Responsive Menu
Add more content here...

Tập 221 – Tịnh Độ Đại Kinh Khoa Chú 2014

TỊNH ĐỘ ĐẠI KINH KHOA CHÚ 2014-2017

(Giảng lần thứ 4)

Phẩm thứ 8: Tích Công Lũy Đức

Tập 221

Chủ giảng: Hòa thượng Thích Tịnh Không.

Giảng tại: Hiệp hội Giáo dục Phật Đà Hong Kong.

Thời gian: Ngày 27 tháng 7 năm 2015.

Dịch giả: Diệu Thương.

Giảo chánh: Thích Thiện Trang.

Kính chào chư vị Pháp sư, chư vị đồng học, kính mời ngồi. Mời mọi người cùng tôi đồng quy y Tam Bảo:

“A-xà-lê tồn niệm, ngã Đệ tử Diệu Âm, thỉ tùng kim nhật, nãi chí mạng tồn, quy y Phật-Đà, lưỡng túc trung tôn, quy y Đạt-Ma, ly dục trung tôn, quy y Tăng-Già, chư chúng trung tôn” (3 lần).

          Mời xem Đại Kinh Khoa Chú trang 552, xem từ câu thứ 2 của hàng thứ 4:

     此下復舉七事,以顯極樂之獨妙 “Thử hạ phục cử thất sự, dĩ hiển Cực Lạc chi độc diệu” (Dưới đây lại nêu lên bảy việc, để làm sáng tỏ sự độc diệu của Thế giới Cực Lạc). Chú ý chữ ‘độc‘ này, độc là nói rõ chỉ có Thế giới Cực Lạc là có, ngoài Thế giới Cực Lạc ra, thì trong cõi nước của tất cả chư Phật đều không có, đó mới gọi là độc diệu. Là những sự độc diệu nào? Tiếp theo nêu ra cho chúng ta bảy việc. Bảy không phải là con số, mà bảy là đại biểu viên mãn, trong kinh Phật thường có ví dụ này. Đại biểu viên mãn như thế nào? Đông nam tây bắc là bốn phương, trên dưới là sáu phương, thêm chính giữa, là bảy phương. Cho nên bảy là đại biểu viên mãn, là đại viên mãn. Viên mãn là vô lượng vô biên độc diệu, cõi nước của tất cả chư Phật không thể so sánh với Thế giới Cực Lạc, bất kể đưa ra điều gì đều không bằng Thế giới Cực Lạc, đó gọi là độc diệu, điều này rất khó được. Chúng ta xem trong疏曰”Sớ viết” (Sớ nói rằng), quyển Sớ này là Hội Sớ đã nói ở trước, bảy ví dụ được nêu ra trong Hội Sớ, 一、謂法報應化 “nhất, vị Pháp Báo Ứng Hóa” (một, là Pháp thân Báo thân Ứng Hóa thân), có lúc tách biệt Ứng thân và Hóa thân, [chia] Ứng thân và Hóa thân đó chính là bốn kiểu; Có lúc hợp lại cùng nhau, là ba thân Pháp thân, Báo thân, Ứng Hóa thân, hai cách nói đều được, đều giảng được thông, 所出本國故 “sở xuất bổn quốc cố”(nên bổn quốc được hiện ra), bổn quốc là chỉ Thế giới Cực Lạc.

Tiếp theo Niệm lão giải thích rõ cho chúng ta, 其中本國即指極樂,謂極樂乃法身佛、報身佛、應化身佛 “kỳ trung bổn quốc tức chỉ Cực Lạc, vị Cực Lạc nãi Pháp thân Phật, Báo thân Phật, Ứng Hóa thân Phật” (bổn quốc trong đó chính là chỉ Thế giới Cực Lạc, nói Thế giới Cực Lạc là Pháp thân Phật, Báo thân Phật, Ứng Hóa thân Phật). Ứng thân và Hóa thân có một chút sai biệt. Về Ứng thân, giống như đức Phật Thích Ca Mâu Ni, 3.000 năm trước sanh ra ở trên trái đất này của chúng ta, giống như người thông thường, có cha mẹ, có 10 tháng hoài thai, từ nhỏ dần dần lớn lên, 80 tuổi thì viên tịch. Người nước ngoài nói 79 tuổi, là tuổi thật, người nước chúng ta tính tuổi mụ, là 80 tuổi, 80 tuổi viên tịch, Ngài thị hiện sanh ra ở đây, trên thực tế đã trụ thêm 80 năm, đó là Ứng thân. Hóa thân là không có giới hạn. Thí dụ lão Hòa thượng Hư Vân, lúc 47 tuổi phát tâm tham bái núi Ngũ Đài, xuất phát từ núi Phổ Đà, là ba bước một lạy, đại khái đã dùng thời gian hơn ba năm lạy đến Ngũ Đài, vô cùng thành kính. Từng ở trên đường, đều ở nơi vắng vẻ, đều không có thôn trang, hai lần sanh bệnh, bệnh rất nặng, gặp được một vị hành khất đến giúp đỡ ngài, hành khất trong ăn mày. Ngài tên là Văn Kiết. Trên thực tế là Hóa thân của Bồ-tát Văn Thù, vị hành khất từ đâu tới, đến nơi nào, không có người hỏi ngài, ngài không có chỗ ở cố định, là ăn xin. Ngài hai lần đều là được vị ăn xin đó cứu giúp, đi ra ngoài xin cơm, cuối cùng trở về đưa cho ngài dùng, tìm một ít thảo dược ở trên núi chữa bệnh cho ngài, đợi bệnh của lão Hòa thượng khỏi rồi hãy đi. Lần thứ hai lại là sanh bệnh, lại gặp được vị hành khất ấy, dường như rất có duyên phận, cũng rất quen thuộc rồi, liền hỏi vị ấy, thỉnh giáo quý ngài: họ gì, quý danh [là gì]? Ngài liền nói: ngài họ Văn, Kiết trong kiết tường, gọi là Văn Kiết. Hỏi ngài: sống ở đâu? Ngài nói: tôi sống ở núi Ngũ Đài, người núi Ngũ Đài đều biết tôi, thầy đến núi Ngũ Đài để hỏi, thì mọi người đều biết tôi. Lão Hòa thường liền nhớ kỹ rồi. Hai lần, tổng cộng đã ở cùng nhau hơn một tháng, không ngừng chăm sóc khỏi bệnh của ngài. Ngài đến núi Ngũ Đài thăm hỏi, có vị Văn Kiết hay không? Thì không có người biết. Sau này bái đến trong chùa, lạy Bồ-tát Văn Thù ở trong chùa, đại điện của Bồ-tát, thỉnh giáo đại chúng và Pháp sư, thì trong đó có một lão Hòa thượng nói với ngài, đó là Hóa thân của Bồ-tát Văn Thù, ngài mới bỗng nhiên đại ngộ. Cho nên Hóa thân xem nhu cầu của quý vị, quý vị cần bao nhiêu ngày, thì các ngài ở bấy nhiêu ngày, sau khi việc xong rồi thì không thấy các ngài nữa, quý vị lại tìm không thấy các ngài nữa. Việc đó là chung sống hơn một tháng, là thời gian hóa thân dài.

Tôi còn từng tiếp xúc được một lần, là phu nhân của thầy tôi, sư mẫu, phu nhân của thầy Châu Bang Đạo. Thời kỳ kháng chiến, tôi học ở Quý Châu, năm cuối, ở trường Trung học Cơ sở thứ 3 công lập. Thầy Châu và mọi người đến Đài Loan, đến Đài Loan chúng tôi gặp lại nhau. Đến Đài Loan đã học Phật rồi, trước đây chưa học Phật. Thỉnh giáo thầy Lý một sự việc, sư mẫu luôn nghi ngờ việc này, bao nhiêu năm đều không có cách nào buông xuống. Sư mẫu nói khi chiến tranh giải phóng, sư mẫu rời khỏi Nam Kinh, lúc ấy sư mẫu sống ở Nam Kinh, tôi đã đi qua căn nhà ở Nam Kinh, là căn nhà rất lớn, là ba căn cấp bốn nối liền một chỗ, cho nên cổng vào, ngay trong mỗi giang nhà cấp bốn đều có sân trong, sân trong đều rất lớn, cây cối rất nhiều, vừa nhìn [thì biết] chính là gia đình đông người, lúc ấy thầy sống ở đó. Sư mẫu nói khi sống ở đó, xảy ra việc một ngày có một vị Hòa thượng đến hóa duyên, hỏi vị ấy là đến từ đâu? Là đến từ Cửu Hoa Sơn. [Ngài] cần gì? Là hóa duyên năm cân dầu mè. Lúc đó cả nhà sư mẫu chưa học Phật, nên không cho vị ấy, trong nhà có, nhưng không cho ngài. Không cho ngài, vị Hòa thượng ấy liền đi rồi. Sau khi đi rồi, sư mẫu đột nhiên nhớ ra, nhớ ra rất phiền muộn, trong nhà, quý vị xem cổng chính, cửa thứ hai, sau cùng là cửa thứ ba, mới là phòng khách của của sư mẫu, cửa đều đóng lại, không có ai mở cửa, vị Hòa thượng này làm thế nào đi vào đây? Đã ra ngoài, đi rồi, lại đi xem, cửa là chốt, vị ấy đi đâu rồi? Vị ấy đi như thế nào? Mấy năm không thể tháo gỡ vấn đề này, khi đến Đài Trung học Phật, ở đó thầy Lý đã mở một Liên Xã Phật Giáo Đài Trung, vợ chồng sư mẫu đều là Liên hữu của Liên Xã. Thầy liền bảo sư mẫu: đó là Hóa thân của Địa Tạng Vương Bồ-tát, bà có duyên với Địa Tạng Bồ-tát. Hối hận không kịp! Từ đó về sau mỗi ngày đọc Kinh Địa Tạng, niệm danh hiệu Địa Tạng Bồ-tát. Tu được rất tốt, quý vị xem là Cư sĩ tại gia, khi vãng sanh hỏa táng, hơn 300 viên Xá lợi, thật không dễ dàng!

Là người tốt nổi tiếng ở Đài Trung, là Thiện tri thức. Chúng tôi còn xem trọng thầy, và sư mẫu hơn cha mẹ mình, vì sao? Bởi lúc ở trường học, hai vợ chồng thầy chăm sóc học trò chúng tôi chu đáo hơn cha mẹ, từng li từng tí, vô cùng quan tâm. Cho nên cả đời chúng tôi đều sẽ không quên vị thầy ấy. Ở Đài Loan đã từng đảm nhiệm công chức một lần, là Thứ trưởng Công vụ của Viện khảo thí, chính là Phó bộ trưởng thứ nhất, là quan thanh liêm. Đất nước cấp cho thầy căn nhà, có phòng tập thể, có lắp điện thoại, còn cấp thêm có một chiếc xe con. Mấy người con của thầy, đều là bạn học của chúng tôi. Trong nhà bất luận là người nào, cũng không được dùng điện thoại của thầy, không thể đi chiếc xe đó, đây là của nhà nước, là thầy dùng vào việc công. Gọi điện thoại chuyện cá nhân của chính thầy, thì đến chỗ điện thoại công cộng ở cửa ngõ, không dùng, nhất định là việc công, bên ngoài gọi đến có thể nhận, nhưng không thể gọi ra ngoài, phí điện thoại là nhà nước trả, đó là hành vi trộm cắp, là một vị quan tốt như thế. Cuộc sống vô cùng liêm khiết, thật sự là khiến chúng tôi nhìn thấy điển phạm của cổ Thánh tiên Hiền ở thời đại này, thật sự nhìn thấy rồi, chia được công tư vô cùng rõ ràng, tuyệt đối không lạm dụng một phân tiền của nhà nước. Tôi nói trong công chức ở Đài Loan, thầy là vị quan tốt số một, không có một ai có thể so sánh với thầy. Từ nhỏ chúng tôi được thầy cảm hóa. Thời kỳ kháng chiến, có đồ cứu tế được đưa đến trường học của chúng tôi, thầy là chia cho học trò trước, chia đến học trò còn có phần thừa lại, thì con của chính thầy mới có phần, thầy có 5 người con trai và 1 người con gái; Nếu chia cho bạn học xong, mà không còn phần nữa, thì con của chính thầy không có phần. Cho nên học trò chúng tôi tâm phục khẩu phục đối với thầy, không nói, nhưng không có một ai không tôn kính. Cho nên trường học vào lúc đó, phong cách trường học là đứng đầu cả nước. Đúng với lời người xưa nói, 一人興邦,一人喪邦 “nhất nhân hưng bang, nhất nhân tang bang” (một người [làm] hưng nước, một người [làm] mất nước), người ấy chính là người lãnh đạo. Người lãnh đạo làm được đại công vô tư, yêu dân như con, còn có lời gì để nói? Người thông thường làm không được, nhưng thầy làm được rồi.

Chúng ta biết Ứng thân và Hóa thân, đức Phật Thích Ca Mâu Ni đến nơi này của chúng ta, đã trụ 80 năm, là Ứng thân; Giống như sư mẫu Châu gặp được ngài Địa Tạng Bồ-tát, là Hóa thân, ngài chỉ [ở] khoảng nửa tiếng đồng hồ, đến thì không biết được đến từ đâu, đi cũng không biết đi nơi nào rồi, vô cùng rõ ràng, tuyệt đối không phải là nằm mộng, thật có sự việc như vậy. Thời gian mà lão Hòa thượng Hư Vân gặp được Bồ-tát Văn Thù càng lâu, Bồ-tát chăm sóc ngài hơn một tháng, đây là thuộc về Hóa thân, đó không phải Ứng thân. Ứng thân là nhất định đến đầu thai, giống như ở trong lịch sử Trung Hoa có ghi lại, Đại sư Trí Giả của tông Thiên Thai, là Thích Ca Mâu Ni Phật tái lai, đó là Ứng Thân; Ngài đến đầu thai, trụ ở thế gian này mấy chục năm mới đi, đó là Ứng thân. Ngài Vĩnh Minh Diên Thọ và Đại sư Thiện Đạo, hai ngài ấy là A Mi Đà Phật tái lai, sự xuất hiện đó chính là Ứng thân. Nên chúng ta làm rõ ràng Ứng Hóa thân.

          Về Pháp thân, giảng từ trên Thể, Pháp thân là Bản thể. Pháp thân của chúng ta là giống nhau, Pháp thân của chư Phật là một Pháp thân, Pháp thân của mỗi chúng sanh chúng ta cũng là một Pháp thân ấy, là một Pháp thân. Cho nên nói: 十方三世佛,共同一法身 “thập phương tam thế Phật, cộng đồng nhất Pháp thân” (mười phương ba đời Phật, cùng chung một Pháp thân). Nhưng Báo thân thì không giống nhau, Báo thân xuất hiện ở Thật Báo Trang Nghiêm độ, Báo thân là thân Pháp tánh, không phải Pháp tướng. Thân hiện nay của chúng ta đây là Pháp tướng, tướng này là hiện tượng vật chất. Ý niệm của chúng ta, là niệm trước diệt niệm sau sanh, tương tục không ngừng, sự tương tục này là tương tục giống hệt nhau, không phải là tương tục thật sự. Tương tục thật sự chính là một hình ảnh trước hoàn toàn giống hình ảnh sau, đó gọi là tương tục. Ý niệm của chúng ta, niệm trước hoàn toàn không giống niệm sau, nhưng không ngừng, kiểu tương tục đó gọi là tương tự tương tục. Tần số cao bao nhiêu? Là chưa có sự chứng minh của khoa học, chúng ta rất khó để tin tưởng. Là miễn cưỡng tin tưởng, dựa vào điều gì? Dựa vào đức Phật Thích Ca Mâu Mi không vọng ngữ, Phật Bồ-tát thuyết đều là lời chân thật, không thể có câu nào là vọng ngữ. Nếu có một câu vọng ngữ, thì chúng ta sẽ nghi ngờ, giảng điều khác thì khả năng không tin cậy được. Cho nên Phật Bồ-tát nhất định không vọng ngữ, chúng ta dựa vào điều này để tin tưởng.  

          Nhà Cơ học Lượng tử cận đại, 20 năm gần đây, phát hiện Vi trung tử, cũng gọi là Neutrino, giống như điều được giảng trong kinh Phật. Thuật ngữ trong kinh Phật giảng là Cực vi sắc, sắc chính là hiện tượng vật chất, hiện tượng vật chất cực kỳ vi tế, lại không có thứ nhỏ hơn nó nữa. Nhà Khoa học trước đây có một khái niệm, nhà Khoa học trước đây cho rằng Electron trong Nguyên tử, thể tích là nhỏ nhất, lại không có vật chất gì nhỏ hơn Electron nữa. Hơn 20 năm gần đây, máy móc khoa học nâng cao, có thể phá vỡ Electron, phá vỡ Neutron, phát hiện vật chất nhỏ nhất bên trong là Neutrino. Một hạt Electron là do bao nhiêu hạt Neutrino tập trung lại? Là 10 tỷ, đơn vị là tỷ, thể tích mà 10 tỷ hạt Neutrino tập trung cùng nhau là một hạt Electron. Thì chúng ta hiểu được máy móc này thực sự vô cùng tỉ mỉ chính xác, có thể phá vỡ Electron, phân tách ra. Một hạt Electron, là 10 tỷ hạt Neutrino, là Cực vi sắc được giảng trong kinh Phật, hạt này không thể chia nữa, vừa chia hạt hạt này thêm một lần thì không có nữa. Nhà Khoa học phá vỡ Cực vi Chi vi lần nữa, sau khi phá vỡ không có nữa, không có hiện tượng vật chất nữa, phát hiện điều gì? Phát hiện là hiện tượng sóng dao động của ý niệm, vậy mới vạch trần bên trong vật chất. Vật chất là gì? Vật chất là ảo tướng được sinh ra ở dưới tần số cao của ý niệm, vật chất không phải là thật.

          Cho nên nhà Khoa học Max Planck của nước Đức, chúng tôi là đọc báo cáo của ông, bản phiên dịch tiếng Trung, ông là cả đời chuyên nghiên cứu hiện tượng này, Neutrino chính là do ông phát hiện. Ở trong báo cáo, ông nói với chúng ta, ở trong vũ trụ căn bản không có sự tồn tại của vật chất, vật chất là giả, không phải là thật. Vậy thật thì sao? Thật là ý niệm. Hiện nay mọi người đều đang nghiên cứu ý niệm, rất nhiều nhà Khoa học trẻ tuổi, đều đang nghiên cứu năng lượng của niệm lực, bí mật của niệm lực, trên thị trường xuất bản rất nhiều những báo cáo nghiên cứu này, mấy chục loại. Ý niệm sinh ra hiện tượng vật chất, hiện tượng vật chất thực sự, hiện tượng vật chất là gì? Lời trên kinh Phật giảng không sai chút nào, là 夢幻泡影 “mộng huyễn bào ảnh”. Trên Kinh Kim Cang nói, 一切有為法,如夢幻泡影 “nhất thiết Hữu vi pháp, như mộng huyễn bào ảnh”, pháp Hữu vi chính là hiện tượng vật chất, có sanh có diệt. Cho nên khoa học trình bày cho chúng ta, khoa học đi đến ngày nay cuối cùng vấn đề này cũng được giải quyết rồi. Trước đây là hướng đi nhầm lẫn, tạo thành rất nhiều hao tổn, đó chính là gì? Là pháp Nhị phân, chia vũ trụ thành hiện tượng vật chất và hiện tượng tinh thần. Không thể chia, pháp Nhị phân là sai lầm, vật chất và tinh thần là một thể, hơn nữa là ý niệm ở trước, vật chất ở sau, có ý niệm thì nhất định có hiện tượng vật chất. Với照見五蘊皆空 “chiếu kiến ngũ Uẩn giai Không” được giảng trong Tâm Kinh, là hoàn toàn giống nhau. Ngũ Uẩn là Sắc Thọ Tưởng Hành Thức, Sắc là hiện tượng vật chất, Thọ Tưởng Hành Thức là hiện tượng tinh thần, không thể tách năm Uẩn ra, năm Uẩn này là một tổ chức, có thì đều có tất cả, nếu không có thì không có toàn bộ.

Ở trong kinh Đại thừa đã giảng, dùng Ý thức Thứ 6, chính là dùng tưởng tượng tư duy ngày nay của chúng ta, năng lực này vô cùng rộng lớn. Đức Phật đã giảng, dùng Ý thức đó, chính là dùng trí óc của chúng ta để suy nghĩ, để tư duy, bên ngoài có thể duyên đến biên giới của vũ trụ, bên trong có thể duyên đến Tam tế tướng của A-lại-da, điều này thật không dễ dàng. Tam tế tướng của A-lại-da, ở trong Phật pháp địa vị nào có thể thấy được? Là bậc Bát địa trở lên. Thập địa Bồ-tát, địa vị ấy cao nhất, là tầng cao nhất, từ Sơ địa đến Thập địa, thì bậc Bát địa mới nhìn thấy, bậc Thất địa trở xuống, biết có tồn tại hiện tượng này, nhưng vẫn chưa nhìn thấy. Các ngài không cần dùng máy móc, các ngài dùng Thiền định, là Thiền định rất sâu, bên trong Thiền định không có chướng ngại, không có thời gian và không gian, có thể nhìn thấy quá khứ và tương lai, không có chướng ngại, nhìn thấy Chân tướng sự thật, là bậc Bát địa. Khi đức Phật giảng câu nói này, chính là đức Phật nói rõ không phải một mình Ngài nhìn thấy, mà bậc Bát địa nhìn thấy, bậc Cửu địa nhìn thấy, bậc Thập địa nhìn thấy, bậc Thập nhất địa chính là Đẳng giác Bồ-tát, Phật là cấp bậc thứ 12, Diệu Giác, tất cả người ở địa vị thuộc năm cấp bậc này có thể nhìn thấy. Đó là bản năng của chúng ta, đức Phật có thể nhìn thấy, chúng ta cũng có thể nhìn thấy, chúng ta chỉ cần tu định tu đến công phu của bậc Bát địa Bồ-tát thì nhìn thấy, quý vị hoàn toàn sáng tỏ chân tướng của cả vũ trụ rồi. Hiện nay chúng ta không có định công ấy, nghe đức Phật giảng. Đức Phật giảng, bốn bậc Bồ-tát dưới có thể làm chứng minh cho chúng ta, chính là bậc: Bát địa, Cửu địa, Thập địa và Đẳng giác, bởi vì các ngài cũng nhìn thấy, chứng minh lời đức Phật nói không có sai sót, lời đức Phật giảng là lời thật, không phải lời giả. Đợi ngày nào định công của chúng ta đến trình độ ấy, thì cũng có thể nhìn thấy, sau đó mới hiểu được, lời đức Phật ở giảng trên kinh hoàn toàn là thật, không có chữ nào là vọng ngữ.

Cho nên Pháp thân Phật, cùng chung một Pháp thân. Pháp thân không có tướng, không có hiện tượng vật chất, không có hiện tượng tinh thần, chính là không có ý niệm, cũng không có hiện tượng tự nhiên, Pháp thân là hình dáng thế nào? Là một vùng ánh sáng. Mắt thường của chúng ta không nhìn thấy ánh sáng đó, người nào có thể nhìn thấy? Nói lời thực sự, nhìn thấy viên mãn cũng là bậc Bát địa Bồ-tát; Lên bậc địa thì có thể nhìn thấy, bậc Sơ địa thì có thể nhìn thấy, nhưng nhìn thấy không viên mãn, Bát địa thì viên mãn rồi. Đây là Vật lý học được giảng trong ngày nay, hợp Vật lý và Tâm lý lại cùng nhau. Về Thọ Tưởng Hành Thức, Thọ là cảm nhận của chúng ta, đó là hiện tượng tinh thần; Có thọ, có tưởng, có hành, hành có tương tục không ngừng là Hành. Có ý niệm, niệm trước diệt niệm sau sanh, đó là Hành. Tần số cao bao nhiêu? Bồ-tát Di Lặc đã nói cho chúng ta, chúng ta tính ra, là 2 triệu 240 ngàn tỷ trong một giây. Dưới tần số cao như vậy, đó chính là cảnh giới mà hiện nay sáu căn của chúng ta tiếp xúc được, chúng ta cho là thật, nhưng kỳ thực đó không phải là thật. Quý vị nói ta ở đâu? Một giây có 2 triệu 240 ngàn tỷ bức ảnh, bức ảnh nào là ta? Mỗi bức ảnh đều là ta, thì ta quá nhiều rồi. Ta trong mỗi bức ảnh, quý vị không có cách nào khống chế, nhất định khống chế không được. Ngày nay chúng ta xem tivi, tần số của tivi mới là 100, 1 giây 100 lần, thì chúng ta không cách nào khống chế, huống hồ tăng lên đến 2 triệu 240 ngàn tỷ? Thì chúng ta làm sao có thể khống chế? Làm sao có thể biết đó là giả? Đó là Chân tướng sự thật. Cho nên khoa học phát triển hơn, tôi có lý do để tin tưởng, qua 30 năm nữa, có lẽ không đến 30 năm, chân tướng của ý niệm được nhà Khoa học khám phá thôi. Ở trong kinh đức Phật có giảng điều này, Ý thức Thức sáu, chính là năng lực tưởng tượng tư duy hiện nay của chúng ta, bên trong có thể đạt đến Tam tế tướng, Tam tế tướng chính là hiện tượng vật chất, hiện tượng tinh thần và hiện tượng tự nhiên, có thể làm rõ ràng toàn bộ vũ trụ. Nhà Khoa học có thể làm sáng tỏ, nhưng không được thọ dụng. Nhà Phật dùng công phu Thiền định, nội công, có thọ dụng, thọ dụng là gì? Là thần thông quảng đại. Nhà khoa học cần phải dùng máy móc mới quan sát được, còn người tu định không cần. Nhà Khoa học đã phát hiện, đã làm thấu tỏ, nói rõ ràng rồi, nhưng không có Thiên nhãn thông, không có Thiên nhĩ thông, không có Tha tâm thông, không có Thần túc thông, Thần túc thông là biến hóa, không có. Trong kinh Phật giảng những vị Bồ-tát bậc ấy đầy đủ Lục thông, đến bậc Bát địa Bồ-tát thần thông quảng đại, không cách nào tưởng tượng, là có thọ dụng.

Báo thân là được hiện từ Pháp thân, trực tiếp hiện từ Pháp thân, tướng ấy là tướng hảo quang minh, chúng ta không có cách nào tưởng tượng. Đây là trên kinh giảng 三十二相八十種好 “tam thập nhị tướng bát thập chủng hảo” (32 tướng 80 vẻ đẹp), đây là lời nói phương tiện của đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Vì sao? Vì người Ấn Độ cho rằng, tướng tốt của thân người, tướng phú quý, đó là 32 kiểu tướng đại phú đại quý. Đức Phật là đưa ra ví dụ này, thì mọi người dễ dàng tiếp nhận, mà trên thực tế thì sao? Là vượt hơn. Ở trong Quán Kinh đức Phật nói với chúng ta, Báo thân của A Mi Đà Phật, thân có 84 ngàn tướng, mỗi tướng có 84 ngàn vẻ đẹp, mỗi vẻ đẹp có 84 ngàn ánh sáng, trong mỗi ánh sáng đều có chư Phật Bồ-tát hoạt động ở đó, chúng ta nói là hoằng pháp lợi sanh. Nói cách khác, ở trong ánh sáng đó của đức Phật có thể thấy được cả thảy vũ trụ, tất cả chư Phật giáo hóa chúng sanh ở trong đó, quý vị nhìn thấy tất cả. Tivi ngày nay của chúng ta không thể so sánh, có thể nhìn thấy quá khứ, lại có thể nhìn thấy tương lai, còn nhìn được rõ mồn một hơn trong tivi của chúng ta. Cho nên các ngài có năng lực phân thân, hóa thân, cúng dường khắp tất cả chư Phật Như Lai, về cúng dường, cúng dường là tu phước, nghe kinh nghe pháp là tu huệ, phước huệ song tu. Chúng ta ở thế gian này, gặp được một vị Thiện tri thức cũng khó như vậy, đến Thế giới Tây Phương Cực Lạc, mọi lúc mọi nơi tiếp xúc cùng tất cả Như Lai trong mười phương, hoàn toàn không có chướng ngại nữa. Hơn nữa quý vị là Đệ tử của A Mi Đà Phật, tất cả chư Phật đặc biệt xem trọng đối với quý vị, đặc biệt trọng đãi, vì sao? Vì quý vị là học trò của A Mi Đà Phật. Đức Mi Đà được mọi người tôn trọng là: 光中極尊,佛中之王 “Quang trung cực tôn, Phật trung chi vương”, cho nên học trò của đức Mi Đà rất vẻ vang, được người tôn kính, phải biết điều này. Ngày nay chúng ta ở thế gian này, chúng ta học Pháp môn này, phải thật làm, thật tin thật nguyện. Phật hiệu không rời tâm miệng, trong tâm có A Mi Đà Phật, trong miệng có A Mi Đà Phật, thì trời đất quỷ thần đều tôn trọng quý vị, vì sao? Vì quý vị là học trò của A Mi Đà Phật, là học trò chân thật, không phải giả. Nếu quý vị có hoài nghi, quý vị còn có Vọng tưởng Tạp niệm khác, thì sự tôn trọng này liền giảm xuống, vẫn là tôn trọng quý vị, nhưng không phải là tôn trọng 10 phần, mà có 3 phần 5 phần, vậy cũng rất tuyệt vời rồi. Chúng ta đều phải thông đạt những điều này, đều nên hiểu rõ.

          Sau khi học Phật pháp Đại thừa, thật sự nói với quý vị, toàn bộ vũ trụ là một thể. Là một thể đến mức độ thế nào? Trong Phật pháp không có đối lập, chính là không có Nhị biên, không có đối lập. Lớn nhỏ là đối lập, lớn là vũ trụ, về nhỏ, ngày nay nhà Khoa học nói, vật chất nhỏ nhất là Neutrino, trong Neutrino có toàn bộ vũ trụ. Toàn bộ vũ trụ chứa Neutrino, đây là lớn chứa nhỏ, không có vấn đề, chúng ta có thể tiếp nhận; Trong nhỏ chứa lớn, trong một hạt Neutrino có toàn bộ vũ trụ. Mở rộng hơn, nói với quý vị, khắp Pháp giới Hư không giới ở đâu? Là ở ngay trong một hạt Neutrino. Khoa học ngày nay đã phát hiện hiện tượng này rồi. Làm ra thí nghiệm tương tự, khiến chúng ta sanh khởi tín tâm đối với điều này. Ngày nay chúng ta dùng [ví dụ] Neutrino được khoa học hiện đại phát hiện, thể tích của Neutrino là 1/10 tỷ một hạt Electron, nhỏ như vậy, nhưng bên trong có toàn bộ vũ trụ. Địa cầu này của chúng ta ở trong đó hay không? Là ở bên trong; Hệ Ngân Hà của chúng ta ở [trong đó] hay không? Là ở bên trong; Còn vũ trụ của chúng ta? Cả thảy vũ trụ ở bên trong; Pháp giới của chư Phật trong mười phương ở trong đó hay không? Cũng ở bên trong; Thế giới Cực Lạc ở [trong đó] hay không? Có, toàn bộ cõi nước của tất cả chư Phật đều ở trong một hạt ấy. Nhà Khoa học dùng kỹ thuật chụp ảnh Lập thể, dùng kỹ thuật này để làm thí nghiệm. Kỹ thuật chụp ảnh Lập thể là gì? Đó là dùng hai tia Laser chiếu thành một bức ảnh ở trên tấm phim, sau đó quý vị cắt nhỏ bức ảnh đó, cắt thành hai mảnh, cắt thành bốn mảnh, cắt thành 8 mảnh, cắt thành 100 mảnh, cắt thành rất nhỏ, dùng một tia Laser để chiếu mỗi một mảnh nhỏ, thì tướng được hiện bên trong là hoàn chỉnh, tất cả mỗi một điểm nhỏ là hoàn chỉnh. Đây là nhà Khoa học làm thí nghiệm, khiến mọi người cũng có thể nhìn thấy được, đó chính là lớn nhỏ không hai được nói trong Phật giáo. Quý vị nhận thức được lớn và nhỏ không hai, cạn và sâu không hai, đến và đi không hai, chúng sanh và Phật không hai, toàn bộ tất cả chư Pháp không hai, nhập vào Pháp môn Bất nhị, đây là được giảng trong kinh Đại thừa Viên giáo. Nếu chư Phật chưa nhập đến cảnh giới này, thì các ngài làm sao có thể giảng ra được? Giảng được rõ ràng như vậy, sáng tỏ như vậy. Trong tôi có quý vị, trong quý vị có tôi, thì quý vị hiểu được, bất kỳ một tế bào nào trên thân chính chúng ta, bất kỳ một sợi lông nào, bên trong bao gồm đều là cả vũ trụ, là hoàn chỉnh. Cho nên trong Phật pháp Đại thừa có khoa học viên mãn, khoa học rốt ráo, khoa học đạt đến viên mãn rốt ráo, không có hơn nữa, trong kinh giáo Đại thừa có.

Tôi học Triết học với thầy Phương, duyên của tôi với Phật giáo là từ Triết Học Kinh Phật, khế nhập từ trong môn này, mới biết trong kinh Đại thừa có Triết học Cao cấp. 60 năm nay tôi hiểu rõ thêm nữa, không chỉ có Triết học rốt ráo, mà còn có khoa học rốt ráo. Nếu từ đạo lý một nhiều không hai này để nhìn, thì không chỉ là Đại thừa, mà thật sự là một sợi lông, một hạt Neutrino tất cả hàm chứa có vũ trụ viên mãn. Đây là nhà Khoa học tin tưởng, hiện nay nhà Khoa học đang tìm cách chứng thực, dùng phương pháp nào để chứng minh? Trong kinh Phật nói dùng Ý thức Thứ 6. Chính là nhà Khoa học, nhà Triết học họ đạt tới, bên ngoài là vũ trụ, bên trong là A-lại-da, đều có thể duyên đến được, chính là duyên không đến Tự Tánh, họ đều không có cách nào Minh tâm Kiến tánh. Vì sao? Bởi Khoa học, Triết học đều dùng suy nghĩ, Phật pháp không dùng suy nghĩ, Phật pháp dùng định. Không thể khởi tâm động niệm, không thể có Tạp niệm, không thể có Vọng tưởng, thì quý vị mới bỗng nhiên khai ngộ, đó là thật sự sáng tỏ rồi. Sáng tỏ là thế nào? Là bản năng của quý vị, mỗi một chúng sanh đều có năng lực. Người tu hành có thể thành Phật, mèo con, chó con tu hành có thể thành Phật hay không? Có thể. Chúng tôi nghe được một câu chuyện ở trong Tịnh Tu Tiệp Yếu, con chuột, thời khóa sáng tối của lão Cư sĩ Hạ Liên Cư, đều có một con chuột theo ngài, về sau con chuột ấy đã vãng sanh, khi ngài tĩnh tọa, thì con chuột vãng sanh ở trong giày của ngài rồi. Chuột có thể vãng sanh hay không? Có thể. Không có đối lập, chúng sanh bình đẳng, chúng sanh bình đẳng với Phật, thì chúng sanh nào có đạo lý không bình đẳng với chúng sanh? Hiểu rõ Chân tướng sự thật thì có thể chung sống bình đẳng cùng người khác, vì sao vậy? Vì mình và người không hai. Quý vị có khó khăn, hoàn toàn giống như tôi có khó khăn, tôi giúp đỡ quý vị giải quyết khó khăn, chính là giúp đỡ chính mình giải quyết khó khăn, là một không phải hai. Dùng tâm chân thành, dùng tâm từ bi, không phải dùng Phân biệt, không phải dùng Chấp trước, trong đó không có ta. Ta là gì? Cả vũ trụ là ta, đều không rời một pháp.

Câu nói cuối cùng ấy của Đại sư Huệ Năng, người đọc Đàn Kinh rất nhiều, nhưng không hiểu, câu nói sau cùng, 何期自性,能生萬法 “hà kỳ Tự Tánh, năng sanh vạn pháp” (nào ngờ Tự Tánh, có thể sanh vạn pháp). Tự Tánh chính là Chân Tâm, chính là Bổn Tánh mà người đất nước chúng ta nói, Bổn Tánh vốn thiện, do người Trung Hoa nói. Có thể sanh vạn pháp là toàn vũ trụ, trong Phật pháp giảng là khắp Pháp giới Hư không giới, đây là vạn pháp. Do từ đâu đến? Do Tự Tánh biến hiện ra. Tự Tánh gặp được duyên thì hiện tướng, Tự Tánh không có tướng, nhưng có thể hiện tướng. Tướng được Tự Tánh hiện có khả năng bị tiêu diệt [hết] không? Sẽ không, vì sao? Vì duyên không ngừng. Chúng sanh này thành Phật, đoạn duyên rồi, nhưng chúng sanh kia lại đến nữa, chúng sanh là vô lượng vô biên. Cho nên vô lượng vô biên duyên, các duyên, có duyên liền khởi hiện hành. Báo độ do Tự Tánh khởi hiện hành biến ra: là Thật Báo Trang Nghiêm độ, Thật là chân thật, là quả báo chân thật, Trang Nghiêm là tốt đẹp đến tột cùng. Người nào trụ ở trong đó? Là Pháp thân Bồ-tát. Ở đó tu hành, bất kể tu hành ở đâu, chỉ cần công phu của quý vị được Đại triệt Đại ngộ, Minh tâm Kiến tánh, thì quý vị cảm được chính là Pháp thân Như Lai. Pháp thân Như Lai hiện tướng cho quý vị chính là hiện Báo thân, giống như phía trước nói với quý vị, thân có 84 ngàn tướng, tướng có 84 ngàn vẻ đẹp, hiện thân tướng như vậy. Chánh báo tốt như vậy, thì có thể tưởng tượng thì biết Y báo. Đây là thật, không phải giả. Phật nhất định sẽ hiện cảnh giới này, vì sao? Vì giúp đỡ Pháp thân Bồ-tát, mặc dù Pháp thân Bồ-tát chứng đắc Pháp thân, nhưng chưa viên mãn, các ngài không thể quay về Thường Tịch Quang. Cho nên các ngài phải trụ ở nơi đó để tu hành, tu viên mãn thì trở về Thường Tịch Quang, trở về Thường Tịch Quang mới là chứng đắc quả Phật viên mãn rốt ráo thật sự, Đẳng giác Bồ-tát cũng không về được Thường Tịch Quang. Cho nên những người nào ở Thật Báo độ? Là 41 địa vị Pháp thân Đại sĩ ở Báo độ, các ngài trụ ở trong đó. Hướng xuống dưới, là Thanh văn, Quyền giáo Bồ-tát, ở Phương Tiện Hữu Dư độ. Chúng ta hoàn toàn mê rồi, hoàn toàn mê rồi, không có mảy may giác ngộ, Lục đạo Luân hồi, chính là Đồng cư Uế độ. Trái đất của chúng ta là Đồng cư Uế độ, trái đất là như vậy, hệ Mặt Trời là như vậy, hệ Ngân Hà là như vậy, là Đồng cư Uế độ.

          Chỉ có đức Phật giảng được rõ ràng. Chúng tôi tin tưởng dường như Khoa học đều có cách chứng minh cho chúng ta những cảnh giới đó, họ chỉ cần làm rõ ràng Tam tế tướng, Tam tế tướng trên kinh Phật, họ đều có thể nói rõ ràng, nói sáng tỏ. Họ là do dùng khoa học kỹ thuật để phát hiện, không phải dùng Thiền định. Đó chính là nói, tuy làm sáng tỏ, làm rõ ràng, quý vị tin tưởng rồi, thì tu Tịnh Độ không có vấn đề, có sự giúp đỡ tuyệt vời. Vì sao? Vì điều kiện của Tịnh Độ quá đơn giản, là thật tin, thật nguyện, thật sự tin tưởng có Thế giới Cực Lạc, đều không có chút hoài nghi nào; Thật sự muốn đi, thật sự muốn vãng sanh, hai điều kiện này chính là điều kiện vãng sanh Tịnh Độ. Tịnh Độ có bốn cõi Tịnh Độ, là Đồng Cư Tịnh Độ, Phương Tiện Tịnh Độ, Thật Báo Tịnh Độ, Thường Tịch Quang Tịnh Độ, trong mỗi một cõi đều có ba bậc chín phẩm. Cho nên quý vị đến Thế giới Cực Lạc thì quý vị là đi xếp lớp, quý vị được xếp lớp nào, đó chính là sự sâu hay cạn của công phu niệm Phật. Cho nên thường niệm Phật có chỗ tốt, niệm Phật có công phu, thì nâng cao phẩm vị. Không có công phu, được, có thể vãng sanh; Có thể vãng sanh thì tốt, không có công phu cũng được, ta học từ năm thứ nhất lên, năm thứ nhất Tiểu học học lên. Nói tóm lại, Thế giới Cực Lạc không có học lùi, không có lưu ban, chỉ có nâng lên trên. Tốc độ nâng lên trên nhanh hay chậm khác nhau, tuyệt đối là nâng lên, sẽ không lui xuống. Thành Phật nhanh! Chắc chắn, bảo đảm thành Phật, chắc chắn sẽ không đọa lạc, nơi ấy khó được biết bao.

Ngày nay chúng ta dùng bản Kinh này, chúng ta nên thật sự cảm ơn Phật Bồ-tát, tất cả do Phật Bồ-tát sắp đặt, sắp xếp lão Cư sĩ Hạ Liên Cư hội tập cho chúng ta. Có người nói, lão Cư sĩ Hạ Liên Cư là Bồ-tát Phổ Hiền tái lai, lão Cư sĩ Hoàng Niệm Tổ là Quán Thế Âm Bồ-tát tái lai. Tôi chưa từng gặp Hạ lão, nhưng Hoàng Niệm lão thì rất quen thuộc với tôi, sau khi chúng tôi quen biết từ nước Mỹ, một năm tôi ít nhất là ba lần đến Bắc Kinh để thăm ngài, khi ngài còn sống. Lúc đó bạn cũ nhiều, bây giờ đều đi rồi, tôi không quen biết thế hệ trẻ bây giờ. Cho nên xúc động muôn vàn, nghiêm túc chăm chỉ niệm Phật, đến Thế giới Cực Lạc chúng tôi sẽ lại gặp nhau, sẽ gặp lại được, đây là chắc chắn, mục tiêu và phương hướng của những người ấy đều là Thế giới Cực Lạc, chúng tôi đồng tâm đồng nguyện. Đó là Pháp thân, Báo thân, Ứng Hóa thân, chúng ta làm sáng tỏ các thân.

           三身果佛之土 “Tam thân quả Phật chi độ” (Cõi nước của ba thân quả Phật), cõi nước của ba thân quả Phật là nói về Thế giới Cực Lạc, Thế giới Cực Lạc là cõi nước của ba thân quả Phật. Những chư Phật Bồ-tát ấy ở Thế giới Cực Lạc có thể hiện thân A Mi Đà Phật, tôi niệm A Mi Đà Phật, Quán Thế Âm Bồ-tát hiện thân Phật, thân A Mi Đà Phật, Đại Thế Chí Bồ-tát cũng có thể hiện thân A Mi Đà Phật, ở trong cõi Đồng Cư dạy chúng ta. Cõi Đồng Cư như vậy, cõi Phương Tiện cũng là như vậy. Đến cõi Thật Báo thấy Báo thân, không phải thấy Ứng Hóa thân, Ứng Hóa thân ở hai cõi bên dưới, hai cõi trên thì không phải, đó là Báo thân, Pháp thân. 故超諸應佛之化土 “Cố siêu chư ứng Phật chi Hóa độ” (Nên vượt qua Hóa độ của các ứng hoá Phật), vượt qua Hóa độ của chư Phật khác. Hóa độ của chư Phật khác, giống như đức Phật Thích Ca Mâu Ni ở thế gian này của chúng ta, trái đất này của chúng ta là khu giáo hóa của đức Phật Thích Ca Mâu Ni, ngài dùng Ứng thân trụ thế 80 năm, giảng kinh dạy học 49 năm. Hiện nay chúng ta không thể lược bớt điểm này, phải thường giảng mấy câu nói, phải làm rõ ràng, làm sáng tỏ. Chư Phật Như Lai là thân phận gì? Là sư đạo, là địa vị của người thầy. Thế giới Cực Lạc là một trường học, tôi nói vô cùng rõ ràng, nơi đó không có tổ chức chính trị, Thế giới Cực Lạc không có Quốc vương, không có Đại thần, không có tổ chức hành chính. Cho nên chỉ có hai kiểu người. Người đất nước chúng ta nói nhân dân, nhân dân trong xã hội, bốn kiểu lớn Sĩ Nông Công Thương, nơi ấy không có. Nơi đó chỉ có hai kiểu, thầy và trò, Bổn sư A Mi Đà Phật, mỗi một người vãng sanh đều là học trò, chúng ta gọi là Bồ-tát, Bồ-tát là học trò cao cấp trong học trò, đại học trò gọi là Bồ-tát. Tiểu học trò, chúng ta vãng sanh Đồng Cư độ, chính là đều chưa đoạn Tập khí Phiền não, niệm Phật chưa có công phu, sanh Phàm Thánh Đồng Cư độ, là tiểu học trò; Có một chút công phu, giống như A-la-hán có thể đoạn Kiến tư Phiền não rồi, đó chính là công phu, các ngài sanh Phương Tiện Hữu Dư độ, là trung học trò; Cao hơn một chút, các ngài có thể phá một phần Vô minh chứng một phần Pháp thân, gọi là Bồ-tát, chúng ta nói đó là đại học trò; Thường Tịch Quang là lớp Tiến sĩ. Cho nên nơi đó có cấp bậc, chúng ta sanh cấp bậc nào, đó là do sự sâu hay cạn của công phu niệm Phật. Cho nên không có chuyện gì thì luôn luôn niệm Phật, thường niệm Phật thì đến Thế giới Cực Lạc được nâng cao phẩm vị.

Nhưng Thế giới Cực Lạc có một hiện tượng vô cùng đặc biệt, mà cõi nước chư Phật mười phương không có, tuy có cấp bậc, nhưng đãi ngộ bình đẳng. Trong cõi nước chư Phật khác, cấp bậc khác nhau, thì đãi ngộ khác nhau, không tương đồng, khác biệt rất lớn. Sự đãi ngộ ở Thế giới Cực Lạc là bình đẳng, đây là nguyên nhân gì? Là sự từ bi của A Mi Đà Phật, sự gia trì của 48 nguyện, chỉ cần sanh đến Tịnh Độ, không kể trình độ công phu của quý vị, đến Thế giới Cực Lạc, đều làm A-duy-Việt-trí Bồ-tát. A-duy-Việt-trí Bồ-tát là thế nào? Là Pháp thân Bồ-tát. Nói cách khác, đến Thế giới Cực Lạc, dù Phàm Thánh Đồng Cư độ cũng được hưởng thụ sự đãi ngộ của Thật Báo Trang Nghiêm độ, chính là nói trí huệ, đạo lực và thần thông của quý vị không khác với Pháp thân Bồ-tát, đây là pháp khó tin. Trong tất cả kinh không có cách nói này, chỉ có bộ Kinh này, cho nên Pháp môn này là pháp khó tin dễ hành. Vãng sanh quá dễ dàng, ai cũng có thể vãng sanh, vì sao? Vì quý vị vốn là Phật. Nên quý vị tu Pháp môn này, được bổn nguyện của A Mi Đà Phật gia trì, vậy khởi tác dụng, không phải là không khởi tác dụng, chính là có thể giúp đỡ quý vị nhanh chóng trưởng thành, nhanh chóng nâng cao, sẽ không tìm được Pháp môn khác nữa.

Lúc chúng tôi còn trẻ, tôi tiếp nhận sự dạy bảo của thầy Phương, người xuất gia chỉ có một vị Đại sư Chương Gia, Cư sĩ tại gia là lão Cư sĩ Lý Bỉnh Nam, tôi theo ba vị thầy, thầy Phương tiếp dẫn tôi nhập môn. Khi tôi còn trẻ không tin Tôn giáo, đặc biệt là xem thường Phật giáo, cho rằng Phật giáo là đa thần giáo, với hàm ý đa thần giáo là Tôn giáo cấp thấp, không có duyên với tôi. Thầy Phương nói với tôi, Phật giáo là Triết học, Triết học cao cấp. Tôi vô cùng kinh ngạc, tôi nói Phật giáo là Tôn giáo, đa thần giáo, Tôn giáo cấp thấp, Phật giáo làm sao có thể có Triết học? Thầy nói: anh còn trẻ, anh không hiểu, đức Thích Ca Mâu Ni là nhà Triết học vĩ đại nhất trên thế giới, Triết học Kinh Phật là đỉnh cao nhất của Triết học toàn thế giới, học Phật là hưởng thụ cao nhất của đời người. Lời nói này rất dễ nghe, tôi hiểu rõ, nhận thức ở trong bài mục này, bội phục năm vóc sát đất. Tôi nói con muốn học. Thầy Phương rất hoan hỉ, nói với tôi, chùa chiền am đường vào 200 năm trước, người ở trong đó đều là thật sự có học vấn, có đạo đức, họ có thể thật sự truyền dạy pháp cho anh. Thầy nói hiện nay thì không được rồi, hiện nay mọi người không học nữa. Vậy nếu muốn học thì làm thế nào? Thầy liền bảo tôi, là kinh điển, trực tiếp đi đọc kinh điển, nếu đọc không thông kinh điển, thì xem chú giải.

Lúc đó tôi cũng không tệ lắm, còn gặp được Đại sư Chương Gia, thầy Lý, có tín, có giải, có hành đối với Phật pháp, về chứng thì chúng tôi không dám nói, ít nhất các ngài có 3 thứ, trong tín giải hành chứng, các ngài đều có ba thứ phía trước, có năng lực hướng dẫn tôi. Hiện nay tìm thầy tìm không được nữa, quý vị tìm tôi, thì tôi thua kém hơn rất nhiều so với ba vị thầy trước đây. May mà còn lý niệm và phương pháp tu học do đức Phật Thích Ca Mâu Ni truyền, nương theo phương pháp đó của Ngài, tuân theo làm theo, tin rằng chúng ta sẽ có thành tựu. Chính là thật sự phải tin tưởng lời của người xưa không gạt người, nếu gạt người thì không thể truyền mấy ngàn năm. 一門深入,長時薰修 “Nhất môn thâm nhập, trường thời huân tu”, đây là thái độ, tâm thái trong học tập, cũng chính là lý niệm mà hiện nay giảng, phải không nghi ngờ. Phương pháp, 讀書千遍,其義自見 “độc thư thiên biến, kỳ nghĩa tự kiến”, tự kiến chính là khai ngộ, số lần niệm phải nhiều, niệm sạch Vọng tưởng, niệm sạch Tạp niệm của chính mình. Những trí huệ trên kinh Phật, là trong Tự Tánh vốn có, không phải đến từ bên ngoài. Do chính mình vốn có, do đức Phật Thích Ca Mâu Ni giảng, chúng ta làm sao có thể không hiểu? Nào có kiểu đạo lý này? Hiện nay không hiểu chính vì có chướng ngại, chướng ngại chính là Phiền não.

Phiền não lại chia thành ba loại lớn là: Vô minh Phiền não, Trần sa Phiền não, Kiến tư Phiền não. Đầy đủ tất cả ba loại Phiền não này, thì tên gọi là phàm phu Lục đạo. Ba loại Phiền não này bỏ đi một loại, Kiến tư, bỏ Kiến tư trước, là có trình tự, giống như cởi quần áo, đó là lớp ngoài cùng, quý vị cởi bỏ ra, là A-la-hán. Lớp chướng ngại thứ hai, là Trần sa Phiền não, Trần sa là ẩn dụ nhiều, là thế nào? Là phân biệt. Kiến tư là Chấp trước, đoạn hết Chấp trước, là A-la-hán; Lại đoạn hết Phân biệt, là Bồ-tát; Sau cùng vừa phá Vô minh Phiền não, thì thành Phật, chính là Giác. Cho nên清淨、平等、覺 “Thanh Tịnh, Bình Đẳng, Giác” trên đề Kinh, đây là ba kết quả của đoạn Phiền não, nếu đoạn sạch Kiến tư Phiền não, thì tâm thanh tịnh hiện tiền, tự thấy nghĩa kia, thấy được 1/3, là Tiểu ngộ; Đạt được tâm bình đẳng, đoạn Trần sa Phiền não rồi, tâm bình đẳng xuất hiện, là Đại ngộ; Sau cùng đoạn sạch Vô minh Phiền não, Đại triệt Đại ngộ chính là Giác, Giác chính là Minh tâm Kiến tánh, đó là Triệt ngộ, thì nhập cảnh giới Phật. Tu điều gì? Là đều ở trên đề Kinh, năm chữ Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác này, là quan trọng! Nên thường xuyên đem thanh tịnh bình đẳng giác, chúng ta so sánh hôm nay với hôm qua, là có tiến bộ hay thụt lùi? Tháng này so với tháng trước, năm nay so với năm trước, quý vị phải dụng công ở trên điều này, chính mình vô cùng rõ ràng, vô cùng sáng tỏ. Cho nên niệm Phật không ở nhiều hay ít, không liên quan với điều này, cũng không liên quan với niệm kinh, liên quan lớn với đạt đến mục tiêu này. Thường niệm Phật, thường niệm kinh, đều là vì đạt được mục đích này, niệm sạch tất cả Tập khí Vọng tưởng Phân biệt, thì chúng ta được đại tự tại. Điều này cũng không thể cầu người khác, quý vị nói cầu A Mi Đà Phật, cầu Quán Âm Bồ-tát, là giúp không được, là bảo quý vị buông xuống. Gặp được Phật Bồ-tát rồi, cũng là dạy cho quý vị, quý vị buông xuống Phiền não, vẫn phải là chính mình buông xuống, không phải các ngài giúp đỡ quý vị buông xuống. Thành tựu là thành tựu của chính quý vị, còn thầy, Phật Bồ-tát làm tăng thượng duyên cho quý vị mà thôi, phải hiểu được điều này. Nhưng duyên vô cùng quan trọng, nếu không có người nhắc nhở thì quên mất rồi, thường luôn có người nhắc nhở, đọc kinh chính là nhắc nhở, niệm Phật chính là nhắc nhở, mỗi ngày có người nhắc nhở, thời thời khắc khắc nghe kinh, tính cảnh giác cao, thì quý vị mới có thể xa rời mê hoặc điên đảo, mới có thể phá mê khai ngộ.

Đây là nói rõ ở ba thân ấy vượt qua Hóa độ của các Ứng hoá Phật, vượt qua cõi nước của tất cả chư Phật, không thể so sánh với Thế giới Cực Lạc, đó là điều siêu thắng độc diệu thứ nhất. 二、佛身光壽超過諸佛故 “Nhị, Phật thân quang thọ siêu quá chư Phật cố” (Hai, bởi thân ánh sáng thọ mạng của Phật vượt qua chư Phật). Người vãng sanh ở Thế giới Cực Lạc, tuy là phàm phu, chưa đoạn một phẩm phiền não nào, nhưng đạt được điều kiện vãng sanh Thế giới Cực Lạc, đó chính là ta thật sự tin tưởng, ta thật sự mong muốn đến Thế giới Cực Lạc, chưa có công phu niệm Phật. Mặc dù niệm Phật, nhưng chưa có niệm hết Phiền não, chính là chưa có công phu. Niệm hết Kiến tư Phiền não rồi, đó là nắm được tầng công phu thứ nhất, thì quý vị không ở Đồng Cư độ nữa, mà quý vị vãng sanh đến Phương Tiện Hữu Dư độ. Cho nên khi di dân đến Thế giới Cực Lạc, thì quý vị không phải học từ Tiểu học, quý vị là học từ Trung học, quý vị có trình độ này. Điều siêu thắng độc diệu thứ hai là thân ánh sáng thọ mạng của Phật vượt qua chư Phật. Thân Phật, phía trước cũng đã tiết lộ thông tin, là hoàn toàn giống với thân của A Mi Đà Phật, là Tử-ma chân kim sắc thân, không phải là thân xác thịt này, cũng chính là nói không phải do hiện tượng vật chất biến hiện ra. Nơi ấy có hiện tượng đó, nhưng không giống nơi này của chúng ta, chỗ chúng ta là Nhất hợp tướng, Nhất hợp tướng được giảng trong Kinh Kim Cang. Nhất là gì? Chính là vật chất cơ bản, hiện nay gọi là Neutrino. Là do Neutrino tổ hợp, gọi là Nhất hợp tướng, sau khi tách ra toàn bộ thì hoàn toàn là Neutrino, là vật chất này tập hợp cùng nhau, sắp xếp thành phương trình khác nhau, thì trở thành Nguyên tử, Phân tử, là do vật chất này tổ hợp thành. Thế giới cũng là do vật chất này tổ hợp thành, gọi là Nhất hợp tướng. Thế giới Cực Lạc không có hiện tượng này, là thân Pháp tánh, cõi Pháp tánh. Pháp tánh không có sanh diệt, cho nên không có thọ mạng, là vô lượng thọ. Có sanh có diệt thì có kỳ hạn, thọ mạng dài hơn cũng là có kỳ hạn, Thế giới Cực Lạc không có kỳ hạn, là vô lượng thọ, vì thế nên vô lượng thọ. Vô lượng quang, thân phóng quang minh, toàn thân phóng quang, quang cũng đại biểu trí huệ, đã tràn đầy trí huệ, không có Phiền não. Có Tập khí, 41 tầng bậc trong Thật Báo độ là đoạn Tập khí, thật sự phá Vô minh rồi, chưa đoạn Tập khí Vô minh. Vì thế nên thân Phật ánh sáng thọ mạng vượt qua chư Phật. 因彌陀為佛中極尊,光中之王,壽命無量 “Nhân Mi Đà vi Phật trung cực tôn, quang trung chi vương, thọ mạng vô lượng” (Bởi vì đức Mi Đà là cực kỳ tôn quý trong chư Phật, vua trong ánh sáng, thọ mạng vô lượng), đức Phật là vô lượng thọ, mỗi người vãng sanh đều là vô lượng thọ. Đây là điều mà mọi người chúng ta vô cùng hi vọng đạt được, chúng tôi tin tưởng điều đó tuyệt đối không phải là giả, trên Lý thì giảng được thông, trên Sự thì có khả năng. Cho nên vì sao cần phải nghiên cứu kinh? Vì nghiên cứu kinh thông rồi, làm sáng tỏ Lý rồi, thì tin tưởng Sự thôi. Cho nên nghiên cứu giáo là giúp đỡ quý vị đoạn nghi sanh tín. Tác dụng của việc đó ở chỗ này.

三、名號利益,獨出難思故 “Tam, danh hiệu lợi ích, độc xuất nan tư cố” (Ba, sự lợi ích của danh hiệu, nên duy nhất siêu vượt khó nghĩ bàn). Điều này là không thể nghĩ bàn, A Mi Đà Phật dùng điều gì để giúp đỡ chúng sanh, thành tựu chúng sanh? Chính là dùng danh hiệu của Ngài, bảo quý vị thường niệm câu danh hiệu này. Ý nghĩa của câu Phật hiệu này quá nhiều rồi, có thể dịch thành tiếng nước ta, nhưng không dịch. Vì sao không không dịch? Bởi tôn trọng nên không dịch, là thuộc về tôn trọng. Nên dịch âm, A Mi Đà Phật. Ý nghĩa của danh hiệu, A dịch thành ý nghĩa nước ta là Vô; Mi Đà là Lượng, Vô Lượng; Phật là Giác, ý nghĩa của giác ngộ, là Vô Lượng Giác. Vô Lượng Giác, vị tôn Phật nào không phải là Vô Lượng Giác? Cho nên câu danh hiệu này chính là đại biểu danh hiệu chung của hết thảy tất cả chư Phật trong mười phương ba đời, niệm câu danh hiệu này thì niệm được tất cả rồi, không sót một vị nào. Danh hiệu của đức Phật đương nhiên bao gồm của Bồ-tát, Phật là danh hiệu trên quả, Bồ-tát là trên nhân, danh hiệu tu nhân, nhân quả tương ưng, nhân quả là một thể. Cho nên trong câu danh hiệu này cũng bao gồm danh hiệu của tất cả Bồ-tát ở trong đó, niệm một danh hiệu thì niệm được tất cả rồi, không thể nghĩ bàn.

Câu danh hiệu này có uy lực không thể nghĩ bàn, chúng ta nhìn thấy từ trên người của lão Hòa thượng Hải Hiền. Lão Hòa thượng ấy xuất thân là nông dân, chưa từng đọc sách, không biết chữ, 20 tuổi xuất gia, thì Sư phụ dạy ngài một câu Nam Mô A Mi Đà Phật, dạy ngài niệm tiếp một mạch, dặn dò ngài, sáng tỏ rồi, thì không thể nói lung tung, không được nói. Thầy chính là dạy ngài mấy câu nói đó, thì ngài đã tuân thủ cả đời, 92 năm không chuyển hướng, tuân thủ lời của thầy, niệm Phật thật sự có công phu. Tôi xem Vĩnh Tư Tập về ngài, xem báo cáo ấy, xem đĩa phim về ngài, tôi phỏng đoán, tư chất của ngài ấy tốt, thật thà, nghe lời, thật làm, người như vậy, gặp được cao nhân chỉ điểm, thì họ nhất định thành tựu. 20 tuổi bắt đầu niệm Phật, công phu là ngày đêm không gián đoạn, tín nguyện không có vấn đề, ngài không có hoài nghi, hoàn toàn tiếp nhận. Thông thường là 3 năm đến 5 năm, thì đạt được Công phu Thành phiến, vậy thì có công phu rồi, công phu đó sanh Phương Tiện Hữu Dư độ. Ở trong Thế giới Cực Lạc, giống như quản lý trường học, nếu từ năm thứ nhất Tiểu học đến lớp Tiến sĩ, tổng cộng là bao nhiêu lớp? Là 52 lớp, ngài được xếp lớp rồi, ngài được xếp lớp là xếp lớp thứ 11, Công phu Thành phiến. Qua tiếp 3 đến 5 năm, 30 tuổi, khoảng 30 tuổi, thì công phu nhất định nâng lên đến Sự nhất tâm Bất loạn, vậy thì cao rồi, Sự nhất tâm Bất loạn là Thượng thượng phẩm trong cõi Phương Tiện. Có 3 đến 5 năm nữa, nhiều nhất là 10 năm, thì nâng lên đến Lý nhất tâm Bất loạn, sanh Thật Báo Trang Nghiêm độ, là Pháp thân Bồ-tát. Ngài thật sự đạt được rồi, ngài có thần thông, nhưng không hiện ra. Do Sư phụ ngài dạy, nên không nói, không thể lộ ra. Ở trong hoàn cảnh đó không nói, vô cùng thật thà, chính là giả bộ như dáng vẻ của một người nông dân làm ruộng, cả đời vượt qua bình an.

          Ngài sống đến 112 tuổi, tôi cho rằng đó không phải là thọ mạng của ngài, thọ mạng của ngài cũng có lẽ là bảy-tám mươi tuổi, thọ mạng dài như vậy, là do A Mi Đà Phật cho ngài. A Mi Đà Phật nhiều lần khích lệ ngài, tu được rất tốt, có thể làm tấm gương của người niệm Phật, có thể làm tấm gương của người tu Tịnh Độ, bảo ngài biểu pháp, sống thêm vài năm ở thế gian này, con tu được rất tốt. Đại khái cũng đã nói với ngài, con gặp được một quyển sách: 若要佛法興,唯有僧讚僧 “Nhược Yếu Phật Pháp Hưng, Duy Hữu Tăng Tán Tăng” (Nếu Muốn Phật Pháp Hưng, Chỉ Có Tăng Khen Tăng), con thấy được quyển sách ấy rồi, thì A Mi Đà Phật sẽ đến tiếp dẫn con vãng sanh. Cho nên tôi nghĩ đến, ngài luôn hy vọng sự xuất hiện của quyển sách ấy. Tháng 1 năm 2013, thật sự có vài đồng tu mang quyển sách đó lên núi để thăm ngài, ngài không biết chữ, nhìn thấy người khác mang sách, đây là sách gì? Hỏi người khác một câu, người khác liền nói với ngài: quyển sách này là “Nhược Yếu Phật Pháp Hưng, Duy Hữu Tăng Tán Tăng”. Ngài vừa nghe thì vô cùng vui mừng, miêu tả về ngài, giống như bảo bối mà mỗi ngày trông mong, hôm nay lại có thể đến tay rồi. Lập tức mặc áo tràng đắp y, yêu cầu người khác chụp hình cho ngài, từ trước đến nay, cả đời ngài chưa chủ động bảo người khác chụp hình cho ngài, đây là lần đầu tiên. Sau khi chụp xong tấm ảnh đó, 3 ngày liền đi rồi, đi được tự tại, đi được tự nhiên, do chính mình niệm Phật đi, không có người trợ niệm. Ngài không cần người khác trợ niệm. Ngài nói nếu người khác trợ niệm thì không chắc chắn, chính ngài có nắm chắc, chính ngài niệm Phật vãng sanh.

Để biểu pháp, biểu pháp gì? Là ở trong hai-ba mươi năm đó, Tịnh Độ tông có khó khăn, rất nhiều người không tin tưởng, rất nhiều ngôn luận công kích phản đối Bản Hội Tập, nói hội tập là sai lầm, là không nên, quyển sách đó chính là để xem xét rõ ràng cho sự việc này, nói rõ là có thể hội tập. Hội tập không phải là bắt đầu từ lão Cư sĩ Hạ Liên Cư, mà là kinh Phật đến Trung Hoa, lúc bắt đầu phiên dịch đã có hội tập. Bộ đầu tiên là Kinh Tứ Thập Nhị Chương, bộ đầu tiên được phiên dịch, đó chính là hội tập. Kinh Tứ Thập Nhị Chương không phải do đức Phật thuyết, là chép một đoạn trong bộ kinh này, chép một đoạn trong bộ kinh kia, trích dẫn lại, chính là tập hợp thành một bộ, thuận tiện cho việc dạy học. Giống như hiện nay chúng tôi giảng 360, chính là hội tập. Cho nên có căn cứ, không phải là người hiện nay làm. Mà rất nhiều hội tập trong Đại Tạng Kinh trước đây, thời xưa không gọi là hội tập, gọi là hợp kinh, hợp thành, hợp kinh, đó là hội tập, nhưng có sửa đổi chữ. Còn Bản Hội Tập này của lão Cư sĩ Hạ Liên Cư đều không sửa đổi chữ nào, là chữ trong bản dịch gốc, câu trong bản dịch gốc, không có sửa đổi, là bản hội tập trung thành nhất. Nói cách khác, mỗi câu mỗi chữ đều là do đức Thích Ca Mâu Ni Phật thuyết, bản này là giá trị, có thể tin. Về Chú Giải, quý vị xem Chú Giải của lão Cư sĩ Hoàng Niệm Tổ, ngài dùng 83 loại kinh luận, 110 loại trước tác và chú sớ của Tổ sư Đại đức. Quý vị xem, mỗi đoạn ngài đều ghi rõ ra, chỗ này đến từ đâu, chỗ kia đến từ đâu, có căn cứ, không phải là tùy tiện nói lung tung, vậy theo Chú Giải này là Chánh tri Chánh kiến, không nên hoài nghi. Điều thứ 3 là chứng minh, hơn mười mấy năm qua của chúng ta, gần mười mấy hai mươi năm, chúng ta y theo bản này, tu hành dựa theo bản Chú Giải này, là không có sai lầm, không sai. Hiện nay thời kỳ này chúng sanh bạc phước, nhưng cảm được lão Hòa thượng vì bộ Kinh này mà làm chứng minh, khiến chúng ta định tâm trở lại. Bộ Kinh này tuyệt vời, là Chánh tri Chánh kiến, là bộ Kinh bậc nhất để độ chúng sanh trong thời kỳ Mạt pháp của Như Lai. Chúng ta phải tôn trọng, không thể phê bình bộ Kinh, phải nghiêm túc học tập bộ Kinh, mỗi câu mỗi chữ hàm chứa vô lượng nghĩa, giảng không bao giờ hết!

Tôi vào trước đây, đây là lần thứ tư, tôi giảng bộ Chú Giải này, giảng Chú Giải lần thứ tư rồi. Lần thứ nhất, tôi 85 tuổi, tôi còn nhớ tết Thanh minh của năm đó, tôi buông xuống Hoa Nghiêm, bắt đầu giảng bộ Chú Giải này. Cả đời này chuyên tu Tịnh Độ, trên 80 tuổi, gần đất xa trời, sống một ngày thì tính một ngày. Mỗi ngày hy vọng vãng sanh Thế giới Cực Lạc, là ý niệm này, không có ý niệm khác. Những năm gần đây, hiện tại chúng tôi nhìn thấy sự hỗn loạn trong xã hội, tai nạn trên địa cầu, mỗi năm một nghiêm trọng, điều này không phải là việc tốt. Chúng ta có sự cảnh giác cao độ, chính là chúng ta quyết định cầu sanh Tịnh Độ, nhất định được sanh, đều không có mảy may hoài nghi, mới được, chúng ta phải nắm vững điểm này. Tôi đều không để ý thứ khác, đời sống, tôi nói với quý vị, đưa cho thứ gì thì ăn thứ đó, không đưa cho thì không ăn, không ăn cũng được, một ngày hai ngày không ăn không sao, tinh thần vẫn như vậy. Thứ gì cũng tùy duyên, không phan duyên, buông xuống vạn duyên, ngay cả thân thể cũng buông xuống, không phải là của ta, nhà của ta ở Thế giới Cực Lạc, thường thực hành quán như vậy. Hy vọng duy nhất, là thân cận A Mi Đà Phật, một đời chứng đắc viên mãn rốt ráo, đây là việc nên làm. Việc khác thì tùy duyên, có duyên, là việc tốt, có lợi ích đối với đất nước, đối với xã hội, đối với nhân loại, có duyên tôi sẽ làm, không có duyên tôi không đi phan duyên, cả đời không phan duyên. Cho nên cả đời, con đường cả đời này của tôi là do Phật Bồ-tát sắp xếp, có rất nhiều đều là không nghĩ tới, căn bản chính là không nghĩ đến, duyên chín muồi rồi, chín muồi thì phải nên làm. Đoàn kết Tôn giáo là duyên, giúp đỡ Liên Hợp Quốc hóa giải xung đột, xúc tiến an định hòa bình, cũng là duyên. Xuất gia nào có nghĩ đến sự việc này? Không có nghĩ đến việc này, đều là duyên chính mình đến, đều đầy đủ tất cả rồi, việc này là không thể không đi làm. Đây cũng là có liên quan với quốc gia dân tộc, với văn hóa truyền thống, với hạnh phúc của nhân dân toàn thế giới, nên chúng tôi không thể chối từ, sống thêm vài ngày ở thế gian này. Nếu không có duyên này thì sao? Không có duyên thì đi sớm, có thể đi được rồi.

Chúng ta xem Chú Giải của Niệm lão, 謂彌陀聖號,名聞十方。若有聞者,至心信樂,十念必生 “vị Mi Đà Thánh hiệu, danh văn thập phương. Nhược hữu văn giả, chí tâm tín nhạo, thập niệm tất sanh” (nghĩa là Thánh hiệu đức Mi Đà, nổi tiếng mười phương. Nếu có chúng sanh nghe được, chí tâm tin ưa, mười niệm chắc chắn vãng sanh), đây là nguyện thứ 18 trong 48 nguyện. Vãng sanh Thế giới Cực Lạc không khó, danh hiệu nổi tiếng mười phương, là tất cả chư Phật Như Lai trong mười phương thuyết pháp cho chúng sanh, thì không có việc không giảng Kinh Vô Lượng Thọ. Kinh Vô Lượng Thọ là năm xưa đức Phật còn tại thế cả đời tuyên giảng nhiều lần, cho nên phiên bản được truyền lại cũng là rất nhiều tài liệu khác nhau, không phải là giống nhau. Ở nước ta có 12 lần phiên dịch, thất truyền 7 loại, lưu lại 5 loại, nội dung khác biệt rất lớn. Cho nên Đại đức xưa cho rằng ít nhất có 3 phiên bản khác nhau, ba loại khác nhau chính là ba lần diễn giảng. Giáo thọ Kim của Nội Mông Cổ nói với tôi, trong Đại Tạng Kinh chữ Mông Cổ, Kinh Vô Lượng Thọ có hai-ba mươi loại phiên bản. Tôi hy vọng thầy có thể phiên dịch ra, dịch thành chữ Hán. Chúng ta lại đi đối chiếu, có thể phát hiện thêm, chứng minh trong cả đời đức Thích Ca Mâu Ni Phật nhiều lần tuyên giảng, cũng rất có khả năng giảng mười mấy lần, giảng 20 lần, vì sao có thể xuất hiện nhiều bản như vậy? Là nói rõ: bộ Kinh này quan trọng. Bộ Kinh này là người nào cũng có thể tu, người nào cũng có thể thành tựu, mà thành tựu vô cùng thù thắng, không phải thành tựu nhỏ, là thành tựu viên mãn, dễ dàng như vậy.

Trước đây chúng tôi cũng là đã xem nhẹ bộ Kinh này, cho rằng là đức Thích Ca Mâu Ni Phật đại khái độ bà lão, những căn tánh ấy tương đối kém một chút, giảng kinh Đại thừa thì các bà không hiểu, nên dùng phương pháp này để tiếp dẫn những người đó. Thật không ngờ, đó là đỉnh núi cao nhất. Khi mới học Phật xem nhẹ rồi, không để ý, thầy giới thiệu, chính chúng tôi cho rằng không phải vậy, nên không tiếp nhận. Trong kinh giảng là pháp khó tin, tôi có lãnh hội rất sâu, tôi tin tưởng Pháp môn này, tôi học Phật 64 năm, đại khái là học Phật hơn 30 năm mới tiếp nhận, thì quý vị hiểu được không dễ dàng! Khi mới học Phật, đều tập trung vào đại kinh đại luận, Hoa Nghiêm, Pháp Hoa, Lăng Nghiêm, Du Già Sư Địa Luận, Đại Trí Độ Luận, đều học những Kinh Luận này. Những vị Giáo thọ, Giáo sư nổi tiếng, Học giả nổi tiếng, các vị giảng về Phật pháp, trong cửa miệng hoàn toàn đều là những đại kinh đại luận này, ai nhắc đến Kinh Vô Lượng Thọ, không có người từng nhắc đến, thật sự không dễ dàng biết được. Tôi giảng Hoa Nghiêm, Pháp Hoa là giảng qua ý chính, tôi còn nhớ hơn 100 giờ, là ý chính Kinh Pháp Hoa; Đã giảng Hoa Nghiêm hai lần, lần thứ hai đã giảng hơn 4 ngàn giờ, nhưng chỉ giảng đến phẩm Sơ Trụ, là 1/5 của cả Kinh, nếu giảng xong toàn bộ Kinh thì cần 20 ngàn giờ. Thật sự là đại học vấn, không phải là giả, pháp vị đó là vô tận, trong đó điều gì cũng có, bao la vạn tượng, [gồm] tất cả pháp của thế gian và xuất thế gian.

 [Chư] Phật vô lượng lần tuyên thuyết, mục đích chính là hy vọng có người nghe được, chí tâm tin ưa, chí tâm chính là tâm chân thành, tin tưởng có Thế giới Cực Lạc, vui mừng với việc vãng sanh, ưa thích vãng sanh, sanh đến Thế giới Cực Lạc thân cận A Mi Đà Phật. Mười niệm chắc chắn sanh, đây là nguyện thứ 18. 聞名信受,速至菩提。諸佛同宣,十方共讚,故云獨出 “Văn danh tín thọ, tốc chí Bồ-đề. Chư Phật đồng tuyên, thập phương cộng tán, cố vân độc xuất” (Nghe danh tin nhận, mau đến Bồ-đề, chư Phật cùng truyền, mười phương cùng khen, nên nói duy nhất siêu vượt). Không có ngoại lệ, được tất cả chư Phật mười phương cùng khen ngợi chính là A Mi Đà Phật, không có nghe nói khen ngợi vị Phật khác, chư Phật cùng truyền khắp. Nghe danh tin nhận, thật sự tin tưởng, thật sự có thể tiếp nhận. Bồ-đề là Đại triệt Đại ngộ, Minh tâm Kiến tánh, rất nhanh thì quý vị có thể đạt được. Chúng ta xem cuộc đời của lão Hòa thượng Hải Hiền, tôi phỏng đoán ngài bắt đầu từ ngày niệm Phật, được Lý nhất tâm Bất loạn, khoảng chừng 20 năm, ngài là tiệm tu. Lục tổ Huệ Năng là nhanh chóng siêu vượt, căn tánh nhạy bén hơn ngài, trong thời gian rất ngắn thì thành tựu rồi. Ngài dùng Pháp môn Niệm Phật 20 năm, nâng lên cao từng tầng từng tầng. Đại sư Lục tổ Huệ Năng không có cấp bậc, một bước thì nâng lên cao rồi, điều đó khó, không phải người thông thường có thể làm được. Nhưng phương pháp đó của lão Hòa thượng Hải Hiền, thì mỗi người đều có thể làm được, điều này không phải là giả. Cho nên chư Phật cùng truyền khắp, mười phương cùng khen ngợi, nên nói là duy nhất siêu vượt.

復以聞名發心、聞名得福、聞名得忍 “Phục dĩ văn danh phát tâm, văn danh đắc phước, văn danh đắc Nhẫn” (Lại dùng nghe danh phát tâm, nghe danh được phước, nghe danh đắc Nhẫn), cũng ở trong phẩm thứ sáu chúng ta đã học qua điều này, rất không dễ dàng. Người thế gian muốn được phước báo, có thể tin nhận A Mi Đà Phật, Cực Lạc Tịnh Độ, vậy thì được phước. Bằng lòng tín nguyện trì danh vãng sanh, vậy phước đạt được quá lớn rồi, không có ai có thể nói ra được, là phước lớn. Dù cho không muốn vãng sanh, thì phước đạt được cũng ở phước báo trời người, sẽ không đọa ba đường ác, sẽ không đọa A-tu-la. Công đức của bộ Kinh này lớn biết bao, công đức của danh hiệu không thể nghĩ bàn. 以聞名故,住三摩地 “Dĩ văn danh cố, trụ Tam-ma-địa” (Bởi vì nghe danh, nên trụ Tam-ma-địa), đắc Nhẫn, phía trước giảng ba loại Nhẫn, đắc Tam-ma-địa. Tam-ma-địa là dịch âm của tiếng Phạn, dịch thành ý nghĩa của nước ta là Thiền định. Vì sao? Bởi vì thọ trì danh hiệu của đức Phật, trong tâm chỉ có danh hiệu Phật, chỉ có A Mi Đà Phật, buông xuống tất cả thứ khác, thì đắc Tam-ma-địa, thì có thể 證不退轉 “chứng Bất thoái chuyển” (chứng địa vị Bất thoái chuyển). Vãng sanh Thế giới Cực Lạc, chứng đắc viên mãn địa vị Tam bất thoái, làm A-duy-Việt-trí Bồ-tát, 是以難思 “thị dĩ nan tư” (vì thế khó nghĩ bàn), lợi ích của danh hiệu, người thông thường tưởng tượng không được.

Điều siêu thắng độc diệu thứ tư, 令五乘齊入報土故 “linh Ngũ thừa tề nhập Báo độ cố” (bởi khiến cho Năm thừa cùng nhập Báo độ). Điều này là không có trong cõi nước của tất cả chư Phật, Năm thừa cùng nhập Báo độ, giống như một trường học của chúng ta, chưa từng có ngôi trường học này, học sinh Mẫu giáo, học sinh Tiểu học, học sinh Trung học, sinh viên Đại học, tất cả vào lớp Tiến sĩ, có trường học đó hay không (Báo độ là Thật Báo Trang Nghiêm độ của Thế giới Cực Lạc)? Không có khả năng, vãng sanh đến Thế giới Cực Lạc thực sự là giống như vậy. 五乘者,人、天、聲聞緣覺、菩薩、如來 “Ngũ thừa giả, Nhân, Thiên, Thanh văn Duyên giác, Bồ-tát, Như Lai” (Năm thừa là: Người, Trời, Thanh văn Duyên giác, Bồ-tát, Như Lai), cùng nhập vào Thật Báo Trang Nghiêm độ. Thế giới Cực Lạc là chân thật như vậy, đó là sự gia trì bởi uy thần bổn nguyện của A Mi Đà Phật, không phải là dựa vào chính mình. Là nguyên nhân gì? Nguyên nhân có nguyên nhân tổng quát, chính là tất cả chúng sanh vốn là Phật, chẳng qua là hiện tại quý vị đã mê mất Tự Tánh, biến thành hình dáng này, được sự gia trì bởi uy thần của A Mi Đà Phật, có thể khiến quý vị mau chóng trở về Tự Tánh, Ngài có năng lực lớn như vậy gia trì quý vị. 報土乃法身大士之所居 “Báo độ nãi Pháp thân Đại sĩ chi sở cư” (Báo độ là nơi ở của Pháp thân Đại sĩ), chính là Thật Báo Trang Nghiêm độ, Thật Báo Trang Nghiêm độ của Thế giới Cực Lạc. Cho nên vãng sanh đến Thế giới Cực Lạc, mặc dù có phẩm vị khác nhau, chúng ta cách thật sự [xa], chúng ta không có đạt được địa vị của A-la-hán, bởi vì là phàm phu Lục đạo. Phàm phu Lục đạo đến nơi đó sanh vào Đồng Cư độ, mặc dù là Đồng Cư độ, thậm chí ở Hạ hạ phẩm của Đồng Cư độ, nhưng sự đãi ngộ khi đến Thế giới Cực Lạc đều là sự đãi ngộ của Pháp thân Đại sĩ trong Báo độ, điều này là độc diệu; Trí huệ, thần thông, đạo lực, tướng hảo, quang minh của mỗi người, tất cả đều giống A Mi Đà Phật, đây là nơi duy nhất có.

Chỗ tuyệt vời thứ năm, 二乘 “Nhị thừa”: Thanh văn, Duyên giác; 根缺 “căn khuyết”, căn khuyết là ngày nay chúng ta nói tàn phế, không có đủ sáu căn; 女人 “nữ nhân”, những kiểu này đều là tương đối khó xoay chuyển, người nữ là chỉ tình chấp nặng, không dễ dàng buông xuống, niệm Phật thì Phật lực gia trì họ, 頓轉一乘 “đốn chuyển Nhất thừa” (lập tức chuyển thành Nhất thừa), đây là rất nhanh, lập tức chuyển họ trở lại, chuyển biến thành căn tánh Nhất thừa. Nhất thừa là thành Phật, ở trên Đại thừa. 一登彼土,悉皆具足三十二種大丈夫相,永不退轉於阿耨多羅三藐三菩提 “Nhất đăng bỉ độ, tất giai cụ túc tam thập nhị chủng đại trượng phu tướng, vĩnh bất thoái chuyển ư A-nậu-Đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề” (Vừa lên cõi ấy, thảy đều đầy đủ 32 tướng đại trượng phu, vĩnh viễn không thoái chuyển đối với A-nậu-Đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề), câu này là mục tiêu cuối cùng của người học Phật. Cho nên điều này cũng là tôn trọng nên không dịch, mà sử dụng là dịch âm của tiếng Phạn, [nếu] dịch thì rất dễ dàng. A dịch là Vô, nậu-đa-la dịch là thượng, là Vô thượng, ‘Tam‘ dịch là Chánh, ‘miệu‘ dịch là đẳng, tiếp theo lại là Tam, dịch là Chánh, bồ-đề dịch là giác, dùng ngôn ngữ nước ta để nói, là Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, đây là tôn trọng nên không dịch. Mục đích cuối cùng của học Phật là gì? Chính là Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác là người thế nào chứng đắc? Là chư Phật Như Lai chứng đắc, chính là trí huệ viên mãn rồi. Trí huệ viên mãn, một đời là có thể chứng được. 84 ngàn Pháp môn, học Pháp môn khác, thì phải tu vô lượng kiếp mới có thể chứng đắc, là đời đời kiếp kiếp, nào có một đời thành tựu? Tin Thế giới Cực Lạc, Tin có Thế giới Cực Lạc, tin có A Mi Đà Phật, thì có thể vãng sanh, vãng sanh thì chứng đắc, đây là siêu thắng độc diệu, không dễ dàng. 同乘大白牛車,一如來乘。故曰頓轉一乘 “Đồng thừa đại bạch ngưu xa, nhất Như Lai thừa. Cố viết đốn chuyển Nhất thừa” (Cùng ngồi xe bò trắng lớn, một Như Lai thừa. Nên nói lập tức chuyển Nhất thừa). Xe bò trắng lớn là tỉ dụ mà đức Thích Ca Mâu Ni Phật giảng trong Kinh Pháp Hoa, chính là ba xe, ví dụ so sánh là vị Trưởng giả giàu có, những đứa con của ông còn rất nhỏ, chơi đùa ở trong nhà, chơi rất vui vẻ, nhà cháy rồi, nhưng vẫn không chịu đi ra. Vị Trưởng giả liền nói với những đứa con ấy, ngoài cửa có xe dê, có xe ngựa, có xe hươu, các con mau đi ra chơi. Những đứa trẻ đều đi ra rồi, sau khi ra, không có xe dê, xe hươu, mà xe bò trắng lớn chính là xe ngựa, xe ngựa đại biểu Nhất thừa, vì sao? Vì số người có thể chở được là nhiều. Chúng tôi sau khi kháng chiến thắng lợi, tôi trở về Nam Kinh, lúc đó Nam Kinh còn có xe ngựa. Thông thường một chiếc xe ngựa có thể ngồi 10 người, có 10 chỗ ngồi, ở trên đường vẫy tay bất cứ lúc nào, xe liền sẽ dừng lại, rất thuận tiện, có người đánh xe ngựa, có nghề nghiệp này. Hiện nay không có nữa, hiện nay dường như tham qua du lịch, có loại phương tiện đó. Đó đều là phương tiện thuyết pháp của đức Phật.

Tiếp theo, 六、往生正因,易修易獲故 “lục, vãng sanh chánh nhân, dị tu dị hoạch cố” (sáu, bởi nhân chính của vãng sanh, dễ tu dễ đạt được). Câu này quan trọng, câu nói này quá quan trọng rồi, không khó, tu rất dễ dàng, đạt được rất dễ dàng. 發菩提心、一向專念,為往生正因 “Phát Bồ-đề tâm, nhất hướng chuyên niệm, vi vãng sanh chánh nhân” (Phát tâm Bồ-đề, nhất hướng chuyên niệm, là nhân chính của vãng sanh). Quý vị xem, chính là 8 chữ. Thế nào là phát tâm Bồ-đề. Ở trong sách Yếu Giải, Đại Sư Ngẫu Ích nói với chúng ta, là thật sự tin tưởng có Thế giới Cực Lạc, thật sự mong muốn vãng sanh Thế giới Cực Lạc, đó chính là phát tâm Bồ-đề. Vừa phát tâm này, thì Thế giới Cực Lạc liền ghi tên, liền ghi tên rồi, trên hoa sen có tên của quý vị, trong giảng đường của A Mi Đà Phật có chỗ ngồi của quý vị, chỉ đợi quý vị đến thôi, lúc thọ mạng của quý vị hết rồi, thì đức Phật đến tiếp dẫn quý vị. Nếu niệm Phật niệm đến Công phu Thành phiến, niệm đến Công phu Thành phiến, thì A Mi Đà Phật sẽ đến gia trì quý vị, sẽ liên lạc với quý vị, để quý vị nhìn thấy Ngài, hoặc ở trong định, hoặc ở trong mộng, ngài đến nói với quý vị, tình trạng của quý vị, thọ mạng của quý vị vẫn còn bao lâu, đến lúc đó Ta đến tiến dẫn con. Bằng với thọ ký cho quý vị, tín tâm của quý vị định lại, nhất định được sanh. Khi đó, nếu quý vị không cần thọ mạng, vẫn còn bao nhiêu năm thọ mạng nhưng con không cần nữa, hiện nay con sẽ đi theo Ngài. A Mi Đà Phật rất từ bi, ngài sẽ dẫn quý vị đi thôi. Hẹn thời gian với quý vị, chính là cũng không quá ba đến năm ngày, hoặc một tuần, đến lúc đó đức Phật đến tiếp dẫn. Mấy ngày ấy, vì sao cần ở lại mấy ngày, không đưa quý vị đi ngay lập tức? Bởi mấy ngày đó bảo quý vị, với bạn bè thân thích của quý vị, quý vị nói với họ: ngày nào đức Phật đến tiếp dẫn tôi, mọi người đến xem tôi vãng sanh, để họ sanh tín tâm. Tuyệt diệu ở chỗ này, thật sự là tuyệt diệu không nói nên lời.

無論男女老少智愚忙閒,人人能行 “Vô luận nam nữ lão thiếu trí ngu mang nhàn, nhân nhân năng hành” (Bất kể nam nữ già trẻ, kẻ trí người ngu bận rộn rảnh rang, người người đều có thể hành). Quý vị xem Pháp môn này tốt biết bao, nam nữ già trẻ, có trí huệ cũng được, không có trí huệ cũng được. Xem thấy lão Hòa thượng Hải Hiền dường như rất ngu si, không có trí huệ, không biết chữ, chưa từng đi học, nhưng người người đều có thể học! 甚至五逆重罪,地獄相現,臨終苦迫,觀想難成,仍可稱名,而得往生。故云易修 “Thậm chí Ngũ nghịch trọng tội, Địa ngục tướng hiện, lâm chung khổ bách, quán tưởng nan thành, nhưng khả xưng danh, nhi đắc vãng sanh. Cố vân dị tu” (Thậm chí hàng trọng tội Ngũ nghịch, tướng Địa ngục hiện, bị nỗi khổ của lâm chung bức bách, quán tưởng khó thành, vẫn có thể xưng danh, mà được vãng sanh. Nên nói là dễ tu). Đoạn này nói rất hay! Ngũ nghịch là đọa Địa ngục, giết cha giết mẹ, giết A-la-hán, làm thân Phật chảy máu, phá hòa hợp Tăng, điều này đều là tội Địa ngục, là tội nghiệp cực trọng, nhưng niệm Phật có thể cứu quý vị. Trước đây vị đồ đệ của lão Hòa thượng Đế Nhàn là người thợ vá nồi, ông niệm Phật 3 năm thì vãng sanh, cũng là đã tạo không ít tội nghiệp. Cuộc sống của ông ấy tốt hơn người ăn xin một chút, hơn 40 tuổi, khổ không nói nên lời. Về tướng của Địa ngục hiện tiền, giống ông Trương Thiện Hòa, vào thời nhà Đường, cả đời giết bò, giết bò để mưu sinh, khi lâm chung gặp được một vị Pháp sư. Tướng Địa ngục của ông hiện tiền, nhìn thấy rất nhiều người đầu bò can thiệp ông ấy đòi mạng, bức bách ông ấy, ông ấy hô, lớn tiếng hô: cứu mạng. Đúng lúc, duyên, vận mệnh tốt, có một người xuất gia đi qua cửa nhà ông ấy, nghe thấy hô cứu mạng ở bên trong, vị ấy tiến vào xem. Ông ấy liền nói nhìn thấy rất nhiều người đầu bò đến vặn hỏi ông ấy đòi mạng, vị Hòa thượng đó đã cầm một nén hương đặt vào trong tay ông ấy, bảo ông ấy mau chóng niệm A Mi Đà Phật, cầu sanh Tịnh Độ. Ông ấy liền niệm A Mi Đà Phật, ông ấy nói không thấy người đầu bò nữa, A Mi Đà Phật đến tiếp dẫn con rồi, nhanh như vậy! Câu chuyện về ông Trương Thiện Hòa, được ghi lại ở trong Vãng Sanh Truyện, trong Tịnh Độ Thánh Hiền Lục. Tình huống như vậy rất nhiều, nỗi khổ của lâm chung đến bức bách quý vị, quán tưởng rất khó thành tựu, niệm danh hiệu thì nhanh, A Mi Đà Phật, A Mi Đà Phật, điều này nhanh, cũng có thể vãng sanh, cho nên nói dễ tu. 信願持名,十念必生,故曰易獲 “Tín nguyện trì danh, thập niệm tất sanh, cố viết dị hoạch” (Tín nguyện trì danh, mười niệm chắc chắn vãng sanh, nên nói dễ đạt được). Đạt được rất dễ dàng.

Câu sau cùng đây, 七、生後得果,太頓太高故 “thất, sanh hậu đắc quả, thái đốn thái cao cố ” (bảy, bởi quả được sau khi vãng sanh, quá nhanh quá cao). Vãng sanh đến Thế giới Cực Lạc, quả báo mà quý vị đạt được không thể nghĩ bàn, thật sự là quá nhanh rồi, quá cao rồi. 五逆十惡,臨終十念,即得往生,逕登不退。故曰太頓 “Ngũ nghịch Thập ác, lâm chung thập niệm, tức đắc vãng sanh, kính đăng Bất thoái. Cố viết thái đốn” (Hàng Ngũ nghịch Thập ác, mười niệm khi lâm chung, liền được vãng sanh, thẳng lên địa vị bất thoái. Nên nói quá nhanh). Đến Thế giới Cực Lạc chính là A-duy-Việt-trí Bồ-tát, quá nhanh rồi. 帶惑凡夫“Đới Hoặc phàm phu” (Phàm phu mang theo Hoặc), mang theo tội nghiệp cực trọng, 橫生彼土,便是阿鞞跋致,位齊補處 “hoành sanh bỉ Độ, tiện thị A-bệ-Bạt-trí, vị tề Bổ xứ” (sanh cõi ấy theo chiều ngang, liền thành A-bệ-Bạt-trí, địa vị ngang bằng với bậc Bổ xứ), địa vị ấy là bình đẳng với Bồ-tát Bổ xứ, Đẳng giác Bồ-tát, quá cao rồi. 此誠十方之所無,故云獨妙 “Thử thành thập phương chi sở vô, cố vân độc diệu” (sự chân thật này là điều mười phương không có, nên nói là độc diệu). Như trong sách Lễ Tán nói, 四十八願莊嚴起,超諸佛國最為精 “tứ thập bát nguyện trang nghiêm khởi, siêu chư Phật quốc tối vi tinh” (Bốn mươi tám nguyện trang nghiêm khởi, vượt các cõi Phật tinh hoa nhất). Gặp được Pháp môn này, là thiện duyên của nhiều đời nhiều kiếp mới gặp được. Có thể tin nhận phụng hành, y giáo tu hành, đặc biệt là ở xã hội hiện nay, xã hội động loạn, Pháp môn này có thể an tâm của chúng ta. Chúng ta không sợ, đến lúc đó chúng ta có nơi tốt để đi, không xa lạ chút nào. Mỗi ngày đọc bộ Kinh này, đọc bộ Kinh này có thể tiêu tai miễn nạn, đối với thân tâm của chính mình khỏe mạnh, gia đình hòa thuận, sự nghiệp thuận lợi, xã hội yên bình, đất nước giàu mạnh, thế giới hòa bình, đọc kinh đều có phần, phải làm chuyện tốt như vậy. Thời gian hôm nay đã hết, chúng ta học tập đến đây.

(Hết tập 221)

Nguyện đem công đức này

Hướng về khắp tất cả

Đệ tử cùng chúng sanh

Đều sanh nước Cực Lạc

Sớm viên thành Phật đạo

Rộng độ khắp chúng sanh

Nam Mô A Mi Đà Phật.