TỊNH ĐỘ ĐẠI KINH KHOA CHÚ 2014 (Giảng lần
thứ 4)
PHẨM 6: PHÁT ĐẠI THỆ NGUYỆN
Phát Thệ Nguyện Rộng Lớn
Tập 193
Hòa thượng Tịnh Không chủ giảng.
Giảng tại: Hiệp Hội Giáo Dục Phật Đà Hồng
Kông.
Thời gian: Ngày 30 tháng 3 năm 2015.
Ban biên dịch: Hoa Tạng Huyền Môn.
Dịch giả: Diệu Hiệp.
Kính chào quý vị Pháp sư, quý vị đồng học, mời an tọa. Thỉnh
mọi người cùng tôi quy y Tam Bảo:
A-xà-lê tồn niệm, ngã đệ tử Diệu Âm, thỉ tùng kim nhật,
nãi chí mạng tồn, quy y Phật Đà, lưỡng túc trung tôn, quy y Đạt Ma, ly dục
trung tôn, quy y Tăng Già, chư chúng trung tôn (3 lần).
Mời xem Đại Kinh Khoa Chú trang 494, trang 494, bắt đầu
xem từ hàng thứ năm, cách nói “thứ hai” trong hàng thứ năm, bắt đầu xem từ đây:
二者,《會疏》曰:定聚者,具云 “Nhị giả, Hội Sớ viết: Định-tụ giả, cụ vân” (Thứ hai, sách Hội
Sớ nói: Định-tụ, nói đầy đủ), cụ vân là đầy đủ,
định-tụ đã lược bớt chữ “chánh” rồi, nếu như nói đầy đủ, là 正定聚 “chánh-định-tụ”, cũng có thể nói là 不退轉 “bất thoái chuyển”
(không
thoái chuyển), 便是菩薩阿鞞跋致 “tiện thị Bồ-tát A-bệ-bạt-trí” (chính là A-bệ-bạt-trí
Bồ-tát).
Chúng ta xem tiếp bên dưới, 云何名正定 “vân hà danh chánh-định” (sao gọi là chánh-định?) Vì sao gọi
là chánh-định? 凡一切眾生,雖根性萬殊 “Phàm nhất thiết chúng sanh, tuy căn tánh vạn thù” (Tất cả chúng
sanh, tuy căn tánh mỗi người khác nhau), khác biệt
rất lớn, 以類聚之 “dĩ loại tụ chi” (dùng loại để tập hợp lại), phân loại
ra, phân loại 不出三種 “bất xuất tam chủng” (không ngoài ba loại), tức là
không ngoài ba loại lớn này. 以必墮六趣為邪定 “Dĩ tất đọa lục
thú vi tà-định” (Lấy chắc
chắn đọa lục đạo làm tà-định), hay nói cách
khác, họ không ra khỏi lục đạo luân hồi, người như vậy gọi là tà-định. 以升沉隨緣為不定 “Dĩ thăng
trầm tùy duyên vi bất-định” (Lấy thăng trầm tùy duyên làm bất-định), thăng là vượt khỏi lục đạo, trầm là chìm đắm trong lục
thú, đây là gặp duyên khác nhau. Mối liên hệ rất quan trọng, nếu trong đời quá
khứ có thiện căn, đời này gặp được Phật pháp thì duyên này thù thắng, nhưng Phật
pháp có Đại có Tiểu (Đại-thừa Tiểu-thừa), có Hiển có Mật, có Tông môn có Giáo hạ,
gặp duyên cũng khác nhau. Duyên gặp được nhất định tương ưng với những gì mình
tu học trong đời quá khứ, trong đời quá khứ học Giáo, vậy gặp được kinh luận
thì họ rất hứng thú, họ có thể tiếp tục nâng cao; nếu họ gặp được Thiền, gặp được
Mật thì họ không tương ưng, thông thường gặp được không lâu sau thì thoái tâm.
Chúng tôi nhìn thấy tình trạng này rất nhiều, thật sự mà nói là ở bên cạnh, đâu
đâu cũng có, đây gọi là bất-định.
Trong duyên, chúng tôi tin, người tu Tịnh-độ trong đời
quá khứ nhiều, duyên của Tịnh-độ với thế giới Ta Bà rất sâu, có thể nói là
không ai không tin Tịnh-độ. Nhưng mức độ tu Tịnh-độ khác nhau, nếu công phu
không sâu thì đời này gặp được rồi, rất có thể bị thoái chuyển. Nếu gặp phải
duyên khác thì có thể họ sẽ thay đổi, thay đổi phương hướng, thay đổi con đường,
như vậy thì họ biến thành tà-định, không gọi là chánh-định. Nếu lại gặp được Tịnh
tông, họ hoan hỷ, họ có thể hiểu rõ thì họ sẽ phát nguyện cầu sanh Tịnh-độ; nếu
chí nguyện cả đời kiên định, không bị ngoại cảnh làm lay chuyển, người này nhất
định được vãng sanh, vậy thì họ là chánh-định-tụ. Vì vậy, Tổ sư Đại đức chia
thành ba loại lớn, đầu tiên là Thích Ca Mâu Ni Phật đã nói, có ba loại lớn này,
ba loại lớn này đã bao gồm tất cả căn tánh rồi. 以定至菩提 “Dĩ định chí Bồ-đề”
(Lấy nhất
định đạt đến Bồ-đề), trở về chánh-định là chỉ đời này nhất
định thành tựu, nếu đời này không thể thành tựu, không thể vãng sanh thì không
được tính là chánh-định. Vãng sanh thế giới Cực Lạc, bất luận là phẩm vị nào
cũng gọi là chánh-định, từ thượng thượng phẩm đến hạ hạ phẩm đều thuộc về
chánh-định-tụ, điều này vô cùng quan trọng.
Đồng học học Phật nhất định phải nhớ kỹ, phải luôn có
tính cảnh giác, thân người khó được, thật sự khó được, tuyệt đối không phải là
giả. Trước đây, Thế Tôn đã nêu ra ba ví dụ, những ví dụ này cũng là hoàn hảo
đúng mức, tuyệt đối không thái quá. 盲龜浮木 “Manh quy phù mộc”
(Rùa mù
và khúc gỗ nổi), 須彌穿針 “Tu Di xuyên châm”
(xỏ kim từ
núi Tu Di), Phật thường nói điều này, khó biết mấy.
Vì vậy, nhất định phải quý trọng lần này được thân người, nghe Phật pháp, còn
vô cùng may mắn gặp được Tịnh-độ. Gặp được Tịnh-độ, quý vị còn gặp được bản hội
tập của ngài Hạ Liên Cư, quý vị còn gặp được Tập Chú của lão Cư sĩ Hoàng Niệm Tổ,
quý vị còn gặp được biểu pháp của Hòa thượng Hải Hiền. Thật sự, trong tam chuyển
pháp luân: thị chuyển, khuyến chuyển, tác chứng chuyển, quý vị đều gặp được rồi,
không thể không cầu vãng sanh, tâm cầu vãng sanh phải khẩn thiết. Đến nơi này,
những điều khác đều không để trong tâm, một lòng một dạ khẩn cầu A Di Đà Phật đến
tiếp dẫn ta, mỗi phút mỗi giây đều không thể đánh mất ý niệm này, ta sẽ không
đi con đường oan uổng nữa. Phải biết đời này vãng sanh, duyên cũng không dễ
dàng.
Trong kinh Đại-thừa, Thế Tôn thường nói, mỗi người vãng
sanh, bao gồm hạ hạ phẩm, đều là vô lượng kiếp trong đời quá khứ đến nay từng
cúng dường vô lượng chư Phật Như Lai. Thật sự chính là một câu trong Kinh Di Đà
đã nói: 不可以少善根福德因緣,得生彼國 “Bất khả dĩ thiểu thiện căn phước đức nhân duyên, đắc
sanh bỉ quốc” (Không thể
dùng chút ít thiện căn phước đức nhân duyên mà được sanh về cõi ấy). Nhiều thiện căn, nhiều phước đức, nhiều đến mức độ nào,
Phật đã nói rất rõ cho chúng ta biết, đời đời kiếp kiếp từ vô lượng kiếp đến
nay gặp được duyên cúng dường chư Phật Như Lai. Đời này gặp được Tịnh tông, oai
thần của chư Phật Như Lai gia trì, giúp quý vị có thể tin, có thể nguyện, hoan
hỷ trì danh, cầu sanh Tịnh-độ. Do đó, chúng ta có thể thể hội được, thiện căn,
phước đức, nhân duyên là do nhiều đời nhiều kiếp tu tích được, nếu đời này
chúng ta nắm bắt được, chắc chắn được sanh Tịnh-độ. Sẽ không bị ngoại cảnh làm
dao động, bất luận là hoàn cảnh vật chất, hoàn cảnh nhân sự, bao gồm tôn giáo
khác hoặc Pháp môn khác, chúng ta cũng không còn bị dao động, một câu Phật hiệu
niệm đến cùng. Đây là [cách nói] thứ hai.
Tiếp theo còn [cách nói] thứ ba, đây đều là nói tam tụ,
có cách nói khác nhau. 三者,據《起信論》 “Tam giả, cứ Khởi
Tín Luận” (Thứ ba,
căn cứ Khởi Tín Luận), trong Đại Thừa
Khởi Tín Luận đã nói: 十信以前之凡夫,不信因果,為邪定 “Thập-tín dĩ tiền
chi phàm phu, bất tín nhân quả, vi tà-định” (Phàm phu dưới Thập-tín không tin nhân quả, gọi là tà-định). Dưới Thập-tín, hay nói cách khác, lấy Thập-tín làm tiêu
chuẩn, không dễ dàng, Thập-tín không đơn giản. Sơ-tín-vị, công phu đoạn chứng của
Bồ-tát ở Sơ-tín-vị tương đồng với Sơ-quả của Tiểu-thừa, đó là Sơ-quả của Tiểu-thừa
đoạn 88 phẩm kiến hoặc. 88 phẩm chia thành năm loại lớn: Thân-kiến, biên-kiến,
kiến-thủ-kiến, giới-thủ-kiến, tà-kiến, đoạn hết rồi, trong Đại-thừa là Bồ-tát ở
Sơ-tín-vị, trong Tiểu-thừa là Sơ-quả Tu-đà-hoàn, các Ngài không phải là phàm
phu. Dưới Thập-tín, cũng tức là dưới Sơ-quả, vẫn chưa chứng được Sơ-quả, chưa
chứng được Sơ-tín thì họ không tin nhân quả, đây là tà-định. Điều tương đồng với
cách nói phía trước, đó chính là họ nhất định vẫn tiếp tục tạo lục đạo luân hồi,
đây thuộc về tà-định. Chánh-định, họ chắc chắn ra khỏi tam giới, ra khỏi lục đạo
luân hồi, ra khỏi mười pháp-giới, đó là chánh-định.
Chúng ta xem tiếp bên dưới, 十住以上為正定,十信之人為不定 “Thập-trụ dĩ thượng
vi chánh-định, Thập-tín chi nhân vi bất-định” (từ Thập-trụ trở lên là chánh-định, người trong Thập-tín
là bất-định). Khởi Tín Luận khác với cách nói phía
trước một chút. Dưới Thập-trụ là Thập-tín-vị, Thập-tín-vị bất định, các Ngài vẫn
còn tiến lùi, từ Sơ-tín đến Thập-tín. Có không? Có. Quý vị xem A-la-hán, có
thoái chuyển, A-la-hán thăng cấp lên tu Bồ-tát đạo, hồi tiểu hướng đại, nhưng
trong số đó vẫn có không ít người không thăng cấp được, thoái chuyển rồi; cũng
xem như không tệ, thoái chuyển đến địa vị La-hán. Tiểu-thừa có tiến có lùi, Thập-tín
cũng có tiến có lùi, đây là bất-định-vị. Từ Thập-trụ trở lên thì khác, Sơ-trụ Bồ-tát,
đây là Viên-giáo, Viên-giáo trong Hoa Nghiêm, Sơ-trụ Bồ-tát phá một phẩm
vô-minh, chứng một phần Pháp-thân, sanh đến Thật-báo-trang-nghiêm độ, đây là
chánh-định. Điều này trong Khởi Tín Luận nói sâu hơn cách nói phía trước. Sanh
đến Thật-báo-trang-nghiêm độ, các Ngài ở Thật-báo độ không ngừng thăng cấp, hướng
đến biển Tát-bà-nhã, biển Tát-bà-nhã là ví dụ, Tát-bà-nhã là tiếng Phạn, dịch
sang nghĩa Trung Hoa là trí huệ viên mãn, Nhất-thiết-chủng-trí mà Như Lai đã chứng.
Nhất-thiết-chủng-trí vô lượng vô biên, dùng biển lớn để hình dung, biển Nhất-thiết-chủng-trí,
đây là chánh-định. Cách nói của Khởi Tín Luận rất hay. Câu nói sau cùng, 此乃實教大乘之說 “thử nãi
thật giáo Đại-thừa chi thuyết” (đây là cách nói của thật giáo Đại-thừa), đây là Đại-thừa chân thật, Khởi Tín Luận. 本經第廿二品曰:若有善男子、善女人,若已生,若當生 “Bổn kinh đệ nhập nhị phẩm viết: Nhược hữu thiện-nam-tử,
thiện-nữ-nhân, nhược dĩ sanh, nhược đương sanh” (Phẩm thứ 22 trong kinh này nói: Nếu có thiện-nam-tử, thiện-nữ-nhân,
hoặc đã sanh, hoặc sẽ sanh), đây là bản Đường
Dịch. Trong ngoặc đơn, chúng ta có thể thấy được dụng tâm của Hoàng Niệm lão, mỗi
câu kinh văn ngài đều chỉ ra thuộc bản dịch nào, đây là bản Đường Dịch trong
năm bản dịch gốc, quý vị có thể đối chiếu, một chữ cũng không sửa đổi. Vì vậy,
chúng tôi từ sự trợ giúp cho chúng ta của Niệm lão, chỉ dẫn rõ ràng như vậy, khẳng
định bản hội tập này là chân kinh, là đích thân Thích Ca Mâu Ni Phật nói, hội tập
không phải là ngụy tạo, hội tập không thêm vào ý riêng của mình để sửa đổi một
chữ nào, đây là điểm mà rất nhiều bản hội tập đều không sánh bằng, bản này hội
tập rất tốt, quý vị không tìm ra sự thiếu sót, không tìm ra khuyết điểm. Hạ lão
hội tập bộ kinh này dùng tổng cộng thời gian mười năm, ba năm soạn bản thảo, sửa
đổi mười lần mới thành bản hiệu đính. Chúng sanh trong thời này của chúng ta có
phước, có thể thấy được bản hội tập hoàn hảo như vậy, đem nhiều lần tuyên giảng
của Thế Tôn trong một đời soạn thành một bản, chúng ta đỡ lo đỡ mất công, gặp
được bản kinh này thì vô cùng may mắn. Bản kinh này thật sự đã giới thiệu tường
tận về thế giới Cực Lạc cho chúng ta, giúp chúng ta đối với Pháp môn này sanh
khởi tín tâm, kiên cố nguyện tâm, tín nguyện trì danh, nhất định được vãng
sanh.
Nếu có thiện-nam-tử, thiện-nữ-nhân, hoặc dĩ sanh, hoặc
đương sanh, đã vãng sanh rồi, đương sanh là hiện nay vẫn chưa vãng sanh, tương
lai nhất định sẽ vãng sanh, gọi là đương sanh. 皆悉住於正定之聚 “Giai tất trụ ư
chánh-định chi tụ” (Thảy đều trụ trong chánh-định-tụ), lời nói này làm chứng minh cho chúng ta, giúp chúng ta
kiên định tín nguyện, giống như chư Phật thọ ký cho Bồ-tát vậy, đây là lời nói
thọ ký. Quý vị xem, 決定證於阿耨多羅三藐三菩提 “quyết định chứng ư A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề” (nhất định chứng đắc
A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề), A-nậu-đa-la
Tam-miệu Tam-bồ-đề chính là Vô-thượng Bồ-đề, Vô-thượng Bồ-đề chính là Nhất-thiết-chủng-trí,
trí huệ bát-nhã viên mãn vốn có trong Tự-tánh, không phải có từ bên ngoài, đến
thế giới Tây Phương Cực Lạc thì quý vị nhất định có thể chứng đắc. 是明 “Thị minh” (Điều này nói rõ), đây là nói rõ, 得生彼土,便入正定之聚,必證大涅槃果 “đắc sanh bỉ độ,
tiện nhập chánh-định chi tụ, tất chứng Đại Niết-bàn quả” (được sanh cõi nước
kia, liền vào chánh-định-tụ, nhất định chứng quả Đại Niết-bàn). Chúng ta có thể xem quyển Kinh Vô Lượng Thọ này là giấy
bảo đảm tu hành chứng quả, không chỉ dẫn dắt chúng ta, mà còn bảo đảm chúng ta
thành tựu, đến đâu để tìm Pháp môn này! Pháp môn vô lượng, thật sự có rất nhiều
Pháp môn rất tốt, chỉ dẫn quý vị, giúp quý vị thăng cấp, nhưng không có lời bảo
đảm; chỉ riêng bộ kinh này có lời bảo đảm, nhất định chứng được, chắc chắn chứng
đắc.
故善導大師曰:不斷煩惱得涅槃,斯示安樂自然德 “Cố Thiện Đạo Đại sư viết: Bất đoạn phiền-não đắc Niết-bàn,
tư thị an lạc tự nhiên đức” (Vì vậy, Đại sư Thiện Đạo nói: Không đoạn phiền-não chứng
Niết-bàn, điều này chỉ bày đức tự nhiên an lạc). Nguyên
nhân này là gì? Vì Tự-tánh vốn có, Tự-tánh vốn là như vậy. Trong Quán Kinh, Phật
nói: 是心是佛,是心作佛 “Thị tâm thị Phật, thị tâm tác Phật” (Tâm này là Phật,
tâm này làm Phật), tự nhiên, vốn có, chỉ cần chúng ta chịu
buông xuống, chỉ cần có thể buông xuống tất cả những điều trái với tự nhiên.
Tám thức và 51 tâm-sở không phải là tự nhiên, 11 sắc pháp cũng không phải là tự
nhiên, 24 điều không tương ưng cũng không phải là tự nhiên, vì sao vậy? Pháp hữu
vi. Quý vị xem trong Bách Pháp Minh Môn Luận, 94 pháp phía trước là pháp hữu
vi, pháp hữu vi thì không phải là tự nhiên, có sanh có diệt. Tuy phía sau có
sáu pháp vô vi, nhưng năm pháp trong đó là tương tự vô vi, không phải là thật sự
vô vi. Thật sự vô vi là pháp cuối cùng, Chân Như vô vi, đó là tự nhiên, đó là
không sanh không diệt. Ẩn hiện tự tại, nó ẩn, không có gì cả, Tự-tánh tâm thanh
tịnh không lập một pháp; nó hiện, hiện mười pháp-giới y chánh trang nghiêm. Ẩn
thì không thể nói không có, hiện cũng không thể nói có; nếu như có “có”, có
“không”, là đối lập, trong Tự-tánh không tìm được sự đối lập. Trong Tự-tánh
không chỉ không có những thứ này, mà ngay cả tên gọi cũng không có, quý vị phải
biết điều này. Biết rồi, quý vị mới chịu buông xuống. Hiện nay chúng ta chấp
trì danh hiệu, vì sao? Buông xuống hoàn toàn thì khó, đời này chúng ta không
làm được. Vậy chúng ta phải theo A Di Đà Phật, niệm danh hiệu của Ngài vãng
sanh thế giới Cực Lạc, đến thế giới Cực Lạc, rồi buông xả tất cả, quay về Tự-tánh,
rất tự nhiên, không phí chút sức lực nào.
Đến thế giới Cực Lạc, đại triệt đại ngộ, các Ngài thật sự
triệt ngộ. Quý vị xem, thế gian này của chúng ta nói triệt ngộ, triệt ngộ cũng
có 41 cấp bậc. Viên-giáo Sơ-trụ là đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh, nhưng
phía trên vẫn còn Nhị-trụ, Tam-trụ đến Thập-trụ, trên Thập-trụ có Thập-hạnh,
trên Thập-hạnh có Thập-hồi-hướng, trên Thập-hồi-hướng có Thập-địa, trên Thập-địa
có Đẳng-giác, có Diệu-giác. Trong Tự-tánh tâm thanh tịnh có những điều này
không? Không có. Những điều này từ đâu có? Từ tập-khí của vô-thỉ vô-minh biến
hiện ra, Sơ-trụ đã đoạn vô-thỉ vô-minh rồi, nhưng vẫn chưa đoạn tập-khí. Chúng
ta xem từ trình tự tu hành này, Bồ-tát Thất-tín-vị của Đại-thừa, các Ngài đoạn
kiến-tư phiền-não tương đồng với A-la-hán của Tiểu-thừa, đoạn kiến-tư phiền-não
rồi. Nhưng các Ngài có tập-khí, vẫn chưa đoạn tập-khí của kiến-tư phiền-não, vì
vậy, chứng đắc quả A-la-hán thì các Ngài tu gì? Đoạn tập-khí. Đoạn tập-khí rồi
thì các Ngài thăng cấp, các Ngài thăng cấp lên Bích-chi-phật, Bích-chi-phật
không chỉ đoạn kiến-tư phiền-não, mà tập-khí cũng đoạn rồi.
Dựa vào công phu đoạn chứng mà nói, A-la-hán tương đồng với
Thất-tín-vị trong Thập-tín của Đại-thừa, Thất-tín. Bồ-tát Thất-tín-vị đoạn tập-khí
của kiến-tư phiền-não rồi, liền thăng lên đệ Bát-tín, Bát-tín tương đương với
Bích-chi-phật của Tiểu-thừa. Bích-chi-phật đoạn gì? Đoạn hết kiến-tư phiền-não
rồi, phải đoạn trần-sa phiền-não, trần-sa hoặc. Bồ-tát Bát-tín-vị, cũng tức là
Bích-chi-phật của Tiểu-thừa, đoạn trần-sa phiền-não rồi, trần-sa phiền-não là
phân-biệt, chứng tỏ các Ngài không phân-biệt nữa, biết cả vũ trụ là một thể, đoạn
trừ ý niệm phân-biệt, các Ngài thăng cấp rồi. Tiểu-thừa là hồi tiểu hướng đại,
Quyền-giáo Bồ-tát của Đại-thừa, Biệt-giáo của Thiên Thai, các Ngài lên đến Thập-trụ
rồi; Viên-giáo, các Ngài vẫn chưa rời khỏi mười pháp-giới, Bồ-tát trong mười
pháp-giới, ở cấp bậc này đoạn tập-khí của trần-sa. Đoạn hết tập-khí của trần
sa, tiếp tục đoạn vô-thỉ vô-minh; đoạn vô-thỉ vô-minh rồi thì các Ngài thành Phật.
Quả Phật này, Đại sư Thiên Thai gọi đó là Phần-chứng-tức-Phật, là Phật thật
không phải Phật giả.
Thiên Thai nói lục tức, sáu kiểu Phật. Sáu kiểu Phật, nói
từ Bản-tánh, nói từ Bản-tánh thì quý vị vốn là Phật, đây gọi là Lý-tức-Phật,
nói từ mặt lý, tất cả chúng sanh vốn là Phật, câu nói này vô cùng quan trọng.
Vì sao chúng ta đến thế giới Cực Lạc thành tựu dễ dàng như vậy? Chính bởi vì
quý vị vốn là Phật, cho nên A Di Đà Phật mới có thể giúp được; quý vị vốn không
phải là Phật thì Ngài không giúp được. Cho nên nhất định phải biết, tất cả
chúng sanh khắp pháp-giới hư-không-giới, chúng sanh bao gồm động vật, thực vật,
khoáng vật, vốn là Phật, là một thể. Chúng ta mê rồi, mê mất Tự-tánh, biến
thành phàm phu trong lục đạo. Phải tu từ từ, tu gì? Trừ bỏ những chướng ngại
này, như vậy mà thôi. Phật là do tu thành sao? Không phải, quý vị vốn là Phật.
Trừ bỏ những sự mê hoặc này, kiến-tư là phiền-não nghiêm trọng, trừ bỏ đi; trần-sa
cũng là phiền-não tập-khí sâu nặng, cũng phải buông xuống; sau cùng là buông xuống
vô-thỉ vô-minh phiền-não. Vô-thỉ vô-minh là gì? Khởi tâm động niệm; trần-sa là
phân-biệt, kiến-tư là chấp-trước. Cách dùng công phu này như thế nào, chính
mình nhất định phải biết.
Sáu căn thật sự dụng công trong sáu trần, thật sự dụng
công chính là đừng chấp-trước nữa, đừng phân-biệt nữa, đừng khởi tâm động niệm
nữa. Quý vị xem, không chấp-trước thì quý vị chứng A-la-hán, không phân-biệt
thì quý vị thành Bồ-tát, không khởi tâm không động niệm thì quý vị là Viên-giáo
Sơ-trụ Bồ-tát, quý vị thành Phật rồi. Vì vậy, tu hành chính là tu ở chỗ sáu căn
tiếp xúc với sáu trần. Chúng ta dùng công phu gì? Một câu A Di Đà Phật. Niệm niệm
A Di Đà Phật, khiến khởi tâm động niệm của chúng ta không dấy khởi, vậy thì
thành công rồi, đó chính là Pháp-thân Đại sĩ; vẫn còn khởi tâm động niệm, không
có phân-biệt, chấp-trước là Bồ-tát, Quyền-giáo Bồ-tát, cũng tức là Bồ-tát trong
mười pháp-giới, Phật trong mười pháp-giới, là cấp bậc này; nếu chúng ta có, có
khởi tâm động niệm, có phân-biệt, không có chấp-trước, vậy chính là A-la-hán,
chính là Tiểu-thừa, Đại-thừa là Bồ-tát của Thập-tín. Đây gọi là chân tu. Sáu
căn trong cảnh giới sáu trần, vẫn khởi tâm động niệm, phân-biệt chấp-trước, đó
chính là phàm phu lục đạo, đây chính là tà-định-tụ đã nói phía trước.
Nếu chúng ta thật sự làm được, buông xuống chấp-trước rồi,
buông xả phân-biệt luôn rồi, dùng công phu gì để trực tiếp rèn luyện? Không khởi
tâm, không động niệm, là chánh-định-tụ, phải biết tu. Vì sao phải niệm Phật?
Chính là tẩy sạch khởi tâm động niệm, phân-biệt, chấp-trước, không để quý vị có
những điều này. Nhìn thấy rõ ràng, nghe được rõ ràng là trí huệ bát-nhã mà Tự-tánh
vốn có, dùng lâu rồi, tác dụng này càng ngày càng lớn. Càng ngày càng lớn thì
biến thành gì? Liền biến thành thần thông, từ nhục nhãn tu thành thiên nhãn, từ
thiên nhãn tu thành pháp nhãn, tu thành huệ nhãn, tu thành Phật nhãn. Pháp nhãn
là A-la-hán, cũng có người nói pháp nhãn là Bồ-tát, huệ nhãn là A-la-hán, như vậy
cũng không hề gì, không quan trọng, cách nói nào cũng có thể tìm được trong
kinh, đây đều là cấp bậc giữa, có trên có dưới. Thông thường chúng tôi giảng giải
là dùng ngũ nhãn viên minh trong Kinh Kim Cang, chúng tôi đưa ra một ví dụ. Tu
hành khi mắt nhìn sắc tướng, tu hành khi tai nghe âm thanh, tu hành khi mũi ngửi
hương, khi lưỡi nếm vị, khi thân tiếp xúc, khi ý khởi tâm động niệm, vọng-tưởng
tạp-niệm, hết thảy đều dùng một câu A Di Đà Phật này, Tịnh tông thật tuyệt diệu!
Chỉ dùng một câu Phật hiệu này, dọn dẹp sạch sẽ những chướng ngại đó, bản lai
diện mục của chúng ta liền hiện tiền, bản lai diện mục là Phật, không phải phàm
phu.
Đại sư Lục tổ Huệ Năng đời nhà Đường làm được rồi, lão
Hòa thượng Hải Hiền ở chùa Lai Phật thời nay làm được rồi, ngài thật sự làm được.
Quý vị xem kỹ đĩa phim của ngài, quý vị có thể xem đĩa phim này đến 100 lần,
200 lần, 300 lần, tôi tin quý vị sẽ tin lời nói của tôi, ngài thật sự đại triệt
đại ngộ. Ngài cũng đã tiết lộ một chút vết tích, không thường để lộ, không ai
biết, ngài nói: “Điều gì tôi cũng biết”, điều gì cũng biết chính là đại triệt đại
ngộ. Ngài chưa từng đọc kinh, ngài không biết chữ, giống như Đại sư Huệ Năng vậy,
quý vị đọc Kinh Hoa Nghiêm cho ngài nghe, ngài sẽ giảng cho quý vị nghe. Cả đời
ngài không làm việc này, vì sao? Vì thầy đã dạy ngài. Khi lão Hòa thượng Truyền
Giới thế độ cho ngài nói với ngài, chỉ dạy ngài một câu A Di Đà Phật, dặn ngài
cứ niệm liên tục. Hiểu rõ rồi, tương lai sẽ có ngày đại triệt đại ngộ, hiểu rõ
rồi, không được nói lung tung, không thể nói.
Đại sư Huệ Năng khai ngộ rồi, cũng có chướng duyên, trốn
trong đội thợ săn 15 năm, 15 năm sau duyên chín muồi rồi, có thể nói ra. Duyên
của lão Hòa thượng không chín muồi, trong thời đại này, quý vị nói, người ta
không tin. Đọc kinh cho quý vị nghe, quý vị cũng có thể giảng cho mọi người
nghe, họ sẽ không nói quý vị thành Phật, họ không tin điều này, họ sẽ dùng mọi
phương pháp để suy đoán. Vì vậy đừng nói ra, dùng phương pháp này để biểu pháp
là tốt nhất. Mong rằng mỗi người, cho dù chứng được rồi cũng đừng nói lung
tung. Quý vị nói quý vị khai ngộ rồi, quý vị có thể giảng Hoa Nghiêm, ai chịu
tin? Ngày nay ai chứng minh cho quý vị là quý vị không giảng sai? Không tìm được
người chứng minh. Đại sư Huệ Năng khai ngộ rồi, Ngũ tổ chứng minh cho ngài,
ngài mới chỉ là Tổ sư đời thứ sáu. Lão Hòa thượng Hải Hiền ở thế giới ngày nay,
bất luận là tông phái nào cũng không có người khai ngộ, nên không ai chứng minh
cho ngài, vậy thì không thể nói, nói ra thì rất phiền phức.
Ngài nghe lời, ngài thật làm, chỉ là biểu pháp làm tấm
gương cho đệ tử nhà Phật, làm tấm gương cho đệ tử Di Đà của Tịnh tông, ngài làm
được điều này rồi, thật sự có đại trí huệ, đại phước báo. Khi ra đi tự tại biết
bao, tiêu diêu biết mấy! Rất nhiều người nhìn thấy rồi, người có sẵn thiện căn
và phước đức sẽ sanh tâm ngưỡng mộ, tin rồi, tăng trưởng tín nguyện của mình;
cũng có không ít người không hề tin, nhìn thấy rồi họ cũng không tin. Thời xưa,
rất nhiều người nhìn thấy đều tin, hiện nay thì người nhìn thấy không tin, vì
sao vậy? Vì không có bằng chứng khoa học. Chính mắt họ nhìn thấy cũng không
tin, còn phải nói đến bằng chứng khoa học, vậy thì khó rồi. Đây chính là thiện
căn, phước đức, nhân duyên của thời đại này kém xa so với trước kia.
Pháp khó tin, ở thời đại này còn khó tin hơn so với thời
đại trước, nhưng Pháp môn này chắc chắn là thật, tuyệt đối không phải giả. Chúng ta biết ơn Hạ Liên công hội tập, biết ơn Hoàng Niệm
lão chú giải, không dễ dàng, bộ chú giải này đã dùng 83 loại kinh luận, còn có
110 loại chú sớ của Tổ sư Đại đức. Chúng ta đọc bộ chú giải này, xem như đã đọc
tư liệu của 193 loại điển tịch, nội dung vô cùng phong phú. Thời kỳ mạt pháp,
chân thật tu Tịnh-độ, chân chánh học Đại-thừa, bắt đầu từ bộ kinh, bộ chú giải
này thì đủ rồi. Kinh phải thuộc lòng, chú giải phải hiểu rõ, có thể đọc tụng bộ
kinh này ba ngàn lần thì có thể thuộc lòng; có thể xem bộ chú giải này từ đầu đến
cuối 30 lần thì quý vị có thể giảng giải, quý vị sẽ không giảng sai. Có cần phải
đi học không? Không cần, bản thân ngồi ở nhà là được rồi. Bây giờ chúng ta nhìn
thấy một tấm gương tốt, Cư sĩ Lưu Tố vân, cô ấy học như thế, Cư sĩ tại gia,
chuyên gia Kinh Vô Lượng Thọ. Mười năm nay, cô ấy chỉ hạ thủ công phu vào bộ
kinh này, bộ chú giải này, làm tấm gương cho chúng ta. Ý nghĩa của tấm gương
này vô cùng sâu sắc, vì sao vậy? Phật giáo Trung Hoa hiện nay gián đoạn rồi,
không còn nữa, nhờ vào ai để truyền thừa? Nhờ vào những người này, những người
như cô Lưu Tố Vân, cô ấy dẫn đầu. Người học Hoa Nghiêm, cũng phải thuộc lòng
Kinh Hoa Nghiêm, việc này phải [bắt đầu] từ nhỏ, học từ mười mấy tuổi là tốt nhất,
vào lúc trí nhớ tốt nhất, có thể thuộc lòng bộ Hoa Nghiêm 80 quyển, nếu có đủ
khả năng, học thuộc thêm bộ Tứ Thập Hoa Nghiêm. Xem Chú Giải của Đại sư Thanh
Lương, Hợp Luận của Lý Trưởng Giả, có thể xem 20, 30 lần thì Tổ sư của Hoa
Nghiêm tông xuất hiện rồi, người truyền thừa Hoa Nghiêm xuất hiện rồi. Không phải
Đại học Phật giáo, Đại học Phật giáo không có tác dụng, học một số tri thức Phật
giáo, không gốc không rễ. Người học Pháp Hoa cũng dùng phương pháp này, xem
sách chú giải Pháp Hoa Văn Cú của Đại sư Thiên Thai. Bất luận là học bộ kinh luận
nào, học Pháp Tướng, học Pháp Tánh tông, Tam Luận tông đều dùng phương pháp
này, quý vị thích bộ nào thì chủ tu một bộ đó. Như Kinh Kim Cang, không dài, chủ
tu một bộ; chú giải, chú giải của Cư sĩ Giang Vị Nông là tốt nhất, ngài cũng là
thu thập tất cả, chú giải Kinh Kim Cang từ xưa đến nay, ngài đã tham cứu hết rồi,
Giảng Nghĩa của ngài là tập chú. Học Bát Nhã Tâm Kinh thì học của Chu Chỉ Am. Các
ngài đều dụng công trên một bộ sách 40 năm, chuyên tham cứu một môn, trở thành
chuyên gia. Khi còn trẻ tôi học Kinh Kim Cang, chính là học Giảng Nghĩa của Cư
sĩ Giang Vị Nông; học Tâm Kinh thì học chú giải của Chu Chỉ Am.
Đây là không có thầy mà tự thông hiểu, đọc nhiều, người
xưa nói, 讀書千遍,其義自見 “độc thư thiên biến, kỳ nghĩa tự kiến” (đọc sách ngàn lần,
tự hiểu nghĩa kia), một ngàn lần, tự hiểu chính là khai
ngộ, tự hiểu rõ. Vì sao vậy? Đọc một ngàn lần, tâm định rồi, định có thể khai
huệ, huệ có thể thông kinh, thông hiểu kinh này rồi. Phải đi con đường này, tìm
thầy sẽ không thể tìm được, nhất định phải biết điều này. Nương theo phương
pháp của tôi, mười năm thì quý vị nhất định thành tựu. Mười năm sau, quý vị ra
giảng bộ Đại Kinh này, sẽ có người đến chứng minh cho quý vị. Hoàn toàn cầu cảm
ứng, cảm ứng đạo giao. Chúng ta thật làm chính là cảm, Phật Bồ-tát đến ứng,
không chừng từ đâu đó xuất hiện cao nhân đến ấn chứng cho chúng ta.
Phẩm thứ 22 trong kinh này, đây là kinh văn, 若有善男子、善女人,若已生,若當生,皆悉住於正定之聚,決定證於阿耨多羅三藐三菩提 “nhược hữu thiện-nam-tử, thiện-nữ-nhân, nhược dĩ sanh,
nhược đương sanh, giai tất trụ ư chánh-định chi tụ, quyết định chứng ư A-nậu-đa-la
Tam-miệu Tam-bồ-đề” (nếu có thiện-nam-tử, thiện-nữ-nhân, hoặc đã sanh, hoặc sẽ
sanh, thảy đều trụ trong chánh-định-tụ, nhất định chứng đắc A-nậu-đa-la Tam-miệu
Tam-bồ-đề). Điều này nói
rõ được sanh cõi nước kia, liền vào chánh-định-tụ, nhất định chứng quả Đại
Niết-bàn. Cho nên Đại sư Thiện Đạo nói: 不斷煩惱得涅槃,斯示安樂自然德 “Bất đoạn phiền-não
đắc Niết-bàn, tư thị an lạc tự nhiên đức” (Không đoạn phiền-não chứng Niết-bàn, điều này hiển bày đức
tự nhiên an lạc), đây là nói đức tự nhiên. Tiếp theo lại
trích dẫn lời văn trong sách An Lạc Tập, trong An Lạc Tập nói: 以信佛因緣,願生淨土,起心立德,修諸行業,佛願力故,即便往生 “Dĩ tín Phật nhân duyên, nguyện sanh Tịnh-độ, khởi tâm lập
đức, tu chư hạnh nghiệp, Phật nguyện lực cố, tức tiện vãng sanh” (Vì nhân duyên tin
Phật, nguyện sanh Tịnh-độ, khởi tâm lập đức, tu các hạnh nghiệp, nhờ nguyện lực
của Phật nên được vãng sanh). Những câu nói
này, câu nào cũng quan trọng. Trước tiên là tin Phật, thật tin, quyết định
không sanh nghi hoặc, niềm tin này mới hữu hiệu, thật tin mới có nguyện chân thật.
Ở thế giới này tu hành quá khó, vô cùng vất vả, tôi học 64 năm rồi, đến ngày
hôm nay, biết ơn Phật Bồ-tát, được sự gia trì của Phật Bồ-tát, được sự chiếu cố
của Phật Bồ-tát, phương hướng của chúng tôi rất vững vàng, không thiên, không lệch,
sau khi gặp được Tịnh-độ mới có tín tâm kiên định.
Không gặp được Tịnh-độ, tuy những đại kinh đại luận này,
bất kỳ Pháp môn nào cũng cần phải đoạn phiền-não, chứng Bồ-đề, có thể đoạn phiền-não
được sao? Không cách nào đoạn được, hiện nay sức cám dỗ quá mạnh, năm sau có thể
giảm nhẹ so với năm trước thì khá lắm rồi. Phiền-não nhẹ, trí huệ liền tăng trưởng,
rất rõ ràng. Trí huệ từ đâu có? Không phải từ thuộc lòng kinh điển mà có, là từ
tâm thanh tịnh mà có, một phần thanh tịnh được một phần trí huệ, mười phần
thanh tịnh được mười phần trí huệ. Vì vậy, trong tâm không để điều gì khác, tốt
nhất là sinh hoạt thường ngày của mình cũng không để trong tâm, tùy duyên, ăn
gì cũng được, mặc gì cũng được, không có yêu cầu, không có lựa chọn. Đây là gì?
Không cần bận tâm, chỉ niệm A Di Đà Phật. Từ đâu thấy được có sanh trí huệ hay
không? Từ vấn đáp thấy được, từ sáng đến tối thường gặp người khác, có câu hỏi
thỉnh giáo quý vị, câu hỏi không cho quý vị biết trước, họ nói ra quý vị có thể
giải đáp, giải đáp xong họ nghe rất hài lòng, đây chính là trí huệ hiện tiền.
Người trong xã hội, nam nữ già trẻ, các ngành các nghề, câu hỏi đặt ra không
như nhau. Câu hỏi giống nhau, đó là do xã hội quá loạn, tai nạn trên trái đất
quá nhiều, nghe tin tức hằng ngày, mọi người đều rất lo lắng, đây là vấn đề
chung; vấn đề cá nhân thì rất phức tạp. Cho nên tự nhiên có thể giải đáp, thật
sự giúp người khác giải quyết được vấn đề.
Những câu nói này trong An Lạc Tập không nằm ngoài tín,
nguyện, hạnh. Nhân duyên tin Phật là tín; nguyện sanh Tịnh-độ là phát nguyện;
khởi tâm lập đức, tu các hạnh nghiệp, đây là hạnh. Khởi tâm gì? Tâm Bồ-đề. Tâm
Bồ-đề là gì? Kinh luận mà Đại đức trước kia của Tịnh tông nương theo là Kinh
Quán Vô Lượng Thọ Phật và Đại Thừa Khởi Tín Luận.
Trong Đại Thừa Khởi Tín Luận nói trực tâm, thâm tâm, đại bi tâm; trong Quán
Kinh nói với chúng ta là chí thành tâm, thâm tâm, hồi hướng phát nguyện tâm. Hợp
Kinh luận lại với nhau thì ý nghĩa rất rõ ràng. Khởi Tín Luận nói trực tâm,
Quán Kinh nói chí thành tâm, chân thành đến tột cùng; Khởi Tín Luận gọi là trực
tâm, chân thành đến tột cùng, đây là khởi tâm lập đức. Dùng chân-tâm đối với
ai? Đối với tất cả chúng sanh, trong sinh hoạt hằng ngày của chúng ta dùng
chân-tâm, làm việc dùng chân-tâm, đối nhân tiếp vật đều dùng chân-tâm. Đừng sợ, người khác dùng vọng-tâm đối với ta, đến dối gạt
ta, ta dùng chân-tâm đối với họ, hình như chúng ta chịu thiệt thòi rất lớn?
Không lớn chút nào, họ tạo lục đạo luân hồi, không ra khỏi; đời này chúng ta ra
khỏi rồi, không tạo lục đạo luân hồi nữa, quý vị có muốn dùng chân-tâm không?
Quý vị dùng chân-tâm, ra khỏi sáu đường; quý vị dùng vọng-tâm, tiếp tục trong
sáu đường. Vì vậy, quý vị không chút thiệt thòi nào, lợi ích mà quý vị đạt được
rất lớn.
Chân-tâm biểu hiện bên ngoài, đơn giản mà nói chính là giới
luật, Ngũ giới Thập thiện, là chân-tâm. Trong văn hóa truyền thống Trung Hoa,
chính là Ngũ luân, Ngũ thường, Tứ duy, Bát đức, chúng tôi quy nạp bốn khoa này
lại chỉ có 12 chữ “hiếu đễ trung tín, lễ nghĩa liêm sỉ, nhân ái hòa bình”. Từ
sáng đến tối, sinh hoạt, công việc, đối nhân tiếp vật, nhất định phải tương ưng
với 12 chữ này, như vậy chính là chân-tâm; trái ngược với 12 chữ này là vọng-tâm.
Bất hiếu bất đễ, bất trung bất nghĩa, người như vậy niệm Phật không đến được thế
giới Cực Lạc. Thế giới Cực Lạc mang nghiệp vãng sanh, mang nghiệp cũ không mang
theo nghiệp mới, hằng ngày quý vị vẫn tạo nghiệp này, vậy không thể mang được.
Nghiệp đã tạo trong quá khứ có thể mang theo, quá khứ này tính từ lúc nào? Từ
khi quý vị có duyên gặp được Tịnh tông, hiểu rõ ràng, hiểu thấu suốt Tịnh tông,
chân thật tin, chân chánh phát nguyện cầu sanh Tịnh-độ, bắt đầu từ lúc này. Nhớ
kỹ, khởi tâm lập đức, đức này là công đức, vô lượng vô biên công đức ở ngay
trong cuộc sống. Tất cả hạnh nghiệp, hạnh là đang tạo, nghiệp là kết quả sau
khi tạo tác, kết nghiệp, là đức, hạnh là đức, nghiệp cũng là đức. Hạnh trước
đây sai rồi, nghiệp đã kết là ác nghiệp, tà hạnh, ác nghiệp; bây giờ tu chánh hạnh,
thiện nghiệp; nâng cao lên chính là tịnh nghiệp, tịnh hạnh,
tịnh nghiệp, đây là chánh-định-tụ.
Chúng ta xem phần tiếp theo, 以佛力住持,即入大乘正定聚 “dĩ Phật lực trụ
trì, tức nhập Đại-thừa chánh định tụ” (vì Phật lực trụ trì nên vào Đại-thừa chánh-định-tụ), đây là được Phật lực gia trì. Chỉ cần quý vị chịu phát
tâm, chính là phát tâm Bồ-đề mà vừa rồi đã nói, dùng chân-tâm, chân thành tâm đối
với mọi người. Thâm tâm là gì? Đại đức xưa giải thích là hiếu thiện hiếu đức,
đây chính là thâm tâm; thâm tâm là tự thọ dụng. Niệm Phật là thâm tâm tốt nhất,
trong tâm ta không có ý niệm khác, chỉ có A Di Đà Phật, chỉ nghĩ thế giới Cực Lạc,
không nghĩ đến nơi khác. Hằng ngày đều nghĩ, sẽ có một ngày nghĩ được rồi; hằng
ngày nghĩ A Di Đà Phật, A Di Đà Phật hiện tiền rồi, đây là công đức viên mãn. 正定聚者,即是阿鞞跋致不退位也 “Chánh-định-tụ
giả, tức thị A-bệ-bạt-trí bất thoái vị” (Chánh-định-tụ là bất thoái vị A-bệ-bạt-trí). Cho nên nguyện, chúng ta học qua nguyện thứ 20, nguyện
thứ 20 nói đến vãng sanh đến thế giới Cực Lạc, bất luận là phẩm vị nào, từ thượng
phẩm thượng sanh đến hạ phẩm hạ sanh, hết thảy đều được [làm] A-duy-việt-trí Bồ-tát,
viên mãn chứng đắc tam bất thoái. Vị bất thoái, A-la-hán chứng được rồi; hạnh bất
thoái là Bồ Tát chứng được; niệm bất thoái là Pháp-thân Bồ-tát chứng được. Đây
gọi là viên mãn chứng đắc tam bất thoái. Ở thế giới này, đừng nói đến hạnh, niệm,
mà cả vị cũng không giữ được.
Đời này chúng ta đến thế gian này, được thân người, đời
sau còn được thân người không? Thế Tôn nói cho chúng ta một ví dụ, đời này được
thân người, sau khi mất đi thân người, cơ hội đời sau được lại thân người giống
như rùa mù và khúc gỗ nổi, xỏ kim từ núi Tu Di, quý vị nói khó biết bao. Treo một
sợi chỉ trên núi Tu Di, dưới núi để một cây kim thêu, sợi chỉ này thòng xuống
dưới, xỏ đúng vào lỗ của cây kim thêu. Cơ hội này quá
mong manh, quý vị hỏi ai cũng lắc đầu, đều không thể nào, làm gì có chuyện
trùng hợp như vậy? Được thân người thật khó. Muốn được thân người, phải tu Thập
thiện nghiệp đạo, dùng chân-tâm đối người xử việc tiếp vật, có thể được thân
người. Dùng vọng-tâm, người xưa Trung Hoa của chúng ta nói, con người từ bỏ Ngũ
thường, đời sau không được thân người, đến cõi khác rồi, không có phần trong trời
người. Không có phần trong trời người, bốn cõi bên dưới: A-tu-la, ngạ quỷ, địa
ngục, súc sanh, đến những cõi đó rồi, quý vị nói đáng sợ biết mấy. Những điều
này đều là chân tướng sự thật, không giả chút nào, quý vị có thể tin, đó là quý
vị có phước báo, quý vị có trí huệ; quý vị không có trí huệ, không có phước báo
thì quý vị không tin. Không có tâm cảnh giác cao, tuy là biết được, nhưng vẫn
không tránh khỏi phạm lỗi lầm, không nghiêm túc niệm Phật, không nghiêm túc cầu
sanh Tịnh-độ thì việc vãng sanh Tịnh-độ là một dấu chấm hỏi.
Phần tiếp theo trong ngoặc đơn nói, 又善導大師依願言及《唐譯》經文,謂此願 “hựu Thiện Đạo Đại sư y nguyện ngôn cập Đường Dịch kinh
văn, vị thử nguyện” (lại nữa, Đại sư Thiện Đạo dựa vào lời nguyện và kinh văn
trong bản Đường Dịch, nói nguyện này), nguyện này chính
là nguyện thứ 29, 亦具現生不退之密義 “diệc cụ hiện tại bất thoái chi mật nghĩa” (cũng có đủ nghĩa
thâm mật không thoái chuyển trong đời này). Nguyện này nói cho chúng ta biết
không thoái chuyển, trụ chánh-định-tụ. Trụ, trong tâm chỉ trụ A Di Đà Phật
chính là chánh-định-tụ, chánh-định trong chánh-định, không thiên không tà.
Chánh-định-tụ có nghĩa là gì? Là Pháp-thân Bồ-tát, niệm niệm quy hướng
Tát-bà-nhã hải, tức là niệm niệm hướng đến Vô-thượng Bồ-đề, sao họ có thể không
thành tựu được? Đây là điều chúng ta nhất định phải biết, phải hiểu rõ. Vì vậy,
Đại sư Thiện Đạo nói rất hay, trong đây có đời này, hiện tại không thoái chuyển,
có nghĩa thâm mật này trong đó. Vãng sanh đến thế giới Cực Lạc không thoái chuyển,
ngay hiện tại không thoái chuyển, vì sao vậy? Quý vị nhất định được vãng sanh,
cơ duyên này thật khó có được. 文中若當生則指求生之人,亦入正定聚。是為不共之說 “Văn trung nhược
đương sanh tắc chỉ cầu sanh chi nhân, diệc nhập chánh-định-tụ. Thị vi bất cộng
chi thuyết” ([Câu]
“hoặc sẽ sanh” trong kinh văn là chỉ người cầu vãng sanh cũng nhập vào chánh-định-tụ.
Đây là những cách nói khác nhau), đến phẩm thứ 22
phía sau, Niệm lão cũng có lời khai thị tường tận.
Chúng ta xem phần tiếp theo, nguyện thứ 30: 樂如漏盡比丘 “Lạc như
lậu tận Tỳ-kheo” (Vui như Tỳ-kheo diệt hết các lậu). Đây đều là tình trạng chân thật của thế giới Cực Lạc,
Thích Ca Mâu Ni Phật đã nói cho chúng ta biết trước, khiến chúng ta sanh khởi
tâm quy hướng. Chúng ta xem kinh văn:
【永離熱惱。心得清涼。所受快樂。猶如漏盡比丘。】
“Vĩnh ly nhiệt não, tâm đắc thanh lương, sở thọ khoái lạc,
do như lậu tận Tỳ-kheo”
(Mãi xa lìa nhiệt
não, tâm được thanh lương, được hưởng niềm vui như Tỳ-kheo diệt hết các lậu).
漏盡比丘 “Lậu tận Tỳ-kheo” (Tỳ-kheo diệt hết các lậu) là
A-la-hán. “Lậu” là phiền-não, ở chỗ này là chỉ kiến-tư phiền-não, đoạn hết kiến-tư
phiền-não rồi thì chứng quả A-la-hán. Niềm vui mà A-la-hán hưởng được, nhân
gian chúng ta, trên trời cũng không sánh bằng, trời có 28 tầng trời, không thể
so sánh với A-la-hán. Chúng ta xem chú giải, nguyện thứ 30, “mãi xa lìa nhiệt não, tâm được thanh lương,
được hưởng niềm vui như Tỳ-kheo diệt hết các lậu”. 是為樂如漏盡願 “Thị vi lạc như lậu
tận nguyện” (Đây là
nguyện vui như diệt hết các lậu), câu này đã nêu
ra khoa đề rồi. 熱惱 “Nhiệt não” là phiền-não, 為劇苦所逼,身熱心惱,故名熱惱 “vi kịch khổ sở bức,
thân nhiệt tâm não, cố danh nhiệt não” (bị nhiều nỗi khổ bức bách, thân nhiệt tâm não, nên gọi
là nhiệt não), người trong lúc oán hận hoặc cống cao
ngã mạn đều có hiện tượng này. Nổi giận, bốc hỏa,
cho nên khi nổi giận thì mặt cũng đỏ bừng, cơ thể đều nóng lên, tức giận. Bị
nhiều nỗi khổ bức bách, nhiệt não. Mãi xa lìa nhiệt não, ngay bây giờ có thể đạt
được, ai có thể đạt được? Người niệm Phật có thể đạt được. Người niệm Phật,
trong 24 giờ chỉ một câu Phật hiệu, niệm niệm tương tục, Phật hiệu không gián
đoạn. Người có công phu đắc lực, nhìn tất cả chúng sanh đều là A Di Đà Phật,
nhìn thấy núi sông đất đai là thế giới Cực Lạc, họ “tâm được thanh lương”, mát
mẻ tự tại, đây là điều hiện nay đạt được. Vĩnh viễn xa lìa nhiệt não, nhiệt não
là sân hận, tham lam, ngu si, tham sân si mạn [là] nhiệt não. Vì sao họ có thể
vĩnh viễn xa lìa? Họ biết đó là giả, đó không phải là thật, cho nên họ chịu
buông xuống, họ hoan hỷ buông xuống. Vì sao người thông thường không thể buông
xuống? Vì họ xem là thật, họ cho là thật, vậy thì buông không được. Thật sự biết
được đó là giả, quý vị sẽ không cho là thật, trong tất cả cảnh duyên đều không
có được mất. Gặp được rồi, có được rồi không sanh tâm
hoan hỷ; không sanh tâm tham luyến, mất đi rồi, đánh mất rồi không sân hận,
không để những việc này trong tâm, trong tâm chỉ có A Di Đà Phật, vậy là đúng rồi.
A Di Đà Phật quan trọng hơn tất cả, lão Hòa thượng Hải Hiền
có nói một câu, chúng ta phải ghi nhớ lời đó, ngài đã từng nói: “A Di Đà Phật
là gốc của lão Hòa thượng tôi!” Câu nói này quan trọng, ngài có gốc, chúng ta đều
không có gốc. Có gốc, chánh-định-tụ; không có gốc, bất-định-tụ. Ngài thật sự có
gốc, mọi lúc mọi nơi ngài đều không đánh mất, trong sinh hoạt, mặc áo ăn cơm
không đánh mất, làm việc không đánh mất, đối người tiếp vật cũng không đánh mất.
Trong cảm nhận đối nhân tiếp vật của ngài, giống như ở thế giới Cực Lạc vậy,
xem tất cả chúng sanh là chư thượng thiện nhân, đều là đức Di Đà, Quán Âm, pháp
hỷ sung mãn. Cho nên cả đời lão Hòa thượng chưa từng nổi giận, không tranh luận
cao thấp với người khác, không có, luôn khiêm nhường. Thật sự có thể buông xuống,
vì sao vậy? Ngài nhìn thấy thế giới Cực Lạc rồi, cũng gặp mặt A Di Đà Phật rồi,
thế giới Cực Lạc thật sự tốt, hoàn toàn khác với nơi này, cho nên ngài hoàn
toàn buông xuống thế giới này. Vẫn ở lại thế gian này, không phải là ý của
ngài, bởi vì chính ngài đã nói, ngài khẩn cầu Lão Phật Gia (chính là A Di Đà Phật)
nhiều lần, không phải một lần, khẩn cầu A Di Đà Phật đưa ngài đến thế giới Cực
Lạc. Ngài nói Lão Phật Gia không chịu, Lão Phật Gia nói ngài tu rất tốt, ở thế
gian này thêm vài năm nữa, làm biểu pháp, làm tấm gương tốt cho mọi người.
Chúng tôi quan sát lão Hòa thượng, thật sự không có gì để nói.
Chúng tôi vào khoảng 30 năm trước, tôi ở Mỹ, Niệm lão dặn
dò tôi, ở khắp mọi nơi trên nước Mỹ thành lập Tịnh Tông Học Hội, lúc bấy giờ ở
Mỹ và Canada có hơn 30 Học hội. Học hội của chúng ta hoàn toàn giống như Liên
xã thời xưa, chỉ thay đổi tên gọi, Tịnh Tông Học Hội. Học hội của chúng ta hoàn
toàn độc lập, không có quan hệ phụ thuộc, các nơi đều độc lập, hành chính độc lập,
tài vụ độc lập, nhân sự độc lập. Chỉ có việc học tập Pháp môn này của chúng ta
là như nhau, chúng ta đều y theo bản hội tập của lão Cư sĩ Hạ Liên Cư, về sau y
theo tập chú của Niệm lão, chúng tôi giảng kinh ở khắp nơi cũng lấy hai bộ này
làm chủ. Vì vậy, Tịnh Tông Học Hội ở thế giới này cũng không ít, ước đoán có
khoảng 200 Học hội, các nơi đều độc lập. Có khi tôi ra
nước ngoài, cũng được họ tiếp đãi, cùng họ thảo luận phương pháp tu học,
khích lệ mọi người thật tin, thật nguyện, thành thật niệm Phật, cầu sanh Tịnh-độ,
các đồng tu đều tiếp nhận, đây là việc tốt. Làm người, những năm nay [tôi] đều
khuyên bảo mọi người học lão Hòa thượng Hải Hiền, đĩa phim của ngài được tặng rất
nhiều ở nước ngoài, sách Vĩnh Tư Tập cũng lưu truyền rất rộng, hy vọng mọi người
học tập một cách nghiêm túc.
Tốt nhất là giống như chỗ này đã nói, hiện tại trụ trong
chánh-định-tụ, không đi đường vòng, không thiên không tà. Đi theo Hạ Liên công,
đi theo Hoàng Niệm lão sẽ không sai, hai vị Đại đức này thông Tông thông Giáo,
Hiển Mật viên dung, sau cùng đều quay về Tịnh-độ, như vậy sẽ không sai. Lão Hòa
thượng Hải Hiền làm chứng chuyển cho chúng ta, chứng minh thật sự có thế giới Cực
Lạc, ngài đã thấy, không chỉ một lần, thật sự có A Di Đà Phật, tín nguyện trì
danh, nhất định được sanh Tịnh-độ. Lão Hòa thượng chứng minh cho chúng ta, con
đường chúng ta đi là chánh tri chánh kiến, là chánh pháp, không đi sai đường.
Sau cùng ngài biểu pháp cho chúng ta, nhìn thấy sách “Nếu
Muốn Phật Pháp Hưng, Chỉ Tăng Tán Thán Tăng”, nhìn thấy quyển sách này.
Chúng tôi tự nhiên nghĩ đến, nhất định là A Di Đà Phật đã giao hẹn với ngài,
khi nào con nhìn thấy quyển sách này, A Di Đà Phật sẽ đến tiếp dẫn con vãng
sanh. Vì vậy, ngài nhìn thấy quyển sách này, vẻ mặt hoan hỷ đó là trước kia
chưa từng thấy, vô cùng hoan hỷ, cầm quyển sách này, khoác áo tràng đắp y, yêu
cầu người khác chụp hình cho ngài. Lão Hòa thượng trước kia chưa từng có hành động
này, trước giờ không chủ động yêu cầu người khác chụp hình cho ngài, chỉ có lần
này ngài chủ động yêu cầu. Ba ngày sau thì Phật tiếp dẫn ngài vãng sanh rồi.
Làm minh chứng cho chúng ta, chúng ta y theo bản kinh này, học Pháp môn này là
không sai, tuyệt đối chính xác. Ngài làm chứng cho chúng ta, cũng như A Di Đà
Phật đích thân làm chứng cho chúng ta.
Từng li từng tí trong Kinh Vô Lượng thọ ngài đều làm được
rồi. Trước đây, năm xưa, khi chúng tôi thành lập Tịnh Tông Học Hội đầu tiên ở Mỹ,
hiện nay Học hội này vẫn còn, cũng là vị lão Hội trưởng Dương Nhất Hoa, không
thay đổi Hội trưởng. Tôi đã viết một bài duyên khởi, đề xướng năm khoa mục
trong hành môn của chúng ta, khoa mục thứ nhất là “tịnh nghiệp tam phước”, là
nguyên tắc chỉ dẫn cao nhất của chúng ta. Tam phước có ba điều, điều thứ nhất
là “hiếu dưỡng phụ mẫu, phụng sự sư trưởng, từ tâm bất sát, tu Thập thiện nghiệp”;
điều thứ hai là “thọ trì Tam quy, cụ túc chúng giới, bất phạm oai nghi”; điều
thứ ba là “phát Bồ-đề tâm, thâm tín nhân quả, độc tụng Đại-thừa, khuyến tấn
hành giả”. “Lục hòa kính”: Kiến hòa đồng giải, giới hòa đồng tu, thân hòa đồng
trụ, khẩu hòa vô tránh, ý hòa đồng duyệt, lợi hòa đồng quân. Đây là điều Phật dạy
chúng ta, đệ tử Phật chung sống với nhau phải làm được sáu chữ hòa, chung sống
hòa thuận, đối đãi bình đẳng. Thêm “tam học”, tam học giới định huệ, nương giới
được định, nhân định khai huệ. Điều thứ tư là “lục độ”, sáu ba-la-mật, hành môn
của Bồ-tát quy nạp lại thành sáu loại lớn này: bố thí, trì giới, nhẫn nhục,
tinh tấn, thiền định, trí huệ (bát-nhã). Sau cùng là “mười đại nguyện vương của
Phổ Hiền Bồ-tát”. Năm môn này, lão Hòa thượng đều đã làm được, không thiếu sót
điều nào, thật hiếm có, cho nên ngài là tấm gương tốt nhất của chúng ta. Tịnh
Tông Học Hội trên toàn thế giới của chúng ta, năm khoa mục này trong hành môn,
chúng tôi kỳ vọng mọi người đều có thể làm được. Lão Hòa thượng làm tấm gương
cho chúng ta, ngài làm được tất cả, thật hiếm có.
Chúng ta xem tiếp, 《法華經.信解品》曰:以三苦故,於生死中,受諸熱惱 “Pháp Hoa Kinh –
Tín Giải phẩm viết: Dĩ tam khổ cố, ư sanh tử trung, thọ chư nhiệt não” (phẩm Tín Giải
trong Kinh Pháp Hoa nói: Vì ba loại khổ nên chịu các nhiệt não ở trong sanh tử). Ba loại khổ này là trong kinh Đại-thừa thường nói: khổ
khổ, hoại khổ, hành khổ, cho nên thế gian này chỉ có khổ không có vui. Khổ khổ,
Dục-giới có đủ ba loại khổ, chữ khổ phía sau là danh từ, chữ khổ phía trước là
thuộc về loại nào, loại khổ khổ này. Khổ khổ là bát khổ mà chúng ta thường nói:
sanh, lão, bệnh, tử, cộng thêm cầu bất đắc khổ, ái biệt ly khổ, oán tắng hội khổ,
ngũ ấm xí thạnh khổ, tám loại khổ này là khổ khổ. Dục-giới có khổ khổ, có hoại
khổ, có hành khổ. Trời Sắc-giới, trời Sắc-giới là tu bốn loại thiền-định mà được
vãng sanh, trời Sắc-giới không có khổ khổ, có hoại khổ, có hành khổ. Vì sao vậy?
Vì họ vẫn còn thọ mạng, thọ mạng dài hơn chúng ta, dài hơn nữa cũng có ngày kết
thúc, thọ mạng hết rồi thì họ cảm thấy khổ; họ có hành khổ, hành khổ là sanh diệt
không ngừng, đây gọi là hành, một ý niệm nối tiếp một ý niệm, nó không dừng.
Trái ngược với hành khổ chính là không sanh không diệt, hành khổ là pháp sanh
diệt, sáu đường là pháp sanh diệt. Người trời Sắc-giới có hoại khổ, có hành khổ.
Vô-sắc-giới là cao nhất, ở Vô-sắc-giới thì thân thể cũng không còn nữa, họ
không cần thân thể, giống như Lão tử đã nói: 吾有大患,為吾有身 “Ngô hữu đại hoạn,
vị ngô hữu thân” (Ta có tai họa lớn là vì ta có thân), ngài nói không có thân thì tốt biết mấy. Thật vậy, Vô-sắc-giới
không có thân, có bốn tầng trời. Không có thân thì không có hoại khổ, cho nên họ
không có khổ khổ, hoại khổ, họ chỉ có hành khổ. Hành khổ là vì họ có thọ mạng,
thọ mạng hết rồi, họ đến đỉnh cao nhất, họ không thể lên cao hơn nữa, như thế
nào? Họ sẽ đọa xuống. Lục đạo luân hồi, đây là ba loại khổ.
Ở đây chỉ nói đến nhiệt não trong ba loại khổ, nhiệt não
đến cùng cực chính là địa ngục. Chúng ta phải biết, Phật không vọng ngữ, Phật sẽ
không hù dọa chúng ta, lời Phật nói là lời thật, Phật là bậc nói lời thật, Phật
là bậc như ngữ, “như” nghĩa là hoàn toàn tương đồng với sự thật, không nói quá
cũng không che giấu. Chúng ta phải tin, người tin lời
Phật thì có phước báo, có trí huệ, không thể không tin. Trong kinh Phật nói đến
địa ngục, nói rất tường tận, có nhân có quả, được phân ra trong rất nhiều kinh
điển, không phải tập trung lại nói, mà nói phụ thêm. Nói địa ngục nhiều nhất là
trong Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện. Chúng tôi ghi chép lại hết những kinh
văn mà đức Phật nói đến địa ngục trong tất cả kinh luận, tổng cộng là từ 25 bộ
kinh luận, chép thành một quyển dày như vậy. Chúng tôi in ra, đặt tên tiêu đề
là “Chư Kinh”, 25 loại kinh luận. “Chư Kinh Phật Thuyết Địa Ngục Tập Yếu”, cũng
đã in rất nhiều để lưu truyền. Bộ sách này, người học Phật có thời gian thì nên
đọc, điều gì sẽ nảy sinh sau khi xem xong? Sợ nỗi khổ địa ngục, quý vị mới có
được chút khái niệm về sự nhiệt não trong kinh nói đến, nếu không thì không có
khái niệm. Thật đáng sợ, vì sao phải chịu tội này? Không đáng.
Vì vậy, Phật dạy chúng ta dùng chân-tâm để đối người xử
việc tiếp vật, chân-tâm không tạo tội, chân-tâm không tạo ác. Chân-tâm là tâm
gì? Trên đề kinh của chúng ta có tâm thanh tịnh, tâm bình đẳng, tâm giác, năm
chữ “Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác” này là chân-tâm, cũng là tâm Bồ-đề. Chúng ta
dùng tâm này để sinh sống thì được tự tại, dùng tâm này để làm việc, đối nhân
tiếp vật chính là tích công lũy đức. Vọng-tâm có thiện có ác, nhưng đều có quả
báo. Tâm thiện thì cảm được quả báo ba đường thiện, tâm ác cảm phải quả báo ba
đường ác, không ra khỏi lục đạo luân hồi, dùng chân-tâm thì ra khỏi rồi. Nhất định
phải tin lời Phật, chúng ta mãi xa lìa nhiệt não, tâm được thanh lương, chính
là tâm thanh tịnh.
今極樂國中 “Kim Cực Lạc quốc trung” (Trong cõi Cực Lạc này), ba kinh
một luận đều nói đến, thế giới Cực Lạc 無有眾苦,但受諸樂。故永離熱惱 “vô hữu chúng khổ,
đãn thọ chư lạc. Cố vĩnh ly nhiệt não” (không có các nỗi khổ, chỉ hưởng những niềm vui, cho nên
mãi xa lìa nhiệt não). 清涼,清淨涼爽,正與熱惱相反 “Thanh
lương, thanh tịnh lương sảng, chánh dữ nhiệt não tương phản” (Thanh lương là
thanh tịnh mát mẻ, thật sự trái ngược với nhiệt não). Đến thế
giới Cực Lạc, quý vị đều có thể cảm nhận được điều này ở khắp nơi, nơi đó thanh
lương tự tại. Luận văn trong Đại Trí Độ Luận quyển 22 nói: 人大熱悶,得入清涼池中,冷然清了,無復熱惱 “Nhân đại nhiệt muộn, đắc nhập thanh lương trì trung,
lãnh nhiên thanh liễu, vô phục nhiệt não” (Người rất nóng bức, được vào trong ao thanh lương, mát mẻ
sạch sẽ, không còn nhiệt não). Ao thanh lương, ở
thế giới Cực Lạc nơi đâu cũng có, huống gì người ở thế giới Cực Lạc vốn không
có hiện tượng nhiệt não, vì sao vậy? Người ở thế giới Cực Lạc đều dùng
chân-tâm, không dùng vọng-tâm. Vì sao biết là dùng chân-tâm? Vì không dùng
chân-tâm thì không thể vãng sanh thế giới Cực Lạc. Quý vị xem trong kinh này của
chúng ta, phẩm thứ 24, 25 đã nói rồi, phẩm Ba Bậc Vãng Sanh, Chánh Nhân Vãng
Sanh, bất luận là ở bậc nào, ba bậc thượng trung hạ, thảy đều phải làm được tám
chữ “phát tâm Bồ-đề, nhất hướng chuyên niệm” này. Thượng thượng phẩm phải phát
tâm Bồ-đề, hạ hạ phẩm cũng phải phát tâm Bồ-đề, điều này nói rõ sự quan trọng của
tâm Bồ-đề. Đại sư Ngẫu Ích nói càng hay hơn nữa, có thể vãng sanh hay không
hoàn toàn là do phát tâm. Phát tâm liên quan đến việc quý vị có được vãng sanh
hay không; sanh đến thế giới Cực Lạc phẩm vị cao hay thấp, đó là công phu niệm
Phật của quý vị sâu hay cạn. Công phu niệm Phật sâu thì phẩm vị cao, công phu
niệm Phật cạn thì phẩm vị thấp. Ngài nói rõ ràng như vậy, sáng tỏ như thế, những
câu kinh văn này quan trọng hơn hết, chúng ta phải luôn để trong tâm, mỗi phút
mỗi giây luôn ghi nhớ thì sẽ không bị ngũ dục lục trần của thế giới này cám dỗ,
sẽ không chịu sự quấy nhiễu, ảnh hưởng của chúng, con đường Bồ-đề vãng sanh thế
giới Cực Lạc của chúng ta thuận buồm xuôi gió.
Những câu kinh văn quan trọng này phải thường xuyên nêu
ra để quán tưởng, nhìn thấu thế giới này, Di Lặc Bồ-tát nói rất hay, thế giới
này là giả, cả vũ trụ đều là giả, đều không phải thật. Rốt cuộc là việc như thế
nào? Ngài nói một khảy ngón tay có 32 ức trăm ngàn niệm. Trăm ngàn là mười vạn,
32 ức nhân mười vạn bằng 320 ngàn tỷ, một khảy ngón tay. Điều này có nghĩa là
gì? Chúng ta nói sâu hơn một chút, hiện nay chúng ta dùng giây làm đơn vị, một
giây có thể khảy bao nhiêu cái? Có người khảy được bảy cái. 320 ngàn tỷ nhân 7
bằng 2 triệu 240 ngàn tỷ, trong một giây; hay nói cách khác, sự tồn tại của tất
cả hiện tượng vật chất, thời gian tồn tại là bao lâu? Chỉ tồn tại một phần 2
triệu 240 ngàn tỷ giây. Hay nói cách khác, mắt chúng ta thấy sắc, tai nghe tiếng,
sáu căn tiếp xúc với cảnh giới sáu trần, bất luận là cảnh giới, bất kể là sáu
căn, sáu căn sáu trần đều không ngoại lệ, hết thảy đều nằm trong A-lại-da-thức,
là hiện tượng dao động của A-lại-da-thức, là ảo tướng sinh ra trong tần suất
dao động một phần 2 triệu 240 ngàn tỷ giây. Quý vị hiểu rõ đạo lý này thì quý vị
hiểu được không sanh không diệt trong kinh Phật đã nói, quý vị không thể nói nó
sanh; nó không còn nữa, quý vị cũng không thể nói nó diệt, đằng sau nó lại xuất
hiện. Niệm trước diệt niệm sau sanh, niệm sau nối tiếp niệm trước. Có phải
tương tục không? Không phải, tương tục là hoàn toàn tương đồng, nó không tương
đồng, niệm niệm đều không như nhau, khác biệt rất lớn.
Toàn là giả tướng, không có gì là thật, Kinh Kim Cang nói
hay biết mấy: 凡所有相,皆是虛妄 “Phàm sở hữu tướng, giai thị hư vọng” (Những gì có tướng
đều là hư vọng), 一切有為法 “nhất thiết hữu vi
pháp” (tất cả
pháp hữu vi), hữu vi là có sanh có diệt, tất cả những
hiện tượng có sanh có diệt đều là giả, 夢幻泡影 “mộng huyễn bào ảnh”
(mộng ảo
bọt bóng). Chúng ta thường có thể quán sát như vậy
thì quý vị buông xuống rồi, vì sao vậy? Không đạt được gì cả. Bao gồm thân thể
của chúng ta, thân thể cũng là ảo tướng sinh ra trong một
phần 2 triệu 240 ngàn tỷ giây, tần suất cao như vậy. Cũng tức là, một giây
thân thể của chúng ta biến đổi bao nhiêu lần? Niệm trước diệt niệm sau sanh, 2
triệu 240 ngàn tỷ lần. Đây là chân tướng sự thật, được nhà khoa học hiện nay khẳng
định rồi. Nếu quý vị cho là thật, đó gọi là mê hoặc điên đảo, đó gọi là phàm
phu lục đạo. Nếu quý vị giác ngộ, sau khi giác ngộ thì thế nào? Không còn để
trong tâm nữa, mặc kệ nó thôi! Gặp được Tịnh tông, tuyệt diệu! Quý vị thật sự
quá may mắn, thành thật niệm Phật, cầu sanh Tịnh-độ. Thế giới Cực Lạc không
sanh không diệt, thật sự không sanh không diệt, ý nghĩa không sanh không diệt
đó khác với nơi đây của chúng ta, chúng ta đây là sanh diệt quá nhanh, quý vị
không tìm được sanh diệt, nhưng thế giới Cực Lạc thì vốn không có sanh diệt. Vì sao vậy?
Nơi đó không có A-lại-da, không có vọng-tâm, nơi đó là chân-tâm, chân-tâm chính
là Tự-tánh, Tự-tánh không sanh không diệt, không đến không đi, Tự-tánh là vĩnh
hằng, là thật. Hôm nay chúng ta học tập đến đây thôi.
(Hết tập 193)
Nguyện đem công đức này
Hướng về khắp tất cả
Đệ tử cùng chúng sanh
Đều sanh nước Cực Lạc
Sớm viên thành Phật quả
Rộng độ khắp chúng sanh.
Nam Mô A Di Đà Phật.