TỊNH ĐỘ ĐẠI KINH KHOA CHÚ 2014 (Giảng lần thứ 4)
PHẨM 6: PHÁT ĐẠI THỆ NGUYỆN
Phát Thệ Nguyện Rộng Lớn Tập 174
Hòa thượng Tịnh Không chủ giảng.
Giảng tại: Hiệp Hội Giáo Dục Phật Đà Hồng
Kông.
Thời gian: Ngày 1 tháng 2 năm 2015.
Dịch giả: Diệu Hiệp.
Kính chào chư vị Pháp
sư, chư vị đồng học, mời an tọa, mời an tọa. Thỉnh mọi người cùng tôi quy y tam
Bảo:
A-xà-lê tồn niệm,
ngã đệ tử Diệu Âm, thỉ tùng kim nhật, nãi chí mạng tồn, quy y Phật Đà, lưỡng
túc trung tôn, quy y Đạt Ma, ly dục trung tôn, quy y Tăng Già, chư chúng trung
tôn. (3 lần)
Mời xem Đại Kinh Khoa
Chú, trang 452, đếm ngược đến hàng thứ ba, khoa đề 八、天耳通願 “Bát, thiên-nhĩ-thông
nguyện” (Nguyện thứ tám: Nguyện
thiên-nhĩ-thông). Nguyện thứ tám trong 48 nguyện, thiên-nhĩ-thông:
【徹聽。】“Triệt thính” (Nghe thấu)
Đây chính là thiên nhĩ,
hai câu phía sau:
【知十方去來現在之事。不得是願。不取正覺。】 “Tri thập
phương khứ lai hiện tại chi sự, bất đắc thị nguyện, bất thủ Chánh-giác” (Biết được việc của quá khứ, hiện tại, vị lai trong
mười phương, nếu không được như nguyện, thì không giữ ngôi Chánh-giác).
Đoạn này bao hàm tất cả
thiên nhãn ở nguyện trước trong đây. Chúng ta xem chú giải của Niệm lão: 徹聽,知十方去來現在之事 “Triệt thính, tri thập
phương khứ lai hiện tại chi sự” (Nghe thấu là biết được
việc của quá khứ, hiện tại, vị lai khắp mười phương). “Triệt” nghĩa là thông
suốt, nghĩa là sáng tỏ, hiểu rõ rồi, tường tận rồi. “Mười phương” là không
gian, bốn phương, bốn góc, trên dưới, đây gọi là mười phương. 去來現在,即過去、未來,與現在,指時間。去承上宿命通願。指知十方過去無量劫中,宿命所作善惡之事,悉皆洞視徹聽 “Khứ
lai hiện tại, tức quá khứ, vị lai, dữ hiện tại, chỉ thời gian. Khứ thừa thượng
túc-mạng-thông nguyện. Chỉ tri thập phương quá khứ vô lượng kiếp trung, túc mạng
sở tác thiện ác chi sự, tất giai đỗng thị triệt thính” (Khứ
lai hiện tại, tức là quá khứ, vị lai và hiện tại, đây là chỉ thời gian. Nối tiếp
nguyện túc-mạng-thông ở trên. Chỉ ra sở dĩ biết được việc thiện ác của túc mạng
trong vô lượng kiếp quá khứ trong mười phương, hết thảy đều do nhìn thấu, nghe
thấu). Đây là nói đến các vị Bồ-tát vãng sanh đến thế giới Cực Lạc, các Ngài
đến thế giới Tây Phương Cực Lạc, liền được bổn nguyện oai thần của A Di Đà Phật
gia trì, bổn nguyện này chính là 48 nguyện; hay nói cách khác, những điều trong
48 nguyện, các Ngài đều đạt được rồi, việc này vô cùng thù thắng. Những điều
này đều là bản năng của Tự-tánh, nhất định phải nhờ vào tu định mới có thể khôi
phục bình thường, thời gian tu định phải rất dài. Nếu như y theo những lời
trong kinh này, các việc thiện ác đã làm trong mười phương ba đời, chẳng có việc
gì không biết, đây là nhìn thấu nghe thấu.
Câu nói sau đây của Niệm lão, 以下言知十方未來與現在之事。則第七天眼通願,與第八天耳通願 “Dĩ hạ ngôn tri thập phương vị lai dữ hiện tại
chi sự. Tắc đệ thất thiên-nhãn-thông nguyện, dữ đệ bát thiên-nhĩ-thông nguyện” (Câu
nói: Biết việc của vị lai và hiện tại trong mười phương là nguyện thứ bảy: Nguyện
thiên-nhãn-thông và nguyện thứ tám: Nguyện thiên-nhĩ-thông). Điều này phải là Pháp-thân Bồ-tát mới có thể
chứng được, Pháp-thân Bồ-tát chính là đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh mà
chúng ta thường nói, mới có khả năng này. Đây là một việc không dễ chút nào, tu
hành ở thế gian này phải thông qua tứ thiền bát định, đến định thứ chín mới có
thể thoát khỏi lục đạo luân hồi, vãng sanh đến Tứ-thánh pháp-giới, Thanh-văn, thăng
cấp lên cao, là Duyên-giác, Bồ-tát, Phật, tầng trên khó hơn tầng
dưới, thời gian của tầng trên dài hơn tầng dưới, thật là đến năm nào đây! Tính bằng năm không được, năm quá ngắn rồi, phải tính kiếp
nào quý vị mới có thể tu thành công? Nhưng người niệm Phật vãng sanh Tịnh-độ, một đời thì họ đạt được rồi. Có phải họ tu được không? Không phải,
là bổn nguyện oai thần của A Di Đà Phật gia trì cho họ, họ đạt được rồi. Quý vị xem, 不得是願,不取正覺 “bất đắc thị nguyện, bất thủ Chánh-giác” (nếu không
được như nguyện, thì không giữ ngôi Chánh-giác), A Di Đà Phật, Chánh-giác
chính là thành Phật, Ngài thành Phật ở Thế giới Cực Lạc rồi; nói một cách khác,
48 nguyện, nguyện nguyện Ngài đều đã thực
hiện. Chúng ta phải tin tưởng điều này, chúng ta nhất định không được nghi ngờ. Chúng
ta cầu sanh thế giới Cực Lạc cũng chẳng qua là dùng thời gian mấy năm, thời
gian mấy mươi năm, vãng sanh đến thế giới Cực Lạc thì có thể đạt được. Vì sao vậy?
Bởi vì năng lực này là Tự-tánh vốn đầy đủ, chẳng qua là chúng ta bị mê hoặc tạm thời, nó không khởi tác dụng, không
phải là không có, nó có, chỉ là không khởi tác dụng.
A Di Đà Phật có năng lực, có bản lĩnh này, có thể giúp chúng ta mau chóng khôi
phục, đây cũng là lý do vì sao Bồ-tát trong mười phương, đặc biệt là chúng sanh
trong lục đạo phải niệm Phật cầu sanh Tịnh-độ, đạo lý là ở chỗ này.
Ở thế giới Cực Lạc khôi phục bản năng của
chính mình dễ như trở bàn tay, đặc biệt là chuyển thức thành trí, chuyển tám thức
thành bốn trí, quá nhanh rồi, nhanh đến mức người khác không dám tin, cho nên Pháp
môn này đã trở thành pháp khó tin. Hy vọng đồng
học chúng ta đối với Pháp môn này trước tiên là tin Phật, Thích Ca Mâu Ni Phật,
A Di Đà Phật, tất cả chư Phật, Phật Bồ-tát tuyệt đối không vọng ngữ, Phật Bồ-tát
tuyệt đối không gạt người. Nếu chúng ta nghi ngờ pháp này, thì chính là không đủ thiện căn, phước đức; không có chút
nghi ngờ đối với pháp này, đó chính là đầy đủ thiện căn, phước đức rồi. Vãng
sanh thế giới Tây Phương Cực Lạc, trong Kinh A Di Đà, Thích Ca Mâu Ni Phật đã
nói rất rõ, người vãng sanh phải đầy đủ những điều kiện nào? Trong kinh có câu
nói rất rõ ràng: 不可以少善根福德因緣,得生彼國 “Bất khả dĩ thiểu thiện căn, phước đức, nhân
duyên, đắc sanh bỉ quốc” (Không thể dùng chút ít thiện căn, phước đức,
nhân duyên mà được sanh về cõi nước ấy); hay nói cách khác, vãng sanh thế
giới Cực Lạc phải có nhiều thiện căn, nhiều phước đức, nhiều nhân duyên. Nhiều
thiện căn là gì? Tín, thật sự tin, người này có thiện căn. Phước đức là gì? Muốn
vãng sanh, tôi mong muốn đến thế giới Cực Lạc để thân cận A Di Đà Phật. Phước
báo của người này hiện tiền rồi, là đại phước báo! Ở thế giới này của chúng ta,
phước báo ở nhân gian và cõi trời đều không thể sánh bằng các Ngài, các Ngài đến thế giới Cực Lạc làm đệ tử của A Di Đà Phật. Đệ tử của đức Di Đà được tất cả chư Phật Như Lai mười
phương tôn trọng, vừa thấy là đệ tử của đức Di Đà, có vài phần kính trọng.
Vãng sanh đến thế giới Cực Lạc là A Duy Việt
Trí Bồ-tát, A Duy Việt Trí không phải bản thân các Ngài tu được, mà là bổn nguyện
oai thần của A Di Đà Phật gia trì, các Ngài liền đạt được. Sự gia trì này có
tác dụng, không phải không có tác dụng, không khác biệt với Pháp-thân Bồ-tát. Duyên phận, đó chính là chúng ta
có được thân người, gặp được Pháp môn này, lại gặp được Tịnh-tông, còn gặp được
bản hội tập của lão Cư sĩ Hạ Liên Cư, gặp được tập chú giải của lão Cư sĩ Hoàng
Niệm Tổ, đây là duyên. Chúng ta đầy đủ nhân duyên, vấn đề hiện nay chính là thiện
căn, phước đức của chúng ta. Tạm thời vẫn chưa muốn vãng sanh, trong tín tâm vẫn
còn có vài dấu chấm hỏi, như vậy là chúng ta không đủ thiện căn, phước đức. Có phương pháp nào bổ sung cho đủ không? Có, dũng mãnh tinh tấn, nghe kinh, niệm
Phật thì bổ sung đầy đủ rồi. Lợi ích lớn nhất của kinh điển
đối với chúng ta, chính là giúp chúng ta phá mê sanh tín, giúp chúng ta phát
nguyện cầu vãng sanh. Vì vậy chúng ta thật sự bắt
tay từ đọc kinh, đọc bộ kinh này ba ngàn lần, xem bộ chú giải này 30 lần, 50 lần
thì bổ sung đầy đủ rồi. Chắc chắn được nhất tâm chuyên chú, trong kinh nói: “Phát
tâm Bồ-đề, nhất hướng chuyên niệm”, vậy thì đời này của chúng ta được thành tựu.
Bây giờ chúng ta xem một đoạn chú giải dưới
đây: 經中徹聽十方未來現在之事,是第八天耳通願。又名天耳智通 “Kinh trung triệt thính thập phương vị lai hiện
tại chi sự, thị đệ bát thiên-nhĩ-thông nguyện. Hựu danh thiên-nhĩ-trí-thông” (Nghe
thấu chuyện của vị lai, hiện tại khắp mười phương trong kinh, là nguyện thứ tám:
Nguyện thiên-nhĩ-thông, còn gọi là thiên-nhĩ-trí-thông). Sáu loại thần
thông ở chỗ này đều có chữ trí, nói rõ định khôi phục bản năng, trí huệ liền hiện
tiền. Trí huệ là gì? Ở mắt là thấy, nhìn thấy rõ ràng sáng tỏ, tường tận thấu
suốt là trí; ở tai là nghe, nghe thấy rõ ràng, nghe thấy tường tận, cho nên
cũng gọi là thiên-nhĩ-trí-thông. 天耳,指色界諸天人之耳根,能聞六道眾生之語言 “Thiên nhĩ, chỉ Sắc-giới chư thiên nhân chi
nhĩ căn, năng văn lục đạo chúng sanh chi ngôn ngữ” (Thiên
nhĩ, chỉ nhĩ căn của người trời Sắc-giới, có thể nghe được ngôn ngữ của chúng
sanh trong lục đạo). Chú ý, thiên nhĩ này là chỉ người trời Sắc-giới, 18 tầng
trời, người trời ở Vô-sắc-giới không có hình tướng, quý vị
nghe không được, chứng tỏ Ngài không phải nói sáu tầng trời Dục-giới, sáu tầng
trời Dục-giới là quả báo có được, 18 tầng trời Sắc-giới là tu được, tứ thiền
bát định. Thiên-nhãn-thông, thiên-nhĩ-thông hiện tiền, khả năng của các Ngài có
thể nghe chúng sanh trong lục đạo, có thể thấy chúng sanh trong lục đạo. Lục đạo
từ 18 tầng trời Sắc-giới, cho đến địa ngục Vô-gián, đây chính là tất cả chúng
sanh trong lục đạo luân hồi. Tiếng nói của họ, quý vị đều có thể nghe được hết,
không chỉ có thể nghe được, mà quý vị còn nghe hiểu tất cả, quý vị không có chướng
ngại, họ nói về ý gì quý vị cũng hoàn toàn hiểu rõ. 及遠近粗細一切之音聲 “Cập viễn cận thô tế nhất thiết chi âm thanh” (Và tất
cả âm thanh xa, gần, lớn, nhỏ). Đây là nói về y-báo, ở trong môi trường sống, núi sông đất đai, hiện tượng tự nhiên, tất
cả âm thanh trong đây quý vị đều có thể nghe thấy.
Trong sách Hội Sớ nói: 天耳通者,能聞一切障內障外,苦樂憂喜,語言音聲 “Thiên-nhĩ-thông
giả, năng văn nhất thiết chướng nội chướng ngoại, khổ lạc ưu hỷ, ngữ ngôn âm
thanh” (Thiên-nhĩ-thông
nghe được tất cả
tiếng nói, âm thanh chướng nội chướng ngoại, khổ vui lo mừng), không có chướng ngại. Chúng ta có chướng ngại,
các Ngài không có chướng ngại, phạm vi của các Ngài là toàn bộ lục đạo luân hồi.
此願《魏譯》文為,國中天人,不得天耳,下至聞百千億那由他諸佛所說,不悉受持者,不取正覺 “Thử nguyện Ngụy Dịch văn vi: Quốc trung
thiên nhân, bất đắc thiên nhĩ, hạ chí văn bá thiên ức na-do-tha chư Phật sở
thuyết, bất tất thọ trì giả, bất thủ Chánh-giác” (Nguyện
này, văn của bản Ngụy Dịch nói rằng: Trời người trong
cõi nước, không được thiên nhĩ, tối thiểu là
nghe được những lời thuyết pháp của trăm ngàn ức na-do-tha chư Phật, nếu chẳng được thọ trì tất cả,
thì không giữ ngôi Chánh-giác). Văn của bản Ngụy Dịch nhiều hơn vài chữ so với bản hội tập, để chúng ta thấy rõ ràng hơn. Nhưng
bản hội tập cũng hội tập rất tốt, lời giản dị nhưng ý sâu xa, dùng câu chữ ít,
ý nghĩa rất hoàn chỉnh. Trời người ở thế giới Cực
Lạc có thiên-nhĩ-thông, khả năng của các Ngài tối thiểu là nghe được những lời thuyết pháp của trăm
ngàn ức na-do-tha chư Phật. Câu này nói rõ, người ở thế giới Tây Phương Cực Lạc,
các Ngài thường xuyên phân thân, hóa thân đến tất cả cõi
nước của chư Phật mười phương để cúng Phật, cúng Phật là tu phước, nghe kinh nghe pháp là tu huệ, ở cõi ấy là nghe Phật thuyết pháp, phước huệ song tu. Bản thân các Ngài không rời khỏi thế giới Cực Lạc, không rời
khỏi A Di Đà Phật, luôn ở bên cạnh
A Di Đà Phật.
Vậy chúng ta sẽ nghi ngờ, chỉ có một mình A Di Đà Phật, mỗi ngày có bao nhiêu người vãng sanh đến thế giới Cực Lạc?
Thật sự không thể tính đếm, quá nhiều quá nhiều rồi. Quý vị xem, nói đến cõi nước
chư Phật đều nói trăm ngàn ức na-do-tha cõi nước chư Phật, trong cõi nước của vị
Phật này, một ngày có bao nhiêu người vãng sanh? Trái đất này của chúng ta
không nhiều, nhưng hết thảy hệ Ngân Hà thì nhiều rồi. Một hệ Ngân Hà là một tiểu
thế giới, phạm vi không lớn, trong tiểu thế giới này của chúng ta, xem như là một
châu lục, trái đất, Nam Thiệm Bộ châu, Nam Thiệm Bộ châu chính là trái đất. Quý
vị sẽ nghĩ người
vãng sanh từ trái đất có bao nhiêu? Không nhiều, vậy người vãng sanh từ hệ Mặt
Trời, người vãng sanh từ hệ Ngân Hà, hệ Ngân Hà là một đơn vị, đơn vị thế giới,
khu vực giáo hóa của Thích Ca Mâu Ni Phật là một tỷ hệ Ngân Hà, chúng ta phải
biết điều này. Tam thiên đại thiên thế giới, hệ Ngân Hà là đơn vị thế giới, một
ngàn hệ Ngân Hà là một tiểu thiên thế giới; lại lấy tiểu thiên thế giới làm đơn
vị, tập hợp một ngàn tiểu thiên thế giới gọi là một trung thiên thế giới, một đại
thiên thế giới có tiểu thiên, trung thiên, đại thiên, gọi là tam thiên đại
thiên thế giới. Tam thiên đại thiên thế giới, trên thực tế là một đại thiên thế
giới, có bao nhiêu hệ Ngân Hà? Một ngàn nhân một ngàn lại nhân một ngàn, là một
tỷ, một tỷ hệ Ngân Hà, là khu vực giáo hóa của Thích Ca Mâu Ni Phật. Chúng sanh
trong khu vực giáo hóa này, chúng sanh niệm Phật vãng sanh thế giới Cực Lạc, số
người quá nhiều rồi. Một vị Phật đã đếm không hết, vậy trong vô lượng vô biên
cõi nước chư Phật, cho nên quý vị nghĩ thử xem, thật sự là vô lượng vô tận vô số,
chúng ta không thể nào tưởng tượng nổi, gọi là không thể nghĩ bàn.
Nhiều người đến thế giới
Tây Phương Cực Lạc như vậy, sau đó quý vị lại nghĩ thử xem, mỗi người đến thế
giới Cực Lạc, đều cần A Di Đà Phật đi tiếp dẫn họ, nếu không có A Di Đà Phật tiếp
dẫn, thì quý vị không biết thế giới Cực Lạc ở đâu. Vậy thì A Di Đà Phật từng thời
từng khắc, chúng ta nói mỗi phút mỗi giây, Ngài đều biến hóa phân thân vô lượng
vô biên, làm gì vậy? Đi tiếp dẫn người vãng sanh. Chúng ta đến thế giới Cực Lạc
rồi, chúng ta ở đại giảng đường của A Di Đà Phật nghe Ngài giảng kinh thuyết
pháp; đồng thời Ngài phân thân vô lượng vô biên, đến tất cả cõi nước của chư Phật
để tiếp dẫn người vãng sanh. Chúng ta đọc kinh phải lưu ý những chỗ này, vì sao
vậy? Ngoảnh lại suy nghĩ một chút, chúng ta ở bên cạnh A Di Đà Phật, được bổn
nguyện oai thần của A Di Đà Phật gia trì, khả năng sáu loại thần thông của
chúng ta không khác với Phật mấy, lúc đó, chúng ta nhất định cũng phân vô lượng
vô biên thân, A Di Đà Phật phân thân đi tiếp dẫn chúng sanh, chúng ta phân thân
đến mười phương thế giới để cúng Phật nghe pháp, bản thân không rời khỏi đức Di
Đà. Đây là một niềm vui, phước huệ song tu, đây là một chuyện vui biết bao! Hoàn
thành ở thế giới Cực Lạc. Sau đó thì nghĩ vì sao ở thế giới Cực Lạc thành tựu
nhanh như vậy? Bởi không chỉ là đức Di Đà giáo huấn, đích thân giáo huấn, đồng
thời tiếp nhận lời giáo huấn của tất cả chư Phật Như Lai trong mười phương. Có
thể không đi đến cõi ấy sao? Có thể không tin cõi ấy sao? Thật sự hiểu rõ, hiểu
thấu suốt, khẳng định quý vị hạ quyết tâm, tôi nhất định phải vãng sanh, tôi phải
đi ngay bây giờ, tôi không muốn chậm trễ nữa.
Bây giờ đi được mà quý vị
vẫn chưa đi, vậy thì giống như lão Hòa thượng Hải Hiền, nhất định được A Di Đà
Phật dặn dò, làm gì? Ở thế gian này thêm vài năm, làm một tấm gương tốt cho đệ
tử Phật xem, cho đệ tử Tịnh-tông xem. Ngoài lý do này ra, thì không còn lý do
nào khác. Tuy là thân ở thế gian này biểu pháp, nhưng trong tâm thật sự chỉ có
A Di Đà Phật, ngoài A Di Đà Phật ra, thì hết thảy đều buông xả, không còn chướng
ngại nữa. Tuy là ở nơi đây, nhưng bởi vì buông xả vạn duyên rồi, nên trên thực
tế thì cũng không còn chướng ngại nữa, những cản trở, chướng ngại gặp phải ở
đây, đó đều là biểu pháp, diễn kịch cho người thế gian xem, trên thực tế thì
chính mình không khác biệt gì với ở thế giới Cực Lạc.
Chúng ta xem tiếp, Niệm
lão lại trích dẫn từ bản Đường dịch, xem văn của bản Đường Dịch: 國中有情,不獲天耳,乃至不聞億那由他百千踰繕那外說法者,不取正覺 “Quốc trung hữu
tình, bất hoạch thiên nhĩ, nãi chí bất văn ức na-do-tha bá thiên du-thiện-na
ngoại thuyết pháp giả, bất thủ Chánh-giác” (Hữu tình trong cõi nước, nếu không được thiên nhĩ, thậm chí không nghe
lời thuyết pháp ngoài ức na-do-tha trăm ngàn du-thiện-na, thì không giữ ngôi Chánh-giác).
Du-thiện-na dịch là do-tuần, là đơn vị đo quãng đường ở Ấn Độ, có đại, trung,
tiểu. Hôm trước chúng ta đã học, đại-do-tuần có 80 dặm, trung-do-tuần 60 dặm, tiểu-do-tuần
40 dặm, không có nói trung, nói tiểu thì nhất định là đại, đại-do-tuần, một do-tuần
là 80 dặm. Lời thuyết pháp ngoài trăm ngàn du-thiện-na, thì không giữ ngôi Chánh-giác,
có thể nghe thấy, không cần đến tất cả cõi nước của chư Phật, cho dù ở thế giới
Cực Lạc cũng có thể nghe thấy, có thể nghe được, giống như hiện nay chúng ta xem
tivi, internet vậy. Phạm vi thu của chúng ta không lớn, vẫn chưa thể phổ biến
toàn cầu, mà chỉ là một cục bộ (một bộ phận) trên trái đất. Đến thế giới Tây
Phương Cực Lạc thì khả năng nhìn, khả năng nghe hoàn toàn không có chướng ngại,
đều nhìn thấy, đều nghe được tất cả cõi nước chư Phật mười phương. 準上可知 “Chuẩn thượng khả tri” (Như trên có thể biết), căn cứ những gì phần
trước nói thì chúng ta đã biết, 極樂天人之耳通,遠超二乘 “Cực Lạc thiên
nhân chi nhĩ thông, viễn siêu Nhị-thừa” (thiên-nhĩ-thông của trời người cõi Cực Lạc, vượt xa Nhị-thừa), A-la-hán,
Bích-chi-Phật đều không sánh bằng, kém quá xa rồi! 不但普聞十方音聲,且能聽無量諸佛說法 “Bất đãn phổ văn thập
phương âm thanh, thả năng thính vô lượng chư Phật thuyết pháp” (chẳng những nghe được âm thanh khắp mười phương, mà còn nghe được vô
lượng chư Phật thuyết pháp). Nghe được tất cả âm thanh, nhìn thấy tất cả sắc
tướng khắp mười phương, trên thực tế thì quan trọng nhất là nghe chư Phật thuyết
pháp, nhìn thấy tướng tốt của chư Phật, nghe Phật thuyết pháp, công đức này lớn.
Đoạn cuối cùng, Đại sư Trừng
Hiến, Ngài nói rằng: 此通至要 “Thử thông chí
yếu” (Thần thông này cực kỳ quan trọng).
Nhắc nhở chúng ta thần thông này quá quan trọng rồi, vì sao vậy? Bởi 地獄眾苦之聲,餓鬼飢餓之聲 “Địa ngục chúng khổ chi
thanh, ngạ quỷ cơ ngạ chi thanh” (Tiếng khổ của
địa ngục, tiếng đói khát của ngạ quỷ), quý vị nhìn thấy, quý vị nghe được, quý
vị thấy rồi, nghe rồi có động tâm không? 聞之 “Văn chi” (Nghe
những âm thanh đó), chữ鎮 “trấn” này chắc là có vấn đề, phía
dưới Niệm lão chú thích rất hay, có thể là chữ 震 “chấn”, có thể là sự lầm lẫn của chữ俱 “câu”, vậy chúng ta đọc là聞之俱增大悲之心 “Văn chi câu tăng đại bi
chi tâm” (nghe những âm thanh đó đều tăng trưởng
tâm đại bi). Quý vị nghe được rồi, quý vị nhìn thấy rồi, quý vị sẽ sanh khởi
tâm đại từ đại bi, cứu khổ cứu nạn. Có cần đến giúp họ không? Những chúng sanh
chịu khổ ở địa ngục, ngạ quỷ này có duyên với quý vị, thì quý vị lập tức nhận
biết, nhận ra họ, quá khứ khi chúng ta ở lục đạo luân hồi, vào lúc nào, ở nơi
nào, đã gặp người này, có quan hệ gì với người này, nói không chừng là quan hệ
cha con, quan hệ anh em, quan hệ bạn bè, có quan hệ. Phật không độ người không
có duyên, có quan hệ chính là có duyên. Có duyên chính là quý vị thuyết pháp
cho họ, họ sẽ nghe, không có duyên thì họ không tiếp nhận, có duyên thì họ tiếp
nhận. Vì vậy, hóa thân đến vô lượng vô biên cõi nước chư Phật, há chẳng phải là
thượng cầu Phật đạo, hạ giáo hóa chúng sanh sao! Thượng cầu Phật đạo là phước
huệ song tu, hạ hóa chúng sanh là cứu khổ cứu nạn, dẫn dắt những chúng sanh có
duyên này vào cửa Phật, chỉ dẫn họ cầu sanh Tịnh-độ, hết thảy đều đến thế giới
Tây Phương Cực Lạc, đây gọi là hành Bồ-tát đạo.
乾闥緊那 “Càn Thát, Khẩn Na” (Càn-thát-bà, Khẩn-na-la), đây là hai bộ trong bát bộ quỷ thần, Càn-thát-bà,
Khẩn-na-la, các Ngài là nhạc thần của Thiên Đế. Thiên Đế là vua trời Đao-lợi, người
Trung Hoa chúng ta gọi là Ngọc Hoàng Đại Đế, ở tầng thứ hai trời Dục-giới. Các
Ngài là nhạc thần trong thiên cung, khi chủ quản hội tập lại, các Ngài đến tấu
nhạc, giống như đội trưởng của đội nhạc vậy, các Ngài chỉ huy đội nhạc này. (所彈琉璃之琴,其音普聞此三千大千世界)之樂 “(Sở đàn lưu ly chi cầm,
kỳ âm phổ văn thử tam thiên đại thiên thế giới) chi nhạc” (Tiếng nhạc do (gảy đàn lưu ly, âm thanh đó vang vọng khắp tam thiên đại
thiên thế giới này)). Đây là nói trời Đao-lợi, những vị nhạc thần này trên
trời Đao-lợi cũng tài ba, họ gảy đàn lưu ly, âm thanh vang khắp tam thiên đại
thiên thế giới, chúng sanh trong tam thiên đại thiên thế giới có duyên thì có
thể nghe được, có thể nhìn thấy, các Ngài hiện đủ các tướng lành. Hôm nay chúng
tôi nghe tổng giám đốc Tạ nói, cha của anh vãng sanh, hơn 90 tuổi, có nhạc trời,
có tướng lành, có người nhìn thấy hoa sen trên bầu trời, vả lại thời gian rất
dài, nhìn thấy vài phút mới biến mất. Thời gian vài phút, chứng minh không phải
là bị hoa mắt, mà thật sự nhìn thấy rồi. Do đó có thể biết, các tướng lành không
gì sánh bằng, âm thanh vi diệu của chư Phật Bồ-tát, thật sự không chỉ khắp đại
thiên thế giới. Phải nói như thế nào? Khắp pháp-giới hư-không-giới. Chỉ là mắt,
tai của chúng ta có chướng ngại, chưa khôi phục lại bản năng, bản năng chính là
thiên nhãn, thiên nhĩ, vẫn chưa khôi phục. Công hạnh tu hành giúp chúng ta có
được quả vị, quả vị càng cao thì năng lực càng lớn, nhưng chỉ có một điều khác
biệt duy nhất là vãng sanh đến thế giới Cực Lạc, năng lực sáu loại thần thông của
quý vị, gần như không khác với chư Phật Như Lai. Chúng ta phải tin tưởng, người
tin tưởng thì có thiện căn, người không tin tưởng thì không đủ thiện căn.
Tướng lành tương đối dễ nhìn
thấy; âm thanh, dễ dàng nghe thấy; còn có hương thơm lạ, ngửi được. Tôi tin rằng
có một số đồng học, có người đích thân có những cảm ứng này. Tuy rằng thời gian
của những cảm ứng này không lâu, nhưng thật có, chẳng phải không có. Chúng ta hãy
điềm tĩnh suy nghĩ, thể hội từ điều này, đây là thật, không phải giả, đều có thể
làm bằng chứng chân thật trong kinh luận, tăng trưởng tín tâm của chúng ta, kiên
định nguyện tâm của chúng ta, quyết định cầu sanh Tịnh-độ. Cần buông xả thì phải
buông xả, không cần buông xả cũng phải buông xả, khôi phục “thanh tịnh, bình đẳng,
giác”. Năm chữ này trên đề kinh là công phu tu học, được tâm thanh tịnh chính
là chứng quả A-la-hán, được tâm bình đẳng chính là Tam-hiền Bồ-tát, giác chính
là minh tâm kiến tánh, kiến tánh thành Phật. Học Phật là học điều gì? Chính là học
năm chữ này, năm chữ này là tu nhân. Còn quả báo? Nửa phần trên đề kinh, “Đại-thừa”
đại diện trí huệ, “Vô Lượng Thọ” đại diện phước báo, “Trang Nghiêm” đại diện tướng
tốt, đầy đủ tất cả, có nhân có quả. Chân tín thiết nguyện, thành thật niệm Phật
thì có thể được Đại-thừa, vô lượng thọ, trang nghiêm. Nhân là Tự-tánh vốn có, quả
cũng là Tự-tánh vốn có.
Đoạn này, phía sau vẫn
còn một câu: 神仙誦經之音,聞之常樂寂靜之洞 “Thần tiên tụng
kinh chi âm, văn chi thường nhạo tịch tĩnh chi động” (âm thanh thần tiên tụng kinh, nghe thấy thường thích động tiên). Thần
tiên ở đâu? Ở động tiên, là nơi ở của thần tiên. 況諸佛說法,聞悉受持;菩薩對談,聽並渴仰 “Huống chư Phật thuyết
pháp, văn tất thọ trì; Bồ-tát đối đàm, thính tịnh khát ngưỡng” (Huống chi là chư Phật thuyết pháp, nghe được đều thọ trì, Bồ-tát đàm đạo,
nghe được đều khát ngưỡng), vấn đề chính là bản thân chúng ta phải tu đạt đến
công phu này. Có, chẳng phải không có, trong sách cổ ghi chép rất nhiều. Phiền-não
của người hiện nay so với trước đây, không nói quá xa, người Trung Hoa nói một
giáp, 60 năm, 60 năm này biến đổi quá lớn rồi, những người của 60 năm trước, phước
báo của họ lớn hơn chút so với người trong xã hội hiện nay của chúng ta. Vì sao
vậy? Bởi phiền-não của họ ít hơn chúng ta hiện nay, phiền-não của chúng ta hiện
nay so với một giáp trước, tôi tin rằng không chỉ là tăng gấp trăm lần, đây là đích
thân chúng tôi trải nghiệm. Phiền-não tăng trưởng chính là chướng ngại tăng trưởng,
chướng ngại tăng trưởng hằng ngày, rất khó lãnh hội được những ý nghĩa và tông
chỉ vô cùng sâu sắc này trong kinh giáo.
Chư Phật thuyết pháp, Bồ-tát
đàm đạo, càng ngày càng xa với duyên phận của chúng ta rồi. Người xưa tâm địa
thanh tịnh, có lúc sẽ gặp được. Núi Nga Mi thật sự có Phổ Hiền Bồ-tát, núi Ngũ
Đài thật sự có Văn Thù Bồ-tát. Quán Âm Bồ-tát ở núi Phổ Đà vào lúc trước, một
giáp trước, rất nhiều cảm ứng, người lên núi lễ Phật trở về nói cho chúng tôi
biết. Hiện nay giao thông tiện lợi, đường xá mở lên rồi, con người có thể không
cần đi bộ, thậm chí còn có cáp treo, nhưng không còn những cảm ứng này nữa. Đây
là người hiện đại chúng ta dựa vào những thiết bị khoa học này để chinh phục tự
nhiên, không thấy được những điềm lành của người trời nữa. Chúng ta hãy suy
nghĩ thật kỹ, người của một giáp trước so với chúng ta, cảm nhận của họ về cuộc
sống là vui nhiều khổ ít, cảm nhận của mọi người trong xã hội hiện nay chúng ta
là khổ nhiều vui ít, thậm chí hoàn toàn không có niềm vui. Niềm vui hiện nay thật
sự là mê hoặc, lấy điều này làm niềm vui, không còn niềm vui chân thật nữa, chưa
từng gặp phải trong đời. Các học viên ở Giảng đường Đạo Đức tại Hoàng Hà, báo
cáo tâm đắc của họ, chúng ta nghe qua thì hiểu rõ rồi. Cho nên giáo dục thánh
hiền, chẳng thể không học, chẳng thể không hiểu, chẳng thể không thực hành, tốt
nhất là có thể chứng đắc. Điều gọi là chứng đắc, chính là biến lời giáo huấn của
thánh hiền thành cuộc sống của bản thân chúng ta, thành công việc, đối nhân tiếp
vật của chính mình, thật sự có được thọ dụng.
Tiếp theo chúng ta xem
nguyện thứ chín, nguyện thứ chín trong 48 nguyện, 他心通願 “Tha-tâm-thông
nguyện” (Nguyện tha-tâm-thông). Mời xem kinh văn:
【我作佛時。所有眾生。生我國者。皆得他心智通。若不悉知億那由他百千佛剎。眾生心念者。不取正覺。】 “Ngã tác
Phật thời, sở hữu chúng sanh, sanh ngã quốc giả, giai đắc tha–tâm-trí-thông. Nhược bất tất tri ức na-do-tha bá
thiên Phật sát chúng sanh tâm niệm giả, bất thủ Chánh Giác” (Khi con
thành Phật, tất cả chúng sanh sanh về cõi nước con đều được tha-tâm-trí-thông. Nếu
chẳng biết được hết tâm niệm của chúng sanh trong ức na-do-tha trăm ngàn cõi Phật,
thì không giữ ngôi Chánh-giác).
他心通 “Tha-tâm-thông”, chúng ta xem chú giải,
亦名他心智通。他心智,乃知他人心念之智 “diệc
danh tha-tâm-trí-thông. Tha-tâm-trí, nãi tri tha nhân tâm niệm chi trí” (cũng
gọi là tha-tâm-trí-thông. Tha-tâm-trí là trí biết được tâm niệm của người khác).
Người khác khởi tâm động niệm các Ngài đều biết. 他心智通者,照一切眾生心中所念,如明鏡現萬象故 “Tha-tâm-trí-thông giả, chiếu nhất thiết
chúng sanh tâm trung sở niệm, như minh kính hiện vạn tượng cố” (Tha-tâm-trí-thông
là soi thấy ý niệm trong tâm của tất cả chúng sanh, như gương sáng hiện rõ vạn
vật vậy). Đây là nói trạng thái của tha-tâm-thông, người
khác khởi tâm động niệm quý vị nhìn thấy rất rõ ràng, như tấm gương soi thấy hiện
tượng bên ngoài vậy, rõ ràng sáng tỏ. Ý nghĩa của nguyện này, 此願之意,如澄憲云:世俗猶以知他心為要,況出世利物乎 “Thử nguyện chi
ý, như Trừng Hiến vân: Thế tục do dĩ tri tha tâm vi yếu, huống xuất thế lợi vật
hồ” (Ý nghĩa của nguyện này như Ngài Trừng
Hiến nói: Thế tục còn xem việc hiểu lòng người khác là quan trọng, huống chi là
là xuất thế lợi lạc chúng sanh), nói rõ tính quan trọng của nguyện này. Thế
gian đều muốn biết người khác đang nghĩ gì, đang nói gì, đang làm gì. Vì sao vậy?
Bởi quý vị biết được thì có thể chung sống hòa thuận với mọi người. Điều người
khác không thích, thì chúng ta không nói, không nghĩ, không làm; điều mọi người
đều thích, thì chúng ta làm, chúng ta nghĩ nhiều, làm một số việc cống hiến cho
đại chúng trong xã hội, điều này rất quan trọng. Nếu như có thể biết được tất cả,
thế giới này sẽ không còn đấu tranh, sẽ không còn chiến tranh nữa. Chỉ là không
biết lòng của họ nghĩ gì, ở đó ngờ vực, càng đoán càng sai. Quan sát một người,
phần lớn đều không phải nghĩ về mặt tốt của họ, đều nghĩ đến điều lỗi lầm của họ,
sự phiền phức của thế giới này thật sự là phát sinh từ đây.
Chỉ nhìn lỗi lầm của người
khác, không nhìn ưu điểm của người khác, thì trên đời không có người tốt, điều
này sẽ tạo thành xã hội hỗn loạn, sẽ gây ra tai nạn cực kỳ lớn. Nếu như thay đổi
góc độ, chỉ nhìn mặt tốt của người khác, không nhìn lỗi lầm của người khác, đây
chính là thái bình thịnh thế, đây chính là đời sống hạnh phúc, chúng ta phải hiểu
đạo lý này. Trong sách Tông Luận, Đại sư Ngẫu Ích nói rất hay: Thế duyên không có
tốt xấu, tất cả chúng sanh trong thế gian này, chữ “duyên” này là chỉ người và
việc, có thiện ác, có tốt xấu hay không? Không có. Tốt xấu ở đâu? Tốt xấu ở
trong tâm của bản thân chúng ta, quý vị dùng tâm gì để nhìn? Chúng ta dùng tâm
bất thiện để nhìn, thì thế gian này không có một thiện pháp nào; chúng ta dùng
tâm tốt để nhìn, thì người trên thế gian này đều là người tốt. Thật sự đúng như
những lời Thế Tôn đã nói trong kinh: “Tất cả pháp từ tâm tưởng sanh”. Câu nói
này rất hay! Thế giới Tây Phương Cực Lạc thành tựu như thế nào? A Di Đà Phật
xem tất cả chúng sanh đều là chư Phật Bồ-tát, Ngài không nhìn thấy tà ác. Vì
sao không có tà ác? Bởi tâm của Ngài không có tà ác. Điều này quá quan trọng rồi!
Chúng ta nhìn thấy tà ác, là trong tâm có tà có ác, mang theo những cáu bẩn
này, như đôi mắt vậy, nhìn thấy sắc tướng bên ngoài, tất cả đều mang theo sự ô
nhiễm, không phải bên ngoài thật sự có ô nhiễm, mà mắt chúng ta có ô nhiễm, chính
là mắt của chúng ta, tâm của chúng ta ô nhiễm.
Thấy sắc nghe âm thanh, đôi
mắt giống như máy chụp hình vậy, nó không có thị phi thiện ác, chỉ là đem tình
hình bên ngoài truyền trực tiếp đến ý-thức-thứ-sáu. Mắt không phân-biệt, tai
cũng không phân-biệt, cái gì phân-biệt? Ý-thức-thứ-sáu phân-biệt, Mạt-na-thức chấp-trước.
Vì vậy người chuyển thức thành trí, chuyển A-lại-da thành Đại-viên-kính-trí, chuyển
Mạt-na thành Bình-đẳng-tánh-trí, chuyển thức-thứ-sáu thành Diệu-quan-sát-trí, đó
là gì? Phật tri Phật kiến. Phật tri Phật kiến chính là không khởi tâm, không động
niệm, không phân-biệt, không chấp-trước, nhìn thấy rõ ràng, nghe được rõ ràng,
hiểu biết rõ ràng, thấu suốt tất cả. Không khởi tâm động niệm, thì thị phi thiện
ác từ đâu mà có? Đây là cảnh giới gì? Cảnh giới của chư Phật Như Lai, cảnh giới
của Pháp-thân Bồ-tát. Pháp-thân là ở Thật-báo-trang-nghiêm độ, không phải ở mười
pháp-giới, trong mười pháp-giới không được, Tứ-thánh pháp-giới trong mười pháp-giới
không có chấp-trước, nhưng có phân-biệt. Chúng ta thấy sắc nghe âm thanh; vọng-tưởng,
phân-biệt, chấp-trước đều có, trong một sát-na toàn bộ khởi tác dụng, đây gọi
là phàm phu.
Chân chánh tu hành,
chúng ta hoàn toàn hiểu rõ rồi, chân chánh tu hành là tu gì? Sáu căn tiếp xúc cảnh
giới sáu trần bên ngoài, không khởi tâm, không động niệm, không phân-biệt,
không chấp-trước, đây chính là tu hành mà Phật pháp nói. Không khởi tâm không động
niệm chính là đoạn vọng-tưởng rồi, khởi tâm động niệm là vọng-tưởng. Điều này
khó, thật khó! Bởi vì câu nói khởi tâm động niệm này, chúng ta không lãnh hội
được, khởi tâm động niệm với chúng ta mà nói, cả khái niệm cũng không có. Trong
kinh, chúng ta đọc được Thích Ca Mâu Ni Phật nói chuyện với Di Lặc Bồ-tát mới
có khái niệm, chúng ta không nắm chắc được khái niệm này. Phật hỏi Di Lặc Bồ-tát,
phàm phu lục đạo chúng ta心有所念 “tâm hữu sở niệm” (trong tâm có ý niệm), trong tâm khởi ý niệm,
chúng ta biết, tôi khởi ý niệm tốt, giúp đỡ chúng sanh; tôi khởi ý niệm ác, độc
chiếm tất cả, khởi ý niệm này, trong ý niệm này có bao nhiêu ý niệm vi tế hình
thành ý niệm thô này? Di Lặc Bồ-tát báo cáo với Phật rằng, một khảy ngón tay, một
khảy ngón tay này, 一彈指有三十二億百千念 “Nhất đàn chỉ hữu
tam thập nhị ức bá thiên niệm” (Một khảy ngón tay có 32
ức trăm ngàn niệm), 100 ngàn là mười vạn; 32 ức nhân mười vạn, là 320 ngàn
tỷ, một khảy ngón tay này. 320 ngàn tỷ ý niệm vi tế hợp thành một niệm này, chúng
ta có khái niệm, còn niệm vi tế đó thì không có khái niệm.
Hiện nay chúng ta dùng
giây làm đơn vị, vào thời Thích Ca Mâu Ni Phật không có, dùng giây làm đơn vị, đây
là người phương Tây sử dụng, hiện nay cả thế giới đều sử dụng, một ngày có 24 giờ,
một giờ có 60 phút, một phút có 60 giây. Một giây thì chúng ta có khái niệm rồi,
nhưng khái niệm này vẫn còn rất mơ hồ. Nếu như chúng ta hỏi, trong thời gian một
giây này, quý vị nhìn thấy cái gì? Nếu như chúng ta ngồi trên xe lửa, xe lửa
đang chạy, 300 km một giờ không xem là nhiều, chúng ta mở cửa sổ nhìn ra ngoài,
phía xa thì không có vấn đề, nhìn thấy ở gần, ở gần có gì? Trụ điện. Quý vị có
nhìn thấy không? Nhìn thấy rồi, nhưng không thấy rõ, biết là trụ điện, thoáng
chốc thoáng chốc thì qua rồi, lướt qua rất nhanh. Có nhìn thấy người không? Có,
người như thế nào thì không biết, biết được có dáng người, có thể phân biệt nam
nữ, nhiều hơn nữa thì không phân biệt được. Bây giờ tăng thêm tốc độ, tăng thêm
đến một giây có thể khảy bảy cái, 320 ngàn tỷ lại nhân 7, là hai triệu hai trăm
bốn mươi ngàn tỷ, trong một giây. Cũng chính là một giây có hai triệu hai trăm
bốn mươi ngàn tỷ hình ảnh động lướt qua trước mặt quý vị, quý vị có biết không?
Hoàn toàn không biết, cũng không có chút cảm giác nào. Chân tướng sự thật này ở
ngay trước mặt, mắt chúng ta nhìn núi sông đất đai, cây cối hoa cỏ, nhìn thấy một
số người, người và vật đều ở trước mặt, nhưng cũng không có chút cảm giác nào, sáu
căn này của chúng ta thật sự không có tác dụng.
Nhưng bản năng sáu căn của
chúng ta có tác dụng, quý vị xem trong kinh Đại-thừa Phật nói với chúng ta, hiện
tượng dao động vi tế như vậy, Bát-địa Bồ-tát nhìn thấy được, từ Bát-địa trở lên,
Cửu-địa, Thập-địa, Đẳng-giác, Diệu-giác, 52 cấp bậc, năm cấp bậc trên cùng thì
các Ngài đều thấy được, đây là sự thật. Ngài Di Lặc và đức Phật có thể nói ra, là
các Ngài nhìn thấy được, Ngài không nhìn thấy sao Ngài có thể nói ra? Nhà cơ học
lượng tử ngày nay dùng thiết bị tân tiến nhất, kính hiển vi, có thể bắt lấy một
phần một triệu tỷ giây, chính là tần suất này, họ có thể bắt lấy một phần một triệu
tỷ giây, có thể bắt lấy nó. Trong kinh, Phật nói là hai triệu hai trăm bốn mươi
ngàn tỷ, vì vậy Phật nhìn thấy rõ ràng hơn thiết bị của nhà khoa học. Phật Bồ-tát
không cần dùng thiết bị, dùng gì? Dùng tâm thanh tịnh, tâm bình đẳng của chính
mình, sóng dao động vi tế có tần suất cao như vậy, Ngài cũng có thể nhìn thấy rất
rõ ràng. Ý nghĩa quan trọng nhất trong đây là Phật có bản năng này, chúng ta
cũng có, chúng ta và Phật không hai. Trong Kinh Hoa Nghiêm nói rất rõ ràng: Tất
cả chúng sanh vốn là Phật. Chúng ta cũng vậy, vì sao hiện nay trở thành phàm
phu, trở thành như vậy? Mê rồi, mê mất Tự-tánh rồi, càng mê càng sâu.
Càng mê càng sâu này, có
thể cảm nhận rõ rệt từ trên hiện tượng. Ví như lần đầu tiên tôi đến Hong Kong
giảng kinh, 50 tuổi, năm đó tôi 50 tuổi, hoàn cảnh người và việc bên Hong Kong không
phức tạp như bây giờ, dân số cũng không nhiều như hiện nay, dân số lúc đó là khoảng
ba triệu, mọi người cũng rất thành thật, đầu óc cũng không phức tạp như thế. Vì
sao vậy? Bởi lúc đó đã có tivi, tivi trắng đen, chưa có tivi màu, là trắng đen,
chưa có điện thoại di động, lúc đó chưa có di động; thấy, nghe, cảm giác, nhận
thức của con người không phức tạp như bây giờ. Hiện nay lượng phương tiện không
chỉ gấp 10 lần so với 60 năm trước, vì vậy sự mê này là càng mê càng sâu, càng
mê càng khó quay đầu, không phải việc tốt. Nếu như chúng ta không học Phật, thì
chúng ta chẳng khác gì với những người này. Sau khi học Phật thì biết cảnh
giác, không xem tivi, không xem tin tức. Tôi gần như 50 năm không xem tivi, không
nghe đài phát thanh, không đọc báo chí, không biết gì cả, cuộc sống mỗi ngày đều
tốt đẹp, người khác hỏi tôi, hôm nay thái bình vô sự. Lời nói của người xưa có
đạo lý: 知事多時煩惱多 “Tri sự đa thời phiền-não đa” (Khi biết nhiều việc thì nhiều phiền-não). Những truyền thông này
đang chế tạo phiền-não, chúng ta có thể cự tuyệt, không xem không nghe. Nếu như
quý vị chạy theo nó, nó đưa tin mỗi ngày thì quý vị nghe mỗi ngày, thật phiền phức,
sao quý vị có được tâm thanh tịnh chứ? Tâm thanh tịnh thì sanh trí huệ, tâm nhiễm
ô thì sanh phiền-não. Đây là một ví dụ rất rõ ràng.
Trước đây tôi quan sát
thế gian này, mười năm, mười năm có một sự thay đổi, hiện nay không phải mười
năm, mỗi năm đều có thay đổi, mỗi năm mỗi khác, điều này thật đáng sợ!
Thọ mạng của
con người rút ngắn rồi, làm người phiền chết được, có thể lãnh hội được không? Mười
năm sau so với mười năm trước thì rất rõ rệt, Trung Hoa là một giáp sau so với
một giáp trước, vậy thì vô cùng vô cùng rõ rệt. 80 năm trước, chúng tôi mới 8, 9
tuổi; sự chất phác lúc đó giống như những điều trong sách cổ miêu tả, đọc sách
cổ, lãnh hội được tình trạng xã hội của người xưa. Người hiện nay không cách
nào lãnh hội được, con người sống trong thế gian này thật vất vả, vì sao con
người phải sống? Câu trả lời của Joseph Toynbee: Con người sống ở thế gian điều
thứ nhất là vì yêu, thứ hai là để hiểu rõ chân tướng của vũ trụ, thứ ba là phát
minh sáng tạo. Ông nói không hay như Phật pháp, câu trả lời của Phật là bốn chữ:
“Nhân sanh thù nghiệp”. Quý vị đến làm gì? Quý vị phải đến để trả nghiệp báo của
quý vị, trong đời quá khứ tu phước thì quý vị đến hưởng phước; trong đời quá khứ
tạo tội nghiệp thì quý vị đến chịu tội. Đây là lời Phật nói, Phật nói về nhân
quả ba đời. Quý vị tạo tác nghiệp này thì quý vị không thể không đến, không có
nghiệp này, thì hai người đối diện cũng không quen biết nhau.
Vì vậy khởi tâm động niệm,
đoạn ác tu thiện là quan trọng hơn hết. Tôi mong rằng chúng ta trong đời này, đời
sau, đời đời kiếp kiếp đều hạnh phúc mỹ mãn, có thể đạt được không? Được, tất cả
pháp từ tâm tưởng sanh, chuyên nghĩ điều tốt, không nghĩ điều xấu, thì có thể
làm được. Sách thánh hiền đều là sách tốt, kinh điển của Phật, kinh sách của Phật
giáo đều là sách tốt, hằng ngày đều nghĩ đến điều tốt này. Điều tốt nhất của thế
gian và xuất thế gian, không có gì bằng thế giới Cực Lạc, A Di Đà Phật, hằng
ngày quý vị nghĩ thế giới Cực Lạc, hằng ngày nghĩ A Di Đà Phật, quá tốt rồi! Nghĩ
thế giới Cực Lạc, thì tụng Kinh Vô Lượng Thọ. Kinh Vô Lượng Thọ là sách thuyết
minh về thế giới Cực Lạc, hằng ngày quý vị đọc kinh, hằng ngày nghĩ đến, phản
chiếu trong tâm quý vị là thế giới Cực Lạc. Niệm niệm không rời A Di Đà Phật, quý
vị xem ý niệm này tốt biết mấy! Tất cả thiện pháp của thế gian và xuất thế gian
đều không thể sánh với điều này, phải biết rõ!
Tiếp theo chúng ta xem
phần sau, như Ngài Trừng Hiến nói: “Thế tục còn xem việc hiểu lòng người khác
là quan trọng, huống chi là xuất thế lợi lạc chúng sanh!” Điều này chúng tôi đã
giảng rồi, tiếp theo又《會疏》曰:是故願言,我國聖眾,不藉修持,自知他心,應其意樂,接化無方 “Hựu Hội Sớ viết:
Thị cố nguyện ngôn, ngã quốc thánh chúng, bất tạ tu trì, tự tri tha tâm, ứng kỳ
ý nhạo, tiếp hóa vô phương” (Sách Hội Sớ lại nói: Vì
vậy lời nguyện nói rằng thánh chúng cõi nước con, không nhờ vào tu trì mà tự biết
tâm người khác, ứng theo ý thích của họ, không có phương thức tiếp dẫn giáo hóa
nhất định). Đây là thế giới Cực Lạc, thế giới Cực Lạc thù thắng, quá thù thắng rồi! Không
cần phải tự mình tu. Ở thế giới của chúng ta, sáu loại thần thông là vốn có,
nhưng mê rồi, nhất định phải trừ bỏ chướng ngại, sáu khả năng này sẽ tự nhiên được
khôi phục. Trừ bỏ là gì? Trừ phiền-não. Thông thường mà nói, không còn chấp-trước
tất cả pháp thế gian và xuất thế gian, thì có thể khôi phục sáu loại thần thông
này. Nhưng người hiện nay, chấp-trước vô cùng kiên cố, chúng ta nói là thành kiến
rất sâu, tự cho là đúng. Chúng ta quan sát tỉ mỉ sáu loại chướng ngại này, từ
nhỏ đến lớn, năm sau nghiêm trọng hơn năm trước, giống như bệnh tình vậy, đến
già không thể khôi phục. Phiền-não che mất tâm rồi, trí huệ trong tâm hoàn toàn
không còn nữa, hoàn toàn nhờ vào một chút tri thức để sống qua ngày. Tri thức
có giới hạn, không phải là viên mãn, trí huệ mới là viên mãn. Trí huệ là trong Tự-tánh
vốn có, vì vậy讀書千遍,其義自見 “Độc thư thiên
biến, kỳ nghĩa tự kiến” (đọc sách ngàn lần, tự hiểu nghĩa kia), tự hiểu chính là tự
nhiên khai ngộ, đó là trí huệ. Không cần người dạy, quý vị chỉ cần định, tâm tu
định, định đến trình độ nhất định thì trí huệ hiện tiền.
Phật pháp chú trọng tu định,
84 ngàn Pháp môn là 84 ngàn phương pháp khác nhau, con đường khác nhau, tu điều
gì? Toàn là tu định. Đọc kinh là tu định, nghe kinh cũng là tu định. Nghe như thế
nào, đọc như thế nào? Trong Luận Khởi Tín, Mã Minh Bồ-tát dạy chúng ta: Lìa tướng
ngôn thuyết mà nghe, lìa tướng danh tự mà nghe, lìa tướng tâm duyên mà nghe, đọc
kinh thì lìa tướng danh tự mà đọc. Quý vị đọc kinh đừng chấp-trước tướng văn tự;
nghe kinh đừng chấp-trước tướng ngôn thuyết, quý vị phải nghe ý nghĩa trong đó,
đừng chấp tướng, Phật Bồ-tát dạy chúng ta như vậy. Chúng ta chấp-trước trên văn
tự, phân-biệt văn tự, thì trí huệ không thể hiện tiền, đó là chướng ngại của trí
huệ. Vì sao vậy? Bởi tâm là thanh tịnh, tâm là bình đẳng, có những thứ này, thì
tâm không thanh tịnh, tâm không bình đẳng, trí huệ trong tâm không thể hiển lộ,
trí huệ là tâm sanh. Thật ra, trí huệ và tâm là cùng một ý nghĩa, khi không khởi
tác dụng gọi là tâm, khi khởi tác dụng gọi là trí.
Chúng ta hiểu rõ, sáng tỏ
những điều này thì sẽ thừa nhận giáo huấn, lý niệm và phương pháp của Phật Bồ-tát,
thừa nhận thì có thể tiếp nhận, tiếp nhận thì có được lợi ích. Đối nhân tiếp vật
trong cuộc sống thường ngày, gắng hết sức ít phân-biệt, gắng hết sức không chấp-trước,
như vậy là chân tu hành! Vì vậy những người đại tu hành, đại thành tựu, trong
cuộc sống thường ngày của họ, đối nhân tiếp vật thật sự làm được không phân-biệt,
không chấp-trước, họ thực hành vô cùng linh hoạt, đối nhân xử việc tiếp vật đều
viên dung, hoan hỷ, tâm địa thanh tịnh, không nhiễm một bụi trần, đây gọi là
công phu. Sự thanh tịnh này không phải là trốn trên núi, trốn trong sơn động, đó
gọi là thanh tịnh sao? Đó mới là không thanh tịnh, ngay trong cuộc sống thường
ngày được tâm thanh tịnh. Lão Hòa thượng Hải Hiền làm cho chúng ta xem, Pháp sư
Hải Khánh làm cho chúng ta xem rồi, đó là chân công phu, đó là chân tu hành. Trên
sự có, sự là giả, có sanh có diệt, một giây có hai triệu hai trăm bốn mươi ngàn
tỷ sanh diệt, vì vậy không đạt được. 凡所有相,皆是虛妄 “Phàm sở hữu tướng,
giai thị hư vọng” (Hễ có tướng thì đều
là hư vọng), để hư vọng trong tâm là sai rồi, không thể để hư vọng trong
tâm. Chân-tâm, chân-tâm không tịch, chẳng có gì cả, quý vị miễn cưỡng nhét đồ
vào trong đó, là sai rồi. Chân-không chẳng đạt được, diệu-hữu cũng chẳng đạt được,
nhưng chân-không diệu-hữu đều tồn tại trước mặt chúng ta, chúng ta phải nhận biết.
Nhận biết điều đó, thì được thọ dụng, không nhận điều hại; vọng-tưởng phân-biệt
chấp-trước thì nhận điều hại, không có vọng-tưởng phân-biệt chấp-trước thì được
thọ dụng.
Vì vậy tiếp dẫn chúng
sanh, giáo hóa chúng sanh phải có tha-tâm-thông, quý vị sẽ không dạy sai phương
pháp. 《魏譯》文曰 “Ngụy Dịch văn
viết” (Văn của bản Ngụy Dịch nói rằng),
bản của Ngài Khang Tăng Khải, 不得見他心智,下至知百千億那由他諸佛國中眾生心念者,不取正覺 “Bất đắc kiến
tha tâm trí, hạ chí tri bá thiên ức na-do-tha chư Phật quốc trung chúng sanh
tâm niệm giả, bất thủ Chánh-giác” (Nếu
chẳng thấy được tâm trí người khác, bên dưới là biết được tâm niệm của chúng
sanh trong trăm ngàn ức na-do-tha cõi nước chư Phật, thì không giữ ngôi Chánh-giác).
Đây là lời nguyện của Pháp Tạng Bồ-tát. Nếu như những người vãng sanh đến thế
giới Cực Lạc, không thấy được tâm trí của người khác, tức là không được
tha-tâm-thông, tiếp theo nói, biết được tâm niệm của chúng sanh trong trăm ngàn
ức na-do-tha cõi nước chư Phật, thì Ngài không thành Phật. Ngài Pháp Tạng đã thành
Phật, thực hiện nguyện này rồi, hễ là người vãng sanh đến thế giới Cực Lạc, thì
họ biết được hết khởi tâm động niệm của chúng sanh trong tất cả cõi nước chư Phật
khắp pháp-giới hư-không-giới.
Ở đây tôi nhắc nhở mọi
người, hiểu rõ câu kinh này rồi, quý vị có sợ hay không? Chúng ta ở đây khởi
tâm động niệm, người trên thế giới Cực Lạc, chẳng có người nào không biết. Không
phải mười mắt trông thấy, mười tay chỉ vào, không phải, người trong thế giới Cực
Lạc vô lượng vô biên, trái đất này của chúng ta quá nhỏ rồi, chỉ bảy tỷ người, ở
nơi của các Ngài vô lượng vô biên chúng sanh, chẳng có người nào không biết, chúng
ta làm gì, ở nơi kín đáo hơn, ở nơi tối tăm hơn, các Ngài đều nhìn thấy thấu suốt,
các Ngài đều nghe được rõ ràng. Quý vị giấu được ai chứ? Cho nên chúng ta thật
sự phải quay đầu, từng thời từng khắc, mỗi phút mỗi giây đều không rời. Tất cả
chư Phật Bồ-tát, hễ vãng sanh thế giới Cực Lạc, thì tất cả được gọi là Bồ-tát, ba
bậc chín phẩm trong bốn cõi, mỗi người trên đó đều nhìn thấy chúng ta, mỗi người
đều thấy hoàn cảnh của ta. Chúng ta có một chút ô nhiễm, bản thân chúng ta
không biết, người khác nhìn thấy rất rõ ràng. Tương lai chúng ta vãng sanh đến
thế giới Cực Lạc, chúng sanh trong cõi nước chư Phật mười phương khởi tâm động
niệm chúng ta cũng thấy tường tận. Chẳng thể không biết điều này.
Đoạn văn này, 後世解此經者亦有兩說:一者,下至,乃就此通力之下者而言,可知百千億那由他諸佛國。若其上者,則可知十方不可說不可說微塵數佛剎 “Hậu
thế giải thử kinh giả diệc hữu lưỡng thuyết: Nhất giả, hạ chí, nãi tựu thử
thông lực chi hạ giả nhi ngôn, khả tri bá thiên ức na-do-tha chư Phật quốc. Nhược
kỳ thượng giả, tắc khả tri thập phương bất khả thuyết bất khả thuyết vi trần số
Phật sát” (Hậu thế chú giải kinh này
cũng có hai thuyết, thuyết thứ nhất, tối thiểu, là dựa vào sự tối thiểu của sức
thần thông này mà nói, có thể biết được trăm ngàn ức na-do-tha cõi nước chư Phật.
Nếu tối đa thì có thể biết được bất khả thuyết bất khả
thuyết vi trần số cõi Phật trong mười phương). Đây là cách nói thứ nhất, cách nói thứ hai 下者指眾生心念,若論其上,則可知諸佛菩薩之心。《甄解》曰:二乘但知凡夫小聖粗心,不能知細。諸佛菩薩所知微細,乃至佛心亦能知之 “hạ giả
chỉ chúng sanh tâm niệm, nhược luận kỳ thượng, tắc khả tri chư Phật Bồ-tát chi
tâm. Chân Giải viết: Nhị-thừa đãn tri phàm phu tiểu thánh thô
tâm, bất năng tri tế. Chư Phật Bồ-tát sở tri vi tế, nãi chí Phật tâm diệc năng
tri chi” (bên
dưới là chỉ tâm niệm chúng sanh, nếu luận về bên trên, thì có thể biết tâm của
chư Phật Bồ-tát. Sách Chân Giải nói: Nhị-thừa chỉ biết tâm thô của phàm phu tiểu
thánh, không thể biết tâm vi tế. Chư Phật Bồ-tát biết được tâm vi tế, thậm chí
cũng có thể biết tâm Phật). Cách nói này nói rất hay, trên và dưới này là dựa
vào thiên-nhãn-thông, thiên-nhĩ-thông, tha-tâm-thông để nói. Trở xuống, các
Ngài là Sơ-địa Bồ-tát, từ Sơ-địa trở xuống thì các Ngài đều có thể thấy. Còn trở
lên trên? Trở lên thì có thể thấy được chư Phật, các Ngài cũng biết được tâm niệm
của chư Phật Bồ-tát. Tâm niệm của chư Phật Bồ-tát là gì? Vô niệm. Các Ngài có
khởi tâm động niệm không? Có. Khi nào khởi tâm động niệm? Khi giáo hóa chúng
sanh. Giáo hóa chúng sanh, 隨眾生心,應所知量 “tùy chúng sanh tâm, ứng sở tri lượng” (tùy
tâm chúng sanh, mà ứng hiện phù hợp với khả năng nhận biết của họ). Phàm phu khởi tâm động niệm là nghiệp lực, chủng-tử
trong A-lại-da-thức khởi hiện hành, là nghiệp lực. Chư Phật Bồ-tát là nguyện lực,
Ngài ở nhân địa đã từng phát lời nguyện này, phải giúp chúng sanh khổ nạn phá
mê khai ngộ, lìa khổ được vui. Ngài có nguyện này, vì vậy gặp được chúng sanh
có duyên với Ngài, thì Ngài có cảm; chúng ta cầu Phật, thì Phật Bồ-tát đến ứng,
cảm ứng đạo giao.
Cách nói thứ hai, bên dưới là chỉ tâm niệm của chúng sanh, chúng sanh,
tất cả chúng sanh trong mười phương thế giới khởi tâm động niệm, các Ngài biết
được. Nếu nói bên trên, trên đó chính là Phật Bồ-tát, chư Phật Bồ-tát khởi tâm
động niệm các Ngài cũng biết. Trong sách Chân Giải này nói rất hay: Nhị-thừa chỉ
biết tâm thô của phàm phu tiểu thánh, không thể biết tâm vi tế, ý niệm vi tế, như
Di Lặc Bồ-tát biết được. Một niệm thô này của chúng ta, trong đó bao nhiêu niệm
vi tế? Một khảy ngón tay có 32 ức trăm ngàn niệm, một trăm ngàn là mười vạn, 32
ức nhân mười vạn, là 320 ngàn tỷ, một khảy ngón tay này, Bồ-tát ở thế giới Cực
Lạc biết. Ý niệm vi tế như vậy, chúng ta vốn dĩ không cảm nhận được, Di Lặc Bồ-tát
biết được, Ngài Di Lặc là Đẳng-giác. Ở thế giới Cực Lạc, vãng sanh đến thế giới
Cực Lạc, vừa mới đến, hoa nở thấy Phật, tuy là vừa mới đến, phàm phu đi đến, còn
những chúng sanh không bằng phàm phu chúng ta, cõi súc sanh đến, cõi ngạ quỷ đến,
còn có cõi địa ngục đến, chỉ cần thấy được A Di Đà Phật, thì được Phật lực gia
trì, sáu loại thần thông gần như bằng với Phật. Dưới, là bên dưới, đó chính là
tất cả cõi nước chư Phật; trên, là chư Phật Bồ-tát, mười pháp-giới từ chư Phật Bồ-tát
đến chúng sanh trong lục đạo, các Ngài đều biết được, nhìn thấy rõ ràng, nghe
thấy rõ ràng, các Ngài có túc-mạng-thông, biết được đời đời kiếp kiếp quý vị
làm qua những điều gì, các Ngài mới có thể tiếp dẫn quý vị, giáo hóa quý vị mới
khế lý khế cơ.
Nếu như không hiểu rõ, thuyết pháp không khế
cơ, thì độ chúng sanh có khó khăn. Giống như khi đức Phật tại thế, Ngài độ chúng
sanh, mỗi người đến thỉnh giáo Ngài, Ngài nói pháp khác nhau, tuy là khác nhau,
nhưng ai cũng khai ngộ, ai cũng hiểu rõ, được lợi ích rồi. Chúng ta không có trí
huệ của Phật, không có công phu định lực của Phật, chúng ta thuyết pháp phần nhiều là quan niệm chủ quan của bản
thân, dựa vào sự lãnh hội của chính mình, báo cáo với người khác, trình độ người khác tương đương với chúng ta, họ
nghe hiểu được, họ sẽ được lợi ích, trình độ không tương đồng, có chênh lệch, vẫn
có khoảng cách, đây là điều mà hiện nay bản thân chúng tôi có thể lãnh hội được.
Vì vậy tôi thường khuyên các đồng học, chúng ta phải làm việc thật, không làm
việc giả. Làm việc thật chính là dùng chân-tâm đối nhân xử việc tiếp vật, không lừa dối người khác. Trong
chân-tâm không có nhiễm ô, không có nhiễm tịnh, không có thiện ác, là bình đẳng.
Chân-tâm là tâm thanh tịnh, là tâm bình đẳng. Vọng-tâm chính là phân-biệt,
tính-toán, chấp-trước, tâm này không tốt.
Trước tiên phải dùng chân-tâm quan sát vũ trụ,
dùng phương pháp của Kinh Kim Cang là tốt nhất, 凡所有相,皆是虛妄 “phàm sở hữu tướng, giai thị hư vọng (hễ có
tướng thì đều là hư vọng), 一切有為法,如夢幻泡影 “Nhất
thiết hữu vi pháp, như mộng huyễn bào ảnh” (Tất cả pháp hữu
vi, như mộng, huyễn, bọt, bóng), trong kinh Đại-thừa nói: 一切法 “Nhất thiết pháp” (Tất cả
pháp), bao gồm hết thảy pháp thế gian và xuất thế gian, 無所有,畢竟空,不可得 “vô sở
hữu, tất cánh không, bất khả đắc” (vô sở hữu,
rốt ráo không, chẳng đạt được), chúng ta mới có thể buông xả triệt để. Buông xả ở tâm, không phải ở sự.
Vì sao vậy? Bởi sự là giả, buông xả vọng-tâm, dùng chân-tâm. Dùng chân-tâm ở thế
giới này sẽ thiệt thòi, nhưng cũng sẽ không thiệt thòi. Vì sao vậy? Người khác
lừa quý vị nhưng quý vị biết được, chẳng phải là quý vị không biết. Lừa thì thế nào? Lừa thì để
họ lừa, vẫn hoan hỷ. Biết được gì? Hễ có tướng thì đều là hư vọng, đều là giả,
đều là cảnh tượng trong mộng, không phải là thật. Vì vậy quý vị không oán hận họ,
quý vị cũng không cần phải trả thù họ, không việc gì. Dần dần rèn luyện từ đây,
có lợi ích. Vì sao vậy? Quý vị sẽ được tâm thanh tịnh, được tâm thanh tịnh thì pháp
hỷ sung mãn, thật sự được thọ dụng, không còn phiền-não. Không khởi tâm không động
niệm thì phiền-não từ đâu ra? Khởi tâm động niệm là phiền-não
vi tế, Quyền-giáo Bồ-tát cũng có, phân-biệt, chấp-trước là phiền-não thô nặng, A-la-hán
đã đoạn rồi. Công phu của Phật pháp, chứng được quả vị hoàn toàn là nhờ buông xả,
không phải tín giải, tín giải không được, phải hành chứng, hành tức là buông xả,
chứng tức là chứng đắc quả vị, thật sự thăng cấp lên. Trong đây có pháp hỷ, trong
đây có trí huệ viên mãn. Hạnh phúc mỹ mãn mà người thế gian theo đuổi, trong Đại-thừa có, trong Tiểu-thừa đều
không có, huống chi là pháp thế gian! Vì vậy đối với thế gian, Dục-giới, Sắc-giới,
Vô-sắc-giới, thậm chí bao gồm Tứ-thánh pháp-giới, đều không để trong tâm, nhất
tâm cầu thế giới Cực Lạc thì đúng rồi, không sai chút nào.
Sau cùng có một câu, 乃至佛心亦能知之,安養菩薩,亦復如是 “Nãi
chí Phật tâm diệc năng tri chi, An Dưỡng Bồ-tát, diệc phục như thị” (Thậm
chí cũng có thể biết tâm Phật, Bồ-tát
cõi An Dưỡng cũng như vậy). Cõi An Dưỡng chính là thế giới Cực Lạc. Tất cả Bồ-tát
trong thế giới Cực Lạc đều có khả năng này. 生極樂之菩薩眾,其中上者多是一生補處菩薩 “Sanh Cực Lạc chi Bồ-tát chúng, kỳ trung thượng
giả đa thị Nhất-sanh Bổ-xứ Bồ-tát” (Các Bồ-tát vãng sanh cõi Cực Lạc,
đa số những vị Bồ-tát bậc thượng là Nhất-sanh Bổ-xứ Bồ-tát), cũng được bổn
nguyện oai thần của A Di Đà Phật gia trì, 故可上知佛心 “cố khả thượng tri Phật tâm” (nên bên
trên có thể biết tâm Phật). Người nào biết được tâm Phật? Những vị như Di Lặc
Bồ-tát biết được tâm Phật. Cảnh giới của tâm Phật với chúng ta mà nói là không
thể nghĩ bàn, chúng ta không cách nào tưởng tượng được, cũng không có ngôn ngữ
nào có thể nói rõ, Đẳng-giác Bồ-tát thì được. Đẳng-giác Bồ-tát vãng sanh đến thế
giới Cực Lạc nhiều, trong Kinh Di Đà nói, đều là người thượng thiện vãng sanh đến
thế giới Cực Lạc, số lượng không cách nào tính đếm được. Vậy thì Tiểu-hạnh Bồ-tát
càng không cần phải nói rồi, vãng sanh đến thế giới Cực Lạc càng nhiều hơn. Tha-tâm-thông,
chúng ta học đến đây. Được rồi, thời gian hôm nay hết rồi.
(Hết tập 174)
Nguyện
đem công đức này
Hướng về khắp tất cả
Đệ tử cùng chúng sanh
Đều sanh nước Cực Lạc
Chóng viên thành Phật quả
Rộng độ khắp chúng sanh.
Nam Mô A Di Đà Phật.