TỊNH ĐỘ ĐẠI KINH KHOA CHÚ 2014 – 2017
(Giảng lần thứ 4)
PHẨM THỨ BA: ĐẠI GIÁO DUYÊN KHỞI
Duyên Khởi Của Đại Giáo
TẬP 123
Chủ giảng: Đại lão Hoà thượng Thích Tịnh Không.
Giảng tại: Hiệp hội Giáo dục Phật Đà Hồng Kông.
Thời gian: Ngày 27 tháng 10 năm 2014.
Dịch giả: Vũ Văn Trà.
Giảo chánh: Thích Thiện Trang.
Kính
chào chư vị Pháp sư, chư vị đồng học, kính mời ngồi. Mời mọi người cùng tôi quy
y Tam Bảo: “A-xà-lê tồn niệm, ngã Đệ tử Diệu Âm, thỉ tùng kim nhật, nãi chí
mạng tồn, quy y Phật-Đà, lưỡng túc trung tôn; Quy y Đạt-ma, ly dục trung tôn; Quy y Tăng-già, chư
chúng trung tôn”.
(3 lần)
Mời
xem Đại Kinh Khoa Chú, trang 355, trang 355, chúng ta bắt đầu xem từ hàng thứ
hai, từ hàng thứ hai, đây là đoạn còn lại:
『色身諸根,悅豫清淨』“Sắc thân chư căn, duyệt dự thanh tịnh”(Sắc
thân và các căn, hoan hỉ an lạc thanh tịnh), hai câu này là văn Kinh, tiếp theo là chú
giải của Niệm lão. 「諸根,指色相身之眼、耳、鼻、舌、身等五根」“Chư căn, chỉ sắc tướng thân chi nhãn,
nhĩ, tỵ, thiệt, thân đẳng ngũ căn”(Chư căn, chỉ năm căn: mắt, tai, mũi,
lưỡi, thân của thân sắc tướng). Ý nghĩa của「悅豫」“Duyệt dự”
là vui mừng, hoan hỷ an lạc. 「清淨」“Thanh tịnh”, trong Gia Tường Sớ nói
「光顯也」“Quang hiển dã”(Sự hiển thị của
quang minh). 「又《寶積經》曰:如來身者,自性清澈。何以故?如來久已遠離一切煩惱諸垢穢故。」“Hựu Bảo Tích
Kinh viết: Như Lai thân giả, Tự Tánh thanh triệt. Hà dĩ cố? Như Lai cửu dĩ viễn ly nhất thiết
phiền não chư cấu uế cố”(Và Kinh Bảo Tích viết: Thân của Như Lai, [là] Tự Tánh thanh tịnh thấu
suốt, vì sao vậy? Bởi Như Lai xưa đã vĩnh viễn xa rời tất cả các phiền não cấu
uế). Bài trước chúng ta học đến chỗ này. Quan trọng nhất trong đây: là chúng
ta đã thấy được Thế giới Cực Lạc. Người của Thế giới Cực Lạc, Phật như vậy, tất
cả người vãng sanh đến Thế giới Cực Lạc, cuộc sống trải qua: nhất định là bình
đẳng với A Mi Đà Phật, là cùng một đời sống an ổn, hạnh phúc xứng Tánh, cho nên
gọi là Cực Lạc. Cổ Đại đức giải thích cho chúng ta: định nghĩa thứ nhất của Cực
Lạc, là lìa tất cả khổ. Thế giới của chúng ta đây: trong Lục đạo Thập pháp giới
đều có khổ nạn, Thế giới Cực Lạc không có, chẳng những không có, mà ngay cả tên
gọi cũng không có, trước nay chưa từng nghe điều gì gọi là khổ nạn, không nghe
nói qua. Đây chính là trên Đại Kinh thường nói, lìa tận cùng khổ, được cứu cánh
vui, lìa cứu cánh khổ chính là được cứu cánh vui.
Khổ
vui là tương đối, cũng không nên để khổ vui trong tâm, chính là Cực Lạc. Vì sao
vậy? Bởi nếu để vui vào trong tâm, thì bị sự vui thích làm ô nhiễm; Nếu chịu khổ
mà đem khổ để vào trong tâm, thì bị khổ làm ô nhiễm. Khổ vui đều không thanh tịnh,
khổ vui đều là ô nhiễm. Trong tâm thanh tịnh của Tự Tánh, chẳng những không có
khổ vui mà nhiễm tịnh cũng không có, bất đắc dĩ gọi đó là Cực Lạc. Cực Lạc ở
nơi đâu? Cực Lạc ở trước mắt, cũng không mất đi, chỉ là hiện nay chúng ta: bị nhiễm
tịnh, khổ vui mê hoặc, nên đã chướng ngại Tánh đức. Tánh đức chính là hạnh phúc
an lạc thanh tịnh, hoan hỉ thanh tịnh, đó là người Minh tâm Kiến tánh: cảnh giới
của quý ngài, quý ngài đã đạt được, đã chứng đắc.
Vào
thời triều Đường của nước ta, Lục tổ Thiền tông Đại sư Huệ Năng đã khai ngộ, Minh
tâm Kiến tánh, ngài làm ra báo cáo cho chúng ta, kiểu dáng của sự khai ngộ là
thế nào. Điều thứ nhất chính là hoan hỉ an lạc thanh tịnh, thật đã khai ngộ. Đại
sư Huệ Năng nói: 「何期自性,本自清淨」“Hà kỳ Tự
Tánh, bổn tự thanh tịnh”, dùng lời nói hiện nay thì chữ “hà kỳ” là không có
nghĩ đến, Tự Tánh của chúng ta xưa nay thanh tịnh, chưa từng ô nhiễm. Quá khứ
không có ô nhiễm, hiện tại vẫn là không có ô nhiễm, tương lai mãi không có ô
nhiễm, gọi là vốn tự thanh tịnh. Vậy ô nhiễm là nói ra từ chỗ nào? Ô nhiễm là
giả, không phải là thật, là một sự hiểu lầm, chưa từng ô nhiễm, nhưng chính
mình cho rằng có ô nhiễm, là sự việc như vậy. Đại sư Huệ Năng đã nói năm câu, câu
đầu tiên là vốn tự thanh tịnh, câu thứ hai là 「本不生滅」“bổn bất sanh diệt”(vốn không
sanh diệt), Tự Tánh không có sanh diệt, đó không phải pháp sanh diệt.
Chúng
ta xét xem trong Vũ trụ này, có điều gì không sanh không diệt? Tất cả hiện tượng
mà chúng ta thấy được, hiện tượng vật chất có sanh có diệt; Hiện tượng của tinh
thần, ý niệm, có sanh có diệt; Hiện tượng của đại tự nhiên cũng có sanh diệt, quý
vị xem, Xuân sanh, Hạ trưởng, Thu thâu, Đông tàng, đó là có sanh có diệt, không
tìm được một thứ gì bất sanh bất diệt. Tìm tới tìm lui, mọi người nghĩ đến: Hư
không dường như không thấy được sanh diệt. Không sai, hiện tượng sanh diệt của
Hư không thời gian rất dài, chúng ta không thấy được, chúng ta không nhìn thấy
Hư không sanh, chúng ta cũng chẳng thấy ra Hư không diệt. Thời gian [tồn tại] của
Hư không lâu hơn chúng ta, thọ mạng của chúng ta chỉ có mấy chục năm, hơn trăm
năm, không thấy được; Hư không, quá khứ vô thỉ, vị lai vô chung, Hư không có
sanh, có diệt, nhưng chúng ta không nhìn thấy, ở trong cảm nhận cả đời này của
chúng ta, dường như đó là bất sanh bất diệt. Cho nên, sự không sanh không diệt
của Hư không: là Tương tự Vô vi, không phải Thật sự Vô vi. Vì sao vậy? Hư không
từ đâu đến? Có đến thì có đi, có sanh thì có diệt, Hư không là được sanh ra do
trong một niệm bất giác.
Trong
Bách Pháp Minh Môn Luận: của tông Pháp Tướng Duy Thức sắp xếp: không gian, thời
gian, 100 pháp, hai pháp trong 100 pháp đó, là xếp ở đâu? Đó không phải Tâm
pháp, Tâm pháp là Khởi tâm Động niệm, là ý niệm, đó không phải Tâm pháp, vì không có ý niệm; Đó không phải Sắc pháp, bởi không có
hiện tượng vật chất. Đều không có hiện tượng tinh thần, hiện tượng vật chất, vậy
đó là gì? Đó là thuộc về hiện tượng tự nhiên. Cũng có nguồn gốc, quy vào loại
nào? Trong Bách Pháp, quy nạp vào: trong 24 loại Bất tương ưng, có 24 pháp, gọi
là Bất tương ưng Hành pháp. Bất tương ưng là nó không tương ưng với Tâm pháp, không
tương ưng với Tâm sở pháp, không tương ưng với Sắc pháp, cũng không tương ưng với
Vô vi pháp, cho nên gọi là Bất tương ưng. Thật có việc đó, không thể nói chẳng
có, cũng không thể nói thật có. Hư không sanh ra từ đâu? Sanh ra từ trong ý niệm
của chúng ta.
Không
gian là nói mười phương, đó là không gian; Thời gian là nói ba đời, quá khứ, hiện
tại, tương lai. Đó có phải thật không? Không phải là thật. Gọi là Bất tương ưng
Hành pháp, dùng thuật ngữ của chúng ta ngày nay để nói: chính là khái niệm trừu
tượng, so với hiện tượng vật chất, so với hiện tượng tinh thần: còn hư vọng
hơn, còn giả hơn, là giả ở trong giả. Chúng ta nhận biết được điều đó, hiểu rõ
chân tướng sự thật, sau khi hiểu rõ thì có lợi ích gì? Không chấp trước nữa. Chẳng
những không chấp trước, mà ngay cả Phân biệt cũng không cần thiết, cũng tức là
quý vị có thể buông xuống không gian, thời gian. Quý vị không hiểu rõ chân tướng,
cho rằng đó thật sự tồn tại, thì liền ô nhiễm Tự Tánh của quý vị, liền chướng
ngại Tự Tánh của quý vị, đã khởi tác dụng phụ đó.
Cho
nên, cần hiểu được, “sắc thân chư căn” là hiện tượng vật chất, “duyệt
dự” là hiện tượng tinh thần, hạnh phúc. “Thanh tịnh” là hiện
tượng vốn đầy đủ trong Tự Tánh, chúng ta dùng tự nhiên để gọi điều đó, bởi đó
không phải hiện tượng tâm lý, không phải hiện tượng vật chất, đó là vốn có
trong Tự Tánh, vốn không sanh diệt, thanh tịnh không sanh không diệt. Mà còn đầy
đủ vạn pháp, nếu không đầy đủ, thì Tự Tánh không thể hiện. Câu nói cuối cùng của
ngài Lục tổ Huệ Năng là: 「何期自性,能生萬法」“Hà kỳ Tự Tánh, năng sanh vạn pháp”(Nào
ngờ Tự Tánh, có thể sanh vạn pháp). Làm sao có thể sanh? Do trong Tự Tánh vốn
đầy đủ vạn pháp, không thiếu khuyết điều gì, gặp được duyên thì xuất hiện, không
có duyên thì chẳng hiện nữa, gặp duyên liền hiện hình. Gọi là ẩn hiện bất đồng,
không có duyên thì ẩn tàng đi, tự nhiên ẩn, có duyên tự nhiên xuất hiện.
Câu
thứ tư cũng là nói Bản Tánh, 「本無動搖」“Bổn vô động dao”(vốn không dao động).
Vốn không dao động chính là Định, Định trong Giới Định Huệ. Đó là gì? Là Tự
Tánh vốn Định. Cho nên, Minh tâm Kiến tánh, điều kiện đầy đủ của việc đó, chính
là câu thứ nhất và câu thứ tư: vốn tự thanh tịnh, vốn không dao động. Từ hai
câu này, đã giúp chúng ta Minh tâm Kiến tánh, giúp chúng ta quay về Tự Tánh. Hai
câu này quá quan trọng, hai câu này là nhân, chuyển trên nhân, còn vốn tự đầy đủ,
năng sanh vạn pháp: đó là chuyển
trên quả, đó là quả báo, liền hiện tiền, nhân vừa chuyển thì quả liền hiện tiền.
Quả đó là gì? Quả là Nhất chân Pháp giới, là Thật Báo Trang Nghiêm độ của chư
Phật Như Lai, chính là Thế giới Cực Lạc được nói trong Tịnh Độ tông. Cho nên,
Thế giới Cực Lạc là vốn có.
Nếu
tâm chúng ta thanh tịnh, vốn không dao động chính là bình đẳng, giống như nước
vậy, quý vị xem thanh tịnh không có ô nhiễm, không động, nước này giống như mặt
tấm kính, thì Sắc tướng bên ngoài đều được chiếu rất rõ ràng. Chiếu là Tánh đức,
chiếu rất rõ ràng là tác dụng của Tánh đức, đó gọi là trí huệ; Có thể chiếu là
Căn bản trí, chiếu kiến là Hậu đắc trí. Chiếu kiến là gì? Là hiểu rõ chân tướng
của vạn pháp, Y-Chánh trang nghiêm của mười Pháp giới là pháp sanh diệt, tuy có
Sắc tướng, nhưng Sắc tướng bất khả đắc. Giống như chúng ta xem màn hình Tivi, hình
ảnh rất là rõ ràng, âm thanh cũng rất là rõ ràng, vô cùng sáng tỏ, nhưng không
đạt được. Vì sao? Bởi tốc độ đó quá nhanh. Trong một giây, nếu chúng ta dùng
hình ảnh: từng tấm từng tấm phim giống nhau để nói, một giây 100 tấm, chúng ta lật
liên tục cũng không kịp, sự sanh diệt của 100 lần trong một giây. Tivi cũ trước
đây, Tivi trắng đen, là sanh diệt 50 lần, hiện nay là kỹ thuật số, tốc độ đã
nâng lên gấp đôi, 100 lần. Trước đây, có lẽ đồng học trung niên hiện nay: vẫn
còn ấn tượng, trẻ nhỏ hiện nay không còn [thấy] nữa, chúng chưa tiếp xúc đến, điện
ảnh kiểu cũ, là dùng phim đèn chiếu tạo thành. Cuộn này của chúng ta chính là
phim âm bản của điện ảnh, một giây đó sanh diệt bao nhiêu lần? Là 24 lần. Quý vị
đã hiểu được, 24 lần sanh diệt trong một giây, mắt của chúng ta đã không làm chủ
được, đã bị nó đánh lừa, cho rằng đó là thật. Hình ảnh của Tivi so với phim đó
càng thật hơn, bởi Tivi tăng thêm gấp đôi, 50 lần sanh diệt trong một giây, hiện
nay dùng kỹ thuật số, 100 lần sanh diệt, tần số càng ngày càng cao, cũng thấy
không ra một chút sở hở.
Vậy
hiện nay chúng ta quay về Tự Tánh, ý niệm của chúng ta, ý niệm của chúng ta một
giây bao nhiêu lần? Là giống như cuộn phim này, bao nhiêu lần sanh diệt? Bồ-tát
Di Lặc nói với chúng ta, một giây [có] 2 triệu 100 ngàn tỷ, đơn vị là ngàn tỷ, 2
triệu 100 ngàn tỷ lần sanh diệt. Chúng ta không có cảm giác, hoàn toàn không cảm
nhận được, tốc độ của sự sanh diệt này: ngay ở trước mắt chúng ta, bao gồm thân
thể của chúng ta (là hiện tượng vật chất), Khởi tâm Động niệm của chúng ta (là
hiện tượng tâm lý), đều là ảo tướng được sanh ra: dưới tần số đó. Cho nên,
không đạt được Sắc tướng, không đạt được hiện tượng vật chất, cũng chẳng đạt được
hiện tượng Khởi tâm Động niệm đó, đây là nói huyễn tướng, có thể sanh vạn pháp,
không đạt được tướng của vạn pháp. Bất khả đắc mà quý vị muốn đắc, quý vị muốn
để vào trong tâm, thì tâm ấy của quý vị liền có bệnh, liền bất thường, không phải
khoẻ mạnh. Khoẻ mạnh là thế nào? Khoẻ mạnh chính là vốn tự thanh tịnh, vốn
không dao động, vậy khoẻ mạnh. Cho nên vì sao đức Phật dạy người tu Định? Bởi
tu định là khoẻ mạnh, tu định là hồi quy Tự Tánh. Công phu sức định càng sâu
thì càng gần với Tự Tánh, sâu đến trình độ nhất định, thì hợp nhất thành một thể
với Tự Tánh vốn định, tu chứng nhất như, vậy thì gọi là Minh tâm Kiến tánh, đó
chính là Đại triệt Đại ngộ. Triệt ngộ có lợi ích gì? Triệt ngộ, thì quý vị hoàn
toàn hiểu rõ toàn bộ vũ trụ. Có cần phải học không? Không cần phải học. Vì sao?
Bởi quý vị đã trở về Tự Tánh, tất cả vạn pháp của toàn vũ trụ là do Tự Tánh biến,
do Tâm Tánh của chính quý vị biến hiện, thì sao quý vị không biết được? Nào có
đạo lý đó!
Học
Phật, đây là đường tắt, một con đường nhanh chóng nhất. Giáo hạ gọi là tiệm tu, tuần tự mà tiến, giống
như đi học, Tiểu học, Trung học, Đại học, Viện nghiên cứu, dần dần nâng lên đạt
đến cứu cánh viên mãn, cầm được học vị Tiến sĩ ví như thành Phật. Còn Tông môn?
Tông môn không cần trải qua những đẳng cấp này, không có cấp bậc. Giáo Hạ có cấp
bậc, 51 thứ bậc, [như] đi học vậy, lớp một, lớp hai, lớp ba. Thập Tín 10 giai cấp,
thập Trụ 10 đẳng cấp, thập Hạnh 10 vị thứ, thập Hồi hướng 10 thứ bậc, thập Địa
10 cấp bậc. Đó là giống như Tiểu học, Trung học, Đại học, Viện nghiên cứu, mỗi
một giai đoạn cũng là từ: lớp một đến lớp 10. Trên cả lớp 10 là Đẳng giác, Đẳng
giác vẫn là Bồ-tát, Bồ-tát đạt đến địa vị tối cao, bình đẳng gần giống với Phật.
Vẫn kém một chút, kém một chút chính là: quý ngài vẫn chưa hồi quy Tự Tánh, trở
về Tự Tánh là đã thành Phật, gọi là Diệu Giác, không gọi là Đẳng giác. Đẳng
giác là gần bằng với Diệu Giác, vừa nâng cao lên thì là Diệu Giác, không gọi là
Đẳng giác. Tổng cộng 52 đẳng cấp.
Thiền
tông không cần cấp bậc, cho nên, quý ngài có thể ở trong thời gian rất ngắn: thì
siêu vượt 51 đẳng cấp, quý ngài đã đi làm Phật. Người đầu tiên thể hiện cho
chúng ta: là đức Thích Ca Mâu Ni Phật, Ngài xả bỏ ngôi Vua, xuất gia tu đạo, đi
cầu học, năm đó Ngài 19 tuổi. Tất cả Tôn giáo, tất cả Học phái: của Ấn Độ, Ngài
đều học qua, gia phái nào cũng tham khảo tìm hiểu, đã học 12 năm, đến 30 tuổi,
Ngài đã buông xuống. Vì sao mà buông xuống? Bởi những học thuật, những Tôn giáo
ấy: đều không cách nào hồi quy Tự Tánh, không thể giải quyết vấn đề của Ngài. Vấn
đề của Ngài là gì? Là khai mở phát huy ra vô lượng trí huệ, vô lượng đức năng,
vô lượng tướng hảo trong Tự Tánh. Không ai làm được điều này, cho nên Ngài
buông bỏ, đã buông xuống 12 năm học tập. Buông bỏ là buông xuống Sở tri chướng,
học càng nhiều những điều này thì càng nhiều chướng ngại, đối với việc giải quyết
vấn đề của quý vị: thật ra mà nói thì chẳng giúp chút gì, chỉ là rước phiền
não. Cho nên, đến dưới cây Tất-bát-la, nhập định, nhập định là thế nào? Nhập định
trở về đến bình đẳng.
Tự
Tánh vốn định, vốn không dao động, Tự Tánh đó không dao không động. Tâm hiện
nay của chúng ta vừa dao vừa động, lay động, không định, đó chính là gì? Là Vọng
tưởng, ý niệm quá nhiều, vô lượng vô biên. Tâm người hiện nay, tri thức của người
thời nay nhiều hơn hiểu biết của người xưa, nhưng sự nông nổi của người hiện đại,
thì người xưa chưa từng nghe nói, vì sao vậy? Bởi tâm của họ thanh tịnh, tâm họ
bình đẳng. Trước nay là không có nông nổi, trên thực tế trong cả đời họ, từ
chúng sanh mà họ đang tiếp xúc, đều không có thấy được sự nóng nảy, dù có nóng
nảy, [chỉ là] gió nhỏ sóng nhỏ, vậy là quá lắm rồi. Mỗi một người ở xã hội hiện
nay, từ nhỏ đến già, tâm địa nông nổi như vậy: cổ nhân nằm mơ cũng không nghĩ đến.
Vì sao vậy? Bởi họ thấy được quá nhiều, muôn màu muôn vẻ, họ nghe được, tiếp
xúc đến, phức tạp hơn xã hội trước đây: cũng không chỉ gấp trăm ngàn lần. Tâm họ
là động, không định xuống được; Tâm của họ là ô nhiễm, không cách nào dọn dẹp sạch
sẽ, chỉ có thể giảm nhẹ một chút ô nhiễm mà thôi. Nếu không học chăm chỉ, thì sự
ô nhiễm đó là ngày càng nghiêm trọng hơn, cho nên, đời sau không thể tưởng tượng.
Tâm
địa có chút thanh tịnh, có chút bình đẳng, đời sau có thể được phước báo trời
người; Nếu là sóng to gió lớn, ô nhiễm nghiêm trọng, thì đến Tam đồ, quý vị nói
đáng sợ biết bao. Đi vào Tam đồ rất dễ, nhưng thoát ra rất khó! Có rất nhiều
Súc sanh tuổi thọ rất ngắn, trong kinh điển đức Phật nói với chúng ta, Súc sanh
mà thọ mạng ngắn, chúng đoạ ở trong đường đó, không phải chết thì thoát khỏi,
không phải. Đoạ vào đường đó là luận số lần, quý vị đầu thai làm một con chó, chó
chết rồi vẫn làm chó, phải làm mấy chục lần, thậm chí đến mấy trăm lần, quý vị
mới thoát ra. Nếu quý vị hiểu rõ chân
tướng sự thật, thì quý vị mới biết sự đáng sợ của việc này. Năm xưa đức Thích
Ca Mâu Ni Phật ở đời, ở Kỳ Thọ Cấp Cô Độc Viên, lúc đó có công trình, có công
trình xây dựng, đức Phật thấy trên đất có tổ kiến, bảo Đệ tử của Ngài cùng đến
xem, rất nhiều Đệ tử đều chứng được quả A-la-hán. Phật liền hỏi mọi người: Các
thầy xem, những con kiến này: chúng chịu thân kiến bao lâu rồi? Năng lực của
A-la-hán biết được 500 năm trước, thậm chí biết được 500 đời, nhìn xem con kiến
đó, 500 đời chúng cũng vẫn làm kiến, chết rồi cũng vào làm kiến, vẫn là tổ kiến
đó, đầu thai ở trong tổ đó, cảm thấy rất sửng sốt. Đức Phật nói với mọi người, năng
lực đó của các thầy vẫn không đủ, Phật nhãn thấy con kiến này, đã bảy tôn Phật
qua đời, mà chúng vẫn làm kiến. Một tôn Phật chúng ta nói là ba a-tăng-kỳ kiếp,
bảy tôn Phật, 3 nhân 7 bằng 21 a-tăng-kỳ kiếp, thời gian dài như vậy, mà chúng
vẫn chưa thoát khỏi thân kiến.
Khai
thị này của đức Thế Tôn nhắc nhở chúng ta, không được đi vào Súc sanh đạo. Không
nên cho rằng Địa ngục, Ngạ quỷ đáng sợ, còn Súc sanh tốt một chút, bởi không dễ
quay đầu. Chẳng dễ được thân người. Hiện nay chúng ta đã được thân người, phải
biết quý trọng, quá khó được thân người! Chỗ tốt của được thân người: là dễ
dàng giác ngộ; Súc sanh quá ngu si, không dễ giác ngộ; Ngạ quỷ, Địa ngục thì
quá khổ, khổ đến nỗi khiến quý vị không cách nào giác ngộ. Người cõi trời hưởng
vui, hưởng vui liền mê, đối với việc tu đạo này: họ không mong muốn; Cõi người
nửa khổ nửa vui, khổ nhiều vui ít, nên dễ giác ngộ. Phải có người nhắc nhở, chẳng
có ai khuyên nhủ thì không giác ngộ. Có người nhắc nhở, đó là duyên phận, nhưng
chính mình phải có thiện căn, có phước đức, gặp được Thiện tri thức có thể tiếp
nhận, tin được, tu được, chứng được, không gì quan trọng hơn điều này. Cho nên,
từng câu từng chữ trên kinh điển: đều gợi ý cho chúng ta: rất nhiều, rất sâu sắc.
Chính chúng ta phải biết nhìn, phải biết nghe.
Học
Phật thì học điều gì, nhất định phải biết điều này, học tâm thanh tịnh, học tâm
bình đẳng, chính ở trên tựa đề Kinh của chúng ta, tựa đề Kinh này quá mầu nhiệm,
tựa đề kinh là pháp bảo Vô thượng. Nhà Phật giảng Tam học: Giới Định Huệ. Mục
đích của Giới là gì? Là tâm thanh tịnh. Tôi đã từng thấy được có [vị] học Giới,
kiểu dáng trì rất giống, khoác áo đắp y, bưng bát ăn cơm, đều là một vài hình
tướng, tâm có thanh tịnh không? Không thanh tịnh. Sao lại không thanh tịnh? Bởi
họ cống cao ngã mạn, đối với một số [người] phá giới, không có giống hình thức
đó của họ, họ xem thường, họ huỷ báng người phá giới, tương lai quý vị đều đoạ
Địa ngục, đó là tâm không thanh tịnh. Tâm chẳng thanh tịnh, giới đó học uổng
công rồi, mục đích của học giới là được tâm thanh tịnh, được tâm cung kính, được
tâm chân thành, họ đều không có ba điều này. Lúc chưa học giới, họ còn một chút
lão thật, còn một chút khiêm nhường; học giới rồi thì coi thường mọi người. Nguyên nhân đó là gì? Vì sao người xưa học
giới: có thể được tâm thanh tịnh, còn hiện nay không đạt được. Nguyên nhân ở chỗ
nào? Cổ nhân có gốc, người thời nay không có gốc. Gốc của người xưa là gì? Người
xưa từ nhỏ bồi dưỡng ra: hiếu, kính, họ có gốc này, cho nên giới có hiệu quả, thật
sự giúp họ được tâm thanh tịnh. Hiện nay không có hiếu, không có kính, tâm khí
nông nổi, học biết một chút là đem giới đó: coi như tiêu chuẩn đến khắp nơi
đánh giá người khác, không đúng tiêu chuẩn liền phê bình họ, tạo khẩu nghiệp!
Trong
nhà Phật có câu chuyện của Luật sư Đạo Tuyên, ngài Đạo Tuyên là Tổ sư của Luật
tông, là vị khai sơn đầu tiên của Giới luật nước ta, Sơ tổ của Luật tông ở núi
Chung Nam, Luật sư Đạo Tuyên. Đại Bồ-tát thị hiện, biểu diễn chiêu này cho người
đời sau thấy. Đại sư Khuy Cơ lúc đó là đại Pháp sư, giảng kinh dạy học, đó là vị
quý tộc xuất gia, ngài vốn dĩ không mong muốn xuất gia, Đại sư Huyền Trang chọn
ngài, bảo ngài xuất gia, ngài đưa ra ba điều kiện. Tập khí của ngài rất nặng, từ
nhỏ trải qua là đời sống giàu sang trong cung đình, chú của ngài là Uất Trì
Kính Đức, Đại tướng của vua Đường Thái Tông. Đời sống từ nhỏ đã quen [sung
túc], không thể chịu khổ, tôi xuất gia muốn mang theo một xe vàng bạc châu báu,
Đại sư Huyền Trang đồng ý, gọi là 「三車法師」“Tam Xa Pháp sư”(Pháp sư Tam Xa),
mang theo một xe sách, ưa thích đọc sách, còn có một xe mỹ nữ, người ta chế giễu
ngài, không thể trì giới, gọi là Pháp sư Tam Xa. Vị Pháp sư này hôm ấy đi ngang
qua núi Chung Nam, thông báo cho Luật sư Đạo Tuyên, ngài muốn đến trên núi để
thăm hỏi, để thăm qua. Luật sư Đạo Tuyên nói vô cùng hoan nghênh, nhân cơ hội
này để giáo huấn dạy bảo ngài.
Luật
sư Đạo Tuyên trì giới tinh nghiêm: cảm động người cõi trời, ngài ăn một bữa giữa
ngày, bữa cơm giữa ngọ đó, người cõi trời tặng cúng dường. Ngài liền nghĩ ngày
mai biểu diễn một chút, giữa ngọ ngày mai Đại sư Khuy Cơ đến đây, tận mắt thấy
người cõi trời cúng dường ta, biểu diễn chút, lợi ích của trì giới. Ngày hôm
sau Đại sư Khuy cơ đã tới, đến giữa trưa, Thiên nhân không đến biếu cúng dường,
vô cùng thất vọng. Chiêu đãi Đại sư Khuy Cơ, để đoàn ngài xuống núi. Đến giữa
ngọ ngày hôm sau, người trời đến đưa cúng dường, ngài liền quở trách, vì sao
hôm qua quý vị không đến đưa cúng dường? Người trời nói hôm qua: Bồ-tát Đại thừa
ở nơi đây, khắp núi đều là thần Hộ pháp, con không vào được. Sau khi Luật sư Đạo
Tuyên nghe xong, trên thân toát mồ hôi lạnh, hổ thẹn. Trong Phật môn chúng ta
có câu chuyện như vậy. Trong đây đều nói ý nghĩa biểu pháp, Bồ-tát Đại thừa trì
chính là tâm giới, Phẩm Phạm Võng Tâm Địa Giới, quý ngài không động tâm. Mắt thấy
sắc không khởi tâm động niệm, thì Phân biệt Chấp trước nào đến được? Tai nghe
âm thanh, mũi ngửi hương, lưỡi nếm vị: đều không khởi tâm không động niệm, cảnh
giới đó của ai? Là cảnh giới của Pháp thân Bồ-tát. Quý ngài có cần ăn uống
không? Không cần. Vì sao không cần mà vẫn phải biểu diễn như vậy? Là biểu diễn
cho chúng sanh thấy, nếu tôi không làm như thế: thì mọi người không dám học Phật;
Tôi làm như vậy, Phật pháp này dễ học, tôi cũng có thể học, để tiếp dẫn chúng
sanh.
Phật
pháp là viên dung, viên nhân thuyết pháp, không pháp nào chẳng viên; Viên nhân
tu pháp, cũng là chẳng pháp nào không viên. Từ trong Giới được Định, được Huệ, từ
trong Huệ có Giới, có Định, đều là viên mãn, Tam học Giới Định Huệ là một thể, không
hiểu đạo lý này thì sai rồi. Cổ Đại đức nói Tam giáo Nhất nguyên, hôm qua chúng
ta đã giảng, Tam giáo là Giới luật, Thiền tông, Giáo hạ, đức Phật dùng điều này
để giáo hoá chúng sanh. Giới luật là cơ sở, là dạy Tiểu học, giáo dục cắm gốc. Giáo
dục cắm gốc trước đây của nước ta: gia đình đã làm tốt, cho nên thọ giới có hiệu
quả. Thọ giới thời nay đã phát sinh vấn đề, vì sao vậy? Bởi họ không có gốc của
Đệ Tử Quy, không có gốc của Cảm Ứng Thiên, không có gốc của Thập Thiện Nghiệp, cho
nên Giới luật đó có vấn đề, đã học lệch, học tà rồi.
Nước
ta từ xưa tới nay, đến khoảng giữa triều Thanh, Phật pháp hưng thịnh, Cao tăng
Đại đức trong mỗi một tông, thật có người Minh tâm Kiến tánh. Chúng ta thấy lão
Hoà thượng Hải Hiền, đã Minh tâm Kiến tánh, Pháp sư Truyền Giới là Sư phụ của
ngài: cũng là Minh tâm Kiến tánh, không phải Minh tâm Kiến tánh, thì ngài không
nhận biết người Đồ đệ ấy; Ngài nhận biết Đồ đệ ấy, đó là công phu của ngài, người
ấy là Pháp khí. Nhìn từ chỗ nào? Từ tố chất của ngài, chúng ta nói Thiên tánh, Bản
tánh của người ấy rất tốt, thật thà, nghe lời, thật làm, tất cả những người như
vậy đều sẽ có thành tựu. Cho nên Sư phụ của ngài, quý vị xem đơn giản biết bao,
chỉ dạy ngài một câu Nam Mô A Mi Đà Phật, cũng không có gì khác, dặn dò ngài một
mực mà niệm. Câu A Mi Đà Phật này của ngài: từ sáng đến tối không gián đoạn, câu
này nối kiếp câu kia. Tôi thấy được một người: là Đại sư Chương Gia, ngài không
phải niệm Phật mà ngài trì Chú, ngài trì Chú cũng là Kim cang trì, niệm thầm,
không ra tiếng, miệng đang động. Bất kể ở nơi nào: quý vị nhìn thấy ngài, ngài
đứng cũng được, đi cũng được, miệng ngài đang động, chúng tôi biết [câu] chú của
ngài chưa từng gián đoạn, chỉ cần quý vị có thể không gián đoạn, thì quý vị đã
được Nhất tâm, Công phu Thành phiến, Sự nhất tâm Bất loạn, Lý nhất tâm Bất loạn,
đạo lý như vậy.
Đều
là người Đại triệt Đại ngộ, chúng ta không thể sánh với những người ấy, căn cơ
đó của quý ngài, không phải một đời, hai đời, ba đời, năm đời mà cắm được, ít
nhất 10 đời trở lên. Trong kinh đức Phật nói với chúng ta, có thể tin sâu không
nghi đối với Phật hiệu này, tin thật nguyện thật, thì đời này nhất định vãng
sanh. Đó là người thế nào? Trong đời quá khứ: đã từng cúng dường vô lượng chư
Phật Như Lai, ở ngay trong đời này: được sự gia trì của vô lượng chư Phật Như
Lai, quý vị mới tin được, quý vị mới có thể phát nguyện. Không phải người phàm,
người thường đâu có thể không dao động? Cho nên, tu Pháp môn này, gặp được Pháp
môn khác thì dao động, cũng chẳng hiếm lạ chút nào. Trong 10.000 người, có thể
tìm được một người không lay động, vậy thì đã không tệ, 9999 người, gặp được
tình hình này đều sẽ dao động.
Chúng ta cần phải chú ý gốc
này, khó khăn nhất hiện nay chính là không có gốc nữa. Làm sao cắm gốc đây? Gốc
nhất định phải bắt đầu cắm từ Đệ Tử Quy. Nếu chúng ta không khiêm tốn, lúc nhỏ
chúng ta chưa cắm, thì hiện nay học còn kịp, học bổ sung, bổ sung gốc này. Nền tảng
đó của chúng ta, giống như xây nhà vậy, đây là nền móng, không đủ vững chắc, chúng
ta đi gia công dụng hạnh, bổ sung cho đủ, về sau sẽ thuận buồm xuôi gió; Không
bổ túc: thì gặp phải cảnh giới hiện ra sẽ dao động. Cần phải nhớ kỹ lời Phật dạy:
「法門平等,無有高下」“Pháp môn bình đẳng, vô hữu cao hạ”(Pháp môn bình đẳng, không có
cao thấp), Pháp môn đó không bằng Pháp môn của tôi, không có đạo lý này,
tuyệt đối là bình đẳng. Vấn đề là quý vị có thể: thâm nhập một môn, huân tu lâu
dài, thì thành công, bất luận Pháp môn nào, quý vị không nên dao động. Tôi tu
Pháp môn Địa Tạng có được không? Được, chỉ cần quý vị thâm nhập một môn. Tôi học
Cơ Đốc giáo có được không? Được, quý vị có thể thâm nhập một môn, huân tu dài
lâu, thì quý vị sẽ được định, quý vị sẽ khai ngộ, quý vị đem sự tu học của quý
vị, hồi hướng vãng sanh Thế giới Cực Lạc, A Mi Đà Phật liền đến tiếp dẫn quý vị.
Quý vị mới thật sự hiểu rõ chân tướng sự thật, chân tướng là gì? Đại sư Huệ
Năng từng nói: 「何期自性,能生萬法」“Hà kỳ Tự Tánh, năng sanh vạn pháp”(Nào ngờ Tự Tánh, có thể sanh
vạn pháp). Cơ Đốc giáo có phải ở trong vạn pháp không, hay là ở ngoài vạn
pháp? Không rời Tự Tánh! Phải hiểu được điều này. Tôn giáo khác nhau, chủng tộc
bất đồng, Văn hoá không giống nhau đều là một nhà, quý vị đã học thông, thì hiểu
rõ hoàn toàn rồi. Khi chưa thông đạt thì có ngăn cách trở ngại, có Phân biệt,
có Chấp trước, chính mình mang đến phiền não cho chính mình; Hoàn toàn làm sáng
tỏ rồi, thì Phân biệt Chấp trước đều được tiêu trừ.
Người
khai ngộ nói hay biết bao, đức Thích Ca khai ngộ nói với chúng ta, 「一切法從心想生」“nhất thiết pháp tùng tâm tưởng sanh”(tất cả pháp từ tâm tưởng
sanh), tâm tưởng của ai? Là tâm tưởng của chính mình, không phải người
khác. Cho nên đức Phật thấy tất cả chúng sanh, bất luận học Pháp môn nào cũng tốt,
trên thế giới này Tôn giáo khác nhau, Văn hoá khác nhau, người đầu tiên sáng lập
đó, đều là chư Phật Như Lai, trong mắt chúng ta thấy: đều là A Mi Đà Phật. Tất
cả thế gian đều là Thế giới Cực Lạc, chỉ cần quý vị có thể: tìm trở lại thanh tịnh
bình đẳng giác, thì quý vị liền thật sự thấy được Thế giới Cực Lạc, Thế giới Cực
Lạc ngay ở trước mắt, không rời khỏi ta một bước. Trong Kinh Hoa Nghiêm nói: tất
cả tức một, một tức tất cả, một đó là đảm đương một, không phải chỉ một, không
phải nói chỉ có một vị A Mi Đà Phật ấy, không phải vậy. Mỗi người, bất kỳ Pháp
môn nào, một là đại biểu tất cả, tất cả chỉ quy về một, quý vị có thể nắm chắc
chữ nhất này, thì quý vị một đời thành tựu.
Căn
tánh kém hèn, đức Phật dạy cho chúng ta, dùng câu A Mi Đà Phật này là tốt nhất,
vì sao vậy? Bởi A Mi Đà Phật là đức hiệu của Tự Tánh. Chân Như Bản Tánh gọi là
gì? Chân Như Bản Tánh gọi là A Mi Đà Phật. A Mi Đà Phật: là Chân Như Bản Tánh của
tất cả chúng sanh, không phải một người nào, tất cả pháp đều là do từ Chân Như
Bản Tánh: phát sinh ra, Chân Như Bản Tánh thì gọi là A Mi Đà Phật. A Mi Đà Phật
nhớ tới ý nghĩa của chữ này, A nghĩa là Vô, Mi Đà là Lượng, Phật là Giác, dịch
thành ý nghĩa của nước ta, nghĩa là gì? Là Vô Lượng Giác, Vô Lượng Giác là Tự
Tánh, chỉ có Tự Tánh xưng là Vô Lượng Giác. Cho nên đây là đã tìm được tổng
cương lĩnh, đã tìm được tổng ngọn nguồn. Vậy thì cành lá có được chăng? Được, bất
kỳ chiếc lá nào, bất kỳ cành nhánh nào quý vị từ từ đi tìm, sau cùng, cuối cùng
tìm đến A Mi Đà Phật, tìm đến gốc chính là tìm đến A Mi Đà Phật. Đó là một
không phải hai, mỗi một chiếc lá, mỗi một cành nhỏ: đều là một thể với gốc này,
cho nên bình đẳng.
Tánh
bình đẳng của quý vị từ chỗ này mà sanh khởi, [tâm] từ bình đẳng, [tâm] bi bình
đẳng, hoàn toàn không có Khởi tâm Động niệm, Phân biệt Chấp trước, lúc đó là đã
kiến Tánh. [Với] Khởi tâm Động niệm thì rất khó, vì sao vậy? Bởi quá vi tế, tần
số của một giây là 2 triệu 100 ngàn tỷ, tần số cao như vậy, chúng ta ở trong tần
số ấy, không chút cảm giác, cũng không cảm nhận được chút nào. Người nào tâm
thanh tịnh, thanh tịnh đến tột cùng, quý ngài cảm nhận được. Trên kinh đức Phật
dạy, là Bồ-tát địa vị nào? Là Bát địa, Bát địa trở lên, Bát địa, Cửu địa, Thập
địa, Đẳng giác, Diệu Giác, năm vị thứ này đều cảm nhận được, quý ngài rõ ràng
sáng tỏ tần số cao như vậy, đều không mơ hồ chút nào, thấy được triệt để Thật
tướng các pháp. Trong giáo lý Đại thừa, gọi hiện tượng này: là Tam tế tướng của A-lại-da, Nghiệp tướng,
Chuyển tướng, Cảnh giới tướng của A-lại-da, hoặc là nói Kiến phần, Tướng phần: Tự
chứng phần, Chứng tự Chứng phần của A-lại-da. Trong bộ Kinh này, mỗi một phẩm,
mỗi một chương, mỗi một đoạn, đều là đại pháp cứu cánh viên mãn.
Chúng
ta tiếp tục xem văn chữ của Chú Giải, 「如來身者,出過世間」“Như Lai
thân giả, xuất quá thế gian”(thân của Như Lai, vượt hơn thế gian). Như
Lai thân là Pháp thân Như Lai, Pháp thân chính là Tự Tánh, xuất là siêu vượt,
quá cũng có ý nghĩa vượt qua, vượt hơn. Cho nên, xuất quá tức là vượt hơn thế
gian, thế gian này là thập Pháp giới, siêu việt mười Pháp giới. Tiếp theo nói, 「何以故?不為世法之所染污故」“hà dĩ
cố? Bất vi thế pháp chi sở ô nhiễm cố”(vì sao vậy? Do không bị pháp thế
gian làm ô nhiễm). Tất cả pháp của thế gian không thể ô nhiễm Ngài nữa, tại
sao vậy? Vì Ngài sẽ không để vào trong tâm. Vậy còn Phật pháp? Một nửa của Phật
pháp là pháp thế gian, một nửa là pháp xuất thế gian. Trên Kinh Kim Cang đức Phật
nói với chúng ta: 「法尚應捨,何況非法」“Pháp thượng
ưng xả, hà huống phi pháp”(Pháp còn phải xả, huống hồ phi pháp), phi
pháp là thế gian pháp, pháp là Phật pháp, có được chấp trước Phật pháp không?
Không được chấp trước. Câu Phật hiệu A Mi Đà Phật này, có được chấp trước
không? Trước khi chưa đến Thế giới Cực Lạc thì phải chấp trước, sau khi tới Thế
giới Cực Lạc thì không chấp trước nữa, là tiêu chuẩn như vậy. Tại sao? Bởi tâm
thanh tịnh của Tự Tánh chẳng lập một pháp, câu Phật hiệu A Mi Đà Phật này [từ]
đâu đến? Không có tướng này, không chấp trước nữa. Thế còn Lý? Lý là viên mãn, Lý
chính là A Mi Đà Phật, Vô Lượng Giác. Vô Lượng Giác không phải vật chất, Vô Lượng
Giác cũng không phải tinh thần, đều không dính vết tích.
Cần
phải chấp trước Giới luật, tại sao cần chấp trước? Vì chưa thoát khỏi Lục đạo
luân hồi thì cần chấp trước, thoát khỏi Lục đạo luân hồi thì không được chấp
trước nữa. Trong sáu đường luân hồi có thiện ác, đoạn ác tu thiện, sanh ba đường
thiện, không đoạ ba đường ác, trì giới sanh ba đường thiện, phá giới [đoạ] ba
đường ác, tiêu chuẩn ở chỗ này. Tiêu chuẩn của câu A Mi Đà Phật là thành Phật, quý
vị chưa đến Thế giới Cực Lạc, cần chấp trước, Phật hiệu bảo đảm quý vị đến Thế
giới Cực Lạc; Sau khi tới Thế giới Cực Lạc: tự nhiên liền chẳng chấp trước nữa,
liền buông xuống, tôi đã đến rồi, đã đạt mục tiêu. Không giống nhau! Giới có
công đức của Giới, Định có công đức của Định, Huệ có công đức của Huệ, A Mi Đà
Phật là thuộc về Huệ, quý vị tin tưởng đối với Ngài là đại trí huệ, không phải
đại trí huệ thì sao quý vị có thể tin? Đại trí huệ chẳng dao động, không có đại
trí huệ sẽ dao động.
Lão
Hoà thượng Hải Hiền 92 năm không chuyển hướng, chưa từng bỏ mất, 92 năm nhất
môn thâm nhập, trường thời huân tu, không kể vào lúc nào cũng là niệm Phật, một
câu Phật hiệu. Quý vị xem trong đĩa CD của ngài nói, sự việc đó thường xuyên thấy,
ban tối niệm Phật, thấy được trên gường dưới giường, khắp nơi trong phòng toàn
là chúng sanh, nghe ngài niệm Phật. Ba giờ sáng thức dậy, ba giờ chưa thức dậy,
thì có người trước tai của ngài gọi ngài: mau thức dậy, mau thức dậy, niệm Phật
thôi. Có khi thấy được trong phòng ngoài phòng: toàn là A Mi Đà Phật. Buổi tối
hôm đó ngài thắp hương, ở trong bát hương đã cắm 12 cây nhang, hôm sau có người
hỏi ngài, sao ngài thắp hương nhiều như vậy? Ngài đã nói ra, đêm hôm qua thấy
trong phòng ngoài phòng: đều là A Mi Đà Phật. Thế giới Cực Lạc hiện tiền, ngài
đã thấy được.
Cho
nên Như Lai thân, Pháp thân, không bị pháp thế gian ô nhiễm, không có nhiễm tịnh,
chẳng có thiện ác, là Pháp thân. Tiếp theo nói, 「乃至如來身者,如淨鏡中微妙之像」“nãi chí Như Lai thân giả, như tịnh kính
trung vi diệu chi tượng”(thậm chí thân của Như Lai, như hình ảnh vi diệu
trong tấm kính thanh tịnh). Ví dụ này của cổ nhân, trong tấm kính rất sạch sẽ,
tấm kính soi được Cảnh giới tướng bên ngoài, ý nghĩa này biểu thị chính là
không có ô nhiễm. Chưa từng ô nhiễm, chúng ta nói rõ ràng nói sáng tỏ, chính là
không nên để vào trong tâm, để trong tâm thì ô nhiễm, không đặt trong tâm thì
không có ô nhiễm, là thanh tịnh. Để pháp thế gian trong tâm, quý vị liền có Chấp
trước, đặt Phật pháp xuất thế gian trong tâm gọi là Chấp pháp, vẫn là Chấp trước.
Có Chấp trước là phàm phu Lục đạo, không có Chấp trước chính là A-la-hán,
Bích-chi-phật, không có Phân biệt là Bồ-tát, không có Khởi tâm Động niệm chính
là Phật. Trong Đại thừa giáo: nói với chúng ta tiêu chuẩn này, chúng ta cần phải
luôn nhớ kỹ, phải nên thường ứng dụng ở trong thấy sắc nghe âm thanh, đó là gì?
Đó là chân tu hành. Cho nên, để vào trong tâm thì hỏng rồi!
Sự
vi diệu của Pháp môn Tịnh tông, Pháp môn Tịnh tông thành tựu nhanh như vậy, bằng
với nói bảo đảm quý vị thành Phật, phương pháp đó chính là dạy quý vị chấp trì
danh hiệu. Chúng sanh ưa thích Chấp trước, buông xuống tất cả pháp thế gian và xuất
thế gian, quý vị chỉ chấp trì một câu A Mi Đà Phật này. Câu A Mi Đà Phật này: đều
không tương ưng với pháp thế gian và xuất thế gian, mà chỉ tương ưng với A Mi
Đà Phật: Thế giới Cực Lạc, quý vị niệm Phật, giống như nói thiết lập liên hệ trực
tiếp với A Mi Đà Phật, diệu ở chỗ này. Cho nên, quý vị thật đã hiểu rõ, thì quý
vị liền có thể khẳng định, thừa nhận lời dạy của chư Phật, không phải do chính
chúng ta sáng tác, trong Phật pháp Đại thừa, pháp mà tất cả chư Phật Như Lai
trong khắp Pháp giới Hư không giới: đã tu, đã chứng, đã truyền, thì pháp bậc nhất
chính là tín nguyện trì danh, vãng sanh bất thoái thành Phật. Rất khế hợp căn
cơ của chúng sanh Thế giới Ta Bà, chẳng có người nào không thành tựu, không
thành tựu là do: thiện căn, phước đức của họ có vấn đề, tại sao vậy? Vì họ
không tin, họ nghi ngờ, họ không buông xuống được.
Đệ
nhất thiện căn của Pháp môn này, [như] Pháp sư Hải Hiền, Pháp sư Hải Khánh, mẫu
thân của Pháp sư Hải Hiền, là Cư sĩ tại gia; Lại xem trước kia, Đồ đệ của Pháp
sư Đế Nhàn là người thợ vá nồi, đều là người đương cơ bậc nhất của Pháp môn
này. Người thợ vá nồi 3 năm đã thành công, điều kiện của ông ấy không có đặc biệt,
hơn 40 tuổi mới gặp được Phật pháp, chưa từng đi học, không biết chữ, học điều
gì cũng không hiểu, chưa từng đọc qua một bộ kinh, cũng chưa nghe qua bài giảng
nào, chỉ một câu Phật hiệu niệm đến cùng. Biết trước giờ đi, tự tại vãng sanh, người
thợ vá nồi cũng là tự tại vãng sanh. Phải tin, cần phải thật tin; Nghi ngờ, thì
bị chịu thiệt là chính mình. Không nghi ngờ, biểu diễn vãng sanh cho người khác
xem, người khác thấy rồi nghe rồi thì sanh khởi niềm tin, đó đều là công đức của
quý vị. Một người nghe được thì một người sanh tín tâm, thì quý vị đã độ người
đó, cho nên sự biểu diễn đó của quý vị độ vô lượng chúng sanh. Người thợ vá nồi
là một ví dụ, người niệm Phật thấy được công án của ông ấy, cũng chính là thấy
được bằng chứng thực tế của ông ấy, thì tín tâm đối với Tịnh Độ đã kiên định, nguyện
tâm đối với vãng sanh Tịnh Độ đã khẩn thiết, cũng là do ông thợ vá nồi độ, cũng
là do Hoà thượng Hải Hiền độ. Giúp đỡ bao nhiêu chúng sanh: đến Thế giới Cực Lạc
làm Phật, hơn nữa một đời thành tựu, Tổ sư Đại đức của Tông môn Giáo hạ: không
thể sánh bằng với ông ấy. Tuy Tông môn mau chóng, nhưng phải là người Thượng
thượng căn, khó tìm người Thượng thượng căn, không dễ dàng. Chính chúng ta phải
biết năng lực của chính mình, phải biết thiện căn phước đức nhân duyên của
chính mình, chính mình nhận thức chính mình, tương ưng với Pháp môn nào, sau
khi gặp được, cả đời không thay đổi, thì chẳng có ai mà không thành công.
Chúng
ta lại xem lời văn tiếp theo: 「綜上引證,經文釋為」“Tổng thượng
dẫn chứng, kinh văn thích vi”(Tóm lại dẫn chứng ở trên, giải thích kinh
văn là), ở trên đã dùng rất nhiều kinh luận để giải thích: sắc thân chư
căn, duyệt dự thanh tịnh, 「當時世尊」“đương thời Thế Tôn”(khi đó đức
Thế Tôn), trước khi đức Thích Ca Mâu Ni Phật giảng bộ Kinh này, tướng của
Ngài hiện, 「同現喜容」“đồng hiện hỷ dung”(cùng hiện
dung mạo hoan hỷ), đức Phật giảng bộ Kinh này tự tại biết bao, vui vẻ biết
bao. Vì sao vậy? Bởi vô lượng chúng sanh nương vào Pháp môn này mà được độ. Giảng
tất cả Pháp môn khác, độ chúng sanh không nhiều, giảng Pháp môn này, thì rộng độ
tất cả chúng sanh, bên trên của thập Pháp giới là chư Phật Bồ-tát, bên dưới là
chúng sanh Địa ngục, tất cả đều được độ, đều không sót người nào, nên đức Phật
hoan hỷ. Đức Phật xuất hiện ở thế gian để làm gì? Chính là độ chúng sanh thành
Phật đạo. Chân chánh độ chúng sanh, chúng sanh thật sự thành Phật đạo rồi, thì
Phật hoan hỷ. Đức Thích Ca Mâu Ni Phật lúc đó, Ngũ căn cùng hiện dung mạo vui mừng,
「心中安樂,妙相清澈,如鏡中影」“tâm trung
an lạc, diệu tướng thanh triệt, như kính trung ảnh”(trong tâm an lạc, diệu
tướng thanh tịnh thấu suốt, như ảnh trong gương), tấm gương rất sạch sẽ,
soi chiếu được rõ ràng sáng tỏ. 「如水中月,光明圓滿,淨若無形」“Như thuỷ trung nguyệt, quang minh viên mãn, tịnh nhược vô hình”(Như
trăng trong nước, ánh sáng tròn đầy, thanh tịnh như vô hình), ánh trăng xuất
hiện ở trong nước, nước sạch, nước lặng, không có gợn sóng, ánh trăng hiện ở
trong rất rõ ràng. Ánh sáng viên mãn, thanh tịnh như vô hình, 「和悅歡喜,清淨莊嚴」“hoà duyệt hoan hỷ, thanh tịnh trang nghiêm”(hoà nhã hoan hỷ hạnh
phúc, thanh tịnh trang nghiêm), thấy được cảnh tượng như vậy.
「又佛何故喜?」“Hựu Phật hà cố hỷ?”(Tại sao đức Phật hoan hỷ?) Trong Tịnh Ảnh
Sớ cũng giải thích, vì sao đức Phật hoan hỷ. Đại sư Tịnh Ảnh nói, chữ ‘hỷ’ có
hai ý nghĩa, thứ nhất là: 「念彌陀佛所成行德可慶,故喜」“Niệm Mi Đà Phật sở thành hạnh đức khả khánh, cố hỷ”(Niệm hạnh đức
đáng vui mừng được thành tựu bởi đức Phật Mi Đà, nên hoan hỷ), niệm hạnh đức
thành tựu của A Mi Đà Phật, đáng được vui mừng. Sự việc này, hoàn toàn thấy được
ở trên thân: của lão Hoà thượng Hải Hiền, quý vị đọc xem quyển sách nhỏ ấy, hoặc
là xem kỹ đĩa CD, thì quý vị có thể thấy được, người niệm Phật hoan hỷ. Có đồng
tu hỏi tôi, khi hoan hỷ [thì] niệm Phật, vậy khi khổ não thì làm thế nào? Gặp
phải sự việc khổ não, gặp phải sự việc tai nạn, thì buông xuống vạn duyên, nhất
tâm niệm Phật, niệm ra pháp hỷ của quý vị, khẳng định sẽ niệm ra được. Vì sao?
Hãy nhớ câu nói trong kinh, phải đưa vào sử dụng, thường xuyên thực hành, 「凡所有相,皆是虛妄」“phàm sở hữu tướng, giai thị hư vọng”(hễ gì có tướng, đều là hư vọng).
Tướng
này trong xã hội thiên biến vạn hoá, quý vị thấy được, quý vị nghe được, nhất định
phải biết được là hư vọng. Tướng đó ở nơi nào? Tướng đã qua rồi, quá khứ không
trở lại nữa. Hôm qua, có tìm lại được ngày hôm qua không? Buổi sáng, có thể tìm
lại được buổi sáng không? Không tìm lại được. Một phút một giây đi qua, toàn bộ
đã là quá khứ, quá khứ không trở lại nữa, quý vị còn nghĩ đến làm gì? Nghĩ A Mi
Đà Phật. Đến Thế giới Cực Lạc có thể thấy được quá khứ, mầu nhiệm! Ở bên chúng
ta đây không thấy được, vì sao vậy? Bởi bên chúng đây ta là A-lại-da, A-lại-da
là pháp sanh diệt, không thể quay trở lại. Đến Thế giới Cực Lạc, không sanh
không diệt, đến Thế giới Cực Lạc, không có thời gian không gian, vậy thì quý vị
có thể thấy quá khứ, cũng có thể thấy được tương lai. Thấy được quá khứ, quý vị
cũng sẽ không buồn phiền, nhiều nhất là thở dài một hơi, mê hoặc điên đảo. Đã
mê mới có thể làm sai việc, mới phải chịu ác báo, giác ngộ thì sẽ không vậy nữa.
Nên đừng cho là thật, nhất định phải giữ được thanh tịnh, bình đẳng, giác của
chính mình thì đúng rồi. Đó là người học Phật chân chánh. Tâm thanh tịnh, tâm
bình đẳng xử lý tất cả pháp, trong nhà Phật gọi là pháp, xử lý tất cả pháp, chắc
chắn không có sai lầm.
Từ
trong thanh tịnh bình đẳng giác, lưu xuất ra đại từ đại bi, đại bi là nhổ sạch
khổ của chúng sanh, là cứu khổ; đại từ là ban vui, làm an ổn những chúng sanh ấy.
Làm sao để an ổn? Phật dùng cách nào để an ổn? Dạy học, trên kinh Đại thừa thường
tán thán: 「今現在說法」“Kim hiện tại thuyết pháp”(Nay đang
thị hiện thuyết pháp), thuyết pháp thì có thể giải quyết vấn đề, thuyết
pháp giúp chúng sanh phá mê khai ngộ, khi họ giác ngộ thì họ liền quay đầu. Chư
Phật, Bồ-tát, A-la-hán, quý ngài chứng được quả vị đó, vì sao? Bởi chính là vì
người diễn nói, chính mình đã làm sáng tỏ, làm minh bạch, khuyên bảo người
khác. Đệ tử Phật phải giống với Phật, khuyên nhủ chúng sanh chính là nghĩa vụ của
chúng ta, là trách nhiệm của chúng ta. Chúng ta muốn khuyên người khác thì đầu
tiên mình làm rõ ràng, chính mình vẫn còn nghi hoặc thì không thể dạy người thật
tin; Chính mình không còn nghi nữa, mới dạy được người thật tin, thật sự phát
nguyện vãng sanh.
Vãng
sanh Thế giới Cực Lạc để làm gì? Để chứng được quả vị Vô thượng Bồ-đề. Chứng đắc
Vô thuợng Bồ-đề là vì điều gì? Vì giúp đỡ chúng sanh quay đầu, giúp đỡ chúng
sanh thành tựu, quay về đến nguyện thứ nhất của Tứ Hoằng Thệ Nguyện: 「眾生無邊誓願度」“Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ”, làm sự việc này. Làm việc này rất
tự nhiên, làm rất vui vẻ, tất cả chúng sanh đều vãng sanh Thế giới Cực Lạc, ở
Thế giới Cực Lạc tu hành chứng quả thành Phật, quý ngài lại đến mười phương thế
giới rộng độ chúng sanh, chúng ta thấy được hoan hỷ. Có thể hoan hỷ, nhưng
trong hoan hỷ không có Khởi tâm Động niệm, không có Phân biệt Chấp trước, đó
chính là “duyệt dự thanh tịnh”. Duyệt dự thanh tịnh là pháp hỷ sung mãn, không
có ô nhiễm, không như pháp thế gian, pháp thế gian, trong vui vẻ của họ có ô
nhiễm, bởi họ chưa buông xuống; Họ có Ngã ái, họ có Ngã mạn, họ có Ngã si, những
điều này đều là ô nhiễm, không thanh tịnh. Chúng ta phải học sự từ bi của Phật,
phải học hoằng nguyện của Phật, còn phải học duyệt dự thanh tịnh của Phật, vậy
thì đúng rồi.
Sự
việc hạnh phúc nhất của đời người là gì? Có rất nhiều người đến khuyên tôi, bảo
tôi giảng ít một chút, 88 tuổi rồi, một tuần giảng một lần là được rồi, thì không coi là ít, tại sao mỗi ngày vẫn
phải giảng bốn giờ? Vì sao? Bởi duyệt dự thanh tịnh, hạnh phúc không gì bằng. Không
giảng thì chính mình hạnh phúc, giảng rồi thì mọi người hạnh phúc, mọi người hạnh
phúc thì chính mình càng hạnh phúc. Trong Tứ Vô ngại Biện tài thì cuối cùng là 「樂說無礙」“nhạo thuyết vô ngại”, hoan hỷ nói, giảng
rồi thì hoan hỷ, không giảng không hoan hỷ. Càng giảng càng có tinh thần, càng
nói càng có sức khoẻ, đây chính là thông thường nói là được Tam Bảo gia trì, đây
là thật, không phải là giả. Được chúng thần gia trì, được chúng linh gia trì, chúng
ta đã trở thành một phiến với họ, bên trên với chư Phật Bồ-tát, bên dưới là với
chúng sanh của chín giới: thành một thể, thành một khối. Cho nên nói: hạnh đức
đáng vui mừng được thành tựu, rất hoan hỷ.
Ý
nghĩa thứ hai là: 「念眾生得益時至,故喜」“Niệm chúng sanh đắc ích thời chí, cố hỷ”(Nghĩ
đã đến lúc chúng sanh được lợi ích, nên hoan hỷ). Kinh này giảng ba điều
chân thật, Chân Thật chi tế, trí huệ Chân Thật, lợi ích Chân Thật, giảng kinh
thuyết pháp giúp chúng sanh phá mê khai ngộ, được lợi ích Chân Thật. Trong Kinh
Phạm Võng nói với chúng ta, Giới trọng, điều thứ nhất, 「不作國賊」“bất tác quốc tặc”(không làm quốc tặc). Tặc nghĩa là gì? Là đạo tặc, công khai là
cướp, che giấu là trộm, đó là làm cho chúng sanh bị tổn thất. Không làm đạo tặc.
Điều thứ hai 「不謗國主」“bất báng quốc chủ”(không phỉ báng
quốc chủ). Cho dù quốc chủ không thiện, cũng không nên phê bình họ, vì sao?
Bởi phê bình họ sẽ dẫn đến xã hội động loạn, khiến đại chúng xã hội đều chịu khổ,
việc này có lỗi lầm. Trong Giới Anh Lạc có hai điều, hình như không phải Giới
Anh Lạc. 「不漏國稅,不犯國制」“Bất lậu quốc thuế, bất phạm quốc chế”(Không
trốn thuế quốc gia, không phạm quốc chế), quốc chế là luật pháp của quốc
gia. Đệ tử nhà Phật chịu một chút oan ức không sao cả, tu Nhẫn nhục Ba-la-mật, không
cần minh oan, không có oán giận. Gặp được thiện duyên không tham luyến, gặp phải
ác duyên không sân giận, đều là đang tu chính mình, thiện duyên, ác duyên đều
là tốt. Không có những cảnh duyên đó, thì tâm thanh tịnh, tâm bình đẳng của
chúng ta, tu từ nơi nào? Đó chính là với cảnh giới bên ngoài, chúng ta thấy rất
rõ ràng, nghe rất sáng tỏ, đây là trí huệ, phải như như bất động, vĩnh viễn duy
trì ở trong Giới Định Huệ, Giới Định Huệ nhìn mọi thứ thấy rất thông suốt, rõ ràng
sáng tỏ tất cả. Giúp đỡ xã hội này, Phật Bồ-tát dùng phương pháp gì? Dùng giảng
kinh dạy học, không thu học phí, dạy học nghĩa vụ, dạy tốt tất cả mọi người. Dạy
tốt toàn bộ, thì thiên hạ sẽ thái bình, xã hội sẽ an định, nhân dân sẽ hạnh
phúc. Phật pháp Đại thừa, nơi nào có duyên thì đến nơi đó, có duyên, xây dựng đạo
tràng, giáo hoá chúng sanh; Không có duyên, thì đến trong núi sâu để thanh tu, thành
tựu chính mình. Thật sự là tiến thì có thể lợi ích thiên hạ, thoái thì có thể độc
thiện kỳ thân, bất luận là tiến hay thoái, vĩnh viễn giữ vững thanh tịnh bình đẳng
giác, điều này quá quan trọng. Năm chữ thanh tịnh bình đẳng giác này, bỏ mất một
chữ thì sai rồi, vậy thì chẳng phải học Phật, không phải Đệ tử Phật, chẳng phải
Đệ tử của đức Mi Đà. Đệ tử Phật, Đệ tử đức Mi Đà, sao có thể bỏ mất thanh tịnh
bình đẳng giác? Phải học được mọi lúc đều chưa từng bỏ mất. Đó là người thật tu
hành.
Sanh
tử là giả, không phải thật. Ở thế gian này, mọi người sống khổ như vậy, quý vị
muốn hỏi chính tôi, nếu tôi không nghĩ cho người khác, mà nghĩ cho chính mình, nếu
tôi nghĩ cho chính mình, thì tôi liền cầu A Mi Đà Phật: bây giờ dẫn tôi đến Thế
giới Cực Lạc; Tôi đều không có chút tham luyến: đối với thế gian này. Tôi sớm đến Thế giới
Cực Lạc sớm thành Phật, rồi trở lại giáo hoá chúng sanh, thân phận khác nhau,
đó là Bồ-tát, là người tái lai. Vì sao trụ ở thế gian này? Bởi vẫn có người muốn
nghe kinh, vậy thì còn duyên; Người thế gian này đều không muốn nghe kinh nữa, là
không còn duyên, vậy thì tôi đi sớm thôi. Chúng ta giảng kinh dùng Internet,
dùng truyền hình, giảng kinh ở trong phòng thu hình, phòng thu hình bình thường
không có người nghe, chính tôi đối diện màn hình, tự giảng cho mình nghe, hạnh
phúc không gì bằng. Có người thu xem, đó là người có duyên, họ mỗi ngày đến giờ,
họ sẽ bấm nút đó, mở tivi, đó là người có duyên. Tôi không biết: tóm lại có bao
nhiêu người thu xem, trước giờ tôi cũng không để việc này trong tâm, tôi chỉ biết
có người xem, có người xem thì tôi sẽ giảng.
Năm
nay, ngoài giảng kinh ra, còn có chút biến động nhỏ, có lớp học tập, chia sẻ với
đồng học các nơi: về kinh nghiệm trên con đường tu học của chính mình, cảm tưởng
của chính mình, lĩnh ngộ của chính mình. Sự giao lưu này, giống như Lợi ích
Chân Thật được nói trên kinh, pháp hỷ sung mãn. Cho nên năm nay chúng ta đã bắt
đầu, chúng ta học bộ Kinh này, lại đem ý nghĩa trọng điểm trong Kinh: giảng rõ
ràng, giảng sáng tỏ, giảng thấu triệt; Quan trọng hơn nữa là: làm sao thực tiễn trong sinh hoạt, thực
hiện trong công việc, áp dụng trong xử sự đối người tiếp vật, được lợi ích chân
thật, trí huệ chân thật, không phải chỉ là tôi giảng quý vị nghe, mà sau khi
quý vị nghe phải chia sẻ với tôi.
Sở
dĩ đức Phật có thể hoan hỷ, [là do] duyên của chúng sanh đã chín muồi, vì sao? Bởi
họ có thể tiếp nhận, họ có thể tin, họ chịu phát nguyện cầu sanh Thế giới Cực Lạc,
thân cận A Mi Đà Phật. Đức Thế Tôn giảng bộ Kinh này, giống như giúp A Mi Đà Phật
tuyển sinh, Ngài chiêu sinh ở khu vực Thế giới Ta Bà này, cử mọi người đến Thế
giới Cực Lạc; A Mi Đà Phật ở Thế giới Cực Lạc nghinh tiếp, những người vãng
sanh đó liền chứng được A-duy-việt-trí, một đời thành tựu quả vị cứu cánh. Đại
sự hoằng pháp lợi sanh hoan hỷ bậc nhất của Phật, duyên này đã chín muồi.
Đoạn
tiếp theo đây: 『光顏巍巍』“Quang nhan nguy nguy”(Quang nhan
rực rỡ tối thắng). 「光」‘Quang’ là quang minh, 「顏」‘nhan’ là dung mạo. Trong Vô Lượng Thọ Kinh
Tiên Chú nói: 「佛之顏有光,故云光顏」“Phật chi nhan hữu quang, cố vân quang
nhan”(Tướng mạo của Phật có quang minh, nên nói là quang nhan). Vô
Lượng Thọ Kinh Tiên Chú là của ngài Đinh Phước Bảo, do Cư sĩ Đinh Phước Bảo là bậc
Đại đức của nhà Phật: trong những năm đầu Dân Quốc, ngài làm ra. Bản mà ngài y
theo, là Tiết bản Kinh Vô Lượng Thọ: của ngài Cư sĩ Bành Thiệu Thăng triều nhà
Thanh, ngài dùng bản đó. Trước đây, tôi đã đọc qua sách này, sách đóng buộc chỉ,
có thể sách này ở Australia, đã rất lâu tôi không giở ra xem. Đoạn chú giải này
của Cư sĩ Đinh Phúc Bảo. 「巍巍者,高大尊勝」“Nguy nguy giả, cao đại tôn thắng”(Nguy
nguy: là cao lớn tôn nghiêm thù thắng), có ý nghĩa của bốn chữ này, đang hết
sức khen ngợi A Mi Đà Phật. Tiếp theo, Niệm lão trích dẫn Sớ của Đại sư Gia Tường,
「巍巍言德盛高顯也」“Nguy nguy ngôn đức thịnh cao hiển dã”(Nguy
nguy là nói đức rất cao quý hiển hách). 「總表佛之德容,顯曜光明,超於一切」“Tổng biểu Phật chi đức dung, hiển diệu
quang minh, siêu ư nhất thiết”(Đều biểu thị đức dung của Phật, quang
minh chiếu sáng, vượt hơn tất cả). Đây là lúc đó đức Thế Tôn lên toà giảng
kinh, khiến đại chúng thấy được dáng vẻ của đức Phật, hiển thị ra trí huệ chân
thật, quang minh là trí huệ, nguy nguy là đức dung, đạo đức của Ngài, đạo đức
cao rộng. Tự nhiên mà sanh tâm cung kính đối với đức Phật, vậy thì có thể nghe
pháp. Cho nên trước khi đức Phật giảng kinh thì phóng quang hiện tướng lành, vì
sao? Bởi không phải phô trương chính mình, mà là để dẫn phát ra tâm chân thành,
tâm cung kính của thính chúng. Học trò không có tâm cung kính, không có tâm
chân thành, dù thầy là Phật, mà giảng kinh thuyết pháp cho họ, thì họ cũng
không đạt được lợi ích, họ đạt được là bề ngoài. Thậm chí họ còn có ý kiến trái
lại với Ngài, họ đem những điều của thế tục, đem đến để so sánh với Phật, vậy
thì sai lầm, vào thời đại hiện nay thật có [như thế].
Thời
xưa được dạy từ nhỏ, có gốc của đạo đức, cho nên đối với người có đạo đức: đều
vẫn có tâm tôn kính, cho dù họ có chút khuyết điểm nhỏ, cũng không đến mức phê
bình họ, tại sao? Bởi muốn khiến cho người nghe sanh tâm hoan hỷ, sanh tâm cung
kính đối với họ. Nếu một khi quý vị nói, trong đó có người thiện căn mỏng, họ vừa
nghe, [thấy] có đạo lý, thì tâm cung kính đối với người giảng đã giảm bớt; Nói
cách khác, biết đâu họ có thể khai ngộ ở trong toà giảng kinh này, nhưng vì
nguyên nhân đó, mà không còn cơ hội khai ngộ nữa. Đó là đã huỷ hoại Pháp thân
Huệ mạng của người ta, phải gánh trách nhiệm nhân quả. Người hiện nay không tin
nhân quả, vậy thì không còn cách nào. Đó là vấn đề khó khăn nhất của việc hoằng
dương Thánh giáo: trong xã hội ngày nay, chính là không sanh khởi tâm cung
kính. Điều này không chỉ là đối với Phật pháp, mà đối với giáo dục của Thánh hiền.
Giáo dục của Thánh hiền: bao gồm kinh điển của tất cả Tôn giáo, còn bao hàm
pháp thế gian của chúng ta. Nước ta có Thánh nhân thế gian, có Hiền nhân thế
gian, Thánh hiền thế gian có khai ngộ không? Có, có Đại ngộ, có Tiểu ngộ, chưa
có Triệt ngộ. Nếu là Triệt ngộ thì quý ngài đã thành Phật, Triệt ngộ là Minh
tâm Kiến tánh. Quả thật quý ngài có kiến giải rất cao minh, nhìn rất sâu, thể hội
rất sâu, rất rộng, người thông thường chúng ta không thấy được, quý ngài đã thấy
được. Người như vậy, thời đại nào cũng có, có lợi ích lớn đối với hậu học chúng
ta.
Chúng
ta nhất định phải biết, những điều hay của cổ Thánh tiên Hiền để lại: tương ưng
với Tánh đức, tận thiện tận mỹ, toàn là tinh hoa, không có cặn bã. Cặn bã, thì 5000
năm sớm đã đào thải hết rồi, còn đợi đến hiện nay sao? Nếu cặn bã mà truyền được
5000 năm, thì đó là tinh hoa, không phải là cặn bã, chúng ta phải cần hiểu đạo
lý này. Nào có đạo lý: cặn bã lưu truyền được 5000 năm? Trong 5000 năm, cũng không
có người có trí huệ, có tầm nhìn xa nhìn thấu được hay sao? Không thể có việc
đó. Khả năng có một chút, chính là những điều mà cổ nhân dạy: có chút đối lập với
Khoa học hiện đại, người thời xưa gọi là nghiêm ngặt, người hiện nay cởi mở, người
hiện nay ưa chuộng tự do, giáo huấn xưa nay của nước ta quản thúc chính mình, đó
là sự thật. So sánh hai điều này thì điều nào tốt? Vẫn là điều của cổ nhân tốt,
không phát sinh việc, thật sự có thể bảo vệ chính mình, có thể mang đến sự an định
hài hoà cho xã hội. Tự do cởi mở đem lại là gì? Cạnh tranh, đấu tranh, chiến tranh. Xem từ phương diện này, thì quý vị sẽ thể hội được những điều tốt của người
xưa, có đạo lý, có thể tránh khỏi những tai nạn này, giảm thiểu thiên tai nhân
hoạ. Đây mới gọi là cao, mới gọi là đại, mới gọi là tôn, mới gọi là Thánh. Tại
sao người hiện nay không nhìn thấy? Chúng ta có thể lý giải, bởi tâm tình nông
nổi, họ chỉ thấy được bề ngoài, không thấy được độ sâu. Tôi giữ được chút quy củ,
tôi có thể hy sinh một chút lợi ích, đem lại sự an định cho xã hội, mang đến sự
hài hoà cho quốc gia, mang đến thế giới đại đồng, có giá trị, có ý nghĩa, thật
đáng giá!
Đức
Phật ở đời, dù gặp phải người khác xâm lược quốc gia dân tộc, Ngài cũng không
dùng vũ lực chống lại, cũng không cần trả thù, ý nghĩa trong đó sâu. Vì sao
không báo thù? Bởi có quan hệ nhân quả ở trong. Ngài biết Vua Lưu Ly diệt tộc
Thích Ca, ngài biết nhân trước quả sau, Ngài thấy được nhân lúc trước, ngày nay
nhất định phải nhận lấy quả báo. Không tiếp nhận thì thế nào? Thì đời sau càng
nghiêm trọng, vẫn phải chịu, oan gia nên giải không nên kết. Sau khi nhận chịu
lại khuyên bảo, dần dần đã giác ngộ, hiểu rõ, thì đôi bên đều sám hối, khôi phục
đến hài hoà, khôi phục đến hỗ trợ hợp tác, vậy mới là thật sự giải quyết vấn đề.
Giải quyết vấn đề không phải ở một đời, mà đời đời kiếp kiếp. Người hiện nay
không tin đời đời kiếp kiếp, người thời nay chỉ tin một đời này, không tin có đời
sau, việc này phiền phức. Làm sao bảo người hiện nay: thật sự biết có đời sau? Người
xưa đều tin tưởng, trong Lục kinh của nước ta đều có ghi chép. Quý vị hỏi tôi
có tin tưởng có đời sau không? Tôi tin, tôi thật sự tin, tôi một chút cũng
không nghi ngờ.
Đạo
gia giảng rất nhiều đối với sự việc này, giảng nhiều hơn Phật giáo, so với Phật
giáo còn rõ ràng hơn, còn thấu triệt hơn. Đức Phật cũng đã giảng, rải rác trong
tất cả kinh, chúng tôi đã từng mất một chút thời gian: tra Đại Tạng Kinh, giảng
về sự việc quả báo của Địa ngục. Đem những đoạn có liên quan đến [địa ngục]: ở trong
Đại Tạng Kinh, chép lại toàn bộ, biên soạn thành một cuốn sách tên: Chư Kinh Phật
Thuyết Địa Ngục Tập Yếu, kiết tập lại biên soạn thành một quyển như vậy, nói rất
hay. Đạo gia nói về quả rất nhiều, còn một số nhân thì chưa được nói rõ ràng, trên
kinh đức Phật giảng rất sáng tỏ về nhân, hợp lại để xem, hợp lại với Đạo Tạng để
xem, thì tin tưởng thôi. Làm rõ ràng Lý, thì nhất định có Sự, không thể tách rời
Lý và Sự, có Lý chắc chắn có Sự, có Sự nhất định có Lý.
Cho
nên, câu cuối cùng này, 「總表佛之德容,顯曜光明,超於一切」“tổng biểu Phật chi đức dung, hiển diệu
quang minh, siêu ư nhất thiết”(đều biểu thị đức dung của Phật, quang
minh chiếu sáng, vượt hơn tất cả). Mọi người, tín tâm của những thính chúng
ấy đối với đức Phật đã viên mãn đầy đủ, cơ duyên giảng kinh đã chín muồi, đức
Phật rất là hoan hỷ giới thiệu cho chúng ta: về Thế giới Tây Phương Cực Lạc, chính
là bộ Đại Kinh này. Thời gian hôm nay hết rồi, chúng ta chỉ học tập đến đây
thôi.
(Hết tập 123)
Nguyện đem công đức này
Hướng về khắp tất cả
Đệ tử cùng chúng sanh
Đều sanh nước Cực Lạc
Sớm viên thành Phật quả
Rộng độ khắp chúng sanh.
Nam Mô A Mi Đà Phật.