Responsive Menu
Add more content here...

Tập 249 – Tịnh Độ Đại Kinh Khoa Chú 2014

TỊNH ĐỘ ĐẠI KINH KHOA CHÚ 2014

(Giảng lần thứ 4)

Phẩm thứ 10: Giai Nguyện Tác Phật:

Đều Nguyện Thành Phật

Tập 249

Hòa thượng Thích Tịnh Không chủ giảng.

Giảng tại: Hiệp Hội Giáo Dục Phật Đà Hồng Kông.

Thời gian: Ngày 18 tháng 9 năm 2015.

Dịch giả: Diệu Thương.

Giảo chánh: Thích Thiện Trang.

 Kính chào chư vị Pháp sư, chư vị đồng học, kính mời ngồi, kính mời ngồi. Mời mọi người cùng tôi quy y Tam Bảo: “A-xà-lê tồn niệm, ngã Đệ tử Diệu Âm, thỉ tùng kim nhật, nãi chí mạng tồn, quy y Phật-Đà, lưỡng túc trung tôn; Quy y Đạt-ma, ly dục trung tôn; Quy y Tăng-già, chư chúng trung tôn. (3 lần).

 Mời xem 《大經科註》Đại Kinh Khoa Chú, trang 600, hàng thứ 2, phần Khoa Đề見賢思齊 “Kiến Hiền Tư Tề” (Thấy Bậc Hiền Thì Mong Được Bằng). Phía dưới phân thành ba đoạn, đoạn thứ nhất聞說歡喜 “Văn Thuyết Hoan Hỉ” (Nghe Giảng Hoan Hỉ). Mời xem phần Kinh văn:

 【佛說阿彌陀佛為菩薩求得是願時。阿闍王子。與五百大長者。聞之皆大歡喜。】“Phật thuyết A Mi Đà Phật vi Bồ-tát cầu đắc thị nguyện thời. A Xà Vương tử. Dữ ngũ bá đại Trưởng giả. Văn chi giai đại hoan hỉ(Đức Phật thuyết A Mi Đà Phật khi làm Bồ-tát cầu đạt được nguyện đó rồi. Vương tử A Xà cùng 500 đại Trưởng giả, nghe xong đều rất vui mừng).

 Chúng ta xem Chú Giải của Niệm lão. 此王子 “Thử Vương tử” (Những Vương tử đó), chính là Vương tử A Xà, 與五百長者,正是現在與當來一切含靈之典範 “dữ ngũ bá Trưởng giả, chánh thị hiện tại dữ đương lai nhất thiết hàm linh chi điển phạm” (cùng 500 vị Trưởng giả, chính là điển hình của tất cả hàm linh trong hiện tại và tương lai). Câu nói này, là do lão Cư sĩ Hoàng Niệm Tổ nói. Thật đúng vậy, quý vị xem phía trước đức Thế Tôn nói với chúng ta. Sau khi A Mi Đà Phật tu học viên mãn công đức, Ngài đã thị hiện Thế giới Cực Lạc ở thế giới phương Tây. Lại hiện Chánh báo, Y Chánh trang nghiêm, đặc biệt nói với chúng ta: nay thị hiện đang thuyết pháp. Đặc biệt cần phải chú ý trong câu nói này, là mỗi giai đoạn, mỗi tầng lớp, Ngài đều tu đến công đức viên mãn. Công đức không viên mãn thì không thể nâng lên, cần phải ghi nhớ điều này. Giống như đi học ở trường, tốt nghiệp Tiểu học là viên mãn công đức bậc Tiểu học, mới có thể lên Trung học. Tốt nghiệp Trung học, viên mãn công đức bậc Trung học, mới có thể chuyển lên bậc Đại học. Nếu như bây giờ tự đánh giá, trên địa vị hiện nay của chúng ta, nếu không có công đức viên mãn, thì cũng không thể nâng lên cao. Trong đây có chướng ngại, chướng ngại nhất định không ở bên ngoài.

Những gì cảm nhận được của hàng phàm phu, chướng ngại đều là đến từ bên ngoài, người có trí huệ, các ngài nhìn thấy rất rõ ràng, chướng ngại nhất định không phải đến từ bên ngoài. Là từ Khởi tâm Động niệm ngôn ngữ tạo tác của chính mình, không chú ý, không cẩn thận đã tạo ra nghiệp bất thiện. Thường thường là chính mình không nhận ra được những nghiệp bất thiện này. Vì tưởng rằng chính mình rất tốt, cho nên những chướng ngại đó, mãi mãi không thể tiêu trừ. Đời này thọ nhận đủ rồi, đời sau tiếp tục phải chịu nhận lấy, không thể không nghiêm túc nhìn thấu điều này. Nhìn thấu chính là chân thật nhận ra được, vấn đề là ở tâm mình, không ở cảnh giới bên ngoài. Thế nào là đoạn phiền não, chứng Bồ-đề? Là quay đầu là bờ. Là phải đoạn sạch phiền não từ trong tâm, chỗ phiền não sâu nhất từ trong tâm chính là Khởi tâm Động niệm. Chúng ta biết được Khởi tâm Động niệm hay không? Không hề biết, ý niệm của chúng ta quá thô, không hề biết ý niệm vi tế. Tế đến mức độ nào? Bồ-tát Di Lặc nói với chúng ta, một khảy búng tay có 32 ức trăm ngàn niệm, trăm ngàn là 10 vạn, 32 ức nhân cho 10 vạn, thành 320 nghìn tỷ. Chúng ta làm sao biết được? Một khảy móng tay này, có 320 nghìn tỷ ý niệm vi tế. Chẳng những chúng ta không biết, mà A-la-hán cũng không biết, Bích-chi-phật cũng không biết, Bồ-tát chưa kiến Tánh trở về trước đều không biết. Kiến Tánh thì biết nhưng vẫn chưa nhìn thấy, đến khi nào thì thấy được? Từ Bát địa trở lên, quý vị chứng được Bát địa, Bát địa, Cửu địa, Thập địa, Đẳng giác, Diệu Giác. Năm thứ bậc này nhìn thấy được rồi, vô cùng rõ ràng, thì mới có năng lực đoạn được điều ấy.

 Cho nên ngày nay chúng ta dụng công, dụng trên Vô minh Phiền não không được, vậy chúng ta dụng công ở chỗ nào? Dụng ở Kiến tư Phiền não, Trần sa Phiền não, Kiến tư Phiền não là Tiểu thừa A-la-hán đoạn được. Cho nên chúng ta cần từ thứ tự đi lên, từ từ hướng lên cao, A-la-hán giống như Tiểu học, Bích-chi-phật là Trung học, Bồ-tát là Đại học, Đẳng giác là lớp Tiến sĩ, Diệu Giác, nắm được học vị rồi, là Vô thượng Bồ-đề. Nắm được học vị rồi! Không thể vượt bậc, không có cách nào vượt cấp, không thể không biết điều này. Cho nên chúng ta tu hành phải thật thà, phải giữ bổn phận, điều này rất quan trọng. Công phu hoàn toàn là ở nhìn thấu, và buông xuống, nhìn thấu là Trí huệ, Trí huệ không đến từ bên ngoài, mà từ bên trong, đến từ chỗ nào? Là đến từ Tâm thanh tịnh. A-la-hán buông xuống Kiến tư Phiền não, thì tâm thanh tịnh hiện tiền, tâm thanh tịnh sanh Trí huệ không sanh phiền não. Trí huệ chân thật của A-la-hán, lục đạo phàm phu không có trí huệ, vì sao? Vì tâm thanh tịnh không hiện tiền. Cho dù sanh đến trời Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ, tâm vẫn không thanh tịnh, các ngài thật sự đã buông xuống, nếu chưa buông xuống Vô minh, thì không khai Trí huệ. Người trời Tứ Không, đã buông xuống Có, nhưng chưa buông xuống Không. Vì họ chấp trước Không nên sanh trời Tứ Không, nếu chấp trước Có, sẽ sanh Tứ Thiền. Đã buông xuống dục vọng, đã buông xuống được tham sân si mạn nghi, buông xuống được thất tình ngũ dục, sẽ sinh trời Sắc giới, điều đó không dễ dàng. Nếu chưa buông xuống tham sân si mạn nghi, chưa buông xuống thất tình ngũ dục thì sanh trời Dục giới, cao nhất trong Dục giới là trời Tha Hóa Tự Tại. Không thể không biết điều này.

 Trong học Phật, thầy là điều kiện để phàm phu khế nhập cảnh giới, thầy quan trọng, nếu không có thầy thì chính chúng ta sẽ đi rất nhiều đường vòng, vô cùng vất vả. Khi thầy hướng dẫn, phải có lòng tin với thầy, y giáo phụng hành, sẽ giảm bớt được rất nhiều chặng đường oan uổng. Đời này quý vị có khả năng thành tựu. Cổ Thánh tiên Hiền không có tâm riêng tư, là đại công vô tư, dùng tâm chân thành đối người tiếp vật, không giống nhau, các ngài dạy cho chúng ta điều gì? Là nguyên tắc chung, cương lĩnh tông chỉ chỉ đạo chung, chính là bốn câu: 一門深入,長時薰修;讀書千遍,其義自見 “Nhất môn thâm nhập, trường thời huân tu; độc thư thiên biến, kỳ nghĩa tự kiến” (Thâm nhập một môn, huân tu lâu dài; đọc sách ngàn lần, tự hiểu nghĩa kia), bốn câu này. Quý vị tin hay không? Thầy của tôi đã truyền cho tôi, hiện nay tôi truyền lại cho mọi người, bốn câu này là lời chân thật, không có chữ nào là giả. Bốn câu này, quá khứ vô thỉ, vị lai vô chung, tất cả người thành công đều là đi con đường này, chỉ cần quý vị thử nghiệm xem, thì quý vị sẽ phát hiện hiệu quả không thể nghĩ bàn.

 Khi biết bốn câu này rồi, thì có ảnh hưởng đến sự thành bại của quý vị chính là hoàn cảnh, chính là hoàn cảnh sinh hoạt, hoàn cảnh học tập. Nếu cuộc sống rất khó khăn, không có người hộ trì, ba bữa đều ăn không đủ no thì quý vị có thể không có lo lắng sao? Có thể không có vọng tưởng hay sao? Nếu thật sự không có vọng tưởng, không có lo lắng, vậy thì không phải người thường, người thường không làm được. Tu học có đứng núi này trông núi nọ hay không, có thể đột phá chướng ngại hay không? Phương pháp là nhất môn thâm nhập. Thật sự, một bộ kinh điển, học thế nào? Đọc! Đọc một ngàn biến. Chúng ta hãy nhìn vào tấm gương, Cư sĩ Lưu Tố Vân là một tấm gương, đã niệm một bộ Kinh Vô Lượng Thọ 10 năm, đến bây giờ là 20 năm rồi. Một ngày 10 biến, khi niệm Kinh thành thục rồi, thì niệm một biến khoảng ba bốn mươi phút, 10 biến chỉ cần bốn đến năm tiếng đồng hồ. Thời gian còn lại niệm danh hiệu Phật, A Mi Đà Phật, ngày đêm đều chưa từng để mất, bà thành công rồi. Bà có khai ngộ hay không? ‘Tự kiến’ chính là khai ngộ, không cần nghe người khác giảng, không cần xem chú giải của người khác, chính mình liền thông, liền rõ ràng rồi. Rồi mới lại nghe giảng, lại xem chú giải, để làm gì? Để đối chiếu, xem chỗ ngộ của mình với lời giảng của các ngài, ý nghĩa có giống nhau hay không? Nếu giống nhau thì chính xác rồi, dùng điều đó để làm ấn chứng. Ví dụ như học Kinh Hoa Nghiêm, tôi sáng tỏ rồi, trước khi tôi giảng kinh, cần giở lại Sớ Sao của Đại sư Thanh Lương để xem, lật lại Hợp Luận của Trưởng giả Lý để xem, xem điều gì? Để đối chiếu một chút, chỗ ngộ của mình và ý nghĩa mà ngài chú giải, có giống nhau hay không? Ngôn ngữ không giống nhau không có ảnh hưởng nhưng ý nghĩa phải giống nhau. Ngài Thanh Lương, ngài Trưởng giả Lý là thầy thân cận của tôi, các ngài ấn chứng cho tôi, mặc dù các ngài là người triều Đường, nhưng Hoa Nghiêm Kinh Sớ Sao ở trên bàn của tôi. Nếu không có 10 năm, không có 20 năm, thì hành thế nào?

Cả đời, không cần cầu khai ngộ, bởi vì điều cầu đó là vọng niệm, là chướng ngại, phải nhổ trừ chướng ngại này, không cần cầu, tất cả thuận theo tự nhiên như vậy, tự nhiên thì tự sáng tỏ được, xuất hiện ý nghĩa thôi. Sự ngộ này, có Tiểu ngộ, có Đại ngộ, có Đại triệt Đại ngộ. Người ngộ có hiện tượng gì hay không? Có. Tiểu ngộ, tâm địa thanh tịnh, tâm thanh tịnh hiện tiền. Buông xuống ngũ dục lục trần, danh văn lợi dưỡng, thuận cảnh nghịch cảnh, thiện duyên ác duyên của thế gian này. Hoàn toàn dùng chân thành cung kính để đối người tiếp vật, chính là禮敬諸佛,稱讚如來,廣修供養,懺除業障 “Lễ kính Chư Phật, Xưng tán Như Lai, Quảng tu Cúng dường, Sám trừ Nghiệp chướng”, là tự nhiên, không hề có một chút miễn cưỡng nào. Tâm bình đẳng hiện tiền liền Đại ngộ rồi, tâm thanh tịnh là Tiểu ngộ, tâm bình đẳng là Đại ngộ, tâm bình đẳng là gì? Là không khởi tâm không động niệm, khởi tâm động niệm liền không bình đẳng rồi. Sáu căn của chúng ta ở trong cảnh giới sáu trần, không khởi tâm không động niệm, khắp Pháp giới Hư không giới Y Chánh trang nghiêm đều là công đức của Tự Tánh lưu lộ, công đức của chư Phật Bồ-tát lưu lộ, công đức của tất cả chúng sanh lưu lộ, cũng là công đức của chính mình lưu lộ. Cho nên đó là bình đẳng, là đại Trí huệ. Nếu đạt đến Đại triệt Đại ngộ, Minh tâm Kiến tánh, triệt để Giác ngộ, kiến Tánh thành Phật, thì Phật ấy là Sơ trụ Viên giáo Hoa Nghiêm trở lên, 41 địa vị Pháp thân Đại sĩ, trong Tịnh Độ gọi là Lý nhất tâm Bất loạn. Đây là công phu đạt tới đỉnh cao nhất, tương lai vãng sanh sẽ sanh vào Thật Báo Trang Nghiêm độ.

 Nếu chúng ta đối với lí luận, lí niệm, phương pháp trong giáo dục của Phật Bồ-tát: không phải là rất rõ ràng, rất nhuần nhuyễn, thì chân thật khẳng định đó là Trí huệ chân thật. Chúng ta phải nghiêm túc học tập, không dám phóng dật, thì mới có thể thành tựu. Nếu một ngày nóng, mười ngày lạnh, thì không thể thành công, cần phải nỗ lực không ngừng. Phải niệm Phật giống như lão Hòa thượng Hải Hiền, một câu tiếp nối một câu, chưa từng quên mất, đó là công phu. Công phu càng sâu, thì tâm càng thanh tịnh, càng bình đẳng, thanh tịnh bình đẳng giác thì sanh Trí huệ, không sanh phiền não. Có Trí huệ thì thông đạt tất cả pháp thế gian lẫn xuất thế gian, điều này quan trọng hơn tất cả.

 Những người Vương tử A Xà đó, đời đời kiếp kiếp là Đệ tử của Tam Bảo, trong đời này, phước báu rất lớn, được sinh ra trong nhà quý tộc. Được nghe Phật giảngKinh Vô Lượng Thọ, nghe đến chỗ này, đức Thế Tôn giống như tuyên cáo, A Mi Đà Phật tu hành thành tựu thế nào, bây giờ Ngài ở Thế giới Tây Phương Cực Lạc, mỗi ngày làm những gì, giảng rất rõ ràng sáng tỏ, họ nghe đến đây thì không ai mà không hoan hỉ. Niềm hoan hỉ đó, 非一切世樂可比 “phi nhất thiết thế lạc khả tỉ” (tất cả niềm vui thế gian không thể sánh bằng). Niềm vui của thế gian không cách nào sánh với niềm hoan hỉ đó. Điều gì khiến cho họ hoan hỉ? 乃因彌陀究竟圓滿 “Nãi nhân Mi Đà cứu cánh viên mãn” (Là do sự viên mãn rốt ráo của đức Mi Đà), chính mình tu hành công đức viên mãn, kiến lập đạo tràng công đức viên mãn, tiếp dẫn chúng sanh, giáo hóa chúng sanh công đức cũng viên mãn, không chỉ viên mãn mà còn viên mãn rốt ráo. Rốt ráo là giúp đỡ chúng sanh thành Phật viên mãn, đó mới là rốt ráo. 超世希有之大願而喜 “Siêu thế hi hữu chi đại nguyện nhi hỉ” (Đại nguyện hiếm có vượt qua tất cả thế giới nên hoan hỉ), nguyện của đức Mi Đà rất lớn, là rộng độ tất cả chúng sanh ở khắp Pháp giới Hư không giới, trên là từ Đẳng giác Bồ-tát, dưới đến Địa ngục A Tỳ, đều rộng độ bình đẳng. Chỉ cần chúng sanh đó có thể hoan hỉ tiếp nhận, thì đức Phật sẽ không bỏ sót một chúng sanh nào. Cho nên làm thế nào để kết duyên với A Mi Đà Phật? Chính là ta tin tưởng, ta mong cầu, ta tin tưởng có Thế giới Cực Lạc, tin tưởng có A Mi Đà Phật, ta bằng lòng vãng sanh đến Thế giới Tây Phương Cực Lạc. Đó chính là có duyên với A Mi Đà Phật.

 Bây giờ vào thời kỳ Mạt pháp, xã hội động loạn, địa cầu có tai nạn dồn dập, người sống ở thời đại này: không có cảm giác an toàn. Quý mà không an, giàu mà không vui, không có hạnh phúc, người giàu sang đáng thương hơn chúng ta rất nhiều, vì họ mỗi ngày đều lo lắng, sợ mất đi sự giàu sang của họ. Chúng ta không có gì, cho nên không cần lo lắng. [Chúng ta] quan tâm điều gì? Phiền não Tập khí, đã huân tập hình thành từ vô lượng kiếp, chưa đoạn được. Phải làm sao? Ở trên kinh dạy chúng ta một phương pháp, đó là nhất tâm chuyên niệm A Mi Đà Phật, quan trọng chính là nhất tâm chuyên niệm. Không được để ý đến tất cả Vọng tưởng, Tạp niệm, Phiền não, khi Phiền não khởi lên ta tùy nó khởi, đó là tập khí, vì ngăn cũng không được, nên tùy Phiền não khởi, ta dùng lực chú ý, chuyển đến câu Phật hiệu, vậy là đúng rồi. Chuyên chú ở câu Phật hiệu, không để ý đến bất cứ Phiền não gì, chúng ta chuyên chú trên Phật hiệu, không cần dùng nhiều thời gian, thì không thấy Phiền não nữa, chỉ có hiện lên Phật hiệu, tốt rồi! Cần dưỡng thành thói quen đó.

 Chúng ta đều có phần trong đại nguyện hi hữu của đức Mi Đà, giống như Vương tử A Xà, nghe rồi liền hoan hỉ. 為彌陀圓證菩提,大願成就而喜;為彌陀證此究竟方便,以持名妙法普度一切而喜 “Vị Mi Đà viên chứng Bồ-đề, đại nguyện thành tựu nhi hỉ; vị Mi Đà chứng thử cứu cánh phương tiện, dĩ trì danh diệu pháp phổ độ nhất thiết nhi hỉ ” (Vì đức Mi Đà viên chứng Bồ-đề, thành tựu đại nguyện nên hoan hỉ; vì đức Mi Đà đã chứng phương tiện cứu cánh này, dùng diệu Pháp trì danh rộng độ tất cả nên hoan hỉ), niềm hoan hỉ đó có đạo lý, phía sau có đưa ra mấy ví dụ, 為我等與當來一切含靈,皆依此法以度生死而喜 “vị ngã đẳng dữ đương lai nhất thiết hàm linh, giai y thử Pháp dĩ độ sanh tử nhi hỉ” (vì chúng ta và tất cả hàm linh trong tương lai, đều dựa vào Pháp này để vượt qua sanh tử nên hoan hỉ), quý vị xem, 並為我等亦可輾轉教導眾生,普令度脫而喜。是故此喜,世所未有,故曰大歡喜 “tịnh vị ngã đẳng diệc khả triển chuyển giáo đạo chúng sanh, phổ linh độ thoát nhi hỉ. Thị cố thử hỉ, thế sở vị hữu, cố viết đại hoan hỉ” (đồng thời vì chúng ta có thể triển chuyển chỉ dẫn chúng sanh, rộng khiến cho độ thoát nên hoan hỉ. Vì thế niềm hoan hỉ này, chưa có ở thế gian, nên nói là đại hoan hỉ). Thật sự là tìm không thấy ở thế gian. Hôm nay, chúng ta đã đọc phần Kinh văn phía trước, thì tâm có sinh khởi điều hoan hỉ đó hay không? Không hề sinh khởi. Nếu không phải là Niệm lão nêu lên đoạn này, thì chúng ta chỉ hiểu qua loa mơ hồ đoạn聞之皆大歡喜 “văn chi giai đại hoan hỉ” (nghe điều đó đều đại hoan hỉ), vì qua loa mơ hồ nên không nói được tường tận và rõ ràng như thế. Quan trọng nhất trong điều hoan hỉ này, là chính ta có phần, không phải không liên quan đến ta. Nếu không liên quan đến ta thì ta hoan hỉ có tác dụng gì? Là quan hệ vô cùng mật thiết với ta. Bởi vì Tịnh Độ mà A Mi Đà Phật đã thị hiện ở Tây Phương, là vì chúng ta mà thị hiện, ngày nay Ngài ở Thế giới Cực Lạc, kim hiện tại thuyết Pháp, là vì chúng ta mà thuyết. Ta cảm ân nên hoan hỉ. Nếu đã như vậy, thì tâm vãng sanh của chúng ta phải khẩn thiết, chẳng những khẩn thiết mà còn cầu sớm ngày vãng sanh, chúng ta mới không có lỗi với A Mi Đà Phật, A Mi Đà Phật luôn nhớ về chúng ta, còn chúng ta thì quên mất Ngài rồi.

Tiếp theo, 持華供佛 “Trì Hoa Cúng Phật” (Cầm Hoa Cúng Phật).

 【各持一金華蓋。俱到佛前作禮。以華蓋上佛已。】 “Các trì nhất kim hoa cái, câu đáo Phật tiền tác lễ, dĩ hoa cái thướng Phật dĩ” (Mỗi người cầm một phan lọng hoa vàng, cùng đến trước Phật làm lễ, dùng phan lọng hoa vàng dâng cúng Phật xong).

 蓋者寶蓋 “Cái giả bảo cái” (Cái là phan lọng báu), làm lễ vật để cúng dường Phật, dâng tặng lọng báu ấy lên đức Phật. 作禮 “Tác lễ” (Làm lễ) là禮拜,禮敬供養,表衷心敬信 “lễ bái, lễ kính cúng dường, biểu trung tâm kính tín” (lễ bái, lễ kính cúng dường, biểu thị lòng kính tin thành thật). Sự thị hiện của đức Phật, là vì chúng ta mà thuyết Pháp, hoàn toàn tin tưởng, không hoài nghi một câu nào. Cho dù ta có nghe hiểu hay không, thì đều không nghi ngờ, dựa vào điều gì? Dựa vào chư Phật Như Lai đã Triệt ngộ rốt ráo, Pháp thân Bồ-tát đã Đại triệt Đại ngộ rồi, Diệu Giác là Triệt ngộ rốt ráo, Triệt ngộ viên mãn. Nếu các Ngài giảng mà ta nghe không hiểu là do nghiệp chướng của ta rất nặng, nên đã ngăn che Tánh nghe của chúng ta, đều là lỗi lầm ở phía chính chúng ta, chứ không phải phía bên đức Phật, phía bên đức Phật không có lỗi lầm, đều là ở chính mình. Cho nên chính mình phải sanh tâm hổ thẹn, phải tiêu trừ nghiệp chướng, làm thế nào để tiêu trừ nghiệp chướng? Một câu Phật hiệu liền có thể tiêu trừ nghiệp chướng, phải tin tưởng điều này. Một câu Phật hiệu có thể tiêu trừ 80 ức kiếp trọng tội sanh tử, quý vị có tin lời nói này hay không? Nửa tin nửa ngờ, tuy không thể không tin, nhưng lại không thể tin hoàn toàn, nguyên nhân là gì? Vì ta làm chưa được. Vì làm chưa được nên không tin tưởng, nếu thật tin rồi, thì nào có đạo lý không niệm Phật? Tại sao lại không niệm Phật? Tại sao thường thường niệm Phật lại thường thương gián đoạn? Vì chúng ta tin không được điều này, cần phải biết. Vậy làm thế nào để khắc phục vấn đề này? Là đọc kinh, không phải bảo quý vị nghe giảng, mà bảo quý vị đọc Kinh. Nghe giảng kinh hữu ích hay không? Khi đọc kinh thông suốt rồi thì nghe giảng sẽ hữu ích, cho dù giảng không được tốt cũng hữu ích, tại vì sao? Vì quý vị đã Kiến tánh. Khi quý vị Kiến tánh rồi, mà phàm phu đang giảng kinh, thì những gì tai của quý vị nghe được, giống như đích thân chư Phật Như Lai giảng kinh. Tại vì sao? Bởi tâm chân thành của quý vị đã chuyển biến rồi, chính người giảng kinh không có cảm nhận được, nhưng quý vị nghe xong thì Đại triệt Đại ngộ. Thật diệu không nói nên lời! Công đức của Tự Tánh không thể nghĩ bàn, đây là đạo lý thuộc về chỗ đó.

 Cho nên, điều quan trọng nhất là gì? Người không tin Phật cần phải nghe [giảng] kinh, nghe nhiều hơn, khi đã nghe rõ ràng, thì người ấy tin tưởng thôi. Người ấy đã tin Phật, thì đọc kinh quan trọng hơn nghe [giảng] kinh, tại vì sao? Vì chú trọng ở tu, tu điều gì? Tu Tam-muội. Phương pháp tu Tam-muội thế nào? Là buông xuống tất cả ô nhiễm trong tâm, buông xuống tất cả phân biệt chấp trước, buông xuống tham sân si mạn, buông xuống thất tình ngũ dục, buông xuống tất cả pháp thế gian và xuất thế gian, những gì có tướng đều là hư vọng, tất cả pháp Hữu vi như mộng huyễn bào ảnh. Vậy cần điều gì? Chỉ một câu Phật hiệu là được rồi, học lão Hòa thượng Hải Hiền, ngài thật tu, thật tin. Cho nên nghe giảng kinh thì không phải là quan trọng nhất nữa, nghe kinh chính là tiếp dẫn bậc sơ cơ, là tuyển sinh, sau khi tuyển sinh gọi đến phải vào học, vào lớp học ở trong phòng học để học, không được lại xem những quảng cáo nữa. Không thể không biết điều này.

 Nghe [giảng] kinh phải nghe đến Khai ngộ, Khai ngộ có ba tầng bậc, chính mình phải rõ ràng. Tầng thứ nhất, đã niệm được tâm thanh tịnh, thì đoạn được Kiến tư Phiền não; Giai đoạn thứ hai, đoạn được Trần sa Phiền não; Giai đoạn thứ ba là phá được Vô thỉ Vô minh. Cho nên, điều đó vô cùng rõ ràng, quý vị có thể cảm thấy được, lúc tâm thanh tịnh hiện tiền, tâm bình đẳng hiện tiền: chính là Bồ-tát. Khi Đại triệt Đại ngộ, Minh tâm Kiến tánh: là đã thành Phật. Có ba tầng bậc. Vãng sanh ở tầng thứ nhất, là tâm thanh tịnh, sẽ sanh Phương Tiện Hữu Dư độ. Tầng thứ hai, tâm bình đẳng hiện tiền, thì sanh ba phẩm trên ở Phương Tiện Hữu Dư độ, Đại triệt Đại ngộ, Minh tâm Kiến tánh, thì sanh Thật Báo Trang Nghiêm độ. Nhất định sẽ vãng sanh, phẩm vị cao. Chúng ta nhất định phải làm rõ ràng, làm sáng tỏ, và nỗ lực niệm Phật, chính là niệm liên tục một câu Phật hiệu, buông xuống tất cả mọi điều khác, ngài Hải Hiền đã làm ra tấm gương tốt nhất.

 故上諸句 “Cố thượng chư cú” (Cho nên các câu ở trên), mấy câu ở trên kinh văn, 表至心信樂 “biểu chí tâm tín nhạo” (biểu thị chí tâm tin ưa). Nghe giảng hoan hỉ, chí tâm là Chân tâm, tâm chân thành, đều tin sâu không nghi từng câu từng chữ trên Kinh, đều hoan hỉ tiếp nhận chính là ưa thích.

 Mời xem phần kinh văn tiếp theo, 皆願如佛 “Giai Nguyện Như Phật” (Đều Nguyện Giống Như Phật), phát nguyện như vậy.

 【卻坐一面聽經。】 “Khước tọa nhất diện thính Kinh” (Lui về ngồi nghe Kinh ở một bên).

 Khi Phật đang giảng Kinh, họ ngồi một bên để nghe Kinh.

 【心中願言。令我等作佛時。皆如阿彌陀佛。】 Tâm trung nguyện ngôn: Linh ngã đẳng tác Phật thời, giai như A Mi Đà Phật (Trong tâm nguyện rằng: Mong khi chúng con thành Phật thì đều như A Mi Đà Phật).

 Phải nhớ cho kỹ chỗ này, trong tâm có nguyện này, động ý niệm ấy, nhưng chưa nói ra. Chúng ta hãy xem Chú Giải của Niệm lão. 卻坐聽經以下,表希求佛智,聞法無厭足也 “Khước tọa thính Kinh dĩ hạ, biểu hi cầu Phật trí, văn pháp vô yểm túc dã” ([Từ] lui về chỗ ngồi nghe giảng Kinh trở xuống, biểu thị hi vọng cầu trí của Phật, là nghe pháp không chán không đủ). Nghe pháp vĩnh viễn không chán, cũng vĩnh viễn không đủ, nói cách khác, là nghe mãi mà không chán. Điều này là không thể nghĩ bàn, rất khó có được. Hôm nay chúng ta xem khi vào lớp, lúc giảng kinh dạy học, thính chúng ngồi ở đó không thể chuyên chú, thấp thỏm nôn nóng, sau khi nghe được mấy phút thì rời xa rồi, có rời xa một lúc hồi đầu quay lại, nhưng có lúc rời xa rồi thì họ không còn quay lại nữa. Rất nhiều, mỗi lớp học đều có, chứ không chỉ có một. Đây là gì? Là phiền não tập khí quá nặng, vừa mới sơ học, còn chưa nhập môn. Nếu là thiện căn sâu dày, mặc dù ngồi không có gì vui thích, nghe cũng không hiểu, nhưng họ vẫn thường xuyên đến, đến vì điều gì? Để huân tập, tuy chầm chậm nhưng lần sau tiến bộ hơn lần trước, năm sau tiến bộ hơn năm trước, là hiện tượng tốt, khi nghe nhiều rồi, thì từ từ liền nghe hiểu được.

 Khi tiếp dẫn bậc sơ cơ vẫn phải dựa vào giảng kinh, nếu chân chánh tu hành thì nhất định phải đọc kinh, chư vị cần nghe rõ lời này, nếu chân thật tu hành, chân thật thành tựu thì phải đọc kinh. Quý vị đã nghe hiểu phần giảng kinh, cũng đã tin tưởng, đã nguyện sanh Tịnh Độ, thì không cần nghe lại, đọc kinh là quan trọng, đọc kinh để làm gì? Để tu định, tu Niệm Phật Tam-muội, định này có ba tầng thứ, là công phu. Tầng thứ nhất là Tiểu định, tâm thanh tịnh hiện tiền. Tầng định thứ hai là Đại định, tâm bình đẳng hiện tiền. Đều được gọi là Niệm Phật Tam-muội. Tầng sau cùng là Giác, trên đề Kinh có viết: Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác, Giác là Đại triệt Đại ngộ, Minh tâm Kiến tánh, điều đó quan trọng, đó chính là Lý nhất tâm Bất loạn. Đại ngộ là Sự nhất tâm Bất loạn, còn Triệt ngộ là Lý nhất tâm Bất loạn, đắc định là Công phu Thành phiến, thì chắc chắn vãng sanh. Hơn nữa sẽ vãng sanh phẩm vị cao, cho dù là Phàm Thánh Đồng Cư độ thì cũng là vãng sanh ba phẩm trên.

 Nguyện của họ lớn, 令我等作佛時,皆如阿彌陀佛 “linh ngã đẳng tác Phật thời, giai như A Mi Đà Phật” (mong khi chúng con thành Phật, đều giống như A Mi Đà Phật). Ở trên Chú Giải có nói, 見賢思齊 “kiến hiền tư tề” (thấy bậc hiền mong được bằng), gặp được A Mi Đà Phật, hi vọng tương lai mình thành tựu cũng giống như A Mi Đà Phật. 願我之大願、大行、大慈、大悲、大智、大力,如是一切,皆能如阿彌陀佛。“Nguyện ngã chi đại nguyện, đại hạnh, đại từ, đại bi, đại trí, đại lực, như thị nhất thiết, giai năng như A Mi Đà Phật” (Nguyện cho đại nguyện, đại hạnh, đại từ, đại bi, đại trí, đại lực, của con, tất cả điều ấy, đều có thể như A Mi Đà Phật). A Mi Đà Phật là tấm gương của chúng ta, chúng ta phải toàn tâm toàn lực học tập theo Ngài, những nguyện hạnh, từ bi, trí lực của Ngài, ở chỗ nào? Đều ở trong bộ Kinh này. Quý vị hãy đọc từ từ, đọc được trên ngàn lần, thì sáng tỏ, sẽ có vô lượng hoan hỉ; niệm lại tiếp một ngàn lần, lại càng thâm nhập, càng sâu thêm một tầng. Sau khi đọc được ba ngàn lần rồi, thì pháp hỉ sung mãn, số lần càng nhiều thì quý vị càng hoan hỉ, không có bờ mé. Ý nghĩa trong kinh của bộ Kinh này, là ý nghĩa sâu không có đáy, rộng không có bờ. Đọc một vạn lần thì thế nào? Một vạn lần không tệ, rất tốt, khi vượt qua chín ngàn lần, tuy không bằng 12 ngàn lần, nhưng chân thật có đạo vị.

 Khi niệm thông bộ Kinh này, niệm đến Đại triệt Đại ngộ, không chỉ tất cả kinh mà đức Thích Ca Như Lai giảng trong 49 năm, mà nói với quý vị, khắp Pháp giới Hư không giới, gồm có A Mi Đà Phật, quý vị hoàn toàn thông được tất cả kinh mà các Ngài giảng. Bất kể đem bộ kinh nào đến, quý vị vừa xem liền hoàn toàn hiểu rõ. Tại vì sao? Bởi vì Tự Tánh vốn như vậy, Tự Tánh vốn sâu không có đáy, rộng không có bờ. Trí huệ vốn đủ của Tự Tánh cũng như vậy, Đức năng, Tướng hảo vốn đủ của Tự Tánh cũng như vậy. Sau đó quý vị mới hiểu được, mục tiêu cuối cùng của học Phật ở chỗ nào? Là ở Khai ngộ, là Đại triệt Đại ngộ, Minh tâm Kiến tánh. Không làm danh văn lợi dưỡng của thế gian, không tranh những danh lợi đó ở thế gian, đó hoàn toàn là giả, không có điều nào là thật, thì quý vị cần để làm gì?

Truyền nhân của Tổ sư Đại đức, Tổ sư Đại đức có ý niệm đó hay không? Không hề có. Đại sư Huệ Viễn không hề nghĩ mình làm Sơ tổ, Sơ tổ là người đời sau tôn trọng ngài nên gọi, chính ngài không có ý niệm: ta đến làm Sơ tổ, [nếu] còn có tâm là Sơ tổ, là chưa buông xuống danh lợi. Bây giờ thì tốt rồi, 8 tông phái của Phật giáo Trung Hoa đều không có truyền nhân, cho nên quý vị truyền tông phái nào, thì sẽ là Tổ sư phục hưng của tông phái đó. Không còn Hoa Nghiêm tông nữa, bây giờ quý vị cả đời truyền Hoa Nghiêm thì tương lai Hoa Nghiêm tông nhất định khẳng định quý vị, quý vị là Tổ sư phục hưng của Hoa Nghiêm tông. Không còn Thiên Thai tông nữa, cũng không còn Pháp Tướng tông, không còn Tam Luận tông, cũng không còn Luật tông nữa. Tịnh Độ tông thì vẫn còn, quý vị phải hiểu rõ đây là pháp thế gian, không phải pháp xuất thế gian, nếu quý vị để trong tâm những điều này thì hỏng rồi, chẳng những không làm được Tổ sư, mà chỉ sợ không thể vãng sanh đến Thế giới Cực Lạc, quý vị xem tổn thất của quý vị bao lớn. Không thể có ý niệm như vậy, đều không chấp trước tất cả pháp thế gian và xuất thế gian. Trong Kinh Kim Cang nói rất hay, 法尚應捨,何況非法 “pháp thượng ưng xả, hà huống phi pháp” (pháp còn nên xả, huống gì không phải pháp), phong hiệu của Tổ sư Đại đức là không phải pháp, ở trong kinh đức Phật không hề nói. Đây là do người thế gian chúng ta dựa vào sự cung kính và lòng yêu mến của thế tục, mà tôn trọng các ngài là Tổ sư đời thứ 14, là Tổ sư đời thứ 15, ý nghĩa chính là như vậy. Chính các ngài không hề nghĩ đến.

 Trong Tịnh tông, Sơ tổ Đại sư Huệ Viễn, là Tổ sư mở đường, người xưa nói người kế thừa nên là ngài Đàm Loan, sau ngài Đàm Loan là ngài Đạo Xước, sau ngài Đạo Xước là ngài Thiện Đạo, đây là người xưa nói. Ngài Dương Nhân Sơn sửa lại ở trong 佛教三字經 “Phật Giáo Tam Tự Kinh”, vẫn còn lưu giữ cách nói này. Cho nên lão Cư sĩ Hạ Liên Cư, lão Cư sĩ Hoàng Niệm Tổ đều nói: nên bổ sung hai vị Đại sư ấy vào. Chúng ta đã để sót các ngài rồi, bởi vì vào lúc bấy giờ trước tác của các ngài không có lưu thông ở Trung Hoa, mà bị du học sinh Nhật Bản, họ đã mang đi rồi, bây giờ phát hiện ở Nhật Bản, và truyền trở lại. Dựa vào những trước tác đó, các ngài thật đáng được người tôn kính, chúng ta nên khẳng định các ngài, là một vị Tổ sư, vì nguyện hạnh, từ bi và trí lực của các ngài, [là] nối tiếp truyền thừa đức Bổn sư A Mi Đà Phật.

 住真實慧,攝淨佛國,普利有情。是即真發菩提心也。“Trụ chân thật huệ, nhiếp tịnh Phật quốc, phổ lợi hữu tình. Thị tức chân phát Bồ-đề tâm dã” (Trụ ở trí huệ chân thật, thu nhiếp cõi Phật thanh tịnh, rộng làm lợi ích chúng hữu tình. Chính là chân thật phát tâm Bồ-đề). Đọc sách ngàn biến, tự hiểu nghĩa kia. Tự hiểu nghĩa kia là trụ ở trí huệ chân thật, trí huệ chân thật không phải do học mà được, mà vốn có ở trong Tự Tánh, tâm thanh tịnh đến trình độ nhất định, thì liền phóng quang, liền thông suốt ra được. Cho nên quý vị đọc kinh, ý nghĩa gì cũng tự nhiên sáng tỏ thôi, mà không cần cầu người khác giúp đỡ, tự nhiên cảm thông. Tâm thanh tịnh có thể cảm được: Phật Bồ-tát gia trì, chính là đạo lý như vậy. Cần nhớ kỹthu nhiếp cõi nước Phật thanh tịnh, rộng làm lợi ích chúng hữu tình, việc lý tưởng nhất chính là kiến lập một Thế giới Cực Lạc ở trên địa cầu. Tìm một thành phố nhỏ, một thôn trấn, lớn giống như thôn Mi Đà, là thôn tiểu Mi Đà bây giờ của chúng ta. Có một thành phố, đem những điều được nói trong Kinh Vô Lượng Thọ, chúng ta thực hiện ở trong thành phố nhỏ ấy, mô hình của Thế giới Cực Lạc kiểu nhỏ, tốt rồi! Điều đó có thể làm được, chứ không phải là làm không được. Trước đây, chúng ta đã từng nghĩ qua, hi vọng mỗi tôn giáo trên thế giới đều có một điểm mô phạm. Tôi nhớ lúc thăm quan ở Vantican, cùng với đức Giáo mục Tao Ran, đức Giáo mục Tao Ran là Chủ quản ngoại giao của Vatican, giống như Bộ trưởng Ngoại giao. Khi chúng tôi đến thăm quan, lúc ngài tiếp đón chúng tôi, thì chúng tôi đã đưa ra kiến nghị này. Đây là chân chánh phát tâm Bồ-đề, ý nghĩa của Bồ-đề là giác ngộ, chân thật đã giác ngộ, nếu đã chân thật giác ngộ thì phải học A Mi Đà Phật, học A Mi Đà Phật là đã chân chánh giác ngộ. 故我等聞經之人皆應如是 “Cố ngã đẳng văn kinh chi nhân giai ưng như thị” (Cho nên những người nghe kinh như chúng ta đều nên như vậy), Vương tử A Xà dẫn đầu, thì chúng ta cần phải theo sát, khi thấy các ngài cảm động phát tâm, thì chúng ta cũng nên cảm động phát tâm. Nên những người nghe kinh như chúng ta đều nên như vậy, 信樂禮敬,發無上心 “tín nhạo lễ kính, phát Vô thượng tâm” (tin ưa lễ kính, phát tâm Vô thượng), không thể để rơi lại phía sau các ngài.

 Chúng ta xem phần Kinh văn tiếp theo, 佛為授記 “Phật Vị Thọ Ký” (Đức Phật Thọ Ký Cho), đoạn thứ nhất, 授記作佛 “Thọ Ký Tác Phật” (Thọ Ký Thành Phật).

 【佛即知之。】 “Phật tức tri chi” (Đức Phật liền biết điều ấy).

 Những điều Ngài giảng ở phía trên, đều là họ đang động ý nghĩ, chưa hề nói ra, khi Vương tử A Xà cúng Phật lễ bái, thì trong tâm đã có nguyện, chưa hề nói ra, tuy chưa nói ra nhưng đức Phật hoàn toàn biết. Cho nên 『佛即知之』“Phật tức tri chi” (đức Phật liền biết điều ấy), 如來悉知悉見 “Như Lai tất tri tất kiến” (đức Như Lai đều biết đều thấy), chúng ta cần nhớ kỹ câu nói này. Ngày nay chúng ta ở trên thế giới này, khi Khởi tâm Động niệm, Ngôn ngữ Tạo tác thì đức Như Lai đều biết đều thấy. Ngoài đức Như Lai đều biết đều thấy ra, nói với chư vị, thì còn có một số Quỷ thần, Thiên thần: cũng đều biết đều thấy. Cho nên, tâm phải thiện, ngôn ngữ phải thiện, hạnh phải thiện, A Mi Đà Phật, chư Phật Bồ-tát nhìn thấy đều hoan hỉ. Chúng ta phải chân thật học tập. Chúng ta phải thật sự cầu sanh Thế giới Cực Lạc, nếu thật cầu sanh thì phải thật buông xuống nơi này, nếu không buông xuống thì không đi được, nên phải thật buông xuống.

【告諸比丘。是王子等。後當作佛。】 Cáo chư Tỳ-kheo: Thị vương tử đẳng, hậu đương tác Phật (Nói với các vị Tỳ-kheo, nhóm Vương tử và các vị ấy, sau sẽ thành Phật).

 A Mi Đà Phật đã thọ ký cho họ. Phần sau, Niệm lão dẫn kinh văn trong觀經Quán Kinh,để làm chứng cho chúng ta, 諸佛如來是法界身,入一切眾生心想中 chư Phật Như Lai thị Pháp giới thân, nhập nhất thiết chúng sanh tâm tưởng trung (chư Phật Như Lai là Thân pháp giới, nhập vào trong tâm tưởng của tất cả chúng sanh). Tất cả chúng sanh là bao gồm quý vị và tôi ở trong đó, khi chúng ta Khởi tâm Động niệm thì Phật Bồ-tát đều biết. Tiếp theo là lời của Niệm lão, 是以人心與佛心,無毫釐許間隔,故感應道交,不可思議。大眾發心,佛即知之 thị dĩ nhân tâm dữ Phật tâm, vô hào li hử gián cách, cố cảm ứng đạo giao, bất khả tư nghì. Đại chúng phát tâm, Phật tức tri chi (vì vậy tâm người cùng tâm Phật, không mảy may gì có thể ngăn cách, cho nên cảm ứng đạo giao, không thể nghĩ bàn. Đại chúng phát tâm, đức Phật liền biết điều ấy). Không những đức Phật biết điều ấy, mà còn liền làm chứng minh cho họ, 是王子等 thị Vương tử đẳng (nhóm Vương tử và các vị ấy), nhóm các vị Vương tử A Xà, 後當作佛 hậu đương tác Phật (sau sẽ thành Phật), đó là Phật thọ ký cho họ. Đương nhiên họ sẽ làm Phật, tại vì sao? Vì tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, tất cả chúng sanh vốn dĩ là Phật, nên nào có đạo lý sau này không làm Phật? Thành Phật sớm hay muộn, không cần hỏi người khác, hãy hỏi chính mình. Tôi muốn thành Phật sớm một chút, vậy thì tôi phải buông xuống vạn duyên, nhất tâm chuyên niệm A Mi Đà Phật. Đời này của tôi sẽ làm Phật thôi, vãng sanh Thế giới Cực Lạc thì làm Phật, Phật bảo đảm quý vị ở Thế giới Cực Lạc thì một đời thành Phật. Cho nên, hai câu nói trong Kinh, 是王子等,後當作佛 “thị Vương tử đẳng, hậu đương tác Phật” (Vương tử và các vị ấy, sau sẽ thành Phật), đó là Phật thọ ký cho họ, 表願力不可思議 “biểu nguyện lực bất khả tư nghì” (tỏ rõ nguyện lực không thể nghĩ bàn), nguyện lực đó là nguyện lực của những người ấy, nhóm Vương tử A Xà. Chúng ta phát nguyện vãng sanh, vậy tức là nguyện lực của chính chúng ta, nguyện lực của chúng ta không khác với nguyện lực của Vương tử A Xà. Đức Phật biết họ, vì họ mà thọ ký, đức Phật cũng biết chúng ta, cũng vì chúng ta mà thọ ký.

 普賢以十大願王,導歸極樂;彌陀以四十八願接引眾生。一切皆賴信願行為資糧而登彼岸。是故省庵師云:修行急務,立願居先。 Phổ Hiền dĩ Thập đại Nguyện vương, đạo quy Cực Lạc; Mi Đà dĩ tứ thập bát nguyện tiếp dẫn chúng sanh. Nhất thiết giai lại Tín Nguyện Hạnh vi tư lương nhi đăng bỉ ngạn. Thị cố Tĩnh Am sư vân: tu hành cấp vụ, lập nguyện cư tiên (Ngài Phổ Hiền dùng Mười đại Nguyện vương, dẫn về Cực Lạc; đức Mi Đà dùng 48 Đại nguyện tiếp dẫn chúng sanh. Tất cả đều nhờ Tín Nguyện Hạnh làm tư lương mà lên bờ kia. Vì thế Đại sư Tĩnh Am nói rằng: việc cấp bách của tu hành, thì lập nguyện là đứng đầu). Hai câu nói này rất quan trọng. Việc cấp bách nhất của tu hành là gì? Là phát nguyện, chính là nguyện sanh Tịnh Độ, điều này quan trọng hơn bất cứ điều gì. Mọi lúc, đều nghĩ nguyện sanh Tịnh Độ, nếu không thể mọi lúc thì tối thiểu là sáng tối, khóa sáng tối chính là vì chuyện này. Sáng sớm để nhắc nhở chính mình, nguyện này không thể quên mất, buổi tối phản tỉnh, nguyện này của mình: đã thực hiện trong ngày nay chưa. Người thật sự phát tâm, thì ngày càng phai nhạt với Thế giới Ta Bà, và mỗi ngày càng thêm sâu đậm với việc vãng sanh Thế giới Cực Lạc. Phải nên đối đãi như vậy với tất cả chúng sanh, nhất định giống như ngài Hải Hiền, giống như mẹ của ngài Hải Hiền, làm ra một tấm gương tốt niệm Phật vãng sanh Thế giới Cực Lạc: cho một số người quen thuộc trong đại chúng xã hội. Khởi tâm Động niệm đều vì lợi ích chúng sanh, vì lợi ích đại chúng xã hội, giúp mọi người nâng cao tín nguyện, giúp đỡ mọi người nhắc nhở niệm Phật, niệm Phật là quan trọng, đều quan trọng hơn bất cứ điều gì. Niệm lão ở đây có giảng, tất cả đều dựa vào Tín, Nguyện, Hạnh. Hạnh chính là niệm Phật, là nhất hướng chuyện niệm A Mi Đà Phật, trên Kinh có dạy bảo chúng ta, mà lên bờ kia. Cần nhớ kỹ hai câu nói của Đại sư Tĩnh Am, nguyện phải khẩn thiết, ta không thể không đi, đời sau chỗ nào cũng đều không đi, chỉ là phải đến Thế giới Cực Lạc.

Đoạn tiếp theo là nói rõ duyên phận, và duyên sâu của hai bên. Mời quý vị xem kinh văn:

 【彼於前世住菩薩道。無數劫來。供養四百億佛。迦葉佛時。彼等為我弟子。今供養我。復相值也。】 “Bỉ ư tiền thế trụ Bồ-tát đạo, vô số kiếp lai, cúng dường tứ bá ức Phật. Ca Diếp Phật thời, bỉ đẳng vi Ngã Đệ tử. Kim cúng dường ngã, phục tương trị dã” (Họ trong đời trước trụ Bồ-tát đạo, vô số kiếp đến nay, đã cúng dường 400 ức Phật. Thời đức Phật Ca Diếp, họ là Đệ tử của Ta, nay cúng dường Ta, lại gặp lại nhau).

Đây là đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni Phật nói rõ nhân duyên trong quá khứ cho chúng ta, trong quá khứ, đời trước Vương tử A Xà cũng là người tu hành, 住菩薩道,無數劫來 “trụ Bồ-tát đạo, vô số kiếp lai” (trụ Bồ-tát đạo, vô số kiếp đến nay), thời gian rất lâu rồi, đã từng供養四百億佛 “cúng dường tứ bá ức Phật” (cúng dường bốn trăm ức Phật). Cho nên mới có thiện căn sâu dày như vậy, nghe nói đức Phật giảng kinh có thể cảm động được như vậy, và phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ, đều hoàn toàn giống với điều được nói trên kinh Đại thừa. Đức Phật nói với chúng ta, mỗi người vãng sanh Tịnh Độ: đều không phải là ngẫu nhiên, mà đều là trong quá khứ vô số kiếp đến nay, đã cúng dường rất nhiều chư Phật Như Lai. Đời này chúng ta gặp được Pháp môn này, lại thêm nhận được sự gia trì: của các chư Phật từng cúng dường trong quá khứ, thì chúng ta mới có thể sanh khởi niềm tin, mới có thể phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ. Nếu quá khứ chưa từng có thiện căn sâu dày như vậy, thì không thể sanh khởi tín nguyện, chúng ta chỉ cần lưu ý một chút sẽ thấy rất rõ ràng, rất sáng tỏ.

Chúng ta học Phật nhiều năm như vậy, đến bây giờ tôi nghe pháp được 64 năm rồi, tôi 33 tuổi xuất gia, khi tôi xuất gia liền giảng kinh, dạy ở viện Phật học, những việc khác đều không có làm qua, đến năm nay là 57 năm, chưa gián đoạn. Vì cả đời không có đạo tràng, cho nên cũng không có thường trụ, may mắn nhận được sự giúp đỡ của đồng tu, đã thành lập một kênh truyền hình vệ tinh, thành lập một đường truyền mạng, dùng cách thức này, thì mọi người chúng ta học tập cùng nhau, mặc dù không phải là mặt đối mặt, nhưng không có khác biệt gì so với mặt đối mặt. Phương pháp này tốt, hoàn toàn theo kịp thời đại, thời đại ngày nay tôn sùng khoa học kỹ thuật, nên chúng ta dùng sản phẩm khoa học kỹ thuật: để làm công việc hoằng hộ Chánh pháp. Nhiều người nghe kinh như vậy, nếu không có thiện căn phước đức nhân duyên trong đời quá khứ, thì quý vị không gặp được cơ hội này, chỉ cần là gặp được, thì cho dù trong đời chỉ nghe một lần, đều là duyên phận. Đời vị lai sẽ nghe được hai lần, ba lần, mười lần, tám lần, đời đời kiếp kiếp sẽ nâng cao, sẽ tăng trưởng. Đến một ngày nào đó chúng ta cũng sẽ như vậy, giống với Vương tử A Xà, có thiện căn sâu dày như vậy, liền nhận được sự gia trì của vô lượng vô số chư Phật Như Lai, nên có thể tin có thể nguyện, một đời viên mãn thành tựu.

 Cho nên cúng dường 400 ức Phật, vào thời đức Phật Ca Diếp, khoảng thời gian đó, nhóm Vương tử A Xà – mười mấy người đó: đều là học trò của đức Thế Tôn, trong đời này lại gặp được, họ đến cúng dường Ta, cung kính cúng dường, lại gặp được rồi, 表善根與因緣之不可少也 “biểu thiện căn dữ nhân duyên chi bất khả thiểu dã” (tỏ rõ không thể ít thiện căn và nhân duyên). Hiểu rõ đạo lý này, thì chúng ta liền hiểu được, phải kết pháp duyên và kết thiện duyên: với tất cả chúng sanh. Thiện nhất trong thiện duyên chính là pháp duyên. Thiện nhất trong pháp duyên: là pháp duyên này của A Mi Đà Phật. Chúng ta giới thiệu rộng rãi A Mi Đà Phật cho đại chúng. Phiên dịch thành văn tự của nước ngoài, giới thiệu cho đồng tu có duyên ở nước ngoài, đó là rộng độ chúng sanh, không có giới hạn. Hi vọng ngay trong đời này mọi người đều biết được Thế giới Cực Lạc, biết được A Mi Đà Phật. Đều có thể hiểu rõ ràng 48 nguyện rộng độ đại chúng, chỉ cần chúng ta tín nguyện trì danh, thì không có ai là không được độ, không có ai là không vãng sanh.

 Vậy duyên không đủ thì sao? Không đủ thì có thể bổ sung. Cách bổ sung thế nào? Quý vị thấy ngài Hải Hiền, 92 năm, chưa từng quên mất câu Phật hiệu này, [là] hoàn toàn bổ sung đủ rồi, đã bổ sung đến rất viên mãn. Quý vị xem ngài vãng sanh vô cùng tự tại, biết trước thời gian, tự tại vãng sanh, ngài không cần trợ niệm, chính mình niệm Phật vãng sanh. Có không ít người muốn trợ niệm cho ngài, ngài đều từ chối tất cả, nói với mọi người một câu, trợ niệm không chắc chắn, không đáng tin cậy, chính tôi niệm Phật vãng sanh mới đáng tin. Ngài là biểu pháp cho chúng ta, chúng ta phải hiểu được: thực sự nắm chắc, nắm chắc có được từ đâu? Là từ niệm một câu Phật hiệu liên tục không gián đoạn, không hoài nghi, không xen tạp, không gián đoạn. Niệm được lâu rồi mới thành công. Chúng ta xem trong Tịnh Độ Thánh Hiền Lục, xem trong Vãng Sanh Truyện, đều là khoảng 3 năm thì đã thành công, không cần quá lâu, 3 năm là có thể bổ sung đủ. 3 năm là 1.000 ngày, 1.000 ngày đó niệm Phật có thể bổ sung đủ, chúng ta trong đời quá khứ, những điều kiện niệm Phật này chưa đủ, thì 3 năm có thể bù đủ. Nếu dũng mãnh tinh tấn, thì 3 tháng có thể bù đủ. bb

Trong Vãng Sanh Truyện có ghi lại, ngài Pháp sư Oánh Kha vào triều Tống, 3 ngày 3 đêm ngài đã bổ sung đủ. Ngài là người xuất gia, không tuân thủ thanh quy, phá giới, là người xuất gia không ác nào mà không làm, nếu ngài không vãng sanh thì nhất định đọa Địa ngục. Ngài nghĩ đến nỗi khổ của Địa ngục, nên dốc sức niệm Phật, ba ngày ba đêm không ăn, cũng không ngủ, chỉ dốc sức niệm Phật, thật sự là đã niệm được A Mi Đà Phật đến. Đức Phật rất từ bi, bảo với ngài rằng, con vẫn còn 10 năm thọ mạng, 10 năm sau, khi thọ mạng của con hết rồi Ta sẽ đến tiếp dẫn con. Ngài Oánh Kha đột nhiên sáng suốt, thỉnh cầu A Mi Đà Phật, con không cần 10 năm thọ mạng nữa, bây giờ con vãng sanh theo Ngài. Sau sự khẩn cầu của ngài, đức Phật rất từ bi, đã đồng ý, bèn nói với ngài: được rồi, ba ngày sau Ta đến tiếp dẫn con. Ngài Oánh Kha rất vui, đây là chính miệng đức Phật đồng ý ba ngày sau đến tiếp dẫn. Ngài mở cửa phòng của mình ra, và nói với đại chúng: tôi niệm thấy A Mi Đà Phật rồi, đức Phật bảo với tôi, ba ngày sau sẽ đến tiếp dẫn tôi vãng sanh. Đại chúng không tin, thầy phá giới như vậy, là người xuất gia không ác nào mà không làm, thầy đáng đọa Địa ngục, làm sao thầy có thể vãng sanh? Quý vị xem, ba ngày ba đêm thì ngài đã hóa giải được ác nghiệp đọa Địa ngục, ngài đã sám hối và sám trừ được rồi. Ngài dũng mãnh tinh tấn, sau ba ngày ba đêm, thì công đức giống như niệm Phật ba năm của người thông thường.

 Người xưa vì chúng ta mà làm ra thị hiện, đã vì chúng ta làm ra tấm gương, mục đích đó là gì? Là giúp chúng ta tăng trưởng niềm tin. 信為道元功德母 Tín vi đạo nguyên công đức mẫu (Tin là nguồn của đạo là mẹ của công đức). Nếu quý vị không tin thì không còn cách nào nữa. Ở trên kinh đã giảng cho chúng ta, càng thù thắng so với điều này, lúc mạng sắp hết, hơi thở đó vẫn chưa dứt, vẫn còn, nếu cả đời đã tạo ác nghiệp, thì lúc đó phải thật sự có thể tin tưởng có Thế giới Cực Lạc, có A Mi Đà Phật, niệm một câu A Mi Đà Phật, mười câu A Mi Đà Phật, đều có thể vãng sanh. Có bằng chứng có căn cứ, là ở nguyện thứ 18 trong 48 nguyện của bộ Kinh này, mười niệm chắc chắn vãng sanh. Có tấm gương, cha của Tổng giám đốc Tạ ở Triều Châu, đã làm ra một tấm gương cho chúng ta thấy, cha của ông không tin Phật, nhưng con trai học Phật thì ông cũng không cấm, mỗi người làm việc của mỗi người. Ông không có niệm Phật, thật sự là lúc lâm chung, cách lúc dừng thở chưa đến hai giờ, con trai ông hiếu thuận, cuối cùng khuyên cha: ở phương Tây có Thế giới Cực Lạc, cha có tin không? Người cha gật đầu. Trước đó là lắc đầu, nhưng bấy giờ thì gật đầu. Thế giới Cực Lạc có A Mi Đà Phật, cha có tin không? Ông gật đầu. Ông nói, con niệm A Mi Đà Phật, cha niệm theo con, phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ có được không? Người cha gật đầu. Ông liền dẫn cha ông niệm Phật, niệm chưa đến hai giờ thì đã trút hơi thở, thật đã vãng sanh. Ngày đó lúc đưa tiễn biệt cha của ông có hơn một ngàn người, đã có rất nhiều người nhìn thấy Phật quang, và nhìn thấy hoa sen, nhìn thấy cha ông vãng sanh.

 Mỗi câu mỗi chữ trong bộ Kinh điển này đều là lời thật, không có chữ nào là giả, không có câu nói nào là lừa người, toàn bộ đều là chân tướng sự thật. Mỗi ngày chúng ta đọc cần phải chú ý, như những chỗ khai thị này cho chúng ta, thật sự là mỗi biến cảm nhận khác nhau. Biến số càng nhiều càng tốt, đọc đến lúc nào có trình độ nhất định, thì khởi lên tương ưng với Tánh đức của chính mình. Lúc này ở trong tâm chỉ sanh Trí huệ không sanh vọng tưởng, cũng không sanh phiền não nữa. Cho nên, không thể ít thiện căn, phước đức, nhân duyên, nếu chúng ta tu không đủ thì có thể bổ sung, bù lại. Chúng ta xem thấy ba năm thì bổ sung đủ, một năm bổ sung đủ, ba tháng bổ sung đủ, còn chứng kiến ngài Oánh Kha ba ngày thì bổ sung đủ rồi. Hoàn toàn xem sự chân thành, dũng mãnh, tinh tấn của chúng ta. Làm thế nào nắm chắc được cơ hội của đời này, nhất định không thể buông lỏng, nhất định phải biết thế giới này hoàn toàn là giả, Lục đạo luân hồi là giả, Mười pháp giới cũng là giả, không cần suy nghĩ những việc lung tung. Nhất tâm nghĩ Thế giới Cực Lạc, nghĩ A Mi Đà Phật, nghĩ đơn giản nhất là một câu Phật hiệu, niệm niệm không rời câu Phật hiệu này, thì tốt rồi!

Tiếp theo dẫn福慧始聞品 Phước Huệ Thỉ Văn phẩm (phẩm Phước Huệ Mới Được Nghe) của Kinh này, trong đó nói: 若不往昔修福慧,於此正法不能聞。已曾供養諸如來,則能歡喜信此事。 “Nhược bất vãng tích tu phước huệ, ư thử Chánh pháp bất năng văn. Dĩ tằng cúng dường chư Như Lai, tắc năng hoan hỉ tín thử sự” (Nếu trước chưa từng tu phước huệ, thì Chánh pháp này không thể nghe. Đã từng cúng dường chư Như Lai, mới thể hoan hỉ tin việc này). Ngày nay, những người như chúng ta có thể gặp được bộ Kinh này, 復能信受,則決非小緣。蓋由於過去生中,非於一佛二佛而種善根,實於無量佛所,種諸善根 “phục năng tín thọ, tắc quyết phi tiểu duyên. Cái do ư quá khứ sanh trung, phi ư nhất Phật nhị Phật nhi chủng thiện căn, thật ư vô lượng Phật sở, chủng chư thiện căn” (lại có thể tin nhận, thì nhất định không phải là duyên nhỏ. Đại khái do ở trong đời quá khứ, chẳng phải ở nơi một hai vị Phật mà trồng thiện căn, thật sự đã ở nơi vô lượng đức Phật, mà trồng các căn lành). Chúng ta phải tin tưởng điều này, không thể không tin, đây là lời chân thật. Cần phải tin tưởng duyên của chính chúng ta với A Mi Đà Phật rất sâu, chỉ là chúng ta ở ngay trong đời này đã bị danh lợi dụ hoặc, càng mê thì càng sâu, quay đầu không được. Khi nào thì sẽ giác ngộ? Là sau khi chúng ta dứt hơi thở, là thân Trung ấm, nhìn thấy chân tướng sự thật, mới bỗng nhiên tỉnh ngộ, nhưng hối hận đã không còn kịp nữa. Vì sao sẽ đọa ba đường ác? Vì tội đã kết với những người nào? Vì đã kết tội cùng Tam Bảo, đã kết tội với chúng sanh, tại vì sao? Vì quý vị chướng ngại Phật pháp, quý vị phá hoại Phật pháp, quý vị đoạn Pháp thân Huệ mạng của tất cả chúng sanh, khiến cho duyên nghe pháp của rất nhiều chúng sanh: đã bị quý vị đoạn mất, kết tội từ trong đó.

 Chúng ta đã học Phật nhiều năm như vậy, từ sơ phát tâm, thầy đã luôn luôn dạy bảo căn dặn, đặc biệt là Đại sư Chương Gia và thầy Lý, thầy Phương, ngài không phải là người xuất gia, mặc dù ngài học Phật, nhưng dù sao ngài cũng là một học giả. Tôi hưng khởi niềm tin với Phật pháp là từ chỗ ngài mà thành lập, nếu không phải ngài, thì cả đời chúng tôi có thể cũng không có duyên phận với tôn giáo, đây là đắc lực dưới sự dạy dỗ của ngài. Ngài đã mở ra cho tôi một môn học, đó là Triết Học Kinh Phật. Tôi là từ Triết Học Kinh Phật mà tiến vào cửa Phật. Thế nhưng Đại sư Chương Gia và thầy Lý, Đại sư Chương Gia đã cắm rễ cho tôi ba năm, ngài nói với tôi, Đệ tử nhà Phật, mọi lúc phải luôn luôn giữ niệm thiện, không thể có niệm ác, nhất định phải bỏ đi tập khí ác, phải buông tập khí đó xuống. Cả đời phải thật sự làm được, không tranh với người, không cầu với đời, cả đời không đối lập với người, đây là Biên kiến: trong năm loại Kiến hoặc của Phật pháp, Biên kiến chính là đối lập. Tại sao không thể đối lập? Bởi vì tất cả Pháp là một thể với chính mình. Mọi người đều biết ở trong壇經 “Đàn Kinh”, câu cuối cùng mà Đại sư Huệ Năng nói khi khai ngộ là gì không? Là 何期自性,能生萬法 “hà kỳ Tự Tánh, năng sanh vạn pháp” (nào ngờ Tự Tánh, có thể sanh vạn pháp). Vạn pháp ở đây là gì? Chính là toàn bộ vũ trụ. Toàn bộ vũ trụ từ đâu mà đến? Là từ Tự Tánh mà sanh ra, hiện ra. Là Tự Tánh của ai? Tất cả chúng sanh cùng một Tự Tánh, trên là cùng tất cả chư Phật trong mười phương ba đời, dưới là cùng với tất cả chúng sanh, đều cùng một Tự Tánh, nói cách khác là cùng một Thể. Một Thể thì làm sao có thể đối lập? Nên đối lập với người, thì nhất định đã mê mất nhất Thể.

 Quý vị xem, đoạn được năm loại Kiến hoặc thì mới có thể chứng quả Tu-đà-hoàn, thật sự nhập Phật môn. Không đoạn được phiền não thì không nhập được Phật môn, vĩnh viễn ở ngoài cửa, xuất gia cũng không được, cũng là ở ngoài cửa. Trong năm loại Kiến hoặc, Thân kiến là thứ nhất, không chấp trước thân là ta, tốt! Thân này là giả, chứ không phải là thật. Theo định nghĩa trong Phật pháp, giảng về ta, ta có ý nghĩa là chủ tể, ý nghĩa là tự tại. Thân này có chủ tể hay không? Không có. Tôi muốn năm nào cũng 18, có thể làm được hay không? Không thể, bởi năm sau già yếu hơn năm trước, hoàn toàn không thể làm chủ, hoàn toàn không thể tự tại, quý vị phải chịu rất nhiều sự hạn chế, tự tại đến từ đâu? Chính là giả ngã, mọi người hiểu lầm cho rằng có ngã, là sai rồi, đều coi thân này là ta. Ngã này đã chướng ngại chân ngã, sau khi buông xuống ngã này, thì có chân ngã. Chân ngã là Tự Tánh, Tự Tánh có Tứ đức là Thường, Lạc, Ngã, Tịnh, trong Bát-nhã cũng có Thường, Lạc, Ngã, Tịnh, trong Pháp thân có Thường, Lạc, Ngã, Tịnh, trong giải thoát cũng có Thường, Lạc, Ngã, Tịnh, trong kinh Đại thừa giảng được rất rõ ràng. Cho nên không thể đối lập với người, người khác đối lập với mình, nhưng mình không đối lập với họ.

 Nếu họ ác ý phê bình ta, hủy báng ta, chướng ngại ta, thậm chí hãm hại ta, thì ta lập cho họ bài vị sống lâu. Mỗi ngày chúng ta giảng kinh, niệm Phật đều hồi hướng cho họ. Đây là do thầy dạy cho tôi. Đời này họ có sự hiểu lầm ta, đời sau sẽ không còn nữa, thì hóa giải rồi. Nếu ta có oán hận, ta vẫn còn phê bình họ, đến báo thù họ, vậy thì sai rồi, điều này là gì? Là oan oan tương báo, đời đời kiếp kiếp không ngừng không hết, vậy thì khổ rồi, cho nên nhất định phải nghĩ đến, những người bất thiện ấy, người gây phiền phức, người hãm hại, người chướng ngại: đều là chư Phật Bồ-tát. Tại sao làm ra sự việc này? Vì nhất thời mê hoặc, đó là sự thật, một niệm bất giác, liền sinh ra những sai lầm ấy. Những sai lầm đó không có liên quan gì với ta, bởi vì ta không tiếp nhận, mà ta còn cảm ơn, tại sao lại cảm ơn? Vì họ đã thay ta tiêu nghiệp chướng. Họ tạo rất nhiều nghiệp tội, tương lai rất có thể phải chịu quả báo, quả báo này đều là bất thiện, nên chúng ta niệm kinh, giảng kinh hồi hướng cho họ, hi vọng giảm nhẹ khổ báo của họ, chúng ta không có một chút oán hận. Cho nên người học Phật, cả ngày từ sáng đến tối pháp hỉ sung mãn, thường sinh tâm hoan hỉ. Với oán thân trái chủ thì chúng ta xếp đặt đầu tiên để hồi hướng siêu độ cho họ, chúng ta xếp họ ở vị trí đầu tiên, [còn] rất tốt với ta, giúp đỡ, hộ trì của ta, thì xếp ở vị trí thứ hai, xếp đầu tiên là độ oán thân trái chủ. Dụng ý này rất sâu, luôn hi vọng họ có thể không đọa ba đường ác. Nếu thật sự lỗi lầm quá nặng, thì đó không phải do kết duyên với ta, tôi vừa mới giảng là do kết với Phật pháp, quý vị phá hoại Chánh pháp, chướng ngại Chánh pháp, khiến cho đoạn mất duyên nghe kinh: của một số đại chúng học Phật rồi, tội này rất nặng, không cách nào siêu độ được, trong kinh giảng [điều này], chúng ta phải tin tưởng.

 Câu cuối cùng là眾皆隨喜 “Chúng Giai Tùy Hỉ” (Đại Chúng Đều Tùy Hỉ).

 【時諸比丘聞佛言者。莫不代之歡喜。】 “Thời chư Tỳ-kheo văn Phật ngôn giả, mạc bất đại chi hoan hỉ” (Lúc đó chư vị Tỳ-kheo nghe Phật nói như vậy, tất cả đều vui mừng cho họ).

 Chú Giải nói, 故亦應如阿闍王子等,聞經發願,持六字之德號 “cố diệc ưng như A Xà Vương tử đẳng, văn kinh phát nguyện, trì lục tự chi đức hiệu” (Vì thế cũng nên giống như Vương tử A Xà và những người ấy, nghe Kinh phát nguyện, trì sáu chữ đức hiệu). Chính là nhất tâm chuyên niệm Nam Mô A Mi Đà Phật, 入一乘之願海,輾轉教授,同證彌陀也 “nhập Nhất thừa chi nguyện hải, triển chuyển giáo thọ, đồng chứng Mi Đà dã” (nhập vào biển nguyện của Nhất thừa, triển chuyển giáo thọ, cùng chứng [như] đức Mi Đà). Đây là皆願作佛第十品 “Giai Nguyện Tác Phật đệ thập phẩm” (phẩm thứ 10 Đều Nguyện Thành Phật). Giảng đến chỗ này đã viên mãn rồi. Sau khi chúng ta niệm xong, phải giống như với những đại chúng dự hội ấy, giống với Vương tử A Xà, phải học tập theo các ngài, phải phát tâm, tín nguyện trì danh, cầu sanh Tịnh Độ, vậy thì đúng rồi. Thời gian hôm nay đã hết, chúng ta học tập đến đây.

(Hết tập 249)

Nguyện đem công đức này

Hướng về khắp tất cả

Đệ tử cùng chúng sanh

Đều sanh nước Cực Lạc

Sớm viên thành Phật quả

Rộng độ khắp chúng sanh.

Nam Mô A Mi Đà Phật.