TỊNH ĐỘ ĐẠI KINH KHOA CHÚ 2014-2017
(Giảng lần thứ 4)
PHẨM 26: LỄ CÚNG THÍNH PHÁP:
Lễ Bái Cúng Dường Nghe Pháp
Tập 337
Hòa thượng Thích Tịnh Không chủ giảng.
Giảng tại: Hiệp hội Giáo dục Phật Đà HongKong.
Thời gian: Ngày 22 tháng 5 năm 2016.
Dịch giả: Minh Tâm và Chân Hạnh Ánh.
Giảo chánh: Thích Thiện Trang.
Ban Biên Dịch Hoa Tạng Huyền Môn.
Kính
chào chư vị Pháp sư, chư vị đồng học, kính mời ngồi. Mời mọi người
cùng tôi quy y Tam Bảo: “A-xà-lê tồn niệm, ngã Đệ tử Diệu Âm, thỉ tùng kim nhật,
nãi chí mạng tồn, quy y Phật-Đà, lưỡng túc trung tôn, quy y Đạt-Ma, ly dục
trung tôn, quy y Tăng-Già, chư chúng trung tôn” (3 lần).
Mời
xem Đại Kinh Khoa Chú: trang 806, bắt đầu xem từ hàng đầu tiên, 歎彼佛名 “tán bỉ Phật danh” (khen
ngợi danh hiệu đức Phật ấy). Mời xem Kinh văn:
【聞佛聖德名。安隱得大利。種種供養中。勤修無懈倦。】 “Văn Phật Thánh đức danh. An ổn đắc
đại lợi. Chủng chủng cúng dường trung. Cần tu vô giải quyện.” (Nghe
được danh hiệu Phật. An ổn được lợi lớn. Trong mọi sự cúng dường. Siêng tu
không lười chán).
Chúng ta xem Chú Giải của Niệm
lão. Phía trước chúng ta đọc đến chỗ này, tiếp theo chúng ta xem Chú Giải. Đoạn
thứ hai này,(二)讚佛號功德 “(Nhị) Tán Phật hiệu công đức” ((2)
Khen ngợi công đức của Phật hiệu). 『聞佛聖德名』“Văn Phật Thánh đức danh” (Nghe
được danh hiệu Phật). 彌陀本願從第十八至第廿七共十願 “Di Đà bổn nguyện tùng đệ thập bát chí đệ nhập thất cộng
thập nguyện” (Bổn nguyện của đức Di Đà từ thứ 18 đến thứ 27 tổng
cộng có 10 nguyện), 18: Thập niệm tất sanh; 19: Văn danh phát tâm; 20:
Lâm chung tiếp dẫn; 21: Hối quá đắc sanh; 22: Quốc vô nữ nhân; 23: Yếm nữ chuyển
nam; 24: Liên hoa hóa sanh; 25: Thiên nhân lễ kính; 26: Văn danh đắc phước; 27:
Tu thù thắng hạnh, đó là 10 điều, tổng cộng có 10 nguyện. 又從第四十四至四十八共五願 “Hựu tùng
đệ tứ thập tứ chí tứ thập bát cộng ngũ nguyện” (Thêm
nữa từ thứ 44 đến 48 tổng cộng có 5 nguyện),
44: Phổ đẳng Tam-muội; 45: Định trung cúng Phật; 46: Hoạch Đà-la-ni; 47: Văn
danh đắc nhẫn; 48: Hiện chứng bất thoái, năm điều nguyện này, gồm năm nguyện. 願願皆因聞佛名號,永離諸惡苦,終得究竟樂。 “Nguyện nguyện giai nhân
văn Phật danh hiệu, vĩnh ly chư ác khổ, chung đắc cứu cánh lạc.” (Mỗi
nguyện đều do nghe danh hiệu Phật, mà mãi lìa các ác khổ, cuối cùng được niềm
vui rốt ráo). Ví như nghe danh được phước, nghe danh phát tâm,
chúng ta vừa mới đọc rồi, nghe danh được nhẫn. Ý nghĩa của mấy câu nói này rất
sâu, Niệm lão nhắc nhở chúng ta, giúp chúng ta nhận thức rõ ràng, không có nghi
ngờ, công đức danh hiệu của A Di Đà Phật không thể nghĩ bàn. Phía trước tổng cộng
đã nói 15 loại, 15 nguyện, trong 15 nguyện của 48 nguyện, nguyện nào cũng có
liên hệ với danh hiệu. Cho nên công đức của danh hiệu Di Đà: lớn bao nhiêu? Sâu
bao nhiêu? Rộng bao nhiêu? Thực tế mà nói là nói không hết, không cách gì kể hết.
Người
nào niệm Phật danh của A Di Đà Phật? Trong toàn bộ vũ trụ, quá khứ, hiện tại, vị
lai, không phải phước báo đứng đầu .. thì họ không thể niệm. Tại sao không thể
niệm? Bởi họ có nghiệp chướng đã chướng ngại họ, họ có tập khí, phiền não sâu nặng,
họ không niệm liên tục câu danh hiệu này được. Do đó từ chỗ này thì chúng ta có
thể nghĩ rằng, chính xác có không ít am đường chùa chiền: ở nơi thôn quê hẻo
lánh, đều có những cụ ông cụ bà niệm Phật, họ thậm chí không biết chữ, từ sáng
đến đêm chỉ biết niệm A Di Đà Phật, [như] ngu ngu ngơ ngơ. Chư vị đến gần hỏi họ,
họ đều là A Di Đà Phật, ngoài một câu A Di Đà Phật ra, dường như họ chẳng nói
câu nào. Dạng người ấy luôn luôn: bị người thông thường cho rằng họ mê tín đến
cực điểm, thật không ngờ đoạn Kinh văn này: Niệm lão đã nói rõ ràng, nói sáng tỏ
với chúng ta, đó là người có phước báo đứng đầu: trong thế gian và xuất thế
gian.
Tôi
từng hỏi qua một vị Pháp sư, ngài là trụ trì của một ngôi chùa nội địa, tôi
nói, chùa của thầy: có người như vậy hay không? Nói có, luôn có bốn, năm người
như thế. Tôi đã nói với ngài ấy, chúng ta phải lễ kính, phải khen ngợi người
như vậy, không được thất lễ. Tại sao vậy? Bởi xung quanh chùa chiền có những cụ
ông cụ bà ấy, nơi đó của chư vị bình an, nơi đó của chư vị có phước. Phước từ
đâu đến? Những người niệm Phật ấy thật sự có phước. Ai biết? Phật biết, Bồ-tát
biết, La-hán biết, người cõi trời biết, cũng có những quỷ thần biết, chỉ là người
không biết. Hơn nữa dù cho ở bên cạnh: người lân cận không biết, thậm chí sống
sát vách cũng không biết, được thơm lây từ họ, được phước của họ, mà không hề
biết. Những cụ ông cụ bà ấy: họ cũng không mong muốn người khác biết họ, để
tránh phiền phức, một câu Phật hiệu niệm đến cùng, như rất ngu ngơ. Chư vị lưu
ý những vị ấy, tương lai nhất định tự tại vãng sanh, họ vãng sanh không có chướng
ngại, công phu niệm Phật của họ đến nơi đến chốn rồi, không ai có thể so sánh
được, thật sự là vĩnh viễn lìa khỏi các ác khổ, cuối cùng được niềm vui rốt
ráo.
Được
niềm vui rốt ráo, vãng sanh đến Thế giới Cực Lạc được niềm vui rốt ráo, chúng
ta có thể lý giải, hiện tiền được niềm vui rốt ráo, mà chúng ta không biết. Trước
mắt những người ấy rất đáng thương, giống như ăn xin vậy, làm sao họ có niềm
vui rốt ráo được? Chúng ta không nhập cảnh giới của họ, nên không biết, nhập cảnh
giới của họ thì biết rồi. Họ từ sáng đến đêm, 24 giờ, họ không có phiền não, họ
không có lo âu, họ không có bận lòng, không có thứ gì cả, chỉ là một câu A Di
Đà Phật, chư vị nói họ vui hay không? Chúng ta có thể suy đoán đến nơi ấy, mới
thật sự hiểu được họ là niềm vui rốt ráo. Chúng ta ở bên cạnh nhìn thấy họ khổ,
trong xã hội tuổi già rồi, không ai chăm sóc, không có hoàn cảnh cuộc sống tốt,
ở cổng chùa chiền, nơi gần chùa, chư vị nhìn thấy họ ngồi ở chỗ đó, niệm A Di
Đà Phật. Chư vị hỏi họ, họ như rất ngu ngơ, hỏi họ, họ trả lời chư vị là A Di
Đà Phật, hỏi thế nào đều là A Di Đà Phật. Ngay trong mắt của tôi, đó là Phật Bồ-tát,
thị hiện ra, thế nào là thật thà niệm Phật, thế nào là vạn duyên buông xuống? Chư
vị xem họ, buông xuống vạn duyên, thật thà niệm Phật, họ đang làm tấm gương cho
chúng ta xem. Buông xuống toàn bộ việc thế gian này, giống như không liên quan
gì đến họ, họ chỉ biết niệm Phật.
Trong
ngoặc đơn này nêu mấy ví dụ, ví dụ như nghe danh được phước, nghe danh phát
tâm, nghe danh được nhẫn, trong ba câu này, thì hai câu phía trước dễ hiểu. Nghe
danh được phước, phước này được ở trong A-lại-da, A-lại-da đã lưu lại chủng tử
danh hiệu Phật, không chắc khi nào có nhân duyên, chủng tử này khởi tác dụng. Khởi
tác dụng là gì? Chư vị cũng niệm A Di Đà Phật, hoặc là có ý hoặc là vô ý, trong
A-lại-da thức có chủng tử Phật, không có chủng tử Phật: thì sẽ không toả ra
danh hiệu của Phật, để được phước. Câu thứ hai ý nghĩa sâu hơn câu đầu tiên, không
những được phước, mà họ đã phát tâm, phát tâm gì? Phát tâm cầu sanh Thế giới Cực
Lạc. Đương nhiên đối tượng đó là đồng tu Tịnh Độ, thường xuyên quên mất Phật hiệu,
nhìn thấy các cụ ông cụ bà ấy: tay cầm tràng hạt, không gián đoạn Phật hiệu, đã
đề khởi tín nguyện trì danh rồi, đây là nghe danh phát tâm. Tâm như vậy là tâm
tốt, phải thường xuyên phát, nuôi dưỡng thành thói quen, thời thời khắc khắc đều
phát tâm này, thì ngay trong đời này nhất định được vãng sanh Tịnh Độ. Nghe
danh được nhẫn để lại sau này hãy nói, đắc ba loại nhẫn, trong ba loại nhẫn có
Vô sanh Pháp nhẫn, ý nghĩa ấy chính là nói rõ niệm Phật thành Phật. Vô sanh
Pháp nhẫn là bậc nào? Thất địa trở lên mà trên kinh Đại thừa thường nói. Thập địa
Bồ-tát, các ngài là địa thứ bảy, vị trí ấy cao, bên trên là Bát địa, Cửu địa,
Thập địa, lên trên nữa là Đẳng giác, thì thành Phật rồi, khoảng cách đến quả địa
của Như Lai rất gần, không xa. Cho nên nghe danh không dễ dàng.
十方眾生聞名,悉皆安穩,得種種真實之利。是云安隱得大利 “Thập
phương chúng sanh văn danh, tất giai an ổn, đắc chủng chủng chân thật chi lợi.
Thị vân an ổn đắc đại lợi” (Mười
phương chúng sanh nghe danh, toàn bộ đều an ổn, được đủ loại lợi ích chân thật.
Ấy là nói an ổn được đại lợi).
Đây là câu thứ hai của Kinh văn. Lời nói chỗ này, từng câu đều là lời chân thật,
không có một chữ nào là gạt người, là giả cả. Mười phương chúng sanh nghe danh
hiệu Phật, chư vị làm thế nào có thể nghe danh hiệu Phật? Đương nhiên hiện tại
Phật Bồ-tát trụ thế: các ngài giới thiệu cho chúng ta, giảng kinh dạy học chính
là giới thiệu, giới thiệu cho chư vị danh hiệu thù thắng của Phật, khiến cho
chư vị có thể niệm, biết xưng niệm. Được đủ loại lợi ích chân thật, trong đó đủ
loại lợi ích chân thật, gọi là chân thật: chính là công đức thiện hạnh thù thắng,
công đức này: bảo đảm chư vị vãng sanh Thế giới Cực Lạc, gọi là chân thật; Không
có cách gì giúp chư vị vãng sanh, thì không gọi là chân thật. Cách thù thắng
không gì bằng trong việc giúp vãng sanh, chính là Phật hiệu không gián đoạn, chư
vị nhìn cụ ông cụ bà: tại sao từ sáng đến đêm không gián đoạn Phật hiệu? A Di
Đà Phật, A Di Đà Phật, A Di Đà Phật, câu sau tiếp nối câu trước không buông
lơi. Bất kể chư vị hỏi họ lời nào, họ trả lời chư vị đều là A Di Đà Phật, dường
như ngoài A Di Đà Phật ra, họ không biết nói chuyện. Thật làm! Đây gọi là an ổn
được đại lợi. Người thế gian được đại lợi không an không ổn, người niệm Phật được
đại lợi là vừa an lại vừa ổn. Đại lợi này là đại lợi thật sự, không phải tất cả
pháp của thế gian, chân thật đại lợi, là vãng sanh Thế giới Cực Lạc, đi đến Thế
giới Cực Lạc thành Phật, đây là đại lợi.
Chúng ta xem tiếp theo, 十方大士聞名得益,感恩圖報。故廣修供養,無有懈倦 “Thập
phương Đại sĩ văn danh đắc ích, cảm ân đồ báo. Cố quảng tu cúng dường, vô hữu
giải quyện” (Mười phương Đại sĩ
nghe danh được lợi ích, cảm ân cầu báo đáp. Nên
rộng tu cúng dường, không có lười chán).
Đây là 『種種供養中』“chủng chủng
cúng dường trung” (trong mọi sự cúng dường).
Chúng ta nhìn thấy những cụ ông cụ bà niệm Phật ấy, họ dùng điều gì để cúng dường?
Chính là dùng câu Phật hiệu này để cúng dường. Chư vị nhìn thấy họ đang niệm,
chư vị nghe thấy họ đang niệm, thì từng niệm Phật hiệu đi vào trong tâm của
chính chúng ta rồi, đây là đủ loại lợi ích chân thật. Họ đang ở đó giảng kinh
thuyết pháp: có khác gì Pháp sư hay không? Không sai khác. Pháp sư giảng kinh
thuyết pháp: là nói rõ ràng, nói sáng tỏ sự việc, khiến cho chư vị phát khởi
lòng tin, tín nguyện trì danh; Những cụ ông cụ bà ấy, họ không cần giảng, họ
làm ra tấm gương, làm ra cho chư vị xem. Pháp sư giảng kinh là ngôn giáo, ngôn
giáo đang dạy người, khuyên người; Những cụ ông cụ bà là thân giáo, tôi làm ra
cho chư vị xem. Thân hành ngôn giáo, công đức đó của thân hành còn thù thắng
hơn ngôn giáo.
Nếu
chúng ta gặp được, trước đây không biết, ngày nay đã sáng tỏ rồi, người thật tu
hành ấy, người đại tu hành, gặp được thì thế nào? Chúng ta kính chào họ. Kính
chào thế nào? Hết sức cung kính đứng bên cạnh nghe họ niệm, niệm một phút, niệm
ba phút, niệm năm phút, rồi hãy rời đi. Thời gian ấy không dài, ở đó tiếp thu
huân tập, tôi thật sự nhìn thấy rồi. 感恩圖報 “Cảm ân đồ báo” (Cảm
ân báo đáp), cảm ân của ai? Cảm ân của Phật. Chúng ta ở đây
nghiêm túc nghe, được họ làm cho cảm động, đó cũng là báo ân đức: của những cụ
ông cụ bà niệm Phật, họ gợi ý chúng ta, nhắc nhở chúng ta, chính chúng ta niệm
Phật, cùng niệm với họ, cảm ân của Phật, cảm ân của Bồ-tát, cảm ân của Tổ sư Đại
đức, cảm ân nhân duyên hiện tiền. 故廣修供養,無有懈倦 “Cố quảng tu cúng dường, vô hữu giải quyện” (Nên
rộng tu cúng dường, không có lười chán),
“giải” là lười biếng, “quyện” là mệt nhọc, hoan hỷ cúng dường. Trong tất cả
cúng dường, cúng dường Pháp đứng đầu, không có gì thù thắng hơn Pháp cúng dường.
Chúng ta đứng bên cạnh những cụ ông cụ bà: niệm ba phút, niệm năm phút, đây là
Pháp cúng dường. Chúng tôi khuyên nhủ người niệm Phật mới học, bạn bè tu Tịnh Độ,
nói rõ tường tận tỉ mỉ những ví dụ ấy cho họ, giúp họ tăng trưởng tín tâm, giúp
họ dần dần ngộ nhập: công đức của niệm Phật không thể nghĩ bàn, nuôi thành một
tâm hoan hỷ niệm Phật, phải hoan hỷ, tâm hoan hỷ niệm Phật, công đức này lớn.
Do
đó ngay trong đủ loại cúng dường, có Tài cúng dường, có Pháp cúng dường, hai loại
cúng dường này đều có. 《普賢行願品》曰 “Phổ Hiền Hạnh Nguyện Phẩm viết” (Trong
phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện nói rằng), trong phẩm Hạnh Nguyện
có nói, 諸供養中,法供養最。所謂如說修行供養 “Chư cúng dường trung, Pháp cúng dường tối. Sở
vị như thuyết tu hành cúng dường” (Trong các loại cúng dường, Pháp cúng dường đứng đầu.
Được gọi là như thuyết tu hành cúng dường), tiếp theo đây đã nêu mấy điều. 如說修行 “Như thuyết tu hành” (Như thuyết tu hành), trên kinh nói thế
nào thì chúng ta làm thế ấy, đó chính là “như thuyết tu hành”. Phải nghe kinh,
không thể nghe lời bịa đặt. Mấy mươi năm nay, tôi ở trong và ngoài nước gặp được
rất nhiều, có nhập hồn, thường thấy, có lên đồng viết chữ, có bói toán, còn có
nằm mộng, tôi gặp được rất nhiều. Có một số truyền đạt khai thị của Phật Bồ-tát,
có số truyền đạt là những tiên đoán về tai nạn, có thể tin hay không? Không thể
tin tưởng.
Khi tôi mới học Phật, lúc bấy giờ Đại
sư Chương Gia là thầy của tôi, có một lần tôi thỉnh giáo ngài: về lên đồng viết
chữ. Lúc nhỏ con sống ở Kiến Âu tỉnh Phúc Kiến, tập tục lên đồng viết chữ của
Phúc Kiến hết sức hưng thịnh, trên bài vị Tổ tông của mỗi nhà, đều treo những đạo
cụ ấy để khi lên đồng viết chữ dùng. Lúc có vấn đề, vấn đề bệnh nan y, thì mời
họ đến, bày trên bàn cát, thì người lên đồng ấy có thể viết chữ. Thời bấy giờ
chúng tôi học Tiểu học, lúc 11, 12 tuổi, nhìn thấy điều ấy rất kỳ lạ. Chúng tôi
đứng bên cạnh, nhìn chữ trong bàn cát chúng tôi đều nhận biết, nắn nót cẩn thận,
hết sức ngay ngắn. Ai đến lên đồng? Đều là người trên phố tạm thời tìm đến, lúc
bấy giờ là người kéo xe tay, lao động vất vả, người gánh nước, bán củi, đều là
không biết chữ, làm những công việc nặng nhọc, cuộc sống vô cùng bần hàn. Mời họ
đến, bảo họ buông xuống công việc, đến lên đồng viết chữ, đại khái cũng cúng dường
một chút lì xì cho họ, họ cũng rất vui vẻ. Thật không biết chữ, khi không có
linh dựa vào thì họ không biết viết chữ, viết được rất đẹp, chúng tôi nhìn thấy
rất nhiều, nên tin tưởng, nếu không làm sao họ viết ra được?
Nhưng tôi học Phật lúc bấy giờ, ở Đài
Loan, Đài Loan cũng có đàn lên đồng, có đồng tu dắt tôi đi xem, tôi đã đi xem. Người
ấy là một người lên đồng, gọi là Kê đồng, người khác không lên đồng được, chỉ
có Kê đồng. Tốc độ viết chữ lúc lên đồng rất nhanh, giống như viết chữ Thảo vậy,
chúng tôi ở bên cạnh đã xem một giờ, không nhận ra một chữ nào, tôi không tin
việc đó, rất khó để tôi tin tưởng. Tôi đem việc ấy báo cáo lên Đại sư Chương
Gia, Đại sư đã nói với tôi, ngài nói việc ấy có, linh quỷ bám vào trong Loan
đàn, không phải Phật, không phải Bồ-tát. Đã nói với tôi, Mãn Thanh mất nước là
mất trên Loan đàn, Thái hậu Từ Hy tin việc này, gặp vấn đề nan giải đều thỉnh
giáo Kê đàn, y giáo phụng hành, đến sau cùng thì mất nước. Chư vị tìm ai? Chư vị
không tìm được họ, họ bỏ đi rồi, chư vị không cách gì truy cứu họ, họ không chịu
trách nhiệm, bị thiệt thòi mắc lừa là Thái hậu Từ Hy. Trước Thái hậu Từ Hy, Đế
vương các triều đại nhà nước Mãn Thanh lúc bấy giờ, khi có vấn đề khó khăn, đều
triệu tập Đại thần của mình, đặc biệt là Học giả của ba nhà Nho Phật Đạo, chúng
ta thường nói là cao Tăng Đại đức, thỉnh giáo các ngài. Chỉ có Thái hậu Từ Hy, xóa
bỏ chế độ ấy, khi bà gặp phải khó khăn nhất định là lập đàn lên đồng.
Cho nên loại ấy, còn có nhập hồn, nằm
mộng, rất nhiều, có thể tin hay không? Không thể tin tưởng. Có trí huệ có thể
tham khảo, có một số họ nói có đạo lý, có một số nói không có đạo lý, nhất định
không thể nghe tất cả; Phần ít có thể làm tư liệu tham khảo, không thể hoàn
toàn tin họ. Vào thời đại ngày nay, loại sự việc nầy phát sinh ở khắp nơi, học
Phật, Phật là trí huệ, đó không phải trí huệ, nhất định phải nhận thức rõ ràng.
Gặp những việc ấy, tốt nhất đừng tiếp xúc, mà rời xa, đừng đi xem náo nhiệt, đừng
bị quấy nhiễu, vậy thì đúng rồi. Khi đức Phật Thích Ca Mâu Ni vãng sanh, lúc diệt
độ, dạy bảo các học trò, Đệ tử đời sau, là dạy cho chúng ta, sau khi Phật không
còn tại thế, điều đầu tiên là 依法不依人 “Y pháp bất y nhân”. Pháp là kinh điển,
kinh là lời đức Phật nói, Chú Giải của kinh đều là lời do Tổ sư Đại đức nói, không
có sai, y pháp bất y nhân. 依義不依語 “Y nghĩa bất y ngữ”, y theo đại ý, ý
nghĩa của kinh Phật giảng, không y theo ngôn ngữ, ngôn ngữ, văn tự không quan trọng,
nội dung quan trọng, điểm này rất trọng yếu. Dạy chúng ta 依了義不依不了義 “Y liễu nghĩa bất y bất liễu nghĩa”, thế nào gọi là liễu
nghĩa? Thật sự có thể giúp chúng ta: liễu sanh tử ra ba cõi, đây là liễu nghĩa;
Chưa chắc giúp chư vị thoát ly sáu đường luân hồi, chứng đắc Vô thượng Bồ-đề, thế
thì là “bất liễu nghĩa”. Cho nên phải “Y liễu nghĩa bất y bất liễu nghĩa”. Sau
cùng là 依智不依識 “Y trí bất y
thức”, trí
là thế nào? Trí huệ, phải có trí huệ để phán đoán, để nhận biết, không thể xử sự
theo tình cảm, không thể bị những yêu ma quỷ quái mê mất, thế thì hỏng rồi. Đây
là điều chúng ta không thể không biết. Về loại này, khi tôi còn trẻ hiếu kỳ, ngài
Chương Gia nói tường tận tỉ mỉ cho tôi biết, hiểu rõ những chân tướng này,
không bị chúng quấy nhiễu. Loại sự việc đó rất nhiều, nước ngoài cũng có.
Do đó ở đây đều là như thuyết tu hành
cúng dường, chúng ta phải học tập việc này, hiện nay giảng làm việc chia sẻ, báo
cáo với đại chúng, làm việc chia sẻ, mọi người đều được lợi ích thù thắng của
Phật pháp. Tu hành là việc vô cùng thù thắng trong cúng dường, ta thật làm, đây
là báo ân Phật, thực sự báo ân Phật, chân thật cúng dường. Tiếp theo, 利益眾生供養 “lợi ích chúng sanh cúng dường”. Lợi ích chúng sanh
quan trọng nhất, là Pháp bố thí, hoan hỷ diễn thuyết vì người khác, tự mình làm
tấm gương tốt để mọi người thấy, việc này quan trọng. Phải biến lời Phật đã nói
trên kinh: thành cuộc sống của chúng ta, trở thành tư tưởng của chúng ta, trở
thành hành vi của chúng ta, đó là chân cúng dường.
攝受眾生供養 “Nhiếp thọ chúng sanh cúng dường” . Nhiếp thọ có Tứ
nhiếp pháp, đặc biệt là thời đại ngày nay, điều quan trọng nhất là đoàn kết Tôn
giáo, giữa Tôn giáo và Tôn giáo phải qua lại với nhau, dùng phương pháp gì? Chúng
ta dùng bốn loại phương pháp nhiếp thọ, theo lời Phật dạy. Năm 1999, tôi ở
Singapore, đoàn kết chín Tôn giáo lớn của Singapore: thành người một nhà, làm
được hết sức thành công. Khi ấy rất náo nhiệt, mỗi ngày đều có hoạt động, có cả
chín Tôn giáo, mỗi Tôn giáo hoạt động: mọi người chúng tôi đều đến tham gia, đều
đến trang nghiêm Đạo tràng, chư vị đều nhìn thấy cả chín Tôn giáo, đều phái đại
diện đến tham gia. Lúc đó ở Singapore, có một vị Bộ trưởng cao cấp, ông Tăng Sĩ
Sanh, ông ấy đến thăm tôi, hỏi tôi, thầy dùng cách gì: để đoàn kết Tôn giáo lại?
Hội Ái Hữu Tôn giáo của Singapore: đã thành lập từ 50 năm trước, khi tôi đi là
năm thứ 50, mỗi năm chỉ có dịp vào năm mới, người Lãnh đạo của những Tôn giáo ấy:
mọi người cùng nhau ăn một bữa cơm, sau đó thì không có bất kỳ hoạt động nào, là
không ai qua lại với nhau. Khi tôi ở Singapore, đã đoàn kết những Tôn giáo ấy, mỗi
tuần đều có qua lại, ngày nào cũng có qua lại, Tôn giáo thật sự biến thành người
một nhà. Không chỉ những chức sắc của Tôn giáo: chúng tôi là người một nhà, mà
giữa tín đồ và tín đồ cũng qua lại, đã giúp cho xã hội an định, giúp cho xã hội
hài hòa, vì thế Chính phủ vô cùng vui mừng. Bộ trưởng hỏi tôi, thầy dùng phương
pháp nào? Tôi nói tôi không có phương pháp, đức Phật Thích Ca Mâu Ni có phương
pháp. Ông ấy rất kinh ngạc, đức Phật Thích Ca Mâu Ni có phương pháp gì? Tôi nói
Tứ nhiếp pháp, bốn loại phương pháp nhiếp thọ chúng sanh. Loại thứ nhất là 布施 “Bố thí”, thứ hai là 愛語 “Ái ngữ”, thứ ba là 利行 “Lợi hành”, thứ tư là 同事 “Đồng sự”, đức Phật Thích Ca Mâu Ni dạy cho chúng tôi
tám chữ này, qua lại với các Tôn giáo khác, qua lại với dân tộc khác, thì trở
thành người một nhà.
Bố thí ở đây khác ý nghĩa với: bố thí
trong Lục độ, bố thí của Lục độ là buông xuống keo kiệt tham lam, mục đích là
điều ấy; Bố thí này không phải vậy, bố thí này là mời khách, chư vị đều phải
qua lại với tất cả mọi người, phải thường xuyên mời khách, phải thường xuyên tặng
quà, là ý nghĩa này, chính là tình người. Cho nên tôi đoàn kết chín Tôn giáo, ở
Singapore, lần đầu đi thăm viếng, Cư sĩ Lý Mộc Nguyên giúp tôi giao thiệp, sau
khi hẹn định thời gian chúng tôi cùng đi thăm viếng, thăm viếng tặng một phong
bì lớn, 100 ngàn tiền Singapore. Tặng cho họ làm gì? Mỗi Tôn giáo đều có đơn vị
làm từ thiện, có số làm Bệnh viện, có số làm Viện dưỡng lão, Nhà trẻ, có số mở
Trường học, phần lớn là Trường học chuyên ngành, giúp một số thanh niên, không
tìm được công việc, đến bên đó để được huấn luyện, sau khi huấn luyện thành
công, họ phụ trách giới thiệu công việc. Những sự nghiệp ấy đều là sự nghiệp tốt,
chúng ta giúp đỡ họ. Cho nên tổng cộng chúng ta đã dùng: Một triệu tiền
Singapore, chín Tôn giáo của Singapore đã trở thành người một nhà, thật tốt!
Ái ngữ không phải là lời ngon tiếng ngọt,
mà là loại ngôn ngữ thật sự yêu quý trân trọng người khác, chính là nội dung
chúng ta tiếp xúc nói chuyện, là xuất phát từ sự chân thành giúp họ phát triển,
giúp mọi người đoàn kết, mang đến sự an định hài hòa cho xã hội, hóa giải tất cả
xung đột, đều hoan hỷ. Lợi hành, hành là hành vi của chúng ta, hành vi cuộc sống
hàng ngày, nhất định có lợi ích với người khác, không có tổn hại. Giữa Tôn giáo
và Tôn giáo: ngại nhất là lôi kéo tín đồ, không được. Nhất định không phê bình,
chúng ta chỉ có khen ngợi, không có phê bình; Chỉ có khuyến cáo, không có lôi
kéo tín đồ. Chúng tôi có hoạt động, hoan nghênh chư vị đến tham gia, tuyệt đối không
phải bảo chư vị bỏ đi Tôn giáo đó, để tin Tôn giáo của tôi, việc này không được.
Về đồng sự, sự nghiệp chúng ta làm là lợi ích cộng đồng, có giúp đỡ đối với Tôn
giáo, đều có giúp đỡ đối với mỗi Tôn giáo, có giúp đỡ đối với Xã hội, có giúp đỡ
đối với Quốc gia, Chính phủ hoan hỷ. Đây là nhiếp thọ chúng sanh cúng dường.
Tiếp theo, 代眾生苦供養 “Đại chúng sanh khổ cúng dường” (Thay chúng sanh khổ
cúng dường). Sống ở thế gian này, là khổ! Nếu chúng ta sợ khổ, thì không đến nữa. Chúng
ta đến thế giới này để làm gì? Chúng sanh chịu khổ chịu nạn, ta cũng chịu khổ
chịu nạn, họ chịu khổ chịu nạn là nghiệp lực, nghiệp báo, chịu khổ chịu nạn này
của ta: là Phật Bồ-tát đại từ đại bi ứng hóa ở thế gian. Với Phật Bồ-tát mà nói,
chính là Tứ nhiếp pháp đã nói phía trước, nhiếp thọ chúng sanh cúng dường, đồng
sự mà, chúng ta sanh vào thời đại như nhau, xã hội như nhau, tiếp nhận khổ nạn
như nhau. Ở ngay trong khổ nạn, quan tâm mọi người, giúp mọi người giảm bớt khổ
nạn, vậy thì đúng rồi.
勤修善根供養 “Cần tu thiện căn cúng dường” (Siêng tu thiện
căn cúng dường). Thiện căn, là gốc có thể sanh thiện pháp. Ngày nay gốc rễ
có vấn đề, nói tóm lại, Văn hóa truyền thống Trung Hoa, rất xác thực: là tất cả
gốc rễ lớn của thiện pháp. Đại gốc rễ lớn của Trung Hoa là gì? Điều thứ nhất là
hiếu, thứ hai là kính. Hình thành từ nhỏ, hiếu dưỡng phụ mẫu, cung kính trưởng
bối, em trai phải cung kính đối với anh trai, anh trai lớn hơn chư vị, đối đãi
với người tuổi tác lớn hơn ta, vai vế lớn hơn ta, phải cung kính giống như đối
với thầy vậy. Do đó, 敬 “Kính” dùng thầy làm đại diện, 孝 “Hiếu” dùng cha mẹ làm đại diện, biết hiếu thuận phụ mẫu,
biết phụng sự sư trưởng. Hai điều này là gốc! Ngày nay có vấn đề rồi, đoạn gốc
rồi. Thầy tốt hết sức cảm thán không có học trò, học trò không chịu học, không
phải thầy không dạy, mà học trò không chịu học, thầy không có cách gì bảo chúng
học. Vì thế thầy không tìm được học trò. Người thật sự muốn học tìm không được
thầy, thầy của Trường học không dạy nữa.
Tôi đã gặp phải sự việc này, đích thân
gặp phải. 26 tuổi tôi quen biết thầy Phương, ngài Phương Đông Mỹ, thầy dẫn dắt
tôi vào cửa Phật, thầy là một nhà Triết học lớn, ở Đài Loan là nhà Triết học nổi
tiếng. Lúc bấy giờ tôi muốn học Triết học, liền hỏi thăm thầy, thầy là người Đồng
Thành, Đồng Thành là quê của chúng tôi. Tôi là người Lư Giang – An Huy, thầy là
người Đồng Thành – An Huy, khoảng cách giữa hai thành phố này của chúng tôi: hiện
nay là 30 km, rất gần. Không ai giới thiệu cho tôi, tôi đành phải tự mình giới
thiệu chính mình, tôi đã viết một lá thư, đã viết một bài văn gởi cho thầy, hy
vọng thầy có thể đồng ý với tôi, cho tôi vào trong Trường học dự thính khóa
trình của thầy, chỉ một nguyện vọng như vậy. Chính mình sớm đã thất học, không
được đi học, không có cơ sở về học thuật, tôi biết việc này quan trọng, không
có cơ hội học tập. Ở bên ngoài nhiều năm như vậy, lúc trẻ tuổi phải dựa vào
chính mình để lao động chân tay: kiếm chút ít tiền để duy trì cuộc sống, vô
cùng bần hàn.
Thầy Phương hồi âm cho tôi một lá thư,
hẹn tôi ngày chủ nhật đến nhà thầy gặp mặt, chúng tôi cảm thấy có hy vọng rồi. Ngày
chủ nhật đến nhà thầy thăm viếng thầy, đã hỏi một số tình hình quê nhà, đồng
hương mà. Lại hỏi tình trạng đi học của tôi, tôi nói tốt nghiệp Sơ trung. Thầy
nói con có gạt thầy không? Tôi nói không dám gạt thầy. Thầy nói thư con viết,
bài văn con viết: sinh viên Đại học Đài Loan của chúng ta không viết được, thầy
nghi ngờ từ điểm này. Tôi nói thực sự con thích đọc sách, nhưng không đến trường,
đều là tự mình học, cũng không có thầy chỉ bảo, cho nên rất khó khăn, nền tảng
cắm không sâu cũng không vững. Thầy đã nói với tôi, việc này là 65 năm trước, nói
hiện giờ (đó là nói 65 năm trước), thầy ở Trường học không ra thầy, học trò
không ra học trò, thầy nói con muốn đến trường để nghe giảng, con sẽ thất vọng
lớn. Tôi nghe xong lời này thì rất buồn, thầy đã hoàn toàn từ chối, hy vọng của
tôi tan vỡ rồi. Vì vậy lúc bấy giờ hết sức tự nhiên, trong tâm cảm thấy rất buồn,
rất chán nản. Chúng tôi lặng im khoảng chừng 10 phút, rồi thầy mở lời nói, như
vậy được rồi, con muốn học, chủ nhật mỗi tuần con đến nhà thầy, thời gian buổi
sáng từ 9:30 đến 11:30, hai giờ, mỗi tuần đến nhà thầy, thầy dạy cho con hai giờ,
Triết học của tôi là học với thầy như vậy đó.
Thầy đã giảng cho tôi một bộ Triết học
Khái luận, bài mục sau cùng là Triết học Kinh Phật. Lúc đó tôi rất kinh ngạc, tôi
nói với thầy, Phật giáo là Tôn giáo, Tôn giáo là mê tín, thì Triết học ở đâu? Đặc
biệt là Phật giáo, Tôn giáo cao cấp chỉ có một Chân Thần, Phật giáo là đa Thần
giáo, phiếm Thần giáo, hễ là Tôn giáo loại này là Tôn giáo cấp thấp. Lúc đó
trong suy nghĩ của tôi là những điều ấy, Phật giáo làm sao có Triết học được? Thầy
nói với tôi, con còn trẻ, con không hiểu. Thầy nói đức Thích Ca Mâu Ni: là nhà
Triết học vĩ đại nhất trên thế giới, chúng ta học Triết học, phải học tập nhà
Triết học vĩ đại nhất, Triết học Kinh Phật: là đỉnh cao nhất của Triết học toàn
thế giới, học Phật là sự hưởng thụ cao nhất của đời người. Nếu tôi không phải học
môn này với thầy Phương, thì tôi đã không có duyên với Tôn giáo rồi, đã đoạn mất
con đường này, thế thì cả đời này sẽ sống rất là vất vả, làm gì có hôm nay! Ba
vị thầy ấy của tôi: thiếu một vị cũng không được, đều không thể thành tựu.
Lúc ấy, sau khi tôi tiếp nhận Phật
giáo không bao lâu: thì quen biết Đại sư Chương Gia, vì thế nền tảng Phật giáo:
là do Đại sư Chương Gia đặt, tôi theo ngài ba năm, ngài viên tịch rồi. Năm ngài
ra đi, dường như là 68 tuổi, tôi biết ngài lúc ngài 65 tuổi, tôi theo ngài ba
năm, ba năm ấy đã đặt nền móng Phật pháp. Sau khi đi rồi, tôi theo thầy Lý Bỉnh
Nam ở Đài Trung 10 năm, cho nên những kinh sách đều học ở Đài Trung, 10 năm. Đã
chứng minh một câu nói của thầy, học Phật là sự hưởng thụ cao nhất của đời người,
tôi hưởng thụ được rồi, do đó đối với ân đức của thầy: vĩnh viễn sẽ không quên.
Thầy trò như cha con, thời gian thầy dạy tôi dài như vậy, tôi không nộp một xu
tiền học phí nào, người ta học thêm còn phải nộp học phí, thầy không hề thu học
phí của tôi, dạy rất nghiêm túc, rất chu đáo. Cho nên thầy trò là duyên phận.
Tại sao nói dạy học trong
trường có vấn đề, đó chính là học trò không muốn học, thầy không thể dạy, dạy rồi
không có tác dụng. Nhưng thầy lại nhất thiết phải lên lớp, tại sao vậy? Bởi
kinh phí sinh hoạt của họ chỉ dựa vào một chút tiền lương, dựa vào ít tiền giờ
lên lớp ấy, thu nhập chẳng hề dư dả. Học trò không muốn học, thầy thực sự dạy,
học trò bỏ đi hết; Học trò đều thích: thầy kể chuyện cho chúng nghe, nói chuyện
phiếm, lúc thi cử nói đề bài cho chúng biết, mỗi người đều có điểm số rất tốt. Vì
vậy học trò lên đến Đại học, mục đích là gì? Mục đích là lấy văn bằng, tương
lai dễ tìm công việc trong xã hội, vì điều này. Thầy vì chi phí sinh hoạt. Cho
nên một bên không muốn học, một bên thì không cách gì dạy, muốn dạy mà không
cách dạy. Một mình tôi muốn học, [nên thầy] dạy trong nhà, thật cảm động lòng
người.
Đến bây giờ đã 65 năm, Trường học ngày
nay ra làm sao? Xuống dốc so với trước đây, không có cải tiến. Với học trò, Trường
học ở Trung Hoa thì tôi không biết, tôi đã dạy mấy lớp Đại học của nước ngoài, thì
như thế nào? Hứng thú của học trò đại khái có chỉ 10 phút, 10 phút đầu tiên, họ
có dáng vẻ như chuyên chú ngồi ở đó, nhưng sau 10 phút, thì mắt đã nhìn thứ
khác ngoài cửa sổ rồi, tâm không tập trung. Thế làm sao dạy? Do đó tôi ở Trường
học, tôi rất thích cử hành buổi tọa đàm với các Giảng viên, chúng tôi đến giao
lưu, thảo luận những vấn đề này; Với học trò, tôi không bằng lòng lên lớp, thời
gian của chúng tôi không lãng phí ở đó. Vì vậy khó, năm sau khó khăn hơn năm trước.
Tôi nghĩ sau 20 năm, trong trường Đại học có khả năng không còn Giảng viên nữa,
vậy những điều muốn học thì học bằng cách nào? Có lẽ phải dùng đĩa CD. Tại sao
vậy? Bởi trình độ của Giảng viên rớt xuống ngàn trượng, trình độ của giáo thọ
đi xuống rồi, trình độ của học trò đương nhiên cũng trượt dốc đi xuống. Nếu
không có giáo dục, không giáo dục tốt con người, thì phiền phức từ động loạn xã
hội quá lớn rồi!
Lão Tổ tông Trung Hoa có trí huệ, có đạo
đức, trong sách Học Ký nói cho chúng ta biết, 建國君民,教學為先 “Kiến quốc quân dân, giáo học vi tiên” (Dựng nước trị dân,
giáo học là hàng đầu). Chư vị làm người lãnh đạo đất nước, chư vị muốn xây dựng tốt đất nước
này, việc lớn đầu tiên chính là làm tốt việc về Trường học, thì giải quyết vấn
đề rồi. Tôi ở Malaysia, vị Thủ tướng hiện tại là bạn cũ của tôi, Thủ tướng
Najib. Ông ấy làm Thủ tướng không bao lâu thì đã quen biết với tôi rồi, câu đầu
tiên hỏi tôi, ông ấy nói Pháp sư, tôi rất muốn trị vì tốt Malaysia, có cách nào
không? Tôi đã nói với ông ấy, người xưa của Trung Hoa có nói, 建國君民 “kiến quốc quân dân” (dựng nước trị
dân), dựng nước là xây dựng Chính quyền, quân dân là lãnh đạo dân chúng, điều
gì quan trọng nhất? 教學為先 “Giáo học vi tiên” (Giáo học là hàng
đầu). Tôi đã chỉ ông ấy điều này, ông có thể làm tốt việc giáo dục, dạy người
đều tốt cả, thì giải quyết hết vấn đề của ông. Văn hóa 5000 năm của Trung Hoa: đến
ngày nay vẫn không suy, vẫn chưa hề diệt vong, là dựa vào gì? Dựa vào giáo dục.
Trên toàn thế giới, người nước ngoài người nghiên cứu Văn hóa Lịch sử đều biết,
sở dĩ Trung Hoa không thể diệt vong, bởi hoàn toàn dựa vào giáo dục gia đình, họ
đã thêm 家庭 “gia đình” vào. Giáo dục gia
đình của Trung Hoa tốt, nhưng giáo dục gia đình của Trung Hoa ngày nay không
còn nữa, Trung Hoa trong quá khứ là đại gia đình.
Đời này của tôi, gia đình chúng tôi là
đại gia đình, thế nhưng lúc tôi sinh ra, nhà đã suy sụp rồi, cho nên đại gia
đình của nhà chúng tôi: thì tôi chưa từng thấy, không nhìn thấy. Căn nhà ở quê
không còn nữa, mảnh đất đó vẫn còn, không phải quá lớn, đại khái chỉ có hai dãy
nhiều nhất ba dãy Tứ hợp viện, cho nên gia đình ấy không phải đại gia đình. Đại
gia đình, nhân khẩu ít nhất trên 200 người, bình thường một gia đình phổ thông
là 300 người, gia đình hưng vượng thì sáu, bảy trăm người. Chư vị thử nghĩ xem,
nhiều người như vậy sống cùng nhau, nếu không có phép tắc thì làm sao được? Thế
thì loạn mất. Do đó nhà có gia đạo, có gia quy, có gia huấn, có gia học, có gia
phong, có sự nghiệp của gia đình, đó là một tổ chức của xã hội. Gia đình là cộng
sản đối nội, thực hành chủ nghĩa cộng sản, không phải đối ngoại, là đối nội. Một
nhà, bất kỳ ai, dù cho làm sự nghiệp nào, kiếm tiền, ngoài sinh hoạt của chư vị
ra tất cả đều phải nộp vào của công. Do gia đình kinh doanh, gia đình phần lớn
là mua đất đai, mua núi rừng, xem trọng nông canh, sản xuất. Gia đình là bảo đảm
cả đời của một người, chư vị cầu học, chư vị có đại gia đình như vậy thì không
vấn đề, cha mẹ của chư vị không có tiền nộp học phí, gia đình nộp học phí cho
chư vị, không liên quan đến cha mẹ chư vị; Tương lai già rồi nghỉ hưu, gia đình
dưỡng lão, dưỡng lão là hưởng niềm vui thiên luân. Người già Trung Hoa vui vẻ,
buông xuống công việc rồi, chư vị nói con cháu đầy nhà, một đại gia đình: tổng
cộng 70 – 80 con cháu, nhiều trẻ nhỏ như vậy ở cùng nhau, hoan hỷ.
Gia học chính là tư thục, cho nên dạy
học đứng đầu, giáo dục đó của Trung Hoa thời cổ, giáo dục là do gia đình chịu
trách nhiệm. Nhà nước là tổ chức thi tuyển, thi huyện, là Tú tài, chính là danh
xưng của học vị, Tú tài; Thi tỉnh, là Cử nhân; thi Đình, chính là thi cấp Nhà
nước Trung ương, Hoàng đế làm quan chủ khảo, gọi là Tiến sĩ, đây là học vị cao
nhất. Sau khi trúng tuyển xong, nhà nước có Trường học, có Thái học, là giống
trường Đảng ngày nay, bồi dưỡng Cán bộ các cấp, sau khi chư vị đã trúng tuyển
đi vào Trường học ấy. Sau khi tốt nghiệp Trường học đó, nhà nước phái chư vị
đi, từ Huyện Thị trưởng đến Quan viên Trung ương đều có, chính là các cấp cán bộ,
phục vụ cho đất nước, nhận bổng lộc của nhà nước. Cho nên Trường học quan trọng,
dạy điều gì? Dạy luân lý, dạy đạo đức, dạy nhân quả, dạy giáo dục Thánh Hiền,
Thánh Hiền là trí huệ, trí huệ, kinh nghiệm là từ giáo dục Thánh Hiền. Chính là
Tứ Khố Toàn Thư: Tùng thư, bộ sách lớn bậc nhất của Trung Hoa, Tứ Khố Toàn Thư
chia làm bốn loại lớn: Kinh, Sử, Tử, Tập. Kinh: là giáo dục Thánh Hiền; Sử là kinh
nghiệm, kinh nghiệm quý báu trong lịch sử, cung cấp cho chư vị làm tham khảo; Tử
thư là do những Chuyên gia Học giả: họ để lại những trước tác; Tập, đó là văn
chương, thi từ ca phú, thuộc về loại này.
Ngày nay những thứ đó đều tồn tại, nhưng
không có người để đọc, tại sao vậy? Bởi Trường học không dạy Văn ngôn văn, mọi
người không học Văn ngôn văn, vấn đề này nghiêm trọng! Làm sao đây? Chúng ta
không thể không cảm tạ lão Tổ tông, không thể không tôn trọng lão Tổ tông, lão
Tổ tông nhìn thấy chúng ta không chịu làm, thì đi tìm người nước ngoài đến làm,
thật khó có. Hiện tại rất nhiều đất nước ở châu Âu: đang học tập chữ Hán, học tập
Văn ngôn văn. Nhà Hán học Thụy Điển, sống ở Trung Hoa bao nhiêu năm, tinh thông
Văn tự học của Trung Hoa, khi ông ấy đi về nói với chúng tôi: “Không thể sửa chữ Hán, không thể phế Văn
ngôn, nhất định phải đọc kinh sách”. Ông về đến châu Âu thì làm việc này, ông dạy
gì ở châu Âu? Dạy Văn tự học Trung Hoa, dạy sách Thuyết Văn Giải Tự, dạy Âm vận,
dạy Văn ngôn văn, ông ấy thật làm. Nói cách khác, bên Trung Hoa diệt rồi, không
còn nữa, thì bên nước ngoài nổi lên, giống như nhau. Đó là gì? Là sự sắp xếp của
lão Tổ tông. Chúng ta cảm ân, lão Tổ tông có trí huệ, nếu Văn minh Trung Hoa bị
tan biến rồi, đó là bóng tối của toàn nhân loại, thời kỳ đen tối. Cho nên châu
Âu hiện tại là đang làm nóng Trung Hoa văn, học Ngữ văn của Trung Hoa.
Đây là chúng ta nói đến thay chúng
sanh chịu khổ, đặc biệt là thời đại ngày nay, phải cứu vãn Văn hóa, Văn hóa
quan trọng hơn bất cứ điều gì. Chỉ cần Văn hóa còn, mất nước rồi cũng không
sao. Triều Nguyên người Mông Cổ thống nhất Trung Hoa, Triều Thanh người Mãn
Thanh thống nhất Trung Hoa, đều là ngoại tộc, sau cùng thì sao? Sau cùng đều bị
chúng ta đồng hóa, đều đã trở thành người Trung Hoa, thì tốt! Cho nên chỉ cần
Văn hóa còn, đất nước này sẽ hưng vượng; Không còn Văn hóa, đất nước này sẽ diệt
vong, sẽ diệt rất thảm, không thể không biết.
Tiếp theo, 勤修善根供養 “cần tu thiện căn cúng dường” (chuyên cần tu
thiện căn cúng dường). Thiện căn có thể sanh tất cả thiện pháp, không tham,
không sân, không si là ba thiện căn, tất cả thiện pháp là sanh ra từ đây, tất cả
ác pháp là sanh ra từ tham sân si. Cho nên tham, sân, si là ba điều ác, là gốc
của ba điều ác, ngược lại chính là ba điều thiện. Những điều này, là luân lý, đạo
đức. Có một lần, mấy ngày nay, thầy Nhân Duyên Sanh giảng Trung Dung ở đây, là
thiện căn, Trung Dung là thiện căn của Nho gia, gốc của gốc. sách Đại Học là
thiện căn, sách Đại Học giảng phương pháp, Trung Dung giảng lý luận, đạo lý này
ứng dụng trong cuộc sống, ứng dụng trong công việc, ứng dụng vào trong xử sự đối
người tiếp vật: chính là sách Đại Học, đạo của Trung Dung. Văn hóa này không
hoàn toàn là của người Trung Hoa, mà người toàn thế giới đều có phần, chư vị
xem trong sách xưa của lão Tổ tông Trung Hoa, mở miệng khép miệng đều nói Thiên
hạ, không nói đất nước, tấm lòng ấy rộng lớn biết bao! Vì vậy Văn hóa Trung Hoa
là Văn hóa toàn nhân loại, thật sự, chỉ cần là người sống trên trái đất này: thì
nên học tập. Thế kỷ 21 rất nhiều người nói: là thế kỷ của người Trung Hoa, đúng
là có một số người nước ngoài sợ hãi, tại sao vậy? Bởi quá khứ ức hiếp Trung
Hoa 200 năm, ngày nay Trung Hoa đứng lên rồi, sợ người Trung Hoa báo thù, đây
là thật, không phải giả. Người Trung Hoa sẽ báo thù hay không? Không đâu. Cho
nên ngày nay chúng ta phải lưu thông lượng lớn: Quần Thư Trị Yếu, tại sao vậy? Bởi
hóa giải mối nghi ngờ này, mối lo âu này, để toàn thế giới thật sự có thể trở
thành người một nhà.
Tôn giáo thật sự có thể đoàn kết với
nhau, không chia đây kia, ngay cả mục tiêu Tôn giáo khác nhau, mà mục tiêu cuối
cùng hoàn toàn như nhau, người nước ngoài gọi là Thiên đường, Phật giáo là Thế
giới Cực Lạc, thì ra Thế giới Cực Lạc chính là Thiên đường, Thiên đường chính
là Thế giới Cực Lạc. Quý vị thật lên Thiên đường rồi, tôi đến Thế giới Cực Lạc,
đến nơi đó vừa gặp mặt: Ôi chao, quý vị đến rồi, làm thế nào quý vị đến đây vậy?
Mới biết thì ra là một nơi: mà hai tên gọi. Chúng ta gọi là A Di Đà Phật, họ gọi
là Thượng đế, thì ra Thượng đế chính là A Di Đà Phật, A Di Đà Phật chính là Thượng
đế, một bậc, mà hai tên. Vậy là hiện tại người phương Tây rất hoan hỷ, họ có tư
tưởng này, tôi vừa nói thì họ đều tán thành, đều không phản đối, cho nên Tôn
giáo có thể đoàn kết. Chúng ta ở Singapore đã làm mười mấy năm, rất thành công,
hiện tại Australia cũng làm thành công rồi. Lần này thảo luận những
vấn đề ấy với người châu Âu, tôi tin họ trong thời gian rất ngắn, Tôn giáo sẽ
đoàn kết lại nhau, sẽ giúp rất nhiều đối với hóa giải xung đột, mang an định
hài hòa đến cho thế giới, là việc tốt! Tất cả phải dựa vào giáo dục, tất cả phải
dựa vào Văn hóa truyền thống Trung Hoa.
Do đó chúng tôi đang nghĩ muốn đem Quần
Thư Trị Yếu: phiên dịch thành: văn tự các quốc gia khác nhau trên thế giới, hiện
tại đã dịch thành, có tám quốc gia, có tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Đức, tiếng
Tây Ban Nha, tiếng Nga, tiếng Nhật, tiếng Hàn, phía Nam có Indonesia, Indonesia
thuộc dân tộc Mã-lai, cho nên có phiên dịch của văn tự Mã-lai, bên này còn có
phiên dịch tiếng Hàn Quốc, do đó càng lúc càng nhiều hơn. Mọi người đều xem, mọi
người đều y theo quyển sách này để học tập. Do đó, người Trung Hoa thống nhất
toàn thế giới: là thống nhất Văn hóa, không phải Chính trị, không phải Quân sự,
cũng không phải Kinh tế Thương mại, cũng không phải Khoa học kỹ thuật, là Văn
hóa, nói được thấu suốt, chính là Quần Thư Trị Yếu để thống nhất toàn thế giới.
Mọi người đều hoan hỷ, mọi người đều đọc quyển sách đó, suy nghĩ vấn đề đều lấy
đó làm tiêu chuẩn, vậy đúng rồi, liền đã hóa giải vấn đề, đó là thiện căn, Quần
Thư Trị Yếu: là tiêu chuẩn thiện căn của xã hội ngày nay.
Tiếp theo, 不捨菩薩業供養 “bất xả Bồ-tát nghiệp cúng dường” (không xả sự nghiệp
của Bồ-tát cúng dường). Thế nào là Bồ-tát nghiệp? Nghiệp là sự nghiệp; Về Bồ-tát,
thế nào gọi là Bồ-tát? Ngài Trương Tải nói rất hay, Trương tử nói, 為天地立心,為生民立命,為往聖繼絕學,為萬世開太平 “Vị thiên địa lập tâm, vị sanh dân lập mệnh, vị
vãng Thánh kế tuyệt học, vị vạn thế khai thái bình” (Vì thiên địa lập
tâm, vì nhân dân lập mệnh, vì Thánh xưa mà kế tuyệt học, vì
vạn đời mà khai thái bình), đó là Bồ-tát. Người ấy thật sự phát tâm, hy sinh
phụng hiến, vì toàn nhân loại mà mong cầu hạnh phúc, vì quốc gia, dân tộc mà
phát dương quang đại, không vì chính mình, đó là Bồ-tát. Vì chính mình là phàm
phu, là chúng sanh, phàm phu chỉ biết là chính mình, Bồ-tát không phải vậy, Bồ-tát
nhận biết cả vũ trụ là một thể, tất cả chúng sanh là một thể. Cho nên A Di Đà
Phật ở đâu? Mỗi người đều là A Di Đà Phật. Ngài Văn Thù, ngài Phổ Hiền ở đâu? Người
người đều là Văn Thù, Phổ Hiền, chỉ cần họ phát tâm xả mình vì người khác, thì
là Bồ-tát, sự nghiệp của Bồ-tát chính là giáo hóa chúng sanh. Sự nghiệp của Phật
cũng là giáo hóa chúng sanh, đức Phật Thích Ca Mâu Ni: vì chúng ta thị hiện ra
là giáo dục. Vậy chúng ta liền biết được, sự nghiệp của Phật Bồ-tát là giáo dục,
giáo dục của đức Phật, gọi là sự nghiệp Bồ-tát. Các Tôn giáo khác là giáo dục
Tôn giáo, được, rất là tốt!
Hai chữ宗教 “Tôn giáo” này, chữ “tôn”, chư vị xem thử có ý nghĩa gì?
Học qua Thuyết Văn Giải Tự thì hiểu được, “giáo” là ý nghĩa gì? Mọi người có thể
nhìn thấy được trong tự điển thông thường, chữ “tôn” có ba nghĩa: chủ yếu, trọng
yếu, tôn sùng, đây là tôn; Chữ “giáo” cũng có ba ý nghĩa: giáo dục, giáo học,
giáo hóa. Gắn kết hai chữ này lại, thế nào gọi là Tôn giáo? Tôn giáo chính là
giáo dục chủ yếu của nhân loại; Tôn giáo là giáo học trọng yếu của nhân loại; Tôn
giáo là giáo hóa tôn sùng của nhân loại, “tôn” là tôn trọng, “sùng” là cao thượng,
chí cao vô thượng. Giáo dục Tôn giáo có thể mang hạnh phúc đến cho nhân loại, chính
là do thầy Phương đã dạy cho tôi, sự hưởng thụ cao nhất của đời người, sự hưởng
thụ cao nhất của đời người: không phải địa vị, không phải của cải.
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni xuất thân từ
Vương tử, Người đã xả bỏ Vương vị không cần nữa, xuất gia làm Tăng khổ hạnh, đó
là gì? Sự hưởng thụ cao nhất của đời người. Ngài đã mở lớp, Ngài vì chúng ta mà
thị hiện 30 tuổi khai ngộ, sau khi khai ngộ thì bắt đầu dạy học, dạy năm Tỳ-kheo
tại vườn Lộc Dã. Giảng kinh, hàng loạt kinh đó gọi là A Hàm, ý nghĩa của A Hàm:
chính là Tiểu học ngày nay mà chúng ta nói, đức Phật mở Tiểu học. Bao nhiêu
năm? 12 năm, hiện tại Tiểu học của chúng ta là sáu năm, Tiểu học của đức Phật
là 12 năm. Sau 12 năm kết thúc, thì tiếp tục mở Trung học, Trung học là Phương
Đẳng, Phương Đẳng là tám năm, Trung học hiện tại của chúng ta cũng là sáu năm, Trung
học cơ sở ba năm, Trung học phổ thông ba năm, là sáu năm, Trung học của đức Phật
là tám năm. Đại học của Phật là giảng Bát Nhã, là trí huệ, hoàn toàn giảng trí
huệ, thời gian là 22 năm, là Bồ-tát. Đại học là Bồ-tát, trong Trung học có Bồ-tát,
có A-la-hán, trong Tiểu học là A-la-hán, tốt nghiệp Tiểu học gọi là A-la-hán, trong
tốt nghiệp Trung học: có A-la-hán, có Bích-chi-phật, có Bồ-tát. Tám năm sau
cùng giảng Pháp Hoa, Pháp Hoa là Nghiên cứu sinh, nâng toàn bộ những sinh viên
trong Đại học: lên đến học vị cao nhất, học vị Tiến sĩ, là Bồ-tát, Bồ-tát thì
tương đương học vị Tiến sĩ. Chư vị phải làm rõ ràng điều này, nếu nói thành mê
tín, thì oan uổng biết bao!
Lời không thể tùy tiện
loạn nói, không làm rõ ràng mà nói đều có tội, phạm tội mà chính mình còn không
biết. Tôi trước 26 tuổi, chính là hoàn toàn không biết, nói sao nghe vậy, xem
Tôn giáo là mê tín, bài xích Tôn giáo, phản đối Tôn giáo. Về sau, sau khi làm
sáng tỏ rồi thì phục năm vóc sát đất, làm sáng tỏ Phật giáo rồi, cũng đã làm
sáng tỏ Tôn giáo khác, thì đều là Phật Bồ-tát đại từ đại bi. Thời bấy giờ giao
thông không thuận tiện, người đến già chết không có qua lại, vậy làm sao dạy
cho người được? Bồ-tát dạy học: thế thì phải hóa thân đến các khu vực khác
nhau, dân tộc khác nhau, ứng phó trình độ khác nhau, cho nên mới có nhiều Tôn
giáo xuất hiện như vậy. Kết quả thì sao? Thì ra Tôn giáo là một. Bây giờ có thể
hợp lại với nhau, hiện tại giao thông thuận lợi, thông tin phát triển, quá khứ
từ Hồng Kông đến nước Anh: ngồi thuyền phải hai tháng, bây giờ đi máy bay là 12
giờ. Do đó nên đoàn kết thống nhất lại, không cần chia ra nữa. Vì vậy người
phương Tây ngày nay: vô cùng tha thiết với Văn hóa truyền thống, Văn hóa truyền
thống Trung Hoa, hết sức tha thiết đoàn kết Tôn giáo. Chúng tôi đã làm ở
Singapore sắp 20 năm rồi, là 18 năm; ở Australia tiến hành có 13 năm, đều đã
làm thành công, vô cùng khó có.
Năm
nay chúng tôi còn có ý: mời Đại sứ của Liên Hiệp Quốc: đến Toowoomba để tham
quan, hy vọng tuyên truyền việc này trên Quốc tế. Chư vị xem thành phố ấy, 140
ngàn người, thành phố nhỏ mà 140 ngàn người, hơn 80 chủng tộc, hơn 100 loại
ngôn ngữ, mười mấy Tôn giáo, mọi người sinh sống với nhau: giống như anh chị em
vậy, đúng là hiện ra thế giới Đại đồng. Mô hình này sẽ rất có tác dụng, trước hết
để Đại sứ các nước đến tham quan, giới thiệu cho họ, để cho họ có hứng thú đến
xem qua, đến Toowoomba để tham quan, để học tập, chúng ta làm thế nào đoàn kết,
là làm thế nào trở thành người một nhà, bỏ đi tự tư tự lợi, khởi tâm động niệm:
đều nghĩ cho cư dân cả thành phố. Chúng tôi hy vọng mở rộng: thành phố này đến
một tỉnh, mở rộng đến một đất nước, mở rộng đến toàn thế giới. Hết sức nghiêm
túc nỗ lực: để vận dụng Quần Thư Trị Yếu, vận dụng Ngũ luân, Ngũ thường, Tứ
duy, Bát đức của Trung Hoa, vận dụng giới điều trong Tôn giáo .. và giáo huấn của
Thánh nhân trong kinh điển. Chúng ta đều phải học, học Tôn giáo của chính mình,
cũng học Tôn giáo khác, học tất cả. Sách vở của Tôn giáo rất nhiều, chúng tôi
biên soạn một cuốn 360, chính là viết phần nghĩa kinh quan trọng trong Tôn
giáo: thành 360 đoạn nhỏ, chúng tôi đã học những phần ấy. Tương lai những quyển
360 đó được in thành một quyển, là Tôn Giáo Thánh Kinh, chúng ta học thì học một
quyển đó là đủ rồi, Tôn giáo nào cũng có bên trong. Đây là sự nghiệp Bồ-tát.
Tiếp
theo, 不離菩提心供養 “bất ly
Bồ-đề tâm cúng dường” (không lìa tâm Bồ-đề cúng dường).
Tâm Bồ-đề là gốc, sự nghiệp Bồ-tát, sự nghiệp là cành lá, là hoa quả. Cho nên sự
nghiệp Bồ-tát từ đâu đến? Từ tâm Bồ-đề mà ra. Tâm Bồ-đề là Chân Tâm, hy vọng mọi
người đều dùng Chân Tâm, đừng dùng Vọng Tâm, mỗi người đều có tâm Bồ-đề. Thế
nào là Chân Tâm? Không tự lừa dối là Chân Tâm, ta không lừa gạt chính ta, cũng
vậy ta cũng không lừa dối bất kỳ một ai, đây chính là tâm Bồ-đề. Trong sách Đại
học, 誠意、正心 “Thành
ý, Chánh tâm” chính là tâm Bồ-đề. Chân thành hết
sức quan trọng! Làm người phải chân thành, đối với chính mình, cuộc sống chính
mình, cuộc sống ở trong tâm chân thành, cuộc sống ở ngay trong sự nghiệp chân
thành, người ấy gọi là hành Bồ-tát đạo. Kết quả của Bồ-tát là thành Phật, đặc
biệt chúng ta tu học Tịnh tông, mục tiêu của Tịnh tông là Thế giới Cực Lạc, là
thân cận A Di Đà Phật. Phát tâm Bồ-đề, hành đạo Bồ-tát, thì chắc chắn được vãng
sanh Tịnh Độ, không còn chút nghi ngờ nào, chắc chắn thành tựu.
Cả
đời này vì ai? Vì chúng sanh khổ nạn trên trái đất, không vì chính mình, chính
mình thì điều gì cũng buông xuống, buông xuống cả hai bên thiện ác, không nhiễm
một bụi trần. Bởi vì chúng sanh không buông xuống, cho nên cảm thấy rất khổ, chúng
ta làm ra hình dáng buông xuống cho họ xem, để cho họ mô phỏng, để cho họ học tập.
Nếu họ có thể buông xuống, thì rất nhanh khế nhập. Chúng ta không làm một tấm
gương, thì người ta làm sao học? Tôi làm ở Singapore, một năm làm thành, tại
sao vậy? Bởi người Trung Hoa đông, ảnh hưởng của Văn hóa truyền thống Trung Hoa
vẫn còn, vì thế một năm có thể làm được thành công. Tôi ở Australia, ở
Australia tôi đến Toowoomba, thành phố nhỏ Toowoomba hoàn toàn là Cơ Đốc giáo, là
Đại bản doanh Cơ Đốc giáo của Australia, không có Tôn giáo khác. Tôi đến đó thì
nhìn trúng nơi ấy, rất nhiều người hỏi tôi, vì sao thầy dám đến chỗ ấy? Thầy đi
đến nơi ấy, tương lai làm sao thầy sống? Tôi nói cuộc sống của chúng tôi: không
dựa vào tín đồ địa phương, vậy thì dám đi rồi. Nguồn sống của chúng tôi từ đâu
đến? Từ các nơi toàn thế giới đến, họ gởi một ít tiền cho chúng tôi, người bên
ngoài của chúng tôi đông, mỗi người gởi một chút đỉnh thì chúng tôi đủ dùng rồi.
Đó là những năm trở lại đây, chúng tôi vân du trên Quốc tế, giảng kinh dạy học,
đã kết thiện duyên với rất nhiều rất nhiều đồng học. Ngày nay, 14 năm đã đi qua,
thành tích Toowoomba biểu hiện ra rồi. Ba năm gần đây, Thị trưởng của chúng tôi
cũng đến Liên Hiệp Quốc báo cáo, dẫn theo lãnh tụ mười mấy Tôn giáo: thành lập
một đoàn, tham gia hoạt động của Liên Hiệp Quốc, hướng về những Đại sứ, các Đại
biểu dự hội, nói rõ chúng tôi ở Toowoomba đã làm những gì. Năm nay chín muồi rồi,
mời họ đích thân đi xem qua, đi khảo sát, hy vọng có thể dẫn đầu đoàn kết Tôn
giáo trên toàn thế giới. Đây là sự nghiệp Bồ-tát, phải dùng tâm Bồ-đề để làm.
Trên
kinh lại nói, 如是修行,是真供養 “như thị
tu hành, thị chân cúng dường” (tu hành như vậy, là
thật cúng dường). Tín nguyện trì danh cầu sanh Tịnh
Độ, là cúng dường chân thật nhất. 菩薩以聞名故,乃能於上述種種供養中,精勤修持,而無懈怠與厭倦之心 “Bồ-tát
dĩ văn danh cố, nãi năng ư thượng thuật chủng chủng cúng dường trung, tinh cần
tu trì, nhi vô giải đãi dữ yếm quyện chi tâm” (Nên Bồ-tát nhờ nghe danh, mà có thể trong các loại
cúng dường kể trên, tinh thuần siêng năng tu trì, và không có tâm giải đãi cùng
chán nản), việc này rất quan trọng. Câu sau
cùng của Kinh văn này, 『勤修無懈倦』“Cần tu
vô giải quyện” (Siêng tu không lười chán), tại sao vậy? Bởi tâm Bồ-đề, thì hoan hỷ giúp đỡ
chúng sanh khổ nạn, giúp họ quay về Tự Tánh, quay về Tự Tánh thì thành Phật. Thật
ra Phật giáo giảng được thấu triệt, giảng được sâu, giảng được xa, Tôn giáo
khác đều nói đến, mà chưa đến cảnh giới thành Phật, có, nhưng không nhiều,
không rõ rệt, chúng ta nhìn ra được, giảng về Thanh văn, Duyên giác thì nhiều,
Bồ-tát khá ít. Ngày nay chúng ta phải giúp họ, giúp họ nâng lên, từ Thanh văn,
Duyên giác nâng lên đến Bồ-tát, rồi từ Bồ-tát nâng lên đến đức Phật viên mãn. Có
thể hay không? Có thể, chỉ cần họ tin được Pháp môn Tịnh Độ, thì ai cũng có thể
ngay trong đời này, thành tựu Vô thượng đạo. Nếu không phải từ Pháp môn này, thế
thì thật có khó khăn, đó không phải là giả, Pháp môn này thù thắng không gì bằng,
cho nên phải giảng Kinh này tỉ mỉ.
Lần giảng này của tôi, giảng được khá tỉ mỉ tường tận,
tôi cũng không biết đã dùng bao nhiêu thời gian. Ba lần trước tôi đều là có hạn
chế, một năm giảng xong, thời gian là 1.200 giờ. Lần này đại khái đã giảng quá
gấp đôi, giảng được tỉ mỉ hơn nữa, chú trọng ở Hành môn, sau khi chúng ta học rồi,
làm sao trở thành hành vi trong cuộc sống chúng ta, làm sao vận dụng giáo huấn
của Kinh này: trong gia đình, vận dụng trong công việc, Phật hóa gia đình thật
sự là hạnh phúc mỹ mãn, vận dụng trong công việc, vận dụng trong xã hội. Vận dụng
trong công việc, bất luận chư vị làm ngành nghề gì, công việc của chư vị sẽ rất
thuận lợi, có tiền đồ, có phát triển.
Về
kiếm tiền, ghi nhớ, phải biết kiếm, tiền từ đâu mà đến? Tiền từ bố thí mà đến. Thông
minh trí huệ từ bố thí pháp mà đến, mạnh khỏe trường thọ là từ bố thí vô úy mà
đến, đức Phật dạy cho chúng ta. Mỗi người đều hy vọng có của cải, có trí huệ
thông minh, có sức khỏe trường thọ, đều muốn, nhưng họ điên đảo rồi, những điều
họ làm là ba loại tổn thất, họ đã đi sai đường. Bố thí tài được của cải, bố thí
pháp được thông minh trí huệ, bố thí vô úy được sức khỏe trường thọ, tại sao
chư vị không tu ba nhân này? Tu ba nhân này, rất nhanh thì được ba quả này. Cho
nên phải hiểu được đạo lý ấy, đây cũng là điều mà năm xưa Đại sư Chương Gia dạy
cho tôi. Chúng tôi vừa mới tiếp xúc: đại khái là lần thứ ba, lần thứ tư, ngài
nhìn ra trong mạng tôi rất khổ, không có của cải, có một chút thông minh trí huệ,
không có thọ mạng, là đoản mệnh, thọ mạng chỉ có 45 tuổi, thầy nói một chút này
cũng khá. Dạy tôi tu ba loại này, để tăng thêm tuổi thọ, thật sự, không phải giả,
tôi y giáo phụng hành. Một mình tôi ở Đài Loan, không có gánh nặng, cho nên sống
được rất tự tại, có bao nhiêu tiền, đều đem bố thí hết, sau một-hai năm thì thu
nhập liền nhiều hơn một chút, có nhiều thì bố thí nhiều. Cuộc sống cố hết sức để
tiết kiệm, tôi nhớ tôi đang trong quá trình tu hành, thời bấy giờ là trước khi
tôi chưa xuất gia, phí sinh hoạt một tháng của tôi: không vượt qua 150 đồng tiền,
tiền Đài Loan, tháng tiết kiệm nhất, tôi chỉ dùng 8 đồng tiền. Càng thí càng
nhiều, đã bố thí 65 năm.
Tôi
đặc biệt ưa thích giúp đỡ Tôn giáo khác, chúng tôi dẫn đầu, họ có khó khăn thì
chúng tôi giúp họ, chủ động đi giúp họ, không cần đợi họ đến tìm tôi, bày tỏ
thành ý. Vì thế trong đoàn thể Tôn giáo: chúng tôi đối xử được vô cùng tốt, thật
giống như anh chị em vậy. Có thể nhìn thấu tiền tài, có thể dùng chung tiền
tài, mọi người chúng tôi chia sẻ. Chúng tôi không chia sẻ phần của họ, chúng
tôi để mọi người chia sẻ phần chúng tôi, nên mọi người tin tưởng chúng tôi rồi,
chúng tôi không có mục đích, không có mưu đồ với họ, thành tâm thành ý giúp đỡ
họ, hy vọng Tôn giáo học tập lẫn nhau, hy vọng hóa giải mâu thuẫn, hóa giải
xung đột, mang đến an định hài hòa cho xã hội. Để cho tất cả tín đồ biết rằng:
chúng ta là người một nhà, học Tôn giáo nào cũng tốt, tuyệt đối đừng nói Tôn
giáo này không tốt bằng Tôn giáo kia, đều tốt, nhất định không được phép từ bỏ
Tôn giáo kia: để học Tôn giáo này, nhất định không được phép. Nói với họ, họ
tin Thượng đế, Thượng đế chính là A Di Đà Phật, A Di Đà Phật chính là Thượng đế,
Thượng đế mà chư vị tin tưởng: và A Di Đà Phật chúng tôi tin tưởng là một người,
hai tên gọi khác nhau, hà tất phải so đo? Tâm họ đã định rồi. Tâm chỉ cần một
khi an định, thì vấn đề được giải quyết rồi, giữa Tôn giáo và Tôn giáo: đã hóa
giải mâu thuẫn, hóa giải xung đột rồi. Thật có thể làm được giúp đỡ lẫn nhau, hợp
tác lẫn nhau, chư vị sẽ làm đến càng làm càng hoan hỷ, càng làm càng vui vẻ.
Tôi
còn có nguyện vọng, trong năng lực cho phép, tôi hy vọng thành phố nhỏ này: phải
xây một đại Giảng đường, đại Giảng đường cho Tôn giáo dạy học. Mỗi Tôn giáo đều
lên lớp ở nơi ấy, giống như Đại học vậy, chư vị muốn học thứ gì, đều có người dạy
chư vị, mỗi Tôn giáo đều có. Mỗi Tôn giáo thiết kế một văn phòng, dùng chung Giảng
đường và phòng dạy học, hôm nay chư vị muốn giảng điều gì, thì thông báo với
chúng tôi, có bao nhiêu người tham gia, thì cho chư vị Giảng đường lớn cỡ nào. Đến
nơi đây, nói với chư vị, chư vị đi đến Giảng đường số mấy. Như vậy tốt! Ngày
ngày gặp mặt thì thật trở thành người một nhà rồi, người thì sợ nhất là không gặp
mặt, không gặp mặt thì ngờ vực lẫn nhau, càng đoán càng sai, tạo thành hiểu lầm,
do hiểu lầm sanh ra tai nạn. Phải hóa giải thế nào? Qua lại mật thiết, thì điều
gì cũng được hóa giải hết, vấn đề đều được giải quyết rồi. Cho nên, người với
người tiếp xúc quan trọng lắm, không thể không qua lại, không thể không tiếp
xúc, thường xuyên qua lại, thường xuyên tiếp xúc, thường xuyên nói chuyện với
nhau, thì đều trở thành bạn bè tốt, giải quyết tất cả những ngờ vực, đều ngay trong
lúc nói chuyện, đã giải quyết ngay trong khi nói chuyện, điều này rất quan trọng.
Tôi
nghe nói, mười mấy Tôn giáo của Toowoomba đoàn kết rồi, tôi vô cùng hoan hỷ. Tôi
đã mua một mảnh đất, diện tích đại khái hơn 100 mẫu Anh, là đất canh tác. Mua để
làm gì? Chúc mừng Tôn giáo đoàn kết, tặng cho Tôn giáo, mảnh đất này là dùng
chung cho tất cả Tôn giáo, mọi người có phần, tương lai cho nông dân trồng trọt.
Thu hoạch thì chia thế nào? Trong Tôn giáo của chư vị có bao nhiêu tín đồ, chúng
tôi căn cứ vào đây làm tỉ lệ phần trăm. Cơ Đốc giáo đông nhất, khoảng 70%, thế
thì cho chư vị 70% thu hoạch; Phật giáo rất ít, nhưng vẫn còn Tôn giáo còn ít
hơn chúng tôi, Phật giáo đại khái: là người không nhiều, tôi tin rằng đại khái
chỉ chiếm ba, hay 5%, tạm tính 5% đi, lúc trồng ra những lương thực ấy, chúng
tôi chia 5%. Căn cứ theo đây, rất công bằng, mỗi Tôn giáo đều hoan hỷ. Mảnh đất
này, mỗi một Tôn giáo phái đại diện: thành lập một ban quản lý, mọi người quản
lý, do chúng tôi tặng cho họ. Có năng lực thêm, thì chúng tôi xây một tòa Giảng
đường lớn tặng cho họ, để họ đều hoạt động cùng nhau, Đạo tràng nhỏ của chính họ
là nhà của họ, tổ chức hoạt động thì đều đến Hội trường lớn ấy để làm, thì tốt!
Những vấn đề lộn xộn rắc rối trong Tôn giáo: giải quyết toàn bộ rồi.
Cho
nên câu tiếp theo, 勤修無懈倦。以上皆因佛號功德,不可思議 “Cần tu
vô giải quyện. Dĩ thượng giai nhân Phật hiệu công đức, bất khả tư nghì.” (Siêng tu không lười chán. Bên trên đều là do công đức
của Phật hiệu, không thể nghĩ bàn). Quy kết đến Phật hiệu,
chứng minh công đức của Phật hiệu không thể nghĩ bàn, bởi vì niệm lâu một câu
Phật hiệu rồi: sẽ giúp chư vị khai ngộ. Những điểm này từ đâu mà ra? Đều là niệm
Phật mà ra, do Phật lực gia trì, chắc chắn phải biết. Được rồi, hôm nay thời
gian hết rồi, chúng ta học đến đây thôi.
(Hết tập 337)
Nguyện đem
công đức này
Hướng về khắp tất cả
Đệ tử cùng chúng sanh
Đều sanh nước Cực Lạc
Sớm viên thành Phật quả
Rộng độ khắp chúng sanh.
Nam Mô A Di Đà Phật.