#thân hạnh sở tác: thân hạnh là việc làm của thân, sở tác là
đã làm. Ở đây phải có chữ do nữa: do những việc làm từ thân của họ, rồi thêm ý
nữa.
#tâm tự thú hướng: do ý của họ dẫn tới đó. Nói chung là do
mình thôi. Câu này trong bài dịch có người dịch sai. Quý vị có nghe bài giảng của
Hòa thượng mà Thiện Trang dịch về Vạn Pháp Duy Tâm, quý vị thấy Hòa thượng có
trích câu này “Thân hạnh sở tác, tâm tự thú hướng”, Hòa thượng giảng câu này
tương đương với câu “Nhất thiết Pháp tùng tâm tưởng sanh” hay là câu sau trong
Kinh Hoa Nghiêm:
“Nhược nhân dục liễu tri
Tam thế nhất thiết Phật
Ưng quán Pháp giới tánh
Nhất thiết duy tâm tạo”
Đây là bản hội tập nên ngài Hạ Liên Cư đã rút gọn lại. Còn
trong bản dịch gốc, để Thiện Trang chiếu lên cho quý vị thấy. Trong bản dịch gốc
tên là Kinh Phật Thuyết A Di Đà Tam Da Tam Phật TáT Lâu Phật Đàn Quá Độ Nhân Đạo,
hay còn gọi là bản Ngô dịch của ngài Cư sĩ Chi Nghiên nguyên văn như thế này:
“Phật diệc bất sử nhĩ (có thêm chữ nhĩ), thân hạnh sở tác tự nhiên đắc chi(do
những việc làm của thân, cho nên tự nhiên được như vậy), giai tâm tự thú hướng
đạo, nhập kỳ thành trung”(đều do tâm hướng tới, nhập vào thành đó), hướng đạo
là hướng tới đường đó, đi vào đó, thú hướng là hướng vào đó. Chúng ta tra bản
này thì chúng ta thấy rõ hơn. Nên Thiện Trang dịch là do tâm dẫn hướng, chứ
không phải như bản Chú giải Kinh Vô Lượng Thọ hoặc một số bản khác người ta dịch
vì người ta không biết được câu này. Cho nên Phật cũng chẳng khiến, nhưng do
thân làm cho nên tự nhiên bị như thế (đắc chi). Tất cả tâm tự hướng đến đó.
Chúng ta hiểu được điều này. Cho nên dịch phải có tra cứu, không có tra cứu thì
nhiều khi không hiểu sẽ dịch nhầm. Chúng ta học đầy đủ thì cố gắng dịch cho chuẩn
lại. Như vậy là Phật không muốn làm ra những hiện tượng đó đâu quý vị, mà do những
việc chúng ta tự làm. Từ thân làm, bởi nghi ngờ,tu hành không rốt ráo, không chịu
học Pháp để hiểu lý, còn nghi ngờ thiện căn của mình. Đều là do tâm mình tạo
nên thôi. Câu này tương đương với câu trong Kinh Hoa Nghiêm:
“Nhược nhân dục liễu tri
Tam thế nhất thiết Phật
Ưng quán Pháp giới tánh
Nhất thiết duy tâm tạo”
Nếu như chúng ta học Kinh Pháp Cú thì câu này cũng tương
đương với hai bài đầu tiên:
“Ý dẫn đầu các pháp
Ý làm chủ, ý tạo,
Nếu với ý ô nhiễm,
Nói lên hay hành động
Khổ não bước theo sau
Như xe chân vật kéo”
Tức là quý vị vị làm gì cũng do ý, ý tức là tâm, do tâm ý
mình. Tất cả các Pháp đều do tâm dẫn đầu. Cho nên Kinh Vô Lượng Thọ tương đương
Kinh Pháp Cú. Nếu tâm ý vô nhiễm, ở đây do tâm nghi ngờ cuối cùng sanh vào Biên
Địa ráng chịu. Trong Kinh Pháp Cú nói nếu ý vô nhiễm thì nói lên hay hành động,
khổ não bước theo sau, như xe chân vật kéo.
Bài kệ thứ hai:
Ý dẫn đầu các pháp
Ý làm chủ, ý tạo
Nếu với ý thanh tịnh,
Nói lên hay hành động
An lạc bước theo sau,
Như bóng, không rời hình”
Mình ráng làm theo đoạn sau này, biết là ý đẫn đầu các pháp,
ý làm chủ ý tạo rồi, nếu với ý thanh tịnh, thì nói lên hay hành động, an lạc tự
nhiên bước theo sau, như bóng không rời hình. Bóng và hình không rời nhau, nhân
quả đi liền vậy đó. Chúng ta muốn về Tây Phương Cực Lạc, khỏi về Biên Địa cũng
vậy, đừng có nghi ngờ. Không nghi ngờ có hai nguyên nhân nghi ngờ, một là không
hiểu Kinh Phật, không hiểu được Phật trí, không hiểu bốn trí là Thành Sở Tác
Trí, Bình Đẳng Tánh Trí, Diệu Quán Sát Trí và Đại Viên Kính Trí.Vì không hiểu,
cho nên rớt vào Biên Địa ráng chịu. Thứ hai là không nghe giáp Pháp nên nghi ngờ
không biết mình có vãng sanh hay không. Cho nên cũng là do mình. Đây thực ra
cũng tương đương với Kinh Hoa Nghiêm, ở phẩm 20 – Dạ Ma Trung Cung Kệ Tán, tức
là Kệ Tán Thán Trong Cung Trời Dạ Ma, có bài kệ như sau:
Tâm như công họa sư
Năng họa chư thế gian
Ngũ ấm tất tùng sanh
Vô pháp nhi bất tạo
Nghĩa là :
Tâm như họa sĩ khéo. Có thể vẽ các thế gian, tức là thế gian
này cũng như tâm mình vẽ ra thôi. Ngũ ấm tất tùng sanh tức là ngũ ấm từ thân thể
chúng ta cũng từ đó mà sanh ra. Vô Pháp nhi bất tạo tức là không có Pháp gì mà
không tạo. Tức là không có pháp gì mà không do tâm mình tạo hết. Cho nên cúng
thí thực buối chiều là trích bài kệ trong Kinh Hoa Nghiêm.
Cũng như trong Phẩm Thăng Dạ Ma Thiên Cung Phẩm (tức là Phẩm
Lên Cung Trời Dạ Ma), cũng như phẩm kia thôi mà Kinh khác, vì Kinh Hoa Nghiêm
có 40, 60 và 80. Có bài kệ:
“Nhược nhân dục liễu tri
Tam thế nhất thiết Phật
Ưng quán Pháp giới tánh
Nhất thiết duy tâm tạo”
Dịch nghĩa:
Nếu người muốn biết rõ
Chư Phật cả ba đời
Nên quán tánh pháp giới
Tất cả do tâm tạo.
Tâm của mình rất là tuyệt vời. Quý vị thấy tâm mình tạo ra tất
cả các Pháp, cho nên mọi khổ đau an vui do mình. Quý vị trách người ta là sai rồi.
Mình học tới đây mà còn trách người ta đem đau khổ cho mình. Quý vị biết đau khổ
hay không là do cảm nhận của mình thôi. Người ta chửi mình, nếu quý vị đổi tâm
lại, ôi người ta đang giúp mình, thử mình nhẫn nhục Ba-la-mật, thì mình thấy
bình thường mà, có sao đâu. Cho nên mình phải vui vì có người ra đề thi. Người
ta chửi mình, mình nói ông đó là Bồ-tát, chồng mình là Bồ-tát, vợ mình là Bồ-tát,
đang giúp mình tiêu nghiệp chướng. Mình vui quá, môi một câu chửi là tiêu nghiệp
chướng, thấy vui chứ có tức gì đâu, đúng không quý vị. Nhất thiết Pháp từ tâm
tưởng sanh. Nếu mình không hiểu, mình nói ông này chửi mình quá, bà này chửi
mình quá. Nếu mình tức lên thì mình bị cảnh chuyển. Mình cảm thấy an lạc hay khổ
đau là do mình. Và Thiên đường hay Địa ngục, Cực Lạc hay luân hồi đều do mình.
Nhất thiết Pháp từ tâm tưởng sanh. Hôm nay chúng ta học hiểu tâm rồi, chúng ta
biết tâm, hãy cố gắng làm lành, hãy cố gắng tâm tương ưng với tâm Phật. Tâm dẫn
đầu các Pháp. Trong Kinh Vô Lượng Thọ nói tâm tự thú hướng, là do tâm dẫn hướng,
thì chúng ta đừng để tâm dẫn chúng ta đi vào Địa ngục, đừng dẫn vào luân hồi,
mà hãy dẫn về Tây Phương Cực Lạc. Cho nên học Kinh Vô Lượng Thọ rất là hay. Đây
là Kinh Hoa Nghiêm, đâu có thiếu gì đâu.
Trong Duy Thức Học có nói năm tâm sở biến hành: xúc, tác ý,
thọ, tưởng, tư. Xúc là tiếp xúc. Tác ý là khởi ý niệm. Thọ là cảm nhận, ví dụ
như quý vị có cảm nhận nóng lạnh, vui buồn. Tưởng là tưởng tượng, tư là tư duy.
Năm tâm sở này gọi là năm tâm sở biến hành, có năng lực rất đặc biệt, là đi khắp
tất cả. Thứ nhất khắp tất cả thời gian: quá khứ, hiện tại, tương lai. Năng lực
của năm món tâm sở này, xúc là tiếp xúc, tác ý là khởi ý niệm, thọ là cảm nhận,
tưởng là tưởng tượng, tư là tư duy, nó có thể đi khắp tất cả thời gian: quá khứ,
hiện tại, vị lai. Tức là quý vị nghĩ về quá khứ, quý vị cảm thọ. Ví dụ có người
bao nhiêu năm rồi, nhưng cứ nhớ lại mối tình xưa nên cảm thấy vui vẻ, hoặc là
đau khổ. Đó là quý vị tưởng về quá khứ, lại có cảm thọ. Rồi có thể tưởng về
tương lai. Mình tưởng vãng sanh như thế nào, vui vẻ, mai mốt đứng tự tại vãng
sanh. Cho nên đi khắp tất cả thời. Rồi đi khắp tất cả không gian, là ba cõi
chín địa. Ba cõi là Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới. Dục giới là từ tầng trời
thứ sáu cho đến Địa ngục. Sắc giới là tầng trời Sơ thiền đến tầng trời 24. Vô sắc
giới là từ tầng trời 25 đến tầng trời cuối cùng. Nói chín địa cũng giống vậy, Dục
giới là một địa, Sơ thiền là một địa, Nhị thiền là một địa, Tam thiền là một địa,
Tứ thiền là một địa. Không Vô Biên Xứ, Thức Vô Biên Xứ, Vô Sở Hữu Xứ và Phi Tưởng
Phi Phi Tưởng Xứ là bốn địa nữa.
Những tâm sở này hoạt động ở trong tất cả không gian. Không
gian quy ra chỉ có bao nhiêu đó thôi quý vị. Thứ ba là đi khắp tất cả các tánh
là thiện, ác và vô ký (không thiện, không ác). Đối với việc thiện, quý vị tiếp
xúc được, cảm nhận được, quý vị cũng tưởng tượng được, tư duy được, hay tác ý
được. Đối với việc ác cũng vậy, đối với vô ký (không thiện, không ác) cũng vậy.
Ví dụ quý vị cầm ly trà lên uống, quý vị cũng có tiếp xúc, có tác ý: uống;có cảm
thọ: ly trà này ngọt hay đắng, hương vị như thế nào; có tưởng tượng: cách trồng
trà này như thế nào; có tư duy: đánh giá, kết luận trà ngon hay dở. Tức là thiện,
ác, vô ký, ba tánh này đều có. Và cuối cùng là đặc biệt là đi hết tất cả thức,tám
tâm vương đều đi theo, tức là liên quan, có liên hệ đế tám thức tâm vương. Sáu
thức trước là nhãn nhĩ tỷ thiệt thân ý, rồi thức Mạt-na và thức A-lại-da cũng
liên quan. Đây là nguyên nhân chính để tạo nghiệp. Chúng ta tạo nghiệp là do
xúc tác ý thọ tưởng tư. Từ lúc tiếp xúc, rồi tiếp theo là khởi tâm, rồi thọ là
cảm nhận là ác hay thiện, vui hay buồn v.v… Ai xả thọ thì tốt, không vui không buồn.
Phải tránh trường hợp đó. Chuyện không có gì tưởng cho nhiều, người ta không ác
mà mình tưởng người ta ác. Người ta không xấu mà mình tưởng cho người ta xấu.
Cho nên tạo nghiệp chính yếu là ở năm tâm sở biến hành này. Học Duy Thức, Bách
Pháp Minh Môn Luận quý vị phải học như vậy, thì quý vị mới hành được.
(Trích trong bài giảng Kinh Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ
Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác – Biên Địa Nghi Thành – Đệ Tứ Thập– Buổi
2
Giảng giải: Thầy Thích Thiện Trang
Giảng ngày: 17.02.2022 – VLT 113
Phát trực tiếp trên Kênh YouTube Thích Thiện Trang (Link
YouTube tại đây:
https://www.youtube.com/watch?v=0bY2esQaxz8) và mạng xã hội
Facebook: Fanpage Thích Thiện Trang)