TỊNH ĐỘ ĐẠI KINH KHOA CHÚ 2014-2017
(Giảng lần thứ 4)
PHẨM THỨ 9: VIÊN MÃN THÀNH TỰU:
Thành Tựu Viên Mãn
Tập 239
Hòa thượng Thích Tịnh Không chủ giảng.
Giảng tại: Hiệp Hội Giáo Dục Phật Đà Hồng
Kông.
Thời gian: Ngày 23 tháng 08 năm 2015.
Dịch giả: Như Lộ.
Giảo chánh: Thích Thiện Trang.
Kính
chào chư vị Pháp sư, chư vị đồng học, kính mời ngồi. Mời mọi người cùng tôi quy
y Tam Bảo: “A-xà-lê tồn niệm, ngã Đệ tử
Diệu Âm, thỉ tùng kim nhật, nãi chí mạng tồn, quy y Phật-Đà, lưỡng túc trung
tôn, quy y Đạt-Ma, ly dục trung tôn, quy y Tăng-Già, chư chúng trung tôn” (3
lần).
Mời
xem Đại Kinh Khoa Chú: Trang thứ 581, bắt đầu xem từ hàng thứ nhất, 果德圓滿 “Quả đức viên mãn” (Quả
đức viên mãn), từ phẩm thứ 9 đến phẩm 42, chia làm năm đoạn lớn. Đoạn lớn đầu
tiên [là]: 丙一、總示成佛時處 “Bính
nhất, tổng thị thành Phật thời xứ ”(C1. Tổng nêu lên thời [và] xứ Phật
thành tựu), hai phẩm kinh: phẩm thứ 9 đến phẩm thứ 10, trong đó cũng chia
ra bốn khoa. Chúng ta xem kinh văn, tựa đề phẩm:
【圓滿成就第九】“Viên
mãn thành tựu đệ cửu” (Phẩm thứ 9: Thành Tựu Viên Mãn).
Chú
giải của Niệm lão, 第九品,名圓滿成就。以上從第四至第八品,皆顯法藏大士因地願行 “Đệ
cửu phẩm, danh viên mãn thành tựu. Dĩ thượng tùng đệ tứ chí đệ bát phẩm, giai
hiển Pháp Tạng Đại sĩ nhân địa nguyện hạnh” (Phẩm thứ 9, tên là Thành Tựu Viên Mãn. Ở
trên, từ phẩm thứ tư đến phẩm thứ 8, đều hiển bày nguyện hạnh của Đại sĩ Pháp Tạng
ở nhân địa), Đại sĩ Pháp Tạng: Chính
là tiền thân của A Mi Đà Phật [lúc] chưa thành Phật. Đại nguyện đại hạnh của
đức Phật Mi Đà ở nhân địa: vô cùng đáng để chúng ta học tập, có thể giúp
chúng ta vãng sanh, mỗi người vãng sanh đó, tâm giống như Phật, nguyện giống
như Phật, hạnh giống như Phật, cho nên đoạn kinh văn này: chúng ta cũng rất cẩn
thận để học tập, [sẽ] được lợi ích rất nhiều. Mở đầu từ phẩm này là nói: 果德成就 “Quả
đức thành tựu” (Thành tựu quả đức), có nhân có duyên, chắc chắn cảm được có quả. Nội
dung của phẩm kinh này có ba điều: Thứ nhất là 佛讚法藏因圓果滿 “Phật tán Pháp Tạng nhân viên quả mãn” (đức
Phật tán thán nhân quả viên mãn của ngài Pháp Tạng), thứ hai là 阿難啟問 “A Nan khải vấn” (ngài
A Nan thưa hỏi), đoạn thứ ba là世尊正答 “Thế Tôn chánh đáp” (đức
Thế Tôn trả lời ngay). Chúng ta xem đoạn nhỏ đầu tiên, 功德無量 “Công đức vô lượng” (Công
đức vô lượng), đó là đức Phật Thích Ca
Mâu Ni tán thán.
【佛告阿難。法藏比丘。修菩薩行。積功累德。無量無邊。】 “Phật
cáo A Nan, Pháp Tạng Tỳ-kheo, tu Bồ-tát hạnh, tích công luỹ đức, vô lượng vô
biên” (Đức Phật nói với ngài A Nan: Tỳ-kheo
Pháp Tạng, tu hạnh Bồ-tát, tích luỹ công đức, vô lượng vô biên).
Chúng ta phải ghi nhớ hai câu sau cùng đó, vô lượng kiếp đến nay
tất cả chư Phật Bồ-tát: đều là đoạn ác tu thiện, tích luỹ công đức, mới có
thành tựu như vậy. Nếu chúng ta muốn vãng sanh thế giới Tây Phương Cực Lạc, thì
nhất định phải ghi nhớ đại nguyện đại hạnh của đức Mi Đà, chí ít cần nhớ: năm
điều nguyện chân thật nhất mà Đại sư Thiện Đạo nói: chính là nguyện 12定成正覺 “Định thành Chánh Giác” (Nguyện nhất định thành Chánh Giác), ngữ khí là khẳng định biết bao,
đều không có chút nghi ngờ nào; Nguyện 13光明無量 “Quang minh vô lượng” (Nguyện quang minh vô lượng), đó là trí huệ; Câu thứ ba [là]: Nguyện
15壽命無量
“Thọ mạng vô lượng” (Nguyện thọ mạng vô lượng),
Chân Phật, quang minh vô lượng là Chân độ; Nguyện 17諸佛稱歎 “Chư Phật xưng thán” (Nguyện chư Phật khen ngợi), đó là tín, niềm tin của chúng ta từ đâu
đến? [Từ] chư Phật khen ngợi, chẳng phải là một vị Phật, hai vị Phật, [mà là]
mười phương ba đời tất cả chư Phật đều khen ngợi, vậy còn có thể không tin ư? Nguyện
18十念必生“Thập niệm tất sanh” (Nguyện mười niệm chắn chắn vãng sanh), gần đây nhất, cha của Tổng
giám đốc Tạ vãng sanh, vì chúng ta mà biểu pháp chính là ‘mười niệm chắc chắn
vãng sanh’, ngay ở trước mắt chúng ta, để chúng ta thấy, buông xuống vạn duyên,
một lòng thật tu, [thì] đời này có thể thành tựu. Vãng sanh đến thế giới Cực
Lạc mới gọi là viên mãn, không thể vãng sanh [thì] phiền phức rất lớn, vì sao
vậy? Bởi tiếp tục tạo luân hồi. Luân hồi là không có nắm chắc chút nào, hoàn
toàn thuận theo nghiệp lực. Thiện có thiện quả; ác có ác báo, vậy quả đó là giả [chứ] không phải
thật, thiện sanh ba đường thiện; ác sanh ba đường ác, đều không phải là thật.
Năm câu kinh văn mở đầu phía trước đó: là tán thán vô lượng công
đức của Tỳ-kheo Pháp Tạng, 『佛告阿難, 法藏比丘, 修菩薩行, 積功累德, 無量無邊』 “Phật cáo A Nan, Pháp Tạng Tỳ-kheo,
tu Bồ-tát hạnh, tích công luỹ đức, vô lượng vô biên” (Đức Phật nói với ngài A Nan, Tỳ-kheo Pháp Tạng, tu hạnh Bồ-tát, tích
luỹ công đức, vô lượng vô biên). Chúng ta phải học, phải thật học. Tích luỹ
công đức ở đâu? Trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta, trong công việc, trong
xử sự đối người tiếp vật. Làm sao tích luỹ công đức? Phải luyện 外不著相,內不動心 “ngoại
bất trước tướng, nội bất động tâm” (ngoài không chấp tướng,
trong không động tâm), đây là thật sự tích luỹ công đức, sáu căn tiếp xúc cảnh
giới sáu trần: chính là một câu Phật hiệu. Đại Bồ-tát, khi căn của các ngài
tiếp xúc với trần, [thì] không khởi tâm, không động niệm, [là] Pháp thân Bồ-tát;
có khởi tâm động niệm, không có Phân biệt Chấp trước, đó là Quyền giáo Bồ-tát, Bồ-tát
địa vị Tam hiền trong Biệt giáo; có khởi tâm động niệm, có phân biệt, không có
chấp trước, đó là Thanh văn, Duyên giác, A-la-hán và Bích-chi-phật. Chúng ta phải
học điều này, đây là thật. Nói cách khác, khởi tâm động niệm, Phân biệt Chấp
trước, là giả, đó là tạo nghiệp luân hồi. Chúng ta thật sự có thể không khởi
tâm, không động niệm, không phân biệt, không chấp trước, vậy thì quá tuyệt rồi,
đó là đồng đức đồng hạnh với A Mi Đà Phật, [thì] đâu có đạo lý không vãng
sanh! Hy vọng [chúng ta] thường giữ gìn: một câu Phật hiệu mà không quên mất, học
[như] lão Hoà thượng Hải Hiền chưa từng để lỡ.
Chú giải của Niệm lão, đoạn văn này không nhiều, chữ ở mặt sau, đầu
tiên, 世尊總結前文,盛讚法藏比丘修普賢菩薩之大行,積累無量無邊種種功德 “Thế Tôn tổng kết tiền văn, thịnh
tán Pháp Tạng Tỳ-kheo tu Phổ Hiền Bồ-tát chi đại hạnh, tích luỹ vô lượng vô
biên chủng chủng công đức”
(Đức Thế Tôn tổng kết đoạn văn trước, vô
cùng tán thán Tỳ-kheo Pháp Tạng tu đại hạnh của Bồ-tát Phổ Hiền, tích luỹ vô lượng
vô biên các loại công đức). Đặc biệt nhắc đến, đại hạnh của Bồ-tát Phổ Hiền.
Chúng ta học, [nhưng] học không được, vì sao học không được? Bởi tâm lượng quá
nhỏ. Bồ-tát Phổ Hiền và các vị Bồ-tát khác: có điều gì khác nhau? Khác nhau: Chính
là tâm lượng của ngài quá lớn, điều mà ngài nghĩ chính là biến pháp giới hư
không giới, khởi tâm động niệm: [thì] phạm vi ý niệm đó là toàn vũ trụ, đều
không có bỏ sót một nơi nào, chúng
ta nghĩ xem chính mình, chúng ta khởi tâm động niệm đều nghĩ chính mình, nhiều
nhất [là] nghĩ đến gia đình quý vị nữa, người nhà nào đó của quý vị, đây là
nghiệp luân hồi, không ra khỏi lục đạo luân hồi. Học Phật, Phật Bồ-tát, bao gồm
A-la-hán cũng không ngoại lệ, đều là nghĩ đến tất cả chúng sanh khổ nạn, ý niệm
đó là tích luỹ vô lượng công đức. Vì chính mình mà nghĩ, [thì] tâm lượng ý niệm
đó quá nhỏ. Tại sao thế giới lại loạn như vậy? Bởi mọi người đều là tâm lượng
nhỏ, hai bên không thể bao dung, [thì] cạnh tranh, đấu tranh, chiến tranh thảy
đều đến rồi, đây là xã hội của chúng ta ngày nay.
Lời dạy của cổ Thánh tiên Hiền các triều đại nước ta, đều nói
‘thiên hạ’, rất ít nói ‘quốc gia’. Tâm lượng người nước ta lớn, mở miệng khép
miệng [là] ‘thiên hạ’. Thời xưa, lúc đó nói ‘thiên hạ’, trên thực tế chính là: ngày
nay chúng ta nói: ‘toàn Trung Hoa’. Bởi vì lúc đó: chưa có thống nhất về chính
trị, đều là nước chư hầu, nước chư hầu bầu ra một nước có đạo đức, làm tấm
gương tốt cho chúng ta, vua nước đó tôn xưng ông ấy là ‘Thiên tử’, ba đời Hạ Thương Chu, 1800 năm, có thể thấy điều này
trong lịch sử, chưa thống nhất chính trị, [nhưng] đã thống nhất văn hoá, đã thống
nhất giáo dục. Vì thế, Tiến sĩ Joseph Toynbee, cuối đời niệm niệm mà ông nghĩ đến,
[là] hy vọng thế giới này: trải qua hai lần đại chiến thế giới, [thì] nhất định
không thể có lần thứ ba, xót thương cho thế gian. Vì sao vậy? Bởi đại chiến thế
giới lần thứ ba là vũ khí hạt nhân, sinh học hoá học, là tiêu diệt hết tất cả
sinh vật: trên toàn địa cầu này, điều này quá tàn khốc! Cho nên ông ấy đã nghĩ:
làm sao có thể hoá giải tai nạn đó? Cách duy nhất chính là học triều nhà Chu. Thiên
tử nhà Chu thống nhất thiên hạ, không phải thống nhất chính trị: cũng không phải
thống nhất quân sự, không phải kinh tế thương mại: cũng không phải khoa học
công nghệ, [mà là] thống nhất văn hoá, điều này tốt. Ông ấy là một chuyên gia
nghiên cứu: lịch sử văn hoá thế giới, đem văn hoá toàn thế giới: chia thành hơn
20 loại hình thái khác nhau. Ưu tú nhất, ông ấy tán thán nhất, [là] văn hoá
truyền thống Trung Hoa.
Rất nhiều quốc gia trên toàn địa cầu này, có một chính phủ thống
nhất, chính phủ thế giới, [mà] thống nhất. [Thì] sự thống nhất đó không phải thống
nhất chính trị, mỗi quốc gia đều là nước chủ quyền, không phải thống nhất vũ lực,
vừa rồi đã nói, không phải kinh tế thương mại: cũng không phải khoa học công
nghệ, là văn hoá. Văn hoá, [thì] quan trọng nhất chính là văn tự, Ông ấy đề xướng
dùng chữ Hán thể Văn ngôn của nước ta. Tốt! Loại chữ viết này ở trên thế giới: là
chữ viết ưu việt nhất, siêu vượt thời gian, không gian, không bị hạn chế bởi thời
gian không gian, ba ngàn năm trước: sách do cổ Thánh tiên Hiền Trung Hoa viết, hiện
tại chúng ta có thể xem hiểu được, [mà] không có hiểu sai ý nghĩa, những điều
này tốt. Quý vị có thể giữ gìn quốc ngữ của mình, như phương ngữ của Trung Hoa
hiện nay, trở lại việc phương ngữ thì sao? Chính là quốc ngữ lúc xưa. Nhưng thống
nhất: là dùng chữ Hán thể Văn ngôn, khi đó dùng chữ
Tiểu triện, Văn ngôn, vậy thì tốt, thống nhất văn hoá như thế đó.
Vẫn còn một nhân tố quan trọng, [là] thống nhất tôn giáo, vô
cùng quan trọng. Trong một lần chúng tôi đến thăm Vương Quốc Anh, thấy người
Anh đang đoàn kết tôn giáo, chúng tôi thấy được rất vui mừng. Họ sẽ vì tôn giáo
[mà] xây dựng một đạo tràng lớn, đạo tràng lớn đó chính là trung tâm hoạt động
tôn giáo. Tất cả tôn giáo hoạt động cùng một chỗ, vậy là thật sự bắt đầu đoàn kết
rồi. Nhiều năm nay chúng tôi làm thí nghiệm, tôi đã làm thí nghiệm này ở
Toowoomba, xây dựng một trung tâm hoạt động, tặng cho mười mấy tôn giáo ở
Toowoomba, họ tổ chức hoạt động: đều ở trung tâm hoạt động đó. [Trong] trung
tâm có phòng làm việc của mỗi tôn giáo, có rất nhiều phòng học lớn nhỏ, dạy học
[thì] dùng phòng học nhỏ, khi tổ chức hoạt động lớn [thì] dùng phòng học lớn. Tôi
chỉ làm một quận huyện ở Toowoomba. Vương Quốc Anh như vậy rất lớn, nước Anh
[thì] tôi thấy là [làm cho] toàn quốc, cũng có thể là toàn thế giới, việc này
vô cùng có ý nghĩa, có trí huệ, tôi vô cùng tán thán.
[Về] đoàn kết tôn giáo, tôi tặng họ một câu nói, ở Vương Quốc
Anh, tôi gặp mặt mười mấy tôn giáo của đất nước họ, tôi tặng họ [câu], 眾神一體 “Chúng
Thần nhất Thể” (Chúng thần [là] một Thể), mỗi tôn giáo đều
có Thần, [là] một Thể, 宗教一家,平等對待,和睦相處 “Tôn giáo nhất gia, bình đẳng đối
đãi, hoà mục tương xử”
(Tôn giáo [là] một nhà, đối đãi bình đẳng,
chung sống hoà thuận). [Thì] giữa tôn giáo với tôn giáo: mãi mãi sẽ không
phát sinh xung đột. Bởi Thần của chúng ta là ‘nhất Thể’, là một chân Thần, hoá
thân ở mỗi tôn giáo khác nhau, trên thực tế là một Thần. Chúng ta thấy: rất nhiều
kinh điển của tôn giáo khác nhau, quý vị tỉ mỉ mà xem, trong nội dung: bảy-tám
phần mười, là tương đồng, đó là chứng minh ‘chúng Thần [là] nhất Thể’. Không giống
nhau, là bởi vì thời xưa không có phương tiện giao thông, không có tin tức, rất
nhiều người già chết [cũng] không đi lại nơi khác, cho nên Thần cần phải phân
ra rất nhiều hoá thân, ở trong mỗi dân tộc: hiện thân giống như họ, chính là
nên dùng thân nào được độ: [thì] hiện thân ấy. Thần không có thân nhất định, không
có hình tướng nhất định, mọi người đều có thể chấp nhận điều này. Cho nên đây
là việc tốt, vô cùng khó được. Những kinh điển ấy của Thần Thánh, chúng ta cũng
nên học tập, đặc biệt là tín đồ tôn giáo. Những vị chức sắc trong tín đồ tôn
giáo, học kinh điển của chính mình, cũng nên học kinh điển của người khác, như
vậy hoàn toàn có thể hiểu rõ, thì xung đột tự nhiên hoá giải rồi, không có khả
năng xung đột, [thì] mới có thể mang lại: sự an định hài hoà mãi mãi cho thế giới.
Chúng ta xem đoạn kinh văn tiếp theo đây, khoa đề là: 於法自在 “Ư
pháp tự tại” (Tự tại đối với pháp).
【於一切法而得自在。非是語言分別之所能知。】“Ư nhất thiết pháp nhi đắc tự tại. Phi thị
ngữ ngôn phân biệt chi sở năng tri” (Đối
với tất cả pháp mà được tự tại. Chẳng phải [dùng] ngôn ngữ phân
biệt mà có thể biết được).
Câu nói này là thật, không phải giả, nhưng rất khó hiểu, rất khó
khiến mọi người tiếp nhận. Chúng ta xem Chú giải của Niệm lão, 『於一切法而得自在』“Ư nhất thiết pháp nhi đắc tự tại” (Đối với tất cả pháp mà được tự tại), 世尊自稱我為法王,於法自在 “Thế Tôn tự xưng Ngã vi Pháp
vương, ư pháp tự tại” (đức Thế
Tôn tự xưng ‘Ta’ là Pháp vương, tự tại đối với pháp), ‘Vương’ là thí dụ, ý
nghĩa chủ yếu chính là ví dụ cho tự tại. Quốc vương của một đất nước, ông ấy
truyền đi mệnh lệnh, ai nấy đều phải nghe theo; Người khác nghe theo ông ấy,
[nên] không tự tại, ông ấy [thì] tự tại. Đức Thế Tôn dùng ví dụ này, đức Thế
Tôn đều thông đạt hiểu rõ: đối với hết thảy pháp, tất cả pháp thế xuất thế
gian, [mà] không có chướng ngại, cho nên nói: ‘Ư pháp tự tại’. 今以此語讚因地之法藏,乃讚歎之極也 “Kim dĩ thử ngữ tán nhân địa
chi Pháp Tạng, nãi tán thán chi cực dã” (Nay dùng lời này [để]
khen ngợi ngài Pháp Tạng ở nhân địa, là tán thán đến tột cùng), đó là điều
mà Niệm lão nói. Chúng ta thấy được ở chỗ này, đức Phật dùng lời này khen ngợi,
Tỳ-kheo Pháp Tạng là ở nhân địa, trước [lúc] chưa thành Phật. Tán thán như thế,
đã tán thán đến chỗ vô cùng. ‘Nhất thiết tự tại’ chính là ‘nhất thiết vô ngại’,
cũng chính là ‘nhất thiết viên mãn thành tựu’. Xem điều tiếp theo, 圓滿成就,融通無礙 “Viên
mãn thành tựu, dung thông vô ngại” (Thành tựu viên mãn, dung
thông không trở ngại), đó mới tự tại.
Tiếp tục nêu ví dụ rằng: 又觀自在菩薩之聖號 “Hựu
Quán Tự Tại Bồ-tát chi Thánh hiệu” (Thêm nữa Thánh hiệu của
Bồ-tát Quán Tự Tại), chính là Bồ-tát Quán Thế Âm, cũng gọi là Quán Tự Tại. Vì
sao xưng [ngài] là Quán Tự Tại? Bởi ngài thông đạt hiểu rõ đối với tất cả pháp,
[mà] không chướng ngại. Cho nên Quán Tự Tại: là Nội chứng của Bồ-tát Quán Thế
Âm, Quán Thế Âm là nói ngài từ bi cứu thế, về trên sự nghiệp ngài mà nói, [thì]
gọi là Quán Thế Âm; [còn] trên công phu của chính ngài, [thì] xưng ngài là Quán
Tự Tại, như vậy thì mọi người rất rõ ràng rồi. Nếu chưa thật sự chứng đắc Quán
Tự Tại, làm sao có thể dùng Quán Thế Âm? Làm sao có năng lực để độ chúng sanh? Nhất
định bên trong tự tại, [thì] bên ngoài mới có thể giúp người khác.
Tiếp theo giải thích cho chúng ta, 自者,自性也,自心也 “Tự giả, Tự Tánh dã, Tự Tâm dã”
(Chữ “Tự” là Tự Tánh, Tự Tâm). Tâm này là Chân Tâm, Tự Tánh chính là
Chân Tâm, ai ai cũng có, chỉ cần dùng Chân Tâm liền tự tại rồi. Người thế gian,
chúng sanh sáu đường dùng tâm gì? Dùng A-lại-da, dùng Mạt-na, Ý thức thứ sáu, đó
là tam tâm. Được người nước ta gọi là: 三心二意 “Tam tâm nhị ý ” (Tam tâm nhị ý), tam tâm chính là A-lại-da, Mạt-na, Ý thức; Nhị ý,
[thì] không nhắc đến A-lại-da, chính là Ý thức và Mạt-na. Mạt-na là Ý căn, Thứ
sáu là Ý thức, Mạt-na chấp trước, Ý thức phân biệt. A-lại-da
là phòng tư liệu, hết thảy tất cả tư liệu (khởi tâm động niệm), toàn bộ tài liệu
lưu trữ đó: đều ở trong A-lại-da, A-lại-da là kho tư liệu, chúng ta khởi tâm động
niệm, lời nói việc làm đều có ghi chép, chính chúng ta căn bản không biết, [nhưng]
bên kia ghi lại rất chi tiết, đều ở trong đó. Không ra khỏi luân hồi, [thì] ở
trong luân hồi xả thân thọ thân, chính là nghiệp lực đó kéo dẫn đi, thiện nghiệp
dẫn dắt quý vị sanh ba đường thiện, ác nghiệp dẫn dắt quý vị đoạ ba đường ác, vô
cùng đáng sợ!
Khởi tâm động niệm [thì] chính mình biết hay không? Không biết, [bởi]
quá vi tế. Chúng ta phải thường thường ghi nhớ, trong Kinh Bồ Tát Xử Thai: cuộc
đối thoại của đức Thế Tôn và Bồ-tát Di Lặc, phải ghi nhớ, nên thường xuyên dùng
điều này để quán chiếu, thì đối với tu học của chúng ta có [sự] giúp đỡ rất lớn.
佛問彌勒:心有所念 “Phật vấn Di Lặc: tâm hữu sở niệm” (Đức Phật hỏi ngài Di Lặc: ý niệm được có bởi tâm), trong tâm phàm
phu khởi lên một ý niệm, 幾念幾相識耶?“kỷ
niệm kỷ tướng thức da”
(có bao nhiêu niệm, bao nhiêu tướng thức?)
‘Tâm hữu sở niệm’, có một ý niệm, trong đó có bao nhiêu niệm, bao nhiêu tướng? Tướng
là sắc, thức chính là thọ-tưởng-hành-thức. Niệm, tướng, thức kết hợp nhau, chính
là Ngũ uẩn [mà] trong Tâm Kinh nói, Ngũ uẩn là đơn vị, là đơn vị cơ bản nhất của
hiện tượng vật chất, hiện tượng tinh thần. Thật ra vật chất và tinh thần là một
thể, không thể tách rời, chính là Ngũ uẩn, không thể chia Ngũ uẩn ra. Sắc là hiện
tượng vật chất, là Tướng phần; Thọ-tưởng-hành-thức là bộ phận tinh thần, thọ là
cảm thọ; tưởng là tư tưởng; hành là liên tục không gián đoạn; thức chính là nhà
kho, sẽ không mất đi. Người phương Tây chia làm hai loại, hai cách chia, vật chất,
tinh thần, vật lý, tâm lý, chia thành hai hạng mục để nghiên cứu, đó là sai lầm,
vật chất và tinh thần là một không phải hai, nhất định không thể tách rời.
Đến nhỏ nhất, trong kinh đức Phật nói Cực vi sắc, giới khoa học
nói neutrino, lớn bao nhiêu? Nhà khoa học nói với chúng ta, 10 tỷ neutrino tập
trung cùng một chỗ, thể tích bằng với một electron. Nhục nhãn của chúng ta
không thấy được electron, trong nguyên tử có electron, là những vật nhỏ gần: một
phần 10 tỷ của electron, trong kinh đức Phật nói Ngũ uẩn, hay gọi là Ngũ ấm, đều
có thể được. Những điều đó niệm niệm đang tạo nghiệp, tần số ý niệm đó cao, chúng
ta cũng tính thử xem, đổi thành giây, [trong] một giây: ý niệm đó sanh diệt bao
nhiêu lần? Mỗi ý niệm đều là một nghiệp, có quả báo, một giây [có] 2 triệu 240
ngàn tỷ, đơn vị là ngàn tỷ. [Trong] một giây: sanh diệt 2 triệu 240 ngàn tỷ lần,
chúng ta làm sao biết được? Chẳng những chúng ta không biết, [mà] A-la-hán,
Bích-chi-phật cũng không biết, Quyền giáo Bồ-tát không biết. Bậc nào biết được?
Phật biết, đức Phật nói với chúng ta, Bát địa trở lên biết. Chẳng phải một mình
đức Phật thấy được, [mà] Bát địa, Cửu địa, Thập địa, Đẳng giác, Diệu giác: năm
cấp bậc ấy đều thấy được, đều biết, không phải giả. Hiện nay chúng ta xem tivi, màn hình tivi: trong một
giây là sanh diệt một trăm lần, chính là một trăm lần hiện tượng sóng dao động.
Chúng ta không thấy được 1% giây, trong một giây [mà] 2 triệu 240 ngàn tỷ, chúng
ta không cách nào tưởng tượng. Đó là chân tướng sự thật, khi nào quý vị chứng đến
Bát địa, thì quý vị nhìn thấy.
Những báo cáo đó của khoa học giúp chúng ta thực hành quán, cũng
chính là giúp chúng ta nhìn thấu, là giả, không có điều gì là thật, cũng đừng
cho là thật, cho là thật thì sai rồi. Điều gì là thật? Buông xuống là thật. Tại
sao vậy? Bởi quý vị buông xuống thì thấy Tánh. Quý vị xem, A-la-hán buông xuống
Kiến tư Phiền não, liền vượt thoát sáu đường luân hồi. Quyền giáo Bồ-tát buông
xuống mười pháp giới, liền chứng quả, là Pháp thân Bồ-tát. Thiền tông nói Đại
triệt Đại ngộ, Minh tâm Kiến tánh, chứng quả rồi, các ngài trụ cõi Thật Báo
Trang Nghiêm, gọi là Nhất chân Pháp giới. Chúng ta cư trú ở địa cầu này, ban
đêm nhìn thấy vô số tinh cầu trong vũ trụ, đều là giả, đều là do Tướng phần của
A-lại-da: biến hiện ra. Cho nên báo cáo của khoa học: giúp chúng ta đoạn nghi
sanh tín.
Tự Tánh quan trọng, Đại sư Huệ Năng nói rất hay, 何期自性,能生萬法 “Hà
kỳ Tự Tánh, năng sanh vạn pháp” (nào ngờ Tự Tánh, có thể
sanh vạn pháp). Vũ trụ này từ đâu đến? Vạn vật từ đâu đến? [Từ] Tự Tánh mà
sanh, [từ] Tự Tánh mà hiện. Tự Tánh là Năng sanh Năng hiện, vạn pháp trong vũ
trụ là Sở sanh Sở hiện, đều không phải là thật. Tuy Tự Tánh là thật, không sanh
không diệt, [nhưng] không có hiện tượng, cũng không có dấu vết nào, trong Tịnh
tông gọi đó là Thường Tịch Quang, một vùng ánh sáng. Ánh sáng đó ở nơi nào? Chẳng
nơi nào không có, chẳng lúc nào không có, là Chân Tâm của chúng ta; đã lìa vọng,
thì quý vị thấy, liền chứng đắc rồi. Vọng là gì? [Là] Vọng tưởng Phân biệt Chấp
trước, buông xuống tất cả Vọng tưởng: Phân biệt Chấp trước thì thấy Tánh. Chúng
ta sống ở thế gian này, đã học Phật, thế nào mới gọi là chân học Phật? Buông xuống
Vọng tâm dùng Chân Tâm, dùng Chân Tâm sống, dùng Chân Tâm làm việc, dùng Chân
Tâm xử sự đối người tiếp vật, [là] Bồ-tát sống, Bồ-tát thật. Có tấm gương vậy
không? Có, lão Hòa thượng Hải Hiền chính là tấm gương. Ngài bắt đầu làm từ 20
tuổi, là một câu Phật hiệu, do Sư phụ truyền cho ngài, trong tâm chỉ có một câu
Phật hiệu, ngoài Phật hiệu ra [thì] điều gì cũng không có, đều buông xuống. 112
tuổi vãng sanh, đã niệm câu Phật hiệu này 92 năm, chưa từng bỏ lỡ một ngày. Bất
luận sự việc gì cũng không để ở trong tâm, việc tốt hay xấu đều không để ở
trong tâm, [vẫn] hoan hỷ! Hoàn toàn dùng Chân Tâm, dùng tâm thanh tịnh của Tự
Tánh đối nhân tiếp vật, nhìn thấy mỗi người đều là người tốt. Tất cả chúng sanh
vốn dĩ thành Phật, trước giờ là Phật, hiện tại họ biến thành phàm phu, đó là đã
mê mất Bản Tánh: mới trở nên như vậy, chỉ cần họ buông xuống mê hoặc điên đảo, họ
tức thì sẽ thành Phật. Cho nên, ‘buông xuống đồ đao, lập tức thành Phật’, là thật
[chứ] không phải giả. Tiếp theo là Bồ-tát Quán Thế Âm, 觀自在者,了了見性,了了見心也 “Quán
Tự Tại giả, liễu liễu kiến Tánh, liễu liễu kiến Tâm dã” (Quán Tự Tại là hiểu rõ thấy Tánh, hiểu rõ thấy Tâm), đó chính là minh
Tâm kiến Tánh. 是即甚深般若,故能照破五蘊,度一切苦厄 “Thị tức thậm thâm Bát-nhã, cố
năng chiếu phá Ngũ uẩn, độ nhất thiết khổ ách” (Đó là Bát-nhã rất sâu, nên có thể soi thấu Ngũ uẩn, vượt qua tất cả khổ
ách). Lão Hoà thượng Hải Hiền cả đời: chưa từng nổi giận, chưa từng nóng giận
với người khác, quý vị bắt nạt ngài như thế nào, đánh ngài, mắng ngài, sỉ nhục
ngài, [thì] ngài thế nào? Trong tâm ngài niệm A Mi Đà Phật, quý vị mắng những
lời ấy, ngài đều không để ở trong tâm, trong tâm của ngài hoàn toàn sạch sẽ, ‘Thanh
tịnh Bình đẳng Giác’; Ngài cũng sẽ không trả lời quý vị câu nào, mặc kệ quý vị
mắng, mắng mệt rồi, quý vị tự nhiên nghỉ thôi. Không dễ làm được, người biết
dùng tâm [thì] làm được, chúng ta không biết, chúng ta dùng Vọng tâm, ngài dùng
Chân Tâm. Người dùng Chân Tâm, quý vị đều là giả sao, toàn là giả, tôi [nói]
đây là thật. Chân thì như như bất động; giả thì sát-na biến hóa, sát-na sanh diệt.
Quý vị thấy một giây đã đổi thành: 2 triệu 240 ngàn tỷ tướng mạo, tướng mạo nào
là quý vị? Sáu căn của chúng ta tiếp xúc cảnh giới sáu trần như vậy, nhất định
phải biết.
Dưới đây nói, Bồ-tát Quán Âm, tu hành đã có thành tựu, 度一切苦厄 “độ
nhất thiết khổ ách” (vượt qua tất cả khổ ách), trước đã độ
chính mình, [thì] mới có thể giúp người khác, 亦即於一切法而得自在 “diệc tức ư nhất thiết pháp nhi
đắc tự tại” (cũng chính là đối với tất cả pháp mà được tự
tại). 是則以自在為因,仍以自在為果。因果同時,不可思議 “Thị tắc dĩ tự tại vi nhân,
nhưng dĩ tự tại vi quả. Nhân quả đồng thời, bất khả tư nghì” (Chính là lấy tự tại làm nhân, rồi lấy tự tại làm quả. Nhân quả đồng thời,
không thể nghĩ bàn), đây là thật, nhân tự tại, quả tự tại. Chúng ta nhìn từ
trên thân của lão Hòa thượng Hải Hiền, [thì] quý vị có thể thấy được, vì sao
ngài [lại] tự tại như thế? Hoàn cảnh vật chất, các ngài là bần khổ nhất, hoàn
toàn dựa vào lao lực của chính các ngài, trồng lương thực, trồng rau cải, trồng
hoa quả. Lão Hòa thượng Hiền công vô cùng cần mẫn, già mà không suy. Hôm vãng
sanh đó là ban đêm mà ra đi, ban ngày vẫn làm việc từ sáng đến tối ở trong vườn
rau. Trong vườn rau làm đất, tưới nước, nhổ cỏ, đã làm cả ngày, ban đêm thì ra
đi. Đây đều là biểu diễn tấm gương cho chúng ta, nghiêm túc gánh vác với công
việc mà ngài làm. Ngài không nói với người khác, chẳng hy vọng người khác trợ
niệm cho ngài, ngài nói: trợ niệm chưa chắc đáng tin, chính tôi niệm Phật vãng
sanh thì được rồi, không cần làm phiền người khác. Đặc biệt là因果同時 “nhân
quả đồng thời” (nhân quả đồng thời). Câu này nói rất
hay!
又《會疏》注曰:今言於一切法而得自在,成就世自在王佛之果故也。言一切法者,即四十八願之法也。謂莊嚴淨土法,攝取眾生法,莊嚴法身法等也 “Hựu Hội Sớ chú viết: Kim ngôn ư nhất thiết pháp
nhi đắc tự tại, thành tựu Thế Tự Tại Vương Phật chi quả cố dã. Ngôn
nhất thiết pháp giả, tức tứ thập bát nguyện chi pháp dã. Vị trang nghiêm Tịnh Độ
pháp, nhiếp thủ chúng sanh pháp, trang nghiêm Pháp thân pháp đẳng dã” (Thêm nữa, Hội Sớ ghi rằng: Đây [là] nói đối với tất cả pháp mà được tự
tại, nên thành tựu quả của Phật Thế Tự Tại Vương. Nói ‘tất cả pháp’, tức là
pháp của 48 nguyện. Là pháp trang nghiêm Tịnh Độ, pháp thu nhiếp lấy chúng
sanh, pháp trang nghiêm Pháp thân v.v… ). 意謂法藏四十八願悉皆圓滿,願中所攝一切之法悉皆圓融無礙,成就世間自在王佛之果覺,故云一切自在 “Ý vị Pháp Tạng tứ thập bát
nguyện tất giai viên mãn, nguyện trung sở nhiếp nhất thiết chi pháp tất giai
viên dung vô ngại, thành tựu Thế Gian Tự Tại Vương Phật chi quả giác, cố vân nhất
thiết tự tại” (Ý nói 48 nguyện của ngài Pháp Tạng thảy đều
viên mãn, tất cả pháp được nhiếp trong nguyện [ấy] thảy đều viên dung không trở
ngại, thành tựu quả giác Phật Thế Gian Tự Tại Vương, nên gọi là tất cả tự tại).
Hội Sớ nói rất hay, đó là do Tổ sư Tịnh tông của Nhật Bản nói, những vị Tổ sư Đại
đức ấy trong thời nhà Đường: đều là học trò của [ngài] Thiện Đạo. Tỳ-kheo Pháp
Tạng, thầy của ngài là đức Phật Thế Gian Tự Tại Vương, nói về sự tu hành của
ngài, [lúc] ngài ở Nhân địa, [còn] thầy của ngài ở Quả địa, ‘nhân quả đồng thời’,
nói rõ quả đức mà Tỳ-kheo Pháp Tạng đã chứng đắc: giống với thầy, nâng lên đến
địa vị cao như vậy.
清彭際清居士,於此經文亦有深解。簡錄於下 “Thanh Bành Tế Thanh Cư sĩ, ư thử kinh văn diệc hữu
thâm giải. Giản lục ư hạ” (Cư sĩ Bành
Tế Thanh triều nhà Thanh, cũng có liễu giải sâu đối với kinh văn này. Ghi
giản lược dưới đây),
giản là giản lược, 法藏以無量心,發無量願,起無量行,無不一一稱真如法界 “Pháp Tạng dĩ vô lượng tâm,
phát vô lượng nguyện, khởi vô lượng hạnh, vô bất nhất nhất xưng Chân Như Pháp
giới” (Ngài Pháp Tạng dùng vô lượng tâm, phát vô lượng
nguyện, làm vô lượng hạnh, tất cả mỗi mỗi đều xưng là Pháp giới Chân Như). Mấy
câu này đáng để chúng ta học tập, tâm của chúng ta là hữu lượng, không phát được
tâm vô lượng. Vì sao trên thế giới, xã hội này: trở nên động loạn như thế? Tại
sao địa cầu có nhiều tai hoạ như vậy? Bởi đều là tâm lượng của chúng ta quá nhỏ,
không thể bao dung, không thể bao dung thì phát sinh xung đột, xung đột thì có
thể phát sinh đấu tranh, đạo lý ở chỗ này. Mỗi người khởi tâm động niệm: đều vì
phúc lợi của người dân toàn cầu [mà] nghĩ, [thì] sự việc gì cũng không có rồi. Không
cần quá lớn, tâm lượng quý vị có thể bao dung toàn địa cầu, thì người địa cầu
có phước rồi; niệm niệm không phải nghĩ [cho] chính mình, không phải nghĩ mỗi
gia đình tôi, không phải nghĩ mỗi quốc gia, dân tộc của tôi, tôi vì toàn thế giới
[mà] nghĩ. Ông Joseph Toynbee có thể làm được, đó là người thế gian, ông không
thể nói vô lượng tâm, [mà] ông là hữu lượng, nhưng lượng ấy của ông là bao quát
địa cầu.
Tâm của Phật Bồ-tát là vô lượng, cho nên A Mi Đà Phật thành
tựu, thế giới Cực Lạc bao dung chúng sanh khổ nạn: trong mười phương ba đời:
tất cả cõi nước chư Phật khắp pháp giới hư không giới. Nghiệp chướng của chúng
sanh khổ nạn ấy sâu nặng, tu hành chẳng thể chứng đắc trong một đời, những người
ấy đáng thương, Ngài kiến lập thế giới Cực Lạc chính là vì điều này, hy vọng
những chúng sanh không thể thành tựu ấy: đều đến thế giới Cực Lạc, tiếp nhận
[sự] giáo hoá của Ngài. Chẳng những Ngài dạy quý vị, mà còn đạo tràng đó: của thế giới Cực Lạc cũng đang giúp quý vị, bất luận
là hoàn cảnh nhân sự, hoàn cảnh vật chất, đều có thể khiến quý vị không sanh
phiền não. Đó chính là gì? [Là] sẽ không sanh tham sân si mạn nghi, quý vị có tập
khí này, đến thế giới Cực Lạc chẳng phát ra nữa, [vì] không có duyên. Chẳng
sanh khởi lên Thất tình Ngũ dục, vậy thì tốt rồi, chúng ta tu hành ở nơi đây
không thể thành tựu, chính là đã bị trở ngại [bởi] những điều này. Khi chướng
duyên đó cùng nhau đến, lập tức liền thoái chuyển, thời gian đề khởi Phật hiệu
ít đi. Chướng duyên sanh khởi, sự việc thoái tâm, sự việc như thế nhiều, vả lại
thường đang phạm phải, chẳng có cách nào dừng lại, đó là vì sao công phu không
đắc lực, là ở chỗ này. Chúng ta hy vọng quá nhiều: mong cầu quá nhiều đối với
thế gian này, chẳng thể như lão Hòa thượng Hải Hiền, ngài không có mong cầu, về
ở, thì [ở] nhà tranh; về mặc, thì y phục vá rồi không thể vá được nữa, không
nhiều, chỉ có mấy chiếc, khi vãng sanh: được [ngài] xếp rất gọn gàng để ở bên cạnh.
Bình thường ngài không xếp y phục, khi hôm đó ra đi, [y phục] được xếp gọn gàng
ngay ngắn để ở bên cạnh, đó chính là toàn bộ tài sản của ngài. Vì thế nên phát
đại tâm, nên vì tất cả chúng sanh khổ nạn: toàn thế giới [mà] nghĩ, làm thế nào
[để] giúp họ lìa khổ được vui.
Vì sao đức Phật xuất hiện ở thế gian? Là vì bốn chữ này, giúp đỡ
chúng sanh離苦得樂 “ly khổ đắc lạc” (lìa khổ được vui). Làm sao lìa khổ được vui? Đức Phật biết khổ là từ
mê hoặc điên đảo mà ra, lạc là từ khai ngộ mà đến, cho nên muốn giúp chúng sanh
lìa khổ được vui, thì phải giúp đỡ chúng sanh phá mê khai ngộ. Dùng phương pháp
gì? Dạy học, [Ngài] dạy học cả đời 49 năm, chưa ngơi nghỉ một ngày. Đó chính là
người nước ta nói: cổ Thánh tiên Hiền là ‘giáo học vi tiên’, trong Lễ Ký ghi: 建國君民,教學為先 “Kiến
quốc quân dân, giáo học vi tiên” (Dựng nước trị dân, dạy học
làm đầu). Không chỉ là dựng nước trị dân, [mà] hết thảy tất cả đều phải dạy
học làm đầu. Tôi từng có một cuộc nói chuyện với Hiệu trưởng: trường ở Trung
Hoa và ở Malaysia, tôi nêu ra mười điều [về] ‘giáo học vi tiên’, hai điều cuối
cùng [là]: 諸佛剎土,教學為先;極樂世界,教學為先 “Chư Phật Sát độ, giáo học vi
tiên; Cực Lạc thế giới, giáo học vi tiên” (Cõi nước chư Phật,
dạy học làm đầu; Thế giới Cực Lạc, dạy học làm đầu). Đức Phật Thích Ca
Mâu Ni vì chúng ta mà biểu diễn, ‘giáo học vi tiên’. Sự nghiệp của Phật là gì?
Chính là dạy học. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni cả đời thị hiện, là Ngài làm sự việc
gì, chính là dạy học.
Tiên sinh Phương Đông Mỹ, khi lần đầu tôi theo ngài, ngài giới
thiệu Phật giáo cho tôi, nói với tôi, 200 năm trước: tự viện am đường địa
phương của Trung Hoa, không kể là chùa lớn hay nhỏ, người xuất gia ở trong đó: đều
là thật sự có đạo đức, có học vấn. Sứ mạng của các ngài là truyền bá giáo dục của
đức Phật, nên phải dạy mọi người, vì thế đâu có [việc] tự viện am đường không
giảng kinh? Người xuất gia ở trong đó thay phiên nhau giảng. Nhưng vào thời điểm
ấy, ở trong nông thôn, ở nông thôn cần phải được lúc nhàn rỗi: [thì] họ mới có
thể nghe kinh, lúc nào vậy? Mùa đông. Sau thu hoạch vụ thu, nông dân đại khái
có thời gian hai tháng, gặp được dịp tết, khoảng thời gian đó không có công việc.
Phần nhiều là gì? Những nơi pháp hội giảng kinh trong chùa miếu đó, giống như
hiện tại chúng ta nói là tổ chức hoạt động, một tuần, hai tuần, một tháng, hai
tháng. Giảng một bộ kinh, giảng hai bộ kinh, không nhận cúng dường, thông thường
cúng dường cũng là: một ít gạo, rau cải của chính nhà nông dân trồng, đến tặng
một ít. Cho nên đó là giáo dục, cống hiến rất lớn đối với xã hội.
[Về] giáo dục ấy, đặc biệt là vào ba thời đại Nguyên, Minh,
Thanh, do ai quản? Đích thân Hoàng thượng quản lý. Không phải giao cho Tể tướng,
[mà] Hoàng thượng đích thân quản. Hiện nay quý vị đến Bảo tàng Cung điện xưa, quý
vị đi tham quan, trong đó vẫn thấy được: phòng làm việc của Phật giáo và Đạo
giáo, không phải ghi tên đó, mà ghi là Tăng Lục Ty, người xuất gia gọi là tăng,
Tăng Lục Ty, Đạo Lục Ty, đó chính là nơi làm việc của các ngài, ở trong Hoàng
Cung. Cho nên, nơi hoạt động được gọi là ‘tự’, quý vị đến trong Cố Cung mà xem,
‘tự’ là ý nghĩa gì? Mỗi đơn vị cấp bậc: mà Hoàng thượng đích thân trông coi đều
gọi là ‘tự’, gọi ‘tự’ là thiết lập lâu dài, không thể thay đổi được. Dưới Tể tướng
gọi là ‘bộ’, ‘bộ’ không phải là lâu dài, có thể tăng thêm, có thể giảm bớt, có
thể trừ bỏ; [còn] ‘tự’ thì không thể, ‘tự’ là thiết lập lâu dài, trừ phi đánh mất
chính quyền đó, mất đất nước rồi; Đất nước [còn] tồn tại một ngày, thì ‘tự’ ấy
[còn] tồn tại một ngày. Tôn trọng như thế! Đế vương của ba triều đại Nguyên,
Minh, Thanh dùng Nho [để] trị nước, học thuyết của
nhà Nho là do Tể tướng phụ trách; Phật và Đạo, [thì] chính Hoàng thượng quản
lý, dùng Phật giáo [để] giáo hoá người dân, dùng đạo thờ cúng ông bà, lễ bái
núi sông thiên địa quỷ thần, tất cả đều đặt lên trên, đó là giáo dục nhân quả. Phật
là luân lý đạo đức, giáo dục trí huệ. Đạo là giáo dục nhân quả, miếu Thành
Hoàng thuộc về Đạo giáo. Giáo dục luân lý đạo đức, người học rồi không tuỳ tiện
làm việc xấu; Giáo dục nhân quả hiệu quả càng thù thắng, sau khi họ đã học
[thì] không dám làm việc xấu, vì thế xã hội trường trị cửu an, nhân dân an cư lạc
nghiệp, hạnh phúc. Tôn giáo hiện nay hữu danh vô thực, không dạy nữa, quá khứ
cũng chẳng thấy được cảnh hưng thịnh của loại học tập ấy, đó chính là Phật pháp
đã suy, có thể nói Phật pháp diệt rồi. Chúng ta muốn hưng khởi lại, [làm] từ
đâu? Bắt đầu làm từ chính mình, bắt đầu làm từ đạo tràng nhỏ này của tôi.
Chúng tôi nhiều năm nay, ngay cả đạo tràng nhỏ cũng không có. Sau
khi [bà] Hàn Quán Trưởng vãng sanh, thì tôi đã buông xuống ý niệm [về] đạo
tràng, nơi nào có duyên [thì] đến nơi đó. Những năm ấy có đồng tu, họ thành lập
một đài truyền hình, đài truyền hình vệ tinh Hoa Tạng, phát sóng băng video giảng
kinh của tôi, đã mười mấy năm, tết Dương lịch năm 2003 bắt đầu phát, năm nay
2015, [là] 13 năm rồi. Chính chúng tôi có internet, mạng internet cũng rất thuận
tiện, có thể xem được. Dùng điều này làm đạo tràng, gặp mặt chư vị đồng học ở
trên màn hình, mọi người biết được tôi, [nhưng] tôi không biết được mọi người, tốt!
Chúng ta thường thường nghĩ đến, đức Phật Thích Ca Mâu Ni không có xây dựng
đạo tràng, vì sao [Ngài] không xây dựng? Hiện tại chúng ta biết rồi, có đạo
tràng thì có gánh vác, phải quản người, phải quản việc, phải quản tiền, [thì]
tâm không ở trong đạo. Buông xuống vạn duyên là Chân Tâm, chỉ cần khởi tâm động
niệm, Phân biệt Chấp trước, đó là Vọng tâm, dùng Vọng tâm e rằng không thể vãng
sanh. Vãng sanh vẫn là đại sự hàng đầu, nhất định không thể từ bỏ. Thế pháp, Phật
pháp tất cả tuỳ duyên, có duyên, chúng ta rất nghiêm túc nỗ lực làm một chút phụng
hiến; không có duyên, [thì] chăm chỉ niệm Phật.
Ngay cả kinh giáo, tôi
cũng không xem nữa rồi, tại sao vậy? Bởi đến thế giới Cực Lạc sẽ học tiếp, hiện
tại tạm thời buông xuống, chính là một bộ Kinh Vô Lượng Thọ, một câu Phật hiệu.
Bình thường thỉnh thoảng xem: Tịnh Tu Tiệp Yếu Báo Ân Đàm: của lão Cư sĩ Hoàng
Niệm Tổ, tôi thường nghe, đã nghe mấy chục lần, Vĩnh Tư Tập [về] lão Hòa thượng
Hải Hiền. Tôi dẫn đầu, hy vọng đồng học Tịnh tông có ba bộ sách này, đủ rồi, đều
có thể buông xuống những bộ khác. Lão Hòa thượng Hải Hiền làm chứng minh cho chúng
ta, Pháp môn này là thật không phải là giả, thế giới Cực Lạc thật có, A Mi
Đà Phật thật có, ngài sẽ không lừa chúng ta; Ngài còn làm chứng minh cho
chúng ta, chứng minh bản Hội tập là chân Kinh, Tập chú của Niệm lão Chánh tri
Chánh kiến, không thể nghi ngờ, không thể hoài nghi. Hoàn toàn tin tưởng, một
câu Phật hiệu này niệm đến cùng, bảo đảm chúng ta vãng sanh thế giới Cực
Lạc. Nếu có thể phát vô lượng tâm, phát vô lượng nguyện, vậy thì không khác với
A Mi Đà Phật.
起無量行,無不一一稱真如法界 “Khởi vô lượng hạnh, vô bất nhất
nhất xưng Chân Như Pháp giới” (Làm vô lượng hạnh, tất cả
mỗi mỗi đều xưng là Pháp giới Chân Như), đó là Bồ-tát thật, từ bi thương
xót tất cả chúng sanh, ‘trong hàng đệ tử Phật, không bỏ một người’. Tôi nhận
qua ân đức của thầy, [nên] tôi lãnh hội rất sâu sắc. Tôi học Triết học với Tiên
sinh Phương, học trò là một mình tôi, không bỏ một người; tôi theo Đại sư
Chương Gia ba năm, mỗi tuần gặp mặt một lần, học trò cũng là một mình tôi, không
bỏ một người. Không phải nói một người thì không dạy, thật sự muốn học, ngài thật
sự dạy quý vị. 眾生無量,國土無量。菩薩隨順眾生,經不可說不可說那由他劫,入不可說不可說恆河沙佛土,悉以無量行海而嚴淨之 “Chúng sanh vô lượng, quốc độ vô lượng. Bồ-tát
tuỳ thuận chúng sanh, kinh bất khả thuyết bất khả thuyết na-do-tha kiếp, nhập bất
khả thuyết bất thuyết Hằng hà sa Phật độ, tất dĩ vô lượng hạnh hải nhi nghiêm tịnh
chi” (Chúng sanh vô lượng, cõi nước vô lượng. Bồ-tát tuỳ thuận chúng sanh,
trải qua bất khả thuyết bất khả thuyết na-do-tha kiếp, vào bất khả thuyết bất
khả thuyết Hằng hà sa cõi Phật, đều dùng vô lượng biển hạnh mà trang nghiêm
thanh tịnh cõi ấy). Quan trọng chính là câu: ‘Bồ-tát tuỳ thuận chúng
sanh’, dùng vô lượng Hành môn, vô lượng hạnh đó: chính là 84 ngàn Pháp môn, hoặc
là nói: Pháp môn tín nguyện trì danh cầu sanh Tịnh Độ, giúp đỡ tất cả chúng
sanh.
所以者何 “Sở dĩ giả hà” (Vì sao vậy?), tại sao vậy? 以法界本無量故 “Dĩ
pháp giới bổn vô lượng cố”
(Bởi vì pháp giới vốn là vô lượng). Tự
Tánh vô lượng, pháp giới do Tự Tánh hiện ra cũng là vô lượng. Có thể duyên đến
hay không? Không duyên đến được. Chúng sanh có thể duyên đến, Ý thức thứ sáu, tương
ưng với 51 tâm sở, [đối với] pháp giới mà Tự Tánh biến hiện, Ý thức không duyên
đến được, chính là không duyên đến Tự Tánh, đều có thể duyên đến tướng mà Tự
Tánh hiện. Cho nên đây là phù hợp với nhà khoa học nói, nhà khoa học cũng rất
tài ba, họ có thể duyên đến Tam tế tướng của A-lại-da. Đã làm rõ ràng Cảnh giới
tướng, làm sáng tỏ rồi, không khác với trong kinh nói. Chuyển tướng, chính là
hiện tượng tinh thần, ý niệm, hiện tại [họ] đang hạ công phu trên điều này, tôi
tin tưởng sau 10 hay 20 năm, chân tướng của ý niệm sẽ được phát hiện, đó là bí
mật thứ hai của vũ trụ. Bí mật thứ ba, [là] hiện tượng
tự nhiên, Nghiệp tướng của A-lại-da, trong kinh đức Phật đã nói Ý thức thứ sáu,
dùng Ý thức thứ sáu có thể duyên đến được. Đức Phật nói, nhà khoa học chứng
minh; Điều mà nhà khoa học phát hiện, hoàn toàn tương đồng với trong kinh đức
Phật nói. Cho nên pháp giới vô lượng.
如是嚴淨無量佛土,度脫無量眾生,而實無佛土可嚴,亦無眾生可度 “Như thị nghiêm tịnh vô lượng Phật
độ, độ thoát vô lượng chúng sanh, nhi thật vô Phật độ khả nghiêm, diệc vô chúng
sanh khả độ” (Trang nghiêm thanh tịnh vô lượng cõi Phật, độ
thoát vô lượng chúng sanh như vậy, mà thật không có cõi Phật được trang nghiêm,
cũng không có chúng sanh được độ), hai câu sau cùng này, [là] trong Kinh
Kim Cang nói. Nói với Bồ-tát, Bồ-tát thật sự đã giác ngộ, có trang nghiêm đạo
tràng hay không? Trang nghiêm. Trang nghiêm thế nào? Không để ở trong tâm, vậy
thì đúng rồi. Nếu để trong tâm, [thì] sai rồi, để trong tâm [là] đã chấp tướng,
chấp tướng là phàm phu, không chấp tướng chính là Bồ-tát. Nên học lão Hòa thượng
Hải Hiền, sau khi làm xong [thì] trong tâm thản nhiên, không có điều gì cả, chính
là một câu A Mi Đà Phật, vậy thì đúng rồi. Phật độ, là cõi Thật Báo Trang
Nghiêm, cõi Thật Báo Trang Nghiêm giống với thế giới Cực Lạc: vốn tự thanh
tịnh trang nghiêm, [mà] không thêm vào sự trang nghiêm bởi tưởng tượng của
chúng ta, tự nhiên trang nghiêm. Cho nên thật không có cõi Phật được trang
nghiêm, cũng không có chúng sanh được độ, vì sao vậy? Bởi chúng sanh xưa nay là
Phật, nếu họ một khi quay đầu, thì họ là Phật. 所以者何?以法界即非法界故。斯則悲智雙融,理事無礙,故能於一切法而得自在 “Sở dĩ giả hà? Dĩ pháp giới tức phi pháp giới
cố. Tư tắc bi trí song dung, Lý Sự vô ngại, cố năng ư nhất thiết pháp nhi đắc tự
tại” (Vì sao vậy? Bởi vì pháp giới là chẳng phải pháp giới. Đây là dung thông cả từ bi và trí huệ, Lý Sự vô ngại,
nên có thể đối với tất cả pháp mà được tự tại). Hai cách nói trên: có thể
tham khảo lẫn nhau, cách nói của ngài Bành Tế Thanh ý nghĩa rất sâu, cảnh giới
của Pháp thân Bồ-tát; Điều phía trước mà Hội Sớ nói, đó là do Tổ sư Tịnh tông
Nhật Bản nói, đều nói rất hay, chúng ta đều nên học tập.
Tiếp theo giải thích
câu sau cùng này,
『非是語言分別之所能知』 “Phi thị ngữ ngôn phân biệt chi
sở năng tri” (Chẳng phải [dùng] ngôn ngữ phân biệt mà có
thể biết được). Câu này, lão Cư sĩ Hoàng Niệm Tổ nói: 此語真是金剛王寶劍,直下斬盡眾生情見 “Thử ngữ chân thị kim cang
vương bảo kiếm, trực hạ trảm tận chúng sanh tình kiến” (Lời này thật là thanh kiếm báu kim cang vương, thẳng chặt đứt hết tình
kiến của chúng sanh), ‘Phi thị ngôn ngữ phân biệt chi sở năng tri’, [dùng]
ngôn ngữ không nói ra được, phân biệt là dùng tư duy tưởng tượng của ta, đều
không đạt được, 言語道斷,心行處滅 “ngôn
ngữ đạo đoạn, tâm hành xứ diệt” (dứt đường ngôn ngữ, hết chỗ tâm hành). 與《妙法蓮華經》中,是法非思量分別之所能解 “Dữ Diệu Pháp Liên Hoa Kinh
trung, thị pháp phi tư lương phân biệt chi sở năng giải” (Với trong Kinh Diệu Pháp Liên Hoa [nói], pháp ấy chẳng phải [dùng] suy
xét phân biệt mà có thể hiểu được), là một ý nghĩa. 非是語言分別之所能知 “Phi thị ngữ ngôn phân biệt chi
sở năng tri” (Chẳng phải [dùng] ngôn ngữ phân biệt mà có
thể biết được), đó là pháp gì? Là tất cả pháp, tất cả pháp gồm có Nhất Chân
Pháp giới: và mười pháp giới y chánh trang nghiêm, đã bao gồm hết thảy. Nhất Chân Pháp giới không thể nghĩ bàn, mười
pháp giới, lục đạo luân hồi cũng không thể nghĩ bàn, đều là do Tự Tánh biến hiện
ra. Khi nào quý vị mới biết được? Quý vị minh Tâm kiến Tánh thì biết thôi; trước
khi chưa minh Tâm kiến Tánh, nói thế nào cũng là cách một tầng, ngoài ra [còn]
một hạng, vãng sanh đến thế giới Cực Lạc [thì] quý vị cũng biết, vì sao vậy?
Bởi đạt được uy thần bổn nguyện của A Mi Đà Phật gia trì, quý vị có năng lực
thấy được, Ngũ nhãn viên minh của Như Lai, quý vị có thể thấy được, quý vị có
thể tiếp xúc được.
Đến thế giới Cực Lạc, thần thông biến hoá: gần như là bằng với
A Mi Đà Phật. A Mi Đà Phật thời thời khắc khắc: hoá thân, phân thân vô lượng
vô biên, vì sao vậy? Bởi đến mười phương thế giới tiếp dẫn: những tiểu Bồ-tát
ấy vãng sanh đến thế giới Cực Lạc. Đức Phật không tiếp dẫn, [thì] họ không
biết thế giới Cực Lạc ở đâu, nhất định phải đợi đức Phật tiếp dẫn, hoá thân
của Phật chưa từng gián đoạn. Mỗi người vãng sanh đến thế giới Cực Lạc, cho
dù là: vãng sanh Hạ hạ phẩm ở cõi Phàm Thánh Đồng Cư, cũng có năng lực thần
thông: giống như A Mi Đà Phật, dùng vô lượng phân thân, [để] làm gì? Để đến
mười phương thế giới cúng Phật, để nghe pháp. Phân thân của A Mi Đà Phật là
tiếp dẫn chúng sanh, phân thân của mỗi người: là đến trong tất cả cõi nước chư
Phật, cúng Phật là tu phước; nghe pháp là tu huệ, phước huệ song tu, cho nên
nơi đó mau thành Phật. Thầy là ai? Thầy là chư Phật Như Lai, không phải là
Bồ-tát, [mà] là chư Phật Như Lai.
Nếu nói đến công đức trang nghiêm, [thì] chúng ta đành phải vọng
văn sanh nghĩa, chẳng thể tưởng được tướng chân thật, không cách nào hình dung.
Cho nên cùng với trong Kinh Pháp Hoa: 是法非思量分別之所能解 “Thị phi pháp tư lương phân biệt
chi sở năng giải” (Pháp ấy chẳng phải [dùng] suy xét phân biệt
mà có thể hiểu được), 直是一句。一味一音,等同無異。此非偶合 “trực thị nhất cú. Nhất vị nhất
âm, đẳng đồng vô dị. Thử phi ngẫu hợp” (chỉ là một câu. Một ý vị
một âm thanh, ngang bằng không khác. Đây chẳng phải trùng hợp ngẫu nhiên),
không phải trùng hợp ngẫu nhiên, 實因體同 “Thật nhân thể đồng” (Thật sự bởi vì cùng một thể), đó là chân thật. Kinh Vô Lượng Thọ
chính là Kinh Hoa Nghiêm, cổ nhân gọi là Trung bản. Ý nghĩa của đoạn này, Kinh
Vô Lượng Thọ chính là Kinh Pháp Hoa. Nghiên cứu kinh giáo, mọi người hễ nhắc đến
kinh Phật, [thì] Hoa Nghiêm, Pháp Hoa, [là] đại biểu tất cả. Kinh Vô Lượng Thọ
là cùng thể với những kinh ấy, như nhau, không có khác nhau, Kinh Vô Lượng Thọ
chính là Hoa Nghiêm, Kinh Vô Lượng Thọ chính là Pháp Hoa.
故下引《法華》,以證經義 “Cố hạ dẫn Pháp Hoa, dĩ chứng
kinh nghĩa” (Nên tiếp theo dẫn Kinh Pháp Hoa, để chứng
minh nghĩa kinh). Tiếp theo trích dẫn, 《法華經》云:諸佛隨宜說法,意趣難解 “Pháp Hoa Kinh vân: Chư Phật
tùy nghi thuyết pháp, ý thú nan giải” (Kinh Pháp Hoa nói rằng:
Chư Phật tùy thuận [căn cơ mà] thuyết pháp, ý thú khó
hiểu rõ). Đức Phật
thuyết pháp, đức Phật không có định pháp có thể nói. Có thể chấp trước Phật
pháp hay không? Không thể chấp trước, chấp trước thì sai rồi. Cho nên trong
Kinh Bát Nhã đức Phật nói: Ngài không có thuyết pháp, nếu ai nói Ngài thuyết
pháp, là hủy báng Phật. Điều này khiến mọi người rất khó hiểu, rõ ràng [Ngài]
đã giảng kinh giáo dạy học 49 năm, vậy tại sao lại không thuyết pháp? Đó là nói
với chúng ta, chân lý, chân lý của vũ trụ vạn vật không thể nghĩ bàn. Không thể
nghĩ chính là không thể tưởng tượng, vì sao vậy? Bởi quý vị nghĩ, nghĩ sai rồi,
không thể tưởng, tưởng sai rồi. Tại sao nghĩ sai rồi? Bởi căn bản không tồn tại.
Quý vị thấy mười pháp giới y chánh trang nghiêm, là ở dưới tần số sóng dao động
cao mà tạo ra ảo tướng, một giây [có]: 1 phần 2 triệu 240 ngàn tỷ, trong đó mà
sanh ra, làm sao có thể tồn tại? Thật sự, thật sự là một vùng quang minh, trong
ấy điều gì cũng không có, cũng không có ba loại hiện tượng, đó gọi là hiện tượng
vật chất, hiện tượng tinh thần, hiện tượng tự nhiên, không có. Quý vị làm sao
thuyết? Quý vị làm sao có thể tưởng tượng? Đây mới gọi là chân tướng sự thật.
Cho nên ‘chư Phật tùy nghi thuyết pháp’. Ý nghĩa của Phật, Phật
thuyết pháp là gì? Là hợp căn cơ, giúp đỡ đối phương khai ngộ. Một khi khai ngộ,
tốt rồi, đã đạt được mục đích, còn có thuyết pháp hay không? Không có thuyết
pháp. Họ ngộ chính là trong Tự Tánh vốn có, không phải đến từ bên ngoài. Chân
tướng sự thật này, chúng ta phải tỉ mỉ lãnh hội, phải có khái niệm như thế, sau
đó [thì] sao? Sau đó quý vị mới buông xuống Phật pháp. Trong Kinh Kim Cang nói:
法尚應捨,何況非法 “Pháp thượng ưng xả, hà huống
phi pháp” (Pháp còn phải xả, huống là chẳng phải pháp),
vậy thì tốt rồi, một khi buông xuống Phật pháp, [thì] thành Phật. Điều mà đức
Phật nói chính là trong Tự Tánh Bát-nhã: vô cùng tự nhiên lưu lộ ra, chúng sanh
khởi lên ý niệm gì, vẫn chưa nói ra, [nhưng] Tự Tánh biết, Tự Tánh ứng đối thì
lưu xuất ra rồi, đối phương liền được lợi ích, khoát nhiên khai ngộ. Trong đó cũng
nói ra: phương pháp dạy học của đức Phật, không có định pháp. Phật hiện thân,
không có hình tướng nhất định; đức Phật thuyết pháp, không có định pháp có thể
nói. Quý vị gặp được Phật, vậy vận tốt quá rồi, Phật thuyết pháp khế cơ nhất, Bồ-tát
cũng không sánh được, chính là hợp căn cơ quý vị, giúp quý vị trở về Tự Tánh. Bây
giờ chúng ta hiểu rõ những chân tướng sự thật này, đến nơi đâu [để] cầu? Đến
thế giới Cực Lạc. Đến thế giới Cực Lạc, [thì] toàn bộ những điều đã nói ở đây
đều thực hiện rồi.
Tiếp theo nói, 所以者何?我以無數方便,種種因緣,譬喻言辭,演說諸法。是法非思量分別之所能解 “Sở dĩ giả hà? Ngã dĩ vô số phương tiện, chủng chủng
nhân duyên, thí dụ ngôn từ, diễn thuyết chư pháp. Thị
pháp phi tư lương phân biệt chi sở năng giải” (Tại sao vậy? Ta
dùng vô số phương tiện, đủ loại nhân duyên, thí dụ lời nói, diễn thuyết các
pháp. Pháp ấy chẳng phải [dùng] suy xét phân biệt mà có thể hiểu được). Buông
xuống khởi tâm động niệm, Phân biệt Chấp trước: liền có thể khế nhập, vì sao vậy?
Bởi không có khởi tâm động niệm, không có Phân biệt Chấp trước, lúc đó là Chân
Tâm, Phật pháp từ Chân Tâm mà lưu lộ, quý vị dùng Chân Tâm tiếp nhận, liền ngộ
nhập thôi. Khó khăn lớn nhất của chúng ta hiện giờ, [là] những pháp ấy của Phật
từ Chân Tâm mà lưu lộ, [nhưng] chúng ta là dùng Vọng tâm, chúng ta có khởi tâm
động niệm, có Phân biệt Chấp trước, tùy theo chúng ta mê ngộ cạn hay sâu, [mà]
thấy ý nghĩa kinh không như nhau, tập khí phiền não nhẹ, có tâm thanh tịnh bình
đẳng, [thì] ngộ nhập sâu; Nếu là tập khí phiền não tràn đầy, thì căn bản là
không có ngộ nhập, chúng ta thấy chính là văn tự, [còn] nghĩa lý được bao hàm
trong văn tự: [thì] chúng ta không lãnh hội được. Cho nên vì sao học kinh Phật
không chán, học cả đời cũng sẽ không chán? Bởi ở ngay trong quá trình học tập của
chính chúng ta: có tiến có thoái, có tiến, chúng ta thấy được ý nghĩa rất sâu, rất
hoan hỷ, pháp hỷ sung mãn; Có một số chỗ xem không hiểu, cũng nghe không hiểu,
bởi vì điều gì? Nghiệp chướng ngăn trở lại. Tu hành bàn về công phu, Pháp môn
vô cùng thù thắng, [là] Tịnh tông, một câu Phật hiệu, trong câu Phật hiệu này: nhất
định không thể có xen tạp, không thể có chấp trước; Khởi tâm động niệm [thì] chẳng
có cách nào, chính chúng ta khống chế không được, buông xuống tất cả Phân biệt
Chấp trước, giúp chúng ta được niệm Phật Tam-muội, giúp chúng ta khai ngộ.
Hai câu sau đây nói rất hay, 唯有諸佛,乃能知之 “duy
hữu chư Phật, nãi năng tri chi” (chỉ có chư Phật, mới biết
được điều ấy). Điều mà Phật nói, ai có thể hoàn toàn hiểu rõ? Chư Phật, các
Ngài minh Tâm kiến Tánh đều đạt đến viên mãn, không mang chút Vô minh Phiền não
nào, đã đoạn hết tập khí Vô minh Phiền não, vì vậy chư Phật hoàn toàn biết. Bồ-tát
vẫn còn có tập khí Vô minh Phiền não, các ngài sẽ thiếu một chút, không thể
hoàn toàn biết, hoặc là biết cũng mơ hồ, không phải rất rõ ràng. ‘Duy hữu chư
Phật nãi năng tri chi’, chư Phật thật sự đã buông xuống, [nên] biết được, thật
sự nhìn thấu rồi. Tiếp theo nói, 所以者何?諸佛世尊,唯以一大事因緣故,出現於世 “Sở dĩ giả hà? Chư Phật Thế
Tôn, duy dĩ nhất đại sự nhân duyên cố, xuất hiện ư thế” (Vì sao vậy? Bởi chư Phật Thế Tôn, chỉ vì một đại sự nhân duyên, nên hiện
ra nơi đời). Đại sự đó chính là giáo hóa chúng sanh, giúp chúng sanh khai
ngộ, thì mục đích mà đức Phật xuất thế đạt được rồi. Tuy đức Phật đã làm sự việc
này, [nhưng Ngài] cũng sẽ không để việc này ở trong tâm, thật sự là làm mà
không làm, không làm mà làm. Ngày ngày đều đang làm, [nhưng] không để việc nào ở
trong tâm, đó chính là dùng Chân Tâm. Có việc để ở trong tâm là Vọng tâm, không
việc nào là Chân Tâm; Chân Tâm thấy Tánh; Vọng tâm không thấy Tánh.
Chúng ta xem tiếp sau đây, 舍利弗:云何名諸佛世尊,唯以一大事因緣故,出現於世 “Xá Lợi Phất: Vân hà danh chư
Phật Thế Tôn, duy dĩ nhất đại sự nhân duyên cố, xuất hiện ư thế” (Xá Lợi Phất: Vì sao nói chư Phật Thế Tôn, chỉ vì một đại sự nhân
duyên, nên hiện ra nơi đời?), câu hỏi này rất hay. 諸佛世尊欲令眾生開佛知見,使得清淨故,出現於世
“Chư Phật Thế Tôn dục linh chúng sanh khai Phật tri kiến, sử đắc
thanh tịnh cố, xuất hiện ư thế” (Chư Phật Thế Tôn muốn
khiến chúng sanh mở tri kiến Phật, để được thanh tịnh, nên hiện ra nơi đời).
Đức Phật xuất hiện ở thế gian, mục đích chủ yếu là giúp chúng sanh thành Phật, khai
tri kiến Phật, ngộ tri kiến Phật, nhập tri kiến Phật, khai thị ngộ nhập. ‘Khai
thị’ là sự việc của Phật, đức Phật giúp chúng ta, chính chúng ta phải có thể ngộ,
phải có thể nhập. ‘Ngộ’ chính là đã nhìn thấu, thật sự nhìn thấu; ‘Nhập’ chính
là buông xuống triệt để rồi, đều buông xuống hết pháp thế xuất thế gian. Nhập
vào đâu? Nhập vào Thường Tịch Quang, Thường Tịch Quang chính là Tự Tánh, Thường
Tịch Quang là rốt ráo viên mãn. Quả vị Diệu giác mới nhập vào Thường Tịch Quang;
Đẳng giác vẫn không được, vẫn không thể vào. Cho nên chư Phật Thế Tôn: muốn khiến
chúng sanh khai tri kiến Phật, để được thanh tịnh, nên hiện ra ở đời.
Dưới đây tiến thêm một bước, 欲示眾生佛之知見故,出現於世 “dục thị chúng sanh Phật chi
tri kiến cố, xuất hiện ư thế” (muốn chỉ cho chúng sanh tri kiến Phật, nên
hiện ra ở đời), chữ ‘thị’ là chỉ thị. Phật là mở tri kiến Phật, nhưng quý vị
không biết thế nào gọi là tri kiến Phật, nhất định phải được đức Phật chỉ thị,
nói với quý vị. Giống như chúng ta đến Viện Bảo tàng Cung điện xưa: để xem những
dấu tích xưa đó, cửa Viện Bảo tàng Cung điện mở ra, chúng ta bước vào rồi, bước
vào [thì] yêu thích điều gì? Tôi tin tưởng, tin nhất định là chạm khắc ngọc của
thời Minh, Thanh, vô cùng tinh xảo. Đó chính là người ngoài nghề, không biết điều
gì là của báu. Của báu là gì? [Là] đồng vụn sắt nát, [thời] ba nhà Hạ Thương
Chu hoặc là được khai quật sớm hơn, khi quý vị thấy những vật ấy: [thì] quý vị
không ưa thích lắm, [nhưng] đó là trân bảo, trong ấy hàm chứa văn hóa của mấy
ngàn năm, tuyệt không phải là vàng ngọc mà có thể sánh được, đó là vô giá, chúng
ta nên biết điều này.
Của báu thật sự của nước ta là gì? [Là] Tứ Khố Toàn Thư, báu vật
như thế nào cũng không thể sánh được, có thể cứu người. Giúp thân tâm mỗi người
khỏe mạnh, quý vị nói đó không phải là trân bảo ư? Giúp gia đình quý vị hạnh
phúc mỹ mãn, giúp sự nghiệp quý vị ngày một phát triển, giúp cho xã hội an định
hài hòa, giúp cho đất nước giàu mạnh hưng thịnh, giúp cho thế giới an định hài
hòa. Những trân bảo đó, trân bảo vật chất không làm được, chỉ đặt trong đó [để]
đẹp mắt, [mà] chẳng có chút lợi ích thật tế, vậy phải làm gì? Tôi học Đại sư Ấn
Quang, năm xưa Ấn tổ [còn] ở đời, tất cả cúng dường của mười phương, [ngài] đều
in kinh, bố thí Pháp bảo, bố thí bảy báu của thế gian không sánh bằng bố thí
pháp, bố thí pháp cứu huệ mạng người, có thể giúp người khai ngộ, cả đời làm sự
việc này, vui thích bố thí không mệt mỏi. Tôi đời này cũng vậy, cúng dường của
mười phương đều đem đi làm sự việc này. Pháp bảo này của nước ta, Tứ Khố Toàn
Thư, Tứ Khố Hội Yếu, vẫn còn hai bộ, [là] Quần Thư Trị Yếu, Quốc Học Trị Yếu, bốn
bộ này là quốc bảo, hữu ích, có thể cứu toàn thế giới. Vì thế tôi đã chia một nửa
[số] tiền in kinh: [để] mua những bộ sách này, chúng tôi đã mua: 112 bộ Tứ Khố
Toàn Thư, [còn] Tứ Khố Hội Yếu: chúng tôi trước sau đã mua tổng cộng 300 bộ, chia
tặng cho Thư viện trường Đại học, Thư viện quốc gia: trên toàn thế giới. Mục
đích, [việc] phân tán cất giữ như vậy, [là] dù cho thế giới có tai nạn, [cũng]
không thể mất đi hoàn toàn, sẽ luôn luôn có một vài bộ được lưu lại, bằng với Pháp
thân huệ mạng, chúng ta làm sự việc này.
Nhu cầu cấp bách của chúng ta hiện nay, [là] ai có thể xem hiểu
được những sách này, ai có thể giảng được rõ ràng, giảng được thấu triệt, [thì]
những bộ sách này mới khởi tác dụng. Nếu không có người đọc được, vậy không phải
là chồng giấy vụn sao? Cho nên hy vọng tích cực, chính là đào tạo một nhóm giáo
viên trẻ. Hiện tại chúng tôi đang làm, mời giáo viên đang dạy Văn Tự học. Hy vọng
mọi người nghiêm túc học tập, học tập Thuyết Văn Giải Tự, học tập Âm Vận học, học
tập Huấn Hỗ học, ba loại sách đó: là gốc rễ của Văn Tự học nước ta. Có ba nền tảng
này, [thì] Tứ Khố Toàn Thư không có vấn đề nữa, quý vị có thể xem hiểu được,
quý vị có thể giảng được rõ ràng, trong tương lai, chính là phải đem giảng ra, để
mọi người đều hiểu, viết thành Văn bạch thoại, phiên dịch sang tiếng nước
ngoài, lưu thông đến toàn thế giới, đó chính là văn hóa nước ta đều tụ hợp toàn
thế giới, thì nguyện vọng của ông Joseph Toynbee được thực hiện rồi, sự việc
này quan trọng hơn bất cứ điều gì.
Tiếp theo là lời trong Kinh Pháp Hoa, là toàn đoạn kinh văn này.
Mở tri kiến Phật, khai thị ngộ nhập, chúng ta đọc tiếp đoạn này. 唯以一大事因緣故,出現於世 “Duy dĩ nhất đại sự nhân duyên
cố, xuất hiện ư thế” (Chỉ vì một đại sự nhân duyên, nên hiện ra ở
đời), đại sự gì? 諸佛世尊欲令眾生開佛知見,使得清淨故,出現於世;欲示眾生佛之知見故,出現於世;欲令眾生悟佛知見故,出現於世;欲令眾生入佛知見道故,出現於世 “Chư Phật Thế Tôn dục linh
chúng sanh khai Phật tri kiến, sử đắc thanh tịnh cố, xuất hiện ư thế; dục thị
chúng sanh Phật chi tri kiến cố, xuất hiện ư thế; dục linh chúng sanh ngộ Phật
tri kiến cố, xuất hiện ư thế; dục linh chúng sanh nhập Phật tri kiến đạo cố, xuất
hiện ư thế” (Chư Phật Thế Tôn muốn khiến chúng sanh mở
tri kiến Phật, để được thanh tịnh, nên hiện ra ở đời; Muốn chỉ cho chúng sanh
tri kiến Phật, nên hiện ra ở đời; Muốn khiến chúng sanh ngộ tri kiến Phật, nên
hiện ra ở đời; Muốn khiến chúng sanh nhập con đường tri kiến Phật, nên hiện ra ở
đời), khai thị ngộ nhập. 佛之開示,既是佛之知見,故唯有諸佛乃能如實知之。眾生在情見中,起心動念皆是妄想分別。故佛雖有種種譬說,但眾生於佛之知見如聾如盲,不能真實解了 “Phật chi khai thị, kí thị Phật chi tri kiến, cố
duy hữu chư Phật nãi năng như thật tri chi. Chúng sanh tại tình kiến trung,
khởi tâm động niệm giai thị vọng tưởng phân biệt. Cố Phật tuy hữu chủng chủng
thí thuyết, đãn chúng sanh ư Phật chi tri kiến như lung như manh, bất năng chân
thật giải liễu” (Khai thị của Phật, đã là tri kiến Phật, nên
chỉ có chư Phật mới biết như thật được điều đó. Chúng sanh ở trong tình kiến,
khởi tâm động niệm đều là vọng tưởng phân biệt. Nên tuy đức Phật có đủ loại thí
dụ lời nói, nhưng chúng sanh như điếc như mù đối với tri kiến Phật, không thể
chân thật hiểu rõ), đây là thật, không phải là giả. Thời gian hôm nay hết rồi,
chúng ta học tập đến đây thôi. Buổi học tiếp theo, chúng ta xem tiếp hàng thứ
ba từ trái sang, chính là佛之開示,既是佛之知見 “Phật chi khai thị, kí thị Phật
chi tri kiến” (Khai thị của Phật, đã là tri kiến Phật),
chúng ta học tập từ chỗ này.
( Hết tập 239)
Nguyện đem công đức này
Hướng về khắp tất cả
Đệ tử cùng chúng sanh
Đều sanh nước Cực Lạc
Sớm viên thành Phật quả
Rộng độ khắp chúng sanh.
Nam Mô A Mi Đà Phật.