu cũng không nghĩ được, chính là tâm của chúng
ta, Vọng tâm, nghĩ không tới.
Đức
Phật nói với chúng ta, đến khi nào quý vị có thể thấy được? Trên kinh thường
nói là Bát địa trở lên. Cho nên, đức Phật không cần thiết bị Khoa học, không cần
dùng Khoa học Kỹ thuật hiện nay, mà Ngài trực tiếp liền trông thấy. Ngài dùng điều
gì? Dùng Chân Tâm, dùng tâm thanh tịnh. Vì sao Chân Tâm có thể thấy được? Bởi
Chân Tâm không động, quý vị là động, Vọng tâm là động, động có nhanh hơn, thì
Chân Tâm cũng rất là rõ ràng, vô cùng sáng tỏ. Trong Chân Tâm vốn có đủ trí huệ,
đức năng, sự quan sát và lắng nghe như thế, đó là đức năng, nên không bị chướng
ngại, cho nên, dù có vi tế hơn, tần số cao hơn, thì cũng thấy được rõ ràng,
cũng nghe được sáng tỏ, bởi không có chướng ngại. Cho nên, đó là ở một niệm, một
niệm này là: một phần 2 triệu 100 ngàn tỷ giây, là thời gian ngắn như vậy, mà
có thể thấy rõ ràng, nghe được sáng tỏ. Chân tướng sự thật ấy ở ngay trước mắt,
không phải quá khứ, chẳng phải tương lai, mà là hiện tại, một niệm hiện tiền. Trong
Kinh Đại thừa dạy bảo chúng ta, nếu chúng ta chứng được: Thập tín, Thập trụ, Thập hạnh, Thập hồi hướng, Thập
địa, trong Thập địa chứng đến bậc Bát địa, thì năng lực sáu căn của chúng ta, mắt
tai mũi lưỡi thân ý, là không khác nhiều với Phật. Điều mà đức Phật thấy được
thì ta cũng thấy được; Điều mà đức Phật nghe được, ta cũng nghe được; Điều mà đức
Phật tiếp xúc được thì ta cũng biết. Bát địa, Bát địa cách Phật rất gần. Trong
Kinh Hoa Nghiêm đem quả vị tu chứng của Bồ-tát: xác định làm 52 cấp bậc, 51 bậc
phía trước là Bồ-tát, bậc cuối cùng là đã thành Phật, địa vị thứ 52 là đã thành
Phật, Bát địa cách thành Phật rất gần, quý vị thấy, Bát địa, Cửu địa, Thập địa,
Đẳng giác, đó là đã thành Phật. Bốn vị thứ tối cao của Bồ-tát, năng lực sáu căn
của quý ngài đã khôi phục hoàn toàn, giống với Phật vậy, Phật tri Phật kiến.
Điều
này nói thì dễ, nhưng tu thật là khó. Cách tu như thế nào? Buông xuống mà thôi. Buông
xuống điều gì? Buông xuống Khởi tâm Động niệm. Nhưng chúng ta không biết Khởi
tâm Động niệm, Khởi tâm Động niệm chính là: sự sanh diệt: trong một phần 2 triệu
100 ngàn tỷ giây, đó gọi là Khởi tâm Động niệm. Không khởi tâm, không động niệm,
thì không có Vọng tâm, không còn A-lại-da nữa, hoàn toàn dùng Chân Tâm. Chân
Tâm cực kỳ nhạy bén sáng suốt, lại còn vi tế, rất là rõ ràng, vô cùng sáng tỏ, không
thể nghĩ bàn. Học Phật không có gì khác, chỉ là quay về Tự Tánh mà thôi. Trên
Kinh Lăng Nghiêm nói: 「圓滿菩提,歸無所得」“Viên mãn Bồ-đề,
quy vô sở đắc”, quý vị chứng được
quả vị viên mãn, đã thành Phật, là Diệu Giác Như Lai, quý vị có đạt được điều
gì chăng? Không có, chẳng đạt được gì, điều mà quý vị đạt được: là do Tự Tánh
trước nay đầy đủ, không có điều gì là những điều mới, do Tự Tánh vốn có. Cho
nên, Phật pháp: kỵ nhất là cầu pháp ngoài tâm, ngoài tâm không có pháp, quý vị
đến đâu để cầu? [Trong] Phật pháp tất cả hướng nội chứ không hướng ngoại. Bởi vậy,
kinh Phật gọi là Nội điển, học Phật gọi là Nội học, hướng nội không hướng ngoại.
Tất cả là do chính mình vốn có, bên ngoài không có một pháp, bên ngoài toàn là
giả, là ảo tướng, như mộng ảo bọt bóng. Hướng nội để cầu, thì tất cả viên mãn; Hướng
ngoại cầu, thì vĩnh viễn không đạt được.
Tự
Tánh vốn đủ nhiều đức, cho nên Phật đầy đủ nhiều đức, quý vị chứng được địa vị
của Phật, thì vô lượng vô biên đức năng tất cả hiện ra, được thế gian tôn trọng. Thế gian là phàm
phu, sáu đường là thế gian, mười Pháp giới vẫn là thế gian, chúng sanh trong Lục
đạo mười Pháp giới: tôn kính đối với Phật, cho nên xưng là Thế Tôn. Thế gian
không có ai tôn quý hơn Phật, Tánh đức của Ngài, Trí huệ của Ngài, Tướng hảo của
Ngài: đã hiển hiện ra viên mãn. Tuy như vậy nhưng chúng ta nhất định phải biết,
toàn bộ tất cả chúng sanh của thế gian: không có khác biệt với đức Thế Tôn, chỉ
là Ngài đã giác ngộ, Ngài không mê, hiển lộ hoàn toàn Tánh đức; Còn chúng ta
đang mê mất Tự Tánh, chúng ta là [bị] Vọng tâm quản lý làm chủ, không phải Chân
Tâm. Vọng tâm là tâm sanh diệt, chính là ý niệm của sanh diệt đó, sanh diệt 2
triệu 100 ngàn tỷ lần trong một giây, đó là Vọng tâm. Vọng tâm ấy: đã bóp méo
tướng mà Chân Tâm biến, tướng do Chân Tâm hiện: là hoàn chỉnh, là viên mãn, tướng
mà Vọng tâm hiện giống như nước. Chúng ta ở trên mặt hồ, hồ nhỏ, gió yên sóng lặng,
nước trong veo không có ô nhiễm, nước đó là giống như tấm gương vậy, phong cảnh
bốn phía đều chiếu ở trong, chiếu viên mãn ở trong, gọi là chiếu kiến, Chân Tâm
kiến, đó là gì? Là Nhất chân Pháp giới. Tình hình của Vọng tâm ra sao? Vọng tâm
chính là có ô nhiễm, nước không sạch sẽ, có gợn sóng, có gió thổi nên gợn sóng.
Có thể chiếu không? Có thể chiếu, nhưng chiếu không rõ ràng. Chúng sanh của mười
Pháp giới đã động tâm, tức là họ có làn sóng, họ có ô nhiễm. Ô nhiễm có nặng nhẹ
khác nhau, tần số của làn sóng cao thấp không như nhau, cho nên chia thành mười
Pháp giới, càng đi lên thì càng thuần khiết, thanh tịnh, càng hướng xuống, thì
sóng to gió lớn, đặc biệt là ba đường ác, cũng có thể thêm vào A-tu-la. Hai đường
trời người thì khá hơn một chút, trên trời rất tốt, có tu hành, có chút công
phu định lực, tuy có Tạp niệm, có sóng dao động, nhưng không phải sóng to gió lớn;
Sóng to gió lớn là A-tu-la, tiếp theo là Ngạ quỷ, Địa ngục, Súc sanh, nông nỗi
đến vô cùng. Đáng thương nhất, chịu khổ nhất chính là Địa ngục, trong Địa ngục,
có địa ngục Vô Gián, trong Kinh Địa Tạng nói rất kỹ. Cho nên, đức Thế Tôn giảng
trên kinh, mỗi người chúng ta đều có phần, hy vọng chúng ta khôi phục Bản Lai
Diện Mục, đó gọi là Thế Tôn. 「佛是世間極尊」“Phật thị thế gian cực tôn”(Phật
là tôn kính nhất thế gian), cực kỳ tôn kính, 「故稱世尊」“cố xưng Thế
Tôn”(nên xưng là Thế Tôn).
「威者,有威可畏謂之威」“Uy giả, hữu uy khả úy vị chi uy”(Uy
là có uy nghiêm đáng kính phục, gọi là uy). Chữ “uy” này, tiếp theo là nói 「威神」“uy thần”, uy nghiêm, chúng sanh thấy được Ngài: tự
nhiên sanh ra kính sợ, người nước ta gọi là kính phục người lớn. Thời xưa, độ
tuổi này của tôi, đích thân cảm nhận, từ nhỏ đã được học quy củ, phép tắc này đại
khái: chính là những điều được dạy trong Đệ Tử Quy, trẻ nhỏ gặp người già rất
là quy củ, gặp bề trên phải có lễ phép, lời nói cử chỉ đều không được tùy tiện,
như người trưởng thành vậy. Quản giáo nghiêm, từ nhỏ dưỡng thành thói quen. Trong
nước và ngoài nước đối lập, trẻ nhỏ nước ta như người đã lớn, nhất cử nhất động
đều phù hợp khuôn phép, không giống trẻ em nước ngoài, trẻ nhỏ nước ngoài hồn
nhiên, ngây thơ, hoạt bát. Hai loại giáo dục khác nhau, sau khi so sánh, quý vị
liền hiểu được. Cho nên, ngạn ngữ nói, nước ngoài là Thiên đường của trẻ nhỏ, là
mộ phần của người già. So với nước chúng ra: thì thời niên thiếu được giáo dục
nghiêm khắc, trẻ nhỏ đều không có một chút tự do, đều phải huấn luyện, dạy bảo
chúng nghiêm khắc, gọi là thói quen thành tự nhiên, dạy dỗ nghiêm khắc, không
có tự do, không được nói tùy tiện, không được hành động tùy tiện, có quy có củ,
có khuôn có mẫu, lúc nhỏ được quản giáo càng nghiêm khắc, thì đến khi trung
niên, học thành học thuật, hoặc là kỹ năng, quý vị có thể nuôi cả gia đình, thì
tuổi già hưởng phước.
Xã
hội nước ta có hưởng thụ không? Có. Khi nào thì hưởng thụ? Lúc tuổi già, đã về
hưu, hồi hương, lá rụng về cội. Về quê hương làm gì? Về dưỡng lão, hưởng thụ niềm
vui gia đình. Người ngoại quốc hâm mộ, nước ngoài là Thiên đường của trẻ nhỏ, là
mộ phần của người già, người già thật đáng thương. Hưởng thụ của người nước ta
là đến khi về già, hưởng tuổi già. Cuối đời có phước báu là phước báu thật sự, về
già sức khỏe đã suy, con cháu đầy nhà, có người chăm sóc, có người trông nom, điều
gì cũng không cần bận tâm. Thời xưa, gia đình lớn, đến tuổi về hưu thì trở về
nhà, về nhà giáo dục thế hệ tiếp theo, đó là nghỉ công tác rồi, họ có kinh nghiệm,
họ có học vấn, về nhà ở cùng với con với cháu, rất tự nhiên thì truyền thụ cho
thế hệ sau. Trẻ nhỏ tiếp thu [dạy bảo] của bậc cha chú của ông nội, tuyệt đại
đa số là của ông nội, tiếp thu giáo huấn của họ, kinh nghiệm nhân sinh cả đời của
họ, dạy cho trẻ nhỏ chuyện xưa, trẻ nhỏ đều nhớ kỹ, có thọ dụng rất lớn đối với
chúng.
Người
nước ta hiểu được giáo dục, coi trọng giáo dục, có lý niệm của giáo dục, có
phương pháp của giáo dục, có nội dung của giáo dục. Từ nhỏ dạy luân lý, luân lý
là gì? Là quan hệ giữa người với người. Đều làm rõ ràng quan hệ, đó là có tôn
ti lớn nhỏ, cần phải tôn trọng với bề trên, thân thiện với cùng trang lứa, phải
từ bi với thế hệ sau. Đều đã dưỡng thành từ lúc nhỏ, luyện thành thói quen, rất
thành thục rồi, bất luận trong tình huống nào [cũng] sẽ không sai khuôn phép. Người
có mừng giận buồn vui, mừng giận buồn vui biểu hiện ra đều hợp lễ nghĩa, không
quá đáng, vừa vẹn đúng mức, đây là tình người. Những người nước ngoài quả thật
không thể sánh bằng nước ta, ngoại quốc từ nhỏ không ai dạy. 200 năm trước, văn
hóa của nước ngoài: từ Nhật Bản truyền tới nước ta, nước ta cũng đã cử đi rất
nhiều du học sinh: đến nước
ngoài du học. Công phu của những em nhỏ đó vẫn chưa được rèn luyện thành thục, ở
nước ta làm trẻ nhỏ rất khổ, nhất cử nhất động đều phải theo quy củ, đến nước
ngoài hoàn toàn buông lỏng, hoàn toàn không có nữa, cảm thấy điều này của ngoại
quốc tốt. Trẻ nhỏ nước ta thật sự không bằng trẻ nhỏ nước ngoài, hoạt bát như vậy,
hồn nhiên như vậy, kiểu dáng buông thả như thế, nhất định không cho phép. Khi học
nước ngoài xong rồi, thì đã lơ là những điều tốt của nước ta, tạo thành khổ nạn
của xã hội nước ta ngày nay. Lão Tổ tông 200 năm trước: thấy được tình hình hiện
nay: thì họ cảm tưởng thế nào? Khóc thương rơi lệ, thừa nhận đã sai, không có
vâng theo giáo huấn của thế hệ trước, dẫn theo phương hướng này là sai lầm, nhưng
hối hận không kịp. Xã hội của ngày nay, Tổ tông của thế hệ trước không mong muốn
xem thấy.
Ngày
nay, chúng ta coi như rất có phuớc khí, đã thấy được tiền đồ của nước ta: phát
hiện ra một con đường sáng lạng, chúng ta thấy được có người lãnh đạo hiền
minh, người xưa nói là minh quân xuất thế, chúng sanh có phước, vận mệnh đất nước
đã chuyển lại. Văn hóa của lão Tổ tông truyền lại, chúng ta cần phải phát nguyện
kế thừa tiếp nối: phát dương quang đại, đối với thân tâm chính mình được khỏe mạnh
trường thọ, gia đình hòa thuận, xã hội hài hòa, quốc gia giàu mạnh, thiên hạ
thái bình. Có làm được hay không? Làm được, chỉ cần quay về giáo dục truyền thống:
thì có thể làm được. Xem trong Lịch sử nước ta, quá nhiều ví dụ, quý vị có tin
được không? Cổ nhân nước ta sẽ không gạt người. Người hiện nay có thể lừa người,
họ gạt chính mình, họ lừa người khác, vì vậy họ không tin Lịch sử, cho rằng ghi
chép của Lịch sử đều là gạt người, giữ loại tâm này, đó là không có phước báu.
Chúng
ta cần phải tin, 5000 năm nay của nước ta, tiêu chuẩn của làm người: là Ngũ
luân Ngũ thường, Tứ duy Bát đức, đây là gốc rễ lớn của văn hóa nước ta, mỗi người
đều cần phải tiếp nhận, từ nhỏ đã bồi dưỡng thành, gọi là thói quen thành tự
nhiên. Luân là nói quan hệ, phải rõ ràng quan hệ giữa người với người, quý vị mới
có thể tận hết bổn phận, minh luân tận phận, tận hết nghĩa vụ bổn phận của
chính mình. Ngũ thường là đức, đức hạnh cơ bản của làm người, nhân, nghĩa, lễ,
trí, tín, đó gọi là người. Nếu đã làm trái Ngũ thường, vậy thì không coi là người.
Tả Khưu Minh trong tác phẩm Tả Truyện của ông, trong đó nói rất rõ ràng: 「人棄常則妖興」“Nhân khí thường tắc yêu hưng”(Người bỏ đi đạo thường thì yêu ma
hưng thịnh), người mà bỏ mất đi Ngũ thường: nhân, nghĩa, lễ, trí, tín này,
không cần nữa, thì biến thành gì? Thành bất nhân, bất nghĩa, vô trí, vô lễ, vô
tín, Vậy người đó là gì? Người đó là yêu ma quỷ quái, không thể gọi họ là người.
Cho nên, xã hội thời xưa, người buôn bán nhỏ cũng biết năm chữ đó, đều biết làm
người. Nhân là thương người, 「凡是人,皆須愛」“phàm thị
nhân, giai tu ái”(hễ là người, phải yêu thương). Nghĩa ấy là theo đạo
lý, khởi tâm động niệm, lời nói việc làm: cần phải nghĩ có phù hợp đạo nghĩa
hay không, không phù hợp nghĩa, thì không được nghĩ, không được nói, không được
làm. Trí là trí huệ, lý trí, không thể làm việc bằng tình cảm, làm việc bằng
tình cảm thì quý vị sẽ tạo tội nghiệp, khởi tâm động niệm, lời nói việc làm, nương
vào trí, không theo tình cảm, lý trí, dùng lý trí, không được dùng tình cảm. Sau
cùng là chữ tín, người không có tín thì không thể đứng ở trong xã hội, nhất định
phải nói chữ tín. Đức hạnh cơ bản của làm người là năm chữ: nhân, nghĩa, lễ,
trí, tín, quý vị làm được tất cả, thì đó là người Trung Hoa tiêu chuẩn.
Tứ
duy Bát đức, Tứ duy là do Quản Trọng nói, là đối với quốc gia: người lãnh đạo của
mỗi tầng cấp, từ Quốc vương đến Trưởng thôn mà chúng ta nói hiện nay, người
lãnh đạo: là tấm gương, là mô phạm của quần chúng xã hội, cần phải làm được bốn
chữ đó, lãnh đạo cần phải làm được bốn chữ: lễ, nghĩa, liêm, sỉ. Lễ chính là
quy củ, họ dẫn đầu làm, người lãnh đạo dẫn đầu làm, thì người nào dám không
làm? Người lãnh đạo, trách nhiệm của họ là quân, thân, sư, chữ ‘quân’ là lãnh đạo,
quý vị đi phía trước dẫn đường, quý vị hướng dẫn mọi người đến nơi nào, điều
này quan trọng, đây là trách nhiệm của họ. Quý vị là người thân của họ, ‘thân’ là thế nào? Như cha mẹ vậy,
quý vị phải chăm lo đời sống của họ, đời sống vật chất, đời sống tinh thần: phải
chiếu cố đến tất cả, tận tâm tận lực giúp họ lìa khổ được vui. Thứ ba là chữ ‘sư’, sư là thầy, quý vị còn
phải dạy họ, với những người được quý vị lãnh đạo đó thì quý vị cần phải dạy họ.
Trách nhiệm thiên phú của quý vị là ba sự việc này, quân, thân, sư, đây là lãnh
đạo tốt. Tiêu chuẩn đạo đức của toàn bộ xã hội, 「孝悌忠信,仁愛和平」“hiếu, đễ, trung, tín, nhân, ái, hòa, bình”, xã hội trật tự, quốc gia hùng mạnh, thiên
hạ thái bình. Chỉ mấy chữ này, đại đạo rất đơn giản, cũng không phiền phức chút
nào. Làm được mấy chữ này thì thiên hạ thái bình, trên địa cầu sẽ xuất hiện thịnh
thế, cũng không chút phiền phức nào, người lãnh đạo tối cao không phí sức mà quản
lý. Đó đều là giảng về uy thần.
「《勝鬘寶窟》曰:外使物畏,目之為威」“Thắng Man Bảo Quật viết: ngoại sử vật
úy, mục chi vi uy”(Trong sách Thắng Man Bảo Quật viết: bên ngoài khiến
người khác kính phục, nên gọi là uy), biểu hiện ở bên ngoài, dáng vẻ có
phong cách, có uy nghi, mọi người trông thấy quý vị: tự
nhiên sanh tâm cung kính với quý vị. Dân gian thông thường tiếp nhận: giáo dục của
gia đình, giáo dục của xã hội, thời xưa trường học không nhiều, [về] giáo dục,
thì gia đình gánh vác trách nhiệm chủ yếu, quốc gia chỉ là mở cuộc thi tuyển chọn
nhân tài, giáo dục chủ yếu toàn là gia đình, cho nên, gia đình có Gia học, gọi
là tư thục. Dạy học trong trường tư thục, tuân thủ quy luật của đại tự nhiên, thầy
dạy học trò: là áp dụng truyền thụ riêng biệt, một vị thầy có thể đáp ứng: hai-ba
mươi người, thông thường tối đa không vượt quá 40 người, thầy mới có thể hoàn
toàn chú ý đặc biệt đến; Vượt mức 40 trở lên thì thầy không chăm lo được, nhất
định phải mở lớp thứ hai. Nếu trong nhà mà nhiều trẻ nhỏ, thì [cần] hai vị thầy,
hai giảng đường. Dạy học đó là dạy riêng từng người, vì sao vậy? Bởi tư chất của
mỗi người khác nhau. Đặc biệt là trường học gia đình đó, tuổi tác của học trò
không tương đồng, có mười mấy tuổi, có bảy-tám tuổi, cho nên, phải dạy riêng từng
người. Dạy riêng biệt có chỗ hay, đứa trẻ đó có năng khiếu, sức trí nhớ rất tốt,
sức lý giải rất mạnh, tiến độ của chúng sẽ nhanh hơn người khác. Tại sao vậy?
Vì đó là nhân tài, gắng sức đào tạo chúng, để cho chúng tương lai tham gia cuộc
thi. Tú tài thi Huyện, Cử nhân thi Tỉnh, Tiến sĩ thi quốc gia, gọi là công
danh. Công danh chính là bằng cấp của hiện nay, văn bằng cao nhất, hiện nay là
học vị Tiến sĩ, thời xưa là Tiến
sĩ. Phần lớn những người thi đỗ ấy tương lai đều làm quan, làm Chính trị, họ có
tư cách làm việc nước.
Thời
xưa gọi là 360 nghề, nghề nghiệp mỗi người khác nhau, ngành nghề nào khiến mọi
người hâm mộ nhất? Chính là làm quan, đều lấy làm quan là vinh quang, thành tựu
đức hạnh của chính mình, thành tựu học vấn của chính mình, tương lai theo chính
trị. Vì sao vậy? Bởi thân phận địa vị làm quan rất cao, nhân dân, khi quý vị
làm Huyện trưởng, quan phụ mẫu, thì người của cả huyện đó cung kính đối với quý
vị, đều nghe quý vị, quý vị phải có trách nhiệm quân, thân, sư, phải làm người
lãnh đạo tốt. Vì sao mọi người ao ước? Bởi lượng công việc của họ rất ít, họ rất
ung dung. Sao lại thế? Do nhân dân đều được gia đình họ dạy tốt, không có người
phạm tội, không có làm điều phi pháp, nên lượng công việc rất ít. Điều họ có là
thời gian, ra ngoài đi tuần tra, thị sát trên thực tế là du sơn ngoạn thủy. Một
tháng có mấy vụ án là rất nhiều rồi, địa phương đó của quý vị không thái bình, sao
có nhiều việc như vậy? Nhà nào cũng đã dạy tốt, ai cũng là người tốt. Cho nên
việc của người làm quan rất ít, thời gian của họ rất nhiều, tâm họ rất thanh tịnh,
tâm thanh tịnh sanh trí huệ, không sanh phiền não. Thời gian dư nhiều, những
người ấy, người đọc sách, viết văn chương, thơ từ ca phú là do vậy mà đến. Bộ Tập
trong Tứ Khố Toàn Thư của chúng ta, hơn quá một nửa trở lên: đều là của những
người làm quan nhàn rỗi rảnh việc đó, họ làm ra Văn học Nghệ thuật. Đãi ngộ
cũng không tệ, đủ để nuôi gia đình. Vì thế trong các loại nghề nghiệp, thì đây
là thanh cao nhất, mọi người đều ưa thích.
Thế
nhưng có những người mà tư chất không đạt đến trình độ ấy, họ không được, không
được thì thầy dạy thế nào? Thầy chỉ dạy họ ứng dụng thông thường, giao thiệp
qua lại với người, như viết thư, viết khế ước, dạy cho họ những thứ văn chữ của
đời sống hàng ngày đó, họ có thể học một tay nghề. Cho nên nông công thương, đó
là nghề nghiệp, họ có thể học một nghề kỹ thuật, có khả năng mưu sinh. Vì vậy,
giáo dục đó là tách ra, giống như trồng cây vậy, trồng từng gốc từng gốc cây
non. Trường học phương Tây thời nay không như vậy, phương Tây đem chúng cắt
ngang, đều đem cây cắt bằng như nhau. Quý vị xem trường học, lớp một là trình độ
lớp một, lớp hai là
trình độ lớp hai, không giống nước ta thời xưa. Thời cổ, trồng cây vậy đó, có
cây nhỏ, có cây lớn, phẩm loại khác nhau, họ có phương pháp chăm sóc khác nhau.
Quý vị từ chỗ này để xem, lý niệm và phương pháp dạy học của cổ nhân nước ta: không
giống với trường học hiện nay, trường kiểu xưa sinh ra nhân tài. Nhân tài không
phải người nào cũng có thể đào tạo, phải có điều kiện đó, phù hợp điều kiện cá
tính của chính họ, đều bồi dưỡng họ thành nhân tài hữu dụng. Cho nên nghề nào
cũng có chuyên gia, đi học xuất hiện Trạng nguyên, học làm thợ, học thợ mộc, thợ
mộc cũng có thể đạt đến thợ mộc hạng nhất, thợ hồ cũng có thể đạt đến: thợ hồ bậc
nhất. Cho nên quý vị là thế nào, thì dựa vào tư chất đó để đắp nặn quý vị, đều
có thể đem quý vị tạo thành tài năng có ích. Đó là giáo dục của nước ta thời
xưa, lý niệm không giống với ngày nay.
Hiện
nay, thật sự là cứng nhắc, ngay ngắn chỉnh tề, từng lớp từng lớp nâng lên cao, không
giống với cổ nhân nước ta. Sở dĩ các triều đại của nước ta: đều có xuất hiện
Thánh hiền hào kiệt, đều là do thầy có huệ nhãn, đề bạt ra từ trong học trò. Vậy
loại phương thức học tập nào tốt? Vẫn là phương thức đó của cổ nhân tốt. Vì
sao? Bởi thật xuất hiện nhân tài, họ bồi dưỡng nhân tài, họ nhận biết nhân tài,
họ hiểu quý vị là tư chất thế nào, thì có khả năng đắp nặn quý vị thành điển
hình như vậy. Mặc dù trường học của phương Tây ngay ngắn chỉnh tề, nhưng nhân
tài bị mai một, họ phải nhận giáo dục giống với mọi người. Cho nên, quá khứ nước
ta dạy học là theo chiều thẳng đứng, hướng lên cao; Hiện nay trường học của ngoại
quốc, đó là cho quý vị một dao cắt bằng, lớp một chỉ là lớp một, lớp hai chỉ là lớp hai, thật sự thiên tài
đã bị lơ là. Đó là ở phương pháp lý niệm dạy học, phương pháp cũ của nước ta vượt
hơn hiện tại. Người hiện nay điều gì cũng tin tưởng người nước ngoài, phương
pháp lý niệm dạy học của nước ta tốt như vậy: mà bị từ bỏ, thật đáng tiếc.
Dạy
học Tư thục thời xưa, tiến độ của mỗi học trò khác nhau, tư chất tốt, thông thường
chúng ta nói là căn khí Thượng đẳng, trí nhớ tốt, sức lý giải tốt, một ngày có
thể đọc sáu-bảy trăm chữ. Thời xưa tính số lượng chữ, 6-700 chữ. Tiêu chuẩn là
gì? Đọc 10 lần thì có thể thuộc lòng, lấy đó làm tiêu chuẩn. Tiêu chuẩn cao nhất
là 700 chữ, đọc 10 lần thì có thể thuộc lòng; Đẳng cấp kém một chút, không thuộc
được, vậy thì: 500 chữ; Không thuộc 500 chữ được thì 300 chữ; 300 chữ cũng
không thuộc nữa thì 100 chữ, đại khái khoảng chừng 100 chữ. Quý vị thấy tiến độ
của mỗi người khác nhau, tất cả đều có thể thoả mãn năng lực của họ, họ có năng
lực thế nào, thì giúp họ, thành tựu họ, đề bạc ở trong đó, không phải cứng nhắc.
Cho nên, tuy thời xưa phòng học ấy nhỏ, nhưng đó là trường Đại học, vì sao? Bởi
các hạng người căn tánh bất đồng học cùng nhau, đó gọi là Đại học. Trình độ
không phải là bình đẳng, mà có khác biệt, thầy cần phải giỏi về đào tạo, đều sẽ
không bỏ sót mất một người tài nào.
Trong
sách Thắng Man Bảo Quật nói: bên ngoài khiến người khác kính phục, nên gọi là uy. 「內難測度,稱之為神」“Nội nan trắc
độ, xưng chi vi thần”(Bên trong khó đo lường, gọi đó là thần), hai
câu sau này hay! Bên ngoài là dáng vẻ, bên trong là tinh thần, tinh thần không
không thể nghĩ bàn, gọi đó là thần, uy thần. 「光者,光明也。自瑩謂之光,照物謂之明」“Quang giả, quang minh dã. Tự oánh vị chi quang, chiếu vật vị chi minh”(Quang:
là quang minh. Chính mình trong suốt gọi là quang, soi sáng người khác gọi là
minh). Chính mình trong suốt là phát ra quang, trí huệ của Ngài, đức năng của
Ngài, ở trong lời nói cử chỉ: liền có thể hiển lộ ra, thông thường chúng ta nói
là phong thái của người, có thể thấy ra. Đối với tất cả người, sự, vật của cảnh
giới bên ngoài, trong Đại thừa giáo nói Thật tướng Các pháp, ở trong giáo học
Phật pháp, gọi là Thể-Tướng-Dụng, Nhân-Duyên-Quả, Sự-Lý, quý vị nhìn mỗi người,
nhìn mỗi việc, nếu có thể nhìn thấy tám mặt, thì đó là trí huệ, đây là chân tướng
sự thật, đối với người, đối với việc, đối với vật. Thể, Tướng, Thể là Bản Thể, Tướng
là hiện tướng, tác dụng. Giống như chúng ta xem màn hình TV, màn hình là Thể của
TV, tướng mà kênh truyền hình hiện là hiện tướng, những điều được truyền đạt
trong hiện tướng là tác dụng, nội dung đang khuyên thiện, hay đang làm ác, đó
là tác dụng, quý vị có thể thấy được ba phương diện này. Lại tiếp tục quan sát
kỹ càng, thì nội dung đó có nhân, có duyên, có quả, quý vị liền thấy được nhân
quả. Lại hướng đến hai mặt để xem, nhìn trên Sự, nhìn trên Lý. Quý vị có thể đối
với người-việc-vật, bất luận việc gì: có thể thấy tám mặt, người đó gọi là có
Huệ nhãn, người đó là một người sáng tỏ, không phải Thánh hiền. Thánh hiền nhân
rất tuyệt vời, Hiền nhân có thể nhìn thấu, tám mặt này mỗi mặt cũng có tám mặt,
người ấy có thể thấy được 64 mặt, 64 mặt mỗi mặt lại có tám mặt, càng nhìn càng
thâm nhập.
Sau
đó, chúng ta mới biết, Phật Bồ-tát thật đáng kính, cấp độ của Phật Bồ-tát nhìn
thật sâu, tám mặt là mặt ngoài, 64 mặt là tầng thứ hai, còn có thứ ba, thứ tư,
sâu không có đáy. Ai có thể triệt để nguồn pháp? Là Như Lai, thành Phật mới có
thể triệt để nguồn pháp, đây là thật không phải giả. Sự rộng đó không có biên
giới, sự sâu ấy không có đáy. Ai có thể? Có người có thể, A-la-hán có thể, Bồ-tát
có thể, chư Phật Như Lai có thể, rốt ráo triệt để là chư Phật Như Lai. Cho nên,
đức Phật dạy cho chúng ta phải thành Phật, không thành Phật chẳng thể hiểu rõ
triệt để, thành Phật liền rõ ràng rồi. Làm sao thành Phật? Phải buông xuống, buông
xuống tất cả chướng ngại. Vì sao vậy? Bởi tất cả nguồn gốc của pháp: đều là do
Tự Tánh biến hiện ra, quý vị vốn dĩ biết, cho nên, nói tất cả chúng sanh trước
nay là Phật. Vì sao không biết? Do quý vị dùng sai tâm rồi, quý vị dùng Vọng
tâm, nên không biết. Quý vị dùng Chân Tâm, thì biết toàn bộ. Cho nên, sáng tỏ đạo
lý này tiền đề lớn này, thì quý vị sẽ hiểu được, phải nên triệt để buông xuống.
Vì sao vậy? Bởi là giả tướng, phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng. Tướng là hư vọng,
ý niệm cũng là hư vọng, Chân Tâm lìa niệm, không có ý niệm, Chánh niệm vô niệm,
khi Chân Tâm khởi tác dụng là vô bất niệm, khi không khởi tác dụng thì vô niệm.
Phật và Pháp thân Bồ-tát, Minh tâm Kiến tánh là đã vô niệm, không có Khởi tâm Động
niệm nữa, sáu căn của quý ngài khởi tác dụng là Tánh đức. Sáu căn của chúng ta
khởi tác dụng là A-lại-da, là Vô minh.
Vì
sao chúng ta không thể buông xuống? Bởi không thật sự biết Chư pháp Thật tướng,
không biết tướng là giả, không biết tướng là hư vọng, là mộng ảo bọt bóng. Bài
kệ trên Kinh Kim Cang nói rất hay: 「一切有為法,如夢幻泡影,如露亦如電,應作如是觀」“Nhất thiết hữu vi pháp, như mộng huyễn bào ảnh, như lộ diệc như điện,
ưng tác như thị quán”(Tất cả pháp hữu vi, như mộng ảo bọt bóng, như
sương cũng như chớp, nên quán sát như vậy), bài kệ này chính là bảo chúng
ta buông xuống, hiểu được tất cả pháp không phải thật. Điều gì là thật? Tánh là
thật, Linh tánh của chúng ta là thật. Linh tánh không phải vật chất, mà là tinh
thần, nhưng phải hiểu được, vật chất là chuyển theo ý niệm của tinh thần, chúng
ta muốn thân thể khoẻ mạnh, thì phải có ý niệm tốt, tự nhiên sẽ mạnh khoẻ, tại
sao vậy? Vì thân thể chuyển theo tâm. Quý vị xem, khi trong tâm chúng ta hoan hỷ,
vẻ mặt tươi cười; Trong tâm có việc rất khó chịu buồn, mặt ủ mày ê, thì thân thể
biến đổi rồi, thay đổi theo ý niệm. Vì sao đức Phật khoẻ mạnh như vậy, bởi Phật
không có Tạp niệm, không có Vọng tưởng. Cho nên, chúng ta có thể thật sự làm đến:
không Khởi tâm Động niệm, không Phân biệt, Chấp trước, thì đã thành Phật, thân
thể đó của quý vị là thân Kim Cang bất hoại.
Người
đến mức vô niệm rất khó, làm không được. 84 ngàn Pháp môn: đều phải
đi đến Pháp môn Vô niệm. Trên Kinh Đại thừa không chỉ nói rất rõ
ràng, mà còn vô cùng đơn giản, quý vị đối với tất cả pháp, tức là
mắt thấy sắc, tai nghe âm thanh, mũi ngửi hương, lưỡi nếm vị không
chấp trước, bên trong không chấp trước đối với sáu căn, bên ngoài không
chấp trước sáu trần, sáu căn là mắt tai mũi lưỡi thân ý, sáu trần
là sắc thanh hương vị xúc pháp, rất là rõ ràng, rất là sáng tỏ,
không chấp trước nữa, thì chứng quả rồi. Không chấp trước thì chứng
quả, chứng quả A-la-hán, tâm thanh tịnh hiện tiền. Sâu hơn một tầng, chẳng
những không chấp trước mà cũng không có Phân biệt, không phân biệt
nữa, thì quý vị lại thăng một cấp, quý vị từ A-la-hán lên đến Bồ-tát.
Bồ-tát không Phân biệt, A-la-hán không chấp trước. Lại nâng lên một
tầng, quý vị là Pháp thân Bồ-tát, đã thành Phật, tức là Đại triệt
Đại ngộ, đó là sao? Chẳng những không có Phân biệt Chấp trước, mà [cũng]
đã buông xuống Khởi tâm Động niệm, không khởi tâm, không động niệm, đó
là đã thành Phật, quý vị xem đơn giản biết bao. 84 ngàn Pháp môn, vô
lượng Pháp môn, mục tiêu sau cùng đều là giống nhau, chính là dạy
quý vị buông xuống Chấp trước, Chấp trước là Kiến tư Phiền não; Buông
xuống Phân biệt, Phân biệt là Trần sa Phiền não; Cuối cùng buông
xuống Khởi tâm Động niệm, Khởi tâm Động niệm là Vô minh Phiền não, ba
loại phiền não này đều đã buông xuống thì thành Phật. Cho nên, thành
Phật không phải nói đọc rất nhiều sách, chẳng phải nói biết bao
nhiêu, điều mà quý vị biết, sách mà quý vị đọc đều có hạn. Phật
là dạy quý vị trở về Tự Tánh, trở về Tự Tánh là không có hạn chế,
quá khứ, tương lai quý vị chẳng có điều gì không biết. Vì sao vậy? Bởi
toàn bộ Vũ trụ là do Tự Tánh biến hiện, quý vị quay về Tự Tánh, quý
vị đều biết tất cả biến hiện của Tự Tánh. Nếu quý vị muốn học, thì
đời đời kiếp kiếp vô lượng kiếp quý vị cũng học không xong; Quý vị
hiểu được bí quyết, không cần học, mà đã biết toàn bộ.
Lão
Hoà thượng Hải Hiền đã biết, ngài ấy thật thà, chưa từng đọc sách,
không biết chữ, pháp thế gian và xuất thế gian: ngài chẳng có gì mà
không biết. Khi đó, Sư phụ của ngài khuyên răn ngài, vào thời điểm ấy
là thanh niên, 20 tuổi, vừa mới xuất gia, Sư phụ dạy ngài một câu A Mi
Đà Phật, một mạch mà niệm. Đặt biệt nói với ngài, sáng tỏ rồi, ý nghĩa
của sáng tỏ là gì? Là Đại triệt Đại ngộ, Minh tâm Kiến tánh, đó gọi
là đã minh bạch, sáng tỏ rồi, không được nói bất cẩn, không thể khoa
tay múa chân. Ngài có thể tuân theo cả đời, đã niệm câu Phật hiệu này
92 năm. Quý vị muốn hỏi tôi, khi nào thì ngài: Đại triệt Đại ngộ, Minh
tâm Kiến tánh? Tôi ước đoán ngài, xem từ trên đĩa CD, đoán chừng ngài
có lẽ ở khoảng 40 tuổi, thì ngài đã chứng được. Lời nói của thầy
rất đúng, cảnh giới khi đó không như nhau, ở trong cảnh giới đó thật
thà, nếu biết thì giả vờ không biết, quý vị bình an yên ổn qua ngày,
chính là biểu pháp. Nếu ngài xuất hiện ở: thời đại xưa của đức
Thích Ca Mâu Ni Phật, thì ngài liền giảng kinh dạy học thuyết pháp; Nếu
ngài xuất hiện ở thời đại của Lục tổ, triều Đường thịnh thế, thì
ngài có thể làm Tổ sư. Nhưng sanh ở thời đại động loạn hiện nay, thì
không được. Vì sao? Bởi đố kỵ chướng ngại, là tất nhiên. Cho nên,
ngài là tấm gương học Phật tốt nhất của chúng ta: trong thời loạn
hiện nay, làm ra tấm gương như thế để cho chúng ta xem, là do A Mi Đà Phật
dạy bảo ngài.
Ngài
muốn cầu vãng sanh, ngài ở hai mươi mấy tuổi: đã có năng lực vãng
sanh Thế giới Cực Lạc, thọ mạng kéo dài như vậy, tôi cho rằng tuổi
thọ của ngài: là do Phật Bồ-tát cho ngài, không phải của chính ngài, thọ
mạng của chính ngài: có lẽ cũng chỉ là 7-80. Mẫu thân của ngài 80
tuổi vãng sanh, Sư đệ Hải Khánh của ngài 82 tuổi vãng sanh, [theo]
cách nghĩ của tôi thì ngài có lẽ là 7-80 tuổi. Đã kéo dài như vậy,
hoàn toàn là biểu pháp, được sự gia trì của A Mi Đà Phật. Một mạch
phải chờ, chờ đợi một quyển: Nếu Muốn Phật Pháp Hưng Thịnh, Chỉ Có
Tăng Khen Tăng: cuốn sách ấy, ngài đã gặp được thì viên mãn rồi. Thật
sự, sau khi ngài thấy được quyển sách đó, ngài yêu cầu mọi người giúp
ngài chụp ảnh, cả đời trước giờ chưa từng yêu cầu người khác: chụp
ảnh cho ngài, chỉ có lần đó. Chụp hình xong thì sau ba ngày đã vãng
sanh, vãng sanh tự tại, không có bệnh khổ. Vãng sanh là đi vào ban
đêm, ban ngày vẫn làm cả ngày, làm việc trong vườn rau, tưới nước,
nhổ cỏ, làm đất, từ sớm đến tối đã làm cả ngày, đến đêm thì đi. Vì
chúng ta mà biểu pháp gì? Ngạn ngữ gọi là: 「做一天和尚,撞一天鐘」“Tố nhất thiên Hoà thượng, tràng nhất
thiên chung”(Làm Hoà thượng một ngày, thì đánh chuông một ngày),
盡忠職守“tận trung
chức thủ” (hết sức
với cương vị của mình), một ngày cũng phải làm rất quy củ khuôn phép, tất
cả như pháp. Không thể nói tôi phải đi rồi, có thể không làm nữa, không
phải vậy. Quý vị xem tận bổn phận như vậy, có thuỷ có chung, biểu
pháp viên mãn, làm cho chúng ta xem. Lão Hoà thượng biểu diễn cho
chúng ta, thực sự chính là 『威光赫奕』“uy quang hách diệc”.
「光明有二用:一者破闇,二者表法。因佛之光明,正是智慧之相。赫者,明也。奕者,盛也。故知威光赫奕表佛所放之光,雄猛有威,明耀盛大」“Quang minh hữu nhị dụng: nhất
giả phá ám, nhị giả biểu pháp. Nhân Phật chi quang minh, chánh thị
trí huệ chi tướng. Hách giả, minh dã. Diệc
giả, thịnh dã. Cố tri uy quang hách diệc biểu Phật sở phóng chi quang,
hùng mãnh hữu uy, minh diệu thịnh đại”(Quang
minh có hai tác dụng: một là phá tối tăm, hai là biểu pháp. Bởi
quang minh của Phật, chính là tướng của trí huệ. Chữ ‘hách’: là chiếu
sáng. Chữ ‘diệc’: là mạnh mẽ. Nên biết ‘uy quang hách diệc’ biểu thị
quang minh mà Phật phát ra, hùng dũng mạnh mẽ có uy, sáng rỡ tráng lệ).
Tiếp theo, đức Phật dùng ví dụ so sánh, lấy vàng nung chảy để làm ví
dụ so sánh, điều này chúng ta đã thấy qua, vàng nung chảy ở trong lò
luyện, phát ra ánh sáng đặc biệt đẹp mắt. Trước kia, tôi ở nước Mỹ, có
đồng học, ông ấy kinh doanh một cửa hiệu trang sức, đồ trang sức là
giả, không phải vàng thật, là mạ vàng, làm vô cùng đẹp mắt, giá cả
rất là rẻ, giống như thật vậy, mất đi [cũng] không xót, một bộ vòng
tay, một bộ khuyên tai, dây chuyền, chỉ cần mười mấy, 20 Đô la Mỹ, đại
khái là 2-30 năm trước ở nước Mỹ, rất tiện lợi, đeo ở trên người thì
thật sự không nhìn ra. Ông dẫn tôi tham quan phòng trưng bày của ông, đi
theo tôi có mười mấy, 20 người, tôi liền nói với mọi người, chúng ta
đến xem, trên kinh thường nói: 「以金作器,器器皆金」“Dĩ kim tác khí, khí khí giai kim”(Dùng vàng
làm đồ dùng, [thì] đồ nào cũng là vàng), hiện nay quý vị thấy,
chúng ta bước vào phòng trưng bày, quý vị đều đã thấy được. Hàng
mẫu của ông đại khái có hơn 20 ngàn loại, đều khác nhau, toàn là
vàng, đẹp không tả xiết. Xem theo chủng loại, có hơn hai vạn loại, xem
từ chất liệu thì chỉ có một loại, là vàng, gọi là 「以金作器,器器皆金」“dĩ kim tác khí,
khí khí giai kim”(dùng vàng làm đồ dùng, [thì] đồ nào cũng là vàng),
chỉ có một dạng duy nhất, là vàng. Khi đó, ông buôn bán rất tốt, bán tới
toàn thế giới, giá rẻ mà đồ đẹp, có mất cũng không tiếc chút nào. Cho nên, vàng
ở trong lò luyện, đó là mạ vàng, thật đẹp mắt. 「金色光耀,熔金彌甚」“Kim sắc quang diệu, dung kim di
thậm”(Màu của vàng sáng chói, vàng nung chảy càng vượt hơn), sau khi
quý vị thấy được, quý vị mới biết vô cùng đẹp mắt. 「喻佛光明,如熔金聚集」“Dụ Phật quang minh, như dung kim tụ tập”(Nói để so
sánh quang minh của đức Phật, như [ánh sáng] của khối vàng nung chảy), nên
nói 『如融金聚』“như dung
kim tụ”(như ánh sáng của vàng nung chảy).
Câu tiếp theo, 『又如明鏡,影暢表裡』“hựu như minh
kính, ảnh sướng biểu lý”(cũng như tấm gương sáng, trong ngoài thông suốt).
Ảnh là ảnh của ánh sáng, 「影者,光影也。暢者,通達也」“ảnh giả, quang ảnh dã. Sướng giả, thông đạt dã”(chữ ‘ảnh’:
là quang ảnh, chữ ‘sướng’ nghĩa là thông suốt), không có chướng ngại. 「海東憬興曰」“Hải Đông Cảnh Hưng viết”(Ngài
Cảnh Hưng ở Hải Đông nói), Hải Đông là Hàn Quốc hiện nay. Đây đều là thời
triều Đường, người Hàn Quốc, Nhật Bản, Việt Nam: đến Trung Hoa du học rất nhiều,
có không ít người sau khi học thành trở về: đều là thế hệ Tổ sư. Ngài nói 「鏡光外照,名為影表。即同佛身,光明外舒」“kính quang ngoại chiếu, danh vi ảnh biểu. Tức đồng Phật thân, quang minh ngoại thư”(ánh sáng của gương chiếu bên ngoài, gọi là ảnh biểu, là như
thân Phật, bên ngoài quang minh thì dễ chịu), để ví dụ so sánh thân thể của
Phật, bề ngoài của Phật, hiển thị ra trí huệ quang minh, mà còn vô cùng rõ ràng,
khiến cho người nào cũng có thể cảm thấy được. 「外照之光顯影,暢在鏡內,亦同所放光還曜巍顏,故云表裡」“Ngoại chiếu chi quang hiển ảnh, sướng tại kính nội, diệc đồng
sở phóng quang hoàn diệu nguy nhan, cố vân biểu lý”(Ánh sáng chiếu bên
ngoài hiện ra ảnh, thông suốt ở trong gương, cũng như quang minh được phát ra
chiếu trở lại dung nhan cao lớn, nên nói là biểu lý), biểu là bên ngoài, lý
là bên trong, bên trong đầy đủ đức hạnh trí huệ, bên ngoài thì phóng quang, điều
này thông thường gọi là phong thái. 「佛身如是」“Phật thân như thị”(Thân Phật cũng như vậy), dùng
điều này để miêu tả thân của Phật, 「光明外照所放之表」“quang minh ngoại chiếu sở phóng
chi biểu”(sự biểu thị được phát ra bởi quang minh chiếu ở ngoài), từ
dung mạo của Phật, động tác của thân thể, lời nói, quý vị có thể cảm thấy được:
trí huệ của Ngài, đức hạnh của Ngài, đó chính là sự biểu thị được phát ra bởi
quang minh chiếu ở ngoài. 「顯曜佛身,名影表裡」“Hiển diệu Phật thân, danh ảnh biểu lý”(Hiện rõ chiếu
sáng thân Phật, gọi là ảnh biểu lý), “biểu” là ngày nay chúng ta gọi là
thân thể vật chất; ‘Lý’ là
tinh thần nội tại bên trong, hoặc là chúng ta nói thân tâm, bên ngoài là thân,
bên trong là tâm.
「按上兩說,佛身內外映徹,喻如明淨之鏡」“Án thượng lưỡng thuyết, Phật thân nội
ngoại ánh triệt, dụ như minh tịnh chi kính”(Dựa theo hai thuyết trên,
thân Phật chiếu suốt trong ngoài, ví như tấm kính minh tịnh), tấm gương đó
sáng rỡ sạch sẽ, tịnh là không có ô nhiễm, minh là tràn đầy trí huệ. Năm xưa đức
Thế Tôn tại thế, mọi lúc, mọi nơi, khiến cho mọi người thấy được: đều có thể cảm
thấy quang minh thanh tịnh của Ngài, chính là năm chữ trên đề kinh của chúng
ta: 「清淨平等覺」“thanh tịnh, bình đẳng, giác”. Năm chữ này
vô cùng quan trọng, năm chữ đó là miêu tả Chân Tâm của chúng ta, thanh tịnh là
lìa ô nhiễm, bình đẳng là lìa sóng dao động, bất động là bình đẳng. Cho nên,
thanh tịnh là Giới đức, do Trì giới mà cảm được; Bình đẳng là Định, là tam-muội;
Huệ tiếp sau đó chính là phóng quang, là trí huệ, Tam Học: Giới-Định-Huệ. Mục
tiêu cuối cùng của Phật pháp Đại thừa: chính là năm chữ đó, bất luận dùng
phương pháp nào, phương pháp là phương tiện, còn cách thức đó để chúng ta đạt
được: thanh tịnh, bình đẳng, giác, quý vị chính là thật học Phật, quý vị đã
thành tựu trong Phật pháp. Nếu học cả đời, mà tâm không thanh tịnh, thì chưa học
được; Tâm không bình đẳng, là chưa học được; Không khai trí huệ, còn sanh phiền
não, đó là phàm phu, ngày nào cũng tụng kinh, lạy Phật [cũng] vô dụng. Trong rừng
núi, được gọi là cao nhân, họ mỗi ngày lạy Phật, tụng kinh, kinh hành, đó là
gì? Là cảm ơn. Cảm ơn điều gì? Họ đạt được thanh tịnh bình đẳng giác, họ trở về
tới Tự Tánh, là cảm ơn, biểu pháp cho người khác thấy, chúng ta nhất định phải
hiểu đạo lý này.
Học
Phật là học gì? Học thanh tịnh bình đẳng giác, thì đúng rồi. Tâm chúng ta năm
sau thanh tịnh hơn năm trước, công phu như vậy là không tệ; Tháng sau thanh tịnh
hơn tháng trước, khẳng định quý vị chắc chắn vãng sanh Tịnh Độ, tháng nào cũng
có tiến bộ. Người thật sự được tâm thanh tịnh, vãng sanh đến Thế giới Cực Lạc: sanh
Phàm Thánh Đồng Cư độ, bốn độ, ba bậc, chín phẩm, tâm bình đẳng vãng sanh Thế
giới Tây Phương Cực Lạc, do công phu sâu, họ đã giác ngộ, Đại triệt Đại ngộ,
minh Tâm kiến Tánh; Công phu cạn, họ vãng sanh Thượng bối ở trong Phương Tiện độ,
thật sự làm được không khởi tâm, không động niệm, vậy thì Đại triệt Đại ngộ,
sanh Thật Báo Trang Nghiêm độ. Thật Báo Trang Nghiêm độ tức là thành Phật, nhưng
quý ngài vẫn mang theo có Tập khí Vô minh, Tập khí Vô minh chỉ chướng ngại quay
về Thường Tịch Quang, là chướng ngại việc đó, ngoài sự việc đó ra, thì trí huệ,
thần thông, đạo lực của quý ngài: không có khác với chư Phật. Chúng ta làm rõ
ràng, làm sáng tỏ những điều này, mới chân thật biết sự quý báu của Pháp môn Tịnh
tông , phương pháp rất đơn giản, thật sự khó tin, sau khi gặp được thật sự có
thể y giáo tu hành, thì chẳng có ai không thành tựu, mà còn là thành tựu viên
mãn.
Như
lão Hoà thượng Hải Hiền, thành tựu viên mãn, nếu ngài hai mươi mấy tuổi vãng
sanh thì sanh Phàm Thánh Đồng Cư độ; ba mươi mấy tuổi vãng sanh, thì ngài sanh
Phương Tiện Dữu Dư độ; bốn mươi mấy tuổi vãng sanh, thì ngài sanh Thật Báo
Trang Nghiêm độ, một chút cũng không giả, làm ra tấm gương để cho chúng ta xem.
Cả đời ngài chưa từng đọc một bộ kinh, ngay cả ở tại chùa của người khác, sớm tối
lên chánh điện, ngài lên chánh điện nhưng đều không biết những nghi thức đó, chưa
học qua, lên chánh điện làm gì? Ngài niệm A Mi Đà Phật. Quý vị lạy thì ngài
cũng lạy theo quý vị, quý vị đọc kinh thì ngài niệm A Mi Đà Phật. Cả đời chỉ một
câu Phật hiệu, ngoài câu Phật hiệu ra, điều gì ngài cũng không biết, chỉ một
câu Phật hiệu: đã niệm ra tâm thanh tịnh, niệm ra tâm bình đẳng, niệm ra giác. Giác
là Đại triệt Đại ngộ, minh Tâm kiến Tánh, Lý nhất tâm Bất loạn, có trở ngại
công việc không? Việc gì cũng không ảnh hưởng, sinh hoạt, Phật hiệu không gián
đoạn, mặc áo ăn cơm Phật hiệu không gián đoạn. Làm việc, ngài là làm nông, nông
canh là từ Tiểu học, từ nhỏ đã lớn lên ở trong ruộng vườn, kinh nghiệm nông
nghiệp vô cùng phong phú, là tri thức của nông nghiệp. Được sự gia trì của Tam
Bảo, tôi tin tưởng nông sản của ngài: nhất định tốt hơn người khác, [bởi] được
Tam Bảo gia trì. Ngài nói với người khác, lao động, canh tác không trở ngại niệm
Phật, không gián đoạn Phật hiệu. Ban ngày không gián đoạn Phật hiệu, ban đêm đi
ngủ cũng không gián đoạn Phật hiệu. Ngài nói có khi đã đi ngủ, thì lại có người
ở bên tai ngài nói với ngài, nhanh tỉnh dậy, mau thức dậy, niệm Phật đi. Ngài
có cảm ứng, thật sự có Phật Bồ-tát chăm sóc ngài, làm tấm gương tốt cho chúng
ta xem. Ngài thấy Phật bao nhiêu lần? Tôi xem bộ đĩa của ngài, có lẽ vượt hơn
mười mấy lần trở lên. Chứng minh cho chúng ta, thật có Thế giới Cực Lạc, thật
có A Mi Đà Phật, 48 nguyện độ chúng sanh: là thật chẳng phải giả, để cho chúng
ta sanh khởi: tín tâm kiên định, nguyện tâm kiên cố đối với Tịnh tông, nhất định
đi con đường này, chắc chắn đi được thông. Ngài đã đưa ra bảo chứng cho chúng
ta, là bộ kinh thư này, Kinh Đại Thừa Vô Lượng Thọ, chính là bảo chứng thư của
vãng sanh Thế giới Cực Lạc. Chúng ta có thể y giáo phụng hành, có thể đọc, y
giáo phụng hành chính là tín, nguyện, niệm Phật, thì được rồi.
Niệm
Phật cũng phải luyện, không được bỏ mất Phật hiệu, ở trong sinh hoạt hằng ngày,
việc gì cũng có thể làm, trong tâm chỉ một câu Phật hiệu. Làm việc gì cũng
không nên để trong tâm, vì sao? Bởi mục tiêu của chúng ta là cần thanh tịnh
bình đẳng giác, để trong tâm chính là ô nhiễm, không thiện, mặt trái chính là ô
nhiễm, điều thiện, mặt chánh vẫn là ô nhiễm, quả báo của mặt tốt là ba đường
thiện, quả báo của mặt trái là ba đường ác, ba đường ác ô nhiễm, ba đường thiện
cũng là ô nhiễm, phải hiểu rõ đạo lý này. Cho nên, đoạn ác tu thiện đều không
nên chấp tướng, đó chính là: chúng ta dùng tâm thanh tịnh để tu, dùng tâm bình
đẳng để tu, không chấp tướng. Danh văn lợi dưỡng của thế gian, thất tình ngũ dục
tất cả phải buông xuống, quý vị không buông xuống những điều này, thì chướng ngại
sự vãng sanh của quý vị, khiến toàn bộ nỗ lực công phu cả đời quý vị đều uổng
phí, vậy thì sai rồi, không được để ở trong tâm. Trong tâm chỉ có A Mi Đà Phật,
A Mi Đà Phật sanh vô lượng trí huệ. A Mi Đà Phật là Chân Tâm của chúng ta, A Mi
Đà Phật là Tự Tánh của chúng ta, như lão Hoà thượng Hiền công nói: 「阿彌陀佛是我老和尚的根」“A Mi Đà Phật thị ngã lão Hoà thượng
đích căn”(A Mi Đà Phật là gốc của lão Hoà thượng tôi). Gốc của ngài
là A Mi Đà Phật, gốc của mỗi người chúng ta: đều là A Mi Đà Phật, không thể
tách rời gốc một thời một khắc nào, [phải] chăm sóc tốt gốc này. Không niệm Phật,
vậy chính là niệm điều khác, niệm thứ khác đều là luống qua, đều là tạo nghiệp,
nói chung không ngoài niệm thiện, niệm ác, niệm vô ký, vô ký là không thể nói
là thiện hay ác. Chúng ta lại xem tiếp, dựa theo hai thuyết trên, hai cách nói
phía trước, thân Phật chiếu suốt trong ngoài, ví như tấm kính sáng tỏ trong sạch,
「由鏡放光外照,謂之影表」“do kính phóng quang ngoại chiếu, vị chi
ảnh biểu”(do kính phát ra ánh sáng chiếu bên ngoài, [nên] gọi là ảnh biểu),
ảnh là ý nghĩa chiếu, chiếu là phía ngoài. 「所放光明,還照鏡內,謂之影裡」“Sở phóng quang minh, hoàn chiếu kính nội,
vị chi ảnh lý”(ánh sáng được phát ra, chiếu trở lại trong kính, gọi là ảnh
lý). Trong ngoài chiếu thông, đó là quang minh của Tự Tánh, trí huệ của Tự
Tánh [là] đối nội, còn đối ngoại là chiếu kiến tất cả. 「漢吳兩譯中,佛光數百千色」“Hán Ngô lưỡng dịch trung, Phật quang số
bá thiên sắc”(Trong hai bản dịch Hán-Ngô, quang minh của Phật trăm ngàn
màu sắc), có câu kinh văn này, 「數千百變,光甚大明,上下明徹,巍巍重明,皆顯影暢表裡之義」“số thiên bá biến, quang thậm đại minh,
thượng hạ minh triệt, nguy nguy trùng minh, giai hiển ảnh sướng biểu lý chi
nghĩa”(trăm ngàn biến hoá, ánh sáng chiếu rất sáng, sáng tỏ thông suốt
trên dưới, cao lớn sáng suốt nhiều tầng, đều hiển bày ý nghĩa của ảnh sướng biểu
lý). Chúng ta quy nạp đơn giản là: trí huệ, đức năng thì đã bao quát toàn bộ.
Nội tâm tràn đầy trí huệ đức năng, từ cửa lục căn phát ra quang minh chiếu mọi
vật, ngày nay chúng ta nói là tai mắt nhạy bén, thấy rõ ràng hơn người khác, nghe
thông suốt hơn người khác, đây là trí huệ đức quang, là vốn có trong Tự Tánh, không
phải đến từ bên ngoài.
Tu
thế nào? Phải nên biết điều này, tu chính là buông xuống. Tại sao cần phải
buông xuống? Bởi trước nay không một vật, chính là trong Kinh Kim Cang đã nói: 「凡所有相,皆是虛妄」“Phàm sở
hữu tướng, giai thị hư vọng”(Tất cả những gì có tướng, đều là hư vọng).
Thậm chí là nói: 「法尚應捨,何況非法」“Pháp thượng ưng xả, hà huống phi pháp”(Pháp còn phải xả, huống
chi chẳng phải pháp), pháp là gì? Là Phật pháp. Đến sau cùng tất cả kinh
giáo đều phải xả, vì sao vậy? Bởi đó là pháp phương tiện của Phật, không phải
là thật, tất cả kinh luận: chỉ là ‘huỳnh diệp chỉ đề’ mà thôi. ‘Huỳnh
diệp chỉ đề’ là gì? Trẻ nhỏ đang khóc, đang quấy, người lớn ở bên ngoài lấy
một chiếc lá vàng, ở trên cây rơi xuống, rơi ở trên mặt đất, người lớn cầm chiếc
lá vàng, đừng khóc đừng khóc, đến đây, đây là đồ tốt, con cầm lấy đổi kẹo ăn, đứa
trẻ chúng liền không khóc nữa, đã đạt được mục đích, dỗ trẻ nhỏ. Tam tạng mười
hai phần giáo: tác dụng ở chỗ này, quý vị cần phải biết, thật có tác dụng dỗ trẻ
nhỏ. Sau khi quý vị giác ngộ thì không có tác dụng nữa, sau khi giác ngộ lại muốn
điều đó, vậy thì là phiền toái, bị ô nhiễm rồi, quý vị đã sai lầm. Cho nên, nói
「法尚應捨,何況非法」“Pháp thượng ưng xả, hà huống phi pháp”(Pháp còn phải xả, huống
chi chẳng phải pháp), phi pháp là tất cả pháp thế gian, Pháp là tất cả pháp
của Phật đã thuyết, phải xả tất cả, trong tâm thanh tịnh của Tự Tánh trước nay
không một vật, làm sao quý vị có thể có một vật ở trong?
Đến
cuối cùng ngay cả A Mi Đà Phật cũng phải buông xuống, cũng phải xả đi. Có thể
niệm, nhưng trong tâm đều không dính dấu tích, đó gọi là thật niệm Phật. Vậy niệm
làm gì? Là để khuyên mọi người niệm, đó là đại từ đại bi, còn chính quý ngài biết xưa nay không một vật. Câu Phật
hiệu này: là phương tiện rốt ráo của tất cả chư Phật Như Lai, phương tiện viên
mãn, phương tiện đến vô cùng, quý vị đạt được phương tiện này: thì quý vị đến
Thế giới Cực Lạc. Đến Thế giới Cực Lạc vẫn niệm câu Phật hiệu này, đó là gì? Đó
là hoàn toàn đã sáng tỏ, một chút cũng không mê hoặc. Niệm câu Phật hiệu này có
hai ý nghĩa, thứ nhất là báo ân Phật, câu Phật hiệu này của tôi, khiến tôi
thoát ly Lục đạo luân hồi, rời khỏi mười Pháp giới, sanh đến Thế giới Cực Lạc, tôi
niệm niệm không quên, biểu thị ý nghĩa này; Thứ hai là biểu pháp đối với chúng
sanh, Pháp môn này, tất cả chúng sanh, nam nữ già trẻ, tài đức ngu si bất tài, chỉ
cần quý vị chịu học, thì đời này của quý vị là có thể thành tựu, là giáo hoá
chúng sanh. Tự hành hoá tha, không rời một câu này, phải hiểu ý nghĩa đó. Phật
dạy 84 ngàn Pháp môn, nếu quý vị không hiểu, thì Phật pháp sẽ hại quý vị, Phật
không hại quý vị, mà là chính quý vị đã bị lừa. 84 ngàn Pháp môn: là đoạn 84
ngàn phiền não khác nhau, đối bệnh cho thuốc, thuốc tới bệnh hết, là ý nghĩa
như vậy, nhất định phải hiểu.
Phật
pháp, trước kia Đại sư Chương Gia dạy tôi, chính là nhìn thấu, buông xuống, đây
chính là Phật pháp chân chánh. Nhìn thấu điều gì? Hiểu rõ Chân tướng, gọi là
nhìn thấu. Buông xuống, không nhiễm phải chút nào, nhất định không nên để ở
trong tâm. Đặt trong tâm
là sai rồi, để trong tâm là quý vị chưa buông xuống. Chưa buông xuống, không phải
thuộc về chấp Ngã thì thuộc về chấp Pháp, chấp trước Phật pháp không buông xuống
là chấp Pháp, chấp trước thế gian pháp không buông xuống là chấp Ngã, hai loại
Chấp trước này là chướng ngại lớn nhất. Đoạn tiếp theo, từ ‘trăm ngàn biến
hoá, ánh sáng chiếu rất sáng, sáng tỏ thông suốt trên dưới, cao lớn sáng suốt
nhiều tầng, đều hiển bày ý nghĩa của ảnh sướng biểu lý’, đều là hiển bày ý
nghĩa đó. Thời gian hôm nay hết rồi, chúng ta chỉ học tập đến đây thôi.
(Hết tập 121)
Nguyện đem công đức này
Hướng về khắp tất cả
Đệ tử cùng chúng sanh
Đều sanh nước Cực Lạc
Nhanh viên thành Phật quả
Rộng độ khắp chúng sanh.
Nam Mô A Mi Đà Phật.