Giảng Ký Tại Gia Luật Yếu Quảng Tập
Đại Sư Ngẫu Ích Tập hợp và Chú thích
Bài 002: Tam Quy Y Và Ngũ Giới.
Giảng giải: Thầy Thích Thiện Trang
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
“Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp
Bá thiên vạn kiếp nan tao ngộ
Ngã kim kiến văn đắc thọ trì
Nguyện giải Như Lai Tỳ-ni nghĩa
Nam Mô Khai Luật Tạng Bồ-tát Ma Ha Tát”.
Nam Mô A Mi Đà Phật! Hôm nay chúng ta tiếp tục khai giảng buổi thứ hai trong Giới Luật tại gia và cũng là buổi đầu tiên trong khóa tu ngày hôm nay. Hôm nay là buổi thứ hai trong loạt bài với tựa đề là Tại Gia Luật Yếu Quảng Tập của Đại sư Ngẫu Ích (là Tổ sư thứ 9 của Tịnh Độ tông chúng ta).
Hôm trước chúng ta đã học tới phần Tam Quy y, chia theo Tông Thiên Thai thì gồm có quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng, nhưng nói theo Tạng giáo, Thông giáo, Biệt giáo và Viên giáo thì hôm trước chúng ta đã học về Tạng giáo (luận về Tam Quy) là:
Thứ nhất Tạng giáo là (phá tà chấp lúc trước, quy tâm Tam Bảo, chính là Tam Quy của Tạng giáo). Khi Phật tại thế, ở dưới cây Thọ Vương đắc đạo thành Phật Bảo, thuyết pháp Tứ đế là Pháp Bảo, độ năm vị Tỳ-kheo v.v.. là Tăng Bảo.
Sau khi Phật diệt độ, người ta dùng khuôn vàng và tất cả những chất liệu quý để làm hình tượng Phật, đó gọi là Phật Bảo. Thứ hai là những kinh sách bằng những chất liệu tốt đẹp nhất có thể thì gọi là Pháp Bảo, đó là Kinh điển của nhà Phật. Rồi những người xuống tóc xuất gia, đắp y là Tăng Bảo. Đó là tiêu chuẩn Quy y theo Tạng giáo. Tạng giáo là mình nói theo Tiểu thừa của Phật giáo.
Như vậy đầu tiên là mình phải Quy y trên tướng gọi là Quy y trên sự, còn nếu nói sâu hơn thì phải nương theo những tượng bằng đất, bằng vàng v.v… Những hình tượng đó biểu thị năm phần công đức của Nhất thiết trí. Đó là Ngũ phần Pháp thân hương gồm có Giới hương, Định hương, Huệ hương, Giải thoát hương và Giải thoát tri kiến hương. Chúng ta nương theo năm phần đó để đạt đến địa vị Nhất thiết trí, tức là được trí huệ của Phật. Còn nương theo Kinh sách để mình đạt được, hiểu được Diệt đế Niết-Bàn. Đó là quy y Pháp Bảo, và nương theo những bậc xuất gia xuống tóc đắp y mà tu chứng công đức của Thanh văn thì đó là Quy y Tăng Bảo.
Có một điều chú ý mà trong đây có nói rất rõ là bậc có thể biểu thị, có thể giải thích, có thể tu gọi là Trụ trì Tam Bảo. Chúng ta phải hiểu Sự không phải là Lý cho nên phải quy y cả hai loại Tam Bảo cả về Sự và Lý. Đó là điều mà hôm trước chúng ta đã học.
Việc Quy y Tam Bảo mang lại rất nhiều lợi ích. Giống như trong rất nhiều Kinh có nói câu chuyện, đa phần là nói về chư thiên, sau khi người cõi Trời sắp hết thọ mạng, họ sẽ bị năm tướng suy hao. Nếu như được người giới thiệu Quy y với Tam Bảo thì phước trời được tăng thêm và thường là tránh được đọa lạc vào các đường dữ như câu chuyện lần trước chúng ta có học: Vua trời Đế Thích là vua tầng trời Đao Lợi sau khi tướng suy hao hiện, quán ra thấy mình sẽ bị đọa làm một con heo trong nhà ông thợ gốm. Vì vậy lúc ấy rất hoang mang, ông ấy muốn làm sao có cách nào để thoát khỏi loài heo, thì có một vị chư thiên nói rằng: Hãy đến quy y với đức Phật, quy y Tam Bảo. Sau khi quy y thì ông ấy hết thọ mạng, cũng sanh vào bụng con heo đó làm con heo con. Nhưng do phước lực Quy y cho nên khi đọa vào thai heo trong nhà ông thợ gốm, con heo mẹ chạy vòng vòng một hồi làm bể bình gốm nên ông thợ gốm tức quá, đạp con heo mẹ đó làm nó bị sảy thai. Nhờ vậy mà thai heo đó không bị sanh ra làm heo mà quay trở lại làm vua trời Đế Thích. Cho nên công đức Quy y Tam Bảo thực sự là không thể nghĩ bàn, rất tuyệt vời.
Hôm nay chúng ta tiếp tục học về phần thứ hai là Tam Quy theo Thông giáo. Chúng ta học bên Tông Thiên Thai thì có Tạng, Thông, Biệt, Viên. Tạng là bên giáo pháp Tiểu thừa. Thông giáo là vừa Tiểu thừa vừa Đại thừa (thông cả hai bên). Biệt giáo là riêng biệt giáo pháp về Đại thừa. Viên giáo là giáo pháp viên mãn. Kiến thức này chúng ta đã học bên Khoa Chú Tuyển Giảng rồi, nên quý vị cũng hiểu được kiến thức đó.
Nhị: Tam Quy của Thông giáo
二通教者(了邪非實。體會三寶。即通教三歸)。一切形像。同於真空。一切經卷文字。無非解脫。一切緇流。即學無學。幻化無生。無二性故。歸事即是歸理。理事不二。所以不得侵淩也。
Nhị Thông giáo giả (liễu tà phi thật, thể hội Tam Bảo, tức Thông giáo Tam Quy). Nhất thiết hình tượng, đồng ư chân không; nhất thiết kinh quyển văn tự, vô phi giải thoát; nhất thiết truy lưu, tức học vô học, huyễn hoá Vô sanh, vô nhị Tánh cố. Quy Sự tức thị quy Lý. Lý Sự bất nhị. Sở dĩ bất đắc xâm lăng dã.
Giải:
#Nhị Thông giáo giả: thứ hai là nói về Tam Quy của Thông giáo.
#Liễu tà phi thật, thể hội Tam Bảo, tức Thông giáo Tam Quy: #liễu là hiểu rõ, hiểu rõ được tà chẳng phải là thật. Tức là những pháp nào là mình không theo, mình biết đó không phải thật, cho nên mình không theo. #Thể hội Tam Bảo tức là lúc đó mình hiểu được, mình lãnh hội được thế nào là Tam Bảo như trên nói, thì đó chính là Tam Quy y của Thông giáo.
#Nhất thiết hình tượng, đồng ư Chân không: tất cả hình tượng, đều đồng về Chân không. Nói chung là thuộc về tánh Không tức là không đạt được.
Bây giờ người tu đến Thông giáo cao hơn. Hồi trước Quy y đơn giản: mình chỉ biết là tôi đến đó quy y với Phật, thấy tượng Phật là mình quy y. Mình thấy Kinh sách thì mình quy y, đó là theo Kinh sách. Thứ ba là mình thấy các vị tăng, người xuất gia, các Sư cô, Sư thầy thì mình quy y. Đó là mình quy y mức ở trên, nhưng bây giờ tới mức thứ hai rồi, mình quy y nâng lên một cấp thì mình hiểu rằng tất cả đều không thật. Tam Bảo thực ra mà nói là hình tướng không có thật, bởi vì cái tướng đó không biểu thị được mãi mãi, cho nên nó thuộc về chân không. Vì vậy mình cần quy y nội dung bên trong. Đó là Thông giáo. Nội dung bên trong thì từ từ sẽ nói.
#Nhất thiết kinh quyển văn tự: tất cả những chữ viết của quyển kinh.
#Vô phi giải thoát: đều không phải là giải thoát.
Ở đây ý nói là kinh sách không phải giải thoát, nhưng mình nương tựa vào nội dung của kinh sách để mình tu thì mới giải thoát. Hình tượng Phật không thể giúp cho mình, ví dụ có người khổ quá tới lạy Phật nói: Phật ơi cứu con. Tượng Phật thì lúc nào cũng chỉ cười thôi. Mình vui thì mình thấy Phật lúc nào cũng cười, mình buồn thì thấy Phật sao bữa nay buồn quá. Đó là tượng Phật thôi, không thể cử động được cho nên mới nói “Bồ-tát đất qua sông, khó giữ được thân”. Hình tượng Phật cũng chỉ là biểu trưng thôi, chứ không thể có tác dụng như Phật thật. Vì vậy mình phải nương vào đâu? Mình lạy Phật, mình quy y Phật là mình nhìn vào hình tướng đó để biểu thị.
Giống như chúng ta ở đây thờ Tây Phương Tam Thánh thì chúng ta nhìn đức Phật A Mi Đà ở giữa, chúng ta biết rằng Ngài là người có trí huệ vô lượng gọi là Vô Lượng Quang. Ngài có thọ mạng vô lượng gọi là Vô Lượng Thọ. Ngài có vô lượng công đức và Ngài tu trong nhân địa suốt bao nhiêu kiếp, Ngài phát những nguyện lớn như thế nào thì từ đó mình hành trì theo, mình nương theo thì đó là mình đã nâng lên một bậc nữa rồi. Đó mình gọi là Quy y, còn những hình tượng không thật không thể tồn tại vĩnh viễn được.
Cho nên nếu ai quy y, chỉ quy y với mức độ ở trên tức là mình chỉ nương tựa vào đó, như vậy lỡ ngày nào mình thấy tượng Phật bị hư, bị bể thì mình nói sao Phật không linh, sao Phật bị bể mất rồi, quyển Kinh Phật này sao mà rách mất rồi. Còn người xuất gia thì tại sao không tu được tốt, thế này thế kia. Cứ nói như vậy thì tóm lại là mới quy y bước một cho nên mới vậy. Quy y bước hai là mình quy y với nội dung bên trong thì mình đã tiến hơn một bước nữa. Cho nên đây gọi là Thông giáo Quy y.
#Nhất thiết truy lưu: chữ #truy là trang phục màu nâu; chữ #lưu là những nhóm người, nhóm người mặc áo nâu. Những người mặc áo nâu là những người xuất gia. Tức là tất cả những người xuất gia.
#Tức học vô học: tức là ở địa vị Học và Vô học. Học là những người chưa đạt đến Thánh quả A-la-hán thì còn phải học. Những người đạt từ A-la-hán trở lên thì gọi là vô học.
#Huyễn hóa Vô sanh: cũng là huyễn hóa. Tất cả cho dù là người xuất gia đi chăng nữa thì cuối cùng cũng là huyễn hóa. Cuối cùng cuộc đời cũng trôi qua, cuối cùng cũng đi về nơi đâu. Cho nên mình không thể quy y mãi được cái đó, mà mình phải quy y khác.
#Vô nhị Tánh cố: cho nên Tánh là không hai.
#Quy Sự tức thị quy Lý: cho nên bây giờ mình nương theo Quy y Sự cũng chính là Quy y Lý.
Quy y Lý là mình mượn hình tượng Phật để mình hiểu Phật là thế nào. Mình mượn kinh sách để mình hiểu giáo pháp như thế nào. Mình nương tựa người xuất gia để mình hiểu được Phật pháp như thế nào, mình nương tu như thế nào. Chứ không phải mình y hết vào đó, rồi hình tượng mà hư thì mình buồn, hay người xuất gia không như pháp thì mình buồn, không phải như vậy. Cho nên bây giờ là mình từ Sự vào Lý rồi.
#Lý Sự bất nhị: Lý Sự thì không hai, không khác. Từ Sự mình hiểu được Lý, từ Lý mình cũng chấp Sự, mình theo Sự.
#Sở dĩ bất đắc xâm lăng dã: cho nên sẽ không bị xâm phạm.
Đây là tu khá hơn. Nếu ở trên quý vị chỉ quy y theo hình tướng và mình chỉ chấp tướng thôi. Quy y với Phật là phải có hình tượng Phật, Quy y với Pháp là mình quy y với kinh sách, Quy y với Tăng thì mình quy y với người xuất gia. Đó là ở trên, lỡ có chuyện gì mình thoái tâm. Nhưng mà tới đây thì mình đã khá hơn, mình hiểu được Sự chính là Lý, Lý tức là Sự thì dù có chuyện gì xảy ra mình cũng không bị xâm phạm nữa. Vì mình như như bất động. Ví dụ như mình thấy kinh bị hư rách cũng không sao. Thấy hình tượng Phật ở đâu đó (ví dụ ở một số nước Trung Đông) họ phá hủy hình tượng Phật mình cũng không sao vì tất cả thế gian đều là vô thường. Mình thấy người xuất gia cũng vậy, người ta cuối cùng cũng chết, bình thường. Sự nó như vậy, nhưng Lý thì không thay đổi.
Đó là Thông giáo, điều này hơi khó quý vị chịu khó nghe, tại vì Tạng Thông Biệt Viên thì Tạng giáo dễ nói, càng về sau thì càng khó, chúng ta cứ đi từ từ.
Tạm dịch: Hai [Tam Quy] của Thông giáo là (hiểu rõ tà không phải thật, thể hội Tam Bảo, tức là Tam Quy của Thông giáo). Tất cả hình tượng, cùng thuộc Chân không. Tất cả văn tự của quyển kinh, không gì chẳng phải là giải thoát. Tất cả hàng xuất gia, tức là hàng Hữu học và Vô học, huyễn hóa Vô sanh, nên tánh [là] không hai. Quy y Sự chính là Quy y Lý. Lý Sự không hai, cho nên không bị xâm phạm.
Tức là lúc đó niềm tin mình vững lắm, mình tu sẽ không bị nhiễu nhương ở bên ngoài, vì mình biết có Tam Bảo trong tâm mình, đó là khá hơn.
Ba: Tam Quy của Biệt giáo
三別教者(翻破無量邪惑。承事無量三寶。即別教三歸)。蓮華臺藏。圓滿報身。名佛寶。十二部經。詮三諦理。名法寶。三賢十聖。自利利他。為僧寶。歸此三寶。則能翻破見思。塵沙。無明三惑。不被界內界外八魔八倒所侵淩也。
Tam Biệt giáo giả (phiên phá vô lượng tà hoặc, thừa sự vô lượng Tam Bảo, tức Biệt giáo Tam Quy). Liên hoa đài tạng, viên mãn Báo thân, danh Phật Bảo. Thập nhị bộ kinh, thuyên Tam đế lý, danh Pháp Bảo. Tam hiền Thập thánh, tự lợi lợi tha, vi Tăng Bảo. Quy thử Tam Bảo, tắc năng phiên phá Kiến tư, Trần sa, Vô minh tam hoặc. Bất bị giới nội, giới ngoại, bát ma, bát đảo sở xâm lăng dã.
Giải:
#Tam Biệt giáo giả: Tam Quy của Biệt giáo.
#Phiên phá vô lượng tà hoặc: lại phá vô lượng tà hoặc; #hoặc là mê hoặc, tức là sự điên đảo mê hoặc.
Ở đây ý nói là những cái hiểu biết sai lầm của mình thì gọi là tà hoặc. Ví dụ mình thấy thế gian này là thật, mình cho rằng thế gian này tồn tại vĩnh viễn, những điều đó gọi là tà hoặc. Tới đây mình phải khá hơn, mình phải làm sao đó để mình trở lại, hiểu được đâu là thật, mình nương theo thật gọi là phá được tà hoặc.
Ví dụ mình có tư tưởng là lớn lên phải sống cho đã, hưởng thụ cuộc đời cho đã đi, người thế gian: người ta như thế. Đó là một loại mê hoặc, tà hoặc. Bây giờ mình học đạo rồi mình biết thế gian này cũng chỉ là tạm thôi, cõi đời chỉ có mấy mươi năm, rồi ai đó cũng sẽ đi về. Cho nên người ta mới có bài:
“Thế gian chỉ là cuộc dạo chơi
Rồi sẽ đến lúc bước chân trời,
Một mai chia cắt không còn nữa,
Nghĩ lại tiếc thương cả cuộc đời”.
Tức là mình thấy cuộc đời dài dằng dặc, cứ tưởng là lâu, mình lo đi chơi suốt cuộc đời như vậy nhưng mà đến cuối cuộc đời mới ngẫm lại thấy uổng quá, cả cuộc đời mình đã không biết tu. Cho nên lúc đó mới thấy cuộc đời là viễn mộng, muộn mất rồi.
Quý vị đồng tu ở đây, đa số chúng ta là những người rất là tinh tấn, chúng ta cũng đã học giáo pháp sâu xa rồi, cũng khá rồi. Khóa tu này có những đồng tu lặn lội từ Pháp, Anh sang đây để dự khóa tu, đi đường xa. Đó là chúng ta cũng hiểu được điều này, cho nên có thể nói chúng ta tuy chưa phá được vô lượng tà hoặc nhưng cũng phá được ít ít. Mình cũng đỡ hơn người thế gian. Người thế gian mê là mê, còn chúng ta vừa mê vừa tỉnh, không phải tỉnh hoàn toàn. Nếu tỉnh hoàn toàn thì chúng ta sẽ ra khỏi sanh tử luân hồi rồi, nhưng chúng ta lúc mê lúc tỉnh, thì cố gắng làm sao tỉnh nhiều hơn mê. Thì chúng ta có cơ hội hết đời này chúng ta sẽ ra khỏi sanh tử bằng cách tỉnh hoàn toàn giống như ra khỏi cơn mộng.
#Thừa sự vô lượng Tam Bảo: #thừa là kế thừa, phụng sự; #sự là phụng sự. Dịch là phụng sự vô lượng Tam Bảo.
#Tức Biệt giáo Tam Quy: chính là Tam Quy của Biệt giáo.
#Liên hoa đài tạng, viên mãn Báo thân, danh Phật Bảo: #Liên Hoa Đài Tạng là Thế giới của Hoa Tạng. Mình hiểu được Thế giới Hoa Tạng chính là viên mãn Báo thân Tỳ Lô Giá Na. Mình hiểu được cảnh giới cao như vậy thì đó mới là Phật Bảo.
Như vậy tiêu chuẩn này cao hơn. Chúng ta phải hiểu được Lý của những kinh Đại thừa, ví dụ Thế giới Hoa Tạng (Liên Hoa Đài Tạng) như thế nào thì đó là viên mãn Báo thân. Báo thân là to lớn như thế nào, Thế giới Liên Hoa Đài Tạng như thế nào thì đó gọi là Phật Bảo. Tiêu chuẩn Phật Bảo cao hơn.
#Thập nhị bộ kinh: là 12 phần giáo.
Bên bộ Kinh Vô Lượng Thọ Khoa Chú Tuyển Giảng chúng ta được học rồi. Trường hàng là kinh điển nào mà viết văn xuôi gọi là trường hàng. Trùng tụng là tụng lặp lại những điều trước. Cô khởi là kệ nói qua một lần thôi… Đó là 12 phần giáo.
#Thuyên Tam đế lý: 12 phần giáo đó nói ra để diễn thuyết, giảng giải về lý của Tam đế.
Tam đế ở trong Tông Thiên Thai gồm có Không đế, Giả đế và Trung đế, gọi là Không – Giả – Trung. Ở đây nói cũng hơi khó một chút. Không đế là sự thật về Không, tức là tất cả các pháp thế gian đều là vô thường, rồi cuối cùng sẽ đi đến hủy diệt, đó gọi là Không đế. Ví dụ thân thể chúng ta một ngày nào đó rồi cũng trả về cho cát bụi, gọi là cát bụi trả về cho cát bụi. Ví dụ cái nhà này dù có tồn tại mấy trăm năm rồi cũng trở về không, đó gọi là thấy tất cả các Pháp đều là không. Đó là Không đế.
Thứ hai là Giả đế, sự thật là thấy nó giả. Giả ở đây không phải là nói nó giả mà là nó được hội tụ bởi nhiều yếu tố. Ví dụ cái bàn này thực tế không phải là cái bàn, mà nó từ nhiều miếng gỗ ghép lại, nhiều cái đinh, nhiều cái ốc v.v… ghép lại. Cho nên bản chất cái bàn này không phải là cái bàn mà nó chỉ do nhiều nhân duyên. Hay cơ thể chúng ta do đất, do nước, do hơi ấm, do điện cấu tạo nên, cho nên thân thể là giả chứ không có thật.
Thứ ba là Trung đế tức là mình không rớt vào cái Giả mà cũng không rớt vào cái Không đó, mình quán Trung đạo thì gọi là Trung đế.
Tiêu chuẩn này hơi cao. Tiêu chuẩn này là tất cả 12 bộ loại kinh của đức Phật phải diễn thuyết ra được lý của Tam đế.
#Danh Pháp Bảo: những bộ kinh nào giúp mình hiểu được những điều đó gọi là Pháp Bảo.
#Tam hiền Thập thánh, tự lợi lợi tha, vi Tăng Bảo: Ở đây Tăng Bảo cao hơn. Tăng Bảo của Biệt giáo yêu cầu Tam hiền và Thập thánh.
Tam hiền là Bồ-tát tu từ Sơ trụ [đến Thập hồi hướng]. Tức là có 30 cấp bậc gồm: Thập trụ, Thập hạnh và Thập hồi hướng. Từ Sơ trụ đến Thập hồi hướng có 30 cấp gồm: Sơ trụ, Nhị trụ, Tam trụ… cho đến Thập trụ. Mỗi thập có mười bậc, tổng cộng là có ba mươi bậc. Ba mươi bậc như vậy gọi là Tam hiền. Tam hiền cộng thêm [mười] địa vị của Thập địa nữa gồm có Sơ địa, Nhị địa, Tam địa, Tứ địa… cho đến Thập địa thì gọi là Tam hiền Thập thánh. Các ngài đã làm được tự lợi và lợi tha rồi thì các ngài mới là Tăng Bảo.
Theo tiêu chuẩn này thì những người thế gian mà chưa chứng được những địa vị này thì không tính là Tăng Bảo. Quý vị thấy tiêu chuẩn này cao hơn.
#Quy thử Tam Bảo: Quy y với Tam Bảo đó.
#Tắc năng phiên phá Kiến tư, Trần sa, Vô minh tam hoặc: chữ #phiên có nhiều cách dịch, mình dịch nghĩa là có thể lại; Có thể lại phá tam hoặc: Kiến Tư hoặc, Trần sa hoặc và Vô minh hoặc.
Ở đây quy y như vậy thì chắc chắn mình phải tu, Quy y Tam Bảo không thôi mà phá được Kiến Tư hoặc, Trần sa hoặc và Vô minh hoặc. Như vậy chỉ mỗi Tam Quy thôi mà thành Phật rồi. Tiêu chuẩn của Đại sư Ngẫu Ích, quý vị thấy người ngộ nói pháp nào cũng viên mãn hết. Quý vị mới vô Quy y Tam Bảo thôi mà quy y được tới Tạng giáo, Thông giáo, Biệt giáo là quý vị đã thành Phật rồi. Quý vị phá được Kiến Tư hoặc, Trần sa hoặc và Vô minh hoặc là thành Phật luôn. Cho nên mới chỉ Quy y thôi là đủ viên thành Phật đạo, tiêu chuẩn này, cách nói này giống như Kinh Hoa Nghiêm nói là: “Nhất pháp tức nhất thiết pháp” (Một pháp tức là tất cả pháp), chỉ cần một thông là tất cả thông.
Quy y Tam Bảo một cách rốt ráo là thành Phật luôn, không cần nói gì đằng sau nữa mới thành Phật. Quý vị thấy thật sự là rất là tuyệt vời, chúng ta có quy y được tới mức độ này không? Chúng ta không quy y được tới mức độ này. Chúng ta chỉ mới quy y được mức một hoặc hai, đúng không. Chúng ta đang học tới mức thứ hai chứ còn mức độ ba này khó quá, tại vì mình phải quy y đúng nghĩa như vậy.
Bây giờ mình coi lại, phải hiểu được Báo thân Phật là gì, Thế giới Liên Hoa Đài Tạng là thế nào. Đó là Báo thân viên mãn Phật, đó là Phật Bảo. Còn tất cả các kinh điển giúp cho mình dễ hiểu được ba nghĩa là Không, Giả và Trung: Không đế, Giả đế và Trung đế. Rồi bậc Thánh tăng phải là Thánh tăng từ Tam hiền Thập thánh. Tam hiền Thập thánh tức là từ Sơ trụ cho đến Thập địa Bồ-tát thì mới gọi là Tăng Bảo. Quy y như vậy thì có thể phá được trừ được Kiến Tư hoặc, Trần sa hoặc và Vô minh hoặc.
#Bất bị Giới nội, Giới ngoại, bát ma, bát đảo, sở xâm lăng giả: Tức là không có bị Giới nội Giới ngoại Bát ma Bát đảo xâm lăng.
Ở đây nói mấy điều: Giới nội là một thuật ngữ của nhà Phật, chính là nói trong Tam giới. Chúng ta còn ở trong Tam giới: Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới thì gọi là Giới nội. Có nghĩa là chúng ta đây ở cõi người, đây là thuộc Giới nội, chúng ta đang ở Dục giới. Các loài Súc sanh như con kiến, con muỗi, con ruồi, con gì đó nó ở loài Súc sanh thì nó cũng thuộc Dục giới. Dục giới là ở trong Giới nội. Lên chư Thiên từ tầng trời thứ bảy trở lên đến tầng trời thứ 24 gọi là Sắc giới thì cũng là Giới nội cũng là ở trong phạm vi đó. Tiếp tục lên tầng trời thứ 25 đến 28 gọi là Vô sắc giới thì cũng là Giới nội. Ba cõi đó cũng là Giới nội.
Giới ngoại là ngoài giới, ngoài giới là ngoài thế giới bình thường. Giới ngoại chính là vượt ra khỏi Tam giới rồi, đây là Tịnh độ của chư Phật Bồ-tát, vượt qua đó nhưng mà chưa đến Thường Tịch Quang Tịnh Độ. Ở đây có nghĩa là mới đến Phương Tiện Hữu Dư độ và Thật Báo Trang Nghiêm độ thôi, chứ chúng ta chưa đến Thường Tịch Quang Tịnh độ. Từ Phương Tiện Hữu Dư độ và Thật Báo Trang Nghiêm độ là Giới ngoại.
#Bát ma: là tám ma. Ma là thuật ngữ tiếng Phạn gọi là chướng ngại.
Ma có nghĩa là cướp đi sinh mạng của chúng ta hay là gây chướng ngại cho chúng ta tu hành. Không phải là con ma, mà là những gì khiến cho cơ thể mình mệt. Ví dụ bây giờ muốn muốn nghe pháp lắm mà buồn ngủ quá, gục gà gục gật. Hoặc là hôm nay thầy Thiện Trang giảng chỗ này khó quá, mọi người buồn ngủ quá thì đó là gọi là ma. Đó thuộc về Ngũ ấm ma, khiến cho mình không tu được thì cũng là gọi là ma.
Ma dịch nghĩa là chướng ngại. Tám loại ma thì thông thường chúng ta học có bốn loại ma thôi. Ở đây nói tám ma thì cũng tương tự như vậy, chia nhỏ ra: Một là đoạt mạng; Hai là chướng ngại; Ba là nhiễu loạn; Bốn là phá hoại mình; Năm là hại nhân mạng tức là mất mạng người; Sáu là chướng ngại thiện căn; Bảy là mấy ma nhỏ nhỏ; Tám là Ma vương. Kể ra đó là tám ma nhưng thông thường có khi kể bốn ma, kể tám ma chúng ta có thể hiểu được.
#Bát đảo: Bát đảo là tám sự điên đảo.
Ở đây có thể nói là Nhị thừa và phàm phu thì mê chấp, nhập ở trong tám loại điên đảo. Phàm phu đối với bốn điều Thường, Lạc, Ngã, Tịnh là Tứ đức của Niết-Bàn: Thường là luôn luôn mãi mãi không bao giờ thay đổi, Lạc là vui vẻ, Ngã là có một Chân ngã và Tịnh là thanh tịnh, thì bị mê hoặc điên đảo. Họ cho phi thường phi lạc là họ không hiểu là sự thường của Niết-Bàn đó thế nào, cho nên họ cho là chẳng phải Thường, chẳng phải Lạc, chẳng phải Ngã, chẳng phải Tịnh. Đó là bốn cái điên đảo, rồi mình nhân gấp đôi lên, điều nào cũng lệch qua bên này lệch qua bên kia thành ra tám.
Ví dụ mình nói có Ngã, thì mình cũng nói mình có Ngã. Tại vì nghe nói Tứ đức của Niết-Bàn là Phật có Ngã, mình cũng nói mình có Ngã, nhưng mà Ngã của mình sai, không phải là Ngã của Chân ngã. Chân ngã là không sanh không diệt, còn cái ngã mình cho là Ngã của mình, thì Ngã đó là giả tạm. Cho nên cho là có Ngã cũng sai, rồi cho là mình không có Ngã cũng sai, tại vì thật ra có Chân ngã. Chân ngã tức là Chân Như Tự Tánh, mình vừa cho có, vừa cho không, hai điều đó đều sai. Mà bốn đức là Thường, Lạc, Ngã, Tịnh vậy mỗi cái là hai nhân bốn thành tám, đó thì gọi là Bát đảo. Đây toàn giáo nghĩa Tông Thiên Thai, Đại sư Ngẫu Ích đưa ra rất nhiều giáo nghĩa cho nên chúng ta hơi khó hiểu.
Nếu mà Quy y được như vậy thì sẽ không bị những điều đó làm mê hoặc, không làm cho trở ngại chúng ta nữa. Tức là chúng ta sẽ vượt khỏi được Giới nội, tức là vượt khỏi Tam giới. Chúng ta sẽ vượt ra khỏi Giới ngoại, tức là vượt qua khỏi Thập pháp giới và chúng ta đạt đến là Tám loại ma hoặc Tám loại điên đảo đó không bị nữa.
Quy y này cao, chúng ta cố gắng học qua điều này, lên Viên giáo còn khó nữa, quý vị cố gắng nghe. Bữa nay xui xui học tới đây, chúng ta học theo thứ tự, nếu bữa trước mà giảng bài này từ đây thì chắc là nghe dễ hiểu hơn rất nhiều. Bữa nay vào trong đây thì phần Viên giáo và Biệt giáo khó, không phải cảnh giới của chúng ta. Cho nên nghe không hiểu, buồn ngủ là chuyện bình thường. Còn nếu mà người nào nghe mà thấy hiểu v.v… tỉnh táo đó là người phi thường, chứ người bình thường nghe không hiểu, đây không phải cảnh giới của mình.
Tạm dịch: Ba [Tam Quy] của Biệt giáo là (Lại phá vô lượng tà hoặc, phụng sự vô lượng Tam Bảo, tức là Tam Quy của Biệt giáo). [Nhập vào] Liên Hoa Đài Tạng, [được] viên mãn Báo thân, gọi là Phật Bảo. 12 phần giáo, giảng giải lý của Tam đế, gọi là Pháp Bảo. Bậc Tam hiền Thập thánh, tự lợi lợi tha, gọi là Tăng Bảo. Quy y Tam Bảo trên, thì có thể lại phá tam hoặc: Kiến tư, Trần sa, Vô minh; không bị Giới nội, Giới ngoại, Bát ma, Bát đảo xâm hại.
Thứ tư: Tam Quy của Viên giáo:
四圓教者(觀邪惑即妙境。悟三寶本一體。即圓教三歸)。現前一念能覺之心。名佛寶。現前一念所覺之境。名法寶。心境本來無二。名僧寶。
Tứ Viên giáo giả (Quán tà hoặc tức diệu cảnh, ngộ Tam Bảo bổn nhất thể, tức Viên giáo Tam Quy). Hiện tiền nhất niệm năng giác chi tâm, danh Phật Bảo. Hiện tiền nhất niệm sở giác chi cảnh, danh Pháp Bảo. Tâm cảnh bổn lai vô nhị, danh Tăng Bảo.
Giải:
#Tứ viên giáo giả: tức là đây là Tam Quy của Viên giáo.
#Quán tà hoặc tức Diệu cảnh: Tức là quán những điều mê lầm, sai lầm, tà đó chính là Diệu cảnh.
Tức là ở trong trần mà không bị nhiễm trần. Đây là cảnh giới cao hơn. Có nghĩa là tới mức độ này là quý vị vào độ sanh được rồi. Quý vị vào trong thế giới này, cho dù người ta điên đảo mình vẫn coi đó là Diệu cảnh, tức là cảnh vi diệu, không có sao hết. Ví dụ như quý vị có vô Địa ngục, người không biết mà vô thì người ta sợ quá, còn Địa Tạng Vương Bồ-tát vô Địa ngục như đi dạo trên Thiên đường. Vì tất cả cảnh đó đều là cảnh tốt đẹp cả, cho nên mới quán được như thế, thấy được như thế.
#Ngộ Tam Bảo bổn nhất thể: tức là ngộ được rằng Tam Bảo vốn là một thể thôi.
Tức là hồi trước mình còn thấy Tam Bảo là ba, tới đây thì Tam Bảo thành một, không còn ba nữa. Hồi trước mình thấy Phật Bảo mình chia ra: đó là Phật, đó là Pháp, đó là Tăng, còn tới đây thì Phật Pháp Tăng trở thành một thể. Cảnh giới này cao nữa, mới gọi là Viên giáo chứ.
#Tức Viên giáo Tam Quy: đó chính là Viên giáo Tam Quy, tức là Tam Quy y của Viên giáo.
#Hiện tiền nhất niệm năng giác chi tâm: nghĩa là hiện tiền một ý niệm đó, hay chúng ta nói là nhất niệm, tức là mình giữ được một niệm mà có thể luôn luôn giác ngộ, tâm được như vậy. Tức là một niệm tâm có thể giác, tức là mình giữ được.
#Danh Phật Bảo: đó gọi là Phật Bảo.
Có nghĩa là lúc nào tâm cũng giác ngộ. Quý vị hiểu chữ “nhất niệm”, Thiện Trang không có dịch ra, #nhất niệm là giữ mãi mãi, giống như Nhất tâm Bất loạn. Nhất tâm Bất loạn thì không có thay đổi, luôn luôn giữ được ý niệm thì mình là giác luôn, đó gọi đó Phật Bảo.
Bây giờ chúng ta thì sao? Nói theo Tông Thiên Thai chúng ta có Bách giới Thiên như (Trăm giới Ngàn như). Trăm giới có nghĩa là chúng ta trong cõi Người nhưng mà có lúc thì chúng ta làm Phật, lúc giác ngộ, có lúc mình cũng muốn cứu độ chúng sanh lắm. Đó là mình sống và mình thấy tự tại vô cùng, ai nói gì mình cũng vui, hôm nay thấy ai cũng là Phật Bồ-tát hết. Nhưng lát sau, tới giờ ăn cơm, đi xuống bắt đầu thấy cơm bữa nay ngon quá, hôm nay không biết ai nấu mà ngon quá. Có hai chú phát tâm tới đây hộ trì cho khóa tu nấu cơm cho chúng ta, không biết chú này đầu bếp bao nhiêu năm rồi mà nấu ăn ngon lắm, rồi mình ăn ào ào. Lúc đó mình trở thành cảnh giới Súc sanh, cho nên lúc trong Người nhưng mà cũng là Súc sanh vì mình tham ăn. Còn nếu lúc đó mình ăn mà nhớ là mình đang trong khóa tu, mình cũng ăn và ăn tuy ngon nhưng mình cũng nhớ chánh niệm một chút. Mình cũng nhớ mình làm người thì phải ăn, thì đó là người ở trong Người.
Cho nên trong một ngày chúng ta sống trong rất nhiều cảnh giới, gọi là 10 cảnh giới. Có lúc thì mình làm Phật, Bồ-tát, có lúc thì mình làm phàm phu. Nếu là Phật thì sẽ phải là Tự giác, Giác tha, Giác hạnh viên mãn, còn Bồ-tát thì cũng làm như vậy mà không có hoàn toàn viên mãn. Còn Thanh văn thì có lúc thấy chúng sanh khó độ quá, ra khỏi thời khóa nhớ tới người nào đó, ví dụ thấy ông chồng khó độ quá, thôi tôi thành Phật chứng quả giải thoát trước đi, còn ông chồng thôi kệ. Đó là tâm Thanh văn, tức là mình tự độ mình thôi, Tiểu thừa tự độ, còn mặc kệ họ. Còn nếu như tâm Bồ-tát mình tu Pháp môn Tịnh Độ này là lúc đó mình cũng kêu tôi nguyện về Tây Phương Cực Lạc hoặc là đời sau nữa tôi xuống tôi độ ông. Nếu như vậy thì đó là mình có tâm của Bồ-tát, cho nên lúc đó mình gọi là cảnh giới Bồ-tát trong Người.
Cho nên ở đây nói phải là “hiện tiền” tức là lúc nào một niệm hiện tiền, tâm mình năng giác tức là giác ngộ được, giữ được nhất tâm giác ngộ. Giống như mình niệm Phật được Tam-muội gọi là Nhất tâm Bất loạn là mình lúc nào cũng niệm Phật. Còn đây là luôn luôn giữ được giác thì đó gọi là Phật Bảo. Điều này cũng khó đúng không, nếu mà thường thường nghĩ, giữ được như vậy gọi là Phật Bảo.
#Hiện tiền nhất niệm sở giác chi cảnh: tức là bây giờ mình đối với cảnh lúc nào mình cũng giác biết rất rõ ràng, rất là sáng suốt, thì đó chính là #hiện tiền nhất niệm chi cảnh. Tức là cảnh giới không làm mình mê được thì mới gọi là
#Danh Pháp Bảo: là Pháp Bảo. Gọi là thấy cảnh mà thành pháp rồi.
Ví dụ đơn giản là quý vị thấy cái gì cũng thành pháp hết, thấy cái hoa đẹp ơi là đẹp nhưng mình biết hoa này cũng vô thường, mình thấy rồi nó cũng tàn, nó sanh, rồi nó cũng diệt, nó không còn trụ lâu được. Cho nên đời người cũng như vậy, đó là mình giác ngộ được chút, nhưng giác ngộ đó là giác ngộ của Tứ đế Thanh văn. Còn nếu mà quý vị cũng thấy hoa này và bắt đầu có ý nghĩ rằng hoa này cũng do bao nhiêu người chăm sóc v.v… mình phải có nhân duyên với những người đó, mình phải giác ngộ để độ những người đó v.v… đó là tâm Bồ-tát.
Cho nên cũng là thấy pháp sanh diệt nhưng mình thấy là mình muốn độ chúng sanh, mình muốn độ mình rồi độ chúng sanh thì là Bồ-tát. Còn mình chỉ thấy pháp đó sanh diệt thôi, pháp đó gọi là sợ sanh tử luân hồi mà mình chỉ muốn giúp cho mình, mình nghĩ cho mình không, đó gọi là Thanh văn thôi.
Ở đây chúng ta có thể hiểu được đó Pháp Bảo. Tức là mình thấy được tất cả các cảnh đều trở thành cảnh giới biểu lộ ra pháp được hết, đó gọi là Pháp Bảo.
#Tâm cảnh bổn lai vô nhị, danh Tăng Bảo: có nghĩa là tâm và cảnh vốn là không hai, đó gọi là Tăng Bảo.
Những người này tu khá lắm rồi, biết là cảnh từ tâm mình hiển hiện ra, tất cả do mình làm nên thôi. Tâm với cảnh là một, cảnh đó là từ tâm mình hiện ra, mình hiểu được vậy thì mình là Tăng Bảo theo Viên giáo. Cho nên tu đến địa vị giác ngộ thì hiểu rõ tất cả đều là một hết, từ trong thôi.
Tạm dịch: Thứ Tư [Tam Quy] của Viên giáo là (Quán tà hoặc tức là diệu cảnh, ngộ Tam Bảo vốn là một thể, tức là Tam Quy của Viên giáo). Hiện tiền nhất niệm tâm có thể giác, gọi là Phật Bảo. Hiện tiền cảnh được giác bởi nhất niệm, gọi là Pháp Bảo. Tâm và cảnh xưa nay không hai, gọi là Tăng Bảo.
究竟悟此一念三寶者。名為佛。種種詮此一念三寶者。名為法。秉佛所說之法。研此一念三寶者。名為僧。全理成事。全事即理。舉一即三。言三即一。歸此一體事理三寶。則能圓翻三惑。圓攝界內界外魔倒而作佛事。不被侵淩也
Cứu cánh ngộ thử nhất niệm Tam Bảo giả, danh vi Phật. Chủng chủng thuyên thử nhất niệm Tam Bảo giả, danh vi Pháp. Bỉnh Phật sở thuyết chi Pháp, nghiên thử nhất niệm Tam Bảo giả, danh vi Tăng. Toàn Lý thành Sự, toàn Sự tức Lý, cử nhất tức tam, ngôn tam tức nhất. Quy thử nhất thể Sự Lý Tam Bảo, tắc năng viên phiên tam hoặc, viên nhiếp Giới nội, Giới ngoại, ma đảo nhi tác Phật sự, bất bị xâm lăng dã.
Giải:
#Cứu cánh ngộ thử nhất niệm Tam Bảo giả: là bậc hay là người mà rốt ráo ngộ được nhất niệm Tam Bảo này.
#Danh Vi Phật: gọi là Phật.
Quý vị hiểu được hết, ngộ được rốt ráo thì gọi là Phật.
#Chủng chủng thuyên thử nhất niệm Tam Bảo giả: tức là tất cả những gì mà giảng giải được về ba điều nhất niệm Tam Bảo đó.
#Danh vi Pháp: gọi là Pháp.
#Bỉnh Phật sở thuyết chi Pháp: chữ #bỉnh là tuân theo, giữ gìn, kiên trì, tức là tuân theo Pháp mà được Phật thuyết.
#Cứu thử nhất niệm Tam Bảo giả: chữ #cứu này là tham cứu, tham cứu được một niệm nhất niệm Tam Bảo như trên đã nói.
#Danh vi Tăng: gọi là Tăng. Hay gọi là Tăng Bảo.
Ở đây Phật Bảo thì dễ rồi, cảnh giới rốt ráo ngộ được điều nhất niệm, gọi là Phật. Điều thứ hai là từ những gì mà có thể giảng giải về nhất niệm Tam Bảo như trên nói thì gọi là Pháp. Còn Tăng là những người theo Pháp mà Phật nói đó, họ tham cứu vô được nhất niệm Tam Bảo, gọi là Tăng.
#Toàn Lý thành Sự: tức là tất cả Lý trở thành Sự. Tức là mình đem ra mình áp dụng Lý là thành Sự được.
#Toàn Sự tức Lý: là tất cả Sự chính là Lý.
#Cử nhất tức tam: nêu một thì là tức là ba.
#Ngôn tam tất nhất: nói ba chính là một, một tức là ba, giống nhau, Lý cũng là Sự, Sự cũng là Lý.
#Quy thử nhất thể Sự Lý Tam Bảo: #quy là Quy y; Quy y nhất thể Sự Lý Tam Bảo tức là Sự và Lý mình không còn phân biệt nữa, mình biết đó là một rồi thì mình quy y được, nương tựa được với điều đó.
#Tắc năng viên phiên tam hoặc: chữ #phiên này dịch là vượt qua, vượt qua được tam hoặc. Tam hoặc là Trần sa hoặc, Kiến Tư hoặc và Vô minh hoặc. Mình sẽ đều có thể vượt qua [ba hoặc này].
#Viên nhiếp Giới nội, Giới ngoại, ma đạo nhi tác Phật sự: cảnh giới đây có thể nhiếp viên mãn được Giới nội tức là Tam giới: Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới, hay chúng ta nói Lục đạo luân hồi. Giới ngoại tức là 10 Pháp giới mình nhiếp được luôn. Tất cả các loại ma không sao hết, rồi các loại điên đảo cũng không sao. Mình nhiếp được hết thì mình sẽ làm Phật sự được.
#Bất bị xâm lăng giả: thì không còn bị xâm phạm nữa. Rất là tuyệt vời nếu mà quy y được tới mức độ đó.
Tạm dịch: Bậc rốt ráo ngộ nhất niệm Tam Bảo này, gọi là Phật. Tất cả những gì giảng giải nhất niệm Tam Bảo ấy, gọi là Pháp. Bậc giữ vững Pháp mà Phật đã thuyết, tham cứu sâu xa nhất niệm Tam Bảo này, gọi là Tăng. Tất cả Lý trở thành Sự, tất cả Sự tức là Lý, nêu một tức là ba, nói ba tức là một. Quy y Nhất thể Sự Lý Tam Bảo này, thì có thể viên mãn vượt qua tam hoặc, viên nhiếp Giới nội, Giới ngoại, ma đảo mà làm Phật sự, không bị xâm phạm nữa.
Đó là chúng ta đọc sơ sơ qua. [Về] Quy y này [mình] nghe ba cái sau hơi mơ hồ, tại vì đó không phải cảnh giới của chúng ta, chúng ta cố gắng. Theo trình tự tu hành chúng ta nên từng bước, từng bước tiến lên. Ví dụ như mỗi khi chúng ta học thì đầu tiên mình học cấp Tiểu học, rồi Trung học, rồi tới Cấp ba, rồi tới Cao đẳng, Đại học. Chứ chúng ta một phát lên trời thì không được. Chúng ta cứ tham khảo đi từ từ, đầu tiên học hãy cố gắng quy y theo Tạng giáo trước, tức là chấp Sự là có hình tượng Phật để mình quy y. Rồi mình quy y theo Thông giáo, tức là mình từ hình tướng mình hiểu được Lý bên trong. Rồi mình tới Viên giáo là quá cao rồi, hai điều đằng sau là Biệt giáo và Viên giáo cao hơn, mình cứ theo thời gian mình tu, từ từ đừng nôn nóng, nếu mà quy y được như vậy.
Tại vì đây là lời của Đại sư Ngẫu Ích, ngài là bậc Minh tâm Kiến tánh, kiến Tánh thành Phật rồi. Cho nên ngài nói pháp nào cũng viên mãn hết. Gọi là pháp thì không có cao có thấp, chỉ có người lãnh hội có thấp có cao. Người cao thì người ta hiểu pháp nào cũng thành cao “Nhất thiết pháp giai thị Phật pháp”, tức là tất cả pháp đều là Phật pháp. Còn chúng ta mặc dù học pháp này, ngài gợi ý cho chúng ta lên đến cao như vậy mà cuối cùng mình cũng không hiểu được sâu xa, đó là do căn tánh của mỗi người. Không sao hết, chúng ta mới mở màn, mới đầu, chưa có gì, từ từ chúng ta đi tiếp.
Lục Tức Tam Quy
略明四教竟。言六即者。四教皆得義論六即。前三是權。姑置不論。今但約圓。謂一切眾生惑業苦三。體是不可思議三德祕藏。苦即法身。五陰色心。本如來藏。妙真如性。如冰即水故。惑即般若。見思無明。本無內外中間諸相。如勞即目故。業即解脫。有漏縛著。本無能縛。及所縛者。如拳即手故。
Lược minh Tứ giáo cánh, ngôn Lục tức giả. Tứ giáo giai đắc nghĩa luận Lục tức. Tiền tam thị quyền, cô trí bất luận. Kim đãn ước viên, vị nhất thiết chúng sanh, hoặc nghiệp khổ tam, thể thị bất khả tư nghì Tam đức Bí tạng. Khổ tức Pháp thân, Ngũ ấm sắc tâm, bổn Như Lai Tạng. Diệu Chân Như Tánh, như băng tức thuỷ cố. Hoặc tức Bát-nhã, Kiến Tư Vô minh, bổn vô nội ngoại trung gian chư tướng, như lao tức mục cố. Nghiệp tức Giải thoát, Hữu lậu phược trước, bổn vô năng phược. Cập sở phược giả, như quyền tức thủ cố.
Giải:
#Lược minh Tứ giáo cánh: tức là đã nói lược về Tứ giáo đó rồi.
#Ngôn Lục tức giả: thì bây giờ nói thêm Lục tức nữa.
Lục tức Phật chúng ta học trong Tịnh Độ Đại Kinh Khoa Chú hay là Khoa Chú Tuyển Giảng mình học đi học lại. Cho nên một số vị đồng tu lúc đầu nói sao khó quá thầy ơi, học gì đâu mà nhiều kiến thức quá. Thật ra học một thời gian sẽ có sự lặp lại, [những kiến thức] cứ lặp đi lặp lại. Hôm qua có vị đồng tu hỏi Thiện Trang, Thiện Trang nói bao giờ mà quý vị hiểu được Lục tức và đem áp dụng cho tất cả mọi cảnh giới được, đem cái gì quý vị cũng nói ra được thì quý vị mới hiểu được Lục tức.
Nói về Lục tức Phật, thông thường trong Tông Thiên Thai chỉ nêu Lục tức Phật, còn trong đó mở ngoặc ghi câu tiếp theo “các Lục tức khác tương tự”.
Lục tức Phật gồm có Lý tức Phật. Lý tức Phật là tất cả chúng sanh vốn là Phật, xưa nay vốn là Phật, chỉ do mê ngộ khác nhau. Bây giờ mình làm phàm phu chứ vốn mình là Phật rồi. Giống như mình có một viên ngọc tròn sáng, viên ngọc rất là quý báu như vậy nhưng mà hiện nay mình bị bỏ vô trong bùn cho nên nó dơ thôi, chứ mình lượm lên, rửa sạch sẽ thì viên ngọc vẫn sáng như xưa. Đó gọi là mình có Tự Tánh Phật giác ngộ như vậy gọi là Lý tức Phật.
Thứ hai là Danh tự tức Phật. Danh tự có nghĩa là mình đã hiểu được cái lý ở trên là ai ai cũng là Phật hết, ai ai cũng có Tự Tánh. Mình hiểu và mình bắt đầu sống và lúc nào cũng nhớ mình có Tự Tánh như vậy thì mình gọi là Danh tự tức Phật. Chúng ta hầu như làm được điều một thì khỏi nói, điều thứ hai làm cũng được rồi.
Điều thứ ba là Quán hạnh Tức Phật. Tức là lúc đó mình quán để mình tu hành, mình quán được lý đó, quán [có] sức mạnh. Quán được tu như vậy gọi là Quán hạnh tức Phật.
Quán hạnh tức Phật rồi thì mình bắt đầu được gần gần giống Phật, đó gọi là Tương tợ Tức Phật. Sau khi gần giống rồi bắt đầu mình chứng được một phần. Tương tợ tức Phật là giống như trăng dưới nước, tức là bóng trăng ở dưới nước, thấy có trăng nhưng không phải trăng thật, trăng dưới nước thôi.
Tiếp theo là Phần chứng Tức Phật, giống như có trăng rồi nhưng mà trăng khuyết. Ở bên Châu Âu cũng có thấy trăng khuyết.
Khi mình được gọi là Cứu cánh Tức Phật thì là Phật rốt ráo, giống như trăng tròn. Đó là Lục tức Phật.
Đem Lục tức Phật tương tự như vậy bây giờ ngài Đại sư Ngẫu Ích nói về Lục tức Tam Quy. Lục tức Phật, Lục tức Tam Quy, như bữa hôm qua Thiện Trang nói Lục tức Tịnh Độ cho một số đồng tu nghe.
Lục tức Tịnh Độ đầu tiên là Lý tức Tịnh Độ, có nghĩa là mình biết tất cả chúng sanh đều có một cõi Tịnh Độ, có thấy Tây Phương Cực Lạc, mình biết có Tây Phương Cực Lạc. Đó là mình hiểu và mình biết niệm Phật với tín nguyện đầy đủ thì sẽ về Tây Phương Cực Lạc có đức Phật A Di Đà. Đó gọi là Lý tức Tịnh Độ.
Sau khi hiểu lý rồi bắt đầu mình hiểu một chút, hiểu được như vậy bắt đầu mình ráng làm theo một chút, đó gọi là Danh tự Tịnh Độ.
Sau khi mình khá hơn, mình bắt đầu lên được Quán hạnh tức là mình đã tu khá khá, mình thường xuyên nhớ có đức Phật A Mi Đà, có Tây Phương Cực Lạc để mình tu v.v… Tây Phương Cực Lạc như thế như thế, cảnh giới đó là từ tâm mình hiển hiện, mình lên đó là Quán hạnh Tịnh Độ rồi, cũng khá rồi đó.
Tương tợ Tịnh Độ là có lúc mình sống vô được trong cảnh giới đó, có lúc mình chưa sống được, nhưng mà sống được nhiều hơn gọi là tương tợ.
Sau đó là Phần chứng là cảnh giới phải niệm tới Phật tánh Tam-muội. Khi đó mình bắt đầu thấy Tây Phương Cực Lạc nhưng thấy chưa hoàn toàn. Mình thấy giống như Hòa thượng Hải Hiền, thấy cảnh giới Tây Phương Cực Lạc, thấy đức Phật A Di Đà rồi, sống ở đây giống như sống ở Cực Lạc, nhưng chưa hoàn toàn rời đây được. Khi nào mình hoàn toàn có thể đi một phát về Tây Phương Cực Lạc thì chứng đó gọi là Cứu cánh Tịnh Độ.
Đó là giáo nghĩa của Tông Thiên Thai chia như vậy, cho nên chúng ta đều có thể chia ra như vậy. Bây giờ chúng ta hãy nghe ngài Đại sư Ngẫu Ích sẽ dùng cách đó để nói về Tam Quy y. Quy y Tam Bảo theo Lục tức.
#Tứ giáo giai đắc nghĩa luận Lục tức: tức là bốn giáo này cũng hợp với Lục tức nghĩa luận. Tức là mình đem nghĩa luận ra mình bàn theo kiểu Lục tức.
#Tiền tam thị quyền: #tiền là đằng trước; #thị quyền có nghĩa là tạm thời không có bàn. Ba điều nói đằng trước là mới nói phương tiện thôi.
#Cô trí bất luận: tức là tạm thời ở đây không bàn, chỉ mới nói sơ thôi chứ không nói rốt ráo.
#Kim đãn ước viên: bây giờ tạm thời chỉ có nói rút gọn một cách trọn vẹn, rút gọn hết cỡ chứ không nói dài; #ước là rút gọn; #viên là viên mãn, rút gọn cho tròn, rút gọn cho ngắn lại hết cỡ.
#Vị nhất thiết chúng sanh, hoặc nghiệp khổ tam: là ba điều hoặc nghiệp khổ của tất cả chúng sanh.
Bây giờ nói về ba điều hoặc nghiệp khổ, lúc trước chúng ta học qua rồi. Thiện Trang hay nói trong kinh Phật có chùm trái ác-xoa ở Ấn Độ, một chùm lúc nào cũng có ba trái, cho nên gọi là chùm trái ác-xoa gồm có: Hoặc, Nghiệp và Khổ. #Hoặc là mê hoặc điên đảo; #Nghiệp là mình tạo nghiệp rồi sau đó mình nhận lấy quả khổ, gọi là Hoặc, Nghiệp, Khổ. Đó là ba điều Hoặc – Nghiệp – Khổ của tất cả chúng sanh.
#Thể thị bất khả tư nghì Tam đức Bí tạng: thể là Tam đức Bí tạng không thể nghĩ bàn.
Tam đức: là Bát Nhã đức, Giải thoát đức, và Pháp thân đức. Tam đức của Như Lai, cảnh giới của Phật có ba đức. Bát Nhã đức là về trí huệ, Giải thoát là Ngài được tự tại, Ngài sống lâu vô lượng v.v… Ngài có thể nghiệp tự tại, mạng tự tại, đó là Giải thoát đức. Pháp thân đức là không sanh không diệt, khắp ở mọi nơi, nơi nào cũng có, đó là Tam đức. #Bí tạng là hàm chứa, tất cả chúng sanh đều có, gọi là hàm tàng, chứa ngầm ở trong đó, gọi là bí tạng.
#Khổ tức thị Pháp thân: Khổ chính là Pháp thân. Cảnh giới này cao, chúng ta thấy khổ là khổ, chứ khổ sao là Pháp thân được.
#Ngũ ấm sắc tâm, bổn Như Lai Tạng: tức là thân Ngũ ấm của chúng ta gồm: Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức; Sắc thân hình tướng đây vốn là Như Lai Tạng, tức là từ Pháp thân hiện ra thôi. Hay Như Lai Tạng là từ A-lại-da thức hiện ra thôi, đây là mình hiểu cảnh giới cao như vậy đó.
Tức là bây giờ mình khổ cũng chính là Pháp thân, thật ra là Pháp thân biến ra, nó giả thôi. Giống như quý vị đang chơi game, hay trên tivi, quý vị coi phim, quý vị thấy cảnh giới khủng khiếp quá thì mình sợ gần chết, đó là tại vì mình chưa giác ngộ. Còn tới đây giác ngộ rồi thì mình biết đó là màn hình của mình, mình coi, mình cười hà hà chứ có gì đâu. Trên màn hình có chiếu cảnh gì kệ nó, đâu có liên quan tới mình đâu, cho nên cười hà hà thôi. Đó là khổ chính là Pháp thân. Người ta trên tivi đang diễn bộ phim đó, người ta khổ ghê gớm còn mình cười hà hà vì phim trên tivi đâu có thiệt, đó gọi là khổ chính là Pháp thân.
Ngũ ấm sắc thân là thân Ngũ ấm của chúng ta, hình tướng của chúng ta chính là Như Lai Tạng, là từ A-lại-da thức hiện ra. A-lại-da thức sau khi thành Phật rồi gọi là Như Lai Tạng. Hay nói cách khác, nói theo ví dụ vừa rồi thì thân thể hay những hình ảnh trên bộ phim đó đang chiếu từ cái tivi phóng ra thôi, mình hiểu được như vậy gọi là Như Lai Tạng. Như Lai Tạng giống như đèn chiếu tivi chiếu ra, như ta coi máy chiếu kia chiếu tới, chứ nó đâu có thật đâu. Còn người không biết, nếu người ta không học về máy chiếu thì họ nói cái này hay ha, sao có mấy cái chữ đó nữa.
#Diệu Chân Như Tánh, như băng tức thuỷ cố: Tánh Diệu Chân Như là Tánh vi diệu giác ngộ giống như Chân Như Tự Tánh, giống như băng như là nước vậy.
Băng tuyết ở Châu Âu dễ hiểu hơn, tới mùa có băng tuyết, mình biết băng tuyết đó thật ra là nước thôi, nên lạnh giá mình nói nó lạnh thôi, sao mà băng tuyết lạnh quá vậy, thật ra nó là nước thôi, đâu có gì đâu. Cũng vậy, khi mình hiểu được như vậy rồi thì đối với tất cả cảnh giới mình biết nó từ tâm mình hiển hiện ra, có gì đâu mà lo lắng. Cảnh giới của Phật là có thể điều khiển được chứ không phải như chúng ta, chúng ta thấy nước lạnh quá, còn Phật thì không có.
Quý vị thấy thật ra không phải Phật có, mà tất cả chúng sanh đều có. Ví dụ như quý vị đều thấy loài nào sống ở vùng nào thì thích nghi được với vùng đó, mới đầu từ vùng khác qua có thể nó không thích nghi được. Ví dụ như muỗi ở bên này chịu lạnh được, nó giống con muỗi kia thôi nhưng nó sống theo năm tháng dần dần thích nghi được, dần dần chịu lạnh được, nên mùa đông cũng không chết, vẫn còn đầy. Ví dụ như quý vị xuống tầng hầm dưới đây, nó đậu cũng mấy ngàn con trong hầm đó, mà muỗi bên này được cái hiền hơn muỗi Việt Nam, muỗi Việt Nam cỡ đó nó cắn chắc là thôi rồi, muỗi bên này hiền, ít cắn, cho nên mỗi chúng sanh có thể thích nghi được.
Rồi như một số đồng tu chia sẻ đem các giống của Việt Nam qua đây trồng, nếu trồng mùa thứ nhất thì sẽ thu hoạch được rất ít. Nhưng sau khi nó có hạt rồi, trồng lại mấy hạt giống từ cây đó gây trồng lên lần thứ hai, đến mùa thứ ba là ăn ngon, vì nó thích nghi được, chịu lạnh được. Đó chính là Chân Như Tánh, chúng ta có Tánh Chân Như có thể thích nghi với mọi hoàn cảnh, thích nghi với mọi điều kiện. Nhưng mình thích nghi với cảnh giới đó chậm quá, còn Phật thích nghi nhanh, cho nên vô cảnh Địa ngục rất nóng 1.000 độ C, Ngài vô Ngài nói ta dùng phương pháp đẳng nhiệt, biến nhiệt độ của ta thành 1.000 độ C ngang với nhiệt độ Địa ngục thì không nóng. Chúng sanh có thể thích nghi được.
Ai học Sinh học thì biết, ví dụ như loài cá có thể sống trong băng, nó có thể chuyển nhiệt độ của nó bằng nhiệt độ của băng. Cho nên khi nước đóng băng, nó cũng đẳng nhiệt ngang với nhiệt độ của băng nên nó không chết, khi băng tan nó bơi lội bình thường, nó trở lại nhiệt độ cũ. Đó là Tự Tánh Chân Như của mình có thể thích nghi được với mọi hoàn cảnh. Mà các loài chúng sanh bình thường đã có năng lực đó rồi, huống hồ Phật Bồ-tát, các ngài có khả năng điều khiển được tích tắc, chuyển được liền, nên dù ở trong núi đao rừng thẳm chăng nữa, cũng không có gì cả.
Ví dụ vô núi đao, người ta chém một phát, mình thì mình đâu có kịp thích nghi, mình phải quán là thân thể mình thành không để con dao chạy qua. Do mình không quán được kịp, như vậy nên bị chém một phát là thấy chém thiệt. Nếu như lúc đó mình đủ giác niệm là quán thân thể thành không, biến thành không, nên thanh kiếm đi ngang qua xong không có gì hết. Đó là cảnh giới của những người có Thần thông.
Quý vị thấy những người có Thần thông như A-la-hán chém đâu có sao, A-la-hán mà nhập Diệt tận định quý vị chém cũng không sao hết, trừ khi chưa nhập được Diệt tận định. Đó là định của A-la-hán cũng chưa sâu lắm. Định của Bồ-tát có thể là yên tâm lúc nào cũng trong định, cho nên Bồ-tát du hí nhân gian, đi chơi thôi. Ví dụ vô đây chúng sanh thích làm gì mình cũng bình thường, như chiến tranh Ukraine rơi xuống quả bom nguyên tử, Bồ-tát thấy trái bom cũng bình thường, bom nguyên tử cũng chuyện nhỏ không có chuyện gì cả. Đó là cảnh giới Thần thông, mình nói là Thần thông nhưng thật ra mình vốn có, mình có thể biến đổi được, mình thích nghi được. Đó gọi là Diệu Chân Như Tánh, như băng tức thủy. Chúng ta có thể hiểu được điều đó rất dễ dàng không có gì khó khăn.
#Hoặc tức Bát-nhã: mê hoặc chính là Bát-nhã.
Những cái mê hoặc, phiền não, #hoặc chính là phiền não chính là trí huệ. Cho nên ở đây giống tinh thần trong Kinh Lăng Nghiêm, nếu ai phiền não nhiều thì trí huệ nhiều. Giống như quý vị có nhiều sóng thì chắc chắn quý vị có nhiều nước. Cho nên mê thì phiền não là phiền não, mà giác thì phiền não trở thành Bồ-đề. Quý vị càng nhiều phiền não thì quý vị chuyển một cái quý vị càng có nhiều trí huệ. Điều này thật ra dễ thôi, mình nói một ví dụ đơn giản, như chúng ta hồi xưa mình học mình biết quá nhiều thế gian, bây giờ quý vị giác ngộ rồi, quý vị dùng những cái biết đó, quý vị làm cho Phật pháp, đó là chuyển phiền não thành Bồ-đề.
Giống như Thiện Trang hồi xưa học đủ thứ, bây giờ cái gì cũng biết, biết nhiều thứ quá. Nhưng bây giờ vô trong Phật pháp, quý vị lại đem cái đó để mà sử dụng cho Phật pháp thì trở thành Bồ-đề. Ví dụ như hồi xưa học Sinh học, chuyện con cá thích nghi trong nước trong băng là phiền não. Nhưng bây giờ mình giác ngộ, mình thấy cái đó là Phật pháp.
Cho nên đừng sợ phiền não, phiền não có thể chuyển thành Bồ-đề, mình có thể chuyển được. Từ đó mình có thể yên tâm để mình tu hành, chứ đừng sợ quá, hồi xưa con học quá nhiều thứ, thế này thế kia, bây giờ nếu như mình chuyển được thì hoặc là mê hoặc hay phiền não tức Bát-nhã, chính là trí huệ giải thoát.
#Kiến Tư Vô minh, bổn vô nội ngoại trung gian chư tướng: tức là ba loại phiền não: Kiến Tư hoặc, Trần sa hoặc và Vô minh hoặc vốn không có ngoài, không có trong, không ở khoảng giữa trung gian các tướng đó. Điều này rất là tuyệt vời. Kiến Tư phiền não, Vô minh phiền não vốn là không có các tướng trong ngoài và trung gian, nó không có ở đâu hết.
#Như lao tức mục cố: như lao hay như lạo, chữ 勞 này ở đây mình đọc âm là lao, có nghĩa là sự mệt mỏi nhọc nhằn. #Tức mục ở đây mình dịch nghĩa giống một câu thành ngữ là hiện tiền, trước mắt, tức là những gì mắt thấy. Cho nên ở đây mình dịch nghĩa là như trần lao tức là những gì mắt thấy. Thật ra mình thấy những nỗi khổ là do mình cảm nhận mà thôi chứ không có thật. Nếu như mình giác ngộ thì mình sẽ không cảm nhận là khổ.
#Nghiệp tức Giải thoát: Nghiệp tức là Giải thoát. Mình thấy nghiệp sao mà giải thoát được, nhưng thật sự là vậy, khi mà người giác ngộ rồi thì Nghiệp là Giải thoát.
Hòa thượng Tịnh Không hay nói là: nếu quý vị có nghiệp Địa ngục, mai mốt giác ngộ rồi, quý vị vô Địa ngục độ chúng sanh được, quý vị có chủng tử đó. Quý vị có nghiệp của Súc sanh, cho nên quý vị vô Súc sanh, quý vị làm con chó, con mèo gì đó mà độ chúng sanh được. Chứ mình không có chủng tử đó mình đâu có vô được, cho nên nghiệp cũng chính là giải thoát.
#Hữu lậu phược trước: tức là những cái triền phược Hữu lậu, triền phược vào những sự trói buộc chấp trước.
#Bổn vô năng phược: là vốn không có trói buộc. Nó không trói buộc mình đâu, #Hữu lậu là phiền não, những trói buộc đó nói chung chấp trước cũng là phiền não thôi, vốn nó không có trói buộc mình.
#Cập sở phược giả: và không bị trói buộc.
#Như quyền tức thủ cố: #quyền là cái nắm tay; Như nắm tay chính là tay.
Tạm dịch: [Đã] nói lược về Tứ giáo rồi, [giờ] nói về Lục tức. Tứ giáo cũng hợp [với] Lục tức nghĩa luận. Hãy tạm để yên không bàn. Đây chỉ rút gọn trọn vẹn, là ba điều Hoặc – Nghiệp – Khổ của tất cả chúng sinh, thể là Tam đức Bí tạng không thể nghĩ bàn. Khổ tức là Pháp thân. Ngũ ấm sắc tâm, vốn là Như Lai Tạng, Diệu Chân Như Tánh, như băng tức là nước. Hoặc tức là Bát-Nhã, Kiến tư Vô minh, vốn không có các tướng trong ngoài trung gian, như trần lao tức là những gì mắt thấy. Nghiệp tức là Giải thoát, Hữu lậu triền phược chấp trước, vốn không có thể trói buộc, và không bị trói buộc, như nắm tay tức là tay.
Ở đây ví dụ cuối cùng là do tay mình, mình nắm lại thì thấy trói buộc, mình thả ra thì giải thoát thôi, do mình đó, nói đơn giản như vậy.
Lý Tức Tam Quy
法身是法寶。般若是佛寶。解脫是僧寶。蠢動含靈。無不具足惑業苦三。則是無不具足三寶德相。但由迷隔。日用不知。雖復不知。終不能越此理之外。故為理即三歸(一切眾生。具足三寶體性。在迷不覺。亦不相離。理即三歸)。
Pháp thân thị Pháp Bảo; Bát-nhã thị Phật Bảo; Giải thoát thị Tăng Bảo. Xuẩn động hàm linh, vô bất cụ túc Hoặc – Nghiệp – Khổ tam, tắc thị vô bất cụ túc Tam Bảo đức tướng, đãn do mê cách, nhật dụng bất tri. Tuy phục bất tri, chung bất năng việt thử Lý chi ngoại. Cố vi Lý tức Tam Quy (nhất thiết chúng sanh, cụ túc Tam Bảo Thể tánh, tại mê bất giác, nhi bất tương ly, Lý tức Tam Quy).
Giải:
#Pháp thân thị Pháp Bảo; Bát-nhã thị Phật Bảo, Giải thoát thị Tăng Bảo: Pháp thân là Pháp Bảo; Bát-nhã là Phật Bảo; Giải thoát là Tăng Bảo.
Đây là đem Tam đức Bí tạng mà nói. Tam đức gồm có: Pháp thân đức, Bát-nhã đức, và Giải thoát đức. Lấy Pháp thân là Pháp Bảo, Bát-nhã là Phật Bảo, còn Giải thoát chính là Tăng Bảo.
#Xuẩn động hàm linh: là những loài ngu si, những loài sâu bọ v.v… ý là nói tất cả những loài sinh vật. #Xuẩn là con sâu con bọ, hay là những người ngu si ngu ngốc, như người ta hay chửi là ngu xuẩn, đó là chữ xuẩn này.
#Vô bất cụ túc Hoặc – Nghiệp – Khổ tam: đều đầy đủ cả ba điều Hoặc -Nghiệp – Khổ, ba điều đó.
Tức là chúng sanh nào cũng có hết, chúng sanh cho dù là loài nhỏ nhất như loài sâu bọ v.v… chúng sanh Hữu tình đều có ba điều Hoặc – Nghiệp – Khổ. Tức là họ có mê hoặc, họ có tạo nghiệp và cuối cùng phải chịu khổ.
#Thị bất vô bất cụ túc tam đức tướng Tam Bảo đức tướng: đều đầy đủ đức tướng của Tam Bảo. Nói đơn giản là tất cả chúng sanh đều đầy đủ đức tướng của Tam bảo gồm có Pháp thân đức, Bát-nhã đức, Giải thoát đức.
#Đãn do mê cách: nhưng mà chỉ do mê mờ, mê hoặc ngăn trở thôi.
#Nhật dụng bất tri: #nhật là mặt trời, ánh sáng mặt trời mà không biết.
Giống như mặt trời sáng chiếu mà không biết, hay chúng ta nói là Tự Tánh, diệu dụng của Tự Tánh mà không biết. Mình có Pháp thân đức, mình có Bát-nhã đức tức là mình có trí huệ, mình có không sanh không diệt, mình có giải thoát tự tại mà bây giờ mình không biết.
#Tuy phục bất tri: tuy là dù không biết.
#Chung bất năng việt thử Lý chi ngoại: rốt cuộc rồi cũng không vượt ra ngoài Lý đó.
Thật ra chúng sanh mê nhưng vẫn có thôi, mình hiểu được điều đó. Chúng sanh vốn là Phật, hay chúng sanh có Phật Bảo, có Pháp Bảo và có Tăng Bảo. Pháp Bảo chính là Pháp thân, Phật Bảo chính là trí huệ, ai cũng có trí huệ giống như Như Lai, cho nên trong Kinh Hoa Nghiêm nói: “Tất cả chúng sanh đều có đức tướng, trí huệ của Như Lai”. Cách nói này là dùng cách nói đó.
#Cố vi Lý tức Tam Quy: cho nên là Lý tức Tam Quy. Mình học được sáu cái tức, đầu tiên là Lý tức Tam Quy. Ngài Đại sư Ngẫu Ích sợ mình không hiểu, mở ngoặc ra nói ngắn hơn:
#Nhất thiết chúng sanh, cụ túc Tam Bảo Thể tánh: tất cả chúng sanh đều đầy đủ Thể tánh của Tam Bảo.
#Tại mê bất giác, nhi bất tương ly: họ đang mê không giác, cũng không bị xa rời với ba đức đó.
#Lý tức Tam Quy: [gọi là] Lý tức Tam Quy.
Cách nói này giống như cách Thiện Trang vừa giải thích, tức là tất cả chúng sanh đều có Phật Bảo, Pháp Bảo, và Tăng Bảo vốn có, đó gọi là Lý tức Tam Quy.
Tạm dịch: Pháp thân là Pháp Bảo; Bát-nhã là Phật Bảo; Giải thoát là Tăng Bảo. [Dù] các loài hàm linh như sâu bọ, đều đầy đủ ba điều Hoặc – Nghiệp – Khổ, chính là đầy đủ đức tướng của Tam Bảo. Nhưng do mê ngăn trở, nên không biết sự diệu dụng của Tự Tánh. Tuy dù không biết, nhưng chung quy vẫn không thể vượt khỏi Lý này. Vì thế Lý tức Tam Quy (tất cả chúng sanh, đầy đủ Thể tánh của Tam Bảo, đang mê không giác, cũng không xa lìa, [gọi là] Lý tức Tam Quy).
Nói tóm lại chúng ta đang sống ở trong chính Pháp thân của mình, chúng ta cũng sống trong Pháp thân Bát-nhã, mình cũng có Bát-nhã nhưng bây giờ Bát-nhã đó mê hoặc, giải thoát trở thành bị ràng buộc. Cho nên từ ba điều kia, mình trở thành ngược, nhưng thật ra khi giác một cái là ba điều đó chuyển ngược lại hết, nên ai cũng có được sẵn như vậy, gọi là Lý tức Tam Quy.
Danh Tự Tam Quy
若聞名生解。知此果地三德。全證眾生三障理體。實無生滅垢淨增減。則為名字三歸(剏聞妙理。畢志棲心。名字三歸)。
Nhược văn danh sanh giải, tri thử quả địa Tam đức: Toàn chứng chúng sanh tam chướng Lý Thể, thật vô sanh diệt cấu tịnh tăng giảm, tắc vi Danh tự Tam Quy (sáng văn diệu Lý, tất chí thê tâm, Danh tự Tam Quy)
Giải:
#Nhược văn danh sanh giải: nếu nghe được danh thôi, nghe được hiểu được những lý vừa nói ở trên mà sanh ra hiểu được, nghe mà hiểu được gọi là #nhược văn danh sanh giải.
#Tri thử quả địa Tam đức: biết được ba đức quả địa đó, tức là quả địa của Như Lai, biết được quả đức là Pháp thân đức, Bát-nhã đức, và Giải thoát đức.
#Toàn chứng chúng sanh Tam chướng Lý Thể: đều chứng tỏ rằng Tam chướng Lý Thể của chúng sanh.
#Thật vô sanh diệt cấu tịnh tăng giảm: thật ra như Kinh Bát Nhã nói, thật ra không có sanh không có diệt, không có tăng, không có giảm, không có cấu, không có tịnh, tức là không có dơ không có sạch.
Như hồi sáng hôm nay chúng ta đọc: “Bất tăng, bất giảm, bất cấu, bất tịnh”. Thật ra là không có sanh diệt đâu, mấy tính chất đó xưa nay vậy mà, nó chỉ bị mê che đi thôi. Giống như màn hình tivi, thay vì chiếu cảnh đẹp mà chiếu cảnh xấu lên là quý vị la làng, chiếu phim ma quý vị coi rồi là hét lên. Thật ra bật kênh khác đi, coi kênh phim đẹp là hết bị. Cho nên đó là thật sự do mình mê thôi.
#Tắc vi Danh tự Tam Quy: gọi là Danh tự Tam Quy. Danh tự Tức Phật, ở đây là Danh tự Tức Tam Quy.
#Sáng văn diệu Lý: #sáng là ban đầu, lúc trước tiên, chúng ta có thể lấy nghĩa là khởi đầu, mới đầu v.v… Mới nghe diệu Lý đó, tức là bắt đầu mới vừa nghe diệu Lý.
#Tất chí thê tâm: #tất là xong; #trí là ghi nhớ; chữ #thê là lưu lại. Tức là mới vừa nghe được diệu Lý ở trên đó, nghe nói tất cả chúng sanh đều có Tam đức Bí tạng v.v… mình hiểu được Phật Pháp Bảo như thế thì mình ghi nhớ và lưu giữ trong tâm mình. Nếu mà nghe nhớ, lưu giữ được rồi thì mình gọi là Danh tự Tam Quy. Mình đạt được Tam Quy y mức thứ hai là Danh tự Tam Quy. Chúng ta cũng đạt được Danh tự Tam Quy là ghi nhớ, không quên.
Tóm lại là tất cả chúng sanh đều có Bát-nhã đức, Giải thoát đức và Pháp thân đức, ba đức đó chính là ba ngôi Tam Bảo của chúng ta. Chúng ta biết được như vậy, chúng ta hiểu nhớ, bữa nay nhớ được như vậy là quý vị đạt được Danh tự Tam Quy. Tức là Tam Quy y thuộc về Danh tự, cũng khá hơn rồi.
Tạm dịch: Nếu nghe danh mà sanh hiểu, biết Tam đức của quả địa đó, đều chứng tỏ Tam chướng Lý Thể của chúng sanh, thật sự [là] không sanh diệt, không dơ sạch, không tăng giảm, thì là Danh tự Tam Quy (Ban đầu nghe Lý vi diệu, rồi ghi nhớ ở trong tâm, [là] Danh tự Tam Quy).
Nói chung, đó là Lý vi diệu, mình nghe được Lý vi diệu, rất tuyệt vời. Mình nghe xong mình thấy cũng đạt được một chút gì đó, chính là Danh tự Tam Quy. Như vậy quý vị hiểu thế nào là Danh tự Tam Quy, tiến được một bậc nữa rồi.
Quán Hạnh Tam Quy
以此圓解。而修圓觀。圓伏五住。則為觀行三歸(念念體會三德祕藏。觀行三歸)。
Dĩ thử viên giải, nhi tu viên quán, viên phục Ngũ trụ, tắc vi Quán hạnh Tam Quy (niệm niệm thể hội Tam đức Bí tạng, Quán hạnh Tam Quy).
Giải:
#Dĩ thử viên giải: dùng Viên giải đó, tức là mình hiểu một cách viên mãn, một cách rốt ráo.
#Nhi tu viên quán: mình tu quán cũng viên mãn luôn. Tức là mình hiểu rồi và bây giờ mình tu, chứ chỉ hiểu không là mới có Danh tự thôi. Bây giờ tới quán, tu cũng là tu quán viên mãn.
#Viên phục Ngũ trụ: viên mãn phục được Ngũ trụ.
Lại thêm một kiến thức nữa của Tông Thiên Thai. Về Ngũ trụ, Thiện Trang có tra ra là năm loại phiền não thôi. Ở đây dùng cách nói khác, một là thấy tất cả mọi thứ đều trụ địa, gọi là Kiến hoặc: Thân kiến, Biên kiến, Kiến thủ kiến, Giới cấm thủ, Tà kiến. Trong đó có kể ra: Tham, Sân, Si, Mạn, Nghi thì mình bỏ được những cái đó đi. Nhưng mà ở đây chỉ kể ra Kiến hoặc ở trong Tam giới thôi.
Thứ hai trong Ngũ trụ là Dục ái Trụ địa, đây là phiền não ở trong Dục giới. Trong Dục giới có ngủ là phiền não, lên Sắc giới hết ngủ rồi. Ham muốn, ham ăn trong Dục giới thì lên Sắc giới hết rồi. Đó là phiền não thứ hai, mình hàng phục được.
Thứ ba là Sắc ái Trụ địa, những phiền não này ở trên cõi trời Sắc giới. Sắc là hơn một tầng nữa rồi.
Thứ tư là Hữu ái Trụ địa, đó là phiền não của cảnh giới Vô sắc. Cảnh giới Vô sắc họ không có sắc thân nữa nhưng họ vẫn yêu cảnh giới tốt đẹp, họ yêu cảnh giới trong tâm mơ mơ màng màng trong yên vui như vậy.
Thứ năm là Vô minh Trụ địa, là Vô minh hoặc.
Ở đây quý vị thấy là viên phục được Ngũ trụ, phục thôi chứ chưa đoạn, tức là mình đè được năm loại phiền não đó rồi.
#Tắc vi Quán hạnh Tam Quy: thì đó gọi là Quán hạnh Tam Quy, là quy y tới mức Quán hạnh rồi.
Chúng ta tới đây thì chịu thua rồi, vì chúng ta mới chỉ tới Danh tự Tam Quy thôi. Mình tu Lý rồi tới Danh tự, mình hiểu mình nhớ là khá rồi chứ bây giờ bảo mình tu tới Quán hạnh, tu viên mãn rồi phải phục được năm loại phiền não đó mình đâu có làm nổi.
#(Niệm niệm thể hội Tam đức Bí tạng, Quán hạnh Tam Quy): từng niệm từng niệm, niệm nào mình cũng hiểu được ba đức: Bát Nhã đức, Giải thoát đức, Pháp thân đức. Rồi bí tạng là tất cả những gì trọng Tạng tâm của mình đều biết hết. Đó là Quán hạnh Tam Quy.
Tạm dịch: Dùng Viên giải (*hiểu viên mãn) trên đó, mà tu Viên quán, viên mãn hàng phục Ngũ trụ [phiền não], thì là Quán hạnh Tam Quy (Niệm niệm thể hội [được] Tam đức Bí tạng, [là] Quán hạnh Tam Quy).
Điều này, chắc chúng ta không làm được rồi. Tam Quy y chúng ta chỉ cố gắng làm trong Lục tức mới được tới Danh tự thôi.
Tương Tự Tam Quy
由此圓觀而淨六根。則為相似三歸(法性理現。六根清淨。相似三歸)。
Do thử Viên quán nhi tịnh lục căn, tắc vi Tương tự Tam Quy (Pháp tánh Lý hiện, lục căn thanh tịnh, Tương tự Tam Quy).
Giải:
#Do thử Viên quán nhi tịnh lục căn: do mình quán viên mãn như vậy thì mình được sáu căn: Mắt, tai mũi, lưỡi, thân, ý được thanh tịnh.
#Tắc vi Tương tự Tam Quy: được như vậy thì gọi là Tương tự Tam Quy.
Ở đây yêu cầu cao hơn, ở trên mình hàng phục được rồi nhưng chưa chắc tâm mình thanh tịnh. Nhưng tới đây, mình tu được tới đó thì tự nhiên sáu căn thanh tịnh. Tức là mắt đối với các cảnh sắc mình cũng không bị nhiễm vì mình quán, mình biết được rồi, công phu phải cỡ đó. Tai mình nghe âm thanh mình cũng không bị nhiễm. Rồi mũi mình ngửi mùi thơm hay mùi hôi, mình cũng không sao hết. Mình biết là Tam đức Bí tạng hiện ra. Mùi ở đâu bay ra thơm ơi là thơm, mình giác được đó là từ Tự Tánh mình bay ra đó mà, nó đâu phải bên ngoài đâu mà mình ham làm chi. Cái nhà đó hôi ơi là hôi, mình cũng thấy không có gì đâu, nó cũng từ Pháp thân mình hiện ra thôi, không có chuyện gì, nó là vậy. Công phu cỡ đó thì mình thanh tịnh được sáu căn mắt tai mũi lưỡi thân ý. Đó mới là Tương tự Tam Quy thôi.
Quý vị thấy chúng ta tu được cỡ đó là cao, tự nhiên phiền não hết. Thanh tịnh ở đây tiêu chuẩn là phiền não hết, ở trên là mới phục được thôi.
#(Pháp tánh Lý hiện, lục căn thanh tịnh, Tương tự Tam Quy): Lý của Pháp tánh hiện, lục căn thanh tịnh là Tương tự của Tam Quy.
Tức là lúc này mình hiểu được Tánh của Pháp, Lý của Pháp như thế nào, nó hiện tiền mình nắm được, lúc nào mình cũng sống ở trong đó và mình đạt được một cái nữa là sáu căn mình thanh tịnh, đó là Tương tự Tam Quy. Trong Lục tức thì tới phần thứ tư là Tương tự Tam Quy.
Tạm dịch: Do viên mãn quán ở trên mà sáu căn thanh tịnh, đó là Tương tự Tam Quy (Lý của Pháp tánh hiện, sáu căn thanh tịnh, [là] Tương tự Tam Quy).
Phần Chứng Tam Quy
由此圓觀。而發無漏。三因開顯。則為分證三歸(破無明。顯三德。分證三歸)。
Do thử viên quán, nhi phát Vô lậu, tam nhân khai hiển, tắc vi Phần chứng Tam Quy (phá Vô minh, hiển Tam đức, Phần chứng Tam Quy).
Giải:
#Do thử viên quán: do quán viên mãn ấy.
#Nhi phát vô lậu: mà phát được Vô lậu. Tức là mình có được Trí huệ Vô lậu.
Vô lậu thực ra có nhiều cách nói, các loại phiền não thì gọi là lậu, #Vô lậu là hết phiền não rồi. Nói đơn giản phát Vô lậu là hết phiền não rồi. Hết phiền não thì chứng quả rồi.
#Tam nhân khai hiển: bắt đầu hiển bày ra Tam nhân.
Tam nhân ở đây là Tam nhân Phật tánh. Ở trong nhà Phật có khái niệm Tam nhân Phật tánh: Thứ nhất là Chánh nhân Phật tánh, thứ hai là Liễu nhân Phật tánh và thứ ba là Duyên nhân Phật tánh. Ba điều đó bắt đầu hiển bày.
#Tắc vi Phần chứng Tam Quy: đó là Phần chứng Tam Quy. Đó là mức thứ năm trong Lục tức Tam Quy.
Đại sư Ngẫu Ích sợ mình không hiểu đằng trước nên mở ngoặc ra giải thích thêm:
#(Phá Vô minh, hiển Tam đức, Phần chứng Tam Quy): phá được Vô minh hoặc; Vô minh hoặc là phiền não trong ba loại phiền não: Kiến tư hoặc, Trần sa hoặc và Vô minh hoặc, thì mình phá đến mức độ thứ ba rồi. Giống như mặc ba lớp áo dày thì cởi một lúc được ba lớp áo đó, thì mình hiển được Tam đức: Giải thoát đức, Pháp thân đức và Bát Nhã đức. Đó gọi là Phần chứng Tam Quy. Điều này thì chúng ta không có phần, là phàm phu hoàn toàn chẳng được điều gì trong những điều này.
Tạm dịch: Do viên mãn quán ấy, mà phát Vô lậu, bắt đầu hiển bày Tam nhân Phật tánh, chính là Phần chứng Tam Quy (phá Vô minh hoặc, hiển bày Tam đức, [là] Phần chứng Tam Quy).
Cứu Cánh Tam Quy
由此圓觀。而圓三德。稱本理性。無欠無餘。則為究竟三歸也(圓滿菩提。覺法自性。始本不二。理智一如。究竟三歸。是以法無深淺。深淺在人。莫離初步。而談千里也。下諸戒品。皆含此意)。
Do thử viên quán, nhi viên Tam đức, xứng Bổn lý tánh, vô khiếm vô dư, tắc vi Cứu cánh Tam Quy dã (viên mãn Bồ-đề, giác pháp Tự Tánh, thuỷ bổn bất nhị, Lý Trí nhất như, Cứu cánh Tam Quy, thị dĩ pháp vô thâm thiển, thâm thiển tại nhân, mặc ly sơ bộ, nhi đàm thiên lý dã. Hạ chư Giới phẩm, giai hàm thử ý).
Giải:
#Do thử viên quán: do viên mãn quán ấy
#Nhi viên Tam đức: mà viên mãn được Tam đức.
Tức là ở trên mới bắt đầu hiển bày thôi, ba đức đó mình mới được chút chút, mình cũng có được một chút Giải thoát, một chút Pháp thân, có được Bát-nhã (trí huệ) rồi nhưng chưa đầy đủ. Còn ở đây là viên mãn được ba đức rồi.
#Xứng Bổn lý tánh: xứng với Lý tánh vốn có rồi
#Vô khiếm vô dư: #khiếm là khiếm khuyết, có nghĩa là không thiếu không dư.
Tới đây là không còn thiếu, không còn dư nữa, cái nào cũng đầy đủ cả, tức là không tăng không giảm. Lúc trên vẫn chưa đủ vì mình mới chứng được một phần, còn tới đây mình chứng được hết, gọi là vô khiếm vô dư.
#Tắc vi Cứu cánh Tam Quy dã: chính là cứu cánh Tam Quy.
#(Viên mãn Bồ-đề, giác pháp Tự Tánh, thuỷ bổn bất nhị: lúc này là mình đạt được cảnh giới viên mãn Bồ-đề rồi, giác ngộ được pháp Tự Tánh (là Tánh của các pháp) từ đâu ra; #thủy bổn bất nhị: là xưa nay không hai.
#Lý Trí nhất như: Lý và Trí tuệ không có khác, vẫn là một thôi.
#Cứu cánh Tam Quy: gọi là Cứu cánh Tam Quy.
#Thị dĩ pháp vô thâm thiển: vì thế pháp không có sâu không có cạn.
#Thâm thiển tại nhân: sâu cạn là do người.
Đại sư Ngẫu Ích đúc kết lại, ý nói Tam Quy không có sâu không có cạn, đừng nên nói là mấy người mới đi chùa, vô quy y Tam Bảo, mấy người đó cạn lắm. Thực ra Đại sư Ngẫu Ích nói pháp không có sâu không có cạn mà sâu cạn ở người. Nói như tiếng miền Bắc là pháp không có nông không có sâu, mà nông sâu là do người.
Cho nên mới vô, người ta quy y ,người ta mê tín quá trời, lạy Phật cầu Phật, kinh điển phải đội lên trên đầu để thể hiện sự cung kính. Đó là mình đội kinh điển lên đầu để thể hiện sự cung kính đối với kinh, còn người ta đội kinh điển lên đầu nghĩ có phước lắm.
Hồi xưa ở trên chùa ở thành phố Hồ Chí Minh, Thiện Trang thấy lễ Vu Lan người ta tới chùa lễ đông lắm, người ta tới đốt nhang nghi ngút, bó càng to người ta nghĩ là Phật gia hộ càng lớn. Rồi ra thấy tượng Bồ-tát, tượng Tổ sư Đạt Ma và tượng A-la-hán là cứ sờ sờ vào tượng rồi xoa lên đầu. Có một bà buồn cười nhất là mới đầu bà lấy tay sờ vào đầu Bồ-tát rồi bà xoa lên đầu bà đó, rồi sờ đến vai Bồ-tát và xoa lên vai bà đó, rồi sờ tới chân Bồ-tát, rồi xoa lên chân bà đó. Mình kêu sao mà bà mê tín đến mức độ cỡ đó. Đó là không hiểu gì hết.
Ngày mai chúng ta truyền Tam Quy y, khi Quy y nghe nói: Quy y Phật không đọa Địa ngục nên về nhà nghĩ bữa nay mình không đọa Địa ngục nữa rồi. Quy y Pháp không đọa Ngạ quỷ thì nghĩ chắc tôi hết đọa Ngạ quỷ rồi. Quy y Tăng không đọa Bàng sanh, hết rồi. Cho nên về tha hồ đi tạo nghiệp. Như vậy là mình cạn.
Quy y theo bốn Quy y trên hay sáu Quy y trên là mình quy y sâu. Cho nên pháp thì không có sâu không có cạn, mà người thì cảm thấy cạn sâu về pháp. Cho nên ở đây Đại sư Ngẫu Ích nói rất hay: Người viên mãn thì pháp nào cũng viên mãn hết.
Chúng ta tu Tịnh Độ bây giờ tu cũng học cao rồi, học Tịnh Độ Đại Kinh Khoa Chú thì chúng ta học Tam Quy vô đây mới học nổi. Chứ người khác họ vào học Tam Quy theo kiểu Lục tức và Tứ giáo thì họ học không nổi. Mình phải giảng mấy bộ khác, bộ này cao.
Thiện Trang thì thấy bộ này cao, cho nên hợp với chúng ta học vừa cao vừa thấp, có lúc thì cao, có lúc thì thấp. Đoạn vừa rồi chúng ta học khá cao.
#Mặc ly sơ bộ: #mặc là không; #ly là rời, tức là không rời bước đầu tiên. Có nghĩa là mình đi đã rồi, nhưng mà thực ra không có rời bước đầu tiên.
#Nhi đàm thiên lý dã: mà kể cả ngàn dặm. Tức là mình không cần rời khỏi bước đầu tiên mà có thể nói bàn cả vạn dặm.
Viên mãn rồi, mình học mỗi Tam Quy thôi mà mình đi hết giáo pháp của Phật rồi. Quý vị thấy từ nãy đến giờ, nếu mà Thiện Trang giảng chi tiết Tam nhân Phật tánh, Lý tức Phật, bao nhiêu điều như vậy thì chúng ta đi hết giáo pháp của đức Phật rồi, đâu có thiếu gì đâu nếu mà mình giảng rộng ra. Cho nên học một bộ này thôi là chúng ta đầy đủ viên mãn không thiếu gì. Cho nên người thông thì chỉ cần học một bộ là thông, người ngộ học một bộ là ngộ. Còn mình học nhiều bộ cũng giống nhau thôi, mình học bên bộ kia, bây giờ mình qua học bộ này mình thấy dễ. Nếu đưa cho một người bên Thiền tông chưa ngộ mà học bộ đây thì người ta cũng thấy khó.
Thực sự là khó, bao nhiêu kiến thức, nào là Tam đức Bí tạng. Hỏi Tam đức là gì người ta đâu có biết Tam đức. Mà thực ra Tam đức quý vị thấy ở trong bài Cúng Ngọ chẳng hạn: “Tam đức lục vị cúng Phật cập Tăng, Pháp giới hữu tình, phổ đồng cúng dường”. Nghe nói Tam đức mà hỏi Tam đức là gì không biết, ở trong chùa bao nhiêu năm không biết Tam đức là gì. Mình hiểu Tam đức là Giải thoát đức, Bát Nhã đức và Pháp thân đức. Một pháp thông thì tất cả thông, như vậy vô chùa, người ta đọc cái gì thì mình hiểu liền. Sau này mình học dần dần thì cứ đụng tới là mình biết ví dụ Lục vị là gì.
Cho nên chúng ta học nhất môn thì tự nhiên chúng ta thông được tất cả các môn khác. Quý vị yên tâm cứ học một bộ cho tới nơi, học cho tới chứ nếu học lướt lướt, người ta cứ dựa trên kinh văn nói thì không sâu. Nhưng mà mình học những bộ Chú Giải của những người khai ngộ thì mình thấm hết. Mà bao nhiêu kinh nằm trong đây, như bên bộ kia trích dẫn bao nhiêu kinh, bộ này phần đầu ngài không trích dẫn nhưng thực ra đã ngầm trích dẫn rất nhiều rồi.
Khi đó mình không rời bước thứ nhất mà có thể bàn khắp vạn dặm. Giống như bây giờ ngồi ở nhà mà biết toàn thế giới, bằng cái Smartphone (điện thoại thông minh) mà biết toàn thế giới bằng mạng Internet.
#Hạ chư Giới phẩm: các Giới phẩm ở dưới.
#Giai hàm thử ý): đều bao hàm ý này.
Tức là sau này cũng vậy, ngày mai Quy y Ngũ giới cũng vậy, một Ngũ giới là viên mãn tất cả pháp. Pháp Ngũ giới không cạn, không phải người mới vô mà cho đó là cạn, không phải. Sâu cạn là do người, pháp không có sâu cạn.
Sáng nay mình đã thọ Bát quan Trai giới thì cũng như vậy, cũng rất là sâu, nhưng tại vì mình học quá thấp. Cho nên học bộ này mình thấy giới nào cũng sâu hết, không đơn giản như bình thường và cũng có đơn giản, mới đầu vô nhẹ nhàng.
Tạm dịch: Do quán viên mãn trên đó, mà viên mãn Tam đức, xứng với Lý tánh vốn có, không thiếu không dư, đó là Cứu cánh Tam Quy (viên mãn Bồ-đề, giác ngộ pháp Tự Tánh, xưa nay không khác, Lý và Trí như một, là Cứu cánh Tam Quy. Do đó pháp không có sâu hay cạn, mà sâu hay cạn ở tại người. Không rời bước đầu, mà kể cả ngàn dặm. Các Giới phẩm ở sau, đều bao hàm trong ý này).
Kết Luận
三歸既有四教六即。當知五戒八戒等。無不例然。可准思之。
Tam Quy ký hữu Tứ giáo Lục tức. Đương tri Ngũ giới Bát giới đẳng: vô bất lệ nhiên, khả chuẩn tư chi.
Giải:
#Tam Quy ký hữu Tứ giáo Lục tức: Tam Quy đã có bốn giáo và Lục tức.
#Đương tri Ngũ giới Bát giới đẳng: vô bất lệ nhiên: phải biết rằng Năm giới (Ngũ giới tại gia), Bát giới là Bát quan Trai giới (Tám giới) v.v… đều theo lề lối đó.
Tức là chúng ta phải học Tứ giáo và Lục tức. Tức là Ngũ giới là sao, thế nào là Ngũ giới theo Tạng giáo, Thông giáo, Biệt giáo và Viên giáo. Rồi Ngũ giới theo Lục tức, và Bát quan Trai giới cũng vậy. Học như vậy thì quý vị học hết bao nhiêu năm mới hết mấy bộ giới. Chúng ta phải học cỡ đó, mà học như vậy là thông luôn, siêu về Giới Luật luôn rồi đó, siêu về giáo luôn.
#Khả chuẩn tư chi: có thể dựa theo đó mà suy nghĩ về điều đó. Điều đó là về Ngũ giới v.v… từ đó mình mở rộng ra. Ý ngài nói là mình cứ theo cách đó mà học Ngũ giới, Bát quan Trai giới v.v…
Tạm dịch: Tam Quy đã có Tứ giáo Lục Tức, thì phải biết Ngũ giới Bát giới v.v.. đều theo lề lối đó, nên có thể dựa theo đó mà tư duy.
Bây Giờ Có Hai Câu Hỏi:
問。但三歸法(尚未受戒。名為但三歸)。可止歸一二否。又此法為復全収六道。為復止許人倫。於人倫中。亦有不應受者否。若受後有犯。云何懺悔。
Vấn: Đãn Tam Quy pháp (thượng vị thọ giới, danh vi đãn Tam Quy), khả chỉ quy nhất nhị phủ. Hựu thử pháp vi phú toàn thâu Lục đạo, vi phục chỉ hứa nhân luân, ư nhân luân trung, diệc hữu bất ưng thọ giả phủ. Nhược thọ hậu hữu phạm, vân hà sám hối.
Giải:
#Vấn: là hỏi.
#Đãn Tam Quy pháp (thượng vị thọ giới: tức là mình mới chỉ phát tâm thọ Tam Quy thôi, còn chưa thọ giới
#Danh vi đãn Tam Quy): gọi là chỉ Tam Quy.
Ngày mai mình có lễ truyền Tam Quy sau đó Ngũ giới, thì bây giờ ngài đưa ra câu hỏi: Tôi chỉ phát tâm thọ Tam Quy thôi, không thọ Ngũ giới thì sao?
#Khả chỉ quy nhất nhị phủ: có thể chỉ quy y một hoặc hai thứ ví dụ chỉ quy y Phật thôi, hoặc chỉ quy y Phật với Pháp thôi, không quy y Tăng được không? Hoặc tôi chỉ quy y Phật với Tăng mà không quy y Pháp được không? Chữ #phủ là từ để hỏi.
#Hựu thử pháp vi phú toàn thâu Lục đạo: thêm nữa pháp này lại thu nhiếp hết cả sáu đường gồm: Trời, Người, A-tu-la, Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sanh. Chúng ta biết sáu đường đều thọ Tam Quy được.
#Vi phục chỉ hứa nhân luân: vì sao lại chỉ cho phép loài người thôi. Ý hỏi pháp này nhiếp thọ sáu đường mà sao chỉ cho phép loài người [thọ] thôi.
#Ư nhân luân trung: ở trong nhóm người.
#Diệc hữu bất ưng thọ giả phủ: cũng có không cho phép hạng người được thọ hay không.
Người ta đưa ra hai câu hỏi. Câu hỏi thứ nhất là Tam Quy y này có thể quy y với tất cả sáu đường Trời, Người, A-tu-la, Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sanh hay không? Câu thứ hai là ở trong loài người có điều kiện gì không? Có loài người nào không được thọ hay không? Đại sư Ngẫu Ích đưa ra câu hỏi, giả sử có câu hỏi như thế.
#Nhược thọ hậu hữu phạm, vân hà sám hối: tức là nếu mình thọ rồi, sau đó có phạm Tam Quy thì làm sao để sám hối.
Đó mình học điều này mới quan trọng, chứ không nhiều khi mình không biết, mình thọ xong Tam Quy rồi mình đi ra thấy cái miếu thần nào đó, mình cũng lạy cũng xin, nhận cái bùa gì về thì mình mất pháp Tam Quy rồi. Lỡ phạm rồi thì làm sao để sám hối? Có sám hối được không, mình phải đưa ra câu hỏi đó, mà từ trước đến giờ làm gì có ai dạy mình, cho nên Đại sư Ngẫu Ích phải đưa ra những câu hỏi này.
Cho nên quý vị thấy học bộ này đầy đủ hết, không thiếu gì cả.
Tạm dịch: Hỏi: Chỉ pháp Tam Quy (còn chưa thọ giới, gọi là chỉ Tam Quy), thì có thể dừng lại ở quy y một hay hai được không? Thêm nữa, Pháp này là bao trùm cả sáu đường, vì sao lại chỉ cho phép loài người, ở trong loài người, cũng có không cho phép hạng người [được] thọ hay không? Nếu thọ rồi sau có phạm, thì làm sao sám hối?
Đây là những câu hỏi mà chúng ta cũng quan tâm, để coi Đại sư Ngẫu Ích đáp như thế nào. Hết giờ mất rồi, đang lúc hay mà lại hết giờ, vậy chúng ta để buổi sau.
Ở đây có mấy câu hỏi nêu ra: Câu hỏi thứ nhất là chưa thọ giới mà chỉ thọ Tam Quy thì có thể dừng lại ở việc thọ một hay hai hay không? Câu thứ hai là vì sao chỉ loài người được thọ Ngũ giới, hôm bữa trong lớp học Kinh Vô Lượng Thọ cũng có người đặt câu hỏi này, thì ở đây Đại sư Ngẫu Ích cũng đưa ra. Câu thứ ba là ở trong loài người có hạn chế nào không? Có người nào không được thọ hay không? Tại vì từ Ngũ giới trở lên có một số hạn chế, không phải lúc nào cũng được thọ, có một số người không đủ tiêu chuẩn cũng không thọ được. Càng giới cao thì càng khó để được thọ.
Ví dụ muốn thọ giới Tỳ-kheo giống như Thiện Trang và thầy Thiện Luận thì phải có đầy đủ sáu căn mới được thọ, tức là mình không bị mắc bệnh tâm thần, tay chân phải đầy đủ, thiếu một ngón tay cũng không được, bị tàn tật là không được thọ giới Tỳ-kheo, và có rất nhiều điều kiện nữa gồm có 13 Già nạn và có mấy khinh già để ngăn lại. Có rất nhiều điều kiện như vậy, không phải đơn giản. Vậy thì Tam Quy có những điều kiện đó hay không? Chúng ta đợi buổi sau, chúng ta sẽ học.
Ngày mai chúng ta sẽ truyền Tam Quy, vậy những vị được truyền Tam Quy sẽ lo lắng là vậy bây giờ như vậy là thế nào. Thì chúng ta đã phát tâm lớn rồi, chúng ta đến đây cố gắng thọ Tam Quy và Ngũ giới.
Và Thiện Trang nhớ vừa nãy có ai hỏi: nếu thọ Tam Quy mà không thọ Ngũ giới thì có đắc Vô tác Giới thể hay không? Điều đó rất quan trọng. Vô tác Giới thể là khi mình thọ giới, nếu mà đắc giới thì có công năng tự động “nhậm vận hành thiện, phòng phi chỉ ác” tức là nó vận động ngầm mà giúp mình làm thiện, ngăn ngừa được ác. Ví dụ muốn sát sanh, thấy con kiến đi qua mình muốn giết mà mình sực nhớ là mình thọ Ngũ giới rồi. Đó là có thể giúp mình ngừa được. Hoặc quý vị đáng lẽ sắp phạm tà dâm thì tự nhiên lúc đó có người đi qua đi lại, hoàn cảnh không được thuận lợi, đó là Vô tác Giới thể hoạt động.
Ở trong Luật có nói, khi mà vừa truyền Tam Quy xong là có Vô tác Giới thể, nếu như không phát tâm thọ Ngũ giới thì có Giới thể hay không. Vấn đề này nằm ở trong đây, chúng ta sẽ học bữa sau. Nhưng xin nói trước, Đại sư Ngẫu Ích nói là không có Giới thể. Vì ngay lúc đầu quý vị đã không phát tâm thọ Ngũ giới thì Vô tác Giới thể về giới sẽ không phát sinh, quý vị chỉ được Tam Quy mà thôi. Đây là câu hỏi trong này, Đại sư Ngẫu Ích có đưa ra, chúng ta sẽ học vào buổi sau. Sáng mai chúng ta có lễ truyền thọ Tam Quy.
Thời khóa hôm nay xin phép dừng ở đây. Mời quý vị chúng ta cùng hồi hướng:
“Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ
Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn
Pháp môn vô lượng thệ nguyện học
Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành.
Nguyện đem công đức này
Hướng về khắp tất cả
Đệ tử cùng chúng sanh
Đồng sanh về Tịnh Độ”.
#gioiluat #thaythichthientrang